Vị Khách Chủ Nhật
Tác giả: Thomas Kanger
Dịch giả: Lê Quang
NXB Văn Hóa Sài Gòn - 2008
Chương 2
Sườn núi xanh ngắt. Tiếng
ve kêu ran ran. Một con chim lông sặc sỡ lướt sát ngọn cây. Con đường dưới
thung lũng ngoằn ngoèo chạy về hướng mặt trời lặn. Mặt biển sáng lấp lánh.
Mình đến đây làm gì nhỉ,
Kari Solbakken nghĩ bụng khi leo lên xe buýt sau mấy phút nghỉ đi vệ sinh. Bồn
cầu không có nắp ngồi, và dĩ nhiên là cũng chẳng có giấy chùi. Quần áo cô dính
nhớp nháp vào người, và không khí thiếu ô xy đến nỗi nếu ẩm ướt thế này mà quẹt
được một que diêm thì chắc nó cũng tắt ngấm luôn. Cô có một chỗ ngồi bên cửa sổ,
nhưng cửa cũng có mở được đâu. Người đàn ông ngồi cạnh béo quay và choán mất nửa
chiếc ghế của cô. Vé cũng rẻ.
Ba tiếng sau xe đến bến
Giáp Bát, cô ê ẩm xốc ba lô lên vai. Lập tức, một đám dịch vụ khấp khởi đón
chào: “Motorbike?”. Kari lục trong túi tìm mẩu giấy. “To here”, cô trả lời. Một thanh niên vươn cổ ra đọc. “Hàng
Bạc. Three dollar”. Kari mệt đến nỗi chấp nhận luôn cái giá cắt cổ.
Anh ta phóng rất nhanh và
khéo léo tìm cách lách qua dòng xe Honda Wave lũ lượt trên đường. Một thiếu nữ
rẽ ra từ trong ngõ trước mặt họ mà chẳng thèm nhìn, nhưng lái xe của Kari vòng
tránh một cách điệu nghệ. Đây là đất nước của những người tham gia giao thông
đã lẳng lặng thống nhất với nhau là chớ có đâm vào nhau.
Khi họ vòng qua một hồ nước
nhỏ, có thể chỉ là một cái đầm con con, người lái xe quay lại nói với cô mà
không giảm tốc độ: “Old town. Hanoi old town”. Cô gật đầu và mong anh ta cứ nhìn thẳng phía trước
thì hơn là sắm vai hướng dẫn viên du lịch. Sau vài dãy nhà nữa họ dừng xe, anh
ta khoát tay về phía cửa và nói: “Hostel”. Bên cạnh cửa treo một tấm biển viết chữ in “LOVE
PLANET”. Kari
đưa cho người lái xe máy ba dollar mà anh ta xứng đáng kiếm được rồi đi vào
nhà. Một phụ nữ ngồi sau quầy lễ tân, cô ta không trả lời khi Kari hỏi phòng trống
mà quay lại gỡ một chìa khóa treo trên móc. “Toilet in coridor. Pay in advan’
plea”, cô ta
nói và trao chìa khóa.
Căn phòng nhỏ được trang
bị một chiếc giường, bàn và ghế đẩu. Kari duỗi người trên giường. Cô chỉ ước gì
đang ở đâu thật xa, cho dù với cô thì ở đây đã là xa lắm rồi. Trước đây không
lâu, cô đã ước ao được đến đất này, đến
đích của mọi ước mơ. Vào lúc xuất hành ở Stockholm thì chuyến du lịch này được
coi là con đường để rốt cuộc cô tìm đến chính mình. Cô muốn rũ bỏ cảm giác bị
cô lập giữa thế giới xung quanh. Cô lên đường một mình, nhưng cô muốn gặp những
người khả dĩ nhìn thấy mình. Để rồi sẽ hiểu mọi sự rõ hơn. Nhưng chính con người
Kari Solbakken thực sự thì lại không chịu hiện ra trong môi trường xa lạ này.
Giường cứng quá, hay vì
xương cốt cô đã ê ẩm sẵn? Kari nhỏm dậy và thọc tay vào một ngăn ba lô. Tìm một
lúc, cô lôi ra một viên nhỏ màu nâu mềm mềm. Cô bóp vụn nó và nhồi vào tẩu. Cô
bước ra trước cửa sổ nhỏ, mở ra và mồi thuốc. Khói ùa vào phổi ru ngủ mọi bồn
chồn.
Chiều muộn, cô thức giấc.
Mất một lúc lâu cô mới ý thức được mình đang ở đâu. Mọi căn phòng mà cô ở qua
đêm trong hai tháng qua trông từa tựa như nhau. Một chiếc khăn mặt cũ sờn để ở
cuối giường. Phải dùng nó thôi, vì khăn cô đem theo chưa khô. Cô ra hành lang.
Buồng tắm ở tận đầu kia, cạnh phòng vệ sinh chung cho cả tầng. Để nước xối lên
da, cô thấy trong người dễ chịu hơn một chút.
Kari chậm rãi lùa bàn chải
tóc vào mớ tóc vàng dài chấm vai. Cô nhìn thẳng vào mắt mình trong gương và bắt
gặp một ánh nhìn đầy hoang mang, thấy gì cũng sợ. Đó là ánh nhìn của trẻ thơ,
song lại thiếu niềm vui ngây thơ khi khám phá. Khuôn mặt với chiếc mũi tẹt
trông trẻ hơn tuổi hai lăm. Cặp lông mày thanh thanh vẽ hai vòng cung xinh xắn.
Môi trên mỏng, bù lại thì môi dưới rất mọng. Ánh nắng đã nhuốm nâu da mặt vốn
nhợt nhạt của cô.
Cô lấy trong ba lô ra một
chiếc quần soóc chưa bẩn lắm. Cô ra phố, đi về một hướng mà chính cô cũng không
rõ nó dẫn đến đâu. Vỉa hè toàn xe máy đỗ kín, khiến khách bộ hành phải đi xuống
lòng đường. Xe cộ như nêm trên phố. Phụ nữ già trẻ nhún nhảy gánh trên vai những
thúng hàng nặng trĩu. Trẻ con chạy tới chạy lui, mời những người nước ngoài da
trắng mua bưu thiếp và sách hướng dẫn du lịch của Lonely Planet, chính những
người nước ngoài da trắng ưa tìm mua hàng rẻ song không chịu bị coi là túi tiền
biết đi.
Một tay cò mồi rao
“welcome, good vietnamee food” và Kari bước vào. Cô leo lên một cầu thang hẹp,
ra một sân thượng bày mấy cái bàn đơn giản. Khách ở đây toàn một dạng như cô,
thành phần Tây ba lô đi tìm sự đồng
điệu ở đám đông. Người phục vụ đặt tờ thực đơn lên bàn. Cô gọi nem rán và xúp.
Dạ dày cô thắt lại vì đói, cô chỉ mong người ta đưa thức ăn ra thật nhanh.
- Xin chào.
Cô ngẩng lên. Một gã buộc
tóc đuôi ngựa, đeo kính đen. Gã mỉm cười:
- Tôi là Jack. Chị cho phép tôi ngồi cùng nhé?
Kari gật đầu. Gã gọi hai
bia, cho mỗi người một ly.
- Chị người ở đâu? - gã hỏi và gỡ kính mát xuống.
Năm câu hỏi, Kari nghĩ bụng.
Trò quen thuộc của du khách ba lô. Hắn sẽ hỏi mình đã đến đâu rồi, có thích Sài
Gòn, Nha Trang, Hội An hay Huế không, còn muốn tới đâu nữa và có bao nhiêu tiền
cho chuyến du lịch này. Rồi hắn sẽ tràng giang đại hải thuật lại những trắc trở
đã gặp phải dọc đường, và ban phát cho mình những lời khuyên nho nhỏ của giới
sành sỏi.
- Người Thụy Điển.
- Tôi là người Hoa Kỳ, - gã nói và thọc sườn khá bất ngờ: kể ra những kinh
nghiệm du lịch của mình. - Tôi chu du đã nửa năm nay. Ấn Độ, Nepal, Thái Lan,
Campuchia, và bây giờ tôi đến đây.
Kari uống một ngụm bia. Who fucking cares? cô nghĩ bụng. Thức ăn
được dọn ra.
- Việt Nam là một nơi cực kỳ đặc biệt đối với tôi, - gã nói tiếp. - Really special. Cha tôi đã ở đây.
Ngày xưa cơ. Lái máy bay lên thẳng. - Gã nâng hai tay lên ra bộ cầm súng và bắt chước tiếng
động. - Hồi
tôi còn nhỏ, cha tôi thường kể về Việt Nam. Ông ấy mất rồi, nhưng tôi ước sao
cha tôi được trải nghiệm những gì ở đây. Được đón chào ở đây. Không ai trách cứ
gì chúng tôi vì chiến tranh cả. Khi người ta đối xử với họ như người giống mình
thì mọi việc đều ổn.
Gã mỉm cười với Kari.
- Cuộc chiến tranh ấy là một sai lầm, - gã nhận xét. - Bao năm trời. Vô số lính tráng của chúng tôi tử trận.
Người ta đã tiến hành cuộc chiến một cách sai lầm, không như hôm nay. May mắn
cho tôi là cha tôi đã sống sót. Nếu không thì tôi đã không ngồi đây.
Gã vuốt mớ tóc đuôi ngựa
cho thẳng thớm và mỉm cười.
- Chị có khoái món nào nữa ngoài bia không?
- Là món gì vậy? - cô nhìn gã, đã hơi quan tâm hơn.
Gã khum khum bàn tay
thành hình tẩu thuốc và đưa lên gần miệng.
Viên bi cô mua lại của
tay người Úc ở Huế đã dùng hết từ tối qua.
- Okay, - cô
nói.
Họ trèo xuống cầu thang hẹp.
Xe cộ ngoài đường đã bớt chen chúc. Trời nhập nhoạng, chợ rau quả ở góc phố
đang thu dọn để đóng. Tựa như ai cũng đang trên đường về nhà. Jack đi trước,
không rẽ vào Hàng Bạc nơi cô ở trọ.
- Phố này ngày xưa có nhiều nhà làm đồ bạc, - Jack giải thích và lại mỉm cười với cô. Rõ ràng gã
rất hài lòng với chính mình. Họ đi sâu vào khu phố cổ. Kari tự hỏi, liệu cô có
tìm lại được phòng mình.
Phòng Jack cũng nhỏ,
nhưng có một chiếc giường lớn hơn và phòng tắm. Kari ngồi lên giường. Jack ngồi
trên ghế, mở túi lấy ra một tẩu thuốc nhỏ và một bọc quấn nylon. Gã mở gói. Một
thanh nâu đen hiện ra. Nhiều thế, Kari nghĩ. Chắc phải vài lạng, hoặc đến nửa
ký cũng nên. Hắn mua ở đâu ra thế nhỉ? Jack bóp vụn một mẩu giữa ngón cái và
ngón trỏ rồi nhồi vào tẩu, châm lửa, rít hai hơi thật sâu và trao cho Kari. Cô
hít một hơi dài và ngậm khói trong phổi. Cảm giác khoan khoái nhanh chóng ngấm
vào người. Cô rít thêm hơi nữa trước khi trả tẩu cho Jack. Gã cũng hút, rồi ngồi
xuống giường cạnh Kari. Gã khom lưng, áp môi mình lên miệng Kari và thổi khói
vào miệng cô. Cô hít vào rồi nằm xuống. Gã đưa cô tẩu thuốc, và trong khi cô
hút thì gã mở khuy quần cô. Kari mặc đồ rộng do trời nóng nên gã không khó khăn
gì luồn tay vào giữa hai đùi cô.
- Không, - cô
nói.
- Ah, come on, - gã đáp lại và thọc tay mạnh hơn. Cô cố kéo tay gã
ra, nhưng gã khỏe hơn. - Em cũng muốn cơ mà, - gã nói. - Anh biết là em cũng muốn.
Tay gã ấn mạnh hơn. Cô biết
gã khỏe hơn mình.
Xong xuôi, Jack đứng dậy
và cài khuy quần mình lại. Gã không nhìn cô. Cô quay mặt vào tường.
- Nếu em không muốn thì em đã hét ầm lên, - gã nói, - nhưng em có làm thế đâu.
Khi cô tỉnh dậy thì gã đã
đi mất. Phải mấy giây sau ký ức mới hồi lại. Đầu cô nặng trĩu. Mình ở đây bao
lâu rồi nhỉ? Cô đứng dậy và tìm quần áo. Quần ngoài nằm trên nền nhà, quần lót
tận cuối giường. Cô mặc quần áo, ra đến
cửa còn quay lại nhìn lần nữa. Chiếc túi nằm dưới đất, cạnh chân giường. Cô chạy
vội đến và thọc tay vào túi. Gói nylon nằm lấp dưới mấy thứ quần áo. Cô giấu nó
dưới áo sơ mi rồi chạy hộc tốc ra phố. Trời đã tối, không có bóng người nào
ngoài đường. Cô thử nhớ lại mình đã đi đường nào tới đây, nhưng phố nào trông
cũng giống nhau. Cô nghe thấy chính mình khẽ rên rỉ như một con thú. Cô đi qua
các phố, hết dãy nhà này đến dãy nhà kia.
Đột nhiên cô thấy tấm biển:
“LOVE PLANET”. Nó hiện ra như từ cõi ma. Cô thở phào và đập cửa ầm ầm. Một lát sau người
phụ nữ ban chiều ở quầy lễ tân đi ra và lẳng lặng mở cửa cho cô vào nhà.
Sáng sớm hôm sau, Kari
xin gọi nhờ điện thoại. Cô quay một số máy địa phương của phòng du lịch bên Thụy
Điển đưa cho. Nhân viên đại diện hàng không cho biết chỉ còn vài chỗ trống
trong chuyến bay hôm nay, nhưng đổi chuyến mất một trăm dollar. Kari đếm lại tiền
và đồng ý. Cô chặn một chiếc taxi ngoài phố.
- How much to the airport?
- Fifteen dollar.
- I have twelve.
Lái xe mở cửa trước bên
phải.
Sau mười bảy tiếng đồng hồ
và hai lần đỗ giữa chừng phi cơ đáp xuống Arlanda. Kari cố hết sức mới đi được
vào phòng đợi. Cô có cảm giác dơ dáy từ trong ra ngoài, và tưởng như ai cũng chằm
chằm nhìn mình. Gói nylon dưới áo nóng hừng hực trên da bụng. Cô đi theo dòng
người, không biết phải đi đường nào để ra ngoài, lướt qua một loạt cửa hiệu, đi
xuống một thang cuốn và qua những cửa kính tự động đóng mở. Trong một phòng lớn
có băng chuyền chở hành lý xoay vòng. Cô nhìn quanh. Trên một màn hình treo sát
trần nhà hiện chữ “Paris” là điểm dừng giữa chừng thứ hai. Cô đứng vào cạnh
băng chuyền. Phía xa xa có một tấm biển treo trên tường: “Hải quan”. Kari thấy đầu gối bủn rủn.
- Có chuyện gì đó, thưa bà? - một người vận com-lê hỏi.
- Phòng vệ sinh ở đâu? - cô yếu ớt hỏi. Người đàn ông chỉ đường. Cô chạy hộc
tốc ra đó nhưng chưa kịp đến bồn cầu thì đã nôn thốc tháo.
Khi ra đến bên ngoài, cô
lấy ba lô trên băng chuyền - món hành lý cuối cùng đơn độc trôi trên băng. Cô
đi về phía cửa ra, nơi có treo biển “Hành khách từ khối EU”. Cô giữ chiếc ba
lô bằng cả hai tay như một tấm khiên trước ngực và nhìn thẳng. Hai người mặc cảnh
phục đang trò chuyện sau bàn, trông rõ là nhân viên hải quan, song có vẻ như họ
không để ý khi cô đi ngang. Cánh cửa
lùa trượt sang một bên, đằng kia là những người đứng đợi. Một bước nữa thôi, và
cô sẽ đến chỗ họ, sẽ an toàn.
- Xin lỗi!
Cô nghe tiếng nói sau
lưng. Cô quay lại và thấy hai người đàn ông mặc cảnh phục, một người mỉm cười
thân thiện.
- Chị có thể quay lại được không? Chỉ kiểm tra một chút thôi.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét