Con Bim trắng tai đen
Tác giả: Gavriil Troyepolsky
Dịch giả: Tuân Nguyễn - Trần Thư
Nhà xuất bản Văn Học - 2012
(Theo bản in của NXB Cầu Vồng - Moskva -
1989)
Chương 2
Rừng xuân
Vào mùa săn thứ hai, tức
là năm thứ ba sau khi Bim ra đời, Ivan Ivanưts cho nó làm quen với rừng. Đó là
một chuyện hết sức lý thú đối với cả chó lẫn chủ.
Trên bãi cỏ và cánh đồng
kia mọi cái đều thấy rõ ràng: khoảng rộng, ngọn cỏ, cây lúa, lúc nào cũng trông
thấy bóng chủ, cứ lao như một con thoi sục sạo ngang dọc, tìm kiếm, phát hiện,
khựng lại và đợi lệnh. Tuyệt! Còn ở trong rừng đây thì lại hoàn toàn khác hẳn.
Đầu mùa xuân.
Khi hai thầy trò đến đây
lần đầu, trời chỉ vừa mới hoàng hôn, nhưng giữa các hàng cây đã nhọ mặt người mặc
dù bóng lá còn chưa hiện. Ở dưới thấp mọi vật đều sẫm màu: các thân cây, lớp lá
màu nâu thuẫn của năm trước, các ngọn cỏ khô, và ngay cả đến những trái kim anh
đỏ thắm của mùa thu, cầm cự được qua mùa đông, giờ đây nom cũng cứ như những hạt cà phê vậy.
Cành lá khẽ xào xạc gió
nhẹ, nghe lơ thơ và trần trụi: chúng như sờ soạng nhau, khi thì chạm nhau ở đầu cành,
khi thì khẽ đụng nhau ở giữa cành: chúng còn sống không nhỉ? Ngọn cây khe khẽ lắc
lư, - dù không lá, cây có vẻ vẫn còn sống. Muôn vật xào xạc huyền bí và ngào ngạt
mùi hương: cả những cây kia, cả lớp lá dưới chân, mềm mại và quyện hương xuân của
đất rừng, cả các bước chân của Ivan Ivanưts bước đi rón rén và êm ru. Đôi ủng của
ông cũng xào xạc, và vết chân ông ở đây cũng sực mùi hơn ở ngoài đồng. Sau mỗi
gốc cây lại có một cái gì mới lạ, bí hiểm. Chính vì vậy mà Bim không rời xa
Ivan Ivanưts quá hai chục bước: nó chạy lên trước - tạt trái, tạt phải - rồi chạy
trở lại, rồi nhìn mặt chủ, ý hỏi: “Ta sa vào đây để làm gì thế nhỉ?”.
- Không biết để làm gì à?
- Ivan Ivanưts đoán hiểu. - Rồi sẽ biết, Bim ạ, rồi sẽ biết. Cứ đợi tí.
Hai thày trò cứ đi như thế,
chốc chốc lại ngó nhìn nhau. Rồi chợt
hai thầy trò dừng lại ở một quãng rừng thưa rộng, nơi có hai con đường mòn gặp
nhau, một ngã tư tỏa ra bốn phía, Ivan Ivanưts đứng vào sau một bụi phi tử, mặt quay về phía ráng
chiều và ngước nhìn lên cao. Bim cũng nhìn về hướng đó, cố hết sức để hiểu xem cần phát hiện ra cái gì ở quãng ấy.
Trên cao thì sáng nhưng ở
đây, phía dưới này, thì mỗi lúc một tối sẫm. Có ai đó sột soạt đâu đây, rồi lại lặng. Lại sột
soạt rồi lại lặng. Bim đứng sát vào chân chủ, ý hỏi: “Cái gì thế? Ai đấy nhỉ?
Ta đi xem tí chăng?”.
- Thỏ, - chủ nói gần như
không thành tiếng. - Tốt lắm, Bim ạ. Tốt. Thỏ. Để cho nó chạy.
Được rồi, ông ấy bảo “tốt”,
vậy có nghĩa là mọi việc ổn cả. “Thỏ” thì cũng hiểu thôi: nhiều lần rồi, khi
Bim chạm trán với một vết chân thú, nó đã nghe nhắc đến tiếng ấy. Và một lần nó
đã trông thấy chính cái con thỏ ấy nữa, nó đã cố đuổi bắt, nhưng lại xơi một cú
cảnh cáo nghiêm khắc và bị phạt. Không được mà!
Vậy là ngay gần đây thôi,
một chú thỏ đang sột soạt. Rồi sau đó thì thế nào?
Bỗng trên cao, có ai đó,
không trông thấy và chưa từng thấy, cất tiếng kêu: “Kho-kho!... Kho-kho!...
Kho-kho!...”. Đây là lần đầu tiên Bim nghe thấy như vậy, và nó giật thót mình.
Chủ nó cũng vậy. Cả hai đưa mắt nhìn lên cao, chú mục lên cao thôi... Bất thình
lình, trên nền trời hoàng hôn đỏ tím, một bóng chim hiện ra, bay dọc theo con đường rừng.
Nó bay thẳng về phía hai thầy trò, thỉnh thoảng lại kêu lên, nghe như không phải
là chim, mà là một con thú rừng, vừa bay vừa kêu. Nhưng dù sao đó vẫn là một
con chim. Nó nom to, cánh vỗ im re (không phải chim cút, gà gô hay vịt giời).
Tóm lại là cái con chưa từng biết kia đang bay trên cao. Ivan Ivanưts giương
súng lên. Bim, như theo lệnh, nằm bẹp xuống, mắt không rời bóng chim... Trong rừng
tiếng nổ nghe to và vang dội như Bim chưa bao giờ từng thây. Tiếng vang lan đi
qua rừng và lịm dần mãi tít xa xa.
Con chim rơi xuống bụi rậm,
nhưng hai thầy trò chả mấy chốc đã tìm ra. Ivan Ivanưts đặt nó xuống trước mặt
Bim, nói:
- Làm quen đi, chú
mình: Dẽ giun - và nhắc
lại lần nữa: Dẽ giun.
Bim ngửi ngửi, đưa chân
chạm vào cái mỏ dài, mình khẽ rùng rùng và hai chân trước nghí ngoáy, ra ý ngạc
nhiên. Chắc hắn nó đang nghĩ bụng thế này: “Cái kiểu mũi thế kia, mình chư-ư-ưa
từng thấy. Nhưng đúng là cái mu-u-ũi thật mà!”.
Rừng khẽ xào xạc, và lặng
dần, lặng dần. Rồi ắng hẳn, dường như tức thì, tưởng đâu có kẻ vô hình nào đó
đã xõa đôi cánh mênh mông lên cây rừng để kết thúc: thôi, không lào xào nữa.
Cành lá im phăng phắc, cây cối như ngủ thiếp đi, chỉ thỉnh thoảng khẽ rùng mình
trong bóng sâm
sẩm.
Ba con dẽ giun nữa bay
qua, nhưng Ivan Ivanưts không bắn. Tuy con cuối cùng thì không trông thấy nữa
trong đêm tối mà chỉ nghe thấy tiếng nó thôi, nhưng Bim vẫn thắc mắc: thế những
con còn trông thấy rõ, sao ông bạn nó lại không bắn? Chuyện ấy làm Bim áy náy
không yên. Còn lvan Ivanưts thì hoặc là chỉ ngước nhìn lên cao, hoặc cúi đầu lắng
nghe cái tịch mịch. Cả hai đều lặng thinh.
Đây chính là lúc không
nên hé răng nói một lời, - người đã thế và chó lại càng phải thế! Chỉ đến phút
cuối cùng, trước khi ra về, Ivan Ivanưts mới cất tiếng:
- Tốt lắm, Bim ơi! Cuộc sống
lại bắt đầu. Xuân.
Nghe giọng, Bim hiểu rằng
ông bạn nó trong lòng đang khoan khoái. Và nó rúc mõm vào đầu gối ông, ngoe nguẩy
đuôi: “Đúng là tốt rồi, khỏi nói!”.
...Lần thứ hai hai thầy trò tới đây vào một buổi sáng muồn muộn, nhưng lần này
không mang súng.
Những chồi bạch dương
tròn mọng thơm phức, hương vị đậm nồng của rễ cây, những tia ngan ngát toát ra
từ những mầm cỏ mới nhú, tất cả những cái đó đều mới mẻ và xúc động lạ thường.
Ánh dương xuyên suốt rừng
trừ đám rừng thông ra, và ngay cả đám này nữa đây đó cũng bị các tia nắng vàng
xuyên cắt và tĩnh mịch. Điều quan trọng nhất là tĩnh mịch. Cái tĩnh mịch của buổi
sớm mùa xuân trong rừng sao mà dễ chịu!
Lần này Bim đã bạo hơn: mọi
vật trông rõ mồn một (chứ không như lần nào lần mò trong bóng tối). Và nó chạy
lăng xăng trong rừng thỏa thích, tuy vẫn không để mất hút chủ. Mọi cái đều tuyệt
diệu.
Cuối cùng Bim bắt gặp được
một thoáng mùi dẽ giun. Nó kéo căng ra. Và đứng khựng lại một cách cổ điển.
Ivan lvanuts giục nó “Tiến lên!”, nhưng bắn thì trong tay ông có gì để bắn đâu. Ông
lại còn lệnh cho nó nằm xuống nữa, đúng phép như mỗi lần chim bay vù lên. Không
còn hiểu ra thế nào nữa: chủ nó có
trông thấy hay không? Bim liếc mắt nhìn ông cho đến lúc nó khẳng định được: ông
ấy có thấy.
Tới con dẽ giun thứ hai mọi
sự lại diễn ra y như thế. Lần này Bim không đừng được biểu lộ một vẻ na ná như
bất mãn: một cái nhìn lo ngại, kiểu chạy lảng sang bên, thậm chí một ý đồ bất
tuân thượng lệnh, - tóm lại là sự bất mãn của nó đã cao độ và tìm một chỗ xì
ra. Chính vì thế mà Bim đã chạy đuổi theo con dẽ giun vừa bay vù đi, đây đã là
con thứ ba, hệt như một chú chó nhà bình thường vậy. Nhưng đuổi theo dẽ giun
thì chẳng được mấy nả: nó thấp thoáng trong cành lá, rồi mất tăm. Bim quay trở
lại trong lòng hậm hực, đã thế lại còn bị phạt nữa. Thế thì thôi, nó nằm lánh
sang bên, và thở dài sườn sượt (giống chó làm cái trò ấy thì thạo lăm).
Tất cả những cái đó còn
có thế chịu đựng được, nếu như không tiếp thêm một sự xúc phạm khác. Lần này
Bim đã phát hiện thấy thêm một khuyết tật mới nữa của chủ: cái mũi đánh hơi
sai, chưa kể cái mũi điếc, thế cơ chứ... Đầu đuôi là thế này.
Ivan Ivanưts dừng lại và
nhìn, nhìn ngang nhìn ngửa, và hít hít đánh hơi (đánh hơi cái gì!). Rồi ông đi tới một gốc
cây, ngồi xuống và đưa một ngón tay khẽ khàng vuốt vuốt một bông hoa nhỏ, nhỏ
tí xíu (đối với Ivan Ivanưts bông hoa ấy hầu như không có mùi gì, nhưng đối vơi
Bim thì nó thối không chịu được). Bông hoa ấy đối với nó nghĩa lý quái gì?
Nhưng chủ nó lại cứ ngồi đó, mỉm cười. Bim tất nhiên làm ra vẻ nó cũng thấy hay
hay, nhưng đó chẳng qua chỉ thuần tuy là vì tôn trọng cá tính thôi, chứ thực ra
thì nó khá ngạc nhiên.
- Nom này, nom đây này,
Bim! - Ivan Ivanưts thốt lên và ghé mũi con chó vào bông hoa nhỏ.
Thế này thì Bim không chịu
nổi nữa, - nó ngoảnh đi. Rồi nó lảng luôn, đi ra nằm ở đống rừng thưa, tất cả bộ
dạng nói lên một ý: “Hoa của ông, ông cứ việc ngửi!”. Sự bất đồng đòi hỏi phải
được biện giải với nhau không chậm trễ, nhưng chủ lại cười vào mũi Bim một cái
cười sung sướng. Và cái đó đến là khó chịu. “Cười cả mình nữa!”.
Và ông lại quay sang nói
với bông hoa:
- Chào bông hoa đầu mùa!
Bim hiểu không sai: “chào”
đây không phải là nói với nó.
Lòng ghen tuông đã len lỏi
vào trong tâm hồn con chó, nếu như có thể nói như vậy, kết quả là thế đó. Mặc
dù về đến nhà hai bên dường như đã làm lành với nhau, nhưng cái ngày hôm ấy xảy
đến với Bim thật là đen đủi: có mồi, lại không bắn, nó phải đích thân đuổi theo
chim, lại trừng phạt nó, đã thế lại cái bông hoa ranh kia nữa. Phải, thì ra đã
là chó thì chẳng thoát nổi cái cuộc sống kiểu chó, bởi vì nó phải sống trong sự
trói buộc của ba “điều lệnh”: “Không được”, “Lùi lại”, “Tốt”.
Có điều là cả Bim, cả
Ivan Ivanưts, đều không hiểu rằng sẽ có lúc, nếu như họ nhớ lại, họ sẽ cảm thấy
rằng cái ngày hôm nay thật là một ngày vô cùng hạnh phúc.
Nhật ký của chủ
Trong cánh rừng mệt mỏi
sau một mùa đông ác nghiệt, khi các mầm non bừng dậy còn chưa xòe rộ, khi những
cái gốc đau khổ của những cây bị chặt trong dịp mùa đông còn chưa đâm chồi
nhưng đã ứa nhựa, khi lá rụng nâu nâu đang nằm xếp lên thành tầng thành lớp,
khi những cành trụi còn chưa rì rào mà chỉ khẽ đụng vào nhau thì bỗng thoảng đến
một mùi hương hoa điểm tuyết! Chỉ hơi thoang thoảng thôi, nhưng đó là mùi của
cuộc sống đã hồi tỉnh, và chính vì thế mà nó rạo rực tươi vui, mặc dầu khó cảm
thấy nó. Tôi nhìn quanh, - té ra là nó ngay bên cạnh. Dưới đất có một bông hoa
điểm tuyết, một giọt trời xanh nhỏ xíu, vị sứ giả vô cùng giản dị và cởi mở của
niềm vui và hạnh phúc cho những ai đứng với nó và với tới nó. Nhưng lúc này đây
thì đối với ai cũng vậy, kể cả người hạnh phúc lẫn kẻ bất hạnh, nó là cái trang
điểm cho cuộc sống.
Thì ngay trong chúng ta
đây, những con người, cũng là như vậy: có những người khiêm tốn nhũn nhặn có
trái tim trong sáng, những con người “tầm thường” và “nhỏ bé” nhưng lại có tâm hồn cao cả. Chính họ cũng
tô điểm cho cuộc sống, đem nhập vào mình tất cả những cái gì tốt đẹp nhất có
trong nhân loại: lòng tốt, sự giản dị, niềm tin yêu. Chính vì vậy mà bông hoa
điểm tuyết nom như một giọt trời xanh trên mặt đất... Và vài hôm sau (tức là
hôm qua) tôi và Bim lại đến đúng cái chỗ ấy. Giờ đây trời đã rắc xuống khu rừng
hàng ngàn giọt xanh biếc. Tôi tìm quanh: nó đâu rồi nhỉ, cái bông hoa nở sớm nhất,
cái bông hoa quả cảm nhất kia? Hình như nó đây rồi. Có phải không nhỉ? Chẳng
rõ. Hoa nhiều quá nên bây giờ thì chẳng thấy được nó, chẳng tìm ra nó: nó đã
chìm giữa những bông hoa nở sau nó,
hòa lẫn với nó. Vậy là nó bé nhỏ như thế nhưng anh hùng, thầm lặng như thế
nhưng thật là kiên gan, cho nên hình như cơn gió cuối cùng chính là đã sợ nó, đầu hàng nó khi vào
một buổi sớm tinh mơ, đem quẳng lá cờ trắng trận sương muối cuối cùng xuống bìa
rừng.
Cuộc sống cứ đi lên.
...Nhưng Bim đâu có khả năng hiểu được tí gì về những điều ấy. Thậm chí lần thứ
nhất nó đã tự ái, đã ghen. Vả lại khi hoa đã nhiều rồi, nó cũng đâu có buồn để
ý đến hoa. Tập săn mà như nó thế thì xoàng: không có súng nó đã bối rối. Tôi và
nó ở hai trình độ phát triển khác nhau nhưng lại rất, rất gần nhau. Tạo hóa tạo
ra vạn vật theo một quy luật vững bền: sự cần thiết của cái này đối với cái
kia; bắt đầu ở những sự vật đơn giản nhất và kết thúc ở sự sống đã phát triển
cao, đâu đâu cũng là quy luật ấy cả…
Liệu tôi có chịu đựng nồi
cảnh cô đơn đến là ghê gớm này không nếu như không có Bim?
...Cô ấy cần thiết cho tôi biết đến chừng nào! Cô ấy cũng thích hoa điểm tuyết.
Quá khứ như một giấc mơ...
Thế cái hiện tại, nó
không phải một giấc mơ hay sao? Không phải giấc mơ sao, cái khu rừng xuân ngày
hôm qua với chấm xanh lam trên mặt đất? Chứ còn gì nữa: những giấc mơ xanh là một
phương thuốc tiên, dù chỉ có tính chất tạm thời. Tất nhiên là tạm thời thôi. Bởi
vì nếu như cả các nhà văn nữa cũng lại chỉ tuyên truyền cho những giấc mơ xanh
và lánh xa màu xám thì nhân loại sẽ thôi không lo lắng cho tương lai nữa, tưởng
rằng hiện tại là vĩnh cửu, là tương lai. Sự không thoát khỏi thời gian, cái mệnh
trời ấy chính là thể hiện ở chỗ hiện tại phải trở thành quá khứ mà thôi. Con
người đâu có quyền ra lệnh: “Mặt trời kia, đứng lại!”. Thời gian không dừng lại,
không cản nổi và không thương xót. Mọi vật tồn tại trong thời gian và trong sự
vận động. Và kẻ nào chỉ đi tìm sự yên tĩnh bất di bất dịch màu xanh, kẻ đó đã
hoàn toàn thuộc về quá khứ, dù cho anh ta trẻ mãi không già hay đã già cốc đế -
tuổi tác không có ý nghĩa gì cả. Màu xanh có tiếng nói riêng của nó, nó vang
lên như là sự yên ổn, sự quên lãng, nhưng chỉ là cái tạm thời, hoàn toàn chỉ để
nghỉ ngơi; những giây phút ấy không nên để lỡ bao giờ.
Tôi mà là nhà văn, nhất định
tôi sẽ kêu gọi như sau:
“Hỡi con Người đang trăn
trở! Vinh quang đời đời cho Người đang suy nghĩ và đau khổ cho tương lai! Nếu
anh muốn để tâm hồn nghỉ ngơi chốc lát thì đầu xuân hãy vào rừng tìm hoa điểm
tuyết, anh sẽ được thấy giấc mơ đẹp đẽ
của thực tại. Đi mau lên: vài hôm nữa hoa điểm tuyết có thể cũng sẽ chẳng còn nữa,
và anh sẽ chẳng biết đâu để mà nhớ lại cái cảnh thần tiên mà thiên nhiên tặng
cho anh. Hãy đi đi, hãy nghỉ ngơi. Dân gian thường nói: hoa điểm tuyết là bông
hoa đem lại may mắn”.
...Trong khi đó Bim cựa mình. Nó nằm mơ: chân nó ngó ngoáy - nó đang chạy
trong mơ. Những bông hoa điểm tuyết xanh ngắt nó nhìn chỉ thấy xám ngoét (thị
giác của giống chó được tác thành như thế mà). Thiên nhiên đã tạo ra chúng dường
như là những kẻ bôi đen hiện thực. Cứ thử thuyết phục anh bạn nhỏ kia nhìn theo
quan điểm của người mà xem. Dù có chặt đầu nó, nó cũng vẫn cứ nhìn theo cách của
mình. Một con chó hoàn toàn độc lập tự chủ.
------------
Còn
tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét