Quy luật của muôn đời
Tác giả: Nodar
Dumbadze
Người dịch: Phạm Mạnh
Hùng
Nhà xuất bản Văn Học -
9/1984
Chương 3
Cái buồng bệnh ba giường
thấm đượm mùi iôđôfooc lẫn với mùi cồn, mùi long não và mùi
hơi ẩm của sàn nhà mới lau chùi. Để khỏi ngạt thở, bằng một cử động thận trọng
Batsana kéo chăn che kín mũi, rồi cũng thận trọng như thế, ông tự xem mạch của
mình. Tim đập như thời thơ ấu khi Basana nheo mắt, tựa đầu vào tấm vách, bắt
đầu đếm: “Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, tám rưỡi, chín, chín
rưỡi, mười!”. Batsana thôi không bắt mạch nữa và đặt tay lên tim. Tim im lặng.
Sợ hãi, ông lại xem mạch. Mạch vẫn đập. Thế là ông chậm rãi thò mũi ra khỏi
chăn. Một mùi găn gắt xông lên.
- Cửa sổ... - Batsana khẽ
thốt lên.
- Cái gì? - Giường bên
lên tiếng.
- Ô-hô! Ông ấy còn sống
ư? - Giường kia hỏi.
- Chẳng lẽ người ta lại
đưa người chết đến đây à? Đây là phòng bệnh hay nhà xác? - Giường thứ nhất đáp
bằng giọng bực tức.
- Nghe nói là một nhà
văn. - Giường thứ hai đáp. - Chỗ của nhà văn là ở Mơtatxminđa [nghĩa đen là “Núi Thần” - ngọn núi ở Tbilixi, nơi có lăng
các nhà hoạt động xã hội xuất sắc], chứ không phải là ở đây.
Batsana nghe thấy cuộc đối
thoại giữa hai giường kế cận, nhưng đối với ông, cái chủ yếu bây giờ là không
khí, không khí tươi mới, trong lành, ngoài ra không cần gì hơn.
- Cửa sổ! - Ông nhắc lại.
- Ở đây có cái gì không vừa
ý ông ta, không rõ là không khí hay cửa sổ.
- Không khí. - Batsana
nói.
- Thưa ông, ông biết đấy,
chúng tôi không được phép trở dậy, thậm chí không được phép cử động nữa kia. -
giường thứ hai cho biết. - Vì vậy, chừng nào cô hộ lý chưa đến thì ông đành bằng
lòng với thứ không khí mà tôi và ông Bulika đáng kính vẫn thở vậy.
Batsana hiểu rằng Bulika
là tên giường thứ nhất. Bây giờ cần biết rõ người nằm giường thứ hai là ai.
- Mấy giờ rồi? - ông hỏi.
- Theo tôi, bây giờ là
lúc cha làm dấu thập ác và cầu nguyện đức Chúa Trời! - giường thứ nhất trả lời.
Batsana nghiêng qua giường
thứ hai và nhìn thấy bộ râu đen với những sợi râm bạc. “Chắc là một cha cố” -
ông nghĩ và hỏi lại:
- Mấy giờ rồi?
- Mười giờ. - Bộ râu đáp.
- Thế ông không quan tâm
đến thế kỷ à? - Bulika tò mò.
Người ốm thường bông đùa
hoặc trước khi chết hoặc sau khi bình phục, Batsana vẫn nhớ bây giờ là thế kỷ
thứ mấy, nhưng lúc này ông quan tâm đến vấn đề khác: bộ mặt của người đã bình phục
này. Đầu giường Bulika ở phía chân Batsana, vì thế ông chỉ có thể nhìn thấy
quãng đầu hói của ông ta.
Batsana bất giác mỉm cười,
và không muốn làm mếch lòng người nằm giường bên, ông hỏi:
- Bây giờ là thế kỷ thứ mấy?
- Đúng rồi, thưa cha, ông
ấy từ những vùng rất xa xôi trở về, - Bulika nói với giường thứ hai. - Tôi thì
chưa đi xa đến như thế.
- Ờ thì bác chỉ thiếu máu
cục bộ vách sau tim. Còn ông ấy không phải chỉ thương tổn vách sau, mà là cả một
đống hoang tàn Bagrachi [Đền thờ Bagrat (thế kỷ
X-XI), gần thành phố Kutaxi].
- Nếu vậy thì ông bạn
thân mến ạ, đối với ông bây giờ là thế kỷ đầu của kỷ nguyên mới! - Bulika nói
rõ hơn.
Batsana không đáp. Ông bắt
đầu quan sát buồng bệnh.
Cửa ra vào. Một giường bệnh.
Một giường bệnh nữa. Hai cái tủ con thấp, trên để những lọ matxôni [Sữa chua đặc], những lọ thuốc, những trái cây
có đậy tấm khăn ăn. Những bức tường trắng. Một cửa sổ lớn. Một chiếc bàn dùng
chung có một bình nước và những bông hồng đã tàn héo. Dưới giường thứ nhất là một
chiếc bô màu trắng, dưới gầm giường thứ hai có cái gì thì Batsana không nhìn thấy.
Ông nằm giường số ba. Ông nghiên cứu khá kỹ quãng đầu hói của người thứ nhất ở
giường kế cận. Ông cảm thấy khuôn mặt trông nghiêng của người thứ hai, người có
râu, nom khá dễ ưa: trán cao, mũi thẳng, bộ râu rậm điểm bạc...
Hôm nay là ngày thứ mấy?
Tháng nào?
Những câu hỏi liên tiếp nảy
ra trong đầu Batsana và ông không thể tìm ra câu trả lời nào cả. Thôi, thây kệ
những câu hỏi đó, ít ra cũng cần biết năm nay là năm bao nhiêu!
- Năm nay là năm bao nhiêu?
- Ông buột miệng nói.
- Ông ấy mê sảng hay lỡm
chúng ta! - Bulika nói.
- Không, chẳng qua là ông
ấy thiếu ôxy, vì thế lẫn trí. Tôi cũng đã có lần như thế. - Bộ râu đáp. - nên cố
tìm cách mở cửa sổ ra.
Trong phòng bỗng nhiên đầy
sương mù màu hồng quen thuộc, và Batsana lại ở trên cái thang dốc.
- Ông tên là gì, thưa
ông? - Bulika từ xa đưa lại.
“Tên tôi là Batsana, họ
là Ramisvili!” - Batsana toan trả lời, nhưng lại im lặng. Bulika ở xa, xa lắm.
- Thôi đi, ông ấy đang
thiêm thiếp ngủ! - Bộ râu đáp khe khẽ.
“Ồ không, tôi không ngủ
đâu, tôi đang bị kéo xuống thang! giúp tôi với, cho tôi trở lại phía trên!” -
Batsana muốn kêu lên mà không được. Bắt đầu một trạng thái ngây ngất màu hồng,
lưỡi không tuân theo ông nữa. Để khỏi mất hẳn những người đó, những người ở các
giường bên, Batsana ngồi xuống bậc thang.
- Ông ấy ngủ rồi! -
Bulika nói.
Batsana không ngủ. Ông
nghe thấy hết.
Từ gậm giường của Bulika,
một con chuột cống bò ra, hếch mồm đánh hơi, ngọ nguậy ria.
- Nó đã hạ cố đến thăm
ta, - Người bệnh No-1 nói.
- Một mình nó hay cả gia
đình? - Bulika hỏi.
- Lúc này mới có một mình
nó.
- Xem xem có phải nhà văn
của chúng ta đã chết rồi không? Cha ạ, chuột thường kéo đến khi đánh hơi thấy
mùi xác chết. - Bulika nói và thận trọng ngóc đầu lên nhìn con chuột, nhưng không
kịp. Tiếng kẹt giường làm con chuột kinh hoảng, nó chạy vụt về hang. Bulika chỉ
kịp trông thấy cái đuôi nó. - Nó chuồn rồi. - Bác ta nói bằng giọng tiếc rẻ.
- Nó sẽ quay lại. - Người
bệnh giường No-2 an ủi Bulika, lấy trong chiếc tủ con ra một mẩu đường và ném
xuống sàn. - Nó sẽ trở lại cùng với cả gia đình.
- Nhưng ông hãy cứ xem
xem nhà văn còn sống hay không?
Người có râu quay đầu về
phía giường Batsana. Ông nằm không nhúc nhích, hai bàn tay xanh mét ấp trên ngực.
- Chăn động đậy và mi mắt
rung rung.
- Chăn động đậy tức là
ông ấy thở, thở tức là tim hoạt động. Mi mắt rung rung tức là ông ấy không ngủ,
không ngủ tức là nghe thấy chúng ta, nghe thấy là phải trả lời, không trả lời tức
là bệnh tình nghiêm trọng... - Bulika kết luận. - Đồng chí nhà văn kính mến, đồng
chí còn sống chứ?
“Còn sống, tôi đang ngồi
trên thang và chờ đợi các bạn đưa tôi lên trên”. - Batsana muốn trả lời.
Hỡi ôi, chỉ là mong muốn
thế thôi. Bulika không thể đoán được mong muốn của người khác.
- Nó mà bò lên, chui ra
thì tôi sẽ tin thượng đế!... - Bulika nói với người có râu.
- Thì nó chui ra kia rồi!
- Người có râu mừng rỡ, - Lại dẫn theo cả gia đình nữa chứ!
Lần này, con chuột cái dẫn
theo cả chồng và hai con. Nó đi diễu một vòng quanh cái bô, rồi xộc thẳng tới
chỗ miếng đường. Không thèm tốn công tha thức ăn vào hang, nó gọi người nhà, và
cả gia đình nó lần lượt gặm miếng đường.
- Con vật khốn khiếp, nó
cảm biết chúng ta không thể trở dậy được! Nếu không thì ngay cả hổ cũng không
dám láo đến như thế, - Bulika tức giận lắc đầu. Con chuột quay đầu lại, đứng
lên bằng hai chân sau và tò mò nhìn người nói.
- Thậm chí nó hiểu cả tiếng
nói của chúng ta, quân trời chu đất diệt! - Bulika ngạc nhiên.
- Thế giới vô
sinh có tiếng nói bí ẩn kỳ diệu của riêng nó.
Loài người không hiểu
nổi.
Nào ai biết: con người
tinh khôn có khám phá ra không
Cái sáng suốt đã được
thấu hiểu từ lâu trong thế giới nọ?
- Thơ gì thế, “Dũng sĩ
khoác da hổ” [Tác phẩm của nhà thơ cổ Gruzya, thế kỷ XII, Sôta
Ruxtavêli] phải không? - Bulika hỏi.
- Không, “Dũng sĩ” thế
này kia:
Nghe tiếng Avtanđin,
thú vật đàn đàn lũ lũ kéo ra khỏi các khu rừng sồi.
Chúng nghe chàng và ngạc
nhiên về tính chân thật của chàng.
- Hừm, nó sống sướng hơn
người. Chén đường không phải trả tiền, không bị nhồi máu cơ tim, không mắc chứng
đau thắt ngực, chứng tim đập nhanh... Chúng ta lại đọc thơ cho nó nghe!... Xem
kìa, nó béo tròn béo trục như con lợn vậy!
- Chứ sao, điều kiện sống
thích hợp...
- Vậy là thế nào? Nếu xét
vấn đề về mặt lịch sử xã hội và loại trừ sự phản vệ sinh và lập luận một cách
lôgic và khách quan thì phải thừa nhận rằng chuột cống sinh ra do hoàn cảnh dư
thừa thực phẩm. Thành thử tôi không thấy sự việc đó có gì dơ dáy... Nói chung
chuột cũng là một tạo vật của chúa... Chỉ tiếc rằng nó reo rắc bệnh dịch hạch,
cái đó thì có...
- Chỉ xin cha đừng làm ồn
và đừng gọi
tôi là kẻ vô thần, nhưng cha làm ơn cho biết: Chúa của cha cần tạo ra chuột cống
để làm gì, hả cha? Ít ra cũng nên cho nó một bản chỉ dẫn mới phải chứ! Ồ, công
dụng của nó dưới cõi trần này là gì? Chơi nhạc ư? Không! Làm món toonma [Món ăn làm bằng
thịt ở vùng Kavkazơ, tương tự như món thịt
băm bọc lá cải bắp] ư? Không! Thế thì nó
làm gì? Gặm nhấm đường, gặm sàn, gặm sắt, gieo rắc dịch tả, dịch hạch, mọi thứ
bệnh truyền nhiễm! Nó là thế đấy, tạo vật ấy của cha do chúa sinh ra! Hừ, mẹ
cha nó!... - Bulika nhổ bọt và quay mặt vào tường.
- Anh thật là đần độn!
Chúa tạo ra chuột cống để những kẻ ngu dốt như anh thấy sự toàn năng của Chúa!
Và hãy giữ mồm giữ miệng, kẻo sau khi anh chết, Chúa lại bắt hồn anh đầu thai
vào chính con chuột này đấy! - Người có râu hăm dọa.
- Muốn vậy thì Chúa chỉ cần
một con chuột cống thôi là đủ! - Bulika hạ giọng.
- Ném cho con chuột miếng
đường, tôi hết ráo cả rồi! - Người bệnh No-2 nói.
- Có lẽ cần dâng cho nó
“khúc đuôi tôm” chăng? Liệu nó có nảy mụn trứng cá ra không nhỉ? - Bulika hỏi với
giọng khinh miệt, lại quay về phía người nói chuyện với mình.
- Mọi sinh vật trên đời đều
là tạo vật của Chúa. - Người kia trả lời với giọng dạy đời. - Và ta nên sống
hoàn toàn hòa hợp.
Ăn xong chỗ đường, mấy
con chuột bắt đầu đánh hơi cái tủ con của Batsana, nhưng không tìm thấy ở đấy
thứ gì ăn được - Batsana chưa kịp trữ thực phẩm - nó chuyển sang khu vực của
người bệnh No-2. Nhưng ở đây cũng không có gì thích hợp, thế là chúng bắt đầu gặm
chân chiếc tủ con.
- Hừ, chúng mày chết tiệt
đi cho rảnh! - Người bệnh No-2 bỗng kêu ré lên và ném chiếc giầy vào con chuột,
ném mạnh đến nỗi Bulika hoảng sợ ấp hai tay lên tim.
- Chớ phá hủy sự hài hòa,
thưa cha! - Bác ta nói một cách mỉa mai và để phòng ngừa sự bất trắc, bác đặt một
viên notrôglyxêrin dưới lưỡi.
- Có chuyện gì thế? - Chị
y sĩ hỏi, nghe thấy tiếng ồn ào, chị vào.
- Thưa chị Giênya, - Người
bệnh No-2 nói với chị y sĩ bằng giọng lo lắng, - Hoặc chị bảo vệ chúng tôi khỏi
những con vật đáng tởm, hoặc xin chị đặt một cái bẫy chuột.
- Ông định nói gì thế?
- Cố nhiên, không phải là
“Bẫy chuột” của Vagiơ Psaven! Hãy giải thoát chúng tôi khỏi những con chuột cống!
Không thể tiếp tục chịu đựng sự có mặt của chúng được nữa.
- Lạ thật, thưa batônô,
đã ba chục năm tôi làm việc ở đây mà không hề thấy một con chuột nhắt nào cả!
- Thì tôi có nói đến chuột
nhắt đâu. Chuột cống kia chứ!
- Thế thì lại càng không
có!
- Tôi nói quyết với chị rằng
ở đây đầy chuột cống! - Người bệnh No-2 khăng khăng nhắc lại.
- Giầy của ai đây? - Chị
y sĩ tránh trả lời.
- Của tôi, chị Giênya ạ,
giầy của tôi, tôi muốn ném chết con chuột cống!
- Thế sao bảo là “Không
được sát hại sinh linh”, thưa cha?
- Điều răn ấy không cần
chị giảng giải thêm, mà nói chung, một người phụ nữ ở tuổi chị phải phân biệt
được người với chuột cống! - Người bệnh No-2 bực tức.
- Tuổi của tôi không phải
là chuyện đáng cho cha bận tâm! - Giênya nổi nóng, - Tôi không phải là y sĩ về
chuột cống! Cần thuốc thì nói với tôi, còn về bẫy chuột và Xtricnin thì hỏi thủ
kho!
- Trong phòng chúng tôi
hiện giờ có một nhà văn! Chắc là ông ấy sắp hồi tỉnh, ông ấy sẽ chính mắt nhìn
thấy hết và sẽ đưa các người lên báo! - Bulika đe dọa.
Chị y sĩ tới gần giường
Batsana, ngồi ghé xuống bên giường và bắt mạch cánh tay không còn sức sống của
ông...
- Ôi chao, ông ấy còn hơi
sức đâu mà... - Chị thở dài.
- Làm ơn, mở hộ cửa sổ
ra, ông ấy vừa tỉnh lại và đòi không khí. - Người bệnh No-2 nhớ ra.
...Giênya đứng phắt dậy
khỏi giường đến gần cửa sổ và mở toang cửa.
Không khí tươi mát tràn
trề sức sống, thấm đượm hương thơm hoa phượng tràn vào phòng.
Phòng bệnh ngát hương
thơm mùa xuân.
*
* *
- Đứng dậy, leo lên đi! -
Một giọng rất quen gọi Batsana lúc ấy đang ngồi trên thang, ông đi theo tiếng gọi
ấy. Cái thang đưa ông tới một bãi trống nhỏ nằm lọt giữa những cây phượng nở
hoa, trên bãi rải rác những bông anh túc đỏ như máu. Giữa đám hoa anh túc có một
chú ngựa non trắng như tuyết với cỗ bờm lộng lẫy. Nó nóng nảy giậm một chân trước
xuống đất như gọi Batsana đến với nó.
- Hãy đến cưỡi lên lưng
tôi! - Batsana nghe thấy. Ông cưỡi lên con ngựa, hai tay ôm lấy cổ nó và gục đầu
vào cổ nó. Con ngựa phóng đi. Móng nó không bịt sắt nện vang giòn. Nó lao như
bay, đưa Batsana đến gần ngôi nhà thờ trắng và cất tiếng hí vang, nghe như hàng
nghìn cái chuông lớn nhỏ đổ hồi. Cổng nhà thờ mở rộng và Đức mẹ đồng trinh hiện
ra, tay bế Chúa hài đồng. “Lạy chúa tôi”, - Batsana nghĩ, quỳ xuống...
... Lúc tỉnh lại, Batsana
thấy chị y sĩ mặc áo blu trắng đang đếm mạch ông. Ông cảm thấy máu chảy trong mạch
và ở một chỗ nào đó cạnh tim, nhịp co bóp của tim chậm lại, vấp phải một trở ngại
vô hình. Nhưng máu vẫn dai dẳng mở đường chảy, ép vào các vách tim. Dòng chảy của
máu mỗi lúc một mạnh hơn, nhanh hơn. Bây giờ máu không chảy, mà vỗ đập, phụt
tia, sôi lên, đến nỗi Batsana buốt hai bên thái dương. Nhưng đấy là cái đau
khác, đặc biệt. Và Batsana hiểu rằng sinh mạng đã rời bỏ ông nay lại trở về với
ông, vào trong phòng, đến ngồi xuống giường cạnh ông và chạm vào ngực ông. Tất
cả những cái đó, thoạt tiên Batsana cảm thấy, rồi nghe thấy, rồi nhìn thấy hẳn
hoi.
- Xin chào! - Ông mỉm cười
với sinh mạng đã quay trở lại.
- Chào ông! - Cả chị y sĩ
và hai người bệnh giường bên đều buột thốt lên.
Tiếng “chào ông” đó chứa
đựng tất cả sự bất ngờ, niềm vui sướng, ngạc nhiên.
- Chào các bạn! - Batsana
nhắc lại, mỉm cười với mọi người.
- Ông ấy đã trở về! -
Bulika nói.
- Đã trở về! - Batsana
xác nhận.
- Trước đây ông ở đâu? -
Bulika tò mò.
- Chắc chắn là ở Viflêêm!
- Batsana mỉm cười.
- Hình như bây giờ ông ấy
vẫn ở đấy! - Bulika buồn rầu.
- Ồ không, tôi thực sự đã
trở về rồi! - Batsana nói cho người kia yên tâm.
- Tôi ở đây bao nhiêu
ngày rồi? - Ông hỏi chị y sĩ.
- Một ngày một đêm, - chị
vừa trả lời vừa đặt lại chiếc gối ngay ngắn.
- Cảm ơn.
- Ông thấy trong người thế
nào?
Batsana suy nghĩ. Tim ông
đập không đều, nhưng không yếu lắm: ông nghe thấy tiếng tim mình. Ông động đậy
chân tay, nhưng không cảm thấy thân thể. Ông cảm thấy lâng lâng, thú vị vì một
cảm giác bay bổng tự do. “Chắc hẳn đấy chính là trạng thái không trọng lượng” -
Batsana nghĩ.
- Ông cảm thấy trong người
thế nào?
- Như nhà du hành vũ trụ!
- Batsana đáp, cả quyết như một nhà du hành vũ trụ dày dạn.
- Có khó chịu ở tim
không?
- Hơi đau, nhưng không
đau như ban nãy...
- Tôi biết, - chị y sĩ ngắt
lời ông. - Tôi sẽ tiêm Ghêparin và Pantôpôn cho ông ngay bây giờ. Ngủ đi cho khỏe
sức, đừng nói chuyện, không được cử động... Chiều, giáo sư sẽ đến.
- Không được cử động tí
nào ư?
- Tuyệt đối không!
- Chỉ động đậy một chút
thôi thì sao?
Chị y sĩ nghĩ ngợi, rồi
nói khẽ, nhưng bằng giọng kiên quyết dứt khoát và khốc liệt:
- Ông sẽ chết!
Batsana nuốt nước miếng một
cách khó nhọc. Rồi ông ngoan ngoãn chịu hai mũi tiêm (chị y sĩ lập tức đặt túi
sưởi nóng vào chỗ tiêm) và ông im thít.
- Có gì cứ gọi tôi. - Chị
y sĩ nói với ông. - Còn các ông, - Chị quay về phía hai người kia, - thì uống
xêđuxen và ngủ đi. Tôi cũng có nhận thấy một điều gì đó cả trong các phòng bệnh
khác, nhưng chớ vì thế mà làm náo loạn cả trần gian lên!
Chị đi ra.
- Tôi sẽ kể hết với giáo
sư! - Bulika hét với theo, nhưng chị y sĩ không nghe thấy.
- Ấy là vì trước khi ông
trở lại với thế giới chúng ta, giữa chúng tôi đã có một cuộc tranh cãi nhỏ về
chuột cống. - Người bệnh No-2 giải thích với Batsana.
- Chuột cống nào?
- Nó sắp đến bây giờ đấy,
khi ấy ông sẽ làm quen với nó, Còn bây giờ thì xin phép tự giới thiệu: cha cả của
nhà thờ Ba ngôi tại Ortaisala, Iôram Kanđêlaki, còn đây là bác thợ giày ở Vakê
[Tên cổ của các khu trong thành phố Tbixili],
Aptanđin, cũng còn có tên là Bulika, Gôghilasvili.
- Tại sao lại tên là
Bulika?
- Thuở bé, tôi gọi
“Bulka” [Có nghĩa là bánh mì trắng]
là “bulika”. Vì thế có cái tên nhạo là Bulika. Ông cứ gọi tên tôi như thế cũng
được. - Bulika trả lời.
- Rất hân hạnh... còn tôi
là Batsana Ramisvili, nhà văn.
- Chúng tôi biết rồi,
nhưng vì sao ông bị nhổi máu cơ tim?
- Thú thực là tôi không
thể nói được! - Batsana thở dài.
- Có lẽ ông... Chính cái ấy
chứ gì? - Bulika búng vào cổ họng mình một cách ý vị. - Nghe nói các nhà văn rất
khoái món đó...
- Không, không phải thế
đâu! - Batsana mỉm cười.
- Tịnh không à? - Bulika
ngạc nhiên.
- “Tịnh không” là thế
nào? - Đến lượt Batsana ngạc nhiên.
- Chính vậy đấy!... Không
thì lạ thật: không uống thì viết làm sao được?! Chẳng hạn như ông thì bao
nhiêu?
- Ồ... một, hai, ba...
- Hai ba ly à?
- Hai-ba-chai!
- Tôi biết mà! Cừ lắm!...
Nhưng bây giờ ông sẽ phải tạm chuyển sang nước quả.
- Không phải là tạm, mà
vĩnh viễn! - Cha Iôram thốt lên.
- Nói thế! Như vậy thà tự
sát còn hơn! - Bulika kêu lên.
- Đúng, đổi sang nước quả.
Nếu ông uống nước quả thì sẽ không phải nằm bẹp tại đây! - Cha Iôram nói bằng
giọng dạy đời.
- Thế còn cha? Cha không
uống rượu vang, thế tại sao cha lại nằm cạnh tôi, hả? - Bulika hỏi, mỉm cười
cay độc.
- Vâng, đến phải như vậy
thôi... Nước quả. - Batsana nói.
- Nói chung thì điều đó
đúng... Tôi có quen một nhà văn cũng như ông, tôi chữa giày cho ông ta. Cú mỗi
lần tôi say rượu, ông ấy lại gào lên như con quạ.
Ơi Bulic mến thân, tự
nay nên chừa rượu.
Kẻo rồi khốn vào thân,
hãy tin lời tôi khuyên!
Tôi không tin ông ta, tôi
cho rằng ông ta cũng không bình thường như mọi nhà thơ thôi... Thế là tôi đã đến
nông nỗi này! Tôi mới chưa đầy ba mươi mà đã thành người tàn phế... Quỷ
tha ma bắt nó đi, món rượu vang ấy, - Bulika thở dài, - Đâu đâu tôi mơ thấy những
điếu thuốc lá, như mơ thấy người đẹp!... Nói chung, sau khi bị nhồi máu cơ tim,
thật không muốn sống nữa!...
- Sau khi bị nhồi máu cơ
tim, con người đâm ra sợ, nỗi sợ hãi đáng ghét! Ông có sợ không! - Cha Iôram hỏi
Batsana.
- Sợ chứ, rất sợ là đằng
khác! - Batsana thú nhận.
- Lầm! - Bulika xen vào.
- Hiện giờ ông còn bị tác dụng của thuốc mê, nhưng rồi sẽ qua hết... Thế ông
không mường tượng thấy gì ư? Không mơ thấy ai ư?
- Có, tôi có thấy một người.
- Batsana đáp, sau một lúc suy nghĩ.
- Đấy là chuyện thường xảy
ra... Đôi khi ta còn nói trong lúc mơ... Phun ra hết mọi điều bí mật của ta!...
Nếu có người tình thì phải coi chừng, chớ có gọi tên nàng trước mặt vợ!...
- Cám ơn, tôi sẽ lưu ý. -
Batsana mỉm cười.
- Nói chung, - Bulika nói
tiếp, - người thông minh thì kiếm người tình có tên trùng với tên vợ mình. Như
tôi chẳng hạn, khi tôi lâm vào tình trạng như ông bây giờ, cái trạng thái như
nhà du hành vũ trụ phải không, tôi luôn luôn nhớ đến Xvêta người tình của
tôi... Té ra Xvêta vợ tôi ngồi bên giường và khóc nức nở “Vaimê, Bulik-gian,
tôi không ngờ mình yêu tôi đến thế!”. Tôi cứ huyên thuyên thỏa thích về người
tình của tôi... Nếu phụ danh của hai người đàn bà đó lại trùng nhau nữa thì ông
chồng đúng là sống trên thiên đường! Nhưng có lần tôi vẫn bị hố! Ấy, có cha
Iôram đây làm chứng...
- Sao vậy? - Batsana linh
hoạt hẳn lên.
- Số là trong lúc mê sảng
tôi nói lảm nhảm như sau: “Xvêta-gian, em ạ, trái quả đầu tiên con lợn cái được
hưởng, - con lợn cái là ý nói vợ tôi, - nhưng không sao, nếu nhờ trời anh ra được
khỏi đây thì anh sẽ cưới em làm vợ!”. Nghe những lời như thế, vợ tôi khóc toáng
lên và đâu như còn đập đầu vào chiếc giường bây giờ ông đang nằm, hồi ấy giường
bỏ không. “Vaimê, Bulika của tôi lẫn hẳn rồi, thậm chí không nhớ cả lễ cưới của
chúng tôi!”. Giá mà bà ấy biết lúc ấy tôi hoàn toàn tỉnh thì nguy tai!... Thế đấy!...
Bulika đột nhiên dứt lời
và nhìn Batsana chằm chằm. Batsana nằm nhắm mắt, vẻ khoan khoái hiện rõ trên mặt
và thở đều đều, bình tĩnh.
- Chà, con người kỳ lạ
làm sao, ông ta đi đến nơi ấy và quay trở lại nhanh chóng quá chừng! - Bulika
nói với cha đạo bằng giọng giận dữ.
- Hãy để ông ấy yên, đấy
là do tác dụng của Pantôpôn... Để ông ấy ngủ.
Còn Batsana xuyên qua màn
sương mù màu hồng, xuống cái thang dốc quen thuộc, nhưng lần này ông cảm thấy
rõ rệt mình lên mỗi lúc một cao...
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét