Chương 1
Ông Jones, chủ Điền Trang đóng cửa chuồng gà, nhưng vì say
quá nên quên đóng cửa chuồng lợn. Với chiếc đèn bão trong tay, đung đưa, khi
sang phải, khi sang trái, ông lảo đảo đi qua sân, tới cửa sau thì lấy chân đạp
ủng ra và bước vào bếp để uống nốt vại bia cuối cùng trong ngày rồi leo lên
giường, nơi vợ ông, bà Jones đã ngáy khò khò.
Ngay khi đèn trong phòng ngủ vừa tắt, đây đó bỗng dậy lên
những tiếng sột soạt, thì thầm. Ngày hôm đó có tin đồn rằng Thủ Lĩnh, một con
lợn đực trắng, từng được huy chương trong một cuộc triển lãm, đêm hôm trước có
một giấc mơ kì lạ và muốn kể cho mọi loài cùng nghe. Chúng thỏa thuận với nhau
là ngay sau khi ông Jones đi ngủ sẽ tập trung trong nhà kho lớn. Tất cả các con
vật trong trang trại đều kính trọng Thủ Lĩnh (chúng gọi nó như vậy, mặc dù khi đi dự triển lãm nó mang tên Willingdon
Điển Trai) và sẵn sàng hi sinh giấc ngủ để được nghe nó nói chuyện.
Thủ Lĩnh ngồi trên một cái bục có nệm rơm phía trong cùng
nhà kho, dưới ánh sáng của chiếc đèn bão treo trên xà nhà. Nó đã mười hai tuổi,
mặc dù thời gian gần đây có béo thêm, với những chiếc răng nanh thò cả ra,
nhưng trông nó vẫn có vẻ tiên phong đạo cốt, phúc hậu. Những con khác bắt đầu
lục tục kéo tới, mỗi con tìm một chỗ ngồi thuận lợi. Đầu tiên là ba con chó
Bluebell, Jessie và Pincher, sau đó là lũ lợn; chúng ngồi trên đống rơm phía
trước bục. Lũ gà leo lên bậu cửa sổ, đám bồ câu đậu trên rui mè, bọn bò và cừu
nằm phía sau lũ lợn và bắt đầu công việc nhai lại của chúng. Hai con ngựa kéo
xe tên là Chiến Sĩ và Bà Mập cùng vào, từ từ lại gần cái bục, trước mỗi bước
chúng đều thận trọng quan sát để không giẫm bẹp một con thú nhỏ nào ở bên dưới
lớp rơm. Bà Mập, một con ngựa cái trung niên hiền lành, thân hình đã sồ sề vì
bốn lần sinh nở. Chiến Sĩ, một con tuấn mã cao đến gần hai mét và khỏe bằng hai
con ngựa khác. Vì có một vệt trắng dọc sống mũi nên trông nó có vẻ đần, thực ra
cu cậu cũng không thuộc loại thông minh, nhưng bù lại, nó được các con khác tôn
trọng vì tính kiên định và hay lam hay làm. Sau đó là đến con dê trắng tên là
Mona và con lừa tên là Benjamin. Benjamin là con vật già nhất bọn, nhưng cũng
là con xấu tính nhất. Benjamin ít nói, nhưng hễ mở miệng là y như rằng nó tìm
cách giễu cợt, ví dụ có lần nó tuyên bố rằng Thượng Đế tạo cho nó cái đuôi để
đuổi ruồi, nhưng giá đừng có cả đuôi lẫn ruồi thì còn thích hơn. Nó là con vật
duy nhất không bao giờ cười. Nếu hỏi tại sao thì nó bảo: chẳng có lí do gì. Mặc
dù vậy và tuy không nói ra nhưng nó rất trung thành với Chiến Sĩ, chủ nhật nào
hai con cũng yên lặng gặm cỏ bên nhau ở bãi giữ ngựa phía sau khu vườn.
Hai con ngựa vừa nằm xuống thì bầy vịt con mồ côi lao vào
nhà kho, chúng vừa kêu chiếp chiếp khe khẽ vừa chạy loanh quanh, mong tìm một
chỗ an toàn. Bà Mập lấy chân trước khoanh thành một khu cho chúng, lũ vịt con
mau chóng chui vào đó rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Ngay trước khi buổi
nói chuyện bắt đầu thì Mollie, một ả ngựa cái dốt nát, màu trắng, chuyên kéo
chiếc xe nhỏ của ông Jones, vừa đi vừa nhai một cục đường, mới õng ẹo bước vào.
Nó lập tức chiếm ngay vị trí phía trước cái bục và lắc lư bờm để mong những con
khác chú ý đến dải ruy băng đỏ trang điểm trên đó. Cuối cùng là một con mèo, nó
nhìn quanh và vẫn như mọi khi, cố tìm cho mình một chỗ thật ấm, rồi chen vào
nằm giữa Chiến Sĩ và Bà Mập, chị chàng sung sướng phát ra những tiếng gừ… gừ…
trong cổ họng, mặc Thủ Lĩnh muốn nói gì thì nói.
Thế là tất cả các con vật trong Điền Trang đã có mặt đầy đủ,
chỉ trừ con quạ Moses, nó ngủ trên hàng rào ngay bên ngoài cửa sau. Khi Thủ
Lĩnh thấy tất cả đã an vị và sẵn sàng lắng nghe thì húng hắng ho lấy giọng và
bắt đầu:
“Thưa các đồng chí! Như các đồng chí đã biết, đêm qua tôi có
một giấc mơ kì lạ. Nhưng tôi sẽ nói chuyện đó sau. Đầu tiên tôi muốn nói với
các đồng chí một số việc hoàn toàn khác. Thưa các đồng chí, tôi nghĩ rằng tôi
không ở lại với các đồng chí được bao lâu nữa, vì vậy tôi cho rằng trước khi
chết mình phải có trách nhiệm chia sẻ với các đồng chí những kinh nghiệm mà tôi
đã tích lũy được trong suốt cuộc đời mình. Tôi đã có một cuộc đời phải nói là
dài và tôi đã suy nghĩ rất nhiều khi nằm một mình trong chuồng, tôi nghĩ rằng
tôi có thể nói là tôi hiểu đời không thua bất kì con vật nào trên thế gian này.
Đó là điều tôi muốn nói với các đồng chí.
Bây giờ, thưa các đồng chí, thực chất đời sống của chúng ta
là gì? Chúng ta hãy nhìn thẳng vào sự thật. Cuộc đời của chúng ta là khổ sai,
khốn nạn và yểu mệnh. Chúng ta sinh ra, chúng ta được một khẩu phần vừa đủ để
khỏi chết vì đói, những con nào có thể làm thì phải làm đến kiệt sức và khi
không làm được nữa thì chúng ta bị giết một cách vô cùng dã man, tàn bạo. Không
có con vật nào ở nước Anh này biết đến hạnh phúc và niềm vui ngay khi vừa tròn
một tuổi. Không có con vật nào ở nước Anh này được tự do. Cuộc sống của loài
vật là cuộc sống nghèo khổ và nô lệ: sự thật trần trụi là như thế đấy.
Nhưng đấy có phải là qui luật của tự nhiên không? Chả lẽ
nước ta lại nghèo đến độ không nuôi nổi những động vật sống ở đây ư? Không,
ngàn vạn lần không, thưa các đồng chí. Đất Anh màu mỡ, thời tiết thuận hòa,
thừa sức cung cấp thức ăn cho một số lượng động vật lớn hơn hiện nay rất nhiều.
Chỉ nội cái trang trại của chúng ta đã có thể nuôi được một tá ngựa, hai chục
bò, hàng trăm cừu và tất cả đều có thể sống trong tiện nghi và phẩm giá mà nay
chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi. Thế thì tại sao chúng ta lại cứ tiếp
tục sống trong điều kiện khốn nạn thế này? Bởi vì hầu như toàn bộ những gì
chúng ta làm ra đều bị con người chiếm đoạt hết. Đấy là nguyên nhân tất cả các
vấn nạn của chúng ta. Nói ngắn gọn bằng một từ là: Con Người. Con Người là kẻ
thù của chúng ta. Nếu không còn người nữa thì chúng ta vĩnh viễn sẽ không còn
bị đói, không còn phải làm công việc khổ sai nữa.
Người là giống vật duy nhất chỉ ăn mà không làm. Người không
làm ra sữa, không đẻ ra trứng, người không thể kéo cày, không chạy nhanh bằng
thỏ. Nhưng nó lại là chủ của tất cả chúng ta. Nó bắt chúng ta làm việc, cướp
lấy mọi thành quả lao động của chúng ta, chỉ cho chúng ta ăn vừa đủ để không
chết đói mà thôi. Chúng ta phải cày bừa, phân chúng ta bón ruộng, thế mà chúng
ta có gì? Chẳng có gì ngoài da bọc xương. Các đồng chí bò đang ngồi trước mặt
tôi đây, năm vừa qua các đồng chí cho bao nhiêu lít sữa? Thế số sữa mà đáng lẽ
dùng để nuôi các chú bò con ấy đi đâu? Kẻ thù của chúng ta đã uống đến giọt
cuối cùng. Còn các bạn gà, năm vừa qua các bạn đã đẻ bao nhiêu trứng, trong đó
có bao nhiêu quả nở thành gà con? Lão Jones và gia nhân đã mang ra chợ bán lấy
tiền hết rồi. Bà Mập, bốn đứa con của bà, niềm vui và chốn nương tựa lúc tuổi
cao bóng xế của bà đâu rồi? Chúng đã bị đem bán khi vừa tròn một tuổi, bà sẽ
không bao giờ được gặp lại chúng nữa. Một khẩu phần ăn chết đói và cái chuồng,
công cho bốn lần vượt cạn cũng như công việc đồng áng của bà chỉ có thế mà
thôi!
Nhưng dù khốn nạn như thế chúng ta cũng có được sống trọn
tuổi trời đâu. Riêng tôi thì chẳng có gì phải phàn nàn, vì thực ra tôi đã gặp
may. Năm nay tôi đã mười hai tuổi rồi, tôi có hơn bốn trăm đứa con. Trời đất
sinh ra giống lợn là như thế. Nhưng cuối cùng thì cũng chẳng có con vật nào
thoát khỏi lưỡi dao oan nghiệt. Tất cả các bạn lợn thịt đang ngồi trước mặt tôi
đây, trong vòng một năm nữa tất cả các bạn sẽ phải từ giã cõi đời trên tấm phản
mổ. Tất cả chúng ta, bò, lợn, gà, cừu, không ai trong chúng ta tránh khỏi cái
kết cục khủng khiếp đó. Số phận của loài ngựa và loài chó cũng chẳng tốt đẹp
hơn. Đồng chí Chiến Sĩ nữa, ngay khi cơ bắp của đồng chí vừa yếu đi thì lão
Jones sẽ bán đồng chí cho lão mổ ngựa, hắn sẽ cắt cổ đồng chí rồi hầm dừ cho lũ
chó săn ăn. Những con chó già, rụng răng sẽ bị lão Jones buộc một viên gạch vào
cổ và quăng xuống hồ.
Thưa các đồng chí, chả lẽ các đồng chí không thấy rằng tất
cả mọi khổ đau trong cuộc đời này của chúng ta chính là do con người mà ra hay
sao? Nếu chúng ta loại bỏ được Con Người thì mọi thành quả lao động của chúng
ta sẽ thuộc về chúng ta. Nếu làm được thế thì chỉ sau một đêm chúng ta sẽ trở
nên giàu có và tự do. Thế thì chúng ta phải làm gì? Làm việc, không kể ngày
đêm, cả bằng sức mạnh và tài năng để lật đổ ách thống trị của loài người! Khởi
nghĩa! Các đồng chí - đấy là thông điệp của tôi. Tôi không biết khi nào thì
cuộc Khởi Nghĩa sẽ xảy ra, có thể trong tuần tới, cũng có thể là một trăm năm
nữa, nhưng tôi biết rõ, như tôi đang nhìn thấy những cọng rơm bên dưới chân tôi
đây rằng sớm muộn gì rồi công bằng cũng sẽ được thiết lập. Các đồng chí hãy
nghĩ đến điều đó trong suốt cuộc đời còn lại ngắn ngủi của mình! Ngoài ra, hãy
chuyển thông điệp của tôi đến các thế hệ tương lai, để các thế hệ đó tiếp tục
cuộc đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng.
Các đồng chí hãy kiên định. Không được dao động. Đừng có
nghe theo lời tuyên truyền rằng Con Người và các loài vật cùng có chung quyền
lợi, rằng sự thịnh vượng của loài này cũng là sự thịnh vượng của loài kia. Bịp
bợm hết. Con Người không quan tâm đến quyền lợi của ai, nó chỉ quan tâm đến
chính nó mà thôi. Các loài vật chúng ta phải đoàn kết nhất trí, phải có tinh
thần đồng chí trong cuộc đấu tranh này. Tất cả loài người đều là kẻ thù. Tất cả
các con vật đều là đồng chí”.
Đúng lúc đó thì tiếng ồn ào nổi lên. Chả là trong khi Thủ
Lĩnh đang nói thì có bốn con chuột cống bò ra khỏi hang và cũng đến nghe. Mấy
con chó đã trông thấy và may là lũ chuột kịp chạy vào hang, không thì đã mất
mạng rồi. Thủ Lĩnh phải giơ chân lên đề nghị im lặng.
- Thưa các đồng chí, - nó nói, - có một vấn đề cần phải giải
quyết. Những con thú hoang như chuột cống và thỏ, chúng là bạn hay là kẻ thù
của chúng ta? Đề nghị biểu quyết. Tôi xin đặt vấn đề với hội nghị như sau:
Chuột có phải là đồng chí không?
Cuộc bỏ phiếu được thực hiện ngay, đa số tán thành coi chuột
là đồng chí. Chỉ có bốn phiếu chống, đấy là ba con chó và một con mèo, nhưng
sau này mới phát hiện ra rằng mèo ta bỏ cả phiếu thuận lẫn phiếu chống. Thủ
Lĩnh tiếp tục:
- Tôi xin nói thêm một chút nữa. Tôi chỉ muốn nhắc lại rằng
nhiệm vụ của các đồng chí là phải luôn luôn tranh đấu với Con Người và tất cả
những gì do nó tạo ra. Tất cả những loài hai chân đều là kẻ thù. Tất cả những
loài bốn chân hoặc có cánh đều là bạn. Các đồng chí lại phải luôn luôn nhớ rằng
chúng ta không được bắt chước loài người trong cuộc đấu tranh chống lại chúng.
Ngay cả khi đã chiến thắng, chúng ta cũng không được tập nhiễm các thói xấu của
chúng. Không có con vật nào được sống trong nhà, ngủ trên giường, mặc quần áo,
uống rượu, hút thuốc, sử dụng tiền hoặc tham gia buôn bán. Tất cả phong tục của
loài người đều là có hại. Quan trọng nhất là không con nào được áp chế con nào.
Khỏe cũng như yếu, thông minh tài trí cũng như bình thường, tất cả chúng ta đều
là anh em. Không được giết hại lẫn nhau. Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng.
Và bây giờ, thưa các đồng chí, tôi sẽ kể cho các đồng chí
nghe giấc mơ của tôi tối hôm qua. Tôi không thể mô tả được. Tôi mơ thấy trái
đất khi con người đã biến đi rồi. Giấc mơ này làm sống dậy trong trí tôi một
việc như sau: Cách đây đã lâu, khi tôi còn là một chú lợn nhỏ, mẹ tôi cùng với
các cô bác lợn khác thường hát một bài hát có từ ngày xưa: họ chỉ nhớ nhạc điệu
và ba từ đầu tiên thôi. Lúc bé tôi cũng thuộc nhạc điệu, nhưng tôi đã quên từ
lâu. Thế mà đêm qua, trong giấc mơ, tôi đã nhớ lại tất cả, hơn thế nữa, tôi còn
nhớ lại được cả lời bài hát, tôi tin chắc rằng ngày xưa các loài vật đã từng
hát như thế, nhưng sau này họ quên và mấy thế hệ gần đây hoàn toàn không biết
hát nữa. Bây giờ tôi sẽ hát cho các đồng chí nghe. Tôi đã già, giọng không còn
trong, nhưng khi tôi dạy nhạc điệu cho các đồng chí thì các đồng chí sẽ hát hay
hơn. Bài hát tên là: Súc Sinh Anh quốc.
Thủ lĩnh già hắng giọng và bắt đầu hát. Giọng đúng là đã
khàn, nhưng nó hát cũng không đến nỗi tồi, giai điệu hỗn hợp giữa kiểu “Clementine” và “La Cucuracha”. Lời bài hát như sau:
“Súc sinh Anh quốc
Súc sinh muôn nơi
Lắng nghe niềm vui mới
Của một ngày mai sáng
tươi
Đồng cỏ núi đồi
Mãi mãi xanh ngời
Khi lũ người
Không còn là ách trên
vai
Chạc, chạc không còn
Cương, cương cũng
không
Roi vọt, chửi mắng
Chỉ là quá khứ tối tăm
Ta giàu, ta có
Vườn cây, đồng lúa
Đậu, sắn, ngô, khoai
Là của chúng ta từ đây
Mặt trời sáng soi
Nước càng ngọt tươi
Gió mát muôn đời
Là ngày tự do tương
lai
Súc sinh Anh quốc
Súc sinh muôn nơi
Lắng nghe niềm vui mới
Của một ngày mai sáng
tươi” [1]
Bài hát đã làm cho lũ súc vật kích động tột độ. Một số con
kịp bắt theo ngay trước khi Thủ lĩnh hát hết bài. Ngay những con ngu dốt nhất
cũng nắm được nhạc điệu và thuộc mấy từ, còn những con thông minh hơn, như lũ
chó và lũ lợn, thì thuộc lòng cả bài ngay trong vài phút đầu. Sau vài lần tập,
cả trang trại đã cùng đồng ca được bài Súc
Sinh Anh quốc. Mỗi loài hát một giọng, bò rống, chó sủa, cừu kêu be be,
ngựa hí, vịt kêu cạp cạp. Chúng khoái bài hát đến độ hát liền một mạch năm lần
và chúng có thể hát mãi như thế suốt đêm nếu không bị ngăn trở.
Đáng tiếc là tiềng ồn ào đã làm ông Jones thức giấc, ông
bước xuống giường vì tin chắc là có một con cáo đã lọt vào sân. Ông tìm khẩu
súng vẫn thường dựng ở góc phòng và bắn một lọat đạn ghém lên trời. Có mấy viên
găm vào tường nhà kho và cuộc họp mau chóng kết thúc. Từng con quay về chỗ ngủ
của mình. Gia cầm nhảy lên ổ, còn gia súc thì nằm xuống đống rơm và chẳng bao
lâu sau cả trang trại đã chìm vào giấc ngủ.
-----------
1. Nguyên văn lời bài thơ “Súc Sinh Anh quốc”:
Beasts of England
Beasts of England ,
beasts of Ireland ,
Beasts of every land and clime,
Hearken to my joyful tidings
Of the golden future time.
Soon or late the day is coming,
Tyrant Man shall be o'erthrown,
And the fruitful fields of England
Shall be trod by beasts alone.
Rings shall vanish from our noses,
And the harness from our back,
Bit and spur shall rust forever,
Cruel whips no more shall crack.
Riches more than mind can picture,
Wheat and barley, oats and hay,
Clover, beans and mangel-wurzels
Shall be ours upon that day.
Bright will shine the fields of England ,
Purer shall its waters be,
Sweeter yet shall blow its breezes
On the day that sets us free.
For that day we all must labour,
Though we die before it break;
Cows and horses, geese and turkeys,
All must toil for freedom's sake.
Beasts of England ,
beasts of Ireland ,
Beasts of every land and clime,
Hearken well and spread my tidings
Of the golden future time.
----------------
Chương 2
Ba đêm sau Thũ Lĩnh già bình thản ra đi. Xác nó được chôn ở
cuối khu vườn.
Chuyện đó xảy ra vào đầu tháng ba. Lũ súc vật tăng cường
hoạt động ngầm liên tục trong ba tháng tiếp theo. Bài diễn văn của Thủ Lĩnh đã
tạo ra một quan niệm sống hoàn toàn mới nơi những con thông minh. Chúng không
biết khi nào thì cuộc Khởi Nghĩa mà Thủ Lĩnh tiên đoán sẽ xảy ra, chúng cũng
không nghĩ sẽ được chứng kiến cảnh tượng đó, nhưng chúng biết rõ một điều là có
trách nhiệm tiến hành công việc chuẩn bị. Công tác giáo dục và tổ chức dĩ nhiên
là được giao cho bọn lợn vì chúng vốn được coi là loài thông minh nhất. Hai con
lợn đực giống trẻ tên là Tuyết Tròn và Napoleon đang được ông Jones vỗ béo để
bán là hai con nổi tiếng nhất. Napoleon là một con lợn đực, trông hung dữ,
giống Berkshire
duy nhất trong Điền Trang, nó vốn kiệm lời nhưng nổi tiếng kiên nhẫn. Tuyết
Tròn thì hoạt bát, dẻo miệng hơn, có nhiều sáng kiến hơn, nhưng đa số cho rằng
tính cách không được sâu sắc bằng Napoleon. Số còn lại đều là lợn thịt. Con nổi
bật nhất trong số đó tên là Chỉ Điểm, một con lợn nhỏ, khá béo nhưng lanh lợi,
hai má phính, đôi mắt đảo lia lịa còn giọng nói thì the thé. Nó là một diễn giả
có hạng, khi cần chứng minh một vấn đề khó khăn thì nó nhảy qua nhảy lại và vẫy
đuôi, trông rất thuyết phục. Đồn rằng nó có thể biến đen thành trắng dễ như
chơi.
Ba con này đã phát triển học thuyết của Thủ Lĩnh già thành
một hệ thống triết học hoàn chỉnh mà chúng gọi là Súc Sinh Kinh. Đêm nào cũng
vậy, cứ sau khi ông Jones đi ngủ là chúng bí mật tụ họp trong nhà kho để giảng
giải cho những con khác các luận điểm chủ yếu của Súc Sinh Kinh. Thoạt đầu quả
là có nhiều khó khăn vì lũ súc vật tỏ ra hờ hững và rất ngu dốt. Có con nói
rằng có nghĩa vụ trung thành với ông Jones mà nó gọi là ông chủ, có con còn
phát biểu một cách thiếu ý thức: “Ông Jones nuôi chúng ta. Không có ông ấy thì
ta chết đói rã họng ra ấy chứ”. Một số con còn đặt câu hỏi đại loại: “Quan tâm
đến chuyện sau khi ta chết để làm gì?” hoặc “Đằng nào thì cuộc khởi nghĩa cũng
sẽ diễn ra, ta làm hay không làm thì cũng thế thôi”. Mấy con lợn phải khó khăn
lắm mới thuyết phục được chúng rằng những luận điệu như thế là hoàn toàn trái
với tinh thần của Súc Sinh Kinh. Nhưng những câu hỏi ngu xuẩn nhất lại là của ả
ngựa cái màu trắng tên là Mollie. Đầu tiên ả hỏi Tuyết Tròn:
- Thế sau khi khởi nghĩa thì có đường không?
- Không, - Tuyết Tròn ngắt lời, - Chúng ta không sản xuất
đường. Thực ra đồng chí sẽ không cần đường. Đồng chí sẽ có đủ yến mạch và rơm
mà đồng chí cần.
- Thế tôi có còn được đeo ruy băng nữa không?
- Đồng chí, - Tuyết Tròn nói, - Cái ruy băng mà đồng chí yêu
thích đó chính là biểu tượng của tinh thần nô lệ. Chả lẽ đồng chí không thấy
rằng tự do đáng quí hơn cái ruy băng hay sao?
Mollie đồng ý, nhưng trông nó có vẻ không tin tưởng lắm.
Bọn lợn còn gặp nhiều khó khăn hơn trong việc bác bỏ những
luận điệu do con quạ Moses đưa ra. Moses là con vật cưng của ông Jones, nó
chuyên đi rình rập nhưng lại nhớ rất nhiều chuyện cổ tích và cũng là một diễn
giả có hạng. Nó bảo rằng có biết một vương quốc thần thoại tên là Núi Xôi, nơi
linh hồn các con vật sẽ tới sau khi chầu trời. Moses nói rằng vùng đó nằm không
xa, sau các đám mây. Ở đó cả bảy ngày trong tuần đều là chủ nhật hết, còn cỏ ba
lá thì xanh quanh năm, đường phèn và bánh khô thì mọc ngay trên bờ dậu. Các con
vật rất ghét Moses vì nó chỉ nói chứ không làm, nhưng có vài con lại tin là có
miền cực lạc Núi Xôi của nó, thành ra lũ lợn phải vất vả lắm mới thuyết phục
được chúng rằng không thể nào có một miền như thế được.
Tông đồ tin cậy nhất của chúng là hai con ngựa kéo xe, Chiến
Sĩ và Bà Mập. Hai con này vốn dĩ chậm hiểu nhưng khi chúng đã coi lũ lợn là sư
phụ rồi thì nuốt lấy từng lời giáo huấn rồi giảng giải lại cho những con khác
bằng thứ ngôn ngữ dễ hiểu hơn. Hai con này không bỏ bất cứ một buổi họp nào và
thường là những kẻ cầm càng bài Súc Sinh
Anh quốc mỗi khi cuộc họp kết thúc.
Cuộc Khởi Nghĩa xảy ra sớm hơn và dễ dàng hơn chúng tưởng
rất nhiều. Trong những năm gần đây, ông Jones, vốn là một điền chủ giỏi và
nghiêm khắc, đã gặp nhiều sự cố. Sau khi bị mất nhiều tiền vào việc kiện tụng,
ông trở nên ủ dột và uống nhiều rượu hơn bình thường. Ông thường ngồi cả ngày
trên chiếc ghế bành trong bếp, vừa đọc báo vừa uống bia, thỉnh thoảng lại cho
con Moses những mẩu vỏ bánh mì chấm bia. Gia nhân thành ra một lũ lười nhác,
trộm cắp, đồng nội thành bãi đất hoang, nhà cửa dột nát, rào dậu nghiêng đổ,
súc vật thường xuyên bị bỏ đói.
Đã sang tháng sáu, đây là mùa cắt cỏ. Trước ngày Hạ chí [ngày 24 tháng 6], hôm ấy là thứ bảy, ông
Jones đi Willingdon và uống đến say khướt tại nhà hàng Sư Tử Đỏ, trưa chủ nhật
mới về. Bọn gia nhân thì vội vàng vắt sữa từ sáng sớm rồi bỏ đi săn thỏ mà
không thèm cho súc vật ăn tí nào. Về đến nhà ông Jones leo ngay lên ghế sopha
trong phòng khách rồi lấy tờ “News of the World” [Tờ báo ra vào chủ nhật, thường đăng các tin giật gân, không mang tính
chất chính trị, phát hành 5 triệu bản mỗi số. Xuất bản từ năm 1843] phủ lên
mặt và ngủ, súc vật bị bỏ đói cho đến tận chiều tối. Cuối cùng chúng hết chịu
nổi. Một con bò cái húc đổ cửa nhà kho và thế là tất cả mọi con vật cùng lao
vào các thùng chứa ngũ cốc. Đúng lúc đó thì ông Jones thức giấc. Ông và bốn
người làm công lập tức vồ lấy roi và lao vào kho, họ cứ thế quật túi bụi lên
lưng lũ súc vật khốn nạn. Lũ súc vật đói khát không thể chịu đựng thêm được
nữa. Dù không hẹn trước, chúng cùng xông lên và lao thẳng vào những kẻ áp bức.
Ông Jones và gia nhân bất ngờ bị đá, bị húc từ mọi hướng. Tình hình trở nên
không thể kiểm soát được. Họ chưa từng gặp chuyện như thế bao giờ, cuộc nổi
loạn bất thình lình của lũ súc vật mà trước đây muốn đánh đập, muốn hành hạ thế
nào mặc lòng, đã làm họ hoảng loạn. Họ chỉ cầm cự được vài phút rồi phải bỏ
chạy. Cả năm người vội vã lao ra con đường nhỏ để chạy lên đường làng, trong
khi lũ súc vật hào hứng truy kích theo.
Qua cửa sổ phòng ngủ, bà Jones đã nhìn thấy hết mọi chuyện,
bà vội vàng cho một vài thứ vào cái túi vải rồi luồn theo cửa sau trốn khỏi
Điền Trang. Moses cũng kịp lao ra khỏi tổ rồi vừa kêu vừa bay theo bà chủ. Lũ
súc vật sau khi truy kích thắng lợi đã quay về và đóng cổng. Thế là, cuộc Khởi
Nghĩa đã toàn thắng, ông Jones bị đuổi đi, Điền Trang là của bọn súc sinh ngay
trước khi chúng kịp hiểu mọi chuyện.
Ban đầu chúng không tin là số phận đã mỉm cười với chúng.
Việc làm đầu tiên của chúng là tập trung lại và chạy vòng quanh khu nhà để tìm
xem có còn sót người nào bên trong không, sau đó chúng lao vào các tòa nhà để
phá hủy tàn tích của chế độ cai trị độc tài của ông Jones. Kho công cụ ở phía
cuối chuồng ngựa bị đập phá, thế là bao nhiêu hàm thiếc ngựa, vòng đeo mũi bò,
xích chó, dao hoạn lợn và cừu bị ném hết xuống giếng. Còn dây cương, dây thòng
lọng, các miếng da che mắt ngựa, giỏ thức ăn cũ thường treo ở cổ ngựa thì bị
quăng vào đống lửa giữa sân. Những chiếc roi cũng cùng chung số phận. Mọi con
vật cùng nhảy cỡn lên khi trông thấy những cái roi bắt lửa. Tuyết Tròn còn vất
luôn vào lửa những cái ruy băng vẫn thường buộc trên bờm và đuôi ngựa mỗi kì
hội chợ.
- Ruy băng, - nó tuyên bố, - phải được coi là quần áo, cũng
là biểu tượng của loài người. Mọi con vật đều phải khỏa thân.
Nghe thấy thế Chiến Sĩ vội tháo cái mũ rơm mà nó thường mang
trong mùa hè để ngăn ruồi khỏi lọt vào tai và ném vào lửa.
Chẳng mấy chốc lũ súc vật đã phá hủy tất cả những thứ có
liên quan đến ông Jones. Napoleon dẫn cả bọn vào kho và phát gấp đôi khẩu phần
ăn hàng ngày, mỗi con chó được hai bánh qui bơ. Sau đó chúng hát bài Súc Sinh Anh quốc bảy lần liền, rồi cả
bọn đi ngủ, chưa bao giờ chúng ngủ ngon như hôm ấy.
Như thường lệ, chúng thức dậy khi trời vừa rạng sáng, nhưng
chúng lập tức nhớ ngay đến sự kiện vinh quang vừa xảy ra và thế là cả bọn cùng
lao ra đồng cỏ. Trên đồng cỏ có một cái gò nhỏ, từ đây có thể nhìn thấy hầu
khắp trang trại. Lũ súc vật chạy lên đó và ngắm nhìn khung cảnh trong ánh hồng
của một ngày mới. Tất cả, tất cả những gì trước mắt kia giờ đây đã thuộc về
chúng! Trong trạng thái ngất ngây, chúng cứ chạy quanh, chạy quanh mãi, thỉnh
thoảng chúng lại nhảy lên vì sung sướng! Chúng lăn mình trên sương ướt, chúng
gặm đầy mồm cỏ ngọt mùa hè, chúng hất tung lên những nắm đất đen và hít hà mùi
vị ấm nồng của nó. Sau đó chúng đi kiểm tra một vòng khắp trang trại, chúng yên
lặng ngắm nhìn khu ruộng lúa, đồng cỏ, vuờn quả, ao cá, lùm cây. Chúng ngắm
nhìn như chưa từng nhìn thấy những thứ ấy bao giờ, và ngay cả lúc này chúng
cũng chưa tin rằng tất cả những thứ đó đã là của chúng.
Sau đó cả bọn lại cùng nhau quay về và yên lặng tập trung
trước ngôi nhà chính. Dù ngôi nhà này cũng đã thuộc về chúng nhưng chúng còn
ngại, chưa dám vào ngay. Nhưng Tuyết Tròn và Napoleon đã mau chóng lấy lại được
bình tĩnh và dùng vai phá cửa, rồi từng con lục tục, thận trọng bước vào, tránh
không làm xáo trộn các đồ vật bên trong. Chúng nhón gót đi từ phòng nọ sang
phòng kia, thì thào, hồi hộp ngắm nhìn cảnh xa hoa không thể nào tin được đang
bày ra trước mắt, nào giường nệm lông vịt, nào gương soi, nào ghế nệm lông
ngựa, nào thảm nhung, rồi ảnh nữ hoàng Vitoria [Nữ hoàng Anh trị vì từ năm 1837 đến năm 1901] treo trên lò sưởi
trong phòng khách. Nhưng khi xuống đến bậc tam cấp thì chúng bỗng phát hiện ra
là thiếu mất Mollie. Chúng quay vào và thấy Mollie còn đứng trong căn phòng ngủ
đẹp nhất nhà. Hóa ra cô nàng đã lấy một dải ruy băng màu xanh trên bàn trang
điểm của bà Jones, vắt lên vai và đang thẫn thờ soi gương. Các con khác túm
ngay lấy nó và lôi ra khỏi nhà. Mấy cái đùi lợn muối treo trong bếp được đem đi
chôn, thùng bia trong phòng rửa bát thì bị Chiến Sĩ đá thủng, những thứ khác
hầu như được giữ nguyên chỗ cũ. Một nghị quyết về việc giữ tòa nhà chính làm
viện bảo tàng được nhất trí thông qua ngay tại chỗ. Tất cả đều đồng ý là không
con nào có quyền sống trong tòa nhà này.
Chúng đi ăn sáng và sau đó Tuyết Tròn và Napoleon mời tất cả
tập trung.
- Thưa các đồng chí, - Tuyết Tròn nói, - Bây giờ là bảy giờ
rưỡi, chúng ta còn cả một ngày nữa cơ. Hôm nay chúng ta sẽ bắt đầu cắt cỏ,
nhưng chúng ta còn một việc phải làm trước đã.
Thế là hai con lợn nói rằng nhờ những cuốn sách vỡ lòng của
con ông Jones tìm được trong đống rác mà suốt ba tháng qua chúng đã học và nay
chúng đã biết đọc, biết viết. Napoleon sai đi lấy một lọ sơn đỏ, một lọ sơn
trắng rồi dẫn cả bọn đi ra cổng lớn. Tuyết Tròn (vì nó là con viết đẹp nhất)
kẹp cái chổi sơn giữa hai móng chân, xóa chữ Điền Trang và viết chữ Trại Súc
Vật lên cái thanh trên cùng của cánh cổng. Từ nay trở đi đấy sẽ là tên chính
thức của trại này. Sau đó cả bọn quay lại khu nhà, Tuyết Tròn và Napoleon lại
ra lệnh tìm một cái thang rồi dựng sát vào đầu hồi nhà kho. Chúng giải thích
rằng sau một thời kì khổ công nghiên cứu, ba tháng gần đây chúng đã đúc kết các
luận điểm của Súc Sinh Kinh thành Bảy Điều Răn. Bảy Điều Răn sẽ được kẻ lên
tường và sẽ là luật vĩnh viễn bất di bất dịch của tất cả các thành viên Trại
Súc Vật.
Tuyết Tròn leo lên thang một cách khó nhọc (vì lợn khó giữ
thăng bằng khi đứng trên thang) và bắt đầu viết, trong khi Chỉ Điểm cầm hộp sơn
đứng bên dưới mấy bậc. Các điều răn được viết bằng sơn trắng trên bức tường
quét hắc ín, đứng xa cả ba chục mét cũng đọc rõ. Nội dung như sau:
1. Tất cả các loài hai chân đều là
kẻ thù.
2. Tất cả các loài bốn chân hoặc có
cánh đều là bạn.
3. Không con vật nào được mặc quần
áo.
4. Không con vật nào được ngủ trên
giường.
5. Không con vật nào được uống rượu.
6. Loài vật không được giết hại lẫn
nhau.
7. Mọi con vật sinh ra đều bình
đẳng.
Các chữ đều được viết rõ ràng và cả đoạn chỉ có hai lỗi
chính tả mà thôi, đấy là chữ “giường” bị viết thành “gưìơng” và một chữ S bị
viết ngược. Tuyết Tròn đọc to lên cho tất cả cùng nghe. Tất cả đều gật đầu đồng
ý, những con thông minh hơn lập tức học thuộc lòng các Điều Răn.
- Bây giờ, thưa các đồng chí, - Tuyết Tròn vừa ném cái chổi
sơn xuống đất vừa gào lên, - tất cả ra đồng cắt cỏ! Chúng ta phải thu hoạch
nhanh hơn lão Jones và lũ gia nhân của hắn.
Đúng lúc đó thì ba con bò cái vốn cảm thấy khó chịu từ trước
bỗng rống lên. Suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ qua chúng chưa được vắt sữa, vú
của chúng căng mọng như muốn nổ ra đến nơi. Sau một chút đắn đo, lũ lợn sai
mang xô tới và đã thực hiện công việc khá thành thạo, chân chúng tỏ ra phù hợp
với công việc này. Chẳng mấy chốc đã vắt được năm xô đầy sữa béo, một số con tò
mò đến xem.
- Làm gì với số sữa này nhỉ? - có con hỏi.
- Lão Jones thỉnh thoảng có trộn sữa vào thức ăn của chúng
tôi đấy, - một chị gà mái lên tiếng.
- Các đồng chí, để ý đến sữa làm gì! - Napoleon vừa gào lên
vừa bước ra đằng trước mấy xô sữa, - Để đấy rồi tính sau. Thu hoạch quan trọng
hơn. Đồng chí Tuyết Tròn sẽ dẫn đầu. Tôi sẽ ra sau một lúc. Các đồng chí, tiến
lên! Vụ thu hoạch đang cần chúng ta.
Các con vật tiến ra cánh đồng và bắt đầu cắt cỏ, nhưng chiều
về thì chúng không thấy mấy xô sữa đâu nữa.
-----------
-----------
Còn tiếp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét