Các chủ tịch KGB - Những hồ sơ lộ sáng
Tác giả: Leonid Mlechin
Dịch
giả: Hùng Sơn
NXB Lao Động - 2001
Thời Brejnev
Chương XIV
Yuri Vladimirovich Andropov
Chủ tịch KGB (5/1967 - 5/1982)
Yu.V. Andropov sinh ngày
15/6/1914 tại Nagutskaia, tỉnh Stavropol. Cha ông là điện báo viên đường sắt, mất
sớm khi ông mới lên năm. Mẹ ông là Evginia Fainstein gốc Do Thái, một giáo viên
âm nhạc, cũng qua đời sớm năm 1927, lúc ông mới 13 tuổi. Cho nên Iuri Andropov
đã sớm phải tự lập và vươn lên trong cuộc sống.
Andropov tốt nghiệp trung
cấp kỹ thuật giao thông đường sông ở Rybinsk (thành phố miền Bắc nước Nga).
Sau này, khi đã là Trưởng
ban đối ngoại Trung ương Đảng, Andropov học trường Đảng cao cấp - đấy là hình
thức để bổ khuyết việc thiếu bằng đại học đối với cán bộ cấp cao. Khi đã là Chủ
tịch KGB, ông bắt đầu học tiếng Anh. Ngoài ra, công tác ở nước ngoài, tiếp xúc
nhiều với giới trí thức, văn nghệ sĩ và tài liệu, sách vở cũng là nguồn bổ sung
cho việc chưa được học đại học chính quy thời trẻ của ông. Nói chung, tiếp xúc
và làm việc với ông, người ta thấy ông là một người có tri thức cao.
Sau khi ra trường, Andropov
làm điện báo viên và thợ máy trên chiếc tàu mang tên Volodarski chạy dọc sông
Volga. Giai đoạn sông nước này sẽ để lại mãi trong Iuri Andropov hình ảnh người
cầm lái đưa cả chiếc tàu cùng đoàn thủy thủ vượt qua sóng gió đi tới bến bờ.
Từ 22 tuổi, Andropov làm
công tác Đoàn, sau đó làm công tác Đảng và KGB. Đường đi của ông giống với
Shelepin. Ưu điểm của con đường đó là: nắm được nhiều thông tin, toàn những
thông tin chắt lọc và chất lượng cao, hiểu bộ máy cơ chế và biết vận hành các
đòn bẩy quyền lực. Nhưng mặt hạn chế của con đường công danh đó là ít kinh nghiệm
lãnh đạo thực tế, địa phương và con người với muôn mặt đa dạng đời thường. Hàng
trăm trang tài liệu mật đặt lên bàn làm việc thường ngày như cung cấp cho các
thủ trưởng một bức tranh đầy đủ nhất, thật
ra là không đầy đủ vì là sản phẩm của bộ máy.
Công tác Đoàn là trường
đào tạo tốt đối với các cán bộ trẻ, có thể đưa người ta lên rất nhanh, miễn là
sống sót được. Andropov đã sống sót được qua những năm thanh trừng 1936-1937,
và trở thành Bí thư Tỉnh đoàn Iarosslav và năm 1940 được cử về Petrozavodsk (phía bắc nước Nga, giáp Phần Lan - ND) làm Bí thư
thứ nhất Đoàn thanh niên nước Cộng hòa Karelia - Phần Lan.
Trong những năm
1929-1930, đây là nước Cộng hòa tự trị Karelia. Nhưng khi bắt đầu chiến tranh với
Phần Lan, Stalin có những ý đồ sâu xa nên đã đặt tên là nước Cộng hòa Karelia-Phần Lan. Trong
trường hợp Liên Xô thắng, thì chắc chắn lãnh thổ “nước Cộng hòa Karelia-Phần Lan” đã được
mở rộng thêm rất nhiều.
Bí thư Trung ương Đảng nước
Cộng hòa là Otto Kuusinen - một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Phần
Lan, nguyên
cán bộ của Quốc tế Cộng sản. Ông sẽ là người đỡ đầu của Andropov.
Năm 1938, Andropov lấy vợ - vợ
ông là Nina Engaluycheva học cùng trường giao thông đường sông, và sinh hai con
- một trai, một
gái. Sau đứa con thứ hai, hai người bỏ nhau. Ở Petrozavodsk, Andropov lấy vợ lần thứ hai và cũng
sinh được một trai, một gái.
Năm 1944, 30 tuổi,
Andropov trở thành Bí thư Thành ủy Petrozavodsk, sau chiến tranh là Bí thư thứ
hai Đảng Cộng sản nước Cộng hòa Karelia.
Năm 1952, Kuusinen được bầu
vào Đoàn Chủ tịch Trung ương Đảng, liền đưa Andropov lên Matxcơva.
Năm 1953, Andropov làm Vụ
trưởng Vụ châu Âu 4 - Bộ Ngoại giao. Sau khi Stalin mất, Liên Xô chủ trương
cử các cán bộ Đảng có kinh nghiệm tăng cường cho Bộ Ngoại giao để đi làm Đại sứ
ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Năm 1954 Andropov được cử
đi làm Đại sứ ở Hungary.
Bài Học Hungary
Ba năm làm Đại sứ đã rất
có ích cho Andropov, trước hết là về mặt mở rộng tầm mắt và tiếp nhận cái mới -
40 tuổi chưa phải là nhiều.\
Andropov đến Hungary khi mà tình hình kinh tế
nước này xấu đi do chính sách đẩy mạnh công nghiệp hóa và tập thể hóa nông thôn. Người dân Hungary không thấy có chuyển biến
gì như ở Liên Xô sau Đại hội 20, muốn nhìn thấy sự đổi mới lãnh đạo, đặc biệt
là thay thế Matiash Rakoshi già cỗi và phục hồi cho những người đã bị thanh trừng
thời gian trước. Đại sứ Andropov chăm chú theo dõi sự trở lại chính trường của
Yanosh Kadar - người đã từng bị bắt vì quan điểm chính trị, và coi việc ông ta
được trở lại Bộ Chính trị là một sự nhượng bộ về lập trường.
Sứ quán cũng rất chú ý
theo dõi và lo lắng trước sự phục hồi của Imre Nagy - một người có tư tưởng cải
cách, và không thể phủ nhận được sự thật ông ta là chính khách được lòng dân nhất.
Là Thủ tướng Hungary sau 1945, Imre Nagy bị kết tội “hữu khuynh” và bị khai trừ Đảng. Các nhà
lãnh đạo Hungary, đặc biệt là thuộc phái “thủ cựu” liên tục thông tin cho Andropov biết nội dung các
cuộc họp Trung ương và cả các câu chuyện riêng giữa các ủy viên Bộ Chính trị
Hungary. Và
Andropov thường xuyên báo cáo về Matxcơva tình hình nội bộ ban lãnh đạo Hungary kèm theo đánh giá nguyên
nhân tình hình là sự thiếu kiên quyết của lãnh đạo Hungary.
Tháng 10/1956 Imre Nagy
được phục hồi Đảng tịch.
Trước đó ít lâu, ở Ba Lan,
Gomulka, người mà năm 1949 cũng bị khai trừ Đảng vì quan điểm dân tộc hữu
khuynh, cũng được phục hồi Đảng tịch và được bầu làm Bí thư thứ nhất Đảng công
nhân thống nhất bất chấp ý kiến của Matxcơva. Nguyên soái Liên Xô Rokossovki -
người mà năm 1949 được Stalin cử sang Ba Lan và trở thành Bộ trưởng Quốc phòng
Ba Lan bị ra khỏi Bộ Chính trị Ba Lan, mất chức Bộ trưởng Quốc phòng, và trở về
Nga với lời than vãn chua chát: “Khi ở
Nga tôi luôn là người Ba Lan, còn về Ba Lan tôi lại bị xem là người Nga”.
Ở Budapest, những người
tuần hành giật đổ bức tượng Stalin. Cuộc tuần hành sinh viên ngày 23/10 ban đầu
bị cấm, sau được phép, đã biến thành một cuộc biểu dương lực lượng chống chính
quyền.
Andropov đề nghị chỉ huy
Quân đoàn Liên Xô đóng ở Hungary đưa quân vào thủ đô Budapest, nhưng Tư lệnh Quân
đoàn trả lời là việc này phải có lệnh của Bộ trưởng Quốc phòng.
Andropov bèn liên lạc với
Matxcơva. Tổng Tham mưu trưởng quân đội là V.D.Sokolovsski gọi điện cho chỉ huy quân đoàn ở
Hungari và ra lệnh đưa quân vào.
Tưởng rằng Liên Xô đưa
quân vào là xong mọi chuyện, như ở Đức năm 1953. Nhưng người Hungary đánh trả bằng cách bắn
vào lính Liên Xô, ném chai có chất cháy vào xe tăng Liên Xô. Quân đội Hungary thì không giúp quân đội
Liên Xô.
Imre Nagy lên làm Thủ tướng
và yêu cầu quân Liên Xô rút ra khỏi thủ đô.
Ý kiến ở Matxcơva cũng
không phải là đồng nhất. Nhưng Khruschov quyết định thu quân về, vì hiểu rằng
quan hệ giữa Liên Xô với các nước xã hội chủ nghĩa đã bước vào một giai đoạn khủng
hoảng.
Nhưng quân và xe tăng
Liên Xô vừa rút khỏi Budapest thì lại xảy ra đổ máu: quần chúng biểu tình trừng
trị các cán bộ Thành ủy và An ninh quốc gia, treo ngược họ lên cành cây.
Matxcơva quyết định lại
đưa quân vào, lần này 60 nghìn quân, và hành động kiên quyết hơn, đồng thời chủ
trương thành lập một chính phủ mới, “biết điều” hơn. Ba mươi xe tăng ngày đêm tề
tựu xung quanh để bảo vệ an ninh cho Sứ quán.
Hai ứng cử viên được xem
xét là Ia.Kadar và F.Miunich. Họ được bí mật đưa sang ra mắt Matxcơva. Kết quả,
Matxcơva ưng Kadar hơn.
Ngày 11/1, Thủ tướng Imre
Nagy hủy bỏ Hiệp ước Varsava và tuyên bố Hungari trung lập, và thông báo trên
đài phát thanh cho toàn dân về “cuộc can
thiệp của Liên Xô nhằm lật đổ chính phủ dân chủ hợp pháp của Hungary”.
Các ổ đề kháng của Imre
Nagy lần lượt bị pháo binh và xe tăng Liên Xô dập tắt. Imre Nagy, Bộ trưởng Quốc
phòng Maleter cùng vài người khác bị tử hình, những người còn lại bị kết án tù
với thời hạn khác nhau.
Tổn thất của Hồng quân
Liên Xô qua sự kiện Hungari là 640 người chết, 1.251 người bị thương. Tổn thất
của Hungari là 2.652 người chết và 19.226 người bị thương.
Bài học mà Andropov rút
ra được từ sự kiện ở Hungary rất giản dị: không có khó khăn kinh tế hay sự phá
hoại của gián điệp và phản động nào có thể làm sụp đổ chính quyền. Nhưng chỉ cần
lơi lỏng mặt trận tư tưởng là Đảng cầm quyền có thể dễ dàng mất sự kiểm soát đối
với đất nước.
Tính khắc nghiệt của bài
học nói trên còn được bổ sung bởi việc Andropov đã chính mắt mình nhìn thấy người
dân căm ghét và hành quyết các cán bộ an ninh như thế nào. Người ta còn nói rằng
những ngày bi thảm ở Budapest đã ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và đặc biệt là tâm lý -
tinh thần của bà vợ Andropov và hạnh phúc gia đình ông.
Ban Đối Ngoại.
Andropov trở về Matxcơva
năm 1957 trong hình ảnh của vị cứu tinh chủ nghĩa xã hội ở Hungari. Trung ương
Đảng giao cho ông phụ trách Ban Đối ngoại - tức là cơ quan phụ trách quan hệ với
các đảng cầm quyền của các nước Xã hội chủ nghĩa. Vấn đề trong lĩnh vực này
cũng tích tụ khá nhiều: Quan hệ với Nam Tư, Albanie và nhất là với Trung Quốc
ngày càng xấu đi. Với tính cách của Khruschov, thì ông sẵn sàng hòa hoãn với Mỹ chứ nhất
quyết không chịu nhượng bộ về lập trường với Trung Quốc.
Andropov dành nhiều thời
gian nghiên cứu và triển khai hoạt động trên cương vị công tác mới. Ông tuyển chọn
được khá nhiều người có đầu óc về để cộng tác với mình. Nhiều người trong số đó
sau này trở thành các Viện sĩ, như Georghi Arbatov (Viện Mỹ - Canada). Oleg
Bogomolov (Viện Kinh tế Xã hội chủ nghĩa), nhà báo và nhà chính luận A. Bovin v.v..., tạo
cho ông hình ảnh của một nhà chính trị có tư duy đổi mới. Những người đã từng
làm việc với ông thời gian này đều vui sướng nhớ lại bầu không khí tự do tư tưởng
và cởi mở về tinh thần mà ông đã tạo ra để phân tích và bàn thảo giải pháp trên
những đề tài mà người ta thường không dám đụng đến ở cơ quan của Đảng. Andropov
kiên nhẫn lắng nghe cả những ý kiến và quan điểm mà ông không thể thích được,
nhưng kiềm chế bình luận chụp mũ. Ông coi đó là nguồn thông tin từ đời sống
sinh động, là sự bổ sung vào đánh giá chính thống, lặng lẽ nghe và suy ngẫm.
Andropov không uống rượu
và không hút thuốc, không quát tháo, yêu nhạc, hát được, và làm thơ. Vốn bản chất
khiêm tốn, giản dị, không thích khoe mẽ, người cao lớn, nhưng Andropov đi đứng
không bao giờ ưỡn ngực, ngẩng cao đầu - đến cả trong dáng đi ông cũng như sợ
chiều cao của mình lấn át người khác.
Thời Khruschov và sau đó
Brejnev, người ta rất trọng dụng những người viết diễn văn cho lãnh đạo - những
cây bút. Để làm việc này, người ta sử dụng những công chức có kiến thức uyên
bác, có tài năng văn chương.
Chung quanh Andropov cũng
không thiếu những người như thế. Chỉ có điều, xét trên bình diện toàn xã hội,
các diễn văn thì ngày càng hay, trong khi thực tế thì cứ ngày càng chán.
Sau khi Brejnev trở thành
Tổng Bí thư, hai người ở vị trí thứ hai trong Ban Bí thư là Suslov và
Kirilenko. Họ đấu đá nhau để giành vị trí kế cận Brejnev. Điều đó khiến cho
Andropov khổ sở khi phải xin ý kiến cả hai người. Xin được ý kiến người này thì
người kia cho ý kiến ngược lại. Khi người này vắng mặt, người kia ở nhà chủ trì
Ban Bí thư thì bác cách giải quyết trước đó.
V.M.Falin - nguyên Bí thư
Trung ương Đảng phụ trách đối ngoại, nguyên Đại sứ Liên Xô ở Đức viết: “Về tri thức, Andropov hơn hẳn các thành viên
khác trong ban lãnh đạo. Nhưng trong khi ông còn đang ở vị trí hạng hai, hạng
ba, điều đó chỉ càng làm cho ông thêm khổ. Những kiến giải hồ đồ, bộp chộp của
một số vị lãnh đạo làm cho ông bị tổn thương, co lại trong cái vỏ kín đáo của
mình”.
Ngoài việc không tìm được
tiếng nói chung với nhà tư tưởng Suslov, Andropov cũng không được cảm tình của
Kosygin - nhà cải cách kinh tế, không vào nhóm với Shelepin, còn Kuusinen - người
đỡ đầu của ông thì mất năm 1964. Andropov hầu như đơn thương độc mã.
“KGB... Không Phải Ai Cũng Làm Được” - (L.I.Brejnev)
Ngày 19/5/1967, Andropov
được cử làm Chủ tịch KGB thay Semichastnyi. Andropov chỉ được biết về quyết định
này vào ngày hôm đó. Người đề xuất và quyết định việc này là Brejnev, vì chức
Chủ tịch KGB vốn được coi là vị trí quan trọng, thuộc thẩm quyền quyết định
riêng và cuối cùng của Tổng Bí thư. Người ta cho rằng Brejnev cử Andropov nhận
công tác đó để đưa Andropov ra khỏi bộ máy Ban Bí thư để đỡ “gai” cho Kosygin.
Quan hệ giữa Andropov với
Kosygin cũng thật lạ lùng: ngoài sự không ưa nhau về cá tính, cá nhân thế nào
đó, sâu trong tư tưởng, Andropov cho rằng những kế hoạch cải cách kinh tế của
Kosygin (sau này không được thực hiện) là đi quá xa so với khuôn khổ chính trị
tư tưởng.
Nhưng sự thực, Brejnev
đưa Andropov về KGB không phải để làm hài lòng Kosygin, mà là làm hài lòng
chính mình: hơn ai hết, Brejnev hiểu con người.
Hội nghị Trung ương diễn
ra một tháng sau đó, Andropov được bầu làm ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị. Sau
Beria, đây là lần đầu tiên Chủ tịch cơ quan an ninh lại được giữ cương vị Đảng
cao như thế. Đấy là món quà tặng của Brejnev để bù đắp cho việc nhận chức vụ mà
Andropov không muốn, đồng thời là sự đặt trước lòng tin.
Andropov nhất quán thể hiện
lòng trung thành và sự ủng hộ đối với Tổng Bí thư, coi đó là “vấn đề ổn định của Đảng và Nhà nước, đồng thời
là vấn đề ổn định quốc tế”, (hồi ký của M.Gorbachov).
Cũng theo Gorbachov kể lại,
khi ông trở thành ủy viên Bộ Chính trị kiêm Bí thư Trung ương (tức là ngôi sao
đang lên trong Đảng), được phân một ngôi nhà nghỉ ngoại ô cạnh nhà nghỉ của Andropov,
vợ chồng ông có mời ông bà Andropov sang chơi ăn cơm, Andropov từ chối và ôn tồn
giải thích cho Gorbachov: “Nếu chúng tôi
sang anh ăn cơm, thì ngày mai người ta sẽ thắc mắc là chúng ta bàn chuyện gì, rồi
thì sẽ có báo cáo gửi tới Leonid Ilich”, (tức Brejnev).
Nói chung Andropov là người
thận trọng và nguyên tắc, không bao giờ nhận thừa trách nhiệm về mình, để không
tạo cảm tưởng là vượt quá quyền hạn. Về mọi vấn đề lớn nhỏ có tính nguyên tắc cần
phải có ý kiến lãnh đạo, ông đều viết công văn gửi Ban Chấp hành Trung ương.
Tháng 12/1967, nhân kỷ niệm
50 năm ngày thành lập KGB, lại nhân dịp Andropov mới về làm Chủ tịch, Cục cán bộ
có chuyển một thùng rượu cô-nhắc kèm thiếp của Phó Chủ tịch thứ nhất ủy ban mừng Andropov. Vợ
Andropov bảo người mang rượu nói lại với Phó Chủ tịch thứ nhất ủy ban là rất
cám ơn, nhưng rượu thì không nhận. Sau ngày lễ, toàn cơ quan biết chuyện đó, và
từ đấy về sau không bao giờ ai dám gửi quà cho Chủ tịch ủy ban nữa.
Andropov về lãnh đạo KGB
đã tăng thêm rất nhiều quyền lực cho cơ quan này, trả lại cho nó tính bao trùm
toàn bộ xã hội và cuộc sống của người Xô viết mà nó vốn có và đã bị cắt giảm đi
mất nhiều bởi Khruschov - một người vốn rất ngại vai trò của KGB dưới thời
Beria.
Trước Andropov, KGB là ủy
ban ngang Bộ trực thuộc Chính phủ. Khi Andropov về làm Chủ tịch, KGB thôi trực
thuộc chính phủ và được gọi đơn giản mà đầy ý nghĩa là KGB Liên Xô. Là thủ trưởng,
Andropov quan tâm đến công tác và đời
sống của cán bộ, chiến sĩ, và họ đáp lại Andropov bằng lòng trung thành và tận
tâm phục vụ. Cán bộ nhân viên cơ quan được hưởng nhiều ưu đãi về nhà ở, hàng
phân phối, cơ quan còn có hệ thống phòng khám, bệnh viện, nhà nghỉ cho cán bộ
nhân viên không mất tiền. Công tác trong cơ quan an ninh trở thành một ngành
nghề danh giá và được nể trọng. Uy tín của cơ quan an ninh tăng lên. Những nỗi
kinh hoàng mỗi khi nhắc đến những gì mà KGB đã làm dưới thời Stalin lùi dần vào
dĩ vãng.
Là người có tầm nhìn chiến
lược và làm việc có phương pháp, Andropov đã thành lập thêm một số bộ phận mới
trong cơ cấu tổ chức của cơ quan nhằm theo dõi bao quát và đầy đủ hơn mọi mặt của
đời sống xã hội.
Nhưng đồng thời, Andropov
tập trung đầu tư nhiều nhất cho khâu then chốt là lĩnh vực tư tưởng mà kinh
nghiệm thời gian công tác ở Hungary đã mách bảo ông.
Khi người đứng đầu cơ
quan an ninh Cộng hòa dân chủ Đức là Wolf bàn việc đánh đổi Sharansky (nhân
vật bất đồng chính kiến người Do Thái của Liên Xô - ND) lấy một sĩ quan
phản gián Cộng hòa dân chủ Đức bị Tây Đức bắt, Andropov giải thích:
“Đồng chí Wolf ạ, mong đồng chí hãy thông cảm cho: Sharansky là gián điệp.
Nhưng quan trọng hơn, anh ta là một người Do Thái. Nếu chúng ta thả anh ta, thì
rồi các dân tộc khác cũng sẽ theo gương: người Đức ở vùng Volga, người Tacta ở
Crưm, rồi người Chechnya... Nếu chúng ta mở các van ra, người ta sẽ thi đua nêu
yêu sách. Chúng ta sẽ ngập trong cơn lũ đó và không tài nào giữ được họ nữa”.
Những lời của Andropov trở
thành những lời tiên tri!
Một tháng sau khi nhận chức,
Andropov viết một bản báo cáo gửi Ban chấp hành Trung ương về tình hình hoạt động
của các lực lượng phá hoại ngầm, các xu hướng dân tộc chủ nghĩa và tôn giáo phản
động, ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đối với thanh niên, và sau đó được Bộ
Chính trị nhất trí, Andropov cho thành lập trong KGB một đơn vị mới gọi là Tổng
cục 5, bao gồm một số vụ như Vụ phụ trách công tác với giới trí thức, với thanh
niên sinh viên; Vụ phụ trách quan hệ dân tộc, tôn giáo, vấn đề chủ nghĩa Zionism (tức Do Thái); Vụ phụ trách công tác với
những nhân vật bất đồng chính kiến nổi tiếng nhất (như Soljenitsyn, Sakharov).
KGB dưới thời Andropov đã
tìm được những cách tiếp nhận cương quyết nhưng mềm dẻo và có hiệu quả đối với
những thành phần tế nhị trong xã hội.
Người ta cho rằng nếu
không phải Andropov mà một người khác đứng đầu KGB, quy mô bắt bớ và khủng bố
có thể đã lớn hơn nhiều. Đúng là như vậy. Những năm Brejnev làm Tổng Bí thư và
Andropov làm Chủ tịch KGB là thời kỳ ổn định nhất về chính trị - xã hội của
Liên Xô. Điều này một phần cũng do ở tư chất của các nhà lãnh đạo đó.
Một lần Brejnev nói chuyện
với nhà văn K.Simonov:
- “Chừng nào tôi còn sống - và sửa lại - có nghĩa là chừng nào tôi còn ngồi ở đây, sẽ không có đổ máu”.
Phải là một nhà lãnh đạo
khoan hòa như
Brejnev để mà giữ xã hội Liên Xô bình ổn trong hai chục năm.
Và cũng phải có một trí tuệ
sắc sảo và tư chất tinh tế, điềm đạm như Andropov thì mới nghĩ ra được một hệ
thống kiểm soát xã hội về mặt tư tưởng - tinh thần một cách tổng thể và toàn bộ
như thế.
Song le, thời Andropov
cũng là thời mà số người mắc bệnh tâm thần hơi nhiều so với các giai đoạn khác.
Những công dân bị buộc tội
theo điều 70 (tội “tuyên truyền chống chế độ”) và theo điều 190 (được đưa vào
dưới thời Brejnev, chỉ tội nhẹ hơn: tội “phổ biến những thông tin thất thiệt có
hại cho chế độ Xô viết”) phần lớn bị đưa đi các cơ sở điều trị bệnh tâm thần.
Đó là hình thức cải tạo người bất đồng chính kiến nhân đạo hơn so với thời
Stalin.
Tại Hội nghị Trung ương
tháng 4/1973, khi đánh giá về công tác an ninh, Brejnev đã bỏ giấy ra nói “vo”
như sau:
“Ủy ban An ninh quốc gia dưới sự lãnh đạo của đồng chí Andropov đã giúp
cho công tác của Trung ương đắc lực, cả về đối nội và đối ngoại. Thường người
ta nghĩ rằng KGB là phải bắt bớ, bỏ tù. Họ nhầm. KGB - đó trước hết là công tác
to lớn và đầy trách nhiệm. Cần phải có năng lực và tính cách, không phải ai
cũng làm được, ở đây cần phải có lòng dũng cảm và lòng trung thành to lớn”.
Những lời đó là sự đánh
giá cao đối với KGB, cũng là sự đánh giá cao đối với Andropov.
Tổng Bí Thư
Cuối năm 1967, Brejnev
thăm hữu nghị chính thức Tiệp Khắc, nhưng rút ngắn chương trình và về sớm so với
kế hoạch. Khi ông ở đó, các ủy viên Bộ Chính trị đều níu áo nói nhỏ để mỗi người
trình bày chuyện của mình.
Brejnev bực, nói với
thành viên trong đoàn: “Lại còn thế nữa,
họ còn muốn kéo chúng ta vào những chuyện lôi thôi của họ nữa”, và bảo chuẩn
bị máy bay ngay ngày hôm sau về.
Chín tháng sau, Bộ Chính
trị Liên Xô cho đưa quân vào Tiệp Khắc.
Đối với Andropov, “mùa
xuân Praha” là sự xét lại chủ nghĩa xã hội, là sự lặp lại những sự kiện ở
Hungary. Cần
phải phản ứng một cách nhanh chóng và cứng rắn.
Khác với Hungary, ở Tiệp quân đội Liên Xô
không gặp phải sự kháng cự vũ trang.
Bản thân chức vụ công tác
của Andropov buộc ông phải là “diều hâu” trong chính sách đối ngoại, trước hết
là trong quan hệ với Mỹ và phương Tây.
Trong khi Brejnev còn sống,
quan hệ với Mỹ được duy trì một cách cân bằng trong khuôn khổ của chính sách hòa hoãn, hòa dịu. Khi Brejnev ốm nặng,
không còn nắm được toàn bộ việc trong tay, thì mọi quyết sách lớn nằm trong tay
bộ ba trong Bộ Chính trị: Andropov - Chủ tịch KGB, Ustinov - Bộ trưởng Quốc phòng và
Gromyko - Bộ
trưởng Ngoại giao.
Đặc biệt Andropov và
Ustinov rất gần gũi nhau trong đánh giá đối phương và xác định chiến lược
nghiêng về quân sự và an ninh.
Việc Liên Xô đưa quân vào
Afganistan năm 1979 do bộ ba quyết định chính là trong bối cảnh đó.
Tháng 1/1982, Mikhail
Suslov, người giữ trọng trách Bí thư Trung ương suốt 35 năm, từng đóng vai trò
quan trọng trong việc hạ bệ Khruschov và đưa Brejnev lên làm Tổng Bí thư, người
thứ hai trong Đảng, - qua đời.
Mọi người hồi hộp chờ đợi:
Ai sẽ thay vị trí của Suslov?
Vì đây thực tế sẽ là người
lãnh đạo tương lai của Liên xô. Brejnev lúc đó đã rất ốm yếu.
Tại Hội nghị Trung ương
tháng 4/1982, Andropov được bầu làm Bí thư Trung ương Đảng. Được phân công đọc
diễn văn tại lễ kỷ niệm ngày sinh Lênin 22/4, Andropov có một bài phát biểu đặc sắc. Cái mới toát ra từ bài diễn văn súc tích, không có những
câu tung hô rỗng tuếch như thường lệ, lại có cả những câu như: “Chúng ta còn chưa hiểu một cách thực sự xã hội
xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng”. Andropov được hoan hô rất lâu,
đến nỗi chính ông chột dạ (vì sợ “lấn chúa”). Nhưng Breinev quá hiểu và tin
Andropov. Vả lại, ông cũng hiểu rằng đã đến lúc phải xây dựng uy tín cho người
kế tục.
Ngày 10/11 năm đó (1982),
Brejnev qua đời. Hội nghị Trung ương chính thức hóa việc Andropov thay thế Brejnev lãnh đạo Liên Xô.
Việc chuẩn bị người thừa
kế Brejnev đã được bàn từ lâu trong những năm cuối của Brejnev. Bản thân
Brejnev có ý định “nhắm” K.Chernenko hoặc Sherbitsski. Trên đoàn Chủ tịch,
Chernenko thường ngồi cạnh Brejnev, còn bên kia là Thủ tướng Tikhonov.
Nhưng tháng 4/1983, khi
Andropov thôi chức Chủ tịch KGB lên làm Bí thư Trung ương Đảng, thì người ta đã
dự đoán về khả năng Andropov là người kế vị.
Hai chiến hữu còn lại
trong “bộ ba” hùng mạnh là Ustinov và Gromyko, cùng với Thủ tướng Tikhonov đã
thống nhất rằng Tổng Bí thư phải là Andropov. Lúc đó ông đã 68 tuổi - một cái
tuổi đã kha khá mà ít người giữ được sức lực và sự nhanh nhạy để bắt đầu một
công cuộc mới.
Tuy thế Andropov vẫn đã bắt
đầu.
G.Shakhnazarov - nguyên
Trợ lý của Tổng Bí thư có lần nói chuyện với Andropov về việc chi phí quân sự của
Liên Xô quá lớn, trở thành gánh nặng đối với nền kinh tế Andropov trả lời:
- Anh nói đúng. Đúng là
gánh nặng rất lớn. Nhưng chúng ta thực sự vẫn chỉ mới khai thác được một phần rất
nhỏ những nguồn tiềm lực của chế độ xã hội chủ nghĩa. Xã hội ta còn nhiều lộn xộn,
nhiều tiêu cực, còn nghiện rượu, còn tham nhũng, bòn rút của công. Khi nào
chúng ta chấn chỉnh lại một cách thực sự, tôi bảo đảm với anh rằng khi đó sức lực
chúng ta sẽ đủ.
Hơn ai hết, Andropov hiểu
rõ thực trạng xã hội và những mối đe dọa bên trong và bên ngoài đối với đất nước.
Ông bắt đầu bằng việc giải quyết một số tồn đọng để quá lâu, siết chặt lại kỷ
luật, trật tự, sắp xếp lại nhân sự mà trước hết là giải phóng bộ máy khỏi những
cán bộ cấp cao sâu mọt, chú trọng hiệu quả việc làm hơn lời nói.
Egor Kuzmich Ligachov -
nguyên ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng kể lại trong hồi ký về lần
gặp cuối cùng của ông với Andropov trong bệnh viện:
“Tôi không dám tin đó là Andropov. Cơn bệnh đã làm ông thay đổi hoàn
toàn đến nỗi không thể nhận ra được nữa. Vẫn cái giọng rất nhẹ nhàng thân mật.
Bằng cái giọng đó ông mời tôi vào “Hãy vào đi Egor Kuzmich - đồng chí ngồi xuống
đây”. Andropov đã nhận thấy sự hồi hộp của tôi và thật là lạ ông lại bắt đầu trấn
tĩnh tôi:
- Hãy bình tĩnh, hãy kể cho tôi nghe về công việc
của đồng chí đi - được một lúc Andropov nói - Tôi mời đồng chí đến đây để nói với
đồng chí rằng tại hội nghị Trung ương lần tới, Bộ Chính trị sẽ thảo luận vấn đề
bầu đồng chí làm Bí thư Trung ương Đảng.
Nước chè được mang tới cho chúng tôi và chúng tôi
bình tĩnh nói chuyện trong 15 phút nữa về những vấn đề trong nước. Chia tay
nhau, tim tôi thấy quặn lại với sự thương cảm dành cho ông. Tôi hiểu rằng sức lực
của ông đã cạn kiệt. Tôi không còn dịp nào được thấy Andropov sống nữa”.
Andropov qua đời ngày
9/2/1984.
Lễ mai táng trọng thể diễn
ra ngày 14/2 tại Quảng trường Đỏ.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét