Con Bim trắng tai đen
Tác giả: Gavriil Troyepolsky
Dịch giả: Tuân Nguyễn - Trần Thư
Nhà xuất bản Văn Học - 2012
(Theo bản in của NXB Cầu Vồng - Moskva -
1989)
Chương 8
Chuyện xảy ra nơi ghi tàu
Ngày này nối tiếp ngày
khác qua đi, Bim cũng chẳng để ý nữa. Nó thường xuyên chạy quanh thành phố và
hiểu rất tỉ mỉ về thành phố này. Bây giờ nó đi theo một lộ trình đã định, ai biết
thì có thể xem Bim mà vặn lại đồng hồ. Nó xuất hiện ở công viên: năm giờ. Đến
nhà ga: sáu giờ. Sang nhà máy: bảy rưỡi. Lên đến đại lộ: mười hai giờ. Sang bờ
hữu ngạn: bốn giờ chiều. Và vân vân.
Nó đã tìm thêm được một số
bạn mới trong đám người kia. Nó xác định rằng đại bộ phận họ là người tốt, đi
đường họ im lặng, còn loại người xấu thì bao giờ cũng lắm lời. Nó tìm thấy cả
những người có mùi dầu mỡ và sắt thép (trước đó nó chỉ gặp họ lẻ tẻ từng người
một). Những người đó hằng ngày vào lúc gần tám giờ đã đi thành dòng dày đặc qua
một cái cổng lớn, rồi qua cánh cửa của một chòi gác vào bên trong.
Đến đây họ nói cười ríu
rít như đàn sáo, đến nỗi đừng hòng nghe hiểu được cái gì, vả lại cái đó cũng chẳng
làm Bim quan tâm. Nó ngồi tránh ra khỏi dòng người, quan sát và chờ đợi.
- Ê, Tai đen, chào nhé! -
Sáng nào cũng có cậu thanh niên mặc quần áo bảo hộ chào hỏi Bim và đặt trước mặt
nó một gói thức ăn để dành. - Còn sống đấy hả, chú nó? -
Rồi chìa bàn tay hiền từ của mình,
bàn tay thô thiển, nhưng ấm áp.
Những người khác cũng im
lặng đưa bàn tay ra chào nó, xong lại vội bước đi tiếp. Ở đây không một ai trêu
chọc Bim.
Giờ đây Bim đã dần dần học
được cách phân biệt người thành từng loại. Chẳng hạn trên quãng đường nó đi qua
vẫn thường gặp một bà béo ị, hai chân như hai cái vại, nom lúc nào cung có vẻ
mãn nguyện, phởn phơ, sung sướng hiện ra mặt; nhưng cứ gặp Bim là bà lại phì
phì như mèo, nhổ toẹt, nhấc cái túi mua hàng lên ngang bộ ngực phì nộn và lần nào cũng nhai
đi nhai lại vẫn một điều:
- Xì, cái của bẩn thỉu!
Sao không bóp chết hết cái giống chó này đi để người ta khỏi bị thần kinh căng
thẳng nhỉ? Đấy, cứ bảo “cảnh sát của dân bảo vệ dân”. Ôi dào ôi! Bảo với chẳng
vệ!... Thì đây này, giữa ban ngày ban mặt, con chó đực nào cũng có thể lột váy
người ta ra dễ như bỡn. Cảnh sát là
cái quái gì? Đối với cảnh sát chúng ta chỉ như là cái chân thứ năm đối với con
chó mà thôi.
Căn cứ vào chỗ bà ta luôn
luôn lặp đi lặp lại vẫn những lời như vậy nên Bim, với đầu óc đơn giản của chó,
đã cho rằng bà béo này tên là Chân Thứ Năm. Nhưng nó biết rất chính xác: cái bà
này thì chớ có mà đến gần. Nó chẳng hiểu quái gì lời lẽ của bà ta ngoài cái tên
bí danh kia, nhưng nó nghe giọng, nhìn vẻ, cho nên đã đề ra cho mình một quy tắc:
những loại người ấy thì kính nhi viễn chi, chớ có dây vào. Rồi, chẳng rõ bằng
cách nào (bằng tài đánh hơi chăng?) nó bắt đầu phân định được đối với ai thì có
thể quan hệ, còn với ai nên tránh xa. Những người hiền chiếm tuyệt đại đa số, kẻ
ác chỉ là số nhỏ, thế nhưng những người hiền thì lại sợ kẻ ác. Bim thì không,
nó không sợ, nhưng nó chẳng hơi đâu để ý đến họ. Nhận thức về con người ngày
càng được mở rộng và sâu sắc, nhưng theo quan điểm của chó thì giờ đây nó không
còn có vẻ gì một anh chàng nghệ sĩ nghiệp dư hào nhoáng và một kẻ nhìn đời bằng
con mắt lý tưởng, sẵn sàng vẫy đuôi với bất cứ người qua đường nào. Thời gian
cuối này Bim gầy đi nhiều, nhưng ra dáng một con chó chững chạc và sống có mục
đích: tìm và đợi.
Thế rồi một buổi sớm, kiểm
tra các mùi trên hè đường, Bim mừng rỡ sững sờ cả người. Nó dừng lại, khịt khịt
rồi ù té chạy như hóa dại, không biết trời đất là gì nữa, và cũng chẳng nhìn ra
đằng trước. Nhưng đứng ngoài trông thì có thể tưởng thế thôi, trên thực tế là
nó chạy theo một dấu vết còn mới: Đasa đã đi qua đây! Cô chỉ vừa mới ở đây
xong.
Dấu vết dẫn nó tới nhà
ga. Không tài nào vào được bên trong: toàn người là người, người bất tận. Ngay ở
ngoài phố, bên một ô cửa con con nọ, họ xô đẩy nhau, hò hét, thở hổn hển, khóc
rống lên chẳng khác gì những bầy chó săn đã đuổi sát nút con thỏ, vồ nó, rồi xé
tan ra từng mảnh, không còn để ý gì đến tiếng roi và tiếng tù và nữa. Trong điều
kiện ấy, có tài thánh mà tìm thấy được vết chân Đa sa - dấu vết đã mất hút. Thế
là Bim chạy vòng lên phía trên vào được sân ga. Ở đây người đứng túm năm tụm ba
bên những cửa ra vào của những ngôi nhà nhỏ, dài dằng dặc, có bánh xe. Họ không
gào thét, không xô đẩy nhau, ngược lại họ ôm nhau, hôn hít, có chỗ lại còn nhảy
múa nữa, ngay bên cạnh cửa nhà. Không ai để ý đến Bim, do đó nó càng dễ bề chạy
xuôi chạy ngược như con thoi, len lỏi dưới chân mọi người và chăm chú đánh hơi
khắp sân ga.
Bất chợt đến cạnh một cửa
nhà nó ngửi thấy hơi Đasa. Bim vươn cổ vào bậu cửa, nhưng một bà đeo huy hiệu
to ở ngực đuổi nó ra. Dù sao thì Bim cũng không chịu đầu hàng: nó nhòm vào
trong ô cửa sổ và đánh hơi. Cuối cùng Bim để ý thấy có hai người đàn bà mặc áo
choàng trắng đi cuối cùng vào căn nhà đó. Nó chực nhảy bổ tới họ nhưng bỗng
dưng những ngôi nhà đó từ từ di động. Bim xô đến chỗ cửa sổ. Trong trí khôn của chó nẩy
ra những kết luận có vẻ như hoàn toàn đúng: Đasa ở trong đó, những người mặc áo
choàng trắng cũng ở đó, tất có thể Ivan Ivanưts cũng ở đó. Có lẽ là thế! Chẳng
phải những người mặc áo choàng trắng đã đưa ông đi đó sao?
Thế là Bim, con Bim khốn
khổ, và bây giờ đã thành con Bim bất hạnh, ban đầu còn dễ dàng chạy sóng đôi với
gian nhà nhỏ, nhòm được vào ô cửa sổ kia. Bất chợt từ trong đó Đasa nhìn thấy
nó.
- Bim! Bi-im!! - cô kêu
lên. - Bim thân yêu! Nó ra tiễn tôi! Con Bim ngoan ngoãn của tôi! Bim! Bim
ơ...i! Bi-i...
Tiếng gọi của cô mỗi lúc
một nhỏ dần. Ngôi nhà chạy đi xa. Và Bim cố đến mấy, gắng sức đến mấy cũng vẫn
bị bỏ lùi lại, tụt tít đằng sau.
Nó còn chạy được thêm một
lúc nữa theo hút gian nhà cuối cùng cho đến khi không còn trông thấy nữa, lại
chạy tiếp, vẫn theo con đường đó, bởi vì con đường đó không ngoặt rẽ vào đâu cả.
Chạy rất lâu. Cuối cùng kiệt sức đứt hơi, nó gục ngay xuống giữa đường ray, duỗi
thẳng bốn chân ra, thở hồng hộc và rít lên khe khẽ. Không còn tí hy vọng nào.
Chẳng muốn đi đâu cả và có muốn thì cũng chẳng đi được nữa. Chẳng muốn cái gì hết,
ngay đến sống cùng chẳng muốn.
Khi nào chó đã mất hết hy
vọng, chúng sẽ chết một cách rất tự nhiên: lặng lẽ, không rên rỉ, chết trong những
đau khổ mà thế gian không biết được. Không phải công việc của Bim là phải hiểu,
vả lại nó cũng không có khả năng hiểu được rằng nếu trên đời này hoàn toàn
không còn hy vọng gì nữa, một tia bé nhỏ cũng không, thì ngay con người cũng sẽ
chết vì tuyệt vọng. Đối với Bim mọi cái đó có vẻ đơn giản hơn nhiều: trong bụng
rất đau đớn, mà ông bạn thì chẳng thấy đâu, và thế là hết. Như con thiên nga
sau khi mất đi con bạn đời yêu dấu cũng chết theo bằng cách bay bổng lên cao rồi
buông mình rơi xuống như cục đá. Như con sếu, sau lúc con sếu cái duy nhất và
thương yêu của nó chết, nó cứ duỗi thẳng cánh nằm sóng soài ra mà kêu, kêu mãi,
như cầu xin chị Hằng cho được chết. Bim lúc này cũng như vậy: nó nằm dài, trong cơn mê sảng nó trông thấy người bạn duy nhất,
không gì thay thế nổi, nó sẵn sàng tiếp nhận tất cả vì bạn, cho dù chưa ý thức
được gì về sự sẵn sàng ấy. Nhưng giờ đây nó im lặng. Trên thế gian chưa một ai
nghe được con chó hấp hối như thế nào. Nó lẳng lặng mà chết.
Chao ôi, giá lúc này Bim
được vài hớp nước. Có lẽ nó sẽ không bao giờ còn đứng lên được nữa, nếu như...
Một người đàn bà bước đến.
Chị mặc áo bông, quần bông, đầu chít khăn, dáng người khỏe mạnh, lực lưỡng. Chắc
là thoạt đầu chị tưởng Bim đã chết - chị quỳ xuống, cúi đầu, ghé tai nghe
ngóng: Bim vẫn còn thoi thóp. Từ ngày chia tay bạn đến giờ nó đã yếu đi biết
bao nhiêu, lẽ ra nó chẳng nên lao vào cuộc chạy đua với đoàn tàu như vậy, đó là
một hành động điên rồ. Nhưng trong những trường hợp như thế nói làm gì đến chuyện
sáng suốt, ngay cả ở con người.
Người đàn bà lấy tay đỡ đầu
Bim lên:
- Chó ơi, mày làm sao thế? Duyên cớ gì, hả Tai Đen? Mày chạy theo ai mà khốn
khổ thân mày thế này?
Người phụ nữ nom vẻ hơi
thô thiển này có giọng nói điềm đạm và ấm áp. Chị chạy xuống vệ đường, mang nước
lên đựng trong chiếc găng tay vải bạt, đến nâng đầu Bim, lấy cái găng nước, thấm
ướt mõm nó. Bim liếm nước. Rồi nó lắc lư cái đầu, mệt mỏi, vươn cổ và liếm nước
một lần nữa, rồi bắt đầu hớp. Người phụ nữ vuốt ve lưng nó. Chị đã hiểu hết: có
một người thân yêu nào đó đã ra đi mãi mãi, mà điều này thật khủng khiếp, nặng
nề đến rợn người. - Tiễn đưa nhau không bao giờ gặp lại, khác gì đi đưa đám người
còn sống!
Chị thổ lộ gan ruột với
Bim:
- Tao cũng vậy thôi...
Tao cũng đã đưa chân cả bố cả chồng tao ra mặt trận. Mày thấy đấy, Tai Đen ơi, tao trở
về già rồi... nhưng vẫn không sao quên được... Tao cũng đã từng chạy theo
tàu... cũng từng ngã gục xuống... và cầu mong được chết quách đi cho xong...
Mày ngoan lắm... Uống đi!... Khốn khổ thân mày... Uống nữa đi!
Bim uống gần hết nước
trong găng tay. Lúc này nó nhìn thẳng vào mắt chị và tin ngay: đây là người tốt.
Và nó liếm, liếm bàn tay thô kệch, nứt nẻ của chị, liếm những giọt nước trào ra
từ khóe mắt chị. Thế là lần thứ hai trong
đời, Bim đã được biết mùi vị nước mắt người: Lần đầu tiên là những giọt nước mắt của chủ, và
bây giờ là những giọt nước mắt này đây, những giọt nước mắt trong suốt, long
lanh ánh mặt trời, mặn chát nỗi đau khôn nguôi.
Người đàn bà bế nó lên và
đưa nó qua mặt đường tàu xuống vệ đường.
- Nằm xuống đây, Tai Đen nhé! Nằm đây. Tao sẽ quay lại.
Chị đi về phía có mấy người
phụ nữ đang hì hục đào trên đường. Bim đưa mắt lờ đờ nhìn theo bóng chị. Nhưng
rồi nó gắng sức ghê gớm cố đứng dậy, lảo đảo bước dò dẫm theo gót chị. Thấy vậy,
chị dừng lại đợi nó. Lết lết đến nơi, nó nằm ngay xuống trước mặt chị.
- Chủ bỏ hả? - Chị hỏi. -
Chủ đi rồi à?
Bim thở dài. Thế là chị
hiểu.
Cả hai cùng đi đến chỗ tốp
người đang làm việc. Mọi người ở đây đều là phụ nữ, ăn mặc cũng như Người Tốt Bụng,
và cạnh đó có một ông, đội mũ ngửa ra sau gáy, mồm ngậm một cái tẩu. Ông ta bực
tức hỏi:
- Sao cứ quấn lấy con chó
thế hả, Matrena? Thế thì ai làm thay cho bây giờ? Chà, Matrena, cô thật là... Để
nói một lần thôi chứ, Matrena! - Rồi ông ta vẫy vẫy ngón tay về phía chị.
Bim bắt ngay được ý: Người
Tốt Bụng - đó là Matrena. Chị lệnh cho nó nằm xuống bên vệ đường. Còn chị thì
nhấc lên một vật gì như cái kìm to tướng, kẹp chặt lấy thanh tà vẹt cùng với những
người phụ nữ khác.
- Hai ba nào! - ông kia
hô lên. - Làm lại! Lại lần nữa! - Ông
ta quát tháo, tay chống nạnh, mặt vênh vênh tự đắc.
Cứ mỗi lần ông ta
quát tháo, đám phụ nữ lại nhất loạt giật mạnh một cái làm cho khúc gỗ bị cặp chặt
hai bên cũng phải tuân theo và dịch dần theo sau họ. Mỗi lần giật mạnh như thế
mặt các chị lại căng thẳng, đỏ bừng lên, riêng một chị gầy còm, ốm yếu, thì tái
nhợt đi, thậm chí tái xanh. Matrena lấy tay gạt chị ra và nói với chị, hệt như
ông chủ Bim đã có lần xua nó:
- Tránh ra, ngồi nghỉ đi
một tí, hay lại muốn nộp mạng cho Chúa đấy! - Rồi chị quay sang gã đàn ông: -
Thôi nào, hô lên chứ, đồ phản đạo!
- Hai ba lên nào! - Sửa lại
mũ bịt tai, lão tiếp tục gào rống, làm ra bộ mệt nhọc lắm.
- Ôi, lần nữa nào, các mẹ
ơi! Lão nhà tôi đi Kapkazơ rồi! Lão ấy không đi tới Kapkazơ! Lão ấy lấy vợ lẽ ở đấy rồi, cái đồ
thổ tả sinh bệnh ấy! Thôi! Bỏ dụng cụ xuống!
Cái tiếng “sinh bệnh” đã
có lần Bim nghe thấy lão Mũi Hớt thốt ra: cái tiếng ấy là xấu. Còn những tiếng
kia thì nó không hiểu.
Cánh đàn bà bỏ kìm xuống bên, cầm những
cái nêm bằng sắt lên rồi dùng búa cán dài và nặng mà bổ xuống. Matrena nhẹ
nhàng, cứ như chơi, bổ ba nhát là đóng chặt được nêm xuống đất, còn Chị Gầy cứ
mỗi lần nện búa xuống lại kêu lên, rên rỉ:
- Úi chà! Úi chà!
- Thôi nào! Thôi nào! -
Gã Sinh Bệnh vừa quát tháo, vừa nhồi thuốc vào tẩu. - Bắt tay vào! Nào! Anixia
kìa! - Gã đến gần người đàn bà. - Giơ cao tay lên mà nện! Thu tay lại một tí nữa
nó mới dễ cắm xuống chứ.
Anixia là Chị Gầy. Chị ta
cứ loay hoay với từng cái nêm, lâu hơn những người khác và cuối cùng chị đã bị
rớt lại một quãng. Đến đây đã diễn ra một chuyện kỳ lạ, khó hiểu đối với cánh
đàn bà: Bim tiến lại gần Anixia, dáng điệu phờ phạc, rồi cũng giống như đối với
Matrena, nó liếm vào đôi găng tay bạt mặn chát của chị. Mọi người đều ngừng tay, ngạc nhiên nhìn Bim.
Sau đó, được lệnh của gã
Sinh Bệnh, tất cả ngồi tản vào các bụi rậm và giở bữa trưa ra ăn. Họ cho cả Bim
ăn. Nó ăn. Giờ thì nó đã chịu nhận đồ ăn từ tay những người tốt. Cái đó đã cứu nó sống. Đến
chiều, nó thấy nóng ruột: nó đi tới bên Matrena, ngồi xuống, uể oải giậm giậm
hai chân trước, nhìn thẳng mắt chị, rồi lại lảng ra xa, nằm xuống, nhưng ngay
sau đó lại đến gần, rồi lại lảng đi.
- Muốn bỏ đi hả, Tai Đen?
- Matrena đoán hiểu. - Thế thì đi đi, đi đi, Tai Đen. Tao biết để mày đâu bây
giờ? Chả có chỗ nào! Thôi đi đi vậy!
Bim từ biệt và ra đi, lững
thững bước một, không ra kiểu chó chút nào. Nó đi ngược trở lại, dọc con đường
sắt. Đường là đường, nó chỉ rõ đâu cần đi, nếu đi đúng hướng thì sẽ không bao
giờ sợ lạc. Chỉ có điều là toàn thân ê ẩm vì trận đòn hôm qua của Lão Xám, chân
bước đi mà miệng thở không ra hơi, - nhưng biết làm sao được! Cần phải đi. May
mắn là đã được những người đàn bà tốt
bụng kia bồi sức cho rồi, và cái lối mòn bên đường lại bằng phẳng, nhẵn nhụi. Dần
dần quen chân, nó từ từ, từ từ chuyến sang nước kiệu. Chó là giống dễ nuôi và
có sức sống dẻo dai như vậy đấy!
Nhìn bề ngoài thì chẳng
thấy gì đặc biệt cả: một con chó ốm yếu chạy đủng đỉnh trên đường sắt. Có thế
thôi.
Gần đến thị xã thì đang một đường hóa thành
hai: thêm một đôi thanh sắt nữa dài vô tận chạy song song bên cạnh. Rồi chúng
hóa thành ba. Tới cách cái chòi một quãng thì bỗng có hai con mắt đỏ lừ thay
nhau nhấp nháy: trái, phải, trái, phải - liên tục bên này rồi bên kia. Màu đỏ đối với mọi con thú là
màu đáng ghét; chẳng hạn như chó sói trông thấy dãy cờ đỏ buộc trên dây là bủn
rủn cả bốn chân rồi, còn lũ chồn mà bị dây cờ đỏ bao vây thì nó đành ở lại
trong vòng hai - ba ngày hoặc hơn nữa. Vì vậy Bim quyết định đi vòng, tránh đôi
mắt to tướng đang nhấp nháy kia. Nó bước sang đường ray thứ ba, đứng dừng lại,
ngoái nhìn con mắt đỏ đang nháy mà lưỡng lự xem có nên đi tiếp hay không. Nhưng
rồi bỗng dưới chân có cái gì đó kêu ken két.
Bim rú lên vì cơn đau xé
ruột. Không làm sao rút được chân ra khỏi đường ray: chân nó đã bị kẹp chặt giữa đường ghi khổng lồ. Tiếng
rú của Bim chỉ có thể hiểu ra một nghĩa: “Ối giời ơi, đau quá! Cứu tôi vơ-ới”.
Quanh đấy không có người.
Chẳng ai có lỗi cả. Dứt đứt chân mình như con sói có lúc đã làm khi bị sa vào cạm
thì Bim chịu, không làm nổi. Nó trông chờ sự giúp đỡ, nó hy vọng người sẽ cứu
nó.
Nhưng lại còn cái gì nữa
thế này? Có hai con mắt trắng to tướng, sáng rực, chiếu xói vào mặt đường và
vào Bim, làm nó lóa cả mắt, và cứ xích dần dần đến nó, lừ lừ chẳng nói chẳng rằng.
Bim co dúm lại vì đau đớn và khiếp sợ Trong linh tính trước tai họa nó tự nhiên
im bặt. Nhưng rồi con vật khủng khiếp có đôi mắt ấy đã đứng dừng lại cách nó chừng
ba chục bước. Từ trong bóng đêm có người bước đến khu vực được chiếu sáng và chạy
lại chỗ Bim. Lập tức xuất hiện người thứ hai.
- Sao mày lại sa vào đây.
Khổ chưa. - Người thứ nhất hỏi.
- Làm thế nào bây giờ? -
Người thứ hai hỏi người thứ nhất.
Từ người họ tỏa ra mùi gần
giống như ở người lái xe. Cả hai đều đội mũ lưỡi trai, trên đính huy hiệu to tướng.
- Chúng mình sẽ ốm đòn vì
cái cú đỗ tàu này đây, mặc dù là ta đã về sát đến ga rồi. - Người thứ nhất nói.
- Đến nước này thì cũng
đành, - người thứ hai đáp và đi vào cái chòi.
Căn cứ vào giọng (chứ
không vào lời) con Bim khốn khổ của chúng ta đã hiểu: đây là những người cứu
tinh của nó. Bim nghe thấy tiếng chuông réo lên trong nhà chòi, sau đó một phút
thì ghi đường đã nhả chân nó ra. Nhưng nó không nhúc nhích được, người nó cứng
đờ. Một người ôm nó đưa ra khỏi đường ray. Bim xoay xoay người tại chỗ, kiểu
sói, liếm đi liếm lại những ngón chân bị kẹp. Tuy nhiên nó vẫn nghe thấy tiếng
nói vọng ra từ trong các ô cửa sổ và từ chỗ cửa ra vào của đoàn tàu (Thế mới biết
giống chó tài quan sát thật). Trong bóng tồi, nhiều giọng nói khác nhau nhắc đi
nhắc lại tiếng “chó” và “chó săn” - những tiếng rất dễ hiểu. Giờ đây, không bị
quáng mắt nữa, nó đã nhìn thấy đoàn tàu nhô ra từ trong bóng tối, phía bên sườn
nó.
Bim rất biết ơn những con
người hiền lành tốt bụng ấy. Duyên do là: ở một chỗ nào đó có một ai đó đã bẻ
ghi con đường trên đó Bim đang đi một cách tin cậy. Và bây giờ đây chẳng có “một
ai đó” nào hơi đâu để ý đến chuyện một con chó nào đó bị kẹt chân vào ghi,
thành què. Từ nay có cho kẹo Bim cũng không bao giờ đặt chân lên đường sắt nữa;
nó hiểu điều ấy cũng như hồi bé nó đã hiểu: đâu có ô tô chạy thì chớ đi qua.
Bim chạy tập tễnh bằng ba
chân, nhức nhối. Nó phải dừng lại luôn, liếm những ngón chân tê dại đang sưng
vù lên. Máu dần dần bớt rỉ ra. Bim vẫn liếm hoài cho đến khi những ngón chân
không ra hình thù gì nữa ấy trở nên sạch bong. Làm như vậy rất đau đớn, nhưng
còn có cách nào khác? Con chó nào cũng biết: đau thật đấy, nhưng ráng mà chịu,
đau đấy, nhưng ráng mà liếm, đau đấy, nhưng ráng mà im lặng.
... Nó tập lệnh về đến cửa
nhà thân yêu của nó lúc đã quá nửa đêm. Không có gì! Vẫn không có dấu vết của
Ivan Ivanưts. Bim định cào cào vào cửa như mọi lần, nhưng không tài nào làm được:
chân đau, đứng đã không được, ngay đến ngồi cũng không chịu nổi, - chỉ mỗi cách
là đứng bằng ba chân hoặc nằm sóng soài. Lúc này nó rúc mũi vào góc cửa kiểm tra lại mùi bên
trong phòng: ông chủ không có đây. Vậy là ông ta đã đi biệt rồi.
Nó đứng như thế hồi lâu,
lấy đầu làm chỗ dựa cho toàn thân yếu đuối của mình. Rồi nó quay sang cửa phòng
bà Xtêpanôvna, và trong giây phút tuyệt vọng, nó kêu to lên một tiếng ngắn gọn:
“Gâu!” (Tôi ở đây).
Bà Xtêpanôvna thốt lên:
- Ôi chao, lạy Chúa tôi! Mày đi đâu mà bị thế kia! -
Bà mở cửa cho nó vào, rồi cũng đi theo vào phòng - Trời ơi, con chó, con chó bất
hạnh, tao biết làm gì cho mày bây giờ? Sẽ nói thế nào với Ivan Ivanưts đây?
Bim mới vừa đặt mình nằm
xuống giữa phòng, duỗi chân ra, nhưng... thế là thế nào? “Ivan Ivanưts à?”. Bim
ngửng đầu cố quay về phía bà và nhìn bà, nhìn bà chằm chằm, không rời mắt, ý muốn
hỏi: “Ivan lvanưts à? Ông ấy ở đâu?”.
Bà Xtêpanôvna không biết
cách đối xử với chó, không biết cho ăn uống và chăm nom nó, mặc dù vậy bà biết
thương. Có lẽ cái tình cảm thương xót đã giúp cho bà hiểu được Bim, đoán ra được
rằng tiếng “Ivan lvanưts” đã gợi lên trong lòng con chó một tia hy vọng.
- Phải, phải, Ivan
Ivanưts, - bà nhấn mạnh. - Đợi tí, tao trở lại ngay. - Bà hấp tấp đi ra, rồi lập
tức quay trở lại với lá thư trong tay, gí tận mũi cho nó ngửi: - Mày thấy chưa?
Ivan Ivanưts thư về đấy.
Bim, con chó Bim tội nghiệp,
đã chết đi sống lại, bị nghiến nát rồi được cứu thoát, ốm đau và không còn mảy
may chút hy vọng, con Bim ấy run lên. Nó gí mũi vào lá thư rồi đưa lên mũi lần
theo mép giấy: đúng, đúng, đúng rồi... Chính ông ta đã miết ngón tay lên phong bì ở
chỗ này chỗ kia. Khi bà Xtêpanôvna cầm phong thư dưới sàn lên, rút ở trong ra một
lá thư, Bim gắng gượng đứng dậy và xích lại gần bà; bà rút tờ giấy trắng tinh
ra ngoài phong bì, đặt xuống trước mặt Bim.
Nó vẫy đuôi mừng: ở đây
có mùi các ngón tay Ivan Ivanưts. Đúng, ông đã cố ý cọ ngón tay vào đó.
- Ông ấy gửi thư cho mày
đó, - bà Xtêpanôvna nói. - Ông ấy đã viết thế này: Đưa cho Bim tờ giấy trắng
này. - Bà ta
chỉ trỏ sát vào tờ giấy và nói: - Ivan Ivanưts... Ivan Ivanưts đấy.
Bỗng dưng Bim bủn rủn nằm
phục xuống sàn và vươn dài người ra, đặt đầu lên tờ giấy. Từ trong khóe mắt nó lăn ra những
giọt nước mắt. Lần đầu tiên trong đời Bim khóc. Đó là những giọt nước mắt hy vọng,
nước mắt sung sướng, và tôi xin nói với các bạn rằng đó là những giọt nước mắt
đẹp nhất trên thế gian này, không kém gì những giọt nước mắt của niềm vui gặp gỡ
và hạnh phúc.
Bạn đọc thân mến, có Chúa
chứng giám, xin hãy tin tôi: Giống chó Setter biết cười và biết khóc đó.
...Bà Xtêpanôvna bắt đầu hiểu con chó, nhưng bà cũng thấy rằng mình bà thì
không thể cáng đáng được, không làm gì được. Bà ngồi cạnh Bim rất lâu và ngẫm
nghĩ về cuộc đời mình. Bà đâm ra muốn về quê sống, về nơi bà sinh ra và lớn
lên, và bà cảm thấy buồn phiền vì phải sống trong cái lồng bằng đá này, nơi những
con người hàng bao nhiêu năm cùng sống chung một nhà, cùng ra vào một lối cổng,
mà lại không hề quen biết nhau. Dù sao bà vẫn còn đoán ra là cần cho Bim uống
nước.
Ôi chao, con chó khát nước
quá!
Nó đứng khom khom, uống lấy
uống để, làm bắn vung ra sàn, rồi sau đó lại về nằm giống như lúc đầu. Bim lim
dim mắt, dường như thiếp đi.
Trước lúc trời sáng, bà
Xtêpanôvna đi ra, chân bước nhẹ cứ như sợ làm mất giấc của người đang ốm nặng.
Ở giữa phòng chỉ còn một
mình con chó nằm cô đơn.
Bim đã ngủ được bao lâu,
nó cũng chẳng hay: có thể chỉ vài tiếng đồng hồ, nhưng có khi đã mấy ngày rồi
cũng nên. Vì cái chân nhức nhối mà nó đã thức dậy. Lúc này là ban ngày bởi vì
có nắng chiếu vào. Mặc dù đau, nó vẫn nhớ ngửi tờ giấy. Hơi của chủ đã nhạt đi
nhiều và chỉ còn thoang thoảng, nhưng cái đó đâu có quan trọng nữa. Cái chính
là ông vẫn còn sống, đang ở đâu đó, vì vậy phải đi tìm. Bim đứng dậy, uống một
hơi hết chỗ nước trong bát rồi đi cà nhắc khắp phòng bằng ba chân. Đau thì đau,
nhưng nó cứ đi, cứ đi, đi từ trong phòng ra ngoài hành lang và ngược lại, đi
loanh quanh trong phòng. Bản năng của nó mách nó: nêu nằm nghiêng một bên mà vẫn
đau, thì phải đi lại. Không bao lâu nó đã quen được cách di chuyển mà không làm
cái chân giập nát bị đau đớn. Chỉ cần khe khẽ nâng cao bàn chân bị đau lên, chứ
đừng kéo lê trên sàn nhà - làm thế thì đỡ đau. Đến khi bà Xtêpanôvna đem thức
ăn sang, con chó đã vẫy đuôi mừng bà, rồi ăn hết thức ăn. Sao lại không ăn nhỉ khi niềm hy vọng đã hiện ra và đã lại nảy nở
trong đầu con chó hai tiếng kỳ diệu: “Tìm” và “Đợi”.
Mặc cho nó có van nài hay
cầu xin thế nào đi nữa, bà Xtêpanôvna vẫn không thả nó ra ngoài (Ngồi nhà thôi,
mày đang ốm).
Rút cuộc rồi bà cũng hiểu
ra rằng Bim là một thực thể sống cho nên cần phải cho nó đi ra ngoài giải quyết
những việc cần thiết. Rõ ràng là bà ta không biết đã có trường hợp chó bị chết
vì đứt ruột hoặc bị táo bón nếu quá ba ngày mà không được thả. Những trường hợp
như thế không phải là hiếm.
Tình thương lớn lao đầy
tính người và tấm lòng phúc hậu đã chỉ đạo bà trong suốt cuộc đời. Chỉ vậy
thôi. Bà móc sợi dây da vào vòng cổ Bim rồi bước ra. Và Bim tập tễnh đi bên cạnh.
Ngoài sân, ở một góc xa
xa, có một đôi đang đứng: một bà lão đầu bạc và một con chó gầy còm chân thọt, - bức tranh là như thế đó.
Bọn trẻ ở trong cổng chạy
ra, vội vã đến trường. Một số trong bọn chúng chạy lại hỏi:
- Bà ơi, bà, sao con Bim
lại đứng ba chân thế hả bà?
Hoặc là:
- Bim ơi, mày bị đau hả?
Nhưng phải chạy đến trường
thôi: đó là trách nhiệm lớn lao, - đi học là trách nhiệm đầu tiên trong đời -
trước gia đình, trước thầy cô, trước chúng bạn. Do vậy mà chúng không dám nán lại
lâu, đành phải chạy đi. Sự kiện này hóa ra rất quan trọng cả đối với bà
Xtêpanôvna, cả đối với Bim, mặc dù lúc này cả hai đều không hề hay biết gì, chỉ
biết quay trở về nhà vì thời gian đã hết.
Ông Pantitưts (Paven
Titưts Rưđaep) gặp cả hai ngay ở cổng ra vào và quay sang nói với bà:
- Nghĩa là thế này, bà
ơi! Con chó đực này là con chó quý giá, nó phải được trông nom cẩn thận. Một
khi chủ nó đã ủy nhiệm cho bà, thì tôi khuyên bà: Phải xích nó lại. Bắt buộc phải
thế. Không nó chạy mất đấy. Bà không canh nó được đâu. Nhảy ra khỏi cửa là nó
đi mất, thế là xong đời!
- Chả lẽ con chó khôn
ngoan thế này mà lại phải xích lại ư? - Bà Xtêpanôvna phản đối một cách không tự
tin.
- Làm sao, lại còn phải dạy
khôn bà nữa
ư? Nên nhớ rằng: vắng chủ, lại không bị xích nữa. Khi chó đực đánh hơi thấy được
tự do, thế là xong đời!
- Nhưng bị xích thì nó sẽ
phát khùng lên mất.
- Bà phải hiểu chứ, bà tối
dạ quá! Nó khùng nhưng sẽ giữ được cái mạng, xích lại, xích nó lại, đấy là lời
chỉ dẫn của tôi cho bà biết. Tôi nói điều mong muốn tốt lành đấy. Phải xích lại!
Bà Xtêpanôvna không thể
không tuân theo đề nghị của ông tổ trưởng được, bà đã bỏ ra mười rúp để mua sợi xích và mỗi lần
ra sân bà dắt nó đi. Nhưng khi về nhà bà lại tháo xích ra, vứt trong góc nhà.
Bà Xtêpanôvna ranh mãnh thật: sói mà no thì đàn cừu nguyên vẹn. Vả lại bản thân
bà chỉ phải đưa nó đi hai ba lần trong ngày thôi, nguyên nhân của việc làm này
là do có nhiều sự kiện bất bình thường luôn xảy ra quanh cái tên con Bim này.
------------
Còn
tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét