Các chủ tịch KGB - Những hồ sơ lộ sáng
Tác giả: Leonid Mlechin
Dịch
giả: Hùng Sơn
NXB Lao Động - 2001
Chương IV
Nicolai Ivanovich Ejov
Dân ủy Nội vụ (9/1936 -
11/1938)
Nhà văn nổi tiếng Lev
Emanuilovich Razgon là người đã từng quen biết N.I.Ejov. Razgon đã từng bị đi cải
tạo nhưng sống sót. Ông là con rể của I.M.Moskvin - một cán bộ cao cấp của
Trung ương Đảng, cuối những năm 30 phụ trách công tác cán bộ, và Ejov làm trợ
1ý cho ông.
Nhà văn L.E.Razgon kể:
- I.M.Moskvin đã từng
công tác ở Lêningrad thời kỳ Zinoviev làm Bí thư Tỉnh ủy, không kính trọng
Zinoviev lắm và là một trong những cán bộ dám lên tiếng phản đối thủ trưởng của
mình. Thế là Moskvin liền lọt vào mắt xanh của Stalin và được chuyển về
Matxcơva.
Nhưng mối quan hệ giữa
ông với Stalin không trở nên thân thiết, vì họ thuộc hai tạng người khác nhau.
Nhà Moskvin luôn có nhiều
bạn bè, khách khứa, một phần vì bà chủ - vợ ông là một người phụ nữ phúc hậu,
hiếu khách. Buổi trưa Moskvin thường về nhà ăn cơm và có lần dẫn Ejov về cùng -
người mà ông rất quý mến.
Ejov người nhỏ bé và do
đó gây cho người ta một sự thương hại, muốn chở che. Ông ăn mặc lúc nào cũng một
kiểu: thường là một áo sơmi lụa màu xanh và bên ngoài là chiếc áo vét giản dị,
nhàu nhĩ; rất ít nói, gầy gò, khiến bà chủ - Sofia Alexandrovna phúc hậu - lúc
nào cũng phải lo lắng, chăm sóc. “Chú phải ăn nhiều vào” - bà bảo. “Chú” gật đầu: “Vâng!”, rồi lại ngồi im
lặng.
Có lần tôi (Razgon - ND) hỏi Moskvin:
- Thế Ejov là một cán bộ
giỏi lắm à? Ba đánh giá cao anh ấy lắm phải không?
Moskvin đáp:
- Ejov có lẽ là cán bộ xuất
sắc nhất mà ba từng gặp (mà ông thì đã gặp khá nhiều - tôi nghĩ). Là một cán bộ
hiếm có ở chỗ đã giao cho anh ta việc gì, thì có thể không cần phải kiểm tra. Cứ
yên tâm, đã giao nhiệm vụ là anh ấy chắc chắn sẽ hoàn thành không cần phải nhắc.
Song anh ấy chỉ có một nhược điểm, do vậy mà vẫn cần phải kiểm tra.
- Tức là anh ấy vẫn sẽ
làm cái gì đấy không đúng với nhiệm vụ được giao?
- Không phải, anh ấy sẽ
làm mọi thứ đúng như yêu cầu. Chỉ có điều anh ấy sẽ không dừng lại ở đó. Trong
bất cứ công việc gì cũng có cái giới hạn của nó, cần phải biết dừng. Ejov không
dừng lại bao giờ.
- Cả hai ông bà Moskvin đều
bị bắt. - Razgon kể tiếp - Khi vợ chồng tôi đến phòng tiếp khách của Cơ quan
dân ủy Nội vụ hỏi, thì được trả lời: “10 năm cải tạo xa, không được phép viết
thư”. Lúc đó chúng tôi không biết rằng như thế tức là bị xử bắn. Chúng tôi cứ
tưởng rằng đấy là những trại cải tạo nằm ở xa, khác với các nhà tù thường, dành
cho các cán bộ cao cấp. Chúng tôi thật chẳng hiểu gì.
Moskvin bị xử bắn năm
1937. Còn vợ ông - bà Sofia Alexandrovna, thì Razgon đinh ninh rằng đã chết
trong tù ở Mordovia, nơi giam giữ vợ của các tù chính trị.
Trong hồ sơ của Cơ quan
dân ủy Nội vụ, lệnh bắt bà được ban hành ngay trong tờ lệnh bắt ông. Bên dưới
có chữ ký của Chánh công tố Vyshinsky: “Đồng ý”, và ý kiến của Dân ủy nội vụ
Ejov: “Thi hành lệnh bắt”, và ghi thêm: “Cả vợ nữa”.
Trong hồ sơ về Sofia
Alexandrovna, Razgon tìm thấy hai biên bản: một biên bản, trong đó bị cáo không
thú nhận gì cả, còn biên bản thứ hai sau đó ba tháng, trong đó bà nhận lỗi về tất
cả mọi việc, từ việc bà biết về những việc làm tội lỗi của Moskvin đến việc bà
mưu toan đầu độc Ejov (?)...
Tại sao Ejov lại nhẫn tâm
xử bắn một người phụ nữ đã đối xử tốt với ông ta như thế? Đó cũng là
một điều bí ẩn của một tâm hồn lạ lùng, sâu kín.
Các nhà viết tiểu sử Ejov
là B.Brukhanov và E.Shoskov đã tìm được nhiều tư liệu về Ejov, tuy vậy trong lý
lịch của một người nắm rất vững lý lịch của người khác vẫn còn nhiều vùng tối.
Chẳng hạn, người ta không làm rõ được cha mẹ ông là ai. Nhưng thôi, điều đó
cũng không quan trọng lắm. Về bản thân ông, người ta được biết ông rất ít học -
đâu chỉ lớp 3 - lớp 4, nhưng chữ viết đẹp và rõ ràng. Ejov khai trong lý lịch
là đã từng làm công nhân nhà máy Putilov (cơ sở
công nghiệp hàng đầu trên địa bàn Peterbua - ND). Đối với một cán bộ xuất
thân từ thành phần cơ bản, điểm này là rất vinh dự. Nhưng hồ sơ lao động trong
giai đoạn này của ông không thấy lưu lại. Ông đi bộ đội mấy năm, nhưng dường
như không ra mặt trận. Trong thời gian ông đang lên cao, người ta viết là ông
đã từng hoạt động cách mạng - điều mà dường như cũng không rõ rệt lắm. Tuy vậy,
trước cách mạng tháng Mười ít lâu - tháng Năm năm 1917, ông gia nhập Đảng Bolshevik. Trong thời gian
nội chiến, ông làm chính trị viên một cơ sở đào tạo kỹ thuật viên cơ điện và vô
tuyến điện của quân đội. Chức vụ này được Cục trưởng Cục chính trị của Hội đồng
quân sự cách mạng phê duyệt, cho nên tên ông được đưa vào danh sách cán bộ do
Trung ương quản lý.
Ejov lấy vợ là một phụ nữ
có học thức tên là Antonina Alexeevna Titova, không những tốt nghiệp trung học,
mà còn học Đại học tổng hợp Kazan. Bà lên Matxcơva làm Trưởng ban văn hoá của
Liên hiệp công đoàn ngành hoá chất. Và Ejov sau đó một thời gian cũng chuyển về
Matxcơva theo vợ. Trung ương Đảng để ý đến anh cán bộ Đảng trẻ tuổi, và nửa năm
sau (2/1922) cử anh về tỉnh tự trị Mariskaya làm Bí thư Đảng bộ. Các nhà sử học
cố tìm xem ai là người đỡ đầu Ejov lên các chức vụ như vậy và lọt vào hàng ngũ
cán bộ cấp cao, nhưng không tìm ra. Có lẽ trong những năm đó Đảng đang thiếu cán bộ, rất cần những người có
hiểu biết để làm nhiệm vụ Bí thư Đảng. Mà Nicolai Ivanovich Ejov nổi lên là một
cán bộ có triển vọng, một người rất có hiểu biết. Theo đánh giá của giáo sư
V.F.Nekrasov, những ưu điểm nổi bật của Ejov là trí thông minh bẩm sinh mang
tính thực tiễn của người công nhân, đầu óc biết định hướng, và sau này là lòng
trung thành với Stalin, không phải làm ra bộ trung thành mà trung thành thật sự.
Tháng 3 năm 1922, Ejov và
vợ đi đến thành phố Ioskar Ola, vợ ông phụ trách công tác lịch sử Đảng ở tỉnh ủy
này. Bà đã viết hai ba bài báo cho chồng mang tên ở tạp chí của địa phương.
Nhưng quan hệ của Ejov với các cán bộ Đảng địa phương trong chuyến đi đó không
thành công, vì Ejov xử sự thô lỗ và ngạo mạn, nên uy tín bị ảnh hưởng. Một năm
sau, ông được cử làm Bí thư Tỉnh ủy Semipalatinsk. Sau đó ông bị chuyển sang Orenburg với chức vụ thấp
hơn: trưởng ban của tỉnh ủy. Nhưng rồi sau đó ông lại được làm Bí thư Tỉnh ủy một
tỉnh xa là Kzyl-Orde. Rõ ràng Ejov là một cán bộ Đảng dày dạn kinh nghiệm và
cũng có năng khiếu tổ chức.
Mùa hè năm 1927, Ejov được
gọi lên Matxcơva nhận công tác. Trưởng ban Tổ chức phân phối Trung ương Đảng là
I.M.Moskvin phân công ông làm chuyên viên. Chức vụ thấp nhất đó trong bộ
máy Trung ương Đảng trở thành cầu nhảy đối với Ejov. Từ đó ông liên tục lên
cao. Một thời gian sau Moskvin cho ông làm trợ lý của mình, rồi làm Phó ban.
Ejov bắt đầu trở nên đắt giá: Trung ương chú ý đến ông, phái ông đi làm Bí thư
Tỉnh ủy Tacta có vấn đề dân tộc, rồi làm Thứ trưởng phụ trách cán bộ của Bộ
Nông nghiệp năm 1929 - tức là khi bắt đầu chiến dịch tập thể hóa nông nghiệp và đấu
tranh chống Kulak.
Rồi cuộc sống riêng cũng
được tổ chức lại: Ejov chia tay với Antonina Titova (chính điều này lại là may
mắn đối với bà vì nhờ thế mà bà giữ được mạng sống), và kết hôn với một phụ nữ
khác.
Năm 1930, Ejov về Hội đồng
kinh tế quốc dân làm phó cho Ordjinikitze, phụ trách tổ chức.
Tháng 11 năm
1930, Ejov được đề bạt làm Trưởng Ban tổ chức-phân phối Trung ương Đảng - tức
là nắm toàn bộ công tác tổ chức cán bộ của Đảng, và trực tiếp trực thuộc
Stalin.
Theo hồi ức của nhiều người,
thời gian này Ejov là một con người khiêm tốn, cởi mở, gần gũi quần chúng, cũng
thích nâng cốc, vui vẻ, hát hò. Nhà văn Iu Dombrovsky có thời gian bị cải tạo ở
Kazakhstan, viết rằng những người quen của ông không ai phàn nàn gì về Ejov.
Năm 1933, Ejov làm Trưởng
ban làm trong sạch Đảng, tại đại hội 17 được bầu làm Phó Chủ tịch ủy ban kiểm
tra Đảng.
Năm 1935 Ejov làm Bí thư
Trung ương Đảng, và thay Kaganovich làm Chủ tịch ủy ban kiểm tra Đảng.
Bí thư Trung ương Đảng,
ngoài Stalin ra, chỉ có ba người: Jdanov kiêm Bí thư Tỉnh ủy Lêningrad,
Kaganovich kiêm nhiệm công tác ở Bộ Giao thông vận tải và Ejov, thực tế là điều
hành toàn bộ công tác của Trung ương Đảng. Stalin gặp Ejov thường xuyên hơn những
người khác trong ban lãnh đạo. Chỉ có một người nữa Stalin hay gọi đến gặp là
Molotov - Thủ tướng Chính phủ và là người thứ hai sau Stalin.
Theo chỉ thị của Stalin,
Ejov dần dần tìm hiểu công việc của Cơ quan dân ủy Nội vụ. Vốn tác phong thận
trọng, Stalin không thích giao những nhiệm vụ trực tiếp cho cơ quan an ninh, mà thích thông qua một người nào đó
giải thích và hướng dẫn cho an ninh phải làm gì và làm thế nào. Trong những năm
cuối đời Stalin, người đó sẽ là Beria, còn giữa những năm 30, đó là Ejov.
*
* *
Sau khi nhận được bức điện
của Stalin gửi từ Sochi ngày 26/9/1936, Matxcơva hiểu ý lãnh tụ và bắt đầu làm
các thủ tục ra quyết định. Ejov vẫn giữ nguyên các chức vụ Đảng (Bí thư Trung
ương và Chủ tịch Ban kiểm tra), nhưng Bộ Chính trị yêu cầu ông phải dành “90%
thời gian cho công tác ở Cơ quan dân ủy Nội vụ”.
Lazar Kaganovich viết
trong thư gửi cho Sergo Ordjinikidze:
“Việc đề bạt Ejov làm Dân ủy Nội vụ là quyết định sáng suốt của lãnh tụ-cha
của chúng ta,
đã được trong Đảng và trong nước nhất trí đón nhận. Với Ejov, công việc chắc
sẽ chạy tốt”.
Trong một bức thư sau đó
ông lại viết:
“Tôi muốn nói thêm là công việc của đồng chí Ejov vẫn tốt đẹp. Đồng chí ấy
đã bắt tay vào việc một cách kiên quyết, theo kiểu Stalin”.
Việc bổ nhiệm Dân ủy Nội
vụ chỉ là giao thêm chức cho Ejov chứ không phải thăng chức (các chức vụ Đảng của
ông cao hơn nhiều). Nhưng Stalin tìm thấy ở Ejov một người thừa hành siêu hạng.
Ông là người từ ngoài được cử về lãnh đạo Cơ quan dân ủy Nội vụ, không dính líu
với ai, không hàm ơn ai, khác với Yagoda đã bám rễ quá sâu vào mảnh đất an
ninh, cho nên chắc sẽ phải hành động tích cực hơn gấp trăm lần so với Yagoda.
Còn để lãnh đạo công việc của bộ máy Đảng, Stalin tìm được một người thông thái
hơn: đó là Georgi Maximilianovich Malenkov.
Tại hội nghị Trung ương
cuối tháng 2 năm 1937, Ejov phát biểu:
“Đã mấy tháng rồi, không thấy có lần nào có đồng chí lãnh đạo Bộ Kinh tế
hoặc đơn vị sản xuất nào gọi điện bảo: “Này đồng chí Ejov, tôi thấy người này
người kia đáng khả nghi hoặc việc này việc kia không ổn, đồng chí hãy tìm hiểu
xem thế nào”. Không
có bao giờ! Trái lại, khi đặt vấn đề bắt một người nào đó là phản động, Trotskyist,
một số đồng chí lại còn tìm cách bảo vệ”.
Stalin có bài phát biểu “Về
một số thiếu sót của công tác Đảng và những biện pháp đấu tranh chống Trotskyist
và những kẻ hoạt động hai mặt”. Ông gọi Trotskyist là “một băng đảng hiếu chiến và vô nguyên tắc của những kẻ phản động, biệt
kích, gián điệp và giết người, hoạt động theo chỉ thị của các cơ quan an ninh
nước ngoài”.
Hội nghị ra Nghị quyết “Tiếp
tục và hoàn thiện việc tổ chức lại bộ máy Cơ quan Dân ủy Nội vụ, đặc biệt là Tổng cục An ninh quốc
gia, làm cho nó trở thành một cơ quan thực sự chiến đấu, đủ năng lực hoàn thành
nhiệm vụ của Đảng và Chính phủ Liên Xô giao cho là bảo đảm an ninh quốc gia và
trật tự, an toàn xã hội”.
Tại cuộc họp với cán bộ
lãnh đạo chủ chốt của Bộ, Ejov nói:
“Các
đồng chí đừng thấy tôi bé thế này mà tưởng nhầm. Tay tôi rắn lắm đấy - và
vươn hai tay ra phía trước. - Tôi có đủ sức
lực để tiêu diệt tất cả những bọn Trotskyist và bọn theo Zinoviev, Bukharin...”.
Tiếp đó, nhìn chăm chú
vào mặt những người có mặt ở cuộc họp, ông nói tiếp:
“Thế nhưng
trước hết chúng ta cần phải làm trong sạch bộ máy của chúng ta để không có những
phần tử mà theo thông tin tôi có được, cố tình kìm hãm cuộc đấu tranh của chúng
ta với những kẻ thù của nhân dân. Xin nói là tôi sẽ bỏ tù và bắn bỏ tất cả những
ai cản trở sự nghiệp đấu tranh của chúng ta - bất kể chức vụ và cấp bậc nào”.
Ejov đã thay 5 nghìn cán
bộ trong số 25 nghìn cán bộ cơ quan an ninh.
Trong một bức điện của
Ban chấp hành Trung ương tháng 6/1937 do Stalin ký, gửi các tỉnh ủy và nước cộng
hòa, có nói rằng:
“Những Kulak sau khi
đi cải tạo về là những thủ phạm chính của các hoạt động phản kháng chống chính
quyền Xô viết, và đề nghị giám sát chặt chẽ họ, những kẻ ngoan cố nhất trong số
đó thì bắt và xử bắn theo trình tự vụ việc của họ và do “bộ ba” quyết định. “Bộ
ba” bao gồm Bí thư Tỉnh ủy, Giám đốc Sở Nội vụ và Trưởng cơ quan Kiểm sát”.
Trong mấy tháng này, Ejov
có mặt ở phòng làm việc của Stalin liên tục, nhiều hơn bất cứ nhà lãnh đạo nào
khác. Và cuộc khủng bố lớn bắt đầu.
Stalin, Ejov, Vyshinsky
ký văn bản tháng 7 năm 1937 chỉ đạo “việc thủ tiêu tàn tích của các giai cấp
thù địch: cựu Kulak, các phần tử chống chính quyền Xô viết và các tên tội phạm hình sự”.
Ejov ký lệnh số 00447 về
việc bắt đầu một chiến dịch bốn tháng kể từ đầu tháng 8 năm 1937, giao chỉ tiêu
bắt người cho các tỉnh, vùng, không cần tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng và
không cần báo trước. Dự kiến xử bắn 76 nghìn người trong toàn quốc và bắt đi cải
tạo 200 nghìn người.
Ngoài ra, Ejov còn lập
các danh sách những cán bộ là “kẻ thù của nhân dân” đưa lên Stalin, Molotov và
các ủy viên Bộ
Chính trị duyệt. Những người này phải đưa ra tòa án binh, và bản án đã được tuyên trước: tử hình!
Đã có 383 bản danh sách như thế.
Ngày 15/8, Ejov ký lệnh số
00486 về việc bắt vợ những kẻ phản quốc, các thành viên tổ chức phản động, Trotskyist.
Đối với con họ, lớn thì vào trại cải tạo, bé thì vào trại trẻ mồ côi.
Tôi hỏi cháu nội của
Molotov là V.A.Nikonov (V.M.Molotov họ thật Nikonov): liệu V.M.Molotov sau này
có ân hận về các cuộc thanh trừng ấy không?
V A.Nikonov trả lời:
- Họ sợ nguy cơ của một
cuộc can thiệp và nội chiến mới, nên cho rằng cần phải loại trừ nguy cơ từ bên
trong, cần phải loại bỏ tất cả những ai có vẻ nghi ngờ.
Một khi guồng máy thanh
trừng bắt đầu chạy, thì kiểm tra mức độ phạm tội của từng người là điều không
làm được.
Stalin giải thích về mối
đe dọa bên
trong này giản dị và dễ hiểu:
“Để xây dựng nhà máy thủy điện Dnieproges, cần huy động hàng vạn
công nhân. Thế mà để phá nó, chỉ cần vài chục người, không hơn. Để thắng một trận
trong chiến tranh, cần vài quân đoàn Hồng quân. Thế mà để làm thất bại trận
đánh, chỉ cần vài tên gián điệp ở đâu đó trong Bộ tham mưu thậm chí ở cấp sư
đoàn lấy cắp kế hoạch tác chiến đem cho địch là đủ”.
Vì thế mà phải dọn dẹp
nguy cơ của “đội quân thứ năm” trước chiến tranh. Stalin và Bộ Chính trị nhớ rằng
trong thời gian nội chiến, chính quyền Xô viết đã ngàn cân treo trên sợi tóc
như thế nào, do vậy mà phải lo trước. Nội chiến, thanh đảng, đấu tranh với phe
đối lập diệt Kulak, tập thể hóa, toàn bộ những quá trình đó động chạm số phận hàng chục triệu con người.
Trong tù, những người bị
bắt sợ nói chuyện với bạn tù, vì đa số ai cũng cho rằng mình vô tội, sợ bắt
chuyện phải kẻ có tội thật hoặc kẻ trà trộn để chỉ điểm. Đa số cho rằng mình bị
bắt oan, và tin rằng sẽ có ngày Stalin biết được và sẽ giải oan cho họ. Nhiều
người xin giấy bút để viết đơn, thư.
Những cố gắng để tìm cách
cứu vớt ai đó đều rất ít khi thành công. I.M.Gronski - Tổng Biên tập báo “Tin Tức”
và tạp chí “Thế giới mới”, Tổng Thư ký Hội nhà văn và quan trọng hơn, có mối
liên hệ với Stalin, đã tìm cách cứu nhà thơ tài năng Pavel Nicolaevich
Vassiliev bị bắt năm 1937. Ông kể:
“Khi Vassiliev bị bắt, tôi gọi điện hai ba lần cho Ejov, cuối cùng cãi
nhau. Tôi gọi cho Stalin. Đã diễn ra một cuộc nói chuyện gay gắt. Cũng không kết
quả gì. Thế là tôi đi gặp Kalinin, Mikoian, Molotov. Tất cả đều muốn cứu
Vassiliev, nhất là Mikoian. Nhưng đều không làm gì được cả. Và nhà thơ xuất sắc
đầy tài năng, có lẽ là lỗi lạc nhất sau Maiakovski đã bị hy sinh oan uổng”.
Stalin chắc phải ngán ngẩm
lắm với những lời thỉnh cầu tha cho người này, thả người kia. Tại sao cấp dưới
thân cận của ông không hiểu được rằng cần phải làm như thế? Rằng toàn bộ ý nghĩa
của việc thanh trừng là ở tính chất toàn thể và đại trà? Không có ngoại lệ! Hồ
sơ được lập đối với tất cả mọi người, kể cả các ủy viên Bộ Chính trị, và nếu cần,
bất kỳ ai trong số họ, bất cứ lúc nào, cũng có thể bị bắt và đặt câu hỏi: tại
sao ông ta lại bị bắt? - chỉ là thừa.
V.V. Ulrich, Chánh án Tòa
quân sự của Tòa án Tối cao Liên Xô báo cáo rằng qua hai năm Ejov làm Dân ủy Nội
vụ, Tòa đã
tuyên án tử hình 36.514 người, bỏ tù 5.643 người - tổng cộng 42.157 người. Mỗi
hồ sơ họ thường xem không quá 10-15 phút, nếu không thì không thể kịp giải
quyết được tất cả các vụ việc.
Năm 1937, trong cả nước
có 936.000 người bị bắt vì các tội phản cách mạng, và xử bắn 353.074 người (tức
là cứ 3 người thì tử hình hơn 1 người); năm 1938 bắt 638.509 người, xử bắn
328.618 (tức là cứ 2 người thì bắn 1 người). Một triệu ba trăm nghìn người tiếp
tục ngồi trong các nhà tù. Năm 1937, riêng về tội làm gián điệp, Bộ Nội vụ đã kết án 93 nghìn
người. Đất nước có nhiều gián điệp đến như thế!
Nguyên Soái
Tukhachevski
Dưới sự lãnh đạo của
Stalin, Ejov đã tiến hành thanh lọc Hồng quân. Bắt đầu bằng việc tử hình Nguyên
soái Tukhachevski và bảy tướng lĩnh cao cấp khác.
Tukhachevski là một
Nguyên soái tài năng, và vụ án Tukhachevski rất không đơn giản. Có những người
đến nay vẫn cho rằng Tukhachevski đã duy trì mối liên hệ chặt chẽ với Trotsky
sau khi Trotsky bị trục xuất, và chuẩn bị đảo chính quân sự để lật đổ Stalin.
Những tài liệu của Tòa chống lại Nguyên soái và các đồng chí của ông được họ
cho là thật. Trong số những người bất bình với việc tử hình Tukhachevski cũng
còn có những người cho rằng không có
lửa làm sao có khói, chắc là vị Nguyên soái đầy tham vọng đã ấp ủ những kế hoạch
chính trị nào đó.
Trên thực tế, tên tuổi
Tukhachevski xuất hiện trong hồ sơ của cơ quan an ninh từ lâu trước khi diễn ra
vụ án.
Tiến sĩ sử học Oleg
Khlevnhuk tìm thấy trong các hồ sơ lưu trữ đã được công khai hóa những tài liệu
cho biết lần đầu tiên cơ quan an ninh đã đề nghị bắt Tukhachevski là vào năm
1930. Các cán bộ của Cục Chính trị quốc gia (Ủy ban đặc biệt) đã khám phá một “vụ âm mưu thông
thường ở Học viện Quân sự, và những người bị bắt và bị hỏi cung đã khai ra đầu
sỏ của vụ này là Tukhachevski”.
Ngày 10/9/1930, Chủ tịch Ủy ban đặc biệt Menjinski
báo cáo với Stalin lúc đó đang nghỉ ở miền Nam:
“Việc bắt từng người một dễ hỏng việc. Có thể có hai cách: hoặc là lập tức
bắt tất cả những thành viên chủ chốt của nhóm; hoặc là tạm thời tiến hành những
biện pháp phòng ngừa và đợi đồng chí về. Song cần phải báo cáo với đồng chí rằng
hiện tại các nhóm phiến loạn đang hoạt động tích cực, cho nên cách thứ hai là
tương đối mạo hiểm”.
Stalin không vội trả lời
bức điện của Chủ tịch Ủy ban đặc biệt. Ông điện cho Ordjonikidze:
“Thế nghĩa là: Tukhachevski là tù nhân của các phần tử chống chính quyền
Xô viết và bị tiêm nhiễm bởi các tài liệu chống Xô viết của phái hữu. Theo các
tài liệu thì như thế. Liệu điều đó là có thể chăng? Tất nhiên là có thể, một
khi nó không bị loại trừ”.
Thật là một phản ứng bất
ngờ? Nghĩa là Stalin công nhận rằng những tài liệu và kết luận của cơ quan an
ninh có thể đúng, mà cũng có thể là không đúng. Thành ra họ khám phá vụ này là
uổng công hay sao? Mùa thu năm ấy, Stalin, Ordjonikidze và Vorosilov gọi
Tukhachevski đến “cạo” cho một trận, rồi cho thả những người bị bắt.
Đáng chú ý là các cán bộ
đã khám phá hay “tạo dựng” ra vụ đó không ai bị nhắc nhở gì cả. Mà nhắc nhở gì
mới được? Họ đã làm đúng bài bản lấy khẩu cung về mọi người để lập hồ sơ.
Còn Stalin thì lựa chọn
cái ông cần, còn cái gì chưa cần thì cứ để đấy.
Mà Stalin đang cần
Tukhachevski, biết rõ giá trị của Tukhachevski. Nhà lãnh đạo quân sự tài năng
trở thành Thứ trưởng, rồi Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng, được phong hàm
Nguyên soái và được bầu vào dự khuyết Trung ương Đảng.
Nhưng năm 1937 đến lượt
quân đội.
Một số nhà nghiên cứu lịch
sử tin rằng nếu không phải là Tukhachevski làm gián điệp cho Đức, thì chắc chắn
ông cũng là nạn nhân của phản gián Đức - chúng đã dúi cho tình báo Liên Xô những
tài liệu giả để làm cho Stalin loại bỏ Tukhachevski... Song, Stalin đâu phải
người dễ tin!
Nguyên soái Tukhachevski
tất nhiên không làm gián điệp cho Đức, nhưng là người có xu hướng thiên Đức,
ngưỡng mộ và học tập quân đội Đức, cũng như hầu hết cán bộ lãnh đạo Hồng quân
vào thời gian đó. Khi xe tăng và máy bay Đức tấn công Liên Xô năm 1941, thì các
sĩ quan chỉ huy Liên Xô trước đó
không ngờ rằng vũ khí quân Đức sử dụng để đánh họ là do người Nga làm ra, và
các tướng chỉ huy các binh chủng không quân, xe tăng và bộ binh Đức tấn công họ
đã từng học các trường huấn luyện quân sự ở Liên Xô.
Sau chiến tranh thế giới
thứ nhất, hòa ước Versailles tước của nước Đức
bại trận quyền sáng chế và sản xuất vũ khí hiện đại. Năm 1922, Liên Xô ký hiệp
định hợp tác quân sự đầu tiên giữa Hồng quân Liên Xô với quân đội Đức. Bộ Chính
trị cho phép Đức xây dựng một số cơ sở quân sự trên lãnh thổ Liên Xô để tiến
hành thử vũ khí và kỹ thuật quân sự hiện đại và đào tạo đội ngũ. Đổi lại Đức
chia xẻ với Liên Xô những thành tựu quân sự tiên tiến của mình. Trên tình thân
đó, ở Lipetsk đã mở một trường đào tạo phi công cho Đức trên cơ sở trường dạy
bay của Hồng
quân. Nhiều phi công cự phách của Đức sau này chính là đã qua trường này. Ở
Kazan thì mở trường tăng, và người học sinh nổi tiếng nhất là Heinz Guderian sau
này là tướng chỉ huy binh đoàn xe tăng tấn công Liên Xô mùa hè 1941. Còn ở
Samara thì đào tạo chuyên gia chiến tranh hóa học cho Đức, may thay, đã không được Đức sử dụng
trong chiến tranh thế giới II. Không ít tướng lĩnh Đức đã từng học ở Liên Xô.
Mười năm sau, tên tuổi của họ đã được cả thế giới biết đến ở Nuremberg. Đó là
Thống chế Keitel - Tổng Tư lệnh quân đội, Thống chế Brauchich - Tư lệnh Lục quân, thống chế
Manstein đã chỉ huy chiến dịch chiếm Sevastopol và tàn phá Lêningrad.
Trong những năm đó, giới
quân sự Liên Xô rất chú ý nghiên cứu kinh nghiệm quân sự của Đức. M.V.Frunze -
người thay thế Trotsky làm Dân ủy Quốc phòng, viết:
“Cho đến nay, Đức là quốc gia có hệ thống tổ chức lực lượng vũ trang
hùng mạnh nhất và hoàn thiện nhất”.
Các tướng lĩnh Liên Xô thích
phong cách thiên mạnh về tấn công của quân đội Đức.
Thậm chí năm 1933, khi Đức
có Chính phủ mới do A.Hitler đứng đầu, sự hợp tác quân sự giữa hai nước vẫn tiếp
tục. Tháng 5 năm 1933, tại một cuộc chiêu đãi khách Đức, Thứ trưởng Quốc phòng
Tukhachevski nói:
“Cái chia rẽ chúng ta là chính sách, chứ không phải là tình cảm - tình cảm
hữu nghị giữa hai quân đội chúng ta. Chúng tôi với các ngài - Liên Xô với Đức
- có thể đặt những điều kiện của chúng ta
cho toàn thế giới, nếu chúng ta cùng đứng bên nhau”.
Stalin tâm đắc với công
thức ấy của Tukhachevski.
Bởi vì ông cũng là người
chủ trương hợp tác chiến lược với Đức. M.N.Tukhachevski đã từng phục vụ trong quân đội
Nga hoàng. Trong thời gian nội chiến đã chỉ huy quân đoàn và các mặt trận,
trong đó có mặt trận phía tây chống Ba Lan năm 1920.
Năm 1935, khi lập ra quân
hàm Nguyên soái, năm người đầu tiên được phong Nguyên soái là Dân ủy Quốc phòng Voroshilov, tư
lệnh quân đoàn đặc biệt Viễn đông - V K.Bliukher, chỉ huy kỵ binh đoàn -
S.M.Budionưi, Tổng tham mưu trưởng Quân đội - A.I.Egorov, và M.N.Tukhachevski.
Trong năm Nguyên soái đó, ba người sẽ bị giết, Stalin chỉ giữ lại Voroshilov và
Budionưi.
Tukhachevski là nhà chiến
lược cao hơn hẳn những người khác một cái đầu. Ông là người đầy tham vọng, khao
khát thắng lợi và vinh quang, ở đâu cũng muốn là người đứng đầu. Người ta gọi
ông là Bonapart (tức Napoléon) trẻ tuổi. Có thể tham vọng của ông là đứng đầu
nước Nga Xô viết, và lo ngại của Stalin không phải là vô cớ!
Trong ban lãnh đạo Hồng
quân thực sự có hai trường phái: Trường phái thứ nhất do đội cận vệ già đứng đầu:
Voroshilov, Egorov, Budionưi, Bliukher, quen chiến đấu như đã chiến đấu trong nội
chiến - chủ yếu bằng súng và gươm, và quen dùng kỵ binh thay vì xe tăng. Trường
phái thứ hai gồm Tukhachevski, Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng -
Ia.B.Gamarnik, và Tư lệnh Quân khu Kiev - I.E.Yakir, chủ trương đưa kỹ thuật
quân sự mới vào quân đội theo tư tưởng quân sự hiện đại và sử dụng xe tăng, máy
bay, thành lập các binh đoàn cơ giới và đổ bộ bằng không quân. Nhưng sự bất đồng
giữa họ không mang tính chất chính trị, chỉ là sự khác biệt và tranh luận mang
tính nghề nghiệp. Nhiều lắm, thì chỉ là Tukhachevski và các đồng minh của ông
cho rằng ông già Voroshilov - người chưa từng đi học cái gì ở đâu cứ bám giữ
mãi kinh nghiệm vẻ vang của quân đoàn kỵ binh trong cuộc nội chiến và cho thế
là đủ để đối phó với một cuộc chiến tranh mới, một người có tư duy như thế
không xứng làm Dân ủy Quốc phòng. Ba năm sau, chính bản thân Stalin cũng đi đến
kết luận như thế. Đó là sau cuộc chiến tranh Phần Lan vụng về và kém cỏi,
Stalin bãi chức Dân ủy Quốc phòng của Voroshilov, còn sau này, trong chiến
tranh vệ quốc vĩ đại sẽ chỉ cử ông lãnh đạo phong trào du kích.
Nghiên cứu các thông tin
và tài liệu có được, ta có thể thấy rằng những suy nghĩ và kế hoạch của
Tukhachevski hoàn toàn gắn với công tác quân sự.
Những tham vọng của ông
mang tính chất binh nghiệp chứ không phải chính trị. Dân ủy Quốc phòng thì ông
muốn làm và sẵn sàng làm, nhưng làm người đứng đầu đất nước thì không.
Thế thì tại sao Stalin lại
quyết định diệt ông?
Nikita Sergeevich
Khrushov là người đầu tiên nói tại phiên bế mạc Đại hội 20 rằng trong khi chuẩn
bị tấn công Liên Xô, Hitler đã tung tin giả về việc Tukhachevski và một số tướng
lĩnh cao cấp của Hồng quân là điệp viên của Bộ Tổng tham mưu Đức.
Tukhachevski đã sang Đức
sáu lần, không kể lần bị bắt làm tù binh hồi chiến tranh thế giới thứ nhất. Người
Đức còn giữ lại một số giấy tờ có ký tên ông. Cơ quan mật vụ Đức đã dựa vào những
chữ ký đó để làm giả cặp hồ sơ mật trình cho Stalin.
Giả thuyết đó đã được người
lãnh đạo cơ quan tình báo Đức là Walter Shelenberg xác nhận. Shelenberg dẫn lời
Reinhard Heydrich - Giám đốc Tổng cục An ninh quốc gia Đức nói rằng:
“Giữa tháng 6 năm 1936, Skoblin, nguyên là Tướng
của quân đội Sa hoàng, làm việc cho cả tình báo Liên Xô và tình báo Đức, thông
báo rằng một nhóm tướng lĩnh cao cấp của Hồng quân đứng đầu là Thứ trưởng Bộ Quốc
phòng, Nguyên soái Tukhachevski có quan hệ chặt chẽ với Bộ Tổng tham mưu Đức và
đang chuẩn bị một vụ đảo chính chống Stalin”.
Đức quyết định ủng hộ
Stalin chứ không phải Tukhachevski, và làm một hồ sơ giả tố cáo Tukhachevski để
chuyển cho Matxcơva. Hồ sơ do Tổng thống Tiệp Khắc lúc đó là Benesh chuyển.
W. Shelenberg là một nhà tình báo
có tên tuổi, ai cũng thừa nhận. Nhưng trong trường hợp này, ông ta kể sự việc
theo lời người khác. Hồ sơ về Tukhachevski mà Shelenberg kể, người ta không tìm
thấy cả trong kho lưu trữ của Liên Xô cũng như của Đức. Còn tướng Bạch vệ
Skoblin không tham gia gì vào vụ này.
Thời Yeltsin, một ủy ban
của Tổng thống về vấn đề phục hồi các nạn nhân chính trị đã nghiên cứu kỹ lưỡng
“vụ án Tukhachevski”. Lục lại hồ sơ nhiều tập của vụ án, không có trang nào, chỗ
nào nói đến việc cơ quan điều tra có trong tay một chứng cứ quan trọng là “hồ
sơ về Tukhachevski” của Bộ Tổng tham mưu Đức.
Bản thân việc đặt vấn đề
là bộ máy thanh trừng cần đến chứng cứ và bằng chứng đã chứng tỏ sự không hiểu
biết đầy đủ về Stalin. Để tiến hành cuộc thanh lọc khổng lồ đối với quân đội,
ông không cần đến các hồ sơ của Đức. Ông có các chứng cứ sắc bén hơn để kết án
họ.
Một khi Stalin đã cho rằng
Tukhachevski âm mưu đảo chính, thì nhiệm vụ của các cán bộ điều tra là tìm kiếm
những bằng cứ giống với sự thật và khai thác lời khai và thú tội của các bị cáo
để chứng minh điều đó.
Tukhachevski quả đã là nạn
nhân của tình báo, nhưng không phải là tình báo Đức, mà tình báo của ta!
Bộ phim truyền hình nhiều
tập “Chiến dịch Trest” đã phản ánh một trong những chiến công bất hủ của tình
báo Liên Xô. Trong chiến dịch này, các chiến sĩ tình báo Liên Xô đã tung sang
phương Tây các thông tin giả về Hồng quân. Chính các sĩ quan ở bộ tham mưu và
các chiến sĩ quân báo là người soạn thảo các thông tin giả này. Công việc này
được sự đồng ý ở cấp cao nhất của Bộ Quốc phòng là Thứ trưởng Tukhachevski. Sau
này, khi xét xử ông, người ta buộc tội ông đã cung cấp thông tin về Hồng quân
cho kẻ thù. Ngoài ra, để làm tăng thêm tính hấp dẫn của tổ chức chống đối bí mật
trong nước nhằm nhử Bạch vệ Nga kiều, các chiến sĩ tình báo còn cho biết là cả
Tukhachevski cũng tham gia tổ chức đó. Sau đó họ chợt nghĩ lại rằng như thế là
đi quá xa.
Tên Tukhachevski cho đến
cuối chiến dịch không được nhắc đến nữa. Nhưng cũng đã muộn.
Mặt khác, phương Tây tin
rằng Nguyên soái trẻ tuổi Tukhachevski là người cầm đầu phái quân sự đối lập Với
Stalin. Báo chí phương Tây cũng viết nhiều về vấn đề này, và tình báo Liên Xô
phản ánh lại cho Stalin.
Những điều đó lại càng củng
cố ý kiến rằng Tukhachevski là một mối nguy hiểm.
Trên phố Nikolskaia gần
điện Kremli hiện vẫn còn ngôi nhà nhỏ ba tầng. Tại đây, ngày 11/5/1937 đã diễn
ra phiên tòa
xét xử “tổ chức quân sự Trotskyist chống chính quyền Xô viết”, không có luật sư
bào chữa, không có nhân chứng. Chủ tọa phiên tòa là luật sư quân đội V.V. Ulrich. Tám tướng lĩnh
cao cấp của Hồng quân đứng đầu là Tukhachevski bị xử tội phản quốc.
Ngày 11/6 cả
tám người bị tuyên án tử hình và bị bắn ngay dưới tầng hầm của ngôi nhà trên phố
Nilcolskaia - nơi đã diễn ra phiên tòa.
Tháng 7/1937, Ejov trình
lên Stalin một danh sách 138 cán bộ cao cấp của quân đội để xử bắn, tháng 9
trình một danh sách nữa gồm 292 người. Ba trong số năm Nguyên soái Liên Xô đã bị
xử bắn trước chiến tranh Thế giới thứ hai.
Tại cuộc họp Hội đồng quốc
phòng ngày 29/11/1938, Dân ủy Quốc
phòng Voroshilov báo cáo về kết quả chiến dịch thanh lọc quân đội 1937 - 1938:
“Thời gian qua, chúng ta đã loại bỏ hơn bốn mươi ngàn người. Đây là một
số lớn. Nhưng chính vì chúng ta đã loại bỏ không thương tiếc như vậy, mà chúng
ta có thể nói rằng hàng ngũ của chúng ta vững mạnh, và thành phần Hồng quân giờ
đây bao gồm những cán bộ chỉ huy tuyệt đối trung thành”.
*
* *
Stalin gọi đùa Ejov là “nhím
con” (họ Ejov từ chữ “ej” tiếng Nga là con nhím -
ND). N.I. Ejov chỉ cao có một mét sáu, gầy nhỏ - di chứng của một tuổi
thơ vất vả và thiếu thốn. Thể trạng của Ejov cũng ảnh hưởng phần nào đến tâm lý
con người đòi hỏi một cái gì đó bù lại - có lẽ ở sự tàn nhẫn đối với người
khác, nhất là kẻ dưới quyền. Stalin thích Ejov ở điểm Ejov thi hành một cách tuyệt đối
trung thành và chính xác ý chí của Thủ trưởng và không nề hà xắn tay làm bất kỳ
công việc gì dù nhỏ và khó đến đâu, kể cả việc của cán bộ cấp dưới.
Ngày 27/1/1937, Ejov được
phong hàm Tổng cao ủy An ninh quốc gia, ngày 17/7/1937 được tặng Huân chương Lê
nin. Chủ tịch Xô viết tối cao Kalinin khi trao huân chương đã ca ngợi Ejov về “những
thành tích xuất sắc trong việc lãnh đạo công tác của Cơ quan dân ủy Nội vụ trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao”.
Nhận Huân chương từ tay Kalinin, Ejov phát biểu:
“Người cán bộ làm việc ở các cơ quan an
ninh - có nghĩa là một người Bolshevik trung thành vô hạn với Tổ quốc, với Chính phủ, với
Đảng và lãnh tụ là đồng chí Stalin”.
Ejov đang ở đỉnh cao danh
vọng. Ông là ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch ủy
ban kiểm tra Đảng, ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản. Ông được bầu làm đại
biểu Xô viết tối cao Liên Xô và Xô viết tối cao một loạt nước cộng hòa tự trị.
Dưới thời Ejov, những người
phụ trách công tác an ninh ở các nước cộng hòa, các Trưởng ty và Giám đốc Sở Nội vụ trở thành một
trong những nhân vật “thét ra lửa” ở địa phương. S.F.Redens, phụ trách công tác
nội vụ ở Kazakhstan kể: có một lần trong khi uống rượu ở nhà nghỉ ngoại ô, Ejov
bảo với mọi người:
- Các cậu sợ gì mới được?
Toàn bộ quyền hành trong tay chúng ta - muốn bắt ai thì bắt, tha ai thì tha.
Các cậu là Giám đốc Sở, mà lại sợ một anh Bí thư Tỉnh. Phải biết làm việc. Phải
làm sao cho mọi người, từ anh Bí thư Tỉnh trở xuống, phải ở trong tay các cậu.
Nếu Ejov thực sự có nói
như thế, thì Stalin lập tức được thông báo ngay, và chắc hẳn Stalin sẽ cho rằng
Ejov không phải là khôn một khi nói ra những điều đó.
Không ai, kể cả Bộ Nội vụ
có thể cao hơn Đảng!
Đến đầu năm 1938, Stalin
hẳn cho rằng Eỉov đã hoàn thành sứ mạng của mình. Con đường thăng tiến của Ejov
dừng lại ở chức ủy viên dự khuyết, mà không được vào chính thức Bộ Chính trị.
Ejov hoàn thành một công
trình nhan đề: “Từ bè phái đến phản cách mạng” viết về cuộc đấu tranh chống
phái Zinoviev, và gửi cho Stalin để xin ý kiến. Stalin tỏ ra không thích, vì
ông nghĩ rằng làm Dân ủy thì cứ làm, còn sách đã có người khác viết. Trong động
tác của Ejov, rất cần mẫn và đúng đắn đó, Stalin thấy rằng có vẻ Ejov đã bắt đầu nghĩ về vị trí và tên tuổi
của mình.
Năm 1938, Ejov viết một
công văn gửi Ban chấp hành Trung ương, Xô viết tối cao Liên Xô và Xô viết tối
cao Cộng hòa
liên bang Nga đề nghị đổi tên Matxcơva thành Stalinodar, muốn bằng việc đó nịnh
Thủ trưởng. Nhưng Stalin không thích nữa rồi, vì ông cảm nhận được rằng điều đó
sẽ không hay. Thế là giận dữ trách Ejov.
Có một người thừa hành
ngoan ngoãn đúng là tốt, nhưng quá mức nhiều khi gây khó chịu. Stalin nghĩ đến
việc cần một người mới, cũng cứng rắn, khắc nghiệt như thế, nhưng khôn hơn.
Ngày 21/1/1938, Bí thư
Trung ương Đảng A.A.Jdanov đọc diễn văn kỷ niệm ngày mất của Lênin tại Nhà hát
Lớn, nói:
“Năm 1937 sẽ đi vào lịch sử như một năm mà Đảng ta đã giáng một đòn chí
mạng vào những kẻ thù các loại và đội ngũ của Đảng trở nên vững mạnh hơn.
Điều đó một phần quan trọng là nhờ vào công tác
tình báo Xô viết đứng đầu là đồng chí N.I.Ejov”.
Và đấy là những lời ca ngợi
cuối cùng đối với Ejov.
Trong tháng Năm 1938, Trung ương Đảng
ra hai nghị quyết: một nghị quyết “Về những vụ cho thôi việc không đúng đối với
những người nhà của những người bị bắt vì tội phản cách mạng”, và một nghị quyết
nữa “Về khuyết điểm của các tổ chức Đảng trong việc khai trừ đảng viên và thái
độ hình thức, quan liêu đối với việc giải quyết các đơn từ của các đảng viên bị
khai trừ”. Trình bày báo cáo về hai nghị quyết trên là G.M.Malenkov - người thay thế Ejov trên một trong những chức vụ của
ông là Trưởng ban Tổ chức cán bộ Trung ương Đảng. Đối với những người theo dõi
tình hình, thì điều này có nghĩa là mọi người không hài lòng với công tác của
Ejov, thời của ông ta sắp hết, và ông sẽ phải chịu trách nhiệm về tất cả những
việc làm sai trái bấy lâu nay.
Bộ Nội vụ lại tiến hành bắt
bớ, nhưng lần này là bắt những người mà Ejov đã cất nhắc: các phó của ông ta và
Cục trưởng các Cục tác chiến, bộ máy Bộ Nội vụ thì được tăng cường thêm những cán bộ ở Ban
phụ trách cán bộ lãnh đạo của Trung ương Đảng.
Tháng Tám, Ejov có thêm một người
phó thứ nhất hoàn toàn mới: đó là L.P.Beria. Đối với Beria, một Bí thư thứ nhất
Đảng Cộng sản Gruzia, thì việc được điều về làm Thứ trưởng thứ nhất rõ ràng là
một sự giáng chức. Đến tháng 11, các quyết định và các lệnh của Bộ Nội vụ có
hai chữ ký: của Ejov và của Beria - điều trước nay chưa từng có.
Ngày 17/11/1938, Trung
ương Đảng và Chính phủ ra một nghị quyết nữa “Về các vụ bắt bớ, về việc điều
tra và giám sát pháp luật”, phê phán những khuyết điểm nghiêm trọng của Bộ Nội
vụ, quyết định hủy bỏ cơ chế “bộ ba”, mà tiến hành bắt người chỉ với quyết định
của Tòa án hoặc
Viện Kiểm
sát. Nghị quyết này được đón nhận như tín hiệu dừng các cuộc thanh trừng hàng
loạt lại. Nhưng không phải. Khủng bố vẫn được tiếp tục dưới thời Beria. Nghị
quyết lại còn giúp tìm thêm các kẻ thù của nhân dân ở bên trong Bộ Nội vụ. Hiện
tại, nghị quyết chỉ như là bản án tử hình đối với Ejov.
Và đương sự, lẽ dĩ nhiên,
hiểu điều này.
Ngày 8/4/1938 Ejov được cử
kiêm nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Vận tải đường sông. Với Yagoda cũng đã hệt như thế.
Tháng Mười, vợ Ejov
- Evghenia bị stress, phải đưa đi dưỡng bệnh ở nhà an dưỡng ngoại ô
mang tên Vorovski. Người ta cũng đã “may” xong hồ sơ cho bà.
Mấy tuần dưỡng bệnh và điều
trị không mang lại kết quả gì. Bà uống một số lượng lớn thuốc ngủ lumioral và
qua đời ngày 21/11. Bà được chôn ở nghĩa địa Donskoi.
Tại lễ mai táng, Ejov
không có mặt (ông còn lòng dạ đâu để làm điều đó). Những ngày cuối cùng của ông
ngoài tự do đang tính từng ngày. Đây là một đoạn thư của vợ Ejov trước khi chết
viết cho chồng:
“Em khẩn thiết đề nghị anh, anh Cô-li-a, hãy kiểm điểm lại toàn bộ cuộc
đời em, toàn bộ con người em, xem em có phải là con người hai mặt và tham gia
vào các tội ác nào đó như người ta buộc tội cho em không?
Em không có tội trước đất nước và trước Đảng. Vì tội
gì anh Cô-li-a, mà em phải chịu những đau khổ mà con người ta khó có thể nghĩ
ra được như vậy? Nằm trong tù một mình và lý lịch bị hoen ố, trong đầu cứ xói
mãi một ý nghĩ: Sống làm gì? Để chuộc tội lỗi gì mà tôi phải chịu đựng những
đau khổ trên cả mức chịu đựng của con người?”.
Stalin gọi Ejov lên,
khuyên cắt đứt với vợ vì chị ta có những mối quan hệ đáng nghi. (Evghenia là một
phụ nữ trẻ, duyên dáng, không sâu sắc, sự thật cũng thích giao du với giới văn
nghệ sĩ, trong đó gần gũi với E.Babel, O. Shmidt và M.Sholokhov. Sau này Babel
bị xử bắn, còn Shmidt và Sholokhov thì may mắn không bị).
Còn sau đó thì các nhân vật
điều tra sáng tác thêm ra rằng vợ Ejov được tình báo Anh đặt vấn đề hợp tác từ
năm 1926, sau đó với cả Ejov nữa. Do đó Ejov phải đầu độc vợ để khỏi bị khai
ra.
Tháng Mười năm đó, Dân ủy
Nội vụ Ucraina là A.I.Uspenski sau khi nói chuyện điện thoại với Ejov, qua giọng
nói của Ejov hiểu rằng tình hình xấu, đã quyết định bỏ trốn. Ông để lại một mảnh
giấy: “Tôi từ giã cuộc đời” ở trên bàn làm việc. Người ta tìm thấy quần áo của
ông trên bờ sông Dniepr, nhưng thợ lặn không tìm thấy xác ông. Trong khi đó ông
ẩn náu ở các nơi trong nước. Nhưng một tháng sau người ta vẫn tìm thấy ông, và
một năm sau thì bị bắn.
Còn Ejov thuộc số những
người không hề tìm cách chạy trốn cái chết. Trong những tháng cuối cùng, ông uống
rượu nhiều và không làm chủ được bản thân.
Hai tuần trước khi bỏ tù
Ejov, Stalin bắt Ejov viết tay ra xem những ai trong các lãnh đạo cao cấp kể cả
ủy viên Bộ Chính trị bị tố cáo và tố cáo về tội gì, Bộ Nội vụ kiến nghị xử lý
thế nào. Được một danh sách khá dài. Phải viết tay, vì Stalin cho rằng bản đánh
máy có thể làm giả. Stalin giữ tài liệu này trong tủ hồ sơ lưu trữ của mình cho
đến tận khi chết. Nội dung những lời tố cáo các ủy viên Bộ Chính trị không có
gì đặc sắc lắm: có trích dẫn một số phát biểu có hàm ý hoặc có vấn đề, một số
trường hợp nâng đỡ người quen biết v.v... Nhưng quan trọng là bản thân việc có
và lưu giữ tài liệu đó. Nó cho thấy rằng trong trường hợp cần thiết cũng có thể
có những tài liệu như thế đối với những người khác.
Cái cớ để bắt Ejov là bức
thư của Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh Ivanovo là V.Juravlev, về việc Ejov đỡ đầu cho một số phần tử
đáng ngờ. Chỉ có thể viết bức thư như thế khi tác giả của nó biết chắc rằng số
phận Ejov đã được định đoạt. Juravlev được Stalin ngợi khen và chuyển lên
Matxcơva, đến thời Beria thì bị xử bắn.
Ngày 23/11/1938 Stalin gọi
Ejov lên làm việc. Ejov ngồi trong phòng làm việc của Tổng Bí thư gần bốn tiếng
đồng hồ: từ 9 giờ 15 tối đến một giờ đêm. Cùng dự có Molotov và Voroshilov.
Sau khi ra về, ngay trong
đêm đó, Ejov viết bản tự kiểm điểm, nhận sai lầm, khuyết điểm trong công tác,
xin từ chức và hứa sửa chữa khuyết điểm, chuộc lại lỗi lầm trong bất kỳ nhiệm vụ
nào khác mà Đảng giao phó.
Kể cả một người như Ejov
mà cũng có phần ngây thơ, biết rằng sẽ bị mất hết chức (ừ thì sẽ bị bắt, nhưng
không thể bị bắn - vì tội gì mà bắn kia chứ?), mà không hiểu rằng Ejov và ê kíp
của ông ta đã trở thành đồ bỏ đi.
Lãnh đạo Bộ Nội vụ bây giờ
là một ê kíp mới đứng đầu là Beria. Họ tìm cách giũ bỏ lãnh đạo cũ.
Việc thay đổi lãnh đạo Bộ
Nội vụ có lợi về mặt dư luận, để có thể đổ mọi trách nhiệm và những sai lầm
trong thời gian qua lên đầu Ejov và ban lãnh đạo cũ, để thấy rằng Đảng đã
nghiêm khắc trừng trị những kẻ vượt quá quyền hạn, vi phạm pháp luật.
Sau buổi làm việc với
Ejov, Stalin ký một quyết định của Bộ Chính trị, tương đối ôn hòa, cho Ejov thôi chức Dân
ủy Nội vụ, vẫn giữ chức Bí thư Trung ương Đảng và Dân ủy Vận tải đường sông.
Ngày hôm sau, 25/11,
Beria được bổ nhiệm chức Dân ủy Nội vụ.
Ejov vẫn không được yên.
Ngày 10/1/1939, Thủ tướng
Chính phủ Molotov ký một quyết định:
l. Cảnh cáo đồng chí Ejov
về việc thường xuyên đi làm muộn hoặc vắng mặt ở Bộ Vận tải đường sông, không
quán xuyến được công tác của Bộ.
2. Đồng chí Ejov phải sửa
chữa thiếu sót và lãnh đạo một cách bình thường công tác của Bộ Vận tải đường
sông.
Sau đó, Bộ Vận tải đường
sông bị tách ra làm hai bộ: Bộ Hàng hải và Bộ Đường sông. Ejov trở thành mất chức,
vì bộ mà ông ta lãnh đạo không còn.
Ngày 10/4/1939, Georghi
Maximilianovich Malenkov, vừa mới được bầu làm Bí thư Trung ương Đảng kiêm Trưởng
ban phụ trách cán bộ lãnh đạo - chức vụ mà Ejov lúc đang sung sức và đang lên
đã đảm nhiệm - mời Ejov lên gặp.
Tại phòng làm việc của
Malenkov, nguyên Dân ủy Nội vụ đã bị bắt. Lệnh bắt do Dân ủy Nội vụ mới -
Lavrenti Pavlovich Beria ký.
Ở trong tù, Ejov bị ốm -
ông bị lao và người ta đưa ông vào bệnh viện nhà tù, ở đó ông được điều trị dưới
biệt danh “bệnh nhân số l”.
Ejov bị buộc tội “có liên
lạc với tình báo Ba Lan và Đức và với một số nhóm cầm quyền Ba Lan, Đức, Anh,
Nhật, có âm mưu đảo chính dự định tiến hành vào ngày 7/11/1938”.
Bản thân Ejov công nhận
là tình báo Đức đã đặt vấn đề hợp tác với ông vào năm 1930, rằng ông “đã nhiều
năm tiến hành hoạt động hai mặt, đấu tranh ngầm chống lại Đảng và nhân dân Liên
Xô”. Ông cũng nhận là có quan hệ với các phần tử Trotskyist và tình báo nước
ngoài.
Tóm lại là Ejov nhận tất
cả.
Trước khi diễn ra phiên tòa, Beria đã vào tù gặp
Ejov. Beria đã nói gì với Ejov? Có lẽ, như thông thường, ông ta khuyên Ejov nên
thành khẩn thú nhận tội lỗi thì sẽ có thể được khoan hồng. Bởi vì tại phiên tòa, khi phát biểu lời cuối
cùng, Ejov nói: “Beria vừa gặp tôi hôm qua và có bảo tôi rằng, nếu tôi trình
bày mọi việc một cách trung thực, thành khẩn, thì sự sống của tôi sẽ được bảo đảm”.
Thực chất là tại phiên
tòa, ông đã bác bỏ tất cả những lời buộc tội, và kết thúc lời cuối cùng của
mình tại phiên tòa như sau:
1 Số phận tôi đã được định
đoạt rồi: chắc chắn là người ta không cho tôi sống. Tôi đề nghị một điều: hãy bắn
tôi nhanh gọn, đừng làm tôi đau đớn thêm nữa.
2. Cả Tòa án, cả Trung
ương đều không tin là tôi vô tội. Tôi đề nghị, nếu mẹ tôi còn sống, hãy trợ cấp
cho tuổi già của bà và nuôi dưỡng đứa con gái nhỏ của tôi.
3. Đề nghị không bắt những
người họ hàng của tôi vì họ hoàn toàn không có tội gì cả.
4. Đề nghị Tòa xem xét kỹ
vụ Jurbenko, bởi vì tôi cho đấy là một con người trung thực và trung thành với
sự nghiệp của Lênin - Stalin.
5. Tôi đề nghị nói với
Stalin rằng trong cuộc đời chính trị của tôi, tôi chưa bao giờ lừa dối Đảng cả
- hàng nghìn người biết rõ điều này. Những gì xảy ra là do sự đan xen của một
loạt hoàn cảnh và không loại trừ có bàn tay kẻ địch. Hãy nói với đồng chí
Stalin rằng tôi sẽ chết nhưng môi vẫn nhắc tên Stalin”.
Phiên tòa diễn ra trong một ngày
4/2/1940, kết án tử hình Ejov về tội “phản quốc, phản động, gián điệp, chuẩn bị
tiến hành hoạt động khủng bố và giết hại những nhân vật đối lập”.
Sau này con gái Ejov, mà
khi ông bị xử bắn mới có sáu tuổi, có viết đơn đề nghị phục hồi danh dự cho bố
vì - trong đơn viết - ông “là sản phẩm của
chế độ độc tài đẫm máu thống trị khi đó. Lỗi của ông trước nhân dân Liên Xô
cũng không nặng hơn lỗi của Stalin, Molotov, Kaganovich, Voroshilov, Vyshinski”.
Nhưng Tòa quân sự của Tòa
án Tối cao
tháng 6 năm 1998 đã ra quyết định bác bỏ đề nghị phục hồi danh dự cho N.I.Ejov.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét