Các chủ tịch KGB - Những hồ sơ lộ sáng
Tác giả: Leonid Mlechin
Dịch
giả: Hùng Sơn
NXB Lao Động - 2001
Chương V
Lavrenti Pavlovich Beria
Dân ủy Nội vụ (11/1938 -
12/1945)
Bộ trưởng Bộ Nội vụ (5/3
- 26/6/1953)
Sự nghiệp chính trị của
L.P.Beria bao gồm hai giai đoạn: ba mươi năm dưới thời Stalin và ba tháng sau
khi Stalin chết, mà cả hai giai đoạn đều đậm đà, sâu sắc.
Nhưng về ba tháng sau khi
Stalin chết, chúng ta sẽ nói đến ở chương sau, đó đã là một thời đại khác.
Trong tất cả các Chủ tịch KGB, có hai người cho đến nay vẫn tiếp tục thu hút sự
quan tâm nghiên cứu và gây nhiều tranh luận. Đó là Beria và Andropov. Đây là
hai nhân cách đa dạng, hai nhà hoạt động chính trị đa tài đa diện và phức tạp,
trong khi các Chủ tịch KGB khác, trước và sau họ nói chung là những nhân vật
đơn tuyến.
Mặc dù được rất ít người
ngưỡng mộ so với Andropov, song phải nói rằng những năm gần đây, Beria thu hút
được thêm công chúng, hay chí ít cũng được nhìn nhận nhiều hơn như là một nhà
chính trị có tài, chứ không phải chỉ là con quỷ khát máu như vẫn thường được mô
tả.
Lavrenti Beria sinh ngày
29/3/1899 trong một gia đình nông dân ở Xukhumi, cũng như Stalin, là người
Gruzia. Ông học giỏi, nhiều tài, yêu nhạc và am hiểu kiến trúc. Nhưng giữa một
thời buổi sôi sục những biến động, ông đã đi theo cách mạng, vào Đảng năm 1917,
hoạt động bí mật và làm đến Phó Chủ tịch Ủy ban đặc biệt (cơ quan an ninh), rồi Bí thư thứ
nhất Đảng bộ ngoại Cápcadơ bao gồm ba nước Azerbaijan, Gruzia và Armenia. Beria
nổi tiếng với Trung ương nhờ bài báo sau này in thành sách nhan đề bàn về “Lịch
sử các tổ chức Đảng ngoại Kavkaz”, trong đó ca ngợi công lao Stalin đối với
phong trào cách mạng Capcadơ. Nhưng đó chỉ là một phần, vì ca ngợi Stalin thì
có nhiều người, còn Stalin - nhà lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm, đánh giá Beria ở
trí thông minh và tài năng tổ chức hoàn thành nhiệm vụ. Những người không hoàn
thành nhiệm vụ vì kém năng lực hoặc vì không cho rằng phải hoàn thành nhiệm vụ
bằng mọi giá kể cả giá sinh mạng con người đều là những người mà Stalin không
dùng. Mùa hè 1933 khi Stalin nghỉ ở Abkhazia, nghe nói đã diễn ra một vụ mưu
sát. Beria nhảy ra lấy thân mình che cho Stalin và hô to: “Hãy bảo vệ lãnh tụ!”. Ai là kẻ đã định mưu sát? - cuối cùng cũng
không làm rõ được, vì lính bảo vệ trên bờ biển đã đánh chết một người giơ súng
bắn vào Stalin và người ta nói rằng Beria là bậc thầy của những màn như vậy.
Khi mới lên làm Dân ủy Nội vụ năm 1939, Beria đã
thả 336.600 người khỏi nhà tù, nhưng đồng thời lại bắt 200.000 người và sa thải
7.372 (tức là 1/5) số cán bộ của các cơ quan an ninh theo sắc lệnh “Sửa chữa những
khuyết điểm trong công tác điều tra của Dân ủy Nội vụ”.
Như vậy, với việc Beria
lên cầm quyền, các cuộc khủng bố dồn dập trong giai đoạn 1936- 1938 không hề ngừng
mà còn tăng lên. Việc tra tấn tù nhân đã có từ năm 1937, nhưng chỉ thị chính thức
cho phép việc đánh đập và tra tấn tù nhân là theo kiến nghị của Beria và do
Stalin ký ngày 10/01/1939. Stalin tin cậy giao cho Beria những nhiệm vụ đặc biệt
bí mật và khó khăn. Chỉ kể hai việc trong số đó: việc ám sát Trotsky đã bị trục
xuất từ năm 1929 đang sống ở Mehico và vụ sát hại hơn 20 nghìn tù binh Ba Lan ở
Katyn năm
1940.
Trotsky
Giết Trotsky đã bị trục
xuất khỏi Liên Xô sang sống ở Mehico là mong muốn mạnh mẽ của Stalin. Ít có ai
mà ông ghét cay ghét đắng như Trotsky. Trong vấn đề này có nhiều lý do cá nhân.
Trotsky từ đáy lòng mình khinh bỉ và coi thường Stalin.
Lev Trotsky là công thần
lập quốc, một trong những người sáng lập Nhà nước Xô viết. Số phận đã hào phóng
ban thưởng cho con người này vừa nhiều vinh quang, vừa nhiều tai tiếng, nhiều lần
lên cao cũng như nhiều lần thất sủng. Trong lịch sử cách mạng Liên Xô, ít có
nhà lãnh đạo nào nhiều thăng trầm như Trotsky. Ông đã từng chứng kiến những tư
tưởng và mơ ước táo bạo nhất của mình nhanh chóng trở thành hiện thực, và cũng
chính ông, trong một cuộc đời, đã nhìn thấy toàn bộ những hy vọng của mình tan
thành mây khói, và toàn bộ công danh, sự nghiệp của mình ra tro.
Khi Lenin còn sống, Trotsky đứng
ở hàng thứ hai trong Đảng và được xem là có thể thay thế Lenin. Trong khi đó Stalin
cũng ngày càng tăng được trọng lượng chính trị và càng ngày càng tin rằng chính
ông cần phải là người lãnh đạo Đảng và đất nước sau khi Lenin ra đi. Vì lẽ đó,
Stalin bực bội thấy mọi người tiếp tục ngưỡng mộ công lao cách mạng và tài năng
quân sự, tài năng hùng biện của Lev Trotsky.
Trotsky đã đóng vai trò quan
trọng cùng các nhà cách mạng thế hệ đầu trong việc giành chính quyền vào tay những
người Bolshevik trong cách mạng tháng Mười năm 1917. Tên tuổi ông nổi bật. Ông là nhà hùng
biện có tài. Bản thân Trotsky từng mơ ước trở thành nhà văn hoặc nhà báo. Nhưng
cách mạng thành công, và ông trở thành một trong những nhân vật chủ chốt của bộ
tham mưu của cách mạng. Khi Lenin thành lập chính phủ, định giao cho ông làm Dân
ủy Nội vụ, nhưng ông không nhận. Sverdlov đề xuất: “Thế thì giao cho ông ấy phụ trách ngoại giao” (vì Trotsky có học thức,
biết ngoại ngữ, sống ở nước ngoài nhiều). Lenin bảo: “Lúc
này thì ngoại giao có việc gì mấy!”, nhưng cũng đồng ý.
Lenin nói đúng. Trotsky nhận chức Dân ủy Ngoại giao,
nhưng vẫn bận chủ yếu công việc ở Hội đồng quân sự cách mạng và Hội đồng cách mạng
Petrograd.
- Ta sẽ ban bố mấy sắc lệnh
và lời kêu gọi nhân dân thế giới, công bố các hiệp định bí mật bất bình đẳng của
Sa hoàng và rồi đóng cửa tiệm. - Trotsky nói.
Tất nhiên là Trotsky nói
đùa, nhưng quả thật thời gian đầu sau khi cách mạng tháng Mười thành công, ngoại
giao có vẻ là lĩnh vực không thiết thực đối với người cách mạng: ngoại giao gì
khi mà vấn đề là làm thế nào để thúc đẩy tiến trình cách mạng thế giới! Bản
thân Trotsky ngày đầu tiên đến nhận
công tác ở Bộ Ngoại giao, tuyên bố trước cán bộ, nhân viên một câu “xanh rờn”:
- Giai cấp vô sản thế giới
không cần đến ngoại giao. Nhân dân lao động các nước sẽ tự hiểu nhau.
Ngoại giao Liên Xô ngay từ
những ngày đầu sau cách mạng đã mang một số tồn tại đặc trưng cho cả sau này,
như xem nhẹ chủ quyền của các quốc gia (các nhà lãnh đạo cho rằng trong trường
hợp cần thiết, nhà nước vô sản có thể tiến hành can thiệp “đỏ” nhằm phổ biến chủ
nghĩa xã hội, thiết lập chính quyền vô sản ở bất kỳ nước nào).
Trotsky làm Dân ủy Ngoại
giao vừa đúng sáu tháng, sau khi ký xong hòa ước Brest-Litov với Đức thì thở
phào và bàn giao lại chức Dân ủy Ngoại giao. Lenin giao cho Trotsky một công việc còn quan trọng
hơn nhiều: đó là thành lập quân đội, làm Dân ủy Quốc phòng và Chủ tịch Hội đồng
quân sự cách mạng.
Bất chấp sự phản đối của
các đồng chí trong Đảng, Trotsky sử dụng cả một số sĩ quan của quân đội Sa
hoàng làm biên chế chính thức của Hồng quân. Chính điều này đã giúp bảo đảm hiệu
quả của quân đội trong thời kỳ mới thành lập. Vốn tính kiêu ngạo, ông không sợ
sự cạnh tranh, không thích những người thừa hành ngoan ngoãn, mà thích làm việc
với những người có tài.
Chính ông đã tạo ra bộ
khung những tướng giỏi cho thời kỳ nội chiến. Và điều này sau này sẽ là vận đen
đối với họ: được Trotsky đưa lên ngang bằng với án tử hình!
Vai trò thống lĩnh quân đội
đối với Trotsky thật là phù hợp, vì đấy là chỗ để phát huy năng khiếu tổ chức bẩm
sinh, lòng dũng cảm và tính cương quyết cùng nghị lực to lớn của ông. Thêm vào
những đức tính ấy là sự tàn nhẫn. Lenin và Trotsky hợp tác với nhau, và họ đã chiến thắng
trong cuộc nội chiến, nhưng bằng một cái giá đẫm máu.
Sau này trong nhiều năm,
người ta viết rằng sự tàn nhẫn của Trotsky có thể giải thích bằng nguồn gốc Do
Thái của ông ta (Trotsky họ thật là Bronstein), do vậy mà ông ta không thương
tiếc gì nước Nga và người Nga.
Sự thực ý nghĩa dân tộc đối
với Trotsky cũng không khác gì đối với Dzerjinski hay Stalin cả. Họ đều không
coi mình là người Do Thái, người Ba Lan hay người Gruzia.
Họ đứng cao hơn dân tộc
và tự đặt cho mình những nhiệm vụ mang tầm thế giới.
Chiến thắng trong cuộc nội
chiến đã tăng thêm cho Trotsky nhiều người ủng hộ. Karl Kadek, ủy viên Ban Chấp
hành Quốc tế Cộng sản, một nhà cách mạng nổi tiếng thời đó, nói rằng nếu có thể gọi
Lenin là bộ
óc của cách mạng, thì Trotsky là ý chí của cuộc cách mạng ấy.
Cục trưởng Cục Chính trị
Hội đồng Quân sự cách mạng V. A.Antonov Ovseenko gọi Trotsky là “lãnh tụ, nhà tổ chức và người cổ vũ mọi thắng
lợi của cách mạng”.
Sau khi nội chiến kết
thúc, Trotsky bắt tay vào cải tổ quân đội, đã nhanh chóng giảm biên chế quân đội
để mọi người trở về làm việc và giảm gánh nặng ngân khố quốc gia. Các nhà lý luận
quân sự cho ràng Hồng quân Liên Xô đã hình thành chiến lược quân sự vô sản.
Frunze, Tukhachevski,
Budionưi và Voroshilov đã nghĩ như thế. Các nhà quân sự đỏ, đang phấn
khởi trước chiến thắng Bạch vệ trong nội chiến, cho rằng cần phải tiếp tục thế
tiến công. Riêng Trotsky cho rằng cần phải biết phòng vệ, mà không phải tiếp tục
tiến lên làm cách mạng thế giới.
Trotsky phản đối việc tuyệt
đối hóa những
bài học của nội chiến, và không xem nhẹ nghệ thuật quân sự của đối phương. Ông
đánh giá cao các tướng Bạch vệ Dutov, Cornilov, Krasnov, đô đốc Kolchak,
Denikin. Ông thường nói rằng chính chỉ huy kỵ binh Bạch vệ - Trung tướng
Mamontov đã dậy Hồng quân chiến thuật săn lùng trong vùng địch hậu.
Trong khi nhiều vị chỉ
huy không coi trọng lắm khoa học quân sự, Trotsky yêu cầu mọi người phải học tập,
kể cả ngoài mặt trận, vào thời gian không có chiến sự. Bản thân ông tham gia
vào việc soạn thảo lý luận và các bài giảng về quân sự, thành lập hệ thống đào
tạo quân sự và khoa học quân sự.
Tại Đại hội XII của Đảng,
bài tham luận của Trotsky đã được hoan nghênh nhiệt liệt, khiến cho Stalin và
các ủy viên khác của Bộ Chính trị tái mặt vì ghen tị.
Năm 1925 - lúc này Lenin đã mất và Stalin lên
thay - Trotsky bị gạt khỏi chức Dân ủy Quốc phòng và Chủ tịch Hội đồng quân sự
cách mạng. Ông bị điều về Hội đồng kinh tế quốc dân làm Vụ trưởng vụ khoa học-kỹ
thuật công nghiệp 2 năm dưới trướng của Dzerjinsky. Nhưng công tác này chẳng
chiếm hết bao nhiêu thời gian của ông. Nỗ lực chính của ông là để chiến đấu với
Stalin và chính sách của Stalin cho đến khi bị thất bại. Năm 1926 ông bị ra khỏi
Bộ Chính trị, tháng 10/1927 ra khỏi Trung ương, và một tháng sau bị khai trừ khỏi
Đảng.
Stalin không biết làm gì
với Trotsky, vì đất nước còn chưa sẵn sàng coi người bạn chiến đấu thân thiết của
Lenin là kẻ
thù. Thế là Trotsky bị đưa đi giam lỏng ở Alma-Ata, rồi từ đó bị trục xuất khỏi
Liên Xô, còn những người ủng hộ ông ta dần dần bị thủ tiêu. Nhưng rồi ở nước
ngoài, Trotsky cũng vẫn tiếp tục đấu tranh với Stalin.
Thời gian từ đó trở về
sau, Trotsky viết rất nhiều, và không phải cái gì cũng đúng. Nhưng một vài tiên
đoán lịch sử của ông đã trở thành sự thật. Chẳng hạn, năm 1931 ông tiên đoán rằng
phát xít sẽ lên nắm quyền ở Đức, năm 1933 ông cảnh báo rằng Hitler đang chuẩn bị
chiến tranh. Trotsky chê Stalin là không hiểu thế nào là chủ nghĩa phát xít, lại
cho rằng chủ nghĩa phát xít cũng không xấu hơn xã hội - dân chủ.
Ngày 2/9/1939, Trotsky cảnh
báo trước rằng chỉ hai năm nữa Hitler sẽ tấn công Liên Xô. Chưa đầy 2 năm, lời
cảnh báo đó đã trở thành sự thật.
Stalin không thể tha thứ
cho bản thân việc đã để cho Trotsky ra đi. Bây giờ bắt Trotsky ở nước ngoài, lại
ở mãi Mehico bên kia bán cầu là việc làm hơi khó.
Tháng 5/1940, diễn ra cuộc
mưu sát đầu tiên đối với Trotsky. Một nhóm biệt động lọt vào nhà Trotsky xả
súng máy bắn khắp nhà, Trotsky thoát chết, nhưng từ ngày đó sống trong nỗi lo âu về cái chết đã được báo trước.
Sáng sáng ngủ dậy, ông ta nói với vợ: “Thấy
không, đêm qua họ đã không giết chúng ta. Thế mà em còn có điều gì không bằng lòng?”.
Nhưng, như Stalin đã nói,
không có thành trì nào mà những người Bolshevik, những người Leninist chúng ta không chiếm được.
Năm 1940, Beria giao nhiệm vụ giết Trotsky cho Pavel Sudoplatov. Lãnh đạo trực
tiếp chiến dịch này là Eitingon, sau này đã được phong tướng. Người trực tiếp
thi hành nhiệm vụ là Ramon Merkader - một người Tây Ban Nha. Mẹ anh ta - bà
Marie Caridal cũng là một cộng tác viên của Bộ Nội vụ.
Trước khi bị giết một ít
ngày, Trotsky ghi trong nhật ký. “Đêm qua
tôi nằm mơ thấy mình nói chuyện với Lenin. Ông lo lắng hỏi về bệnh tình của tôi, và bảo:
“Anh bị căng thẳng thần kinh đấy. Anh cần phải nghỉ
ngơi, phải tham khảo ý kiến bác sĩ”. Tôi kể cho Lenin về
chuyến đi Đức chữa bệnh năm 1926 và định nói thêm: “ Đấy là sau khi anh mất,
nhưng nhớ ra và chữa lại, à quên sau khi anh bị ốm”.
Vậy là cuối đời, trong những
giấc mơ của mình, Dân ủy Quốc phòng đầu tiên của Liên Xô vẫn nhìn thấy Lenin là vị cứu tinh.
Ngày 20/8/1940, Merkader
đến nhà Trotsky nhờ ông xem hộ một bài báo. Mặc dù trời nóng, anh ta vẫn đội mũ
và mặc áo choàng mỏng. Khi Trotsky ngồi vào bàn đọc, anh ta rút cái rìu giấu
trong áo ra, nhắm mắt, lấy hết sức bổ vào đầu Trotsky. Anh ta tính chém một
nhát giết chết ngay Trotsky và chạy, nhưng không ngờ Trotsky quay lại vật lộn với
Merkader. Trong lúc lúng túng, anh ta không kịp rút khẩu súng lục ra để sử dụng.
Ngày hôm sau Trotsky tắt
thở ở bệnh viện. Ba trăm nghìn người đã đến từ biệt ông.
Hai người con trai của Trotsky
đều mang họ mẹ (vì sợ liên quan đến tên tuổi gây tai tiếng của người cha) và đều
làm khoa học, không dính dáng gì đến chính trị.
Người con lớn - Sergei
Sedov - làm kỹ sư, không đi theo cha mà ở lại Liên Xô, dạy ở trường kỹ thuật
cao cấp Bauman, từ chối tham gia kể cả các cuộc tranh luận về đề tài chính trị,
để chính quyền không có cớ gì đụng đến anh. Thế nhưng chính quyền vẫn cứ đụng đến:
đầu tiên điều anh lên Vorkuta (một vùng xa phía bắc), sau đó ra lệnh bắt và năm
1937 xử bắn.
Người con trai thứ hai là
Lev Sedov, thừa hưởng tính cách chiến đấu của cha, quyết định lưu vong cùng với
bố mẹ. Sống ở Paris, anh ta tích cực giúp bố bằng cách tập hợp những người ủng
hộ Trotsky, nhưng không ngờ rằng bị vây bọc bởi toàn những người làm cộng tác
viên cho tình báo Nga. Năm 1938, anh ta phải mổ ruột thừa. Việc mổ suôn sẻ, nhưng vài ngày sau thì
anh ta chết trong bệnh viện. Nhiều người cho rằng an ninh Liên Xô đã làm việc
đó, nhưng bằng chứng về nguyên nhân khác, ngoài bệnh tật, dẫn đến cái chết, thì
không tìm ra.
Hai ngày sau tại
Matxcơva, nhà vật lý lý thuyết nổi tiếng, một trong những người sáng lập thuyết
lượng tử là Matvei Petrovich Bronstein bị xử tử. Nhà bác học này bị buộc tội là phần tử Trotskyist và bị bắt. Trước đó, có lần ông nói đùa là ông có
họ với Trotsky. Quả là một câu đùa chết người!
Tại phiên tòa ở Mehico, R.Merkader không nhận là làm việc cho an
ninh Liên Xô. Matxcơva hài lòng về điều đó và có ý định tổ chức đánh tháo hoặc
chuộc Merkader ra, nhưng sau, cân nhắc lại, lại thôi.
Merkader ngồi tù đến khi
mãn hạn, năm 1960. ông ta được đưa sang Cuba, rồi từ Cuba sang Liên Xô, tháng
5/1960. KGB báo cáo với lãnh đạo (lúc đó là Khruschov).
Ngày 31/5, một sắc lệnh
không công bố của Xô viết tối cao Liên Xô quyết định “tặng Huân chương Lenin và danh hiệu Anh hùng
Liên Xô cho đồng chí Lopes Ramon Ivanovich vì đã hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt...”.
Liên Xô cấp quốc tịch
Liên Xô cho ông, và xếp cho ông làm việc ở Viện Mác-Lênin. Điều trớ trêu là vào
lúc này, khi ông ở tù ra, thì những người thầy và đồng chí đã giao nhiệm vụ cho
ông là L.Eitingon và P.Sudoplatov lại đã phải vào tù, vì là người của Beria.
Đến giữa những năm 70,
Merkader rời Matxcơva sang sống ở Cuba - ở đó vui hơn, không bị rét và không có
những cán bộ Đảng và cán bộ an ninh vừa chơi với ông vừa theo dõi ông. Ông qua
đời ở Cuba năm 1978.
Thi hài ông được đưa về
chôn cất tại nghĩa trang Kunsevo ở Matxcơva. Đa phần của cuộc đời, ông không sống
bằng tên thật, do đó khi ông chết đi, người ta cũng mai táng ông với cái tên mà
ông đã mang trong phần lớn cuộc đời: đồng chí Lopes R.I.
Litvinov
Ngày 4/5/1939, ba nhân vật
cao cấp của Đảng và Chính phủ là Molotov (Thủ tướng Chính phủ), Malenkov (Bí
thư Trung ương Đảng phụ trách tổ chức) và Beria (Dân ủy Nội vụ) đến Bộ Ngoại
giao, tuyên bố với Litvinov - Dân ủy Ngoại giao rằng từ ngày hôm nay ông bị
thôi chức.
Với danh nghĩa là “làm
trong sạch Bộ Ngoại giao khỏi những phần tử thù địch và đáng ngờ”, Beria và đồng
sự đã bắt các phó của Litvinov, cách chức hầu hết các vụ trưởng; tổng cộng đã bắt
và xử lý hai nghìn rưởi cán bộ Bộ ngoại giao kể cả ở các sứ quán ở nước ngoài,
trong đó có khoảng năm chục đại sứ. Sau vụ này, cả một thế hệ các nhà ngoại
giao dày dạn kinh nghiệm bị mất đi, mà chưa kịp được thay thế bằng lớp cán bộ mới.
Ngày 23/7/1939, một thông
báo được ban bố, trong đó giải thích rằng Trung ương Đảng rất quan tâm đến công
tác của Bộ Ngoại giao và đã quyết định cử người bạn chiến đấu gần gũi của đồng
chí Stalin là V.M.Molotov làm Dân ủy Ngoại giao. Còn báo chí cho biết rằng
Litvinov đã “không bảo đảm thực hiện đúng
đắn đường lối đối ngoại của Đảng, trong công tác lựa chọn và sử dụng cán bộ đã
tỏ ra không có tinh thần Bolshevik, đánh giá đối tượng có sai lầm, đặc biệt là đối với
Anh và Pháp”.
Theo quy luật, sau khi bị
cách chức là đến bị bắt.
Litvinov chờ đợi, nhưng
không thấy gì cả. Bộ Nội vụ tiếp tục lấy lời khai của những người bị bắt đối với
Litvinov.
Nhưng Stalin ra lệnh
không được đụng đến Litvinov.
Khác với hai người tiền
nhiệm của mình là Trotsky và Chicherin có nhiều ý tưởng cao xa, Dân ủy Ngoại giao thứ ba của
chính quyền Xô viết - Litvinov - là một con người thực tế. Ông tham gia cách mạng
từ sớm, và làm một công tác vào loại nguy hiểm nhất: chở vũ khí từ nước ngoài
vào Nga cho những người Bolshevik. Lenin cũng đã tin cậy giao cho ông nhiệm vụ đổi tiền
do Kamo cướp được ở ngân hàng Kavkaz.
Năm 1918, Trotsky cử ông
làm đại diện ở Anh, nhưng chính phủ Anh không công nhận chính quyền Xô viết, kiếm cớ bỏ tù
Litvinov. Litvinov ngồi tù một thời gian cho đến khi Matxcơva đánh đổi điệp
viên Anh R.Loccart lấy ông. Ông về Bộ Ngoại giao, ban đầu làm đại diện ở Estonia,
sau đó làm Thứ trưởng. Chicherin bị ốm, nhiều thời gian phải điều trị ở nước
ngoài, do đó Litvinov thực tế là quyền Dân ủy. Năm 1930 ông trở thành Dân ủy
chính thức và ở trên cương vị này 9 năm.
Litvinov là một người
thân phương Tây. Ông đã sống lưu vong ở Anh, lấy vợ Anh. Chicherin và Molotov
coi Đức là đối tác chủ yếu của Liên Xô. Litvinov thì coi đối tác chính của Liên
Xô là Anh, Pháp và Mỹ. Năm 1933, chính ông đáp tàu biển vượt đại dương sang Mỹ
đàm phán với Tổng thống Mỹ Roosevelt và thỏa thuận việc lập quan hệ ngoại giao giữa Liên Xô và
Mỹ. Đó là giai đoạn đỉnh cao đắc chí nhất của Litvinov. Để tỏ lòng biết ơn của
chính phủ Liên Xô đối với công trạng đó, Stalin đã tặng Litvinov một ngôi nhà
ngoại ô ở Firsanovka.
Ngoại giao Liên Xô thời
Litvinov đã đưa nước Nga Xô viết gia nhập Hội quốc liên - tiền thân của Liên hợp
quốc Cũng chính Litvinov đã tìm cách liên kết các quốc gia châu Âu để chống lại
nước Đức Hitler. Nhưng không thành công, vì các nước châu Âu sợ Hitler nhưng
cũng lại không tin Stalin.
Năm 1936, nhân dịp 60 tuổi,
Litvinov được trao tặng Huân chương Lenin. Báo “Sự thật” có bài nhan đề “Người con trung
thành của Đảng Bolshevik”. Bài báo viết: “Tên tuổi của đồng
chí Litvinov sẽ đi vào lịch sử như một trong những đại biểu của thời đại vĩ đại
của cách mạng tháng Mười và xây dựng chủ nghĩa xã hội, như một hiện thân của
chính sách đối ngoại Liên Xô trong cuộc đấu tranh vì hòa bình giữa
các dân tộc”.
Bắt Tay Với Đức Quốc Xã
Kỷ nguyên của Litvinov kết
thúc sau khi Stalin quyết định hợp tác chiến lược với Đức. Việc thay ngoại trưởng
là một tín hiệu cho Hitler hiểu rằng Liên Xô sẵn sàng nhích lại gần với Đức.
Khi Stalin và Molotov
thông báo cho Berlin rằng Matxcơva sẵn sàng đón Dân ủy Ngoại giao của Đức Quốc
xã, Hitler phấn khởi giơ hai tay lên trời và cả cười:
- Bây giờ thì cả thế giới
trong túi ta rồi!
Khi Ribbentrop đến
Matxcơva tháng 8/1939, Stalin lần đầu tiên đích thân tham gia đàm phán với một
Bộ trưởng Ngoại giao nước ngoài. Ba người: Stalin, Molotov và Ribbentrop đã quyết
định mọi vấn đề trong một ngày. Đến một giờ đêm thì Molotov và Ribbentrop ký hiệp
ước không tấn công.
Ngày 31/8/1939, Molotov
báo cáo tại phiên họp bất thường của Xô viết tối cao về việc ký Hiệp ước với Đức.
Ngày hôm sau, 1/9/1939,
Hitler tấn công Ba Lan. Còn ngày 17/9/1939, quân đội Liên Xô chiếm lãnh thổ Tây
Ucraina, và Tây Belarussia.
Ngày 28/9/1939,
Ribbentrop sang Matxcơva lần thứ hai để ký với Molotov một hiệp ước nữa về hữu
nghị và biên giới.
Để bảo vệ cho việc ký hiệp
ước với Đức, Molotov phát biểu trước Xô viết tối cao:
“Hệ tư tưởng của Hitler, cũng như bất kỳ hệ tư tưởng nào khác, ta có thể
công nhận hoặc không công nhận - đấy là vấn đề quan điểm chính trị. Nhưng không
thể nào tiêu diệt một hệ tư tưởng bằng vũ lực được”.
Tại sao Stalin và Molotov
quyết định nhích lại gần Đức và ký hiệp ước không tấn công với Đức?
Cách giải thích chính thống
là: điều đó đã giúp Liên Xô tránh được đòn tấn công của Đức vào năm 1939, trì
hoãn chiến tranh để có thời gian chuẩn bị tốt hơn cho cuộc chiến tất yếu sẽ đến.
Nhưng Hitler không có ý định
tấn công Liên Xô năm 1939, vả lại còn đang có nước Pháp thù địch ở sau lưng.
Vấn đề là ở chỗ Hitler đã
cho Stalin điều mà Anh và Pháp không thể cho: đó là việc phân chia thế giới. Với
Hitler, Stalin đã trở thành nhân vật chính trị thế giới và Liên Xô vào vai người
quyết định số phận thế giới.
Trước khi đánh Ba Lan,
Hitler có nói với các tướng của mình:
“Thực sự, trên toàn thế giới chỉ có ba nhà hoạt động nhà nước vĩ đại là
Stalin, tôi và Mussolini. Stalin và tôi là những người duy nhất biết nhìn thấy
tương lai.
Vài ngày nữa, tôi sẽ bắt tay Stalin trên biên giới
Đức - Nga và cùng với ông ta phân chia thế giới”.
Giữa cá nhân Hitler và
Stalin đã xuất hiện một “mối tình” ngắn ngủi qua những bức thư. Mà người đưa
thư là Molotov. Hiện còn tồn tại tin đồn về một cuộc gặp bí mật giữa Stalin và
Hitler ở biên giới. Nhưng điều đó không có, hai người chỉ viết thư và công hàm
cho nhau, thông qua Molotov và Đại sứ Đức ở Matxcơva.
Trong chuyến đi Matxcơva
của Ribbentrop, buổi tối, trong phòng làm việc của Molotov có tổ chức một cuộc
chiêu đãi. Stalin đề nghị nâng cốc chúc sức khỏe Hitler.
Ribbentrop phấn khởi nâng
cốc đáp lại chúc sức khỏe Stalin và nói ở Matxcơva ông ta cảm thấy thoải mái dễ chịu như ở nhà.
Khác với Ribbentrop,
J.Goebbels cũng có mặt trong đoàn cùng với Ribbentrop thì lại không hề có cảm
tình với các quan chức Liên Xô - những người mà theo ông ta không có một chút tự
nhiên, chân tình nào và luôn luôn cảnh giác.
Dân ủy Nội vụ Beria thì
ra sức rót rượu vodka cho Tham tán Đại sứ quán Đức là G.Hilger. Khi uống đã kha khá, Hilger chủ
động phanh lại để giữ tỉnh táo, Stalin liền bảo:
- Thôi, nếu ngài không muốn
uống, thì không ai có thể ép buộc được ngài phải uống cả.
- Kể cả ông trùm an ninh?
- Hilger đùa.
Stalin bèn đáp:
- Đằng sau bàn tiệc này,
kể cả trùm an ninh cũng không có nghĩa gì hơn bất kỳ ai khác.
Stalin không nói đùa. Đối
với ông, Beria cũng chỉ là một cấp dưới phục tùng của ông, không hơn, chỉ có điều
ông giao cho Beria những nhiệm vụ bí mật nhất và đẫm máu nhất.
Chiến Tranh
Đầu năm 1941, Beria được
bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng Chính phủ. Về danh nghĩa là thăng chức, trên thực tế
Stalin gạt ông ta khỏi việc lãnh đạo công tác an ninh .
Đồng thời, Cơ quan dân ủy
Nội vụ cũng bị chia ra làm hai: Bộ An ninh quốc gia và Bộ Nội vụ. Tình báo, phản
gián, công tác điều tra được chuyển về Bộ An ninh quốc gia do V.N.Merkulov lãnh
đạo. Beria còn lại Bộ Nội vụ, bao gồm công an, cứu hỏa, biên phòng, nội chính và toàn bộ hệ thống các
nhà tù và trại cải tạo (GULAG) đến lúc đó đã trở thành một vương quốc công nghiệp
- xây dựng. Là Phó Thủ tướng, Beria quản thêm các bộ: Lâm nghiệp, Luyện kim
màu, Công nghiệp dầu và đường sông. Từ nay Beria lãnh đạo kinh tế và xây dựng
nhiều hơn, sự thực thì cũng bằng các biện pháp an ninh đã quen thuộc của ông ta
là chính, và bằng sức lực của tù nhân.
Như một món quà an ủi,
ông được phong hàm Cao ủy An ninh quốc gia mà từ 9/7/1945 đổi thành Nguyên
soái Liên Xô. Chỉ có ba Chủ tịch cơ quan an ninh được phong hàm này: đó là
Yagoda, Ejov và Beria. Cả ba đều bị xử bắn!
Nhưng Beria không đi hẳn
khỏi hệ thống an ninh. Bởi khi chiến tranh nổ ra, thì hai bộ nói trên lại được
sáp nhập làm một và do Beria lãnh đạo. Song, đến năm 1943 thì tại tách ra,
trong đó bộ phận tình báo quân sự tách ra thành một cơ cấu riêng, trực tiếp phục
tùng Stalin là Tổng tư lệnh tối cao. Nhưng Stalin vẫn giữ Beria bên mình như một
liên lạc viên. Kể cả sau năm 1945, khi Beria không làm Dân ủy Nội vụ nữa,
Stalin vẫn giao cho ông ta truyền đạt các chỉ thị cho các Dân ủy, nhất là về
các công việc đen tối, bí mật.
Beria cũng phải gánh
chung trách nhiệm với Stalin về việc Hitler bất ngờ tấn công Liên Xô năm 1941,
vì Beria quản lý toàn bộ mạng lưới tình báo của Liên Xô.
Khi Ribbentrop ở thăm
Matxcơva mùa thu năm 1939, Stalin có nói với ông ta rằng trong trường hợp Đức cần
đến sự giúp đỡ của Nga, thì Nga sẽ giúp. Berlin không thể tin được: chẳng lẽ
Stalin sẵn sàng đứng về phía Đức? Và yêu cầu đại sứ quán Đức ở Matxcơva kiểm
tra lại biên bản hội đàm. Ribbentrop trả lời rằng viện trợ quân sự thì Đức
không cần đến, nhưng mong rằng Liên Xô sẽ giúp cung cấp nguyên vật liệu cho Đức.
Và quả thực, trong một thời gian Đức đã được Liên Xô cung cấp với số lượng lớn dầu, nguyên liệu và
lương thực. Đổi lại, Đức giúp hiện đại hóa Hồng quân Liên Xô. Các chuyên gia Liên Xô đã chia
nhau đi đến các nhà máy, cơ sở công nghiệp quân sự của Đức. Đức mở rộng cửa
chia sẻ kinh nghiệm và kỹ thuật quân sự với chuyên gia Liên Xô, ai định giấu giếm
gì đó thì bị phạt.
Nhưng tại sao Hitler đã rắp
tâm sẽ tấn công Liên Xô, lại chia sẻ bí mật vũ khí với Liên Xô? Đấy là ý đồ quỷ
quyệt của Hitler để làm Liên Xô mất cảnh giác, đồng thời biết rằng đằng nào
Liên Xô cũng không kịp sử dụng các bí mật đó, vì Đức sắp tấn công Liên Xô đến
nơi rồi.
Còn Stalin, Molotov và
Beria tính rằng Đức sẽ sa lầy một thời gian vào chiến sự với Anh và Pháp, không
thể thắng nhanh được để tấn công Liên Xô.
Tháng 11 năm 1940,
Molotov đi Đức đàm phán về một số vấn đề tranh chấp, nhưng không đạt được thỏa thuận gì.
Ngày 13/4/1941, Stalin
làm một động tác bất ngờ.
Ông ra ga để tiễn Bộ trưởng
Ngoại giao Nhật Matsuoka, nhưng thực tế là để toàn thể Ngoại giao đoàn nhìn thấy
ông đặt tay lên vai đại sứ Đức dặn dò rằng Đức và Liên Xô cần phải tiếp tục là
bạn.
Các thông tin tình báo về
việc Đức tập trung quân ở biên giới Liên Xô và về ngày dự định tấn công Liên Xô
đều không được chấp nhận. Beria cho rằng các trinh sát viên hoặc là làm điệp
báo hai mang, hoặc bị ảnh hưởng của địch, đã cung cấp tin tức giả do Anh tung
ra nhằm mục đích kích Liên Xô chống Đức.
Stalin và Molotov cho đến
tận phút cuối cùng vẫn còn không tin rằng Hitler dự định tấn công Liên Xô, mà
chỉ cho rằng hắn muốn buộc Liên Xô nhượng bộ về lãnh thổ và kinh tế. Ngày
21/6/1941 Tổng Bí thư Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản Georghi Dimitrov cũng nhận
được thông tin rằng Đức đang chuẩn bị tấn công Liên Xô.
Ông gọi điện thoại cho
Molotov. Molotov trả lời Đimitrov: “Tình
hình còn phức tạp, nhưng một cuộc chơi lớn đang được tiến hành”.
Đến tháng Sáu năm 1941, Stalin và
Molotov vẫn còn hy vọng sẽ không bị Hitler qua mặt. Hai ông biết rằng sớm muộn
cũng sẽ phải đánh nhau với Đức, có thể vào năm 42, 43, khi lợi ích của hai cường
quốc nhất định xung đột với nhau. Nhưng còn bây giờ, theo họ, Hitler không dám
tiến hành chiến tranh trên hai mặt trận; Đức có thể tiến hành chiến tranh ở
châu Âu là do nhận được nguyên liệu, dầu và bột mì của Liên Xô.
Suy luận của Stalin và
Molotov về nguyên tắc là đúng. Chỉ có điều Hitler không định tiến hành chiến
tranh lâu. Y dự định đánh một đòn chớp nhoáng đè bẹp Liên Xô trong vòng vài
tháng và giải quyết mọi vấn đề.
Tối ngày 21/6/1941
Molotov mời Đại sứ Đức Shulenburg lên đề nghị giải thích một số vấn đề về quan
hệ của Đức với Liên Xô. Đức hứa báo cáo với trong nước. Nhưng vài giờ sau chiến
tranh bắt đầu. Đại sứ Đức lại xuất hiện tại phòng làm việc của Molotov nhưng với
thông báo chiến tranh.
Trong những tuần và tháng
đầu tiên sau khi chiến tranh nổ ra, khi Hồng quân Liên Xô bị tổn thất to lớn và
phải chạy dài, Stalin lại cử Beria đứng đầu cơ quan an ninh quốc gia và tham
gia Hội đồng Quốc phòng - cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước, được thành lập
ngày 30/6/1941 do Stalin đứng đầu. Beria phụ trách công tác sản xuất vũ khí và
quân dụng.
Một tháng sau khi chiến
tranh nổ ra, Dân ủy nội vụ đã sơ tán tù binh khỏi các nhà tù ở Matxcơva để khỏi
rơi vào tay quân Đức, đồng thời đẩy nhanh “tiến độ xử lý các kẻ thù” nguy hiểm
nhất của nhân dân.
Đến ngày 16/10/1941 (tức
là bốn tháng sau khi chiến tranh nổ ra), 138 người ở nhà tù Butưrskaia
(Matxcơva) đã bị xử bắn theo lệnh Beria, trong đó có hai chiến sĩ lão thành của
KGB là Cục trưởng Cục cảnh vệ bảo vệ Lenin là A.ra.Belenki và nguyên ủy viên ban lãnh đạo
Ủy ban đặc biệt
M.S.Kedrov.
Trong những ngày bi kịch,
khi quân Đức đang tiến gần đến Matxcơva, Beria nhận chỉ thị của Stalin thăm dò
khả năng và tìm cách ký hòa ước với Đức kể cả nếu phải nhân nhượng về lãnh thổ.
Tháng 10/1941, Stalin cho
gọi Nguyên soái Jukov. Vì Stalin đang ốm, nên Jukov được đưa thẳng vào bệnh viện
Trung ương ở Kunsevo để gặp Stalin. Theo Jukov kể, Stalin vẫn còn đang bị sốc
sau vụ Đức tấn công Liên Xô.
Stalin không tin là có thể
giữ được Matxcơva nên đã quyết định sơ tán thủ đô. Beria phụ trách việc tiêu hủy
các công trình quan trọng nhất trong thành phố.
Ngày 16/10/1941, Stalin dự
định bản thân cũng rời Matxcơva.
Nhưng niềm tin của Jukov
rằng sẽ bảo vệ được Matxcơva đã giữ ông lại.
Sau trận phản công của Hồng
quân ở ngoại ô Matxcơva, Stalin mới hoàn hồn, lấy lại được sự tự tin, và bắt đầu
phân công mọi người rõ ràng theo các vị trí.
Beria thì vắt kiệt sức sản
xuất của các trại cải tạo. Ngày 30/9/1943 ông ta được tặng danh hiệu Anh hùng
Lao động xã hội chủ nghĩa vì công lao trong việc đẩy mạnh sản xuất vũ khí và
quân dụng trong điều kiện thời chiến.
Vương Quốc Công Nghiệp-Xây Dựng Và Niềm Tin Cho Trái Đất
Ngày 27/12/1945,
Xô viết tối cao Liên Xô quyết định để Beria thôi chức Dân ủy Nội vụ. Người thay
ông là người phó của ông - trung tướng S.N.Kruglov 38 tuổi, ủy viên dự khuyết
Trung ương Đảng, người được tặng thưởng Huân chương của Anh và Mỹ (vì công lao
bảo đảm an ninh cho hội nghị tứ cường ở Potsdam năm 1945).
Hai tuần sau, báo “Sự Thật” mới đưa tin này và
giải thích rằng Phó Thủ tướng L.P.Beria tự đề nghị giải phóng ông khỏi chức vụ
này “vì quá bận công tác khác của trung ương”.
Việc “tự đề nghị” thì
đương nhiên là không có, còn “quá bận” thì đúng. Sau chiến tranh Beria vẫn tiếp
tục được giao những trọng trách.
N.K.Baibakov, nhiều năm
lãnh đạo Ủy
ban Kế hoạch
nhà nước (Gosplan) kể trong hồi ký rằng Beria phụ trách một số lĩnh vực rất
quan trọng của kinh tế quốc dân,
trong đó có làm Chủ tịch Ủy ban về nhiên liệu. Một lần Baibakov bị cảm lạnh, sốt
cao, phải nằm ở nhà.
Chuông điện thoại réo. Ở
đầu dây bên kia, Beria giọng bực tức, càu nhàu: “Phải đi giầy lông vào”, và lệnh cho Baibakov bay ngay cùng với thứ
trưởng Bộ Nội vụ Kruglov xuống Ufa - ở đó vừa xảy ra một vụ nổ ở nhà máy lọc đầu.
Đối với cấp dưới, Beria cứng như sắt, không chấp nhận “thông cảm với hoàn cảnh” này nọ. Từ ông ta tỏa ra một uy lực tàn nhẫn
và lẫm liệt.
Theo Baibakov, dư luận rằng
Beria biết lấy lòng Stalin và biết đánh trúng tâm lý lãnh tụ là điều đơm đặt.
Stalin là người không dễ “lấy lòng”. Chiếm được sự tin cậy của Stalin chỉ có thể
bằng việc làm thực tế.
Beria chính là nhà tổ chức
tài năng, người biết cách thực hiện bằng được mọi nhiệm vụ được giao, bằng cả “cây
gậy và củ cà rốt”, chấp nhận hy sinh, kể cả sinh mạng của người khác để đạt được mục đích.
Ban lãnh đạo cao cấp của đất nước trong những năm trong và sau chiến tranh luôn
tin rằng công việc nào đã giao cho Beria phụ trách, công việc đó dứt khoát
thành công.
Tháng 12/1944 Liên Xô
thành lập ủy ban đặc biệt trực thuộc Hội đồng Quốc phòng tối cao phụ trách việc
sử dụng uranium, Beria trực tiếp lãnh đạo ủy ban này.
Theo hồi ký của
E.Slavski, nguyên Dân ủy chế tạo máy trong nhiều năm, Beria không am hiểu các vấn
đề thuộc về chuyên môn khoa học, kỹ thuật, nên rất coi trọng và chú ý lắng nghe
ý kiến các nhà bác học, công trình sư, tìm mọi cách cung cấp cho các nhà khoa học
tất cả những gì mà họ yêu cầu, đồng thời cũng rất biết “ốp” họ làm việc quên
mình.
Nắm trong tay toàn bộ nhà
tù trên lãnh thổ Liên Xô, Beria đã sử dụng lao động tù nhân vào việc sản xuất
vũ khí, quân trang, quân dụng phục vụ chiến tranh.
Nay, hệ thống nhà tù và
trại cải tạo đã trở thành như một vương quốc công nghiệp - xây dựng. Chỉ đạo
công việc chế tạo bom nguyên tử là một siêu bộ gọi là Tổng cục trực thuộc Hội đồng
Dân ủy. Còn xây dựng các công trình công nghiệp nguyên tử là Tổng cục xây dựng công nghiệp của Bộ Nội vụ. Thăm dò, khai
thác và chế biến uranium là công việc của Tổng cục trại mỏ-luyện kim của Bộ Nội
vụ. Như vậy là trong việc sản xuất bom nguyên tử có sự đóng góp công sức lao động
của tù nhân.
Quả bom nguyên tử đầu
tiên của Liên Xô đã được nổ thử ngày 29/8/1949 tại căn cứ Semipalatinsk cũng được
sản xuất và lắp đặt tại trại tù của Bộ Nội vụ ở thành phố Sarov ở Mordovia.
Năm 1945, theo đề nghị của
Beria, chính phủ quyết định thu hút chuyên gia Đức vào công tác xử lý uranium ở
Liên Xô. Đức (lúc đó còn chưa thành lập nước Cộng hòa dân chủ Đức - ND) gửi sang gần 300 chuyên gia.
Nguyên là vùng giáp giới
giữa Đông Đức và Tiệp Khắc có trữ lượng uranium rất lớn. Theo một hiệp định được
ký kết giữa Liên Xô và Đông Đức, Công ty cổ phần Xô-Đức “Vismut” được ủy nhiệm khai thác quặng uranium ở vùng này. Thỏa thuận rằng 10 năm đầu uranium khai thác được
thì cung cấp cho Liên Xô, còn sau đó toàn bộ
quyền sử dụng uranium thuộc về Đức.
Nhưng trong 10 năm, Liên
Xô đã sử dụng gần hết.
Đến ngày hôm nay, chúng
ta cũng không được biết chính xác quy mô của vương quốc nguyên tử mà Beria đã nắm
trong tay. Quản lý một cơ ngơi như vậy chắc chắn là một công việc to lớn. Tất
nhiên Beria có năng khiếu tổ chức. Nhưng mặt khác mà nói, cũng không thể không
là nhà tổ chức một khi có trong tay các nguồn tài chính, toàn bộ cơ sở công
nghiệp và các trại của Bộ Nội vụ, một nguồn sức lao động hầu như vô tận, và các
nguồn tài nguyên bao la.
Chỉ có mỗi viện sĩ Piotr
Kapitsa đề nghị Stalin giải phóng cho ông khỏi việc tham gia vào dự án nguyên tử
vì không thể nào làm việc được dưới sự lãnh đạo cường quyền của Beria. Tuy thế
ông cũng phải công nhận tài năng tổ chức và huy động lực lượng của Beria.
Viện sĩ A.D.Sakharov kể rằng
Beria tự mình lo liệu toàn bộ công tác nguyên tử, thậm chí cả Malenkov, lúc đó
đã trở thành người thứ hai trong Đảng cũng không được Beria cho tiếp cận các
công việc đó. Một chữ ký của Beria là đủ để soạn thảo bất cứ quyết định nào
thành nghị quyết của Trung ương Đảng và Hội đồng Dân ủy.
Tại một cuộc họp, Beria
phê bình một cán bộ phụ trách làm thất bại việc chế tạo thử một vật liệu cần thiết
như thế này:
- Những người Bolshevik chúng ta, khi đã
muốn làm gì chúng ta nhắm mắt trước tất cả mọi thứ khác. Còn đồng chí, Pavlov,
đồng chí đã đánh mất tinh thần Bolshevik! Lần này chúng tôi sẽ không phạt đồng chí. Chúng
tôi mong rằng đồng chí sẽ sửa chữa khuyết điểm. Nhưng hãy nhớ rằng, nhà tù của
chúng ta còn nhiều chỗ lắm .
Beria là người Gruzia,
nên chữ “nhà tù” phát âm thành ra “nhà chù” - nghe lại càng đáng sợ.
Người bị Beria phê bình
suýt nữa ngất xỉu.
Năm 1945, bản thân những
người sáng chế ra bom nguyên tử không biết rằng họ đã tạo ra một loại vũ khí có
khả năng hủy diệt đối tượng sử dụng và cả người sử dụng nó. Con người vẫn đón
nhận sự ra đời của loại siêu vũ khí này một cách bình tĩnh, như niềm tin của
con người rằng lịch sử giống như một đội quân được tập luyện để hành quân từ thấp
lên cao. Người Mỹ cho rằng họ làm vũ khí hạt nhân chỉ là để bảo vệ mình khỏi mối
đe dọa Liên Xô. Còn người Liên Xô thì tin rằng đã tự trang bị một lá chắn hạt
nhân đối với Mỹ. Một sự lạc quan bao trùm thế giới, rằng “bom nguyên tử được chế tạo để cho chiến tranh, nhưng kiến thức để chế tạo
nó có thể mang lại cho trái đất này không phải cái chết mà là sự sống, không phải
bạo tàn mà tự do”, “mở ra thời đại của
sự giàu có vô tận và những khả năng cho tất cả mọi người”.
Người ta đã nghĩ như thế
và viết như thế trong những năm đầu sau chiến tranh thế giới thứ hai. Và không
phải chỉ ở Mỹ, mà cả ở Nga.
Những người sáng tạo ra
vũ khí hạt nhân ở Nga ngày hôm nay vẫn vui sướng nhớ lại công việc mình đã làm,
tự hào rằng họ đã nghĩ ra và thử nghiệm
một sản phẩm tuyệt vời như thế nào. Họ tự hào không phải chỉ vì đã hoàn thành
nhiệm vụ mà Tổ quốc giao cho. Họ còn có niềm tự hào riêng của nhà bác học đã giải
được một loạt bài toán khó. Trong số họ có cả những nhà lãng mạn chủ nghĩa coi
việc hoàn thành công việc của họ là một bước của con người vươn tới các vì sao.
Stalin giao cho Beria
lãnh đạo ủy ban quốc gia về tiến hành thử bom nguyên tử.
Ngày 29/8/1949, Liên Xô
tiến hành thử quả bom nguyên tử đầu tiên. Có mặt tại cuộc thử, Beria cũng hồi hộp
lo lắng như mọi người khác, vì hiểu rằng nếu thất bại đầu ông ta cũng có thể
bay.
Khi Beria mừng rỡ chạy đi
gọi điện về Matxcơva, thì ở đầu dây kia Stalin giọng ngái ngủ chỉ trả lời gọn lỏn:
“Tôi đã biết rồi”. Và bỏ ống
nghe xuống.
Trung ương Đảng và Hội đồng
Dân ủy ra một nghị quyết đặc biệt tuyên dương công trạng Beria “vì công tác tổ chức sản xuất năng lượng
nguyên tử và thử thành công vũ khí nguyên tử”. Beria được nhận Huân chương
Lênin và giải thưởng Stalin hạng nhất.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét