Quy luật của muôn đời
Tác giả: Nodar Dumbadze
Người dịch: Phạm Mạnh
Hùng
Nhà xuất bản Văn Học -
9/1984
Chương 16
Batsana Ramisvili sinh
ngày mười bốn tháng Bảy. Ngày đó có ghi trên tất cả các cuốn lịch của thế giới, nhưng dĩ nhiên
không ghi là ngày sinh của Batsana, mà là ngày phá ngục Baxti, ngày ra đời của
nước Cộng hòa Pháp.
Những người Pháp sinh
ngày mười bốn tháng Bảy cố nhiên kỷ niệm ngày sinh của mình một cách long trọng. Nhưng ai biết
ngày sinh của Batsana? Chẳng ai cả! À, chắc chắn là ở phòng cán bộ, nơi lưu giữ
hồ sơ cá nhân của ông và ở phòng chứng minh thư của công an, nơi mới đây người
ta cấp chứng minh thư vô thời hạn cho ông, họ biết điều đó. Nhưng biết chưa có
nghĩa là ghi nhớ.
Lần cuối cùng Batsana được
mừng sinh nhật là vào năm lên chín. Văctăng Enbakitzê, bạn học cùng trường tặng
Batsana chiếc ô tô chữa cháy tự hành màu đỏ tuyệt diệu.
Ôi, chuyện ấy xưa lắm rồi!
Từ bấy trở đi, ngày sinh
của Batsana chỉ được nhắc đến có ba lần:
“Đáng rủa sả thay ngày
sinh của mày!”. - ấy là khi lần đầu tiên ông hút thuốc lá.
“Mày sinh ra đời làm cái
nợ gì kia chứ!”. - ấy là khi ông uống rượu lần đầu tiên.
“Ai đẻ ra mày thế không
biết, đồ quái vật!”. - ấy là khi ông đánh mất phiếu bánh mì.
Những lời ấy ông phải
nghe vào những thời gian khác nhau, do những người khác nhau nói ra, mà ngay hồi
đó cũng như sau này, không bao giờ ông oán giận họ, bởi vì ông biết rõ rằng:
người ta nói như thế, trong hai trường hợp thứ nhất, là vì lo cho sức khỏe của
ông, còn trong trường hợp thứ ba, là vì lo sợ cái đói không sao tránh khỏi.
Lòng biết ơn vô hạn, ông nghĩ về những con người đó, chỉ có các người mới có thể
nghĩ đến ngày sinh của ông và giờ đây các người không còn nữa. Để đền đáp lại
lòng tốt của các người đối với ông, ông vẫn ra nghĩa trang đều đặn và đặt hoa
lên mộ các người, hoa tím, hoa hồng, hoa đinh hương...
... Và ngày hôm nay
đây... Biết bao nhiêu người ra đời ngày hôm nay sẽ được tặng hoa, bao nhiêu
ngôi mộ của những người chết ngày hôm nay sẽ được đặt hoa. Biết bao nhiêu cặp mắt
của trẻ sơ sinh sẽ mở ra ngày hôm nay, và biết bao nhiêu cặp mắt sẽ nhắm lại
mãi mãi... Batsana hình dung thấy cái vòng đu đang quay, cái vòng đu khổng lồ
như cây đời. Thấp thoáng hàng nghìn khuôn mặt - quen và lạ, mỉm cười và buồn rầu,
ngạc nhiên và hân hoan, cau có và sung sướng, tiều tụy và hạnh phúc... Những
con người mệt mỏi, ngây ngất rời khỏi những thứ đồ chơi - con tàu, ô tô, máy
bay, ngựa, và những người khác lên thay chỗ họ trên vòng đu quay... Batsana có
cảm giác chính ông cũng vừa rời vòng đu quay, đầu óc ông quay cuồng. Ông đứng
lên, loạng choạng đến gần cửa sổ và mở toang cửa. Làn gió chiều nhè nhẹ ùa vào
phòng. Rồi Batsana đến gần cửa ra vào, ngó ra hành lang. Trong tòa soạn không
còn ai. Vì muốn có cách nào kỉ niệm ngày sinh của mình và không nghĩ được điều
gì hay hơn, hôm nay Batsana cho các cán bộ về trước khi hết giờ làm việc, khiến
họ ngạc nhiên và vui mừng.
Ông trở lại bàn, ngồi xuống
và lấy trong ngăn kéo ra tập bài đầu tiên vớ được. “Tại sao dơi ngủ thõng đầu
xuống dưới?” - nhan đề bài đó như thế.
Có tiêng chuông điện thoại:
“Người nào lại nảy ra ý
nghĩ gọi điện thoại vào lúc này thế nhỉ?” - Batsana ngạc nhiên nhấc ống nghe
lên.
- Tôi nghe đây!
Ống nói im lặng.
- Tôi nghe đây, tôi nghe
đây!
Trong ống có tiêng loạt
soạt giống như hơi thở. Không đợi trả lời, Batsana đặt ống nghe và trở lại với
bản thảo. Ừ nhỉ, tại sao dơi ngủ lại treo đầu xuống dưới? Batsana không đọc bản
thảo, không hiểu sao ông muốn tự tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi tuồng như vô
nghĩa ấy. Hẳn là vì... Thuở bé, trong các giờ thể dục, đã nhiều lần Batsana
treo mình trên xà đơn, thõng đầu xuống, được giảng viên khen ngợi, nhưng chẳng
cảm thấy có gì thích thú đặc biệt. Có lần, ở Kôbulêti, Batsana đã ở trong trạng
thái đó đúng mười lăm phút: những người đánh cá đã lôi được thằng bé sống dở chết
dở từ dưới nước lên, phải khó khăn lắm mới làm cho nó nôn ra được hết nước, và
sau này cứ nhớ đến trạng thái treo ngược đầu xuống là Batsana lại cảm thấy ghê
tởm. Vậy thì cái tư thế khác thường ấy có gì hấp dẫn những con dơi? Không thể
hiểu được... Batsana quyết định tìm câu giải đáp trong tập bản thảo nằm trước mặt
ông, nhưng ngay lúc đó cửa phòng bật mở và một phụ nữ đẹp lạ thường bước vào.
- Tôi đây mà! - người phụ
nữ nói.
Batsana không tin mắt
mình nữa: trước mặt ông là Marya. Batsana muốn mời nàng ngồi, nhưng lưỡi không
tuân theo ông, ông muốn đứng lên nhưng đầu gối khuỵu xuống, ông muốn mỉm cười,
nhưng mặt ông như hóa đá. Trong khoảnh khắc, ông trở nên điếc và câm. Người phụ
nữ đứng không nhúc nhích, tái nhợt, ngực nhô cao, cổ nổi lên những vệt đỏ.
- Tôi đã gọi điện cho
anh! - chị nói khẽ.
- Tôi biết! - Batsana sực
tỉnh. - Tôi nghe thấy hơi thở của chị.
- Anh không ở nhà, vì vậy
tôi gọi điện về đây.
- Tôi có thể làm gì cho
chị? - Batsana thốt lên như cái máy.
- Ta đi với nhau. - người phụ nữ nói.
- Đi đâu? - Batsana ngạc
nhiên, hỏi.
- Đi đâu tùy anh!
Batsana sững sờ.
- Mời chị ngồi! - Ông thốt
lên một cách khó nhọc.
Người phụ nữ vẫn đứng.
Vóc dáng cân đối, môi đỏ thắm, tóc đen, mặc áo nịt ngắn màu xanh lá mạ và váy
trắng như tuyết, nom chị giống mùa xuân vào qua cửa sổ.
- Ta đi đi! - người phụ nữ
nhắc lại, tay đung đưa một cách nôn nóng cái túi xách tay màu lá mạ. Batsana đứng
lên và mãi đến giờ mới để ý đến đôi giày màu lá mạ dưới cặp chân thanh tú của
chị.
Hai người lẳng lặng ra khỏi
phòng.
Ở ngoài phố, Batsana gọi
tăc xi.
- Đi đâu? - người lái xe
hỏi.
- Đi đâu cũng được! -
Batsana đáp và nhìn người phụ nữ.
Nàng mỉm cười.
*
* *
Họ lên đại lộ Kômxômôn và
chọn một chỗ ở hàng hiên một tiệm ăn nhỏ.
Người nhân viên phục vụ đặt
trước Batsana tờ thực đơn và bỏ đi.
- Gọi món gì? - Batsana hỏi.
- Khoai tây rán.
- Gì nữa?
- Thế thôi.
- Rượu vang nhé?
- Tùy anh.
- Cô-nhắc chứ?
- Không.
- Thế thì “Tibaani” vậy.
- Vâng, được.
Trong lúc chờ đợi người
phục vụ. Batsana châm thuốc hút và mời Marya.
- Cám ơn, tôi không hút.
Bắt đầu im lặng. Batsana
hút thuốc, thỉnh thoảng nhìn Marya và nghĩ ngợi... Nàng đến gặp ông làm gì? Có
công việc chăng? Hay nàng muốn giữ quan hệ quen biết với ông? Hay là... Ồ
không, không làm gì có chuyện ấy, nàng không thể biết ngày sinh của ông!... Vậy
thì cái gì thúc đẩy nàng đến gặp Batsana?... Hỏi ư? Nhưng có cái gì ngăn
Batsana không hỏi câu đó. Và “cái gì” ấy không dính líu với lý do tế nhị:
Batsana sợ làm tắt tia hy vọng mỏng manh leo lét trong đáy trái tim ông từ ngày
gặp người phụ nữ kỳ lạ này...
Cuối cùng người phục vụ
trở lại, và Batsana thở dài nhẹ nhõm.
- Ở đây có món gì? - Ông
hỏi.
- Sữa chim! - Người phục
vụ đáp.
- Nếu vậy thì cho khoai
rán và “Tibaani”.
Người phục vụ ỉu xìu.
- Thịt cừu nướng, thịt bê
nướng, phi-lê tsakapuli, apkhazura, mugiugi, tatariăcmê [Những món ăn làm bằng thịt kiểu dân tộc của Gruzya], nađughi [Món
sữa], mơtsađi [Bánh tráng bột ngô] phó mát mới làm, hồ đào... Ông chọn đi!
- Thế không có lưỡi họa
mi à? Lưỡi rán! - Batsana bông đùa.
- Không có lưỡi rán, lưỡi
luộc thì có! - Người phục vụ cười nhăn nhở.
- Thế thì mang cả đến
đây!
- Hồ đào và “Tibaani”. - Marya nói.
Người phục vụ gật đầu
tuân lời và đi.
- Marya, thế chồng chị có
biết lúc này chị đang ở đâu không? - Batsana buột miệng và chính mình ngạc
nhiên về câu hỏi dớ dẩn đó.
- Tôi không hỏi anh câu
tương tự, vì tôi biết anh chưa có vợ. - Marya mỉm cười, đáp.
- Vậy là chị không có chồng
ư? - Không hiểu vì sao, Batsana kết luận.
- Hiện giờ không có chồng. - Marya nói.
- Tại sao? - Batsana hỏi
và hiểu rằng mình lại buột ra một câu ngớ ngẩn. Người phụ nữ im lặng. - Nghĩa
là tôi muốn hỏi, con gái chị còn bố không? - Batsana tìm cách giảm bớt tình trạng
ngượng ngập.
- Có bố và có chồng! -
Marya đáp.
Batsana lấy điều thuốc lá
nữa. Người phục vụ trở lại tay không.
- Thưa ông, thịt nướng hết
cả rồi... Gà con thì tôi không mời ông dùng: gà ấp nhân tạo... Phi-lê thì
hóa ra hôm nay người ta không chở tới... “Tibaani” không có, sâm banh cũng không...
Có pho mát Thụy Điển, pho mát Rôxtôp, xaêrô [Một thứ rượu vang] và củ cải...
Batsana ngẩn người.
- Thế còn sữa chim thì
sao? - Marya hỏi.
- Bị chua rồi! - Người phục
vụ nói đùa.
Marya phá lên cười to đến
nỗi khách trong quán ăn quay về phía nàng.
- Cửa hàng trưởng của anh
đâu? - Batsana hỏi người phục vụ.
- Ông ấy hiện không có ở
đây, thưa quý khách... Hễ ông ấy về, tôi sẽ đưa đến gặp ông ngay!
“Hoặc gã nhân viên này là
một thằng ngốc, hoặc họ nhận ra ta và giấu những thực phẩm mua ở chợ”. - Batsana nghĩ và nói với
Marya.
- Ta rời khỏi đây đi. Tôi
không muốn kỷ niệm cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng ta bằng củ cải và xaêrô...
- Chuyện ấy quan trọng đến
thế ư? - Marya đáp. - Bảo anh ta có gì cứ mang ra. Còn chúng ta sẽ tưởng tượng
ta đang ở Lêningrat bị bao vây. Ta sẽ nhìn nhau... Buổi chiều hôm nay sẽ mãi
mãi ghi sâu vào trí nhớ chúng ta...
Con sâu ngờ vực lại ngọ
nguậy trong ý thức Batsana.
“Nàng muốn gì ở ta? Ai
phái nàng tới? Nàng đến tìm ta để làm gì? Chẳng lẽ chỉ vì muốn gặp ta thôi ư?”.
Ông ngẩng đầu lên nhìn
Marya. Marya nhìn ra chỗ nào phía sau lưng ông. Batsana dõi theo luồng mắt nàng
và thấy anh chàng nhân viên phục vụ đứng trước một người đàn ông mập mạp, nghe
người đó nói và ngoan ngoãn gật đầu như đồ chơi lên dây cót.
- Người ta đang âm mưu chống
lại anh! - Marya nói với Batsana.
- Nếu họ định làm cho tôi
mất chị thì sẽ không ăn thua gì hết! - Batsana phá lên cười, cầm lấy con dao
cong bằng nhôm trên bàn.
- Bằng con dao như thế
anh không bảo vệ được tôi đâu! - Marya mỉm cười.
- Tôi chỉ cần dùng răng
thôi! - Batsana đáp, đưa mắt nhìn về phía người phục vụ, nhưng cả anh ta và người
nói chuyện với anh ta đều không còn đấy nữa.
- Marya, tôi không còn sức
chịu đựng nữa! Hãy nói rõ đi, cái gì đưa chị đến với tôi? Chị cần gì?
- Thì tôi có cầu xin anh
điều gì đâu? - Marya ngạc nhiên.
- Chị đặt cho tôi một nhiệm
vụ rất phức tạp... Hãy giải thích cho tôi điều đó hoặc giết tôi đi!
- Nhiệm vụ rất đơn giản.
Ngày mai tôi sẽ đáp máy bay về Kutaixi. Và bao giờ cũng thế, trước khi lên máy
bay, tôi muốn chia tay với một người thân thiết của tôi. Tất cả sự bí hiểm chỉ
là thế.
- Tại sao lại thế? -
Batsana bối rối, hỏi.
- Vâng, đúng thế... Không
hiểu sao lần nào tôi cũng có cảm giác rằng nhất định máy bay sẽ gặp chuyện gì
không hay. Và tôi gặp những người thân thiết lần này là lần cuối... - Marya cúi
đầu xuống.
- Cả tôi cũng thuộc loại
người ấy chứ? - Batsana ngạc nhiên.
Marya không nhìn Batsana,
gật đầu.
- Vì lẽ gì tôi xứng đáng
với một phụ nữ như thế... à không, với một vinh dự như thế?
- Giá mà tôi biết được!...
- Chị có nhiều người như
thế không?
Tim Batsana đập rộn ràng
chờ câu trả lời.
- Cho đến ngày hôm nay,
chỉ có một người duy nhất: Maiya, con gái tôi. Bây giờ có thêm một người nữa -
đó là anh.
“Hoặc tất cả những chuyện
đó là ta mơ thấy trong chiêm bao, hoặc người đàn bà này chính là quỷ xa tăng!”
- một ý nghĩ thoáng qua trong óc Batsana, còn Marya bỗng nhiên ngẩng đầu lên và
nói bằng giọng xúc động:
- Tôi biết anh coi tôi là
người điên hay một kẻ phiêu lưu... Tôi cam đoan với anh, tất cả những việc đó xảy
ra ngoài ý chí của tôi!... Đã một năm nay tôi đấu tranh với bản thân... Nhưng
không ăn thua gì! Tôi là một phụ nữ cương nghị! Tôi sẽ đứng lên và đi khỏi đây
ngay bây giờ! - Marya đứng lên.
- Nếu chị đi, tôi sẽ chết
mất thôi! - Batsana chạm vào những ngón tay lạnh giá của người phụ nữ, và nàng
tin ở lòng thành thực của anh. Hiểu điều đó, Batsana hôn tay Marya.
- Cám ơn! - Marya nói và
ngồi xuống.
Người phục vụ đến, hai
tay bưng một khay đầy những món ăn cầu kỳ.
- Cái gì thế? Ở đâu ra? -
Batsana ngạc nhiên.
- Ông cửa hàng trưởng đến,
trông thấy ông và lệnh cho xuất hàng. - người phục vụ giải thích.
- Cửa hàng trưởng của anh
là ai?
- Ông ấy đến ngay bây giờ
đấy!
- Sao, ông ấy biết tôi à?
- Biết ư? Suýt nữa thì
ông ấy thải tôi! Nào tôi có lỗi gì, thưa ông, trên trán con người có ghi rõ người
đó là ai và ở đâu đâu! Xin ông thứ lỗi cho! - Người phục vụ cúi chào và chạy
đi.
Batsana tươi tỉnh hẳn
lên. Ông mở nút chai sâm banh đánh bốp một tiếng và rót đầy tràn hai cốc vại.
- Tôi muốn thổ lộ với chị
một điều bí mật, Marya ạ...
- Không, cốc chúc mừng đầu
tiên là của tôi! - Marya nâng cốc.
Batsana lắng tai nghe.
Marya chờ cho bọt trong cốc
xẹp xuống, rồi nhìn xuyên qua cốc, ngắm vầng trăng lưỡi liềm vàng óng đã nhô
cao trên Narikala [Một pháo
đài cổ ở Tbilixi]. Batsana theo
gương nàng. Vầng trăng thoạt đầu giật mình, bắt đầu lung linh, rồi chậm chạp
choán đầy cốc và tan trong chất lỏng màu hổ phách. Batsana có cảm tưởng ông cầm
trong tay vầng trăng màu hổ phách mát lạnh.
- Hôm nay là trăng mười bốn...
- Marya khe khẽ nói. - Mọi người đều
biết đích xác lúc trăng mọc và trăng lặn, đều biết ngày trăng mới và ngày trăng
tròn. Nhưng không một ai trên thế gian biết có trăng từ bao giờ, nó ra đời tự
bao giờ... Tôi uống mừng sức khỏe những người mà ngày sinh của họ không ai biết
đến...
Marya chạm cốc với
Batsana. Trăng trong cốc của Batsana lại rung lên, rồi tan ra, biến thành chất
lỏng màu hổ phách trong suốt. Marya và Batsana cạn cốc, và khi Batsana lại nhìn
lên trời thì không thấy trăng đâu nữa. Trăng đã lặn trong mây.
- Bây giờ ta sẽ uống
trăng! - Ông reo lên, vui sướng như trẻ thơ vì sự trùng hợp kỳ lạ ấy.
- Cầu trời cho anh thọ
ngang vầng trăng! Chúc mừng ngày sinh của anh! - Marya đặt cốc xuống. - Ban nãy
anh nói về một điều bí mật gì đó, tôi đã không để anh nói. - Nàng nhắc.
Batsana bỗng muốn áp mặt
vào ngực người phụ nữ kỳ lạ này mà khóc.
- Tôi chỉ muốn nói rằng
em xinh đẹp lạ thường. Marya ạ. Có thể hôn em được chứ?
Người phụ nữ chỉ mỉm cười
đáp lại. Thế là Batsana đứng lên, cúi mình qua bàn, hôn lên đôi mắt to ẩm ướt của
Marya. Liền đó nàng thấy người đàn ông mập mạp vừa rồi đã nói chuyện với người
phục vụ.
- Chào ông! - người đàn
ông đến gần, nói bằng giọng khàn khàn.
- Chào ông! - Batsana
đáp.
- Nếu ông cho phép, thưa
ông Batsana kính mến, tôi chỉ quấy quả ông một lát thôi...
- Mời ông ngồi... Đây là
cô bạn tôi, Marya...
Người đàn ông nghiêng
mình chào lịch thiệp, hôn lên tay Marya và ngồi xuống.
- Ông không nhận ra tôi
ư, ông Batsana kính mến? - người đàn ông lấy trong túi ra ba hộp “Winxtôn”,
đẩy một hộp về phía Marya, hộp thứ hai về phía Batsana, hộp thứ ba giữ cho
mình. Batsana chăm chú nhìn người đàn ông, một hồi ức lờ mờ thoáng qua trong đầu
ông, nhưng ông không nắm bắt được và thốt lên một cách ngượng ngập:
- Có chứ, tôi nhận ra,
nhưng không sao nhớ được chúng ta đã gặp nhau ở đâu.
- Tôi là Xanđrô
Maglapêritzê ở xí nghiệp liên hợp chế tạo các sản phẩm bằng da lông thú...
- À-à! - Batsana kêu lên,
- đã bao thời gian trôi qua rồi!... Hiện giờ ông ở đâu, sống thế nào, thưa ông
Xanđrô?
- Cám ơn, tôi vẫn sống tạm
qua ngày...
- Nếu ông hạ cố đến đây để
trách móc về chuyện cũ thì xin ông đừng làm điều đó hôm nay... Hôm nay là ngày
sinh của cuộc cách mạng Pháp, đồng thời là ngày sinh của tôi! - Batsana nói một
cách vui vẻ và đưa cho Maglapêritzê một cốc đầy.
- Chết nỗi! Trách móc gì!
Trái lại, tôi đến để cảm ơn ông, ông Batsana kính mến!... Ông bao nhiêu tuổi rồi
ạ?
- Bốn mươi lăm!
- Trời! Ông sẽ còn ngần ấy
năm nữa hưởng lạc thú! Và cả tình yêu nữa! - Maglapêritzê nhìn Marya. Marya bối
rối và đỏ mặt. - Chúc mừng ông, ông Batsana kính mến! Cầu trời cho ông được hạnh
phúc! Ông là người không có khả năng làm điều ác, cho dù có muốn làm ác đi nữa!
- Ông tưởng thế ư?
- Tất nhiên! Sau khi bài
văn châm biếm ấy được đăng lên, tôi thành người nổi tiếng! Cả Gruzya biết tôi!
Batsana phá lên cười.
- Tôi không mong cho ai
được lừng danh như thế, ngay cả kẻ thù của tôi!
- Xin đừng nói thế...
Danh tiếng là danh tiếng... Hãy nhớ đến Hêrôxtrat... Bài văn châm biếm đăng
trên báo của ông đã giúp chân lý giành phần thắng và đã lột mặt nạ cái ác.
- Tôi không hồ nghi gì về
điều đó...
Một linh cảm khó chịu ngầm
bảo Batsana rằng Maglapêritzê đến gặp ông hoàn toàn không phải vì tình cảm biết
ơn.
- Vâng, vâng... Do quan
tâm đến bài văn châm biếm, các cơ quan điều tra xác minh rằng mụ đàn bà ấy là một
ả đầu cơ và bịp bợm... Còn người được ông gửi cho bài văn châm biếm để người đó
có biện pháp
xử trí thì té ra lại là một người yêu nước chân chính...
- Bằng cách nào?
- Theo dự tính của ông,
việc loại bỏ bài châm biếm đó khỏi số báo đã sắp chữ sẽ làm thiệt hại cho nhà
nước năm mươi ngàn rúp, phải không ạ? Người đó đã giảm số thiệt hại xuống còn
hai mươi nhăm ngàn...
Batsana bối rối.
Maglapêritzê cảm thấy điều đó và bình tĩnh giải thích:
- Ông ấy hành động rất
đơn giản: không tỏ thái độ về bài đăng của ông.
- Ông muốn nói là ông đã
đút lót, tức là đã bỏ ra hai mươi nhăm ngàn rúp chứ gì?
- Sao lại gọi là đút lót,
thưa ông Batsana kính mến? Tạ ơn một người đã chú ý đến ta, đã giúp đỡ ta là
đút lót ư? Chẳng lẽ ngày nay chúng ta không còn theo bộ luật đạo đức của Ruxtavêli
nữa ư? Ông hãy nhớ lại Avtanđin nói gì với quan tể tướng:
Một người bạn không thể
sống không có bạn mà trái tim không đau
Lúc cần, người bạn sẽ
tức thời tới giúp không chút e dè.
- Tôi thấy ông đã xây dựng
chu đáo thứ triết lý bẩn thỉu của ông, có viện dẫn những văn bản gốc. - Batsana
châm chọc.
- Ồ, văn học cổ điển thực
là vĩ đại... Ruxtavêli thì tôi đọc đi đọc lại hàng ngày, như đọc Phúc âm...
Nhưng tôi cũng đọc cả các tác phẩm của ông và tìm thấy trong đó nhiều điều bổ
ích cho bản thân... Người bạn gái của ông thật là một trang tuyệt sắc, thưa ông
Batsana kính mến. - Maglapêritzê đột nhiên thay đổi đề tài, - Lần đầu tiên
trong đời, tôi thấy một phụ nữ không trang sức mà đẹp như thế!
Batsana không ngờ một bước
xoay chuyển như thế và không biết trả lời ra sao.
- Vợ ông hẳn là thừa thãi
đồ trang sức? - Marya hỏi Maglapêritzê, và để giấu sự lo lắng, nàng uống một hớp
rượu vang.
- Quả có thế... Nhưng tôi
không có ý nói đến các bà vợ... Có những người phụ nữ làm đẹp cho đời ta ở
ngoài tổ ấm gia đình, có thể nói như vậy...
Marya đỏ bừng mặt, nhưng
không nói gì.
Batsana quyết định trở lại
đề tài chính của cuộc nói chuyện.
- Thế sau khi bài châm biếm
được đăng trên báo, trong đời ông không có thay đổi gì ư?
- Có chứ, thưa ông
Batsana kính mến! Thứ nhất, cơ sở sản xuất của tôi đã cháy sạch. Ấy là tại dây
điện quá cũ... Thứ hai, quan thầy của tôi về hưu và bây giờ làm ở ngành thương
nghiệp. Ông ấy kéo tôi về cùng làm. Chúng tôi đã thành lập một liên hợp các hiệu
ăn... có thể nói chúng tôi đã gây dựng cơ đồ trên đống tro tàn, như dựng lại
Rôm đã bị Nêrông đốt cháy, ha-ha!... - Maglapêritzê cười hi hi nghe đến đáng
ghét.
- Phải, bây giờ thì tôi
biết chắc ông là một tên đại bợm rất nguy hiểm, thưa ông Xanđrô... Và nhất định
tôi sẽ trở lại vụ việc của ông, nếu hoàn cảnh cho phép. - Batsana nói một cách
nghiêm túc.
- Quả là tôi không hề chờ
đợi ở ông một câu trả lời như thế! Tôi tưởng rằng qua thời gian đó, ông đã trở
nên biết điều, đã học được cách gáy đúng điệu... Vậy mà ông vẫn cục ta cục tác
theo kiểu của ông.... Chẳng lẽ ông không biết người ta thường xử trí như thế
nào với những chú gà trống gáy không đúng lúc à?
- Hăm dọa ư? - Batsana giận
tái người.
- Anh không cảm thấy ghê
tởm vì phải nói chuyện với tên đê mạt này sao? - Marya hỏi Batsana.
Maglapêritzê bật dậy. Cả
Marya cũng đứng lên.
- Cút khỏi đây! - Batsana
nói rất khẽ với Maglapêritzê.
- Đừng chiều theo thói đồng
bóng của đàn bà, ông Batsana kính mến... Những con đĩ đã ép các chiến sĩ
Maxêđoan đốt trụi thành bang Perxêpôlix tráng lệ nhất thế giới... - Maglapêritzê
nói, cặp mắt vàng vọt đầy căm hờn của y nhìn xoáy vào Marya. Đột nhiên, trong
lúc Batsana đã kịp nghĩ ra cách đối phó, Marya vung tay giáng cho Maglapêritzê
một cái tát cực mạnh. Tiếng tát khiến cho cả quán ăn quay về phía họ, nhưng mọi
việc xảy ra nhanh đến nỗi chẳng ai nhận thấy gì cả... Ở bàn Batsana, không khí
yên lặng như trong nấm mồ... Batsana bỗng cảm thấy từ phía bên kia,
Maglapêritzê bắt đầu nâng mép bàn lên. Ông đè tất cả sức nặng của mình lên bàn.
Maglapêritzê rán hết sức lật đổ bàn nhưng không được. Cuộc quyết đấu thầm lặng ấy
kéo dài chừng một phút. Cả Batsana và Maglapêritzê đều nổi gân trán, mắt đỏ như
máu...
- Chớ có cả gan! -
Batsana thì thầm, và lời nói thầm ấy đáng sợ đến nỗi cơn nóng của Maglapêritzê
nguội hẳn đi. Y lấy lại vẻ mặt như trước, mắt tươi cười. Y rời xa bàn và nói với
Marya:
- Cảm ơn bà, thưa phu
nhân! Suốt đời tôi sẽ không quên cái vinh dự bà đã ban cho tôi!
Mặt trắng bệch như phấn,
Marya lặng thinh.
- Đi khỏi nơi đây,
Maglapêritzê! - Batsana nói, ngạc nhiên về sự bình tĩnh của mình. Maglapêritzê
quay ngoắt đi và tháo lui. Batsana và Marya đứng im một lát, bàng hoàng về sự
việc đã xảy ra, rồi họ ngồi xuống bên bàn. Sự im lặng kéo dài hồi lâu. Người đầu
tiên phá tan sự im lặng là Batsana.
- Marya, cho xem vé máy
bay của em nào!
Marya mở túi, tay run run
bắt đầu lục tìm trong túi, cuối cùng tìm thấy tấm vé, nàng lấy ra và đưa cho
Batsana.
Không nhìn tấm vé,
Batsana xé vụn ra, ném những mảnh giấy vụn vào cái gạt tàn và châm lửa đốt.
- Đừng bỏ anh ở lại,
Marya! - Ông nói khẽ, khi những mảnh vé trong gạt tàn đã cháy hết, Marya đáp lại
bằng cái gật đầu khó nhận thấy. Batsana rót rượu đầy hai cốc và gọi người phục
vụ.
- Thanh toán đi!
- Đã trả tiền hết rồi!
- Ai trả?
- Cửa hàng trưởng của
chúng tôi!
Batsana phá lên cười.
- Ngày chiếm ngục Baxti đối
với ta là thế đấy!... Chúc mừng em, Marya! - Họ chạm cốc. Rồi Marya đứng lên, tới
bên Batsana và hôn lên má ông. Sau đó nàng trở về chỗ của mình, ngồi xuống, úp
mặt vào hai bàn tay và bật khóc nức nở.
*
* *
Nhà thờ Savnabađa [Savnabađa là tên núi: tiếng Gruzya (Savi) là
đen, “nabađi” là áo burka] cao ngất
trên núi quả thật giống một người chăn cừu mặc áo burka đen, giơ một tay che nắng
và đang trông những đàn cừu ăn cỏ trên bờ các con sông Mơtkvari, Anghêti,
Masavêra, Khrami [Tên các con
sông]. Các thành phố Ruxtavi,
Boonixi, Macnêuli [Tên các
thành phố gần Tbilixi] nằm trải
ra dưới chân núi nom giống như con chó khổng lồ đang canh giữ cừu, mõm chúng nhả
ra khói và hơi nóng.
Nhà thờ Savnabađa đẹp lạ
thường vào cuối thu, chìm trong sương khói mỏng manh, mái vòm chống đỡ bầu trời.
Một ngày chủ nhật. Trên
con đường cái hẹp, một chiếc ô tô chạy rì rì. Nó lắc lư như say rượu, đến mỗi
chỗ ngoặt lại dừng, lùi lại phía sau, lấy đà và lao mạnh lên, vượt đoạn dốc tiếp
theo.
Đến khúc ngoặt cuối cùng
trước nhà thờ, xe lại dừng.
Batsana mở tốc độ số một,
ấn bộ li hợp. Sỏi cát bắn tung tóe dưới bánh sau ô tô. Batsana nhấn bàn đạp
tăng tốc. Bánh xe quay như điên. Có mùi cao su cháy khét.
- Ta xuống thôi. - Marya
nói.
- Cứ ngồi yên. Xe trượt
bánh là bởi tải nhẹ quá. - Batsana giải thích.
Ông chờ cho xe lùi lại, rồi
xả tốc và thêm ga. Xe băng về phía trước.
- Thế là đến rồi đấy!
Batsana cho xe đậu dưới gốc
cây.
Marya ra khỏi xe, cởi giầy,
chân không chạy trên cỏ mấy bước, rồi dừng lại giữa sân, giang hai tay ra, và
nhón đầu ngón chân, xoay tròn như cô bé con, reo lên:
- A-u, chúng ta gần thượng
đế biết bao!
Rồi nàng ngồi xuống phía
trước nhà thờ, gục đầu vào giữa hai đầu gối và đờ ra, như rơi vào trạng thái xuất
thần của người hành hương.
Batsana lấy thực phẩm
trong ngăn hành lý, bầy biện lên chiếc bàn kê dưới gốc cây, rồi tới gần Marya,
ngồi xuống đất cạnh nàng, ôm lấy vai nàng, vừa nói vừa cười:
- Marya, em cầu nguyện điều
gì đi!
Marya quỳ gối, chắp hai
tay giơ lên cao, nhắm mắt và cất tiếng thì thầm:
Chàng là hy vọng của
những hy vọng của em.
Là ánh sáng của trái
tim, là sự bình yên của tâm hồn.
Chàng là ánh hào quang
tinh tú của em.
Chàng là tia nắng
vàng.
Chàng là nguồn bất tử.
Thiên thần cánh trắng
của em.
Một điều duy nhất em cầu
xin thượng đế:
Được ở bên chàng, mãi
mãi bên chàng.
Marya ngừng lời.
Batsana thuộc lòng những
câu thơ ấy, nhưng chưa lần nào ông ngẫm nghĩ về nội dung của nó, sao mà nó giống
lời cầu nguyện đến thế. Lúc này tâm hồn ông tràn ngập cảm giác hiền hòa, một
cái gì ấm áp tràn lan khắp cơ thể. Ông kéo Marya áp vào mình và hỏi:
- Đấy là lời cầu nguyện
hay ước mong?
- Chẳng phải hai cái đó
cũng là một thôi ư?
Mặt trời thân thương,
Đừng ẩn mình sau núi!
Bạn thấy đấy, ở đây một
thiếu nữ đang cóng rét.
Hãy lấy thân mình sưởi
ấm cho nàng!
Mau mau ôm lấy con bồ
câu xinh xắn,
Nói với nàng một lời về
tình yêu.
Người đẹp không thể chờ
đợi,
Nàng sẽ đi tìm một
trang anh tài khác!
Dường như thiên nhiên lắng
nghe lời Marya: vầng mặt trời khổng lồ từ sau núi nhô lên, ôm lấy nhà thờ trong
những cánh tay nóng rực và trong nháy mắt, như uống sữa, nó uống hết sương mù
lan tỏa trên các sườn núi.
Marya nép sát vào ngực
Batsana cất tiếng nói, và lời nàng nghe như lời cầu nguyện.
- Đừng bỏ rơi em,
Batsana! Đừng bỏ em, anh là hy vọng duy nhất của đời em!... Tại sao trước đây
anh không ở bên em? Nếu có anh, hẳn anh sẽ giúp em tránh được bao nhiêu tai họa!...
Từ ngày em thấy anh lần đầu, em đã từ bỏ hết thảy!... Ngoài anh ra, đối với em
không còn gì tồn tại nữa! Anh là thượng đế của em, em cầu van anh: đừng bao giờ
ruồng bỏ em, đừng trả em về quá khứ! Em không muốn thế! Em mệt mỏi rồi!... Em
đang tới gần anh... Đấy - đấy, em sẽ chạm vào anh... Em với anh... Đừng ruồng bỏ
em!... - Marya bật khóc.
Tim lặng đi, Batsana nghe
lời tự thú say đắm của người phụ nữ thổn thức và cố dỗ dành nàng.
- Em làm sao thế,
Marya?... Sao em lại nghĩ rằng anh sẽ bỏ rơi em?... Thôi, nín đi!... Đừng khóc,
em thân thương của anh!... Anh sẽ mãi mãi ở bên em!...
Khi Marya đã nguôi hẳn,
Batsana thận trọng dìu nàng nằm xuống cỏ, rồi đứng lên, đi về phía nhà thờ. Ông
cũng bàng hoàng xúc động không kém gì Marya.
Trong nhà thờ mát lạnh và
tranh tối tranh sáng. Batsana nhìn quanh.
Tường lở lói vì hơi ẩm...
Xung quanh không một bức tranh thánh, không một bức bích họa... Tấm bình phong
tranh thánh tả tơi... Trong góc, một chiếc bàn gỗ nhỏ khập khiễng, trải tấm vải
màu lá mạ sờn rách, trên có cái giá nến dúm dó và bức tranh Đức Mẹ do bàn tay một
người kỳ quặc nào đó vẽ...
Trong giá nến có ba cây nến
cháy gần hết... Trên bàn có một bó những cây nến nhỏ con và cạnh đó là một tờ
giấy bạc ba rúp nhàu nát...
- Ê-ây! - Batsana gào.
- Ê-ê-ê-ây! - Tiếng vang
dội lại.
Những con bồ câu đang gù ở
chỗ nào trong các khóm tường dưới mái vòm bay vụt lên và theo nhau bay ra những
khuôn cửa sổ hẹp... Batsana bắt đầu đi vòng quanh nhà thờ. Bức tường phía đông
có chỗ cao bằng tầm người, ám khói nến! Đôi chỗ hiện lên những bản danh sách
dài những người tham quan, xếp theo vần chữ cái, có ghi cả địa chỉ và ngày đến
thăm nhà thờ. Trên khoảng tường chỗ bàn thờ, dưới bức tranh bích họa duy nhất vẽ
hình đấng cứu thế, đã mờ phai gần hết, Batsana đọc thấy mấy câu thơ thảm hại,
trong đó nhà thơ vô danh tự học thách thức đấng tối cao:
Tôi không tin vào đấng
vĩ đại
Sáo rỗng và không có
diện mạo.
“Một đoàn viên Kômxômôn
vô thần” - dưới bài thơ ngắn là chữ ký.
Dưới một chút, có bài trả
lời bằng chữ vạch trên tường:
Nếu ngươi không tin
Chúa và ngươi và tự mãn tự túc đến như thế.
Ngươi lần mò đến đây
làm chi, hỡi gã Kômxômôn trẻ tuổi?
Ta có thừa công việc
phải lo, con đường ta đi dài dằng dặc và đầy chông gai.
Hãy để ta yên, gã vô
thần tự tin kia!
Dưới ký: “Jêsu
Kirixitô”.
Batsana phá lên cười ha hả:
trong cuộc đua tài vắng mặt đó, người vô thần rành rành là thua vị cha của thượng
giới.
Ở nhà thờ ra, Batsana
không thấy Marya.
- Marya, em ở đâu đấy?
Không có trả lời.
“Sao ta lại bỏ nàng lại một
mình?” - Batsana nghĩ và cắm đầu chạy xung quanh nhà thờ.
Marya ngồi bên chiếc bàn
đã bày biện món ăn, dưới gốc cây và ôn tồn nói chuyện với một ông già nào không
rõ.
- Em biến đi đâu vậy? Anh
đã phát hoảng!... Chào cụ! - Batsana quay về phía ông già.
- Cầu trời ban sức khỏe
cho ông! - Ông già bỏ chiếc mũ tusin. [Loại mũ mềm, tròn nhỏ, bằng dạ]
- Ta ăn sáng chứ? -
Batsana hỏi Marya.
- Chứ còn gì nữa! Em đói
ngấu rồi! - Marya đồng ý. - Bác đây sẽ ăn cùng với chúng ta.
- Sao lại không nhỉ! Tôi
cũng có mấy món mang theo! - Ông già cởi dây buộc bị, lấy ra cái bánh mì nhà
làm, pho mát guđa, thịt luộc, tỏi ngâm giấm, nửa chai vôtka.
Batsana lấy trong xe ra
chai rượu vang.
- Các con ta ơi, trước hết
ta hãy làm mỗi người một chén vốtka! - Ông già lấy trong bị ra chiếc sừng nhỏ
xíu, thổi vào đó, rót đầy vôtka và đưa cho Batsana.
- Nào, hãy nếm thử và hãy
nói một đôi lời!
- Ta uống vì niềm vui của
chúng ta và vì nỗi đau xót của các kẻ thù!
Batsana uống cạn, im lặng
một lúc, rồi thốt lên một cách khoái trá.
- Vôtka quả là tuyệt diệu!
- Và ông đưa tay lấy tỏi.
Ông già mừng rỡ, tự rót
rượu cho mình.
- Ở đâu có niềm vui, ở đấy
có đau xót. Ta uống vì cả niềm vui lẫn nỗi đau xót, cầu chúc bình yên và mạnh
khỏe! Vì cuộc sống! - Ông cụ dốc cạn cái sừng rượu và đưa tay vuốt bộ mặt không
cạo, rồi rót cho Marya. - Còn bây giờ thì nói đi, con gái ta! Chúa đã tạo ra
con xinh đẹp thế, lời lẽ của con hẳn là phải đẹp!
Marya cầm lấy cái sừng.
- Bác bao nhiêu tuổi,
thưa bác?
- À, - ông già khoát tay.
- ngoài bảy mươi!
- Cầu trời ban cho bác ngần
ấy năm sống nữa!
- Hơi nhiều, nhưng dù sao
cũng cám ơn con! Ta yêu cuộc sống, chẳng giấu giếm làm gì! Ta còn muốn sống nữa!
Batsana mỉm cười.
- Tên bác là gì, thưa
bác? - Ông hỏi.
- Tên ta là Ghêorghi, họ
là Tumalisvili.
- Bác ở đâu ta?
- Ở cái xã kia kìa.
- Bác đến đây làm gì ạ?
- Chăn gia súc. - Ông già
giơ tay trỏ sườn núi đối diện, nới có hai con bò cái và ba con cừu cái đang ăn
cỏ.
- Gia súc của bác à?
- Của ta.
- Thu nhập khá chứ ạ?
- Thu nhập quái gì! Chúng
nuôi bản thân chúng còn không xong nữa là!
- Thế thì bác nuôi làm
gì?
- Thế đấy, một ngụm sữa,
một nắm len, và đôi khi may được miếng thịt... Ước gì có số con nhiều gấp đôi.
Chứ như hiện nay thì ra quái gì? Vẻn vẹn chỉ đủ bữa ăn cho một con chó sói... -
Thế bác vẫn giao sản phẩm cho nhà nước chứ?
- Có, có giao...
- Bác giao cái gì?
- Thì cũng một ngụm sữa,
một cụm len, một miếng thịt...
- Nếu bác có số con nhiều
gấp đôi thì sao?
- Thì còn phải hỏi gì nữa,
hả con! Có nhiều gấp đôi thì sẽ giao nộp gấp đôi... Chứ ta giấu đi đâu? Giao nộp
cho nhà nước hay đem ra chợ...
- Vậy ra bác không làm việc
trong nông trang ư, bác Ghêorghi?
- Làm chi được, hả con,
tuổi tác như ta thế này!... Các con ta thì đương nhiên là có làm. Chúng nó còn
bảo ta không được chăn gia súc nữa kia. Bố làm ê mặt chúng con, chúng nó bảo thế.
Bố nên ngồi nhà dưỡng già thì hơn. Còn thịt và sữa nộp cho nhà nước thì chúng
con có thể mua ở cửa hàng. Nghe thấy chưa? Mua ở cửa hàng! Thế thứ thịt bán tại
cửa hàng ấy thì ở đâu ra? Điều ấy chúng không nghĩ tới, bọn chó đẻ.
- Bác Ghêorghi, thế nhà
thờ này không có chủ à? - Marya bỗng
hỏi.
- Không, ở đây có một...bà
lão nhà quê. Tên bà ta là Marya... Bà ta vẽ bức tranh thánh ở trên bàn trong
nhà thờ ấy... Bà lão ốm, tội nghiệp, dù mỗi tuần bà ấy chỉ đến đây một lần cũng
đáng khen lắm rồi...
- Thế ai thắp nến vậy? -
Batsana hỏi.
- Ta thắp, chứ còn ai vào
đấy?
- Thế tiền trên bàn ở đâu
ra?
- Ở đâu ra là thế nào? Ta
đặt tiền lên đấy. Để mua nến...
- Bác có tin Chúa không,
bác Ghêorghi? - Marya hỏi.
Ghêorghi suy nghĩ. Rồi cụ
đưa mắt nhìn ngôi nhà thờ từ trên xuống dưới, gãi đầu, rồi lại nhìn nhà thờ.
- Biết nói thế nào được...
Thực tình thì ta cũng chẳng tin lắm... Nhưng ở đây, suốt ngày chỉ có một mình,
xung quanh không một bóng người, tự dưng đâm ra nghĩ đến Chúa...
- Thế cụ nghĩ gì về Chúa?
Ghêorghi lại nhìn nhà thờ
lần nữa.
- Ta nghĩ gì ư?... Ta
nghĩ rằng khi người ta phá hủy thánh điện của người khác thì thay vào đó, phải
dựng những nhà thờ của mình, to đẹp hơn trước. Như cái nhà thờ này chẳng hạn...
Nó là của ai, ai xây cất, không biết. Đến ngày têlêtôba [Ngày tế của nhà thờ], người bốn phương đổ về đây: cả người Acmênya, cả
người Tatar, cả người Hy Lạp, cả người Nga... Người Gruzya thì ta không nói...
Họ đến cầu nguyện... Nhưng ta cho rằng cầu nguyện giữa đồng quang còn hơn là cầu
nguyện trong cái nhà thờ như thế này... Ở đấy Chúa nghe thấy ta rõ hơn... Đứng
trong cái nhà hoang tàn này, đừng nói gì Chúa, ngay đến con người cũng phát tởm...
Ta nói vậy là ý làm sao? Là ngôi nhà thờ này bị bỏ hoang, không ai trông nom
chăm sóc, vậy thì người ta đã dựng nên cái gì thay cho nó?
- Tôi không hiểu bác, bác
Ghêorghi ạ...
- Có gì mà phải hiểu? Con
ạ, trước kia người đi nhà thờ phải leo lên cao, cúi đầu qua cửa tường vây mà
vào, phải bỏ mũ trước nhà thờ và vào trong thì nhất định phải đặt cây nến... Mà
việc gì ta phải giảng giải cho các con nhỉ, các con là những người thông thái,
các con biết rõ hơn ta... Thì như thế này chẳng hạn, Xô viết xã của chúng ta hiện
đặt trong ngôi nhà cũ nát thuê của người ta, thiên hạ vào đấy chẳng những không
bỏ mũ, mà còn chửi mắng và nhổ bọt... Theo ta, trong cả xã không được có nhà
nào cao hơn và đẹp hơn trụ sở Xô viêt xã... Thế các con tưởng trước kia người
ta không dựng nổi nhà mình cao hơn nhà thờ ư? Thừa sức, nhưng không dám! Không
có quyền như thế!... Còn bây giờ, nhà ông chủ tịch nông trang của ta ở ngay trước
trụ sở Xô viết xã, chả khác gì núi Kazơbêc so với quả đồi con kia kìa! Cái nhà
xe của cậu lái xe Mitka cũng to gấp ba câu lạc bộ của chúng ta!... Người ta có
đến cầu nguyện ở cái trụ sở Xô viết xã như thế không? Không hề!... Vậy ra chúng
ta là những kẻ hành khất chăng? Không! Ơn trời, xã ta là một xã giàu có, vững
vàng! Lúa mì dồi dào, có cả rượu vang, cả rau! Con người khác lợn ở chỗ nào? Ở
chỗ con người ăn cái ở trên cây, còn lợn ăn cái ở dưới gốc cây, trên mặt đất!
Ta nói vậy là ý làm sao? Là mọi việc đều phải kịp thời có bàn tay người làm chủ:
để chậm thì quả trên cây rơi xuống gốc, thế là con lợn sẽ được hưởng!... Ta bảo
tay chủ tịch Xô viết xã: “Anh là người làm chủ, là chính quyền Xô viết kia mà.
Thế thì cất nhắc chân tay đi, đồ chó đẻ, hãy dựng một tòa nhà ra nhà, sao cho
người ta vui thích khi vào Xô viết xã!” - “Không có tiền và limit [Limit, nhập từ tiếng Pháp limite, nghĩa là định
mức, tiêu chuẩn cung cấp (N.D)]
thì tôi dựng nhà thế quái nào được?” - hắn
nói. “Lại còn
cái quái quỷ gì thế nữa, limit là cái của nợ gì!” - “Đấy là gạch” - hắn nói.
Nghe thấy chưa? Hắn không có gạch! Thế lấy đâu ra gạch để làm nhà xe cho Mitka
hay để làm cung điện cho ông chủ tịch?... Được, hắn không có gạch, nhưng hắn có
thể cạo mặt hay để râu theo kiểu Cơ đốc được không? Hắn có thể ăn vận tươm tất
được không? Mà đó là để cho người ta tôn trọng hắn thôi? Hắn làm được, thằng
chó đẻ, nhưng hắn cóc cần gì hết! Trong xã con bò của ta đây còn có uy tín hơn
ông chủ tịch! Tại sao? Ấy là vì nó bao giờ cũng được tắm rửa sạch sẽ và cho những
tám lít sữa! Thế đấy. Hay ta nghĩ không đúng? Các con nói ta xem! - Ông già dứt
lời và rót rượu vang vào các cốc.
- Tất cả những điều bác
nghĩ đều đúng, bác Ghêorghi ạ. - Batsana trả lời, - nhưng bác hãy nói thật nhé,
đã có lần nào bác đem điều đó ra nói ở cuộc họp chưa?
- Có một lần...
- Hồi nào?
- Năm nay con bao nhiêu
tuổi?
- Ngoài bốn mươi.
- Còn ta hồi ấy ba mươi,
và suýt nữa ta sa vào... con biết là vào đâu rồi đấy...
- Bây giờ thời buổi khác
rồi, bác Ghêorghi ạ!
- Thế thì để những người
khác nói... Ta hết thời rồi.
- Thế mà bác bảo là bác
còn muốn sống nữa.
- Ôi, thanh niên các người
mau miệng gớm! Khốn nỗi đụng đến công việc thì các người lại không gấp lên cho...
Mà này, có lẽ con là người của huyện ủy, phải không con?
Batsana phá lên cười.
- Không, bác Ghêorghi ạ,
con là nhà văn, cán bộ biên tập một tờ báo.
- Cán bộ biên tập à? Thế
thì viết lên báo của con về tất cả những chuyện ấy đi!
- Con sẽ viết chứ sao!
- Không chắc...
- Tại sao? Con sẽ viết thế
này này: đây là những suy nghĩ của cụ Ghêorghi Tusmalisvili.
- Con muốn trút tất cả
cho ta à? -
Ông già chột dạ.
- Ồ không! Con sẽ viết rằng
con tán thành một phần ý kiến của bác.
- Chỉ một phần thôi ư?
- Vâng.
- Nghĩa là con không hoàn
toàn đồng ý với ta?
- Không.
- Thế có được tới một nửa
không?
- Một nửa thì có lẽ!
- Thế thì viết một nửa
thôi!
- Nhất định!
- Được, để rồi xem. - Cụ Ghêorghi thốt lên bằng
giọng ngờ vực và nói với Marya: - Anh ấy có viết không?
- Anh ấy sẽ viết! - Marya
cười vang.
- Thế các con đối với
nhau là thế nào? - Cụ Ghêorghi bỗng hỏi.
Marya không ngờ tới câu hỏi
đó, nàng bối rối, nhún vai và nhìn Batsana như dò ý.
- Bác Ghêorghi ạ, chúng
con rất yêu nhau và đến đây làm lễ cưới. Nhưng ở đây không có linh mục, thế thì
ai làm lễ thành hôn cho chúng con? - Batsana vừa cười vừa đáp.
- Các con cần gì linh mục?
Nếu các con yêu nhau thì ta đây cũng có thể làm lễ thành hôn cho các con. - Cụ
Ghêorghi vừa nói vừa đứng lên. - Nào, cả hai hãy đứng lên! Tên con là gì?
-
Batsana.
- Tên con thì ta biết rồi:
Marya.
Ghêorghi giơ hai tay lên
trời, tay phải cụ cầm cốc rượu vang.
- Các con ta ơi, Marya và
Batsana! Sương buổi sáng sẽ là thế giới hương thơm của các con, vầng thái dương
cao cả sẽ là vòng hoa của các con, ngôi nhà thờ cổ này và mặt đất thân thương sẽ
là người làm chứng cho tình yêu của các con. Ta, Ghêorghi Tusmalisvili, ta ban
phước cho các con, như Đấng Tối cao ban phước cho Noah và các con của người. Hãy sinh con đẻ cái! Mong rằng
con cái của các con sẽ làm rạng danh đất nước ta! Mong rằng tình yêu sẽ là người
bạn đường vĩnh viễn của cuộc đời các con! Hãy chung thủy với nhau, hãy nâng đỡ
nhau trong những lúc khó khăn và lo âu! Amen!... Và đừng quên mời ta đến dự tiệc
cưới!
Ghêorghi nốc cạn cốc rượu,
đưa tay áo lau mồ hôi, đến gần Marya và Batsana, lần lượt hôn cả hai người thật
kêu.
- Cám ơn bác Ghêorghi! -
Batsana cảm ơn ông già, Marya đứng cúi đầu, im lặng.
- Con của hai con sẽ xinh
đẹp lắm! Hãy sinh đẻ nhiều con vào! - Ghêorfhi cầm cái bị lên.
- Bác đi ư, bác Ghêorghi?
- Batsana hỏi với giọng luyến tiếc.
- Phải đi thôi, không thì
gia súc lẻn vào vườn nông trang, người gác sẽ ăn thịt ta mất!... Từ biệt các
con! Lần sau có đến đây nhớ tìm ta nhé, ta ở quanh đâu đây thôi...
- Tạm biệt bác Ghêorghi!
Cầu trời ban sức khỏe cho bất cứ ai ở trong cái sa mạc này, dù đàn ông hay đàn
bà, miễn là người đó đồng tình và ủng hộ bác! - Batsana và Ghêorghi xiết chặt
tay nhau và ông già ra đi. Đi được mấy bước, ông bỗng quay lại và lớn tiếng
nói, giọng bực bội:
- Này Marya, con giận ta
phải không? Ta làm phép cưới cho con không đúng lễ ư?
Marya vùng chạy tới chỗ cụ
Ghêorghi, ôm lấy cụ và hôn tới tấp lên khuôn mặt lởm chởm râu ria của cụ. Rồi
cũng nhanh như thế, nàng quay lại và chạy về phía nhà thờ.
Batsana đưa mắt nhìn theo
cụ Ghêorghi đã ra xa, rồi đi theo Marya.
Marya quỳ bên chiếc bàn
con. Trước ảnh Đức Mẹ có ba cây nến cháy sáng.
Batsana lắng nghe hồi lâu
tiếng thì thầm của người phụ nữ. Ông không nghe thấy lời, nhưng hiểu rằng Marya
cầu nguyện. Rồi ông nhẹ nhàng đặt cạnh tờ ba rúp nhàu nát số tiền mười rúp và
rón rén ra khỏi nhà thờ.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét