Người phụ nữ nào chẳng
đắng như mật. Song có hai trường hợp tỏ ra dễ thương: trên giường cưới và trên
giường chết.
PALAĐAT [nhà thơ Hy Lạp cổ đại, sống vào thế kỷ V trước CN]
I
Từ lâu tôi vẫn ngờ rằng các nhà địa lý học không nắm vững
điều họ nói, khi họ đặt chiến trường trận Munđa vào xứ sở của người Baxtuli
Pêni, gần thành phố Munđa mới, cách Marbenla chừng hai dặm về phía bắc. Theo
phỏng đoán của riêng tôi dựa trên văn bản của tác giả vô danh cuốn Benlom
Hixpanienxơ, và dựa trên một vài tại liệu thu lượm được trong thư viện đặc sắc
của công tước Oxuna, tôi cho là phải tìm ở quanh vùng Môngtila địa điểm đáng
ghi nhớ của trận sống mái cuối cùng giữa Xêda và các chiến sỹ bảo vệ nền cộng
hòa. Đầu mùa thu năm 1830, nhân đang ở Angđaludi, tôi đã đi một chuyến khá lâu
để giải quyết những nghi vấn còn tồn tại đối với tôi. Tôi hy vọng bản luận án
mà tôi sắp công bố sẽ xóa bỏ mọi điều nghi hoặc còn sót trong trí của tất cả
những nhà khảo cổ thành thực. Trong lúc chờ đợi bản luận án của tôi giải quyết
được vấn đề địa lý đang làm các nhà bác học châu Âu phân vân, tôi muốn kể các
bạn nghe một câu chuyện nhỏ, câu chuyện ấy không quyết đoán trước điều gì đối
với vấn đề lý thú về địa điểm thành Munđa cả.
Mùa đông năm đó rất khắc nghiệt. Bão rồi đến mưa, sau đó là
tuyết và băng giá, sang tháng hai mà băng chưa tan. Thế mà lũ súc vật vẫn miệt
mài xây dựng lại cối xay gió, chúng biết rằng người ta đang theo dõi chúng và
bọn người độc ác ấy sẽ có cớ để vui mừng nếu chúng không hoàn thành công trình
đúng hạn.
Để trêu tức chúng, người ta còn làm ra vẻ không tin là Tuyết
Tròn đã phá cối xay gió, họ bảo rằng nó sập là do tường mỏng quá. Nhưng lũ súc
vật thì tin chắc là không phải thế. Dù sao chúng cũng quyết định sẽ xây tường
dày một mét chứ không phải bốn mươi phân như trước đây nữa, và như vậy thì cần
phải khai thác nhiều đá hơn trước. Mỏ đá chìm dưới tuyết trong một thời gian
dài nên không thể bắt đầu được. Sau đó thì trời tuy có lạnh nhưng khô ráo,
nhưng công việc quả là khủng khiếp, lũ súc vật không còn hăng hái như xưa nữa.
Phải công nhận là chúng làm việc rất chăm, không quản mệt
mỏi, chỉ cốt thu hoạch cho xong! Công khó của chúng đã được đền bù, chúng thu
được nhiều hơn dự kiến.
Đôi khi chúng cũng gặp một số khó khăn vì tất cả công cụ đều
được làm để dành cho người chứ không phải cho súc vật, mà muốn sử dụng công cụ
đó thì phải đứng được trên hai chân sau. Nhưng phải nói bọn lợn là một giống
thông minh - khó đến đâu chúng cũng có cách. Còn lũ ngựa thì hiểu rõ từng thửa
ruộng, mà cắt và vun cỏ thành đống thì chúng làm thạo hơn ông Jones và gia nhân
nhiều. Bọn lợn không làm mà chỉ hướng dẫn và kiểm tra các con khác. Với kiến
thức như thế thì việc chúng nắm vai trò lãnh đạo là đương nhiên.
Ông Jones, chủ Điền Trang đóng cửa chuồng gà, nhưng vì say
quá nên quên đóng cửa chuồng lợn. Với chiếc đèn bão trong tay, đung đưa, khi
sang phải, khi sang trái, ông lảo đảo đi qua sân, tới cửa sau thì lấy chân đạp
ủng ra và bước vào bếp để uống nốt vại bia cuối cùng trong ngày rồi leo lên
giường, nơi vợ ông, bà Jones đã ngáy khò khò.
Ngay khi đèn trong phòng ngủ vừa tắt, đây đó bỗng dậy lên
những tiếng sột soạt, thì thầm. Ngày hôm đó có tin đồn rằng Thủ Lĩnh, một con
lợn đực trắng, từng được huy chương trong một cuộc triển lãm, đêm hôm trước có
một giấc mơ kì lạ và muốn kể cho mọi loài cùng nghe. Chúng thỏa thuận với nhau
là ngay sau khi ông Jones đi ngủ sẽ tập trung trong nhà kho lớn. Tất cả các con
vật trong trang trại đều kính trọng Thủ Lĩnh (chúng gọi nó như vậy, mặc dù khi đi dự triển lãm nó mang tên Willingdon
Điển Trai) và sẵn sàng hi sinh giấc ngủ để được nghe nó nói chuyện.