Các chủ tịch KGB - Những hồ sơ lộ sáng
Tác giả: Leonid Mlechin
Dịch
giả: Hùng Sơn
NXB Lao Động - 2001
Chương VI
Vsevolod Nikolayevich Merkulov
Dân ủy An ninh quốc gia
(2/1941 - 4/1943)
Bộ trưởng Bộ An ninh quốc
gia (3/1943 - 4/1946)
N.K.Baibakov - nguyên Chủ
nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước, thời
gian đầu chiến tranh làm đặc phái viên của Hội đồng quốc phòng về các vấn đề
công nghiệp dầu ở vùng Kavkaz kể lại việc Stalin giao cho ông nhiệm vụ phá hủy
các cơ sở lọc dầu ở vùng Kavkaz như sau:
- Đồng chí Baibakov! Quân
Đức đang tiến về Kavkaz. Nếu đồng chí để lại cho quân Đức dù chỉ một tấn dầu,
chúng tôi sẽ xử bắn đồng chí.
Stalin chậm rãi đi đi lại
lại cạnh bàn, im lặng một lát rồi nói thêm:
- Nhưng nếu đồng chí phá
hủy các cơ sở
sớm trước mà quân Đức không đến, chúng ta không có nhiên liệu dùng, thì đồng
chí cũng sẽ bị xử bắn.
Điều lạ kỳ là sau gần nửa
thế kỷ, Baibakov vẫn kể lại những lời hăm doạ của Stalin với lòng khâm phục.
Giúp Baibakov là
Merculov. Ông dẫn các chuyên gia người Anh đến để giới thiệu với Baibakov kinh
nghiệm phá các nhà máy lọc dầu của họ để khỏi bị lọt vào tay Nhật. Nhưng
Baibakov không theo kinh nghiệm của Anh. Các chuyên gia Liên Xô nghĩ ra một
phương pháp riêng. Không phải ông sợ sự phá hoại của gián điệp nước ngoài. Mà
Merculov lúc đó đã là Thứ trưởng thứ nhất Bộ Nội vụ. Ông sợ là sợ không hoàn
thành đúng lúc nhiệm vụ mà Stalin đã giao. Cuối cùng, họ đã làm nổ các dàn
khoan và nhà máy lọc dầu khi quân Đức đã tiến đến gần sát, nghe thấy cả tiếng
súng nổ bên tai.
Merculov hơn Beria bốn tuổi,
nhưng trong quan hệ với nhau Beria luôn luôn là anh. Không phải chỉ vì chức vụ.
Merculov kém Beria về tính kiên quyết, sự lạnh lùng và cả về năng lực tổ chức.
V.N. Merculov sinh năm
1895 tại thành phố nhỏ Zacatala ở Azerbaijan. Ông học trường cao đẳng kỹ thuật
Baku cùng với Beria và các cán bộ an ninh kỳ cựu như Goglidze, Cobulov, Diafar
Bagirov. Merculov học cao hơn các đồng chí của mình: sau đó ông lên Thủ đô
(Peterburg) và năm 1913 vào học khoa toán-lý Đại học tổng hợp Peterburg. Như vậy
Merculov là người có học vấn cao nhất trong ê-kíp của Beria và có thể trong số
lãnh đạo cơ quan an ninh nói chung (kế nhiệm ông sau này là Abakumov mới học hết
lớp 4).
Nhưng (hoặc có thể do
đó), Merculov vào Đảng muộn hơn: mãi năm 1925. Ông đã kịp phục vụ trong quân đội
Sa hoàng, rồi trong Hồng quân. Làm công tác giảng dạy ba năm. Năm 1921 ông được
lấy vào ủy ban An ninh Gruzia và làm ở đó 10 năm. Đến năm 1931, khi Beria trở
thành Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Cộng sản Gruzia thì lấy Merculov về làm
công tác Đảng. Beria thích Merculov ở học thức
và tính chấp hành. Ngoài ra, Merculov có viết tập sách mỏng “Người con trung
thành của Đảng Lênin và Stalin” nói về Beria.
Năm 1937, Beria đưa
Merculov về Matxcơva cùng mình. Bản thân Beria nhận chức Thứ trưởng thứ nhất Bộ
Nội vụ (để chuẩn bị thay Ejov) kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh quốc gia,
bèn cử Merculov làm phó của mình, phong hàm Chính ủy An ninh quốc gia hạng ba
(tương đương với Trung tướng trong quân đội).
Khi Beria trở thành Bộ
trưởng năm 1938, Merculov làm Phó thứ nhất và Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh
quốc gia, phụ trách cả tình báo, phản gián và bảo vệ các ủy viên Bộ Chính trị.
Năm 1939, sau khi Tây
Ucraina tách khỏi Ba Lan nhập vào Liên Xô, Merculov đã đi Lvov để chỉ đạo chiến
dịch phát hiện và xử lý các phần tử nguy hiểm ở khu vực mới sáp nhập vào Liên
Xô này. Năm 1940, ông đã trực tiếp phụ trách việc xử bắn các sĩ quan tù binh Ba
Lan ở Katyn.
Khi chiến tranh nổ ra,
các trại lại tràn ngập làn sóng tù nhân mới: đó là những người không thực hiện
quy định của chính phủ về việc đem nộp máy thu thanh cá nhân cho ủy ban quận,
huyện, những người “loan tin thất thiệt” về việc quân Đức sắp tấn công và loan
tin thắng trận của địch hoặc “ca ngợi vũ khí Đức”. Hội đồng quốc phòng quyết định
cho Ủy ban đặc biệt của Bộ Nội vụ được quyền quy định mức hình phạt cho các tội,
kể cả tử hình.
Trong cơn lốc ấy, công bằng
mà nói, Merculov không phải là kẻ tệ nhất. Ông nhã nhặn, nói năng từ tốn, không
quát tháo, và cố gắng làm theo lương tri nếu điều đó không đi ngược lại bổn phận
công tác của ông. Beria sai cấp dưới tự tay đánh đập tù nhân. Chỉ có một mình Merculov
không chịu làm. Beria cười giễu: trí thức có khác!
Merculov là người mà với
ông còn có thể trình bày, thuyết phục được.
Khi nhà vật lý Lev
Davidovich Landao bị bắt, Viện sĩ Piotr Kapitsa chạy đến Merculov xin cho
Landao. Merculov đưa cho viện sĩ xem hồ sơ điều tra, trong đó Landao bị buộc đủ
thứ tội chống chế độ.
Kapitsa nói với Merculov:
- Tôi xin cam đoan với đồng
chí rằng Landao không phải là người chống chế độ, anh ấy sẽ không bao giờ tham
gia hoạt động phản cách mạng.
- Landao là nhà vật lý giỏi
lắm có phải không? - Merculov hỏi.
- Một nhà bác học thiên
tài, tầm cỡ quốc tế - Kapitsa đáp.
Landao được tha. Sau này
ông trở thành viện sĩ, được giải thưởng Nobel.
Tháng Hai năm 1941, khi Bộ
Nội vụ được chia thành hai bộ, Merculov được cử làm Bộ trưởng Bộ An ninh quốc
gia, phụ trách tình báo, phản gián, công tác chính trị - mật vụ và điều tra.
Beria làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, phụ trách công an, cứu hỏa, biên phòng, hệ thống nhà tù và trại cải tạo và
công nghiệp.
Nửa năm sau khi chiến
tranh nổ ra, hai bộ lại nhập làm một. Beria lại làm Bộ trưởng, Merculov lại làm
Phó thứ nhất của Beria. Tháng Hai năm 1943, ông được phong hàm Chính ủy An ninh
quốc gia hạng nhất (tương đương Đại tướng quân đội).
Tháng tư năm 1943, Bộ nội
vụ lại tách ra. Và Merculov lại lãnh đạo Bộ An ninh quốc gia.
“Mười Bảy Khoảnh Khắc Của Mùa Xuân”
Việc Stirlits - sĩ quan
tình báo Liên Xô hoạt động trong bộ máy an ninh Đức - là người của Merculov có
thể chỉ là một huyền thoại, một sự tích ly kỳ. Nhưng nhiều người, trong đó có cả
những người rất thông thạo cũng tin rằng chuyện đó có thật.
V D.Ejov - Giáo sư, Tiến
sĩ sử học, một nhà Đức học lâu năm, kể với tôi rằng ở Iurmala gần vịnh Riga
trên biển Ban-tích đã từng có một nhà tình báo Liên Xô sống ẩn dật, xa lánh
không chỉ người lạ, mà cả người quen, vì không muốn để mọi người biết về mình.
Câu chuyện về cuộc đời con người này là cơ sở để Yulian Semenov viết tiểu thuyết
“Mười bảy khoảnh khắc của mùa xuân”
đã được dựng thành phim truyền hình.
Trong danh sách những người
tham gia xây dựng phim có cố vấn chính của bộ phim là Trung tướng S.K.Mishin.
Đó chính là bí danh của Phó Chủ tịch thứ nhất KGB S.K.Tsvigun, một người thân cận
của Brejnev.
Vậy sự tích về Stirlits
có thật hay không?
Nhà văn Semenov đã quá cố
- người mà tôi quen thân và rất yêu mến - là tác giả một loạt tiểu thuyết hay về
nhà tình báo Liên Xô Isaev Stirlits. Semenov viết hay và thuyết phục đến nỗi
người đọc tiếp nhận Stirlits như một nhân vật lịch sử có thật.
Cuối những năm 20 - đầu
những năm 30, Liên Xô có ở Đức một mạng lưới tình báo và phản gián rất mạnh với
số lượng điệp viên đông đảo. Nhưng năm 1936 chiến dịch thanh lọc quy mô lớn đã
động đến cả quân đội và an ninh. Nhiều cán bộ an ninh đang hoạt động ở nước
ngoài bị gọi về, bị bắt hoặc bị bắn. Năm 1938, lãnh đạo Cục tình báo quân sự
báo cáo với Bộ trưởng Quốc phòng rằng Hồng quân Liên Xô thực tế không còn tình
báo nữa, mạng lưới hoạt động bí mật làm cơ sở cho ngành quân báo đã hầu như bị
phá hủy. Các
cuộc khủng bố diễn ra sau vụ án “Tukhachevski” đã giáng một đòn tổn thất lớn cho
quân đội. Bộ máy quân báo không còn lại một cán bộ dày dạn kinh nghiệm nào. Khi
một sĩ quan cao cấp trong bộ máy Trung ương bị bắt, thì tất cả các chiến sĩ
tình báo có quan hệ công tác với sĩ quan đó, cả công khai và bí mật, đều tức khắc
bị tình nghi. Đầu tiên là Matxcơva không tin những báo cáo của họ nữa, sau đó họ
bị gọi về Matxcơva thậm chí không kịp bàn giao công việc cho người thay. Như vậy
là tình báo Liên Xô bị làm suy yếu không phải bởi kẻ địch, mà bằng chính lãnh đạo
nước mình.
Thượng tướng V.Nikolski
thời gian ngay trước chiến tranh làm ở Cục tình báo quân đội kể: “Chúng tôi nắm được kế hoạch hoạt động của
các nước châu Âu rõ hơn là ý định của chính phủ nước mình. Việc ký hiệp ước với
Đức, việc quân đội Liên Xô tiến vào lãnh thổ Ba Lan là những điều hoàn toàn bất
ngờ đối với tình báo Liên Xô.
Khi Hồng quân tiến vào chiếm các vùng phía Đông Ba
Lan, chúng tôi đã không kịp chuyển các cơ sở và mạng lưới sang phía tây, và các
điệp viên của chúng tôi đã bị bắt làm tù binh của Liên Xô.
Cuộc rút lui trong năm đầu của chiến tranh cũng đã
buộc phải bỏ các điểm trinh sát, bị mất cán bộ. Trang thiết bị của tình báo
cũng rất nghèo nàn: không có các trạm điện đài, vũ khí tự động và dù, cho các
đơn vị biệt động, trinh sát. Trong những tháng đầu chiến tranh, các chiến sĩ được
cử vào vùng địch hậu chỉ có súng lục, vì không có tiểu liên”.
Tôi hỏi tướng Nikolski
đánh giá thế nào về hoạt động của quân báo trong giai đoạn đầu chiến tranh, và
những tin tức tình báo thu được có đáng với hy sinh tổn thất to lớn phải bỏ ra
không?
- Đáng chứ. - Thượng tướng
Nikolski trả lời. - Nếu không thế, chúng ta không thể chiến đấu được. Đôi khi cái giá để đạt
được mục đích lớn kinh khủng, nhưng chiến dịch bảo vệ Matxcơva không có trinh
sát, tình báo thì không thể thắng được. Trong khi đó, lãnh đạo liên tục cải tổ
cơ cấu các cơ quan an ninh: Bộ Nội vụ khi thì chia làm hai, khi nhập làm một,
quân báo khi thì thuộc sự quản lý của Bộ Quốc phòng, khi thì của Bộ Nội vụ, khi
lại Bộ Quốc phòng.
Năm 1942, có lệnh cải tổ
quân báo, bởi cho rằng có nhiều kẻ hoạt động “hai mặt” trà trộn vào, do đó các
cán bộ quân báo bị chuyển hết về Bộ An ninh quốc gia, còn các chiến sĩ trinh
sát cấp thấp thì đưa về bổ sung cho các đơn vị. Sau này, theo đề nghị liên tục
của các chỉ huy các phương diện quân, mới khôi phục đơn vị trinh sát và thành lập
Cục trinh sát trong Bộ Tổng tham mưu. Nhưng hậu quả của đòn đánh vào quân báo
năm 1942 vẫn còn tác động lâu. Nhiều cán bộ và chiến sĩ trinh sát có kinh nghiệm
và chuyên môn đã hy sinh trong chiến đấu.
Stalin rất yêu quý công
tác tình báo. Nhưng cuộc thanh lọc quy mô lớn do ông chủ trương và thực hiện bằng
tay Ejov đã làm suy kiệt lực lượng tình báo. Năm 1938, cơ sở tình báo của Liên
Xô ở Berlin chỉ còn ba cán bộ, trong đó một người không biết tiếng Đức. Khi
Merculov lên lãnh đạo Tổng cục An ninh quốc gia, có phục hồi lại được quy mô cũ
của cơ sở này, nhưng kết quả kém xa ngày xưa. Bởi các cán bộ chỉ nắm được tình
hình ở nơi mà anh ta được cài vào, chứ không nắm được tình hình rộng, không
thăm dò được ý tứ của những người trong giới cầm quyền của Đức nhất là những
người trong giới thân cận với Hitler - mà điều này mới có giá trị. Matxcơva
không hiểu được lãnh đạo Đức suy tính gì, nên phải xây dựng giả thuyết, mà nhiều
giả thuyết bị sai.
Thêm vào đấy, được cử làm
trưởng cơ sở tình báo ở Berlin là Kabulov, em trai của Thứ trưởng thứ nhất (Phó
của Merculov), một người vừa không có kinh nghiệm tình báo, vừa không biết tiếng
Đức. Tình báo Đức nắm được điều đó, đã tung các điệp viên hoạt động hai mang biết
nói tiếng Nga để tiếp cận. Và Kabulov dễ dàng tiêu hóa số thông tin giả mà những người này bơm cho ông
ta. Chính Hitler đích thân xem trước các thông tin được an ninh Đức làm ra để
đưa cho Kabulov.
Chính thông qua con đường
đó mà Đức tung hỏa mù cho Liên Xô là Đức chưa định tấn công Liên Xô. Tất cả được Merculov báo
cáo cho Stalin. Ngoài ra, nhiều người cộng tác với An ninh Liên Xô là những người
chống phát xít, cánh tả, có những người khác làm việc vì tiền - có thông
tin là có tiền. Cho nên nhiều khi chúng ta
đã phải trả tiền để nhận thông tin giả.
Vấn đề nữa là phân tích
thông tin. Stalin không tin vào năng lực phân tích và tổng hợp của cán bộ, thường
yêu cầu Merculov cung cấp nguyên văn các báo cáo và tin tức tình báo để tự mình
rút ra kết luận. Do đó mà Merculov cũng không phải nhọc công thành lập bộ phận
phân tích đánh giá thông tin. Điều ảnh hưởng đến đánh giá của lãnh đạo Liên Xô
là trước ngày 22/6/1941 Stalin và những đồng chí thân cận nhất của ông vẫn tin
vào khả năng hợp tác lâu dài với Đức, do đó trong các báo cáo chỉ nhìn thấy và
nhận ra những gì mà họ muốn nhìn thấy...
Cho tận đến khi kết thúc
chiến tranh, Stalin vẫn sợ rằng quân Đức thỏa thuận được với Mỹ và Anh để đầu hàng ở mặt trận
phía Tây và tung quân sang mặt trận phía Đông để chống lại Liên Xô. Những cuộc
đàm phán riêng rẽ giữa Đức với Anh và Mỹ quả thật đã diễn ra.
Tháng 3 năm 1945, Anh và
Mỹ cử tình báo Allen Dulles đi Thụy Sỹ để đàm phán với bộ chỉ huy quân Đức về
việc đầu hàng của lực lượng quân đội Đức ở Italia.
Allen Dulles, Giám đốc
tương lai của C.I.A, theo nghề nghiệp là một luật sư, trong chiến tranh thế giới
thứ nhất đã là gián điệp Mỹ ở Thụy Sỹ. Được tin Mỹ tiến hành đàm phán riêng rẽ
với Đức sau lưng Liên Xô, Stalin nổi giận. Mặc dù người Mỹ thanh minh là Mỹ làm
thế để giảm bớt tổn thất cho Mỹ trong chiến dịch giải phóng nước Ý, song sau
khi nhận được bức thư trách móc của Stalin, Tổng thống mới của Mỹ lúc đó là
H.Truman đã ra lệnh dẹp bỏ hết tất cả các cuộc đàm phán với Đức để không chọc tức
người Nga.
Nhưng sau đó hai bên đã
tính được một giải pháp hợp lý: ngày 28/4/1945 đã ký văn bản tiếp nhận sự đầu
hàng của quân Đức ở Bắc Ý với sự có mặt của đại diện Liên Xô.
Khi Yulian Semenov viết
truyện và kịch bản phim “Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân”, ông không được vào kho
xem các tài liệu mật của Liên Xô và của Đức Quốc xã, mặc dù có được đọc hai tập
thư từ qua lại giữa Stalin với Churchill và Roosevelt trong những năm chiến
tranh. Nhưng ông là một nhà văn tài năng. Hình tượng Stirlits được tổng hợp từ
nhiều mẫu người tình báo và chắt lọc trong cuộc đời. Một số tình tiết khác được
ông nghĩ thêm ra, chí lý chí tình. Thực tình, Stirlits như trong truyện và phim
không có thật trong đời một trăm phần trăm, mà là hình tượng tổng hợp có pha trộn
của người tình báo Xô viết. Chính Semenov nói rằng trong hình tượng Stirlits có
một phần của nhà tình báo Norman Borodin con trai ông M.M.Borodin - Cố vấn
chính trị của Liên Xô tại Trung Quốc trong những năm 20. Còn Thiếu tướng An
ninh S.A.Kondrashov cho rằng nguyên mẫu của Stirlits là Alexandr Mikhailovich
Korotkov - trùm phản gián hoạt động dưới thời của Merculov.
Thành công của “Mười bảy
khoảnh khắc mùa xuân” gắn liền với hình ảnh người chiến sĩ tình báo Liên Xô được
nhân dân yêu thương và mến phục. Tình yêu lớn đó của nhân dân, ngành an ninh được
thừa hưởng.
Tướng Vlassov
Khi Merculov trở thành Bộ
trưởng Bộ An ninh quốc gia lần thứ hai, ông được giao một nhiệm vụ đặc biệt
quan trọng: thủ tiêu A.A.Vlassov - Trung tướng Hồng quân chạy sang phía quân Đức.
Tướng Vlassov - chỉ huy tập
đoàn quân xung kích số 2 - bị bắt làm tù binh ngày 13/7/1942. Tin này do đài Đức thông báo
không gây ấn tượng gì đặc biệt cả, bởi vì ông không phải là viên tướng duy nhất
bị bắt làm tù binh. Matxcơva chỉ lo lắng sau khi quân Đức rải truyền đơn có lời
kêu gọi của Vlassov và thấy rằng Vlassov đã chạy sang phía quân Đức. Tin về việc
Vlassov quay súng chống lại chính quyền Xô viết và lập một đội quân riêng từ
các tù binh Liên Xô đã lan khắp các mặt trận, và Vlassov trở thành một kẻ thù
nguy hiểm. Hơn nữa trong quân đội, Vlassov được biết đến như một vị tướng dũng
cảm và bình tĩnh. Trong những ngày bi kịch năm 1942, khi mọi thứ cảm thấy như sắp
đổ sụp, Vlassov đã khích lệ niềm tin trong binh sĩ. Khruschov - ủy viên Hội đồng
quân sự phương diện quân Nam và Thượng tướng M.P.Kirponos - Tư lệnh phương diện quân Tây Nam đã giao cho
Vlassov chỉ huy tập đoàn quân bảo vệ Kiev. Kiev đã không bảo vệ được, lỗi cũng
chẳng phải của Vlassov. Nhưng ông lại đã xuất sắc trong trận đánh bảo vệ
Matxcơva.
Đại tướng P.Grigorenko viết trong hồi ký:
“Năm 1940, không có ngày nào báo “Sao Đỏ” không viết về sư đoàn 99 do
Vlassov chỉ huy. Việc đào đạo và luyện tập xạ kích trong sư đoàn ông là kiểu mẫu.
Các chuyên gia về xạ kích từ các đơn vị về sư đoàn ông học tập. Lần thứ hai tôi
nghe nói nhiều về Vlassov như một nhà chỉ huy quân sự lỗi lạc vào tháng 11 năm
1941”.
Các chiến sĩ an ninh tìm
cách tiếp cận với các bạn chiến đấu của Vlassov xem ai đó có thể giúp tiêu diệt
vị chỉ huy cũ. Một trong những người gần gũi với Vlassov là G.N.Jelenkov -
Chính ủy, ủy
viên Hội đồng quân sự tập đoàn quân 32, tháng 10/1941 bị mất tích, hóa ra bị bắt làm tù binh.
Trước chiến tranh, Jelenkov là Bí thư huyện ủy Rostokin, ngoại ô Matxcơva.
Bộ An ninh quốc gia quyết
định tuyển mộ Jelenkov để thực hiện việc giết Vlassov. Kế hoạch chiến dịch do
chính Bộ trưởng Merculov phê duyệt.
Báo “Tuyệt Mật” năm 1996 đăng những
tài liệu lưu trữ quốc gia liên quan đến việc tổ chức tiếp cận Vlassov.
Các chiến sĩ an ninh đã gặp
vợ Jelenkov và bảo bà viết một bức thư cho chồng. Trong thư có nói cho Jelenkov
biết tình hình là gia đình vẫn yên ổn không bị bắt bớ, nhưng mọi sự sẽ phụ thuộc
vào ông ta. Nếu ông ta giúp tiêu diệt Vlassov thì ông ta và gia đình sẽ được bảo
vệ.
Merculov ra lệnh sử dụng
mọi khả năng của cơ quan an ninh trong các vùng bị chiếm đóng, tìm những người
có thể cộng tác để nắm được bộ sậu gần gũi Vlassov, những chỗ yếu của hệ thống bảo
vệ Vlassov và tuyến đường đi lại của ông ta.
Nhưng An ninh Liên Xô đã
không giết được Vlassov.
Vả lại, Merculov và Bộ An
ninh quốc gia cũng không dám và không thể phân tích được nguyên nhân thật sự của
hiện tượng Vlassov và các tù binh chạy sang hàng ngũ Đức.
Trong chiến tranh,
5.240.000 người lính Hồng quân đã bị Đức bắt làm tù binh, trong đó có 3,8 triệu
người bị bắt ngay trong mấy tháng đầu chiến tranh. Liên Xô không công nhận khái
niệm “bị bắt làm tù binh”, mà chỉ có những kẻ “đào ngũ, phản bội Tổ quốc” và “kẻ thù của nhân dân”. Lệnh số 270
ngày 16/8/1941 do Stalin ký yêu cầu các chiến sĩ Hồng quân trong mọi tình huống
phải chiến đấu đến cùng, không được để bắt làm tù binh. Các sĩ quan chỉ huy có
quyền bắn chết những ai chọn bị bắt làm tù binh hơn là chết. Điều 58 Bộ Luật
hình sự Cộng hòa liên bang Nga cho phép đưa ra tòa thân nhân của những chiến sĩ Hồng quân bị bắt làm
tù binh và đưa họ đi đày ở Sibir.
Những qui định nghiêm khắc
đó mục đích là để ngăn việc bị bắt làm tù binh, nhưng đã dẫn đến những kết quả
ngược lại. Những người đã bị bắt làm tù binh sợ trở về Tổ quốc, nơi họ bị coi
là những kẻ phản bội. Như thực tế đã chứng minh, năm 1945, những tù binh Liên
Xô được thả ra khỏi nhà tù của phát xít Đức để lại bị đưa vào trại cải tạo Liên
Xô. Do đó, nỗi sợ của họ không phải là không có cơ sở.
Nhân loại không quên sự
dã man, tàn bạo của chủ nghĩa phát xít Hitler. Hai triệu rưỡi người Liên Xô đã
chết trong các nhà tù của Đức. Trong điều kiện tù đầy man rợ của phát xít Đức,
nhiều tù binh Liên Xô đã đồng ý cộng tác với Đức để đổi lấy mạng sống. Họ được
lái xe hoặc làm thợ cơ giới trong nhà tù cho Đức.
Một bộ phận các tù binh
Nga đầu hàng Đức đã tập hợp lại trong cái gọi là “Quân đội giải phóng Nga” dưới
sự chỉ huy của các tướng lĩnh cũ của Liên Xô như Vlassov, Krasnov, Buniachenko
và đã chiến đấu với Hồng quân Liên Xô. Năm 1945, khi quân Đức liên tiếp thua Hồng
quân và phải rút chạy về phía Tây, các tướng chỉ huy “Quân đội giải phóng Nga” thấy đổ máu
tiếp không còn ý nghĩa nữa, đã quay sang tranh thủ phe đồng minh bằng chủ nghĩa
chống Bolshevik của mình.
Có một chi tiết thú vị là
chính sư đoàn Một “Quân đội giải phóng Nga” của Buniachenko chứ không phải
Nguyên soái Liên Xô Konev đã giải phóng Praha. “Quân đội giải phóng Nga” có mặt
ở Tiệp Khắc vào lúc diễn ra cuộc khởi nghĩa của các sĩ quan Tiệp, được các sĩ
quan Tiệp yêu cầu giúp đỡ. Buniachenko đã thuyết phục Vlassov nhận giúp đỡ, với
lý do là như vậy thì chính phủ tương lai của Tiệp sẽ mang ơn họ và cho họ cư
trú chính trị.
Vlassov và Buniachenko
chiến đấu tốt, và đã giải phóng được Praha, nhưng sự nghiệp của họ cũng đến hồi
kết thúc, vì quân đồng minh do Tướng Mỹ D.Eisenhower chỉ huy và quân Liên Xô do
Nguyên soái Konev chỉ huy cũng đã tiến sát đến Praha. Buniachenko ra lệnh rút
quân khỏi Praha ngày 8/5. Ngày 9/5 Nguyên soái Konev tiến vào Praha.
Ngày 11/2/1945,
Roosevelt, Churchill và Stalin đã ký tại Yalta hiệp định về việc trao trả cho
Liên Xô các công dân Liên Xô ở vùng giải phóng của Anh và Mỹ, đặc biệt là các
tù binh bị Đức bắt. Quân Vlassov đầu hàng đồng minh, đã bị Mỹ, Anh đưa về Liên
Xô. Những kẻ đầu sỏ của “Quân đội giải phóng Nga” đứng đầu là Vlassov đã bị
treo cổ. Những người khác bị tống vào trại.
Trong quá trình xem xét lại
lịch sử, có người muốn đánh giá vấn đề theo hướng ngược lại: thay vì Vlassov -
phản bội Tổ quốc, người ta muốn đánh giá Vlassov là người yêu nước, bởi theo họ,
Stalin với Hitler không tốt hơn nhau là mấy.
Nhưng liệu họ có nghĩ rằng:
năm 1941, đâu có phải Stalin đấu tranh với Hitler, mà là nhân dân các dân tộc
Liên Xô đứng lên chiến đấu chống bạo tàn để bảo vệ Tổ quốc, đất đai, làng mạc và gia đình họ. Và do vậy mà họ đã
chiến thắng Hitler và Vlassov.
Teheran - 43
Cuộc gặp gỡ giữa những
người lãnh đạo ba nước lớn Xô - Mỹ - Anh đã diễn ra tại Teheran cuối năm 1943.
Vào thời gian này, tại
Teheran có số lượng lớn người Đức sinh sống. Ngoài ra, rất đông người Iran đứng
về phía Đức, vì ảnh hưởng của Đức ở đây vốn lớn, và khi bắt đầu chiến tranh thế
giới II, từ hai phía, Liên Xô và Anh đã đưa quân vào Iran để kết thúc và bảo đảm
an toàn cho việc chuyên chở vũ khí cho Liên Xô. Điều này đánh vào lòng tự ái
dân tộc của người Iran, đặc biệt giới sĩ quan. Do đó, nhiệm vụ bảo đảm an toàn
tính mạng cho ba lãnh tụ và cho việc tiến hành hội nghị là cực kỳ cấp thiết và
khó khăn.
Có giả thuyết rằng để phá
hoại hội nghị Teheran, Hiler đã cử đội trưởng đội biệt kích của lực lượng SS là
Otto Skorzeny - một người gốc Áo - lãnh đạo “chiến dịch Teheran”. Skorzeny nổi tiếng
với việc cứu Mussolini năm 1943. Khi vua Ý ra lệnh bắt Mussolini để sớm kết
thúc chiến tranh, Hiler đã giao cho Skorzeny nhiệm vụ cứu Mussolini. Và lực lượng
An ninh Liên Xô - quân của Merculov đã phá vỡ âm mưu phá hoại đó của Đức.
Nhưng lại có giả thuyết
khác rằng Liên Xô đã thổi phồng nguy cơ phá hoại từ phía Đức để dọa Tổng thống Mỹ. Sự thực
là trong suốt thời gian hội nghị, Stalin đã đón Tổng thống Mỹ Roosevelt về ở
trong Sứ quán Liên Xô. Nhân chứng trong Sứ quán Liên Xô ở Teheran kể rằng các bức
điện đến và đi của Roosevelt đều bị Liên Xô giải mã. Đó là điều đương nhiên
nhưng cũng không phải là chủ yếu. Cái chính là Stalin muốn tách Roosevelt xa
Churchill.
Chúng ta chỉ nhìn thấy những
bức ảnh Stalin, Churchill và Roosevelt đang cười và nói chuyện thân mật với
nhau. Họ gửi điện mừng và trao đổi thư hữu nghị với nhau, gặp nhau, bàn chiến
lược chung. Nhưng thực tế họ là ba con người khác nhau và theo đuổi những mục
tiêu riêng. Tuy nhiên cả ba đều có một kẻ thù chung là chủ nghĩa phát xít, là
Hitler.
Trong ba lãnh tụ đó,
Winston Churchill là người bảo thủ nhất. Mặc dù vốn tính khinh bạc, nhưng ông
không phải không có tình cảm cao thượng. Churchill cũng dễ nảy sinh tình cảm gắn
bó với những ai mà ông hợp tác, kể cả Stalin. Churchill không ưa Liên Xô. Nhưng
sau khi ông đi Matxcơva trình bày với Stalin những ý tưởng về việc tổ chức châu
Âu sau chiến tranh trở về, ông như được chắp cánh, và tuyên bố nước Nga Xô viết
“chưa bao giờ gần gũi, chặt chẽ và thân
thiết như hiện nay”.
Frankhin Roosevelt thì
khó hiểu hơn. Ở ông, những tiểu xảo và những nguyên tắc cao cả kết hợp với nhau
một cách kỳ lạ.
Liên Xô có cảm tình với
Roosevelt hơn với Churchill nhiều. Do Churchill gắn với cuộc can thiệp của mười
bốn nước nhằm bóp chết cách mạng tháng Mười, và không ưa Liên Xô. Còn Roosevelt
có cảm tình với Liên Xô hơn, và đặc biệt là - khác với Churchill - rất tin
Stalin.
Bí Mật Nguyên Tử
Tháng 8 năm 1945, ngay
sau khi Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima, Matxcơva điện cho Sứ quán ở Nhật
cử ngay người ra thực địa xem. Sứ quán cử hai cán bộ trẻ đi. Họ đã nhìn thấy
cái mà chúng ta sau này cũng nhìn thấy trên phim: cảnh đổ nát, và người chết, một
thành phố bị san phẳng. Họ mang theo một bao tải đựng đất và tro về Matxcơva
cho các nhà khoa học Liên Xô lúc đó cũng đang nghiên cứu việc chế tạo bom
nguyên tử.
Đấy chỉ là một phần của
công tác tình báo rộng lớn mà Liên Xô đã tiến hành nhằm đánh cắp các bí mật
nguyên tử. Tình báo Liên Xô đã làm việc này cả ở Canada, ở Anh và nhiều nước
khác nhưng chủ yếu nhất vẫn là ở Mỹ.
Trong thời gian chiến
tranh và có thể đến hết năm 1945, tình báo Liên Xô hoạt động ở Mỹ tương đối dễ
dàng, thoải mái. Bộ trưởng Merculov có thể báo cáo với Stalin hết thành tích
này đến thành tích khác. Bởi Cục tình báo liên bang Mỹ còn chưa quan tâm theo
dõi người Nga.
Tháng 9 năm 1945, sau khi
I.Guzenko - nhân viên tình báo công tác ở Sứ quán Liên Xô ở nước ngoài chạy trốn,
phương Tây mới sửng sốt là An ninh Liên Xô làm gián điệp ở các nước họ tích cực
như thế nào. Các trung tâm nghiên cứu và phòng thí nghiệm nguyên tử của họ mới bắt
đầu tăng cường các biện pháp bảo vệ.
Nhưng phản gián Mỹ cũng
phải mất mấy năm mới sờ nắn được đến mạng lưới gián điệp của Liên Xô ở Mỹ. Và
cho đến tận ngày hôm nay, họ cũng không tin chắc được rằng đã tìm thấy hết nhân
viên hoặc cộng tác viên của Liên Xô hay chưa.
Cả tình báo chính trị và
tình báo quân sự Liên Xô cùng tham gia vào khai thác các bí mật nguyên tử.
Nhưng vai trò chính vẫn
là Tổng cục I của Bộ An ninh quốc gia.
Cuộc tranh luận về việc
tình báo đóng vai trò đến đâu trong việc chế tạo bom nguyên tử của Liên Xô vẫn
còn chưa kết thúc. Viện sĩ Yu.Khariton, người nhiều năm lãnh đạo công tác này
khẳng định rằng việc chế tạo bom nguyên tử của Liên Xô từ đầu đến cuối dựa trên
những ý tưởng và suy nghĩ của các nhà vật lý Liên Xô và trên số liệu tính toán
của họ cùng với các nhà toán học.
Còn Viện
sĩ I.V.Kurchatov thì nói rằng các nhà khoa học và các nhà tình báo
chia nhau thành công trong việc chế tạo bom nguyên tử.
Các nhà tình báo thì
khiêm tốn nói rằng họ chỉ “giúp” cho các nhà khoa học. Nhưng quả là họ đã “giúp”
rất đắc lực. Họ đã gửi cho Kurchatov những báo cáo mật hàng trăm trang đầy những
công thức, ký hiệu về tiến trình nghiên cứu, sáng chế của Mỹ. Kurchatov chuyển
cho các đồng nghiệp xem. Họ nói muốn biết thêm điểm này, điểm kia. Sau một thời
gian, họ lại nhận được thêm thông tin trả lời các yêu cầu của họ. Kể cả nếu các
nhà vật lý của chúng ta không nhận được thông tin gì mới so với những gì họ
đang làm, thì ít nhất họ cũng được củng cố lòng tin vào hướng họ đang đi.
Một trong những người
cung cấp thông tin chủ yếu cho tình báo Liên Xô là nhà vật lý người Đức Claus
Fuks. ông vào Đảng Cộng sản Đức năm 1921,
năm 1933 chạy sang Anh để tránh chủ nghĩa phát xít. Cuối năm 1941, ông đề xuất
sự cộng tác với tình báo Liên Xô.
Hai năm sau ông từ Anh
sang Mỹ, tham gia nghiên cứu trong phòng thí nghiệm quan trọng nhất và bí mật
nhất về nguyên tử của Mỹ ở Los-Alamos. Đại tá tình báo A.S.Feklisov nói đã gặp
ông sáu lần trong thời gian đó.
Ông làm việc theo đơn đặt
hàng của Kurchatov.
Năm 1950, Claus Fuks bị phát hiện và bị bắt, bị kết án 14 năm tù, nhưng đến năm
1959 đã được thả vì tư cách gương mẫu. Ông rời Mỹ về Cộng hòa dân chủ Đức làm ở một
viện khoa học. Cách đây mấy năm, đại tá Feklisov khi đi Đức đã đến nghĩa trang,
quỳ xuống bên mộ ông.
Đồng thời với C.Fuks còn
có nhiều nhà khoa học khác làm việc cho An ninh Liên Xô, như ông bà Moris Coen
người Mỹ chuyển tài liệu về nguyên tử cho Liên Xô, cũng bị kết án tù nhiều năm,
sau được Liên Xô đổi gián điệp phương Tây để giải phóng ra. Moris Coen gần đây
được Nga tặng danh hiệu Anh hùng.
Nói chung chỉ một số rất
ít người còn sống đến ngày nay được nhận danh hiệu Anh hùng. Còn trước đây, các
chiến sĩ tình báo không được phong tặng một cách hào phóng, ít người được phong
Anh hùng, và không một ai trong những người đã tìm kiếm bí mật để giúp chế tạo
bom nguyên tử được phong đến hàm tướng. Thời Merculov, nhà tình báo tài giỏi nhất
cũng chỉ được lên đến chức đại tá. Tình báo được coi là binh chủng hậu phương!
Còn bây giờ, riêng Cơ quan tình báo đối ngoại đã có nhiều Tướng hơn toàn bộ KGB
ngày trước.
Chịu Chung Số Phận
Merculov lãnh đạo cơ quan
an ninh vào những năm được mùa của ngành tình báo. Nhưng thành tích của công
tác tình báo không phải là điều chủ yếu Stalin quan tâm. Quan trọng hơn đối với
Stalin là kiểm soát đất nước mình. Mà đối với các vấn đề trong nước, Stalin cho
rằng không có những nhiệm vụ không thể giải quyết được, chỉ có những con người
không đủ kiên quyết và không biết cách giải quyết những nhiệm vụ đó.
Ngày 4/5/1946, Merculov
thôi chức Bộ trưởng Bộ An ninh quốc gia. Ông đã giữ chức vụ này ba năm - thế là
nhiều lắm rồi. Hơn nữa ông lại không bị bắt, mà rời khỏi Lubianka bằng đôi chân
của mình chứ không bị ai áp tải - thế cũng là may lắm rồi. Không ai đặt câu hỏi:
“Tại sao Merculov lại bị cách chức?”. Nghe nói Stalin không
ưng kế hoạch cải tổ hệ thống An ninh quốc gia sau chiến tranh của Merculov. Ban
đầu Stalin định cử S.I.Ogolsov - Thứ trưởng thứ nhất Bộ An ninh quốc gia làm Bộ
trưởng, nhưng Ogolsov từ chối khéo, lấy lý do không đủ kiến thức và kinh nghiệm
cho chức vụ đó. Lúc đó Stalin mới nêu tên Abakumov - lãnh đạo công tác phản
gián quân sự trong thời gian chiến tranh.
Abakumov được mời đến cuộc
họp Bộ Chính trị, cũng bắt đầu trình bày rằng mình còn ít kinh nghiệm công tác
v.v. Việc tỏ ra khiêm tốn như thế là điều bình thường đối với một người được đề
cử vào chức vụ quan trọng. Nhưng không hiểu sao điều đó làm Stalin bực mình cắt
ngang:
- Đồng chí Abakumov?
Chúng ta đang có nhiều ghế Giám đốc nhà ăn còn trống đấy. Nếu đồng chí thấy
không tin lắm vào bản thân mình, hay là chúng tôi đề bạt đồng chí làm Giám đốc
nhà ăn nhé?
Và Abakumov trở thành Bộ trưởng.
Vài ngày sau, dưới sự chủ
trì của A.A.Kuznetsov - Bí thư Trung ương Đảng mới phụ trách an ninh, một ủy
ban đã họp để xem xét những khuyết điểm của ban lãnh đạo cũ của Bộ. Merculov bị
chỉ trích là đã buông lơi việc theo dõi các phần tử Trotskyist trong thời gian
chiến tranh.
Bị khổ sở mất gần một
năm, nhưng Merculov vẫn được nhận công tác với hàm Bộ trưởng: tháng 4/1947 ông
được đề bạt làm Tổng cục trưởng Tổng cục quản lý tài sản Liên Xô ở nước ngoài.
Năm 1950, ông làm Bộ trưởng Thanh tra Nhà nước.
Năm 1953, khi Beria bị bắt,
Merculov với tư cách là ủy viên Trung ương còn tham dự hội nghị Trung ương, ở
đó sếp cũ của ông bị kết đủ thứ tội. Sau hội nghị Trung ương, Merculov được
Khruschov mời đến.
Khruschov viết trong hồi
ký:
“Phải công nhận rằng tôi đã từng kính
trọng Merculov. Ông là người có văn hóa, không phải là người xấu trong Ban chấp hành
Trung ương, chúng tôi có nói: bản thân việc Merculov đã từng là phó cho Beria
còn chưa nói lên rằng ông ta là tòng phạm của Beria. Vì Beria giữ cương vị cao
và tự mình sắp đặt mọi người vào vị trí dưới quyền mình, chứ không phải là ngược
lại. Chúng tôi gọi Merculov đến nói chuyện: báo với ông ta rằng Beria đã bị bắt,
đề nghị ông ta là người đã nhiều năm làm việc với Beria, hợp tác với chúng tôi.
Merculov nói “sẵn sàng”. Nhưng khi chúng tôi gửi bức thư tường trình và những
tài liệu của Merculov cho Viện trưởng viện Kiểm sát Tối cao
Rudenko, thì Rudenko nói ngay rằng phải bắt Merculov, vì vụ án Beria mà không
có Merculov thì không thể tiến hành được”.
Trước tòa, Merculov nguyền rủa
cái ngày mà ông ta đã gặp Beria. Merculov đã cộng tác với Beria và phải chịu
chung số phận với Beria. Ông cùng những đồng sự khác của Beria đã bị tử hình
ngày 23/12/1953.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét