Vị Khách Chủ Nhật
Tác giả: Thomas Kanger
Dịch giả: Lê Quang
NXB Văn Hóa Sài Gòn - 2008
Chương 27
Kari tỉnh dậy trước. Cô
luồn ra khỏi lều và vươn vai. Cô trông thấy ngôi nhà trên đỉnh đồi ở phía xa.
Khung cảnh thanh bình, không một bóng người, con chó cũng không sủa. Cô nhớ
ngày xưa mình cũng có một con chó. Khi cô cùng mẹ rời sang Thụy Điển thì con
chó ấy ra sao nhỉ? Họ có đem nó đi cùng không? Kari cố nhớ tên con chó. Có đúng
tên nó là Snipp không?
Cô đã sống gần năm năm
trong ngôi nhà đó. Sau đó cô chuyển đến một nơi khác, một đất nước khác. Nhưng
tại sao? Mẹ không bao giờ giải thích. Mẹ không bao giờ muốn nói một lời về thời
gian ngoài đảo Lofoten, chỉ đôi khi kể về Reidar, bố nuôi của cô, giờ đã yên
nghỉ dưới một phiến đá đục thẳng từ sườn núi, ngoài nghĩa địa.
Karl cảm thấy những năm
tháng đầu đời của cô bị cướp đoạt. Cô là một đồ vật, bị đem cho đi rồi người ta
cứ thế mà tha đi chỗ khác. Có thể chính vì thế mà cô không biết mình thực sự là
ai.
Cô ra phòng vệ sinh và tắm
rửa qua loa. Khi quay lại, cô thấy Robert đứng cạnh lều. Anh mỉm cười với cô.
- Xin chào, - anh nói.
- Xin chào, - cô đáp lại.
- Tôi đã suy nghĩ kỹ, - anh nói.
- Tôi tưởng anh vẫn ngủ, - cô nói.
Anh vươn người.
- Đúng thế. Tôi định nói là vừa dậy. Tôi nghĩ về chuyện mình phải làm thế nào
tốt nhất. Ông già trong nhà không có vẻ mau mồm mau miệng lắm. Mình phải tìm ra
ai đó biết nhiều hơn một chút. - Robert chỉ về hướng tháp chuông. - Có thể là ông linh mục.
Tôi vừa nghĩ đến khả năng đó.
- Tôi đói, - Kari nói.
Robert đi trên con đường
nhỏ uốn khúc giữa hai sườn núi. Mấy phút sau họ đến một làng nhỏ, nom có vẻ lớn
hơn Flakstad một chút. Nhà cửa thấp tè, trước núi non có gì cao đâu! Một tấm biển
cho biết họ đang ở Ramberg. Robert đỗ xe trước ngôi nhà trông giống một trung
tâm mua bán nhỏ.
Một nữ nhân viên thu ngân
trong hiệu thực phẩm tìm giúp họ số điện thoại của ông linh mục. Kari gọi điện.
Ông hứa tiếp cô lúc một giờ chiều.
Một người đàn ông mặc
vét, tóc chải sóng, bắt tay Kari và Robert khi họ vào tòa thị chính. Robert ngồi
tránh ở phía sau khi Kari tự giới thiệu và kể chuyện được Reidar và Berit nhận
nuôi. Ông linh mục gật đầu. Ông còn nhớ rõ cả hai người.
- Khi xảy ra chuyện đó thì tôi vừa về đây, - ông nói. - Mẹ cô có khỏe không?
- Mẹ tôi mới mất được vài năm.
- Xin chia buồn. Tôi có thể làm gì giúp cô?
- Ông có biết người ấy là ai không? - Kari hỏi.
Robert ngẩng đầu. Anh
không ngờ cô nói tuột ra thế.
- Người đưa chị đến đây?
- Vâng. Là ai?
- Không ai biết cả. Có nhiều phỏng đoán, nhưng chẳng ai biết gì.
Kari quấn một lọn tóc
quanh ngón trỏ. Họ lặng im ngồi đối diện nhau. Cô không biết còn gì để hỏi nữa,
tuy trong đầu cô ngổn ngang vô số điều mù mịt, nhưng chẳng có gì toát được
thành lời.
\- Tôi muốn nói với cô ngày ấy tôi nghĩ gì, - cuối cùng linh mục lên tiếng. - Tôi nghĩ rằng đó là một
người quen Reidar và Berit, hay ít nhất đã nghe nói về họ. Tôi không tin vào sự
ngẫu nhiên khi người ta đặt cô lên chính bậc thềm nhà ấy.
- Tại sao? - Kari hỏi.
- Vì ở vùng này Reidar là một nhân vật quan trọng. Có tiếng nói. Ông tham gia
mọi công việc địa phương và có chân trong nhiều tiểu ban. Ngoài ra mẹ cô làm
công tác xã hội. Có vẻ như người ta trao cô cho nhà chức trách chứ
không phải cho Reidar và Berit. Người làm việc đó nhất định biết
hai người là ai. Đồng thời tôi cũng phải tự phản lại lời mình. Ở đây ai cũng biết
nhau. Chẳng có gì được giữ kín cả... Không phụ nữ nào có thể vác bầu chín tháng
mà không ai biết. Do vậy, mẹ đẻ của cô không thể là người vùng này.
- Tại sao hai người không có con? - Kari hỏi.
- Berit không kể cho cô nghe sao?
- Không.
Linh mục thở dài.
- Tôi nghĩ chuyện này không phải bí mật gì, - ông nói. - Họ không thể sinh con. Rất buồn cho Berit, bà ấy
chỉ ước ao có một đứa con. Khi đã có cô, họ coi đó là tặng vật trời cho. Tôi biết
Berit vui mừng ra sao khi không thể tìm ra cha mẹ đẻ của cô. Sau đó còn khối
chuyện lằng nhằng cho đến khi Reidar và Berit được phép nhận cô làm con nuôi. Họ
cũng đã luống tuổi rồi mà. May mà mọi việc rồi cũng trôi chảy.
Robert mở miệng toan nói,
song anh lưỡng lự. Anh không muốn ngắt lời Kari. Linh mục nhận ra và nhìn anh.
Robert lấy đủ dũng khí.
- Chúng tôi nên bắt đầu tìm từ đâu là tốt nhất? - anh hỏi.
- Không đơn giản đâu. Có thể cảnh sát biết gì đó. Trong hồ sơ của cô phải có
thông tin nào đó chứ. Và phòng thanh thiếu niên đã quyết định về việc nhận con
nuôi.
- Cảnh sát?
- Ở Ramberg này có một trạm gác. Cho cả Flakstad luôn. Cô đến đấy mà hỏi. Đến
phòng thanh thiếu niên nữa. Cô hãy qua tòa thị chính Ramberg, mặc dù tôi e cũng
chẳng có ích gì lắm. Rất đáng tiếc. Cô đã nói chuyện với Johannes chưa?
- Đó là ai?
- Người hiện đang sống trong nhà cô.
- Chúng tôi thử rồi, - Robert nói. - Nhưng ông ấy không thuộc loại lắm lời.
- Johannes là người ở ẩn mà. Thử lần nữa xem sao.
- Vì sao ông ấy ở trong nhà tôi? - Kari hỏi với giọng trách cứ. Cứ như thể ngôi nhà ấy
vẫn thuộc về cô và người đàn ông trong nhà là kẻ đột nhập.
- Ông ấy cùng vợ chuyển đến khi Reidar mất và cô cùng mẹ bỏ sang Thụy Điển. Vợ
ông ấy đã mất. Tôi không rõ ông ấy thỏa thuận với mẹ cô ra sao.
Robert và Kari im lặng ngồi
cạnh nhau trên xe. Robert không dám hỏi cô nghĩ gì. Vẻ mặt Kari lì lợm.
- Chị thử nghĩ xem, nếu bây giờ cảnh sát đòi xem bằng lái của tôi thì sao? - Robert nói khi họ đỗ
trước trạm gác.
- Cớ gì mà một cảnh sát Na Uy bận tâm đến bằng lái của anh? - giọng Kari bực bội.
Họ ra khỏi xe và đi đến
trước cửa. Một mẩu giấy viết tay “Đang thi hành công vụ” và dưới
đó là một số điện thoại di động. Họ vừa định quay đi thì một xe cảnh sát đi tới.
Một cảnh sát tóc ngắn, trên ba mươi, xuống xe.
- Tôi có thể giúp gì không? - anh hỏi. Kari lúng búng trình bày yêu cầu của
mình một cách dài dòng.
- Chắc là có hồ sơ, - viên cảnh sát nói sau khi hỏi cô vài câu. - Nhất định phải có một cuộc điều tra về việc tìm thấy
cô trước nhà Solbakken và ai là bố mẹ đẻ của cô. Nhưng nếu đã hai mươi lăm năm
trôi qua thì... hồ sơ không nằm ở
đây, mà ở Svolvær kia. Tôi sẽ bảo người ta lục ra và gửi về. Vài hôm nữa hai
người cứ ghé qua đây.
Robert khẽ kéo áo Kari.
Anh muốn đi khỏi đây trước khi cảnh sát nghĩ ra chuyện hỏi họ từ đâu đến. Khi họ
đã ngồi trong xe, viên cảnh sát lại gần.
- Bây giờ tôi là cảnh sát duy nhất ở đây, - anh nói. - Nhưng ngày trước có nhiều người. Tôi không biết ai
làm vụ này, nhưng một trong số họ đang sống trong ngôi nhà phía bên kia.
Anh ta chỉ một ngôi nhà gỗ
sơn trắng nằm bên kia đường.
- Hai người thử đến đó xem sao, - anh nói. - Thực ra lúc nào Jan Egil cũng ở nhà, nếu xấu trời
không đi câu được.
Người đàn ông ra mở cửa
khiến Robert nghĩ đến một tảng đá vững chãi. Kari lại giải thích mọi chuyện lần
nữa, bây giờ đã trôi chảy hơn.
- Tôi nhớ ra chị rồi, - người đàn ông nói. - Tên tôi là Jan Egil Laursen. Hồi đó, tôi không phụ
trách vụ này, nhưng anh chị cứ vào nhà đi đã. Không cần cởi giày đâu.
Kari và Robert đi vào
phòng khách, tường treo đầy ảnh viên cảnh sát già xách những con cá tuyết hay
cá hồi. Đỡ phải đoán ông này có sở thích gì, Robert nghĩ thầm.
- Một cộng sự của tôi làm vụ này, - Laursen nói. - Sau khi về hưu ông ấy chuyển đi Oslo. Nhưng tôi biết
dạo đó ông ấy không phát hiện được gì.
- Ông không có gì nghi vấn sao? - Kari thận trọng hỏi.
- Thiếu gì giả thuyết. Có người cho là chị từ một làng người Sami vào đất liền.
Ở đó người ta sống rải rác xa nhau lắm, và phụ nữ chửa hoang dễ giấu giếm được.
Những người khác cho rằng chị là con một người nghiện ma túy không chăm sóc được
con. Tôi chỉ nhớ là chị hoàn toàn khỏe mạnh khi được tìm thấy, và không có dấu
vết gì của bố mẹ chị cả. Hoàn toàn không.
- Tại sao lại khó tìm đến thế? - Robert chợt cất tiếng hỏi. Giọng anh khiến Kari
ngạc nhiên quay lại nhìn. - Ý tôi là, tìm một phụ nữ vừa sinh con lại khó đến
thế hay sao? - giọng anh thách thức.
- Chà chà, cậu bé ơi, - Jan Egil Laursen nói, - có lẽ cũng đơn giản nếu có một người chịu giúp
chúng tôi.
- Ai cơ? -
Robert không chịu thua.
- Ngồi xuống đi, rồi tôi kể hết cho mà nghe. - Robert và Kari ngồi xuống sofa.
- Chị quá biết Reidar là người như thế nào rồi chứ? Bố nuôi của chị ấy mà.
- Tôi hầu như không nhớ nữa, - Kari trả lời. - Bố tôi mất lúc tôi còn rất bé, và mẹ tôi không kể
lại nhiều. Tôi cũng không bao giờ hỏi.
- Ông ấy mất khi chị bốn, năm tuổi, đúng không? - Laursen nói. - Ai cũng biết Reidar Solbakken là ai, ít nhất thì
cũng ý thức được vị thế của ông. Ngày đó bố cô là một nhân vật nặng ký. Ở vùng
này. Một người gốc gác lâu đời ở đây. Cựu chiến binh. Hai lần bị thương hồi
đánh nhau với bọn Đức. Sau đó ông ấy vào chính trường. Đảng Công nhân. Có thuyền
đánh cá và kiếm bộn tiền. Ngày xưa còn bắt được nhiều cá lắm. Ông rất thành đạt
và trở thành con người quyền lực thực sự đấy. Xin chị thứ lỗi vì tôi nói ra như
vậy nhé. Nhưng ông ấy cũng có một mặt khác nữa. Rất hăng hái tham gia công việc
xã hội. Có thể vì mẹ chị. Bà ấy làm công tác xã hội mà. Ông ấy tặng tiền từ thiện,
giúp đỡ các gia đình có vấn đề. Tóm lại ông ấy là một người quan trọng. Một người
không ai muốn làm trái ý.
Jan Egil Laursen đứng dậy
ra mở tủ. Ông lấy ra một tấm huân chương.
- Tôi được nhận năm 1964, do cứu một đứa bé gái khỏi chết đuối. Nhờ Reidar
Solbakken mà tôi được huân chương này và bằng khen của địa phương. Một cử chỉ tốt
đẹp. Và tôi rất tự hào. Đồng thời ông ấy cũng ý thức được hành động của mình.
Tôi chịu ơn ông ấy và đứng vào hàng ngũ những người khó có thể cãi lại ông ấy.
- Cớ gì mà ông phải cãi lại? - Robert hỏi.
- Không có cớ gì cả. Nhưng ai mà biết được. Anh hiểu tôi nói gì không?
- Không hiểu lắm.
- Lúc người ta tìm được chị, - Laursen nói và quay sang nhìn Kari, - thì đó có thể sinh ra một
cớ. Nghĩa vụ của chúng tôi đối đầu với ý muốn của ông ấy. Vợ ông muốn giữ chị.
Tất nhiên Reidar Solbakken tỏ ý đó cho những người có quyền quyết định việc
giao con nuôi hiểu. Cảnh sát chúng tôi cũng phải hiểu ra. Ông ấy không trực tiếp
gây áp lực, tuy vậy ông phát biểu lập trường đại loại là bố mẹ đẻ không muốn có
đứa bé, và nó cần nhất là sự bảo đảm và mái ấm gia đình. Thêm nữa là Reidar
không thể có con do bị thương trong cuộc chiến đấu giải phóng đất nước chống lại
quân Đức. Chuyện đó khó mà hiểu sai được. Cộng sự của tôi có lẽ đã làm theo bổn
phận, nhưng tôi không tin là ông ta hăng hái quá mức cần thiết để xác định bố mẹ
đẻ của chị.
Kari há mồm nhưng không
thốt ra được tiếng nào.
- Nghĩa là lẽ ra vẫn có thể tìm ra được, - Robert hỏi, - nếu người ta cố gắng hơn nữa?
- Ngay cả lúc ấy tôi cũng không thực sự tin vụ này thành công. Không có mảy
may một dấu vết nào của bố mẹ chị. Nếu đơn giản thì chúng tôi đã tìm thấy rồi,
bất kể Reidar nói gì. Lời khuyên duy nhất mà tôi có thể cho chị là hãy đọc hồ
sơ thật kỹ. Có thể chị phát hiện ra điều gì mà ngày ấy chúng tôi không hiểu.
Song ở địa vị chị thì tôi sẽ không hy vọng quá nhiều.
- Reidar và mẹ tôi có biết bố mẹ đẻ của tôi là ai không? - Kari đột ngột hỏi và
nhìn thẳng vào mắt Jan Egil Laursen.
- Tôi cũng tự hỏi điều đó. Nhưng tôi nghĩ là không. Chị có hỏi mẹ chị không?
- Có. Nhưng mẹ không trả lời. Bây giờ mẹ chết rồi.
- Thế thì có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ biết nữa, - Laursen đáp lại.
Robert thử bàn về những
gì ông già cảnh sát đã kể, nhưng Kari giữ im lặng. Họ vào hiệu thực phẩm. Kari
lấy xúc xích, bánh mì, cà chua và một chai nước ngọt vào giỏ. Cô trả tiền và lặng lẽ quay ra xe. Robert đi về hướng
Flakstad, nhưng trước khi đến nơi thì anh dừng ở vệ đường. Họ cùng đi qua đồng
cỏ và ngồi lên một tảng đá lớn. Con lạch trải rộng dưới chân họ, khắp nơi toàn
nước. Khi Kari mở gói bánh mì thì những con hải âu bay đến.
- Chị nói gì đi chứ, - Robert nói.
Cô nhìn ra biển xa. Tiếng
hải âu rít lên.
- Ông ấy đã bắt cóc tôi, - giọng cô nhẹ nhàng. - Reidar đã ăn trộm tôi.
- Không thể thế được, - Robert sửng sốt trả lời.
- Nhất định, - Kari nói. - Reidar đã ngăn không cho ai tìm thấy bố mẹ tôi, vì ông ấy không muốn trả lại
tôi.
Cô quay sang Robert. Giọng
cô vẫn nhẹ nhàng.
- Tôi đâu có ý nghĩa gì với
ông ấy. Cũng chẳng cần biết cái gì là tốt nhất cho tôi. Ông ấy sử dụng quyền lực
của mình để thỏa mãn các nhu cầu riêng. Tôi là một món quà xinh đẹp cho vợ ông ấy.
Em yêu, con bé Kari của em đây.
- Nhưng bố mẹ đẻ của chị đâu muốn có chị, - Robert phản kháng. - Xin lỗi đã nói thế, nhưng sự việc là vậy. Không
thì tại sao họ bỏ lại chị trên bậc thềm?
Kari ném mấy mẩu bánh mì
lên không trung, đàn hải âu lao xuống tranh nhau mồi.
- Có thể đúng lúc đó họ không muốn có tôi. Có thể họ không có lựa chọn nào
khác. Có thể họ sẽ đón tôi trở lại nếu được ai đó giúp đỡ. Nhưng Reidar đã làm
cho họ không bao giờ nhận được cơ may ấy.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét