Con Bim trắng tai đen
Tác giả: Gavriil Troyepolsky
Dịch giả: Tuân Nguyễn - Trần Thư
Nhà xuất bản Văn Học - 2012
(Theo bản in của NXB Cầu Vồng - Moskva -
1989)
Chương 11
Tai Đen sống ở làng quê
Làng quê, nơi người ta
đưa Bim đến, quả đã làm cho nó rất đỗi kinh ngạc. Ở đây cũng có người ở nhưng mọi
cái đều khác với nơi nó sinh ra và lớn lên. Nhà thì nhỏ, dựng ngay trên mặt đất,
không có qua một gầm cầu thang nào, chẳng thấy những điểm có nhiều bậc, các
cánh cửa không kêu lách cách ổ khóa. Ban đêm cửa ngõ thực ra có cài then bên trong. Mọi nhà
đều lợp bằng những tấm lá màu tro đè lên nhau. Sáng ra, cùng một lúc, nhà nào cũng có làn khói bay
lên cao, nhưng nó không tỏa ra và cũng không bay đâu cả mà chỉ đứng tại chỗ,
ngang tầm nhau, xếp thành hàng đều đặn, lặng lẽ và yên bình, không một tiếng động.
Nhưng cái đáng ngạc nhiên
nhất đối với Bim (nay là Tai Đen) là ở chỗ nơi đây cùng chung sống với người
còn có cả những loài súc vật và chim chóc: bò, ngỗng, cừu, lợn, mà với chúng,
đâu có thế bắt quen ngay được. Súc vật có nhà riêng, dựng ngay đằng sau nhà của
người ở, mái phủ bằng rơm rạ, cài lau sậy và được rào lại thành tường thưa thớt
không cao lắm, bằng những cây sào và cành khô ken vào nhau. Và không ai đụng chạm
ai. Người không đụng đến súc vật, chim chóc; và súc vật không đụng đến người,
chẳng ai dùng súng bắn ai.
Ngày đầu tiên người ta
lót cỏ khô cho Bim nằm ở trong góc phòng ngoài. Ông kia lấy dây cột Bim lại một
chỗ, cho ăn rất ngon, rồi khoác áo tơi đi đâu không biết. Cho đến hết ngày, Bim
sống một mình, trong sự ắng lặng hoàn toàn. Đến gần tối nó nghe thấy tiếng chân
cừu khua rào rào trên nền đất, nghe tiếng cừu đi vào sân, tiếng rống lên trong
chuồng (nó muốn xin cái gì đó). Ngay sau đó ông kia về, nhưng lần này đi cùng một
chú bé, khoác áo mưa, chân đi ủng, đầu đội mũ, tay cầm chiếc sào dài. Mặt thằng
bé cũng nâu
nâu như mặt Ông Phúc Hậu, và người nó có mùi cừu.
- Này Aliôsa, nhìn anh bạn
mới của ta đây này! - Ông kia nói với đứa bé.
Họ đến sát tận chỗ Bim.
- Bố ơi! Nó có cắn không?
- Không, loại này không cắn
đâu, con ạ. Úi chà, Tai Đen! Con Tai Đen này là con chó khôn đây. - Rồi ông ta
vỗ nhẹ lên sườn nó.
Bim nằm yên và cảnh giác
nhìn thằng bé. Thằng bé cũng vuốt ve nó.
- Tai Đen... Tai Đen
ơi... - Rồi quay sang ông kia hỏi: - Bố ơi, thế thả nó có đi không?
- Đợi ít lâu đã - Ông bố
bước lên cửa, đi vào nhà.
Bim đứng dậy, rồi lại ngồi
xuống, chìa chân cho thằng bé, như muốn nói: “Xin chào, bạn là người tốt”.
- Bố ơi! - Thằng bé reo
lên. - Bố ơi! Ra đây mà xem!
Ông quay lại.
- Chào Tai Đen! - Thằng bé chìa tay ra.
Bim chào một lần nữa. Cả
hai đều hài lòng ra mặt về thái độ lẽ phép của con chó. Những giây phút làm
quen đầu tiên rất hệ trọng đối với Bim. Nó đã biết được rằng người dẫn nó đến
đây tên là Bố, còn cậu bé là Aliôsa. Ngay những con chó bình thường, không có
gì trội bật cũng có thế nhận ra tên tuổi của người, huống chi là Bim... Khỏi
nói! Chúng ta đã biết nó là con chó như thế nào rồi.
Sau đó, chập tối có một
người đàn bà đi tới. Người này ăn mặc lạ lắm: đầu chít hai khăn, chiếc áo bông
trên người căng ra như cái trống, quần cũng hệt như người đàn bà phúc hậu mà nó
gặp trên đường sắt làm công việc đóng đinh trên đường ray. Nhưng ở người này lại
có mùi đồng ruộng và mùi củ cải (loại củ ngọt lịm mà đến cả Bim có lần thử cũng
chẳng chê). Bà ta đi vào nhà, nói gì với những người đàn ông trong đó, rồi lập
tức thình thịch đi ra, qua phòng ngoài, bước ra sân, tay cầm chiếc xô. Bây giờ
Bim xác định thêm được một điều, mà không cần rời khỏi chỗ nằm, là có một lối từ
cửa phòng ngoài thông ra đường, còn cửa thứ hai thì mở ra chỗ đàn gia súc, cửa
thứ ba vào nhà. Nhưng nó không lần đến được những cửa đó - vì sợi dây không
buông tha nó. Đó là tất cả những gì Bim tạm quan sát thấy.
Nó lại nằm xuống.
Từ ngoài sân phả đến mùi
cừu nồng nặc. Cừu là cái gì? - Điều này Bim biết đã lâu rồi. Như trước đây Bim
nghĩ thì những con vật này sống theo đàn, đi lang thang ngoài đồng và không làm
gì cả, chỉ có ăn và kêu be be. Bên chúng bao giờ cũng có một người mặc áo mưa bằng
vải bạt cầm sào dài ở đầu có móc. Một người như thế đã có lần đến chỗ Bim và
Ivan Ivanưts khi hai thầy trò đang ngồi nghỉ cạnh đống cỏ khô. Ông ta bắt tay
chủ nó. Đi cùng với ông còn có một con chó to, lông xù. Nó tiếp Bim với một
thái độ hiếu chiến. Thoạt đầu nó chạy xổ đến chỗ Bim và sủa nghe kinh người.
Bim liền nằm ngửa ra, chân chổng lên trời mà nói: “Chuyện gì thế? Tớ có tội
tình gì?”.
Hẳn là thái độ tế nhị đã
chiến thắng tính thô bạo. Con Xù sau khi đánh hơi Bim, liếm vào bụng nó, rồi lảng
ra không xa, ký lia lịa vào phiến đá. Bim cũng làm y như vậy. Tóm lại điều này
có nghĩa là: chung sống hòa bình. Và rồi trong lúc ông chủ Bim nói chuyện với
chủ con Xù, thì hai con chó nô đùa với nhau, chơi trò chơi chạy đuổi, trong đó
Bim tỏ ra nhanh nhẹn hơn, khéo léo hơn, thật xứng đáng với sự kính nể hiện ra mặt
của anh bạn mới quen biết. Đến lúc chia tay nhau (thì phải đi theo chủ chứ!),
chúng đến ngửi ngửi phiến đá và đưa mắt nhìn nhau, ý nói:
“Thỉnh thoảng ra đây chơi
nhá!” - Bim nói rồi chạy đi
“Chao ôi, trăm công nghìn
việc...” - Xù đáp và lê bước về với đàn cừu, đầu cúi gằm.
Chuyện hồi ấy là như thế.
Thế mà bây giờ lại thấy xông lên mùi cừu. Trước cái mùi gợi đến những kỷ niệm
xưa ấy, Bim không thể không nhớ đến Ivan Ivanưts. Nằm trong gian phòng ngoài của
người lạ, ở nhà người lạ, trong bóng tối chạng vạng, chẳng có người, Bim cảm thấy
buồn ơi là buồn.
Sau đó nó lại nghe thấy
có tiếng gì re re va vào thành sắt, như tiếng nước chảy: Gi-gi! Gi-gi! Bim chưa
biết đó là tiếng gì. Gi-gi! Gi-gi! Cái tiếng lạ tai bỗng im bặt, rồi ngay sau
đó từ ngoài sân người đàn bà đi vào, tay vẫn cầm chiếc xô. Từ trong xô bốc ra
mùi sữa. Mùi thơm kỳ lạ! Hồi ở thị xã, Bim chưa đánh hơi thấy mùi sữa như thế
này lần nào - cũng là sữa nhưng mùi thì khác, điều đó là chính xác. Ở thị xã sữa
không có mùi tay người, không có hương thơm của các loại cỏ khác nhau và hoàn
toàn không có mùi bò - kỳ lạ là ở chỗ ấy. Còn ở đây tất cả các mùi đó hòa lẫn
vào với nhau thành một hương vị ngây ngất, có sức hấp dẫn lạ lùng, thơm ngát
mùi hoa hồng. Chúng ta sẽ không bàn cãi nhiều vì con người đôi lúc còn phân biệt
được sữa này với sữa kia, huống chi đối với Bim của chúng ta, vốn đã có cái mũi
thính thượng hạng, sao lại không ngạc nhiên trước cái mùi đó được, cái mùi mà
trong đó có mùi bàn tay người pha hòa với hương thơm của hoa và cỏ. Chính thế
mà Bim đã đứng nhổm ngay dậy và lại còn vẫy đuôi chào đón người đàn bà kia nữa.
Nhưng chắc gì bà ta đã hiểu được niềm hân hoan của Bim. Tiếc rằng suốt bốn năm
trong cuộc đời mình, Bim chưa lần nào nhìn thấy người ta vắt sữa ra sao. Mà sữa
thường vẫn có mùi bò. Sự mơ hồ nào đó vẫn lảng vảng trong nhận thức của Bim.
Như vậy là Bim vẫn còn đôi điều chưa biết. Vả lại thiếu gì những cái mà bất kỳ
con chó nào cũng không biết được. Điều này không có gì đáng xấu hổ cả. Còn nếu
như có chàng chó nào lại nói rằng, chẳng hạn, nó biết tất, và tự tin là có thể
dạy bảo kẻ khác biết nên làm gì và làm như thế nào, và cần chạy đi đâu, thì quả
thật ngay đến ả gà mái cũng chẳng tin đâu, dù chàng ta có khác hơn ả, nhưng vẫn
không tin. Tôi xin thưa với các bạn rằng các loại chó ấy là có. Ví như giống
chó Scottish Terrier, các
bạn nhìn mà xem, nó làm ra vẻ trong cái đầu cục gạch của nó đầy những tư tưởng
đủ các loại (Râu này! Ria mép lòng thòng và lông mày này! Y như một triết
gia!). Nhưng sự thực nó là con chó rỗng tuếch, nó ra lệnh, nó mắng mỏ chủ nhà hết
ngày này sang ngày khác, như bị tâm thần, nó giở đủ trò, nhưng kết quả là thế
nào? Không có tí gì hết. Chỉ được cái mẽ ngoài thôi! Còn bên trong nhẹ bỗng, hoặc
nói chung rỗng tuếch.
Nhưng không, Bim là chuyện
khác. Nó có một tâm hồn cởi mở và thẳng thắn. Nếu điều gì không biết thì thể hiện
ngay ở thái độ: Cái gì đã không biết thì nói là không. Không ưa ai, nó nói ngay
“Anh là người tồi, đi ngay khỏi nơi đây! Gâu!”. Và đôi lần nó sủa nghe đến là... - lạy Chúa!
Đối với người đàn bà đã vắt ra được thứ sữa
thần tiên ấy ở đâu đó, thì nó không thể không quý hóa. Chính vì thế mà nó nhìn
chằm chằm về phía cửa, lối bà ta vừa bước vào, tay xách xô sữa.
Nhưng có ai đó từ ngoài
đường bước vào đẩy toang cửa một cách dứt khoát.
“Ai?” - Bim hỏi bằng một tiếng đồng
nghĩa. “Gâu”
Người mới đến từ nhà
ngoài nhẩy bắn trở lại. Ông bố trong nhà chạy ra, bật đèn hỏi:
- Ai đó?
- Tôi đây, đội trưởng đây!
- Người lạ mặt
trả lời.
Rồi ông bước vào phòng
ngoài. Chủ khách bắt tay nhau (có nghĩa là bạn bè - không nên sủa) và tiến đến
chỗ con Bim.
Ông bố ngồi xổm xuống, vuốt
ve Bim, nói:
- Mày giỏi lắm. Tai Đen ạ!
Giỏi lắm! Biết việc đấy. Con chó ngoan lắm.
Ông ta cởi dây thả nó vào
phòng.
Cái quan trọng nhất là:
trong phòng có một ả gà mái chân thọt, Bim nhằm thẳng nó mà sấn đến, đứng khựng lại, nâng một cẳng trước
lên, nhưng với một vẻ hơi do dự, như thế là nó nói với những người có mặt ở
đây: “Con chim này là thế nào? Thế này đâu có được nhỉ…?”.
- Trông kìa: bác đội trưởng!
- Ông Bố reo lên. - Đã bảo là con chó vàng, chó ngọc mà. Con Tai Đen này, thật
được mọi vẻ!
Nhưng do ả gà mái không
thèm để ý tí gì đến Bim, nên Bim đành ngồi xuống, nhưng vẫn liếc trộm ả, cái đó
diễn giải ra ngôn ngữ chó thì thành những câu ngắn gọn, đầy hàm ý: “Liệu liệu đấy... Ra kia! Rồi mày biết
tay tao!” và nó đưa mắt dò hỏi những người có mặt.
- Nó cũng không đụng đến
con gà! - Aliôsa khoái trá. Bim nhìn vào mặt thằng bé, chăm chú theo dõi.
- Mắt nó! Mẹ ơi! Mắt nó kìa! Như mắt người ấy.
- Aliôsa
thích quá. - Tai Đen, lại đây! Lại đây!...
Lẽ nào Bim lại không hưởng
ứng niềm vui chân tình ấy! Nó bước đến chỗ Aliôsa và ngồi xuống cạnh.
Họ ngồi quanh bàn chuyện
trò. Ông Bố mở chai, Bà Mẹ đưa thức ăn lên. Ông đội trưởng uống cạn chén rượu.
Ông Bố cũng vậy, rồi Bà Mẹ cũng thế. Aliôsa không hiểu sao không uống, chỉ ngồi
ăm giăm bông và bánh mì. Thằng bé quăng mẩu bánh ra giữa sàn nhà, nhưng Bim
không nhúc nhích khỏi chỗ (đáng lẽ phải nói “Ăn đi”).
- Con chó thông minh thật,
- ông đội trưởng mặt đỏ bừng nhận xét, - bánh mì nó không ăn.
Ả gà mái tập tễnh nhảy ra
và tha đi mẩu bánh mì dành cho Bim. Mọi người phá lên cười, riêng Bim thì vẫn
chăm chú nhìn Aliôsa: nó đâu có thể cười được một khi sự hiểu biết lẫn nhau
không có ngay cả trong bầu không khí thân tình đi nữa.
- Aliôsa, khoan đã, - Ông
Bố nói, ông đặt mẩu bánh mì xuống sàn, đuổi con gà đi, và quay về phía Bim, bảo
nó: - Ăn đi! Tai Đen! Ăn đi!
Bim tiến lại ăn miếng
bánh ngon lành và vui vẻ, mặc dù nó đã no bụng.
Ông đội trưởng cũng đặt
miếng giăm bông xuống như thế
- Không được! - ông Bố
nói chặn.
Bim ngồi yên. Ả gà mái
nghiêng nghiêng, ngó ngó, tập tễnh đến gần miếng giăm bông, nhưng mới định mổ
thì Bim phì phì dọa, mõm nó chỉ tí nữa là húc vào ả. Con gà lẩn ngay vào gầm
giường.
Tóm lại, một cảnh tượng
thật ngộ nghĩnh.
- Tai Đen, ăn đi! - Ông đội
trưởng cho phép, Bim lễ phép đến ăn miếng giăm bông.
- Đủ rồi! - ông Bố kêu
to. Ông nói oang oang, và rượu vào lại càng trở nên hiền hậu hơn: - Con Tai Đen
này quả là một kỳ quan siêu thường! - Và ông còn ôm hôn nó nữa.
“Những người tốt đây”,
Bim nghĩ bụng. Nó còn thấy thích cả bộ ria mép của ông Bố, bộ ria mà nó cảm thấy
mềm mại, mịn như tơ lúc ông ôm hôn nó.
Tiếp sau là một cuộc nói
chuyện, trong đó nó chỉ hiểu có độc một miếng: “Cừu” - thế nhưng nó xác định được
ngay rằng hai người đàn ông này bắt đầu
tranh cãi với nhau.
- Nào, ông Khrixan
Anđrêvits, ta vào việc thôi, - ông đội trưởng đặt tay lên vai ông Bố, nói. - Cừu
có cần ăn hay không?
- Cần chứ, - ông Bố đáp,
- nhưng chỉ có điều là hạn của tôi đã hết. Hạn của tôi là đến ngày Lễ xá tội,
mà ngày Lễ xá tội thì qua rồi.
- Cừu là cừu cá nhân, của
riêng, không phải của chung nông trang, nhưng chúng cũng cần được nuôi vỗ. Nông
trang viên nói rát tai tôi lắm: Tuyết thì chưa có, thức ăn ở dưới chân vẫn còn
nhiều, cho nên cần chăn dắt chúng ra bãi cho đến khi có tuyết.
- “Chăn dắt cho đến khi
có tuyết”. Thế ông bảo tôi là mình đồng da sắt à? Thằng Aliôsa cũng da sắt à?
- Thì hãy cứ đến mùa tuyết
đã, ông Khrixan Andrêvits ạ, - người đội trưởng khắng định, - chúng tôi sẽ trả
lương gấp đôi. Hiểu chưa?
- Tôi không làm đâu, -
ông Bố cũng khẳng định. - Bà nhà tôi
để chua cả củ cải ra rồi. Cần phải đỡ bà ấy một tay chứ. Còn ông thì cứ một mực:
“Cho đến khi có tuyết”.
Nhưng cuối cùng họ vẫn đập
vào tay nhau đi đến thỏa thuận hoàn toàn và đã chấm dứt chuyện “chăn cừu cho đến
khi có tuyết”. Rồi cả ba cùng tiễn chân ông đội trưởng ra ngoài cửa, quên khuấy
Bim đi.
Ờ thế thì nó cũng đi ra cửa,
chạy một vòng quanh sân rồi dừng lại bên hàng rào, đứng đó, hít hít mùi hơi cừu,
cái mùi gắn với một trong những kỷ niệm về người thân thương duy nhất của nó.
Và nó ngồi xuống phân vân.
Đêm. Đêm mùa thu ở làng
quê tối tăm, vắng lặng, lẩn tránh mùa đông mặc dù vẫn chuẩn bị chờ đón nó. Về
cái đêm ở đây Bim chưa hay biết một tí gì cả. Vả lại nói chung thì chó không
thích đi lang thang trong đêm tối (trừ phi là những con chó vô chủ, tránh né
người, mất lòng tin vào người). Nhưng Bim... Còn nói gì nữa! Lúc này Bim đang
hoang mang. Nhưng Aliôsa, Aliôsa cũng là một cậu bé tốt bụng đáo để.
Tiếng gọi của Aliôsa đã cắt
đứt sự hoang mang của Bim. Cậu bé lo ngại gân cổ lên gọi:
- Tai Đe-en!
Bim chạy lại và theo sau
chủ vào phòng ngoài. Aliôsa đặt nó vào ổ, chèn thêm cỏ khô vào hai bên sườn, vuốt
ve nó, rồi bỏ đi ngủ.
Mọi vật đã lắng xuống. Chẳng
thấy tiếng xe điện, lẫn tiếng ô tô buýt, cũng như còi tàu. - Không có gì là
quen thuộc cả.
Bắt đầu một cuộc sống mới.
Hôm nay Bim mới vỡ lẽ ông
Bố còn có tên Khrixan Anđrêvits và cũng là người cha, Bà Mẹ là Petrôvna. Còn
Aliôsa vẫn là Aliôsa.
Ngoài ra đối với ả gà mái
thì nó không khinh, nhưng cũng không tôn trọng: theo kiểu suy luận của chó thì
đã là loài chim tất phải biết bay, mà con này chỉ toàn đi chân thôi, do đó ả
không xứng đáng được kính nể, coi như con chim không có cánh, hơn nữa lại có tật.
Nhưng cừu kia kìa: có cái gì làm Bim bỗng nhớ đến Ivan Ivanưts; người Aliôsa
cũng toát ra mùi cừu... Người bà Petrôvna thì mùi ruộng đất và củ cải, mà những
hương vị như thế lúc nào cũng làm cho Bim hồi hộp. Biết đâu Ivan Ivanưts chẳng
cũng sẽ đến đây.
Nằm ấm sực trong đống cỏ
thơm phức, Bim ngủ thiếp đi. Nằm trong cỏ ấy, cái cỏ mà hương thơm làm cho miệng
tự nhiên nở ra nụ cười thì cả đến con người cũng ngủ thiếp đi ngay, và cũng do
hương thơm của thứ cỏ khô còn tinh tươm ấy mà trong mắt người thấp thoáng hiện
ra một màu xanh da trời trước lúc chợp mắt. Mũi Bim tinh hơn mũi người nhiều,
cho nên mỗi sắc thái tinh tế của cái hương thơm ấy đều làm nó khuây khỏa, dịu bớt
nỗi đau buồn.
Tiếng gà gáy đã làm Bim
thức giấc. Đã nhiều lần nó được nghe tiếng gà gáy rồi, nhưng chưa lần nào gần
như thế. Mà tiếng con gà này gáy lại sát bên tường, oang oang, ngân dài và kiêu
hãnh: “Cúc cù cu cù u.u.ù...”. Thế là tất cả gà trống trong làng đều cùng lên
tiếng hưởng ứng nó. (Về sau Bim đã nhận ra là con trống ấy lĩnh xướng và những
con như thế thường hay cáu kỉnh). Bim ngồi đấy và nghe thứ âm nhạc kỳ lạ ấy, nó
lan xa đi khắp làng thành từng làn sóng, lúc gần, lúc xa, tùy thuộc ở chỗ đến
lượt con nào gáy tiếp, có lẽ thế chăng. Còn tiếng gáy cuối cùng, lẻ loi, là tiếng
gáy của một anh gà nhãi nhép bất lực nào đó, nghe khàn khàn, cụt lủn, chẳng ra
vẻ gì một anh gà trống đáng kính trọng cả. Sau này với thời gian, Bim đã phân
biệt được rằng chính những con gà trống ấy là những con hèn nhát, thậm chí đã bỏ chạy trước những chú gà
trống khác đột nhập vào địa phận sân nhà mình, mặc dù theo luật của cuộc sống
xã hội loài gà thì con nhát gan này có nhiệm vụ phải bảo vệ cuộc sống yên bình
cho bầy gà mái được nó cai quản. Thế mà vị thần tượng ấy lại bỏ chạy. Cũng
chính vị này thường lại bắt nạt một cách không thương xót các con gà con ở đâu
đến - nó mổ chúng, cái đồ khốn khiếp ấy. Phàm đã là con gà trống chưa mất hết ý
thức về phẩm giá riêng thì không bao giờ lại đi mổ gà nhép ở đâu lạc tới cả.
Chính con gà đó đã gáy sau cùng và chỉ gáy khi xem ra nó đã yên chí là mình
không gáy nhầm giờ. Cũng vì vậy mà người ta thường gọi loại gà trống nhãi ấy là
con hoạt đầu, còn Bim thì chỉ thấy buồn cười mà thôi. Nhân đây cũng cần nói
thêm rằng nhìn chung do thiếu kinh nghiệm, Bim không thể nào hình dưng nổi là
có người lại đi dựa vào cái con gà ẽo ợt, dở trống dở mái ấy mà xem giờ giấc.
Bim lại nằm xuống, ngủ gà
ngủ gật. Chợt giọng cầu kinh nổi lên, lan ra từ đầu này đến đầu kia, bay đi khắp
làng. Bim lại ngồi lên và nghe với một cảm giác vô cùng thú vị. Sau đó đến lần
thứ ba, tiếng cầu kinh càng to hơn, mạnh hơn và quả thật là trang trọng hơn.
Chà, hát hay thật! Thế mới gọi là hát chứ! Nhưng người ta đang làm gì ở cái nơi
xa xa nào ấy nhỉ? Chịu, không thể đoán ra được. Tạm thời Bim chưa thể biết được
đó là bản hợp xướng nhiều bè ở trại gà vịt của nông trang, theo những nốt nhạc
không viết ra thành bài bản, một hợp ca của các chàng gà trống bảnh trai, đầy vẻ
tự tin, lông trắng phau như bọt nước. Lúc đó, nếu không bị giam cầm ở phòng
ngoài, nhất định Bim sẽ chạy đi xem và đến gần thêm chút nữa để thưởng thức điều
kỳ thú kia. Nhưng phòng ngoài là cái lồng giam nó.
Qua khe cửa, một tia nắng
thu màu tím nhạt lách lần vào một cách yếu ớt, tí một. Bim đứng dậy, đi quanh
phòng dò xét: một cái thùng đựng thóc, ở góc phòng là cái cót đựng bắp, góc đằng
kia là bắp cải. Hết.
Bà Pêtrôvna tay cầm xô bước
ra. Bim chào bà. Bà đi ra sân, Bim cũng ra sân theo gót. Bà ngồi xuống cạnh con
bò, Bim cũng ngồi xuống gần đấy. Những tia sữa va vào thành xô bật thành tiếng,
Bim giậm giậm hai chân trước tỏ vẻ ngạc nhiên: sữa! Con bò cái đứng yên, mồm cứ
nhai nhai, chẳng có gì cũng cứ nhai. Cái bầu sữa đáng yêu, sống động, với những
núm vú đã mở miệng, dường như thì thầm, róc rách.
Bà Pêtrôvna vắt sữa xong,
gọi Bim lại (“Tai Đen”), đổ cho một bát sữa và nói: “Không được”, đứng một lát,
bà lại nói: “Uống đi”; và cất tiếng cười đôn hậu, rồi vội vã vào nhà.
Ôi lạy Chúa, sữa đâu mà
tuyệt đến thế! Một thứ sữa âm ấm, thơm phức thôi thì đủ các thứ hương vị, nào cỏ,
nào hoa, nào đồng nội. - Tất cả hòa lẫn vào nhau và (lần này thì chính xác trăm
phần trăm) cả mùi bàn tay người của bà Pêtrôvna nữa chứ. Không phải mùi tay người
nói chung, như chiều qua Bim cảm thấy từ xa.
Bim đã uống hết, liếm đi
liếm lại, rồi làm vệ sinh buổi sáng, sau đó nhanh chóng chạy đi quan sát khắp
sân.
Ả bò cái tiếp nó với niềm
tin tuyệt đối, thậm chí còn liếm lên đầu nó. Vì thế mà Bim cũng lấy lưỡi chạm
vào cái mũi ram ráp, thơm phức mùi sữa của ả.
Bầy cừu phía đằng sau tấm
vách giậm chân gõ móng như đe dọa Bim, nhưng rồi cũng trấn tĩnh lại ngay, khi
đã xác đinh được rằng Bim không hề có ý đồ gì gây hấn cả. Ả lợn nái cùng với
hai chú ỉn con thoạt đầu không thèm để ý gì đến Bim, chỉ cứ ủn ỉn chuyện trò với
nhau một cách mỉa mai, mà cũng chẳng buồn động đậy nữa, mặc dầu đã quay cả đầu
ra phía Bim, ngay sát chấn song cửa. Lũ bốn chân tiếp đón Bim như vậy đấy.
Nhưng sang đến bọn gà thì, ối chao ôi! Thực ra không phải cả bọn gà mà chính là
con gà trống đó. Vừa bay từ trên hàng giậu xuống là nó lập tức vỗ cánh và càu
nhàu dữ tợn: “Cục cục - cục - cục”. Rồi lao luôn vào Bim như một con diều hâu.
Chú gà trống đỏ với cái mào cũng đỏ dùng ngực và cựa xông vào đánh chó (các chú
gà trống là như vậy đó!) Bim gầm gừ đáp lại và vung cẳng đá một cái thẳng thừng.
Thì vào đúng cái tích tắc ấy chú gà xõa cánh ra, cúi rạp đầu chạy ra góc sân, tới chỗ bọn
gà mái đang túm tụm lại thành một đám nhớn nhác những khán giả ủng hộ chú. Chú
bỏ chạy trước Bim một cách vô cùng nhục nhã, nhưng khi quay trở lại lao vào Bim
đã lại hảo hán rồi; mà còn quát tháo nữa chứ: “Để tôi cho nó một trận! Biết tay
ông! Biết tay ông!”. Bọn gà mái đem hết sức gà ra đồng thanh công nhiên cổ vũ chú gà trống. Các
bạn nghĩ thế nào nhỉ? Muốn nói gì thì nói, Bim chưa từng bao giờ được thấy một
con chim xông vào đánh chó một cách dũng cảm như vậy. Và cái đó dẫu sao cũng đã
nói lên một điều gì rồi.
- Cái gì mà loạn xạ lên
thế? - Khrixan Anđrêvits ở trong nhà bước ra sân, hỏi và bảo lũ gà: - Chúng
bay, im mồm! Cái bọn nỏ mồm này làm chó sợ. - Ông cầm lấy cổ dề Bim, dắt nó đến cho lũ gà, đứng ở
đấy với Bim một lát rồi thả nó ra.
Bim bỏ đi và ngoái đầu lại:
Kệ xác chúng mày!
Từ đó gà trống, gà mái
không lại gần con chó nữa. Bảo sợ thì đặc biệt chúng không sợ, nhưng cứ cái kiểu
một ả nọ kêu lên cục cục, rồi lảng ra xa nhường lối cho Bim đi. Còn Bim thì thế
nào? Bọn gà này chỉ đi, không bay, không bơi. Thêm nữa chẳng ai bắn chúng, - có
nghĩa chúng không phải là chim, thôi thì cứ tạm gọi là một giống vật rất buồn
cười. Con gà trống thì tất nhiên, coi bộ được đấy: nó bay lên mái nhà này, nó
báo động có người lạ đến này, chưa biết chừng còn sớm hơn cả Bim, và nó lại chỉ
huy chững chạc nữa: bắt được giun nó không ăn, mà gọi bọn bề dưới đến, thậm chí
có khi còn phân chia cho chúng. Vì vậy chú gà trống hoàn toàn xứng đáng với
danh hiệu của mình.
Do một tuần nay Bim tạm
thời chưa được thả ra khỏi sân nên coi như mặc nhiên đã trở thành người đứng đầu
ở đây: nó cứ nằm giữa sân và đưa mắt theo dõi. Bọn gà thì đến ngày thứ tư nó đã
thuộc mặt tất và khi có ả gà mái nào bay qua hàng rào vào thì nó đuổi, đuổi đến
mức ả kia còn phải cục ta cục tác hồi lâu, lúc thì chạy quáng quàng, lúc thì
quay lại đứng giậm chân tại chỗ, sợ hãi và tò mò nhìn quanh. Nực cười, không
hơn không kém!
Có một chú ỉn con, chú
này đã tự mình ngỏ ý làm thân: Chú đã đến bên Bim, kêu ịt ịt, khe khẽ chạm cái
mũi ươn ướt vào cổ Bim và nhìn chó ta bằng đôi mắt nhỏ trắng dã, hơi đần đần.
Bim liếm vào mũi nó. Chú ỉn vô cùng hài lòng. Chú nhảy cẫng lên thích thú rồi cứ
loanh quanh bên Bim, dũi đất ngay dưới chân nó. Bim độ lượng dịch sang chỗ
khác, nhưng chú ỉn lại đi theo: chú làu bàu cái gì chẳng rõ (giống lợn và giống
chó không hiểu được nhau, chẳng khác gì những người ngoại quốc vậy), và lại còn
nằm dựa vào cái lưng ấm áp, có lớp lông tơ mịn màng của Bim. Bởi thế nên một
hôm trời lạnh, Bim thấy ớn ớn người (cửa vào phòng ngoài ban ngày đóng kín) cả
nhà chẳng ai ngạc nhiên khi thấy Bim chen vào nằm giữa bầy lợn con trong lớp ổ
mềm, được sưởi ấm cả hai bên sườn. Cái tình hữu ái đó không những không bị lợn
mẹ phản đối, mà ngược lại, mỗi lần Bim bước vào nơi ở của chúng, lợn mẹ còn rên
lên ồm ồm, vì trong lòng dào dạt tình
tương thân tương ái, chứ hoàn toàn không phải vì đau đớn. Vả lại cái đặc điểm ấy
của ngôn ngữ lợn, Bim đã nắm được một cách không khó khăn gì, mặc dù sau này
trong khoa ngôn ngữ nó chẳng tiến thêm được bước nào nữa. Có lẽ biết ngôn ngữ
cũng chưa phải là quan trọng đến thế. Chó và lợn là hai giống khác nhau về mọi
mặt, tuy nhiên cái đó cũng không cản trở chúng sống hòa thuận và yên bình.
Người ta cho Bim ăn rất
ngon, thế nhưng, ngoài cái đó ra, bầy lợn con đã lớn, cao bằng nửa Bim, cũng
không phản đối nếu Bim đôi khi có nếm thứ thức ăn của chúng trong máng. Mỗi
sáng Bim được uống gần lít sữa, ở đây từng ấy không thấm vào đâu. Tưởng như đối
với chó thì còn cần gì nữa? Thế nhưng sân vẫn là sân, vẫn là cái chuồng trại có
hàng rào vây kín, cửa lớn cửa bé lúc nào cũng đóng kín mít. Đâu phải việc của
chó săn là nằm một chỗ, canh giữ đàn gà, dạy bảo lợn con, - không, không phải vậy,
nhất là Bim của chúng ta, con chó có tài đánh hơi xuất sắc như mọi người đã biết.
Giờ đây nó đã quen thuộc
với mảnh sân, với cư dân của cái sân đó, nó chẳng lấy gì làm ngạc nhiên trước
cuộc sống no đủ này. Thế nhưng mỗi lần gió từ ngoài đồng cỏ thổi đến, Bim lại
thấy bồn chồn đi đi lại lại từ hàng rào này đến hàng rào kia, hoặc đứng thẳng
lên trên hai chân sau, vịn vào hàng rào đó. Ý như muốn vươn lên cao, dù chỉ đôi
chút, nhìn lên bầu trời, nơi có bồ câu đang bay lượn, nhẹ nhàng và tự do. Có
cái gì day dứt trong lòng, và nó lờ mờ đoán ra rằng sự no đủ và đối đãi tử tế vẫn
chưa phải là điều quan trọng nhất.
Ôi, bồ câu ơi, bồ câu,
chúng bay đâu có biết gì về một con chó no đủ trong cảnh ngộ bị nô lệ!
Bim còn cảm thấy rằng
lòng tin đối với nó không có, vì người ta không chịu thả nó ra. Cứ sáng sáng
Khrixan Anđrêvits cùng với Aliôsa, mình khoác áo mưa, tay cầm gậy, lại xua đàn
cừu ra khỏi sân và đi với chúng suốt cả ngày. Còn Bim có muốn xin thế nào cũng
vẫn bị để lại trong sân.
Thế rồi một hôm, Bim đang
nằm, thò mõm ra ngoài hàng rào, thì thấy ngọn gió đem tin đến: có đồng cỏ, xa
hơn tí nữa ở đâu đó lại có cả rừng. Thế ra tự do ở ngay sát nách nó! Nó nhìn
vào khe rào - một con chó chạy ngang qua. Đến lúc này thì nó không thể chịu được
nữa, liền ra sức đào bới, lao động cật lực: chân trước đào móc đặt dưới bụng,
chân sau hất đất ra xa; toác cả móng vẫn cứ đào bằng được, sức yếu dần cùng mặc.
Không biết chuyện gì sẽ xảy
ra sau đó, nhưng khi Bim đào đã gần xong thì đàn cừu về tới sân. Chúng nhìn thấy
đất dưới chân rào cứ bắn vọt lên, thì ùa trở lại phải cổng, nơi Aliôsa đang đứng
sau khi lùa đàn cừu ở đồng cỏ về. Các con cừu xô ngã Aliôsa và theo dọc đường
chạy tán loạn, chạy như điên. Aliôsa rượt đuổi theo chúng. Còn Bim thì không để
ý gì hết, cứ đào miết.
Chợt Khrixan Anđrêvits đi
đến, túm lấy đuôi nó. Bim nằm lặng đi trong lỗ, như chết rồi.
- Mày buồn hả Tai Đen? -
Khrixan Anđrêvits hỏi, khẽ giật đuôi nó, dường như mời Bim quay trở lại.
Bim bò lùi lại. Còn làm
sao được nữa một khi đã bị kéo đằng đuôi.
- Mày sao thế, Tai Đen? -
Khrixan Anđrêvits ngạc nhiên, đứng tránh sang bên, thờ thẫn. - Mày hóa dại rồi
sao?
Mắt Bim hằn lên các tia
máu, nó rùng rùng mình, cái mũi lắc lắc bên này bên kia, và thở gấp, dường như
vừa kết thúc một cuộc săn căng thẳng. Nó bồn chồn chạy khắp sân, rồi lại đến
cào cào cổng rào, mắt nhìn ngước lên Khrixan Anđrêvits.
Ông ta đứng giữa sân, suy
nghĩ lung lắm. Bim tiến đến chỗ ông ta rồi ngồi xuống và nói bằng mắt hết sức
rành mạch: “Tôi cần ra ngoài kia, ra ngoài trời, thả tôi ra đi, thả đi!”. Nó khẩn
khoản rướn bụng lên và rít khe khẽ thiểu não, khiến Khrixan Anđrêvits phải cúi
xuống vuốt ve nó.
- Ôi chà, Tai Đen ơi, Tai
Đen! Đến chó cũng muốn tự do. Không được đâu! - Rồi ông gọi Bim vào phòng
ngoài, đặt nó nằm trên cỏ khô, lấy dây xích nó lại và đem đến cho Bim một bát thịt.
Thế là hết. Buồn quá! Cuộc
sống no đủ, nhưng thiếu tự do đã làm cho Bim chán ngấy.
Nó không đụng đến bát thịt.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét