Các chủ tịch KGB - Những hồ sơ lộ sáng
Tác giả: Leonid Mlechin
Dịch giả: Hùng Sơn
NXB Lao Động - 2001
Chương II
Viacheslav
Rudolfovich Menjinski
Cục trưởng Cục chính trị quốc gia (7/1926 -
5/1934)
Trong tất cả các Chủ tịch An ninh Liên Xô, Menjinski có lẽ là nhân vật mờ nhạt
nhất, mặc dù ông đứng đầu cơ quan này 8 năm - lâu hơn cả Yagoda và Ejov cộng lại,
và mặc dù đã nghe ra những phương pháp làm việc được những người kế nhiệm ông sử
dụng một cách đầy đủ và triệt để. Ông là người cao hơn họ một cái đầu, mà họ -
những người thừa kế - chỉ đi theo con đường mà ông đã vạch ra, chứ ở địa vị ông
chưa chắc họ đã nghĩ ra được những phương pháp đó.
Điều không may có lẽ là ở
chỗ Menjinski lỗi lạc hơn các đồng nghiệp của mình. Một con người dễ chịu, nhẹ
nhàng, cởi mở, khiêm tốn, vô tư và rất trí thức - đó là những nét tính cách đọng
lại trong bức chân dung của Menjinski. Thời gian cuối trên cương vị Chủ tịch cơ
quan an ninh, nhà cách mạng Bolshevik trung kiên Menjinski bị ốm nặng, nhiều thời gian
phải ở nhà riêng ở ngoại ô, vui trồng hoa và làm các phản ứng hóa học trong
phòng thí nghiệm. Không có điều kiện đi sâu vào mọi chi tiết công vụ, ông phải
bằng lòng với những thông tin mà người phó thứ nhất của ông là Yagoda báo cáo.
Tuy nhiên, cho rằng mọi việc đều do Yagoda làm là hoàn toàn sai. Chính
Menjinski là người đã soạn thảo đường lối và chiến thuật tiêu diệt Kulak như một giai cấp, cử
các nhóm khủng bố ra nước ngoài để ám sát các kẻ thù của chế độ Xô viết và đề
xuất việc mở phiên tòa xét xử các vụ án đầu tiên ở Matxcơva trong loạt các vụ án đã làm chấn động
không chỉ cả nước mà toàn thế giới.
Chính Menjinski khởi đầu
đã là lý thuyết gia của hệ phương pháp An ninh Liên Xô, và nếu quy mô những việc
làm của Menjinski chưa phải như của những người sẽ kế nhiệm ông thì chỉ vì Stalin chưa đòi
hỏi một người như thế.
Menjinski sinh ngày
19/8/1874 ở Peterburg trong một gia đình quý tộc. Cha ông là giảng viên sử học ở
trường Cadet [trường đào tạo sĩ quan] Peterburg. Menjinski tốt nghiệp phổ thông xuất sắc
được nhận huy chương vàng, rồi vào học khoa luật Đại học tổng hợp Peterburg, ra
trường làm nghề luật sư.
Ông tham gia Đảng Xã hội-Dân
chủ sớm - từ năm 1902, nhưng khác với Dzerjinski, ông luôn cố gắng không vi phạm
pháp luật. Ông dạy học ở các khóa học bổ túc buổi tối cho công nhân, cộng tác với tờ báo Bolshevik “Trại Lính” trong thời gian cuộc cách mạng Nga lần thứ nhất.
Tháng 7/1905, cảnh sát bắt toàn bộ cộng tác viên của báo, và ông phải ngồi tù 4
tháng. Sau khi được thả, ông chạy sang Phần Lan (luật lệ nước đó dễ chịu hơn
Nga). Năm 1907, ông lưu vong sang sống ở Bỉ, Thụy Sĩ, rồi Pháp và Mỹ. Thời gian
ở Pháp, ông tranh thủ học Đại học Sorbonne. L.Trotski gặp Menjinski lần đầu
tiên là ở Paris. Menjinski thời gian ấy thuộc nhóm Xã hội-Dân chủ cực tả cùng với Dân ủy Giáo dục sau này là
Lunacharsky.
Tại Bôlônha (Italia), tổ
chức Bolshevik mở một lớp học cho công nhân Nga, và tại đây, Trotski đã cùng làm việc với
Menjinski, kể lại:
“Tôi có thể nói ấn tượng đầu tiên ông ta gây cho tôi là không gây được ấn
tượng gì cả. Ông ta như là cái bóng của một người nào đó khác, hay như một bức
ký họa dở dang của một bức tranh không thành. Có những người mà khóe mắt và nụ
cười thể hiện một sự cố gắng che giấu nhân cách của bản thân”.
Khi Trotski viết những
dòng này, ông ta đang ở nước ngoài, sau khi bị trục xuất, khi mà Menjinski đang
tiến hành cuộc đấu tranh chống phe đối lập trong nước, cho nên nhận xét của ông
ta có thể không được khách quan.
G.A.Solomon, một nhà xã hội-dân
chủ có tiếng đầu thế kỷ, có quan hệ gần gũi với gia đình Lênin và là bạn của
Menjinski trong thời gian lưu vong kể lại:
“Sau cuộc cách mạng Nga lần thứ nhất, theo yêu cầu của Lênin, Menjinski
đến Bruxelles để đón Lênin... Tôi trông thấy Menjinski người gù gù, ốm yếu, và
đi sau Menjinski là Lênin. Menjinski thời gian này đang bị đau thận, không có
tiền để chữa bệnh, tay run run xách vali cho Lênin. Trông thấy thế, tôi bèn giằng
chiếc vali từ tay Menjinski. Còn Menjinski thì nhoẻn một nụ cười ngượng nghịu,
dễ thương (đọng lại mãi trong tôi hình ảnh đó của Menjinski). Một lần khác, tôi
lại gặp vẫn Menjinski ấy trên đường công tác về Matxcơva, vui vẻ khuân vác hành
lý của mình và của mọi người. Thời gian cuối, ông bị vôi hóa cột sống phải nằm
nhà, không hề than thở và yêu cầu gì với một ai, lặng lẽ chịu đau đớn, môi vẫn
nhoẻn một nụ cười dịu dàng”.
Những ngày đầu sau Cách mạng
tháng Mười, Lênin có cảm tưởng Menjinski là một người nhẹ dạ, nông nổi, không
có đủ năng lực gánh vác nhiệm vụ biến những tư tưởng vĩ đại của cách mạng thành
hiện thực.
Nhưng Lênin đã nhầm.
Menjinski trước và sau khi làm Chủ tịch cơ quan An ninh là hai con người khác nhau. Không rõ công
tác đã làm thay đổi con người, hay là trong con người ấy đã bộc lộ rõ ra những
nét tính cách mà trước đây còn tiềm ẩn?
Tháng 7 năm 1917,
Menjinski từ nước ngoài về Nga.
Ông - một người thuần túy dân sự - được đưa vào
Ban tổ chức quân sự của Trung ương đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga.
Ngày 25/10/1917,
Menjinski được bổ nhiệm làm Chính ủy Ủy ban quân sự cách mạng ở Ngân hàng quốc gia. Ông
yêu cầu cơ quan tài chính lớn nhất của đất nước cấp cho Chính quyền mới mười
triệu rúp để phục vụ những nhu cầu cấp thiết. Các công chức Ngân hàng không
công nhận chính quyền Bolshevik và ngạo mạn từ chối yêu cầu. Khi đó, các chiến sĩ
cận vệ bèn bao vây ngân hàng, nhưng vẫn không lấy được tiền ra. Đó là những
ngày đầu cách mạng.
Sau đó, Lênin bổ nhiệm
Menjinski làm Dân ủy Tài chính (tức Bộ trưởng Bộ Tài chính), có lẽ vì nhớ thời gian lưu vong ở nước
ngoài ông đã từng làm việc ở ngân hàng Pháp. Menjinski trả lời phỏng vấn nhà
văn Mỹ John Reed: “Chúng tôi hoàn toàn bất
lực nếu không có tiền... Các ngân hàng thì đóng cửa, Ngân hàng quốc gia không hoạt động. Các viên chức ngân hàng trong
cả nước bị mua chuộc và lãn công”.
Khi đó Lênin bèn ra lệnh
dùng bộc phá đánh vào các tầng hầm của Ngân hàng quốc gia và ban hành lệnh yêu
cầu các ngân hàng nhỏ “phải mở cửa ngay từ
ngày mai, nếu không chính quyền cách mạng sẽ tự mở”.
Menjinski đã ký cùng với
Lênin một sắc lệnh quy định cho các ngân hàng “Trong ngày 31/10 phải mở cửa làm việc. Nếu không mở và không chịu cấp
tiền theo ngân phiếu, thì tất cả giám đốc và các thành viên hội đồng quản trị sẽ
bị bắt, và các chính ủy sẽ được điều động tạm thời về các ngân hàng và dưới sự
chỉ đạo của Phó dân ủy tài chính sẽ tiến hành việc trả tiền theo các ngân phiếu
có đóng dấu của ủy ban công-nông”.
Chỉ đến 17/11, Menjinski
mới nhận được 5 triệu rúp đầu tiên để chi dùng cho nhu cầu của Hội đồng dân ủy
(tức Chính phủ - ND). Hội đồng dân ủy tuyên
bố Nhà nước độc quyền về công việc ngân hàng. Các ngân hàng tư nhân bị quốc hữu
hóa và sáp nhập
vào Ngân hàng quốc gia thành Ngân hàng nhân dân. Các trái phiếu ngân hàng bị hủy
bỏ và việc buôn bán chúng bị coi là bất hợp pháp. Tất cả những công việc đó
Menjinski hoàn thành trong có vài tháng. Nhưng Menjinski không được Lênin chú ý
khen ngợi lắm và cũng không được giữ chức vụ cao. Khi Chính phủ chuyển về
Matxcơva, Menjinski ở lại làm ủy viên Đoàn Chủ tịch Hội đồng thành phố
Petrograd và thành viên ban lãnh đạo Cơ quan dân ủy tư pháp Petrograd. Đấy là một
sự xuống chức.
Năm 1918, với kiến thức,
ngoại ngữ và kinh nghiệm sống ở nước ngoài, Menjinski được cử đi làm Tổng lãnh
sự ở Đức nhưng lại sớm bị Đức trục xuất khi cảnh sát Đức tìm thấy truyền đơn
tuyên truyền trong văn phòng ngoại giao của cơ quan lãnh sự. Menjinski được
phái xuống Ucraina làm Phó dân ủy thanh tra Liên Xô tại Ucraina được mấy tháng.
Mùa thu năm 1919
Menjinski quay trở lại Matxcơva.
Dzerjinski tìm được công
việc cho ông ở Ủy ban đặc biệt.
Tháng Hai năm đó, Trung ương Đảng
ra nghị quyết “về những đơn vị đặc biệt trong Ủy ban đặc biệt toàn Nga”.
Đó là các đơn vị có nhiệm
vụ đấu tranh chống phản cách mạng và gián điệp trong quân đội. Do uy tín và vị
trí cao của Trotski lúc đó là Dân ủy quân sự, nên các đơn vị đặc biệt đó vẫn được
đặt dưới sự chỉ đạo của Hội đồng quân sự cách mạng do Trotski đứng đầu. Từ năm
1931, tình báo quân sự sẽ tách ra khỏi sự quản lý của quân đội. Ngành quân báo
của Liên Xô đã ra đời như vậy. Nó không chỉ phát hiện gián điệp và những kẻ phản
bội, mà còn có nhiệm vụ theo dõi các tướng lĩnh và nắm tâm trạng binh sĩ.
Ngoài ra, vì Ủy ban đặc
biệt còn chưa có một vụ đối ngoại, nên một Cục đặc biệt được thành lập để làm
công tác tình báo ở nước ngoài và ở các lãnh thổ tạm thời bị Bạch vệ và quân đội
nước ngoài chiếm đóng.
Dzerjinski kiêm phụ trách
công tác này, và là Cục trưởng đầu tiên của Cục đặc biệt.
Tháng 9/1919, Menjinski
được cử về Cục đặc biệt, nửa năm sau làm Cục phó và mấy tháng sau nữa trở thành
Cục trưởng, đến năm 1922 là ủy viên ban
lãnh đạo của Ủy ban đặc biệt. Menjinski có trách nhiệm báo cáo về công tác của
Cục đặc biệt và về tình hình trong nội bộ quân đội cả với Dzerjinski và với
Trotski, bởi vì lúc đó Trotski là nhân vật lãnh đạo quan trọng. Trotski kể lại
có lần sau khi báo cáo tình hình với Trotski xong, Menjinski đứng lại tần ngần
như muốn nói thêm điều gì. Khi Trotski gạn hỏi, Menjinski mới nói không biết
Trotski có biết rằng Stalin đang tiến hành tập hợp lực lượng sau lưng Trotski
hay không. Việc báo cáo với lãnh đạo cấp cao không chỉ về tình hình chính trị
mà cả về thái độ của các thành viên ban lãnh đạo đã trở thành hầu như một nhiệm
vụ của cơ quan an ninh.
Từ năm 1927, sau khi
Dzerjinski mất, việc đấu tranh với Trotski và với phe đối lập được giao cho cơ
quan Dân ủy nội
vụ. Trong hai năm: 1927-1928, toàn bộ những nhân vật đối lập chủ yếu - khoảng
150 người - bị đưa khỏi Matxcơva về những vùng xa của đất nước dưới sự giám sát
của cơ quan Dân ủy nội vụ. Năm 1929 Menjinski được giao nhiệm vụ tổ chức việc trục xuất
Trotski khỏi Nga.
Menjinski lãnh đạo công
tác tình báo từ ngày thành lập, hơn nữa từ tháng 9/1923 ông được bổ nhiệm làm
Phó Chủ tịch thứ nhất Ủy ban đặc biệt, trong khi Dzerjinski ngày càng bận công
việc lãnh đạo kinh tế.
enjinski đã đóng vai trò
quan trọng trong việc đưa tình báo Liên Xô trở thành nền tình báo mạnh nhất thế
giới những năm 20-30. Ưu thế của ngành tình báo trong Ủy ban đặc biệt là ở chỗ:
Thứ nhất, làm việc trong
công tác tình báo là những người dày dạn kinh nghiệm: những người Bolshevik đã từng hoạt động
bí mật, quen chạm trán với cảnh sát và nhà tù của Sa hoàng.
Thứ hai, thế hệ đầu tiên
các chiến sĩ tình báo Liên Xô là những người vì hoàn cảnh nào đó đã từng sinh sống
ở nước ngoài, họ am hiểu nước ngoài và không bỡ ngỡ khi làm công tác liên quan
đến nước ngoài.
Và thứ ba, quan trọng nhất,
là trước khi có chính quyền Xô viết, người ta cho rằng tình báo và phản gián chỉ
cần trong thời gian chiến tranh, còn trong thời bình thì giải tán, chỉ cần công
an hoặc cảnh sát. Cơ quan an ninh Đức thôi không tồn tại sau khi Đức bị thất bại
trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Mỹ không có cơ quan tình báo trong thời
gian chiến tranh thế giới thứ hai và chỉ bắt đầu thành lập nó sau chiến tranh
thế giới thứ hai, với sự giúp đỡ của Anh. Anh giảm biên chế của cơ quan an ninh
đến mức tối thiểu, Pháp cũng vậy. Duy chỉ có cơ quan an ninh Liên Xô - bao gồm
cả bộ máy Ủy ban đặc biệt và tình báo quân sự - là lại được củng cố và tăng cường.
Không một nước nào khác bỏ vào lĩnh vực này nhiều sức lực và tiền của đến như vậy.
Nước Nga Xô viết tự coi mình vẫn ở trong tình trạng chiến tranh gần như với
toàn thế giới.
Thế hệ đầu các chiến sĩ
tình báo Liên Xô đa phần là những người theo chủ nghĩa lý tưởng, trung thành với
sự nghiệp cách mạng thế giới. Họ đi vào tình báo không phải vì để được đi nước
ngoài. Họ phục vụ cho sự nghiệp mà họ cho là vĩ đại. Ban đầu họ tìm đến sự giúp
đỡ của những người đồng minh tự nhiên là các đảng cộng sản ở nước ngoài, rồi họ
sớm hiểu ra rằng một đảng viên cộng sản hoạt động công khai bị cảnh sát ghi sổ
đen và theo dõi, thì không thể làm tình báo được. Khi ấy, tình báo Liên Xô bèn
tuyển mộ nhân viên trong số thanh niên có quan điểm tả khuynh. Họ khuyên những
thanh niên đồng ý cộng tác với họ không nên phô trương những quan điểm thật sự
của mình, mà cố gắng tìm được chỗ làm việc trong cơ quan nhà nước, trong cơ
quan an ninh thì càng hay. Những người tình nguyện về mặt tư tưởng như vậy
không thể có nhiều, do đó phải tìm kiếm
cả những cộng tác viên đồng ý làm việc vì tiền.
Tình báo Liên Xô cũng đã
sớm tuyển dụng cả những cộng tác viên trong số những kẻ đồng tính luyến ái. Sự
thực kẻ nào sống cuộc sống hai mặt, kẻ đó thường biết giấu bí mật, vả lại trên
giường ngủ người ta dễ dàng khai thác được các bí mật. Gay Berges - người Anh
đã được tình báo Liên Xô sử dụng để lôi kéo một cán bộ của Bộ Quốc phòng Anh
chính bằng con đường đó.
Đó là thế hệ của những
người kỳ lạ và độc đáo, những nhà lãng mạn chủ nghĩa. Trong những năm 20 và 30,
người ta đi vào tình báo còn vì cảm giác mạnh để trốn khỏi những ngày thường tẻ
nhạt, tối tăm nhằm khẳng định sức mạnh và chí nam nhi.
Tháng 1/1923, Bộ Chính trị
quyết định thành lập Ủy ban nhiễu thông tin (desinformation) bao gồm đại diện Trung ương Đảng, Bộ
Nội vụ và Bộ Ngoại giao, Cục tình báo quân sự.
Ủy ban này chịu trách nhiệm
thảo ra những tài liệu cung cấp thông tin giả về tình hình Nội bộ Nga để cho đối
phương lấy được, kể cả việc tung cho báo chí những thông tin giả các loại,
nhưng trong từng trường hợp đều phải có ý kiến của một Bí thư Trung ương Đảng.
Những thông tin này còn nhằm mục đích làm cho các cán bộ chính trị và quân sự
đã từng đào tẩu tin rằng ở Nga đang có một phong trào chống Đảng khá mạnh và
khi họ về nước thì lập tức bị bắt. Người ta cho rằng Menjinski là người đã đề
ra chiến thuật dụ dỗ, lôi kéo các phần tử phản động từ nước ngoài về để bắt
trên lãnh thổ Nga. Vụ dụ và bắt B.V.Savinkov năm 1924 là một thí dụ. Menjinski đã
được tặng thưởng Huân chương “Cờ Đỏ” - một Huân chương cao mà ít người được tặng
hồi đó.
Đầu những năm 20, Nga kiều
V.Shulgin, nguyên đại biểu Duma thời Sa hoàng, được Liên Xô (thực chất là Ủy
ban đặc biệt) tổ chức cho một chuyến đi du lịch khắp nước Nga để ông ta thấy rằng
những người Bolshevik nắm chắc chính quyền và bắt đầu xây dựng cuộc sống mới như thế nào. Sau
khi về nước, ông ta viết một cuốn sách nhan đề “Du lịch đến nước Nga đỏ” tán
dương chính quyền Xô viết.
Một thời gian sau,
Menjinski thành lập một nhóm đặc nhiệm trực thuộc Chủ tịch Ủy ban đặc biệt,
tách khỏi Cục công tác nước ngoài, phụ trách các chiến dịch đột nhập và cài cắm
điệp viên vào những mục tiêu quan trọng trên đất địch. Nhóm này gồm có 20 chiến
sĩ cùng với 60 nhân viên hoạt động bí mật. P.Sudoplatov - Thiếu tướng An ninh, người sau này tổ
chức việc giết Trotski, là người nhận lệnh của Menjinski “trung lập hóa” - tức
nói nôm na là giết các phần tử dân tộc chủ nghĩa Ucraina, trong đó có lãnh tụ Tổ
chức những người theo chủ nghĩa dân tộc Ucraina là Conovalets.
Ngày 30/7/1926, 10 ngày
sau khi Dzerjinski mất, Menjinski được cử làm Chủ tịch Ủy ban đặc biệt và giữ
chức vụ này 8 năm.
Chính Menjinski đã được
Dzerjinski đưa lên làm Phó thứ nhất chứ không phải Unshlich như mọi người chờ đợi.
Stalin ủng hộ Menjinski, và sau khi Dzerjinski mất, đã đưa Menjinski vào Ban chấp
hành trung ương.
Vẫn như trước kia,
Menjinski luôn nhã nhận, lịch thiệp, thậm chí tế nhị. Cán bộ đến báo cáo, ông bắt
tay, chào hỏi, chứ không coi đấy là nghĩa vụ công tác “anh phải báo cáo tôi”.
Em gái ông làm ở Bộ Giáo dục thỉnh thoảng vẫn nói với ông giúp cho người này
người kia được nhẹ bớt tội.
Menjinski hay ốm, thậm
chí khi làm việc ở cơ quan, ông cũng thường nằm tiếp khách.
Nhà văn Ilya Erenbua kể rằng
năm 1920 ông được đi Pháp, trước khi đi phải làm một số thủ tục ở Bộ Ngoại giao
và được báo đến cửa chính Ủy ban đặc biệt gặp đồng chí Menjinski.
Erenbua tưởng Menjinski sẽ
hỏi ông có quan hệ gì với quân Vrangel (Bạch vệ) trong thời gian nội chiến hay
không, nhưng Menjinski nói ngay đã gặp ông ở Paris rồi, và vừa nằm vừa nói chuyện
với ông về tình hình văn học, về việc hiện nay in nhiều thơ tồi, mà Blok thì
không thấy viết gì cả v.v...
Erenbua được nhận hộ chiếu
đi nước ngoài, nhưng còn chưa biết rằng hai năm sau, Aleksandr Aleksandrovich
Blok cũng sẽ đến Bộ Ngoại giao xin hộ chiếu, nhưng đã không được phép ra nước
ngoài, và trong khi chờ trả lời của Menjinski thì nhà thơ đã ốm nặng và qua đời
năm 1921.
Ngày nay chúng ta cứ nghĩ
rằng khủng bố, bắt bớ chỉ diễn ra trong thời gian nội chiến và sau đó đến năm
1937 lại bắt đầu. Thực ra, khủng bố bắt đầu ngay từ sau cách mạng và tiếp diễn
cho đến tận năm 1953, khi Stalin chết.
Năm 1927, Henri Barbusse,
nhà văn Pháp có cảm tình với Liên Xô sang thăm Matxcơva, được Stalin tiếp.
H.Barbusse hỏi Stalin làm
thế nào đập lại luận điệu tuyên truyền của phương Tây về khủng bố đỏ ở Liên Xô.
Stalin trả lời giản dị và
logic:
“Việc xử bắn những tên gián điệp và tay sai của đế quốc không phải là khủng
bố đỏ. Chúng ta đang nói về các tổ chức đặc biệt mà cơ sở đặt ở Anh hoặc Pháp
và các thế lực đế quốc tài trợ cho họ”.
“Vừa mới đây, chúng tôi bắt được một nhóm sĩ quan quý tộc. Chúng có nhiệm
vụ đánh hơi ngạt cả một hội trường đại hội có mặt 3-4 nghìn người. Bỏ tù những
kẻ này thì chúng chẳng sợ. Đây là vấn đề tiết kiệm sinh mạng: hoặc là tiêu diệt
một số phần tử quý tộc và con nhà tư sản... hoặc để cho chúng sát hại hàng
trăm, hàng nghìn người”.
“Khi nói về các án tử hình, thì chúng ta phải đặt câu hỏi: án tử hình đối
với ai? Toàn là những nhà quý tộc, tướng lĩnh sĩ quan Sa hoàng, đã từng chiến đấu
chống lại chính quyền Xô viết. Trong danh sách đó rất hiếm khi có những người
thuộc các giai cấp bị áp bức, có thể vài ba người... làm gián điệp. Khi người
ta phê phán chúng tôi không bảo vệ mọi công dân như nhau, thì xin trả lời rằng:
chúng tôi cũng không định bảo vệ tất cả mọi người: Chúng tôi nói công khai điều
đó, bởi vì chế độ của chúng tôi là chế độ có giai cấp”.
Lý lẽ của Stalin khó có
thể bác bỏ được. Chỉ có điều là trên thực tế, mỗi năm càng có thêm nhiều công
nhân và nông dân ngã trước mũi súng hoặc bị đưa vào trại cải tạo cùng với các đại
diện của “giai cấp bóc lột”.
Trong những năm 1928-1930,
đã diễn ra một loạt các vụ án lớn gây chấn động dư luận trong và ngoài nước, do
Ủy ban đặc biệt thiết kế. Đó là các vụ: vụ Sắc-tưi (xử “tổ chức chuyên gia tư sản
ở vùng mỏ Sac-tưi, tỉnh Đôn-bas”) năm 1928, vụ “Đảng công nghiệp” (xử “những kẻ
phá hoại trong công nghiệp”) năm 1930, vụ “Đảng Lao động nông dân” năm 1930
và “vụ trung ương Đảng Melshevik” (xử về tội “phục
hồi chủ nghĩa tư bản”) năm 1931.
Các vụ xử án đều nhằm một
mục đích là làm cho cả nước thấy rằng những tổ chức và phần tử phá hoại tồn tại
khắp mọi nơi, chính chúng cản trở việc phục hồi công nghiệp và ổn định cuộc sống
của nhân dân. Những kẻ phá hoại đó trước hết nằm trong số những nhà tư sản, quý
tộc cũ, sĩ quan Bạch vệ, chuyên gia của chế độ cũ.
Trong những năm 1930, những
sự cố sản xuất hoặc việc cho ra sản phẩm kém chất lượng đều là lý do để truy tố
thành vụ việc đối với những người lãnh đạo trong ngành công nghiệp. Một anh đầu
bếp tồi - nếu muốn - cũng có thể bị chụp mũ là trốt-kít. Mặc dù nguyên nhân thực
sự của những sự cố sản xuất và cho ra sản phẩm kém chất lượng là việc công nghiệp
hóa quá nhanh trên quy mô toàn quốc và đòi hỏi hoàn thành kế hoạch bằng mọi
giá.
Việc xét xử vụ án “Đảng
Công nghiệp” kéo dài hai tuần với sự chứng kiến của phóng viên nước ngoài đến
ngày 7/12/1930 đã kết thúc. Tám kỹ sư và giám đốc có tên tuổi bị tuyên cáo về “hoạt động phản cách mạng có tính chất phá hoại
và làm gián điệp, gây tổn hại cho nền công nghiệp Liên Xô”. Tất cả các bị
cáo bị tuyên án tử hình, nhưng ủy ban chấp hành trung ương toàn Nga (tức Xô viết
tối cao về sau này) xét việc họ đã thành khẩn “nhận lỗi”nên đã quyết định hạ mức
án tử hình xuống 10 năm tù giam cho mỗi người.
Stalin quan tâm đến những
nhân vật tầm cỡ lớn hơn những bị cáo này, mà hiện ông mới chỉ nhắm đến họ.
Menjinski biết Stalin muốn
gì.
Quân của Menjinski - các
cán bộ điều tra - đã lấy được từ những kẻ phản động lời khai về quan hệ của họ
với cái gọi là “những phần tử hữu khuynh”. Đó là hai ủy viên Bộ Chính trị: Chủ
tịch Ủy ban
chấp hành trung ương toàn Nga M.I.Kalinin và Chủ tịch Chính phủ A.I.Rykov. Kalinin
thì Stalin biết là không có trọng lượng chính trị gì mấy nên không quan tâm lắm.
Nhưng còn Rykov, người đang có uy tín lớn trong nhân dân, thì Stalin bắt đầu lập
hồ sơ.
Những người đọc tiểu thuyết ”Nghệ
nhân và Margarita” của M. Bulgakov ngày nay sẽ rất buồn cười khi đọc đến
đoạn Nikonor Ivanovich đem nộp ngoại tệ và bị quở trách: “Đất nước thì đang cần ngoại tệ, mà ông thì ngồi với đống ngoại
tệ này hoàn toàn không dùng gì đến nó mà không chịu đem nộp cho Nhà nước”.
Khi cuốn sách được xuất bản
lần đầu tiên, đoạn này bị cắt vì nó bê y nguyên sự thật vào. Trong những năm
đó, nhà nước thu của dân tất cả của cải có thể thu được để tiến hành công nghiệp
hóa. Một người có thể bị bắt (thường là do tố giác của hàng xóm hoặc đồng nghiệp)
và bị giam giữ cho đến khi phải giao nộp tất cả những gì mà anh ta cất giữ ở
nhà. Khi thành phố hầu như đã chẳng còn gì, người ta bèn tiến về nông thôn. Tiến
sĩ kinh tế A.Uliukaev, Phó Giám đốc Viện kinh tế quá độ cho rằng:
“Những gì diễn ra cuối những năm 20 có thể coi là khủng bố, cũng có thể
coi là việc thực hiện mô hình thay thế nhập khẩu trong điều kiện đất nước bị cô
lập. Lúa mì là phương tiện thanh toán chủ yếu, cho nên được tập trung vào tay
nhà nước. Người nông dân không tự nguyện nộp lúa mì cho nhà nước, cho nên chính
quyền đã sử dụng các đội thu lương thực và tiến hành đấu tranh chống Kulak. Chống
Kulak, nếu nói bằng ngôn ngữ kinh tế hiện đại,
thì đó là một kiểu cưỡng bức phá sản. Do vậy cuộc khủng bố cuối năm 1920 bắt đầu
không phải do ác ý (mặc dù cái đó cũng không phải là thiếu), mà trước hết là do
những người lãnh đạo nhà nước ta đã thông qua một quyết định đơn giản: ta không
có thời gian để thuyết phục tư nhân tự nguyện đóng góp tiền bạc, nên chúng ta
phải tập trung toàn bộ dự trữ có được để ném vào phát triển đất nước. Khi giao
nhiệm vụ cho những cán bộ tổ chức phong trào nông trang tập thể tháng 1/1930,
người ta căn dặn rằng: “Nếu trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao, các đồng
chí có quá tay, thì Đảng sẽ bắt các đồng chí. Nhưng hãy nhớ rằng các đồng chí bị
bắt là vì sự nghiệp cách mạng”.
Các đảng bộ địa phương
trong cả nước thi đua nhau xem ai đạt được mục tiêu tập thể hóa một trăm phần
trăm sớm hơn. Người nào có lúa mì thì bị thu - mà đó là những người chủ giỏi
giang, cần mẫn nhất. Họ bị dán nhãn hiệu “Kulak” và bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.
Chỉ thị ban đầu của
M.Kalinin chỉ là đưa họ sang các mảnh đất xấu và tước bớt những phần đất “thừa”
của họ. Nhưng sau người ta đi xa hơn, cho thế là chưa đủ.
Bộ máy tuyên truyền thể
hiện họ như là những ke gian ác bẩm sinh. Rồi thì thực tế là cướp hết tài sản của
họ, cấm họ rút tiền gửi trong các quỹ tiết kiệm. Tất cả những điều này có trong
tập một của cuốn tư liệu lịch sử “Nước Nga chưa được biết đến”.
Ngày 30/1/1930, Bộ Chính
trị ra nghị quyết “Về những biện pháp tiêu diệt kinh tế Kulak ở những địa phương đã tiến hành tập thể hóa”,
trong đó có nêu dự kiến đưa vào trại cải tạo hoặc bắn 60 nghìn chủ hộ kinh tế
Kulak và di dời
gia đình họ, và di dời 150 nghìn gia đình nữa. Nhưng quy mô thực tế của việc thực
hiện đã vượt quá con số dự kiến đó.
Tiếp theo sau nghị quyết
của Bộ Chính trị, Ủy ban đặc biệt cũng ban hành lệnh ngày 2.2.1930 về việc tiêu
diệt Kulak
như một giai cấp. Cơ quan an ninh có nhiệm vụ lập gấp hồ sơ các đầu sỏ Kulak và xem xét các đối tượng
được giai cấp Kulak cài vào trong các tổ chức phản cách mạng và chống đối. Đa số bị đưa đi cải
tạo. Một số nguy hiểm nhất thì xử bắn. Đồng thời di dời những Kulak khá giả nhất, địa chủ
cũ, cha cố chống chế độ... và gia đình họ về các vùng xa và tịch thu tài sản.
Sau hai năm 1930 và 1931, hơn một triệu rưỡi nông dân đã bị đưa vào trại cải tạo
hoặc trại lao động của Ủy ban đặc biệt. Nửa triệu tự chạy ra thành phố và công
trường.
Còn 2 triệu nữa bị di dời
theo diện 3, tức là trong nội tỉnh, nhưng cũng bị tước hết tài sản. Những tài sản
bị tịch thu này được đưa vào nhà nước, một phần được chia lại cho nông dân
trong làng. Một nửa số nông dân bị di dời đó bị đưa vào làm việc ở các ngành
công nghiệp khai thác gỗ, khai khoáng và xây dựng.
Nhằm tăng hiệu lực bắt buộc
người dân nộp lương thực, Menjinski đã đề nghị bổ sung một số tội danh như giết
gia súc, không hoàn thành kế hoạch gieo cấy, đầu cơ tích trữ lúa mì. Đối với Kulak, không hoàn thành
nghĩa vụ giao nộp lương thực có thể bị khởi tố. Nhưng nhiều Kulak chạy trốn, không đợi đến
khi bị khởi tố. Khi đó, để hoàn thành kế hoạch, chính quyền địa phương bèn quay
sang “nã” trung nông. Bất kỳ ai nói ra những lời không đồng tình với thực trạng
đều bị buộc tội phản tuyên truyền. Ai say rượu đánh nhau với cán bộ địa phương
bị quy là “có hành động khủng bố”.
Theo quy định, tất cả các
án tử hình đều phải được báo cáo Bộ Chính trị, nhưng một đạo luật ngày 7/8/1932
lại cho phép ba người lãnh đạo cao nhất của Ủy ban đặc biệt được quyền thi hành
án tử hình không cần đợi Bộ Chính trị thông qua.
Chính sách đẩy mạnh công
nghiệp hóa và cưỡng bức nông dân vào nông trang tập thể đã đẩy đất nước vào
tình trạng nội chiến. Những con người chết đói dở ngăn không cho chở lúa mì đi.
Nông dân nổi dậy khắp nơi trong cả nước: năm 1929 có 1.300 cuộc, nghĩa là mỗi ngày diễn ra 4 cuộc. Tháng
1/1930 có 125 nghìn nông dân tham gia các cuộc nổi dậy phản kháng, tháng Hai có 220 nghìn, tháng Ba gần 800 nghìn... Chính
quyền chỉ có thể kiểm soát đất nước bằng vũ lực, đã xử tử hàng nghìn người theo
các hồ sơ của Ủy ban đặc biệt. Công việc quá nhiều, phải động viên trở lại biên
chế các cán bộ cũ của cơ quan an ninh đã chuyển ngành hoặc thôi việc sau kỳ cải
tổ Ủy ban đặc biệt lần trước.
Khi nhìn thấy quy mô phản
kháng của nhân dân trong nước như vậy, có thể cũng là lúc Stalin và các đồng sự
của ông nghĩ rằng cần phải tiến hành thanh lọc đại trà để loại trừ từ gốc tất cả
những người mà về lý thuyết có thể không đồng tình với đường lối của Trung
ương.
Năm 1933, chế độ hộ chiếu
và đăng ký hộ khẩu được ban hành nhằm kiểm soát sự đi lại của nhân dân. Trước
năm 1923, nhân dân đi lại từ thành phố này đến thành phố khác sử dụng các giấy
tờ khác nhau mà họ có, thường là sổ lao động. Năm 1923, có chứng minh thư thống
nhất, nhưng mọi người vẫn xuất trình đủ thứ giấy tờ khác nhau: từ giấy chứng nhận
của Sở Nhà đất, chứng minh thư cơ quan đến thẻ Công đoàn viên, thẻ Đảng. Với
quyết định của một ủy ban của Bộ Chính trị, đứng đầu là một Phó Chủ tịch Ủy ban
đặc biệt (V Balitsky), năm 1932, sau đó là quyết định của Hội đồng dân ủy ngày
28/4/1933, “những công dân thường trú ở
các vùng nông thôn có nghĩa là nông dân - không được cấp hộ chiếu, để cho họ
không được rời bỏ nông thôn”. Quyết định này chỉ đến năm 1974 mới được hủy bỏ.
Một đạo luật ban hành
ngày 7/8/1932 quy việc biển thủ tài sản Nhà nước và tài sản công cộng là một tội
phạm phải bị tử hình. Đạo luật này được ban hành theo đề nghị cá nhân của
Stalin.
Việc tàn phá nông thôn cuối
cùng đã dẫn đến nạn đói năm 1932-1933. Những người nông dân đói khát lấy trộm
lúa về ăn, liền bị Ủy ban đặc biệt áp dụng đạo luật trên, khép tội tử hình.
Trong công nghiệp, tình
hình cũng không sáng sủa hơn. Tiền được đầu tư vào các công trình xây dựng dang
dở, các xí nghiệp đang làm việc thì không nhận được nguyên liệu và thiết bị.
Tài chính suy sụp. Chính phủ tăng giá, in tiền, phân phối lương thực theo tem
phiếu.
Các cửa hàng trống rỗng.
Thực phẩm trong cửa hàng giao tế được bán bằng ngoại tệ, bằng cả đồ trang sức bằng
vàng. Nạn đói năm 1932-1933 đã làm chết hàng triệu người.
Về mặt chính trị, cuộc khủng
hoảng đó dẫn đến việc uy tín của phái “hữu” tăng lên - có nghĩa là những người
trong ban lãnh đạo chủ trương chính sách ôn hòa hơn đối với nông thôn. Đó là Chủ
tịch Chính phủ A.I. Rykov, nhà tư tưởng của Đảng N.I. Bukharin và nguyên lãnh tụ
Công đoàn M.P.Tomski.
Cuộc thanh lọc vẫn tiếp tục
diễn ra: từ 1929 đến 1931 đã khai trừ
khỏi Đảng 250 nghìn người. Trong Bộ Chính trị, đa số vẫn rất tín nhiệm những
người “hữu khuynh”, do đó không phải lúc nào cũng xử lý tình hình như Stalin
mong muốn. Đặc biệt Stalin rất khó bác lại Rykov - một người có phẩm chất, một
nhà quản lý tài năng, hoàn toàn có thể tranh vị trí lãnh đạo cao nhất.
Cũng như với tất cả các đối
thủ cạnh tranh khác, Stalin đã xử lý Rykov bằng sự trợ giúp của cơ quan an
ninh.
Menjinski nói với
Chicherin - dân ủy ngoại giao:
“Ủy ban đặc biệt có nghĩa vụ phải biết tất cả những gì xảy ra trong nước,
từ Bộ Chính trị đến ủy ban nhân dân xã. Và bộ máy của chúng tôi đã phấn đấu để
đạt được việc hoàn thành nhiệm vụ đó”.
Menjinski có lý do để tự
hào về công tác của mình.
Sau 8 năm, ông đã thành lập
được một hệ thống cơ quan an ninh tỏa rộng khắp đất nước, đã đè bẹp được các cuộc
nổi dậy của người dân trong thời kỳ tập thể hóa, đã tiến hành xét xử một số vụ
án gây tiếng vang đối với những tên “phá hoại” nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và
thành lập một mạng lưới tình báo khá mạnh ở nước ngoài.
Khác với người tiền nhiệm
của mình, Menjinski hiểu rằng cơ quan an ninh cần phải phục vụ đích thân Tổng
Bí thư. Dưới thời Menjinski, việc đề bạt cán bộ lãnh đạo cao cấp của Ủy ban đặc
biệt do cơ quan Đảng phê duyệt.
Các cán bộ làm công tác
an ninh cũng được sàng lọc như đảng viên. Đầu thời kỳ tập thể hóa, còn không đủ
cán bộ an ninh để bao quát nông thôn. Cuối thời Menjinski, bộ máy an ninh đã tỏa
xuống tận xã.
Menjinski chết sau một
cơn đau tim ngày 10/3/1934 tại biệt thự ngoại ô Matxcơva ở vùng Arkhangelskoe, ở
tuổi 60. Thi hài ông được chôn ở chân tường điện Kremli.
Stalin tìm người thay
Menjinski rất lâu: sau hai tháng, chức vụ của Menjinski mới được chuyển giao
cho G.G.Yagoda. Đây là cuộc chuyển giao hòa bình cuối cùng chức vụ Chủ tịch cơ quan An ninh.
Từ nay trở về sau, mỗi người mới sẽ bước lên vị trí này sau khi loại bỏ người
tiền nhiệm của mình.
-------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét