Các chủ tịch KGB - Những hồ sơ lộ sáng
Tác giả: Leonid Mlechin
Dịch
giả: Hùng Sơn
NXB Lao Động - 2001
Thời Kỳ Tan Rã
Chương XVII
Vladimir Aleksandrovich Kryuchkov
Chủ tịch KGB (10/1988 -
8/1991)
V.A.Kriuchkov sinh năm
1924 ở Saritsyno trong một gia đình công nhân. Bản thân ông làm công nhân ở nhà
máy, rồi làm công tác Đoàn. Năm 1946 làm Phó Bí thư Thành đoàn Stalingrad. Từ
đó ông được Viện Kiểm sát lấy sang làm điều tra viên, rồi Chánh Công tố quận. Ông vào học hàm thụ Đại học Luật
Saratov và tốt nghiệp năm 1949.
Năm 1951, Thành ủy Stalingrad cử ông đi học
ở Học viện
Ngoại giao ở Matxcơva - là nơi đào tạo các cán bộ đã có kinh nghiệm và thâm
niên công tác thành các cán bộ ngoại giao. Ở đây, bên cạnh các môn học khác,
ông học một ngoại ngữ khó là tiếng Hung.
Năm 1954, tốt nghiệp Học
viện, Kriuchkov về công tác ở Bộ Ngoại giao lúc đó do A.A.Gromyko đang lên làm
Thứ trưởng thứ nhất. Không khí và ngày làm việc dần dần trở lại bình thường
không còn căng thẳng như thời Molotov làm Bộ trưởng. Nhưng các cán bộ ngoại
giao cũng vẫn chỉ là những công chức mẫn cán được giao thực hiện các công việc
nhỏ nhặt.
Năm 1955, Kriuchkov được
cử đi làm Bí thư thứ ba Đại sứ quán Liên Xô tại Hungary. Đại sứ là Iu.V.Andropov - một cán bộ Đảng hơn 40
tuổi giàu kinh nghiệm. Đây là một dịp may cho Kriuchkov. Ông sẽ cùng đi và phục
vụ dưới trướng của Andropov, được Andropov giúp đỡ chỉ bảo cho đến tận cuối đời
Andropov.
Kriuchkov nhớ mãi những
ngày diễn ra cuộc bạo động ở Hungary, khi sứ quán Liên Xô bị bao vây, rồi những đêm mất
ngủ, những cuộc gặp bí mật đầy nguy hiểm với các đồng chí Hungary. Kriuchkov cũng như
Andropov, cho rằng nguyên nhân của mọi chuyện là sự mềm yếu của lãnh đạo Hungary. Mấy chục năm đã trôi
qua, Kriuchkov vẫn tin rằng Liên Xô và Sứ quán Liên Xô lúc đó đã hành động
đúng.
Do hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ trong điều kiện chiến đấu, theo đề nghị của Đại sứ, Kriuchkov được Nhà
nước tặng thưởng Huân chương Lao động Cờ Đỏ.
Andropov hết nhiệm kỳ về
nước năm 1957, Kriuchkov còn ở lại Hungari. Nhưng Andropov không quên người cán
bộ dũng cảm và nhiều triển vọng. Khi đã là Bí thư kiêm Trưởng ban đối ngoại
Trung ương Đảng, Andropov chuyển Kriuchkov về làm việc với mình. Một cán bộ được
chuyển từ Bộ Ngoại giao về Trung ương Đảng là một sự tín nhiệm lớn. Nhưng còn
chưa ai ngờ được rằng Kriuchkov sẽ tiến xa đến mức trở thành phó của Andropov.
Kriuchkov làm chuyên
viên, vụ trưởng, rồi trợ lý của Bí thư Trung ương Đảng. Khi Andropov chuyển từ
Trung ương Đảng sang làm Chủ tịch KGB, Kriuchkov lại làm trợ lý của Andropov,
Trưởng ban thư ký của Chủ tịch KGB. Phòng làm việc của Kriuchkov đối diện với
phòng làm việc của Andropov. Lúc nào Kriuchkov cũng có thể trợ giúp cho thủ trưởng,
tận tình và đắc lực.
Năm 1971, Andropov chuyển
Kriuchkov sang một công tác độc lập là làm Tổng cục phó thứ nhất Tổng cục 1 (Tổng
cục tình báo). Đây là một bước bồi dưỡng để Kriuchkov đảm nhận những nhiệm vụ cao
hơn. Song, trong bước đầu, như chính Kriuchkov thú nhận, ông cảm thấy thiếu vắng
người thầy của mình.
Vả lại, bước đầu công tác
tình báo của ông lại trùng vào một việc đáng buồn: tháng 9/1971, Oleg Lialin -
sĩ quan tình báo Liên Xô đóng ở Luân Đôn chạy sang phía Anh. Anh vốn đã phàn
nàn về biên chế sứ quán Liên Xô quá lớn so với sứ quán Anh ở Matxcơva và tình
nghi nhiều cán bộ trong số đó hoạt động gián điệp, đã nhân cớ đó trục xuất hơn
100 người của các cơ quan Liên Xô đóng ở Luân Đôn.
Lialin hoạt động dưới
danh nghĩa kỹ sư trưởng ở Thương vụ Liên Xô tại Luân Đôn, bị giữ vì vi phạm luật
lệ giao thông. Thông thường những sự vi phạm luật lệ giao thông của cán bộ,
nhân viên sứ quan bị ghi lại và thả ngay. Nhưng trong trường hợp này có sự sắp
đặt của an ninh Anh. Vốn biết rõ đời tư của Lialin, biết một số sai phạm của
Lialin, kể cả việc anh ta “lòng thòng” với một nữ nhân viên trong cơ quan. An
ninh Anh hù dọa Lialin và dụ anh ta cộng tác. Lialin không chịu, sau đó nói là để suy
nghĩ. Đến sáng hôm sau, lãnh sự đến gặp
và đón Lialin về sứ quán. Cũng không may là trưởng bộ phận an ninh - người mà
Lialin rất kính trọng - lúc đó đi công tác vắng. Phó bộ phận, một đồng nghiệp
trẻ vốn có thành kiến với Lialin bắt đầu nói chuyện với Lialin đại ý: anh đã
nhiều khuyết điểm như thế, lại xảy ra như thế... thì chỉ có cách xách vali về
nước. Lialin bèn quyết định chạy sang phía địch.
Kinh nghiệm trong công
tác an ninh cho thấy rằng khi một người rơi vào trường hợp không may, bị dính,
nếu đẩy người ta ra xa quá, có thể mất luôn cán bộ.
Trong vụ này Kriuchkov
không có lỗi gì cả, nhưng ông nhớ mãi bài học đó.
Năm 1974, Andropov đề nghị
Kriuchkov làm Phó Chủ tịch KGB kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo, và được
Brejnev đồng ý. Đồng nghiệp kể rằng Kriuchkov là một người thông minh, uyên
bác, và cực kỳ chăm chỉ. Khi cần đi phát biểu ở đâu đó, lẽ dĩ nhiên người ta
chuẩn bị bài vở cho ông - cơ quan có những bộ phận xử lý thông tin rất mạnh.
Ông xem, có vẻ không có ý kiến gì lớn, cũng không bắt viết đi viết lại, sửa đi
sửa lại như thường thấy. Nhưng đến khi nghe ông phát biểu thì thấy khác, nghe
hay hơn. Có nghĩa là ông đã tự viết lại.
Tự bản thân ông nghiên cứu,
thu thập tư liệu. Ông lập hồ sơ và các hộp “phích” riêng về các vấn đề, y như
trong thư viện. Khi phát biểu hoặc bàn luận, ông có thể sử dụng tư liệu một
cách thành thục như một nhà nghiên cứu.
Kriuchkov thuộc loại người
lúc nào cũng chăm chăm chú chú vào công việc. Ra nhà nghỉ ngoại ô của ủy ban,
người thì đánh bài, người thì chơi đôminô, bi-a..., còn ông đi dạo một chút rồi lại lên phòng làm việc.
Ông tự hào về công tác
tình báo, cũng như Andropov rất quý và coi trọng tình báo. Nhân tiện phải nói rằng
ông là một trong số rất ít người dám có ý kiến riêng, cãi lại cả Andropov, mặc
dù yêu kính vô hạn người thầy của mình. Ông đã từng dám nói thẳng với Andropov
việc này việc nọ giải quyết như thế là không đúng. Andropov đã giận, không nói
chuyện với ông cả một thời gian.
Nhưng sau chính Andropov
lại phải làm lành: “Volodia, cậu đến đây
ta bàn việc này một chút”.
Sáng sáng, ông dậy tập thể
dục ngoài trời một tiếng đồng hồ, và thường đi nghỉ phép vào mùa đông, vì ông
yêu thích nhất là trượt tuyết và tắm hơi, mặc dù là sauna Phần Lan chứ
không phải là tắm hơi kiểu Nga.
Khi xảy ra cuộc đảo chính
tháng 8/1991, người ta khám nhà ông và tìm mãi quyển sổ địa chỉ và điện thoại của
ông, không thấy. Lúc đó bà vợ ông mới bảo là ông không có quyển sổ đó, vì tất cả
tên họ và số điện thoại cần thiết ông nhớ trong đầu cả, không cần phải dùng đến
sổ.
*
* *
Một ngày cuối tháng Ba năm 1978, đại diện Liên
Xô tại Liên hợp quốc, Oleg Troyanovski mời A.N.Shevchenko - Phó Tổng thư ký
Liên hợp quốc người Liên Xô - đến gặp để truyền đạt chỉ thị của Matxcơva yêu cầu
Shevchenko về nước gấp có việc.
Shevchenko hoảng hốt, khi
trở về trụ sở của mình ở Liên hợp quốc đã gọi điện cho CIA, rồi đi bộ xuống nhà
theo cầu thang máy, sang đường: ở đó đã có xe ô tô của CIA chờ sẵn.
Đại sứ Liên Xô tại Mỹ
Dobrynin và Đại diện Liên Xô tại Liên hợp quốc Troyanovski yêu cầu Mỹ cho gặp
Shevchenko để xem có đúng là Shevchenko muốn ở lại không, hay ông ta bị bắt
cóc. Cuộc gặp đã được thu xếp.
Hai đại sứ đã cố gắng
thuyết phục Shevchenko thay đổi ý định, nhưng không có kết quả.
A.N.Shevchenko là một
trong những quan chức cấp cao nhất của Liên Xô đào ngũ. Ông ta làm việc đó
không phải vì chính trị. Quan điểm tư tưởng của ông không phải như thế. Đúng
hơn là ông ta thích lối sống phương Tây, những ưu đãi, tiện nghi và danh giá mà
chức vụ Phó Tổng thư ký Liên hợp quốc đem lại cho ông ta. Ngoài ra, cũng có yếu
tố gia đình, khi người đàn ông đã ngoài bốn mươi tuổi thường phải trải qua khủng
hoảng trong đời sống vợ chồng. Người Mỹ đã tìm cho ông ta một phụ nữ điêu luyện.
Shevchenko thích ứng được với xã hội, nhưng cuộc sống của ông ở Mỹ sau này
không thể gọi là hạnh phúc được.
Năm 1979, một thiếu tá
tình báo Liên Xô khác là S. A.Levchenko - phóng viên thường trú tuần báo “Thời Mới” (tờ tuần báo chính trị
- xã hội của Liên Xô) ở Nhật cũng xin cư trú chính trị ở Mỹ, vì biết là không
thể cư trú chính trị ở Nhật được. Anh ta đã khai ra rằng Liên Xô có tới hai
trăm điệp viên và cơ sở chân rết ở Nhật. Anh ta đã nêu tên một số chính khách
và nhà báo cỡ lớn của Nhật làm việc cho Liên Xô. Những người này, trên cương vị
của mình dẫn dắt công việc thuận lợi cho Liên Xô. Thực chất họ thuộc loại mà Chủ
tịch KGB Kriuchkov gọi là “các điệp viên gây ảnh hưởng”. Ngoài ra, Levchenko
cũng cho biết rằng tình báo Nga đã vận động một nghị sĩ Nhật thành lập Nhóm nghị
sĩ hữu nghị với Xô viết tối cao Liên Xô và chi tiền cho hoạt động của nhóm này,
và rằng KGB cũng tài trợ cho Đảng Xã hội Nhật bằng cách tính hoa hồng từ các hợp
đồng có lợi mà các công ty bạn bè của Nhật ký với Liên Xô.
Sau vụ Levchenko chạy,
Kriuchkov đã buộc phải thay toàn bộ mạng lưới điệp báo viên ở Tokyo và tổ Nhật
của KGB. Nhiều cán bộ làm về Nhật đã bị mất việc, phải chuyển sang công tác
khác ít thú vị hơn hoặc không được dùng đến tiếng Nhật, không được đi Nhật nữa.
Họ căm thù Levchenko. Có người nói nếu gặp Levchenko sẽ tự tay giết chết hắn
ta.
Những năm 1950, sau khi một
sĩ quan an ninh chạy sang phương Tây, KGB có lệnh ám sát anh ta. Nhưng tìm kiếm
và giết một người ở nước ngoài không phải đơn giản. Sau này, KGB không ban hành
những lệnh như thế nữa.
Còn Kriuchkov thậm chí xử
khoan hồng đối với những cán bộ hối cải và quay trở lại (như trường hợp V.
Yurchenko). Ông thà tỏ ra độ lượng với những cán bộ coi như bị bắt cóc hoặc bị
dụ dỗ, mua chuộc còn hơn là mang tiếng đào tạo ra những cán bộ phản bội tổ quốc.
Thời Kỳ Hoàng Kim Của
Ngành Tình Báo
Thời gian Kriuchkov lãnh
đạo Tổng cục 1, công tác tình báo, cũng như toàn bộ công tác an ninh dưới thời
Andropov, có thể nói, ở vào giai đoạn phát triển rực rỡ nhất. KGB đã triển khai
được một mạng lưới điệp báo viên đông đảo và rộng rãi chưa từng có trên toàn thế
giới, cùng với ngân sách lớn, kỹ thuật hiện đại và đương nhiên là địa vị cao.
Cán bộ và chiến sĩ tình báo luôn cảm thấy được cánh tay nâng đỡ và dìu dắt của
Andropov.
Andropov có một phòng làm
việc riêng ở tại trụ sở của Tổng cục I ở Yasenevo (Matxcơva) - thỉnh thoảng ông
đến đây, gặp gỡ không chỉ với Kriuchkov
mà với cả các tướng lĩnh khác. Andropov thậm chí còn sinh hoạt chi bộ ở đây.
Sau này, người ta cũng
phê phán Kriuchkov là ham làm ăn lớn và triển khai theo chiều rộng. Nhưng quả
thực tình báo Liên Xô cắm rễ được ở tất cả các khu vực, như một cái máy hút bụi
khổng lồ thu hút thông tin an ninh trên toàn thế giới và tuyển mộ điệp viên, cộng
tác viên kể cả ở Zimbabue và Malaisia, mà mục tiêu tuyển mộ trước hết là người
Mỹ hoặc người làm cho Mỹ. Tình báo và phản gián Liên Xô quả thực có tầm vóc của
một siêu cường.
Kriuchkov viết trong hồi
ký, rằng những thông tin thu được cho thấy NATO có kế hoạch tấn công Liên Xô.
Quả thực, vấn đề số một mà lãnh đạo Liên Xô trong những năm ấy quan tâm là vấn
đề chiến tranh và hòa bình. Và tình báo phải tập trung vào nhiệm vụ đó.
Bản thân Kriuchkov tự hào
về công tác của ngành tình báo, và không phải vô cớ.
Tháng Tám năm 1974, diễn ra cuộc
đảo chính quân sự ở đảo Síp kết thúc bằng việc chia cắt lãnh thổ Síp và quân Thổ
Nhĩ Kỳ đổ bộ chiếm phía Bắc. Dinh tổng thống bị ném bom, và quân đảo chính đưa
tin Tổng thống Macarios đã bị giết.
Nhưng KGB theo chỉ thị của
Kriuchkov nhân danh Tổng thống đưa tin qua đài phát thanh rằng Makarios vẫn còn
sống và kêu gọi đấu tranh. Cuộc đảo chính sau đó thất bại và điều ngạc nhiên đối
với cả KGB là Tổng thống Macarios vẫn còn sống thật. Kriuchkov gọi đó là công
tác “A” (active measures) - công tác tuyên truyền chặn trước của KGB.
Năm 1978, đích thân
Kriuchkov lãnh đạo chiến dịch Afganisstan của KGB, đã báo cáo với lãnh đạo Liên
Xô rằng Mỹ đang tìm cách thâm nhập vào Afganistan để biến Afganistan thành tiền
đồn chống Liên Xô ở phía Nam, rằng H.Amin là gián điệp, tay sai của Mỹ.
Bộ Mặt “Chống Cải Tổ” Và Cuộc Đảo Chính Năm 1991
Sau khi cho Chebrikov
thôi chức Chủ tịch KGB tháng 9/1988. Gorbachov đưa Kriuchkov lên thay.
Tại sao Gorbachov lại chọn
Kriuchkov, mà không phải là F.D.Bobkov - một Phó Chủ tịch kỳ cựu của KGB,
nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục 5, chẳng hạn?
Đó là vì Gorbachov cho rằng
Kriuchkov, con người có đầu óc sáng tạo, năng động nhất trong các cán bộ lãnh đạo
nội vụ và có hiểu biết thế giới sẽ ít chống đối nhất với cải tổ. Vả lại
Gorbachov biết Kriuchkov từng là trợ thủ trung thành và đắc lực như thế nào của
Andropov. Ông cũng muốn có một trợ thủ như thế.
L.V.Shebarshin - người
thay Kriuchkov lãnh đạo Tổng cục tình báo Xô viết bình luận: “Có thể rằng Gorbachov cảm thấy Kriuchkov là
con người mềm dẻo, năng động và dễ làm việc... Nhưng theo tôi, Tổng Bí
thư đã nhầm to, không biết rằng đằng sau cung cách nhẹ nhàng, bề ngoài mềm dẻo
và chấp hành của Kriuchkov là cả một ý chí sắt đá và sự cương nghị, khả năng đi
vòng, đi lâu nhưng bao giờ cuối cùng cũng đi tới đích”.
Cũng trong năm đó (1988),
Kriuchkov được phong hàm Đại tướng Quân đội, một năm sau, trở thành ủy viên Bộ Chính trị, nhưng ở
đó không lâu vì sau đó Gorbachov thay đổi cơ cấu - nghĩ ra Hội đồng cố vấn của
Tổng thống (năm 1990) rồi Hội đồng An ninh (năm 1991) mà Kriuchkov vẫn luôn luôn là một
thành viên.
Là Chủ tịch KGB,
Kriuchkov bước vào một thời kỳ khó khăn. Khuôn mặt nghiêm khắc, luôn luôn không
hài lòng của ông mỗi lần xuất hiện trên vô tuyến đã trở thành biểu tượng của
các lực lượng “chống cải tổ” như ngày ấy thường hay nói. Tiến trình cải tổ, logic phát triển của các sự
kiện không chỉ trái ngược hẳn lại với nhãn quan chính trị của ông, mà còn dẫn tới
sự sụp đổ trông thấy được của đế chế an ninh.
Quyền lực của ủy ban bị
suy yếu từng ngày.
Kriuchkov cố sức được đến đâu thì cố
gắng chèo chống đến đấy để duy trì quyền lực của ủy ban và thích nghi với thời
thế mới. Ông cho soạn thảo đạo luật về cơ quan an ninh để Xô viết tối cao thông
qua, tiến hành một số biện pháp để dư luận thấy rằng cải tổ và công khai hóa lan sang cả KGB, như
tăng cường họp báo, mở hồ sơ lưu trữ về một số vụ việc.
Trong cơ quan, kể cả ở Tổng
cục 1 và Tổng cục 5, người ta bắt đầu công khai thảo luận về việc cải tổ công
tác và cải tổ cơ quan. Yêu cầu cải tổ đó được Trung ương Đảng phê duyệt. Tổng cục
5 được đổi thành Tổng cục bảo vệ chế
độ hợp hiến, trong đó có bỏ đi một số Vụ phụ trách đấu tranh với các lực lượng
xã hội, thí dụ như Vụ đấu tranh chống chủ nghĩa Zionism. Nhưng những thay đổi đó mang tính chất không cơ
bản, nói chung Tổng cục vẫn giữ tính chất cũ.
Về thành phần và thái độ
của đội ngũ cán bộ KGB trong những năm cải tổ, thì khoảng 10% là các nhà chuyên
môn, tiếp tục công việc của mình trong mọi trường hợp, không phụ thuộc vào sự
thay đổi hoặc ý muốn của lãnh đạo. Khoảng 15% là cán bộ Đảng và cán bộ cốt cán.
Số đông còn lại tùy theo gió đổi chiều mà liên kết với phái này hoặc phái kia. Chính sự chia rẽ,
không đồng nhất này là một trong những nguyên nhân không thành công của cuộc đảo
chính tháng 8/1991. Tuy nhiên bầu không khí chung trong KGB là không tán thành
hoàn toàn với cải tổ của Gorbachov. Trong một buổi sinh hoạt chính trị của cơ
quan, khi các đại biểu Quốc hội V.Alksnis và E.Kogan (những người chống lại Mặt
trận nhân dân đòi độc lập ở các nước cộng hòa Baltic) được mời đến cơ quan nói chuyện, toàn hội trường
đã đứng dậy chào, và khi Alksnis lên tiếng phê phán đường lối của Gorbachov, cả
hội trường đã vỗ tay rất lâu.
Tại một cuộc họp kín của
Xô viết tối cao Liên Xô, Kriuchkov đã có một bài phát biểu dài không công bố mà
tinh thần là phản đối những cải cách của Gorbachov. Kriuchkov nói rằng đang diễn
ra một đường lối trên toàn tuyến nhằm thay đổi chế độ chính trị - xã hội của đất
nước. Trong một số vùng của đất nước, bạo lực và khủng bố đã diễn ra. Các
phương tiện thông tin đại chúng nằm trong tay các thế lực chống chế độ Xô viết.
Cái gì cũng phải có giới hạn của nó. Đã đến lúc phải sử dụng quyền lực. Mà quyền
lực nằm trong tay Tổng thống. Bây giờ là lúc không thể không áp dụng những hành
động mang tính khẩn cấp, bất thường.
Vấn đề thiết lập tình trạng
khẩn cấp đã được bàn trong suốt một năm trước khi diễn ra đảo chính. Suốt một
năm, người ta yêu cầu Gorbachov ban bố tình trạng khẩn cấp. Nhưng ông ta chần
chứ, không đồng ý. Trong thâm tâm, ông hiểu rằng việc thiết lập tình trạng khẩn
cấp sẽ quyết định số phận cuộc cải tổ của ông.
Gorbachov càng do dự, yếu
đuối, thì Kriuchkov lại càng thêm quyết tâm hành động. Bộ Chính trị càng bị mất
vai trò dưới thời Gorbachov, thì vai trò của Kriuchkov càng tăng. Bây giờ, trên
ông không còn ai ngoài Gorbachov. Trước Kriuchkov, các Chủ tịch KGB đều hiểu rằng
số phận và sự an toàn của lãnh đạo đất
nước kể cả người thứ nhất nằm trong tay họ. Họ là người cung cấp thông tin, họ
cũng là người đề ra các phương án hành động. Nhưng nếu trước kia, cả đến
Andropov cũng còn phải xem ý Suslov và Kirilenko và phải thỏa thuận với Bộ Chính trị,
thì nay Kriuchkov chỉ còn vướng có Gorbachov. Mà Gorbachov thì yếu đuối như thế.
Hơn nữa, trong tay Kriuchkov vẫn còn một bộ máy hùng hậu nửa triệu cán bộ và
chiến sĩ.
Ngày 31/7/1991, Tổng thống
Nga Yeltsin và Tổng thống Kazakhstan Nazarbaev gặp Tổng thống Liên Xô Gorbachov
trước khi Gorbachov đi nghỉ ở Foros, và ba người đã thống nhất gạt Kriuchkov và
Bộ trưởng Quốc phòng Yazov.
Ngày 17/8, tại một cơ sở
bí mật của KGB, Kriuchkov gặp Bộ trưởng Quốc phòng Yazov và Bí thư Trung ương Đảng
O.Shenin, thống nhất rằng cần phải ban bố tình trạng khẩn cấp, phải buộc
Gorbachov ký lệnh ban bố. Nếu Gorbachov không ký, thì buộc ông ta từ bỏ quyền
hành.
Gorbachov không đồng ý. Họ
bèn cách ly ông ta tại Foros, rút đội trưởng đội cảnh vệ, Thiếu tướng KGB
V.Medvedev về Matxcơva.
Ngay tối hôm đó ở
Matxcơva, Ủy
ban Nhà nước về tình trạng khẩn cấp ra “Tuyên bố của ban lãnh đạo Liên Xô”, nói
rằng vì tình trạng sức khỏe, Gorbachov không thể thực thi quyền hạn của mình
và chuyển giao quyền hành cho Phó Tổng thống G.I.Yanaev.
Ủy ban tình trạng khẩn cấp,
như mọi người biết, đã bị thất bại.
Nguyên nhân chính là sự bất
tài về mặt tổ chức. Không hề có một kế hoạch chi tiết về âm mưu đảo chính, mà
chỉ có những ý định và tính toán kéo Gorbachov vào cuộc. Ủy ban tình trạng khẩn
cấp xét cả về bản chất cả về thành phần những người tham dự không thể đóng nổi
vai trò một Pinochet.
Tướng Vorotnikov - nguyên
Cục trưởng Cục bảo vệ chế độ hợp hiến (tức Tổng cục 5) KGB bình luận:
- Vladimir Alexandrovich
(tức Kriuchkov - cách gọi kính trọng và thân mến) là con người của thời đại trước.
Những người được ông giao bảo đảm về mặt tác chiến và an ninh cho ủy ban tình
trạng khẩn cấp không hiểu một cách thực rõ ràng tình hình và nhiệm vụ và đã đề
ra những biện pháp không phù hợp với tình hình. Tôi đã từng hoạt động trong điều
kiện tình trạng khẩn cấp ở Erevan
(Armenia) và biết đó là thế nào rồi, nhưng đấy mới chỉ là một thành phố. Chỉ có
một người không có khái niệm thế nào là thiết quân luật hoặc tình trạng khẩn cấp
mới có thể ra lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp trên cả nước.
Ý kiến của nguyên ủy viên
Bộ Chính trị E. K. Ligachov:
- Tôi kính trọng Vladimir
Alexandrovich về trí tuệ sắc sảo, đặc biệt là đầu óc phân tích và ý thức chính trị.
Nhưng ông thiếu sự kiên quyết.
- Có nghĩa là, theo đánh
giá của ông thì ông ta quá mềm?
- Kể cũng lạ, nhưng đúng
là như vậy. Kriuchkov không phải là người mềm lắm đâu, nhưng thiếu tính kiên
quyết và độc lập trong hành động, có lẽ do một thời gian dài ông đứng sau
Andropov, giúp Andropov.
Kriuchkov là một tài năng
mật vụ. Trong công tác an ninh, ông như cá trong nước. Trong phân tích, đánh
giá, dự báo tình hình và hoàn thành những nhiệm vụ đặc biệt thì ông là người
tuyệt hảo từ tổ chức mạng lưới tình báo, tuyển mộ điệp viên, giết địch thủ, bảo
đảm cho việc rút quân Liên Xô khỏi Afganistan, đến ổn định tình hình ở Kavkaz,
ông đều hoàn thành xuất sắc. Đến một ngày, Kriuchkov đã chán vai trò làm người
thừa hành cho một ông chủ yếu đuối. Trí nhớ tuyệt vời và sự hiểu biết thông tin
đầy đủ chỉ càng làm bùng cháy tham vọng của ông. Ngày lại ngày, ông báo cáo
tình hình và những điều bí mật mà ông nắm được cho Gorbachov, và càng ngày càng
dầy thêm lòng khinh bỉ đối với ông chủ cái gì đưa cho cũng nuốt nhưng rồi cứ ngồi
đấy như ông bụt chẳng chịu làm gì.
Cuộc đảo chính tháng
8/1991, trong đó Kriuchkov thử sức mình để xoay chuyển tình thế đã thất bại.
Trên đường từ Foros về Matxcơva, Kriuchkov đã bị bắt. Khi Chánh Công tố Liên bang Nga
Stepankov ở sân bay tuyên bố điều đó, Kriuchkov nói: “Giờ thì ủy ban (tức KGB) cũng
tan rã nốt”.
Cuộc đảo chính đã làm
thay đổi tâm lý xã hội. Những người trước đây còn do dự thì nay đứng hẳn về
phía chính quyền mới của B.Yeltsin để mong có một cuộc sống bình yên, không có
đảo chính và xáo trộn. Các nước cộng hòa thì chạy khỏi Liên Xô, sợ rằng cuộc đảo chính như
vậy không phải là cuối cùng.
Tháng 1/1993, Tòa quân sự của Tòa án Tối cao thay đổi hình thức
xử lý đối với các thành viên của Ủy ban tình trạng khẩn cấp: thả tất cả họ về
nhà.
Tháng 5/1993, Viện Công tố đề nghị giam giữ
trở lại Kriuchkov, Lukianov và Yanaev vì họ “lại bắt đầu hoạt động chính trị
làm mất ổn định xã hội”. Bằng cớ là cuộc tuần hành quần chúng ngày 1 tháng Năm ở
Matxcơva mà họ tham gia đã kết thúc bằng một cuộc ẩu đả tại Quảng trường Đỏ.
Nhưng tất cả họ vẫn tại ngoại.
Phiên tòa xử vụ này năm 1993 cũng
không dẫn đến kết quả gì. Chủ tọa phiên tòa A.Ukolov cho rằng Chánh Công tố V. Stepankov đã vi phạm luật và đề nghị Xô
viết tối cao chỉ định các công tố độc lập. Nhưng Xô viết tối cao từ chối. Kriuchkov
bị buộc tội “phản bội tổ quốc” (Điều 64) và “lạm dụng chức quyền” (Điều 260 Bộ
luật Hình sự Nga).
Nhưng Kriuchkov tự bào chữa
rằng tháng 8/1991, ông thi hành phận sự của mình với tư cách người lãnh đạo KGB
Liên Xô trong việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và an ninh Tổ quốc; hơn nữa KGB đã
nhận được những thông tin chính xác về một kế hoạch đang được chuẩn bị với sự hỗ
trợ của nước ngoài nhằm làm tan rã Liên Xô.
Tháng 2/1994, Duma quốc
gia (Hạ viện Nga) mới thông qua luật ân xá cho Kriuchkov và tất cả những người
tham gia Ủy ban tình trạng khẩn cấp năm 1991.
Trên danh nghĩa, đồng ý
nhận ân xá tức là công nhận tội lỗi. Song trên thực tế, Kriuchkov chưa bao giờ
nhận mình có tội. Trái lại, thời gian càng trôi qua, ông càng tự coi mình là
anh hùng.
Thời gian đầu sau khi được
tự do, Kriuchkov tập trung đấu tranh với nguyên ủy viên Bộ Chính trị, viện sĩ
A.N.Yakovlev, vạch trần ông ta là từ lâu đã làm gián điệp cho Mỹ. Kriuchkov còn
nói thêm:
“Tôi chưa một lần nào nghe thấy từ miệng Yakovlev một lời nào yêu mến tổ
quốc, chưa bao giờ thấy ông ta tự hào về điều gì của nhân dân mình, dù là chiến
thắng vĩ đại chống phát xít”.
Đối với Kriuchkov,
A.Yakovlev là hiện thân của cái ác.
Kriuchkov có xuất bản một
cuốn hồi ký 2 tập nhan đề “Hồ sơ cá nhân” khô và cứng như bản thân tác giả.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét