Thứ Năm, 3 tháng 8, 2023

Quy Luật Của Muôn Đời - Chương 11

Quy luật của muôn đời

Tác giả: Nodar Dumbadze
Người dịch: Phạm Mạnh Hùng
Nhà xuất bản Văn Học - 9/1984

Chương 11

Gần hiệu thuốc ở phố Mêlikisvili, một nhóm thanh niên Vêre [Tên cũ của một quận ở Tbilixi] đã chuếnh choáng say đang tranh cãi náo nhiệt.
Cuộc tranh cãi bắt đầu từ khasi [Một món ăn rất phổ biến ở Kapkadơ]. Taiska chứng minh rằng khasi là thành tựu vĩ đại của nhân loại trong việc tìm kiếm những thứ làm giã rượu. Kôka và Kôpic ủng hộ anh ta. Kôpaka thiên về trà không có đường, Batsana chỉ thừa nhận chỉ có “borgiômi” [Tên các thứ nước khoáng], Borđơzêna thích “Nabêglavi” [Tên các thứ nước khoáng]. Còn Đatikô thì thích cô-nhắc và axpirin hơn. Sau khi kiểm phiếu chính thức, đương nhiên Tsiska giành được thắng lợi, tuy mỗi người tham gia bỏ phiếu vẫn gi ý kiến của mình. Tuy nhiên, còn một nhóm nữa cả quyết rằng phương tiện duy nhất triệt để làm giã rượu là tắm nước lưu huỳnh. Nhóm này không tham gia bỏ phiếu, vì họ chiếm đa số tuyệt đối và ở ngoài vòng đua tranh, vả chăng họ không thể tham gia bỏ phiếu được vì trung thành đến cùng niềm tin của mình, lúc này họ đang ở nơi họ cần có mặt: các nhà tắm nước lưu huỳnh.
Cuộc tranh cãi chuyển sang rượu vang, nhưng không lâu: địa vị đứng đầu được nhất trí tặng cho con số tám hồng phúc [Ý nói rượu vang No8 của Kakhêlin]. Tiếp đó, cố nhiên họ đề cập tới các vấn đề chính trị. Không đạt được sự nhất trí hoàn toàn, nhưng cuối cùng vẫn sắp xếp được ổn thỏa vị trí của các nhà chính trị và các tướng lĩnh hiện đang còn sống.
Sau chính trị đến bóng đá. Đến đây thì xuôi thuận cả. Trên toàn thế giới, chỉ có một người duy nhất đáp ứng được những đòi hỏi về thể thao và đạo đức của thanh niên Vêre: đó là Bôrin Paitsatzê [Cầu thủ bóng đá nổi tiếng một thời gian dài lãnh đạo “Đinamô” Tbilixi]. Họ cũng bàn cả về nghệ thuật: vẫn như mọi khi, ở đây uy tín của Berdơzêna thắng thế: vòng hoa nguyệt quế của người chiến thắng dành cho Sôta Ruxtavêli và Mikenlănggiêlô mà Berdơzêna gọi một cách trìu mến là Mikêla.
... Khi con gái của người bán dầu hỏa ở Vêre, cô Apônlôna Kapgiaxatzê Guranđa, một cô gái có cái cổ thiên nga và cặp đùi cao mĩ miều, đi qua trước mặt những người tham gia tranh cãi, làm cho linh hồn tội lỗi của họ bàng hoàng thì cuộc tranh cãi có chiều hướng di truyền học.
- Đấy kìa, thế này thì cứ phủ nhận vai trò của gien đi xem nào. - Tsiska reo lên bằng giọng thán phục, - Nhìn xem, có kém gì con giâyran [Một loại sơn dương] không?! Con cô ta sau này sẽ xinh đẹp biết nhường nào!
- Gien với giếc quái gì! Cứ cho tớ quần, giày dép và ăn uống như cô ta thì chính tớ cũng thành một anh chàng xinh trai! - Bằng một cái búng khéo léo, Kôpic bắn mẩu dưa chuột vào thúng rác.
- Ờ, đu-úng, cô gái quả là khớ! Con nhà nòi! - Berđơzêna trở lại đề tài chính. - Chỉ tiếc là người cô ta có mùi dầu hỏa...
- Chẳng hiểu ai đã nhận các cậu vào đại học nhỉ?! Các cậu đần độn thật! Chẳng lẽ cho đến giờ các cậu vẫn không hiểu là chẳng có gien, nòi giống và chủng tộc gì hết ư? Mọi người đều bình đẳng, còn sự đào luyện con người tùy thuộc vào hoàn cảnh sống và sự giáo dục! Lý thuyết chúng tộc đã đưa Hitle vào con đường diệt vong, vậy mà vì cô gái đẹp Guranđa kia, cậu lại muốn trở lại thuyết ấy ư? - Kôka nói bằng giọng dạy đời.
- Ai cũng từng nói như thế nhỉ? Công tước Amirêgibi [Dòng họ công tước lâu đời ở Gruzya]. Thật đáng xấu hổ, Kôka ạ. - Tsiska buồn rầu lắc đầu.
- Tớ cóc cần Amirêgibi! Tớ là người duy vật!
- Cậu không phải là người duy vật, cậu là kẻ hám rượu! Thế đấy! - Tsiska nói và giật điếu thuốc lá của Kôka.
- Các cậu nói những chuyện dớ dẩn làm gì thế! - Batsana bỗng bật lò xo. - Tớ giống bố tớ, bố tớ giống bố của bố tớ, ông tớ giống ông của ông tớ, đấy không phải là gen ư? Điều đó không phải là nói về nòi giống của tớ ư?!
- Có, nhưng còn tùy theo nòi giống thế nào chứ! - Kôpaka cười khúc khích.
Ai thì chẳng rõ, chứ Kôpaka [Tiếng Gruzya nghĩa là chó chăn cừu] thì không thể bảo là cậu ta không phải con dòng cháu giống. Kôpaka giống như đúc chân dung Ghêorghi Xaakatzê [Chính khách và tướng lĩnh xuất sắc của Gruzya (khoảng 1580 - 1629)] in trên sách giáo khoa lịch sử Gruzya. Thân hình lực sĩ, vai rộng hiên ngang, hai mũi nở phồng như mũi con ngựa đua Ả-rập, mắt rất to, Kôpaka chưa hề thấy có ai địch nổi mình về khoản đấm đá, tính từ Vêra cho tới tận Naptơguli.
- Phủ nhận gene là hợp ý những kẻ vô tông tộc hơn ai hết! - Tsika tuyên bố.
- Vậy ra tớ và Koplic là những kẻ vô tông tộc à? Ý các cậu là như thế phải không? - Kôka mếch lòng.
- Sao, cậu hóa điên rồi chắc? Chính cậu chứng minh rằng không có chủng tộc, gene và dòng giống gì hết, thế mà bây giờ cậu lại hằm hè với chúng tớ à?! - Kôpaka xạc anh chàng.
- Thôi đừng nhao nhao lên nữa! Giáo sư Imêdasvili đang đi kia kìa, ta sẽ hỏi giáo sư! - Berđơzêna vỗ về những người đang tranh cãi.
- Nhưng ai sẽ hỏi? - Kôplic thắc mắc.
- Kôpaka. Cậu ấy là người dòng dõi nhất trong chúng ta! - Batsana châm chọc.
- Sao lại tớ? Để Berđơzêna hỏi! - Kôpaka từ chối dứt khoát.
- Không! Tớ nhường cái vinh dự ấy cho Tsiska. Xin thêm là cậu ấy nom rất giống một sinh viên chuyên cần! - Berđơzêna thoái thác.
- Được, tớ đồng ý! - Tsiska tách khỏi nhóm và chuẩn bị tới gặp giáo sư, ông đi thong thả, chiếc cặp màu đen cắp dưới nách.
Giáo sư đi qua chỗ mấy chàng thanh niên, thậm chí không để ý gì đến họ. Tsiska chạy tắt ngang tới gặp ông và kính cẩn chào:
- Kính chào giáo sư!
- Chào anh! - Giáo sư đáp.
- Xin giáo sư thứ lỗi... Chúng em tranh cãi về một vấn đề và chúng em muốn biết ý kiến giáo sư...
- Sao lại thế... Ngay ở đây, giữa đường phố thế này ư? - Giáo sư bối rối nhìn quanh và sửa lại kính.
- Xin mời giáo sư lại đây! - Tsiska khoác tay giáo sư và dẫn tới gần các bạn. Các bạn anh lễ phép dãn ra, nhường cho giáo sư một chỗ bên bức tường đã tróc hết lớp trát.
- Tôi nghe các anh đây! - Giáo sư chuyển cái cặp từ tay nọ sang tay kia.
- Dạ, thưa giáo sư Ectime Nikôlaiêvits, - Kôplic mở đầu. - Ở đây chúng em vừa tranh cãi về việc có gene, có dòng giống không, có thể nói là như vậy. Tsiska bảo rằng...
- Ai? - Giáo sư hỏi lại.
- Tsiska!
- Là cái gì vậy?
- Tsiska là anh này đây ạ! - Kôplic đặt tay lên vai bạn. - Tên cậu ấy là Đavit, chúng em gọi cậu ấy là Tsiska.
- Hiểu rồi. Thế Tsiska nói sao?
- Cậu ấy và Kôpaka bảo rằng...
- Kôpaka là ai vậy?
- Anh này ạ!
- Trong giấy chứng minh cũng ghi là Kôpaka à?
- Dạ không, trong giấy chứng minh cậu ấy tên là Tenghix! - Berđơzêna đáp.
- Còn đây là ai?
- Đây là Berđơzêna.
- Người Hi lạp à? [Tiếng Gruzya nghĩa là người Hi Lạp]
- Không ạ, người Guzya! [Một tỉnh của Gruzya]
- Sao?
- Người Gruzya.
- Tên anh là gì?
- Mêráp.
- Còn anh?
- Kôplic.
- Ơn trời, cuối cùng tôi đã nghe thấy những tên bình thường!... Vậy anh cần gì, Kôplic?
- Em bảo rằng... Họ bảo rằng trong thiên nhiên có gen và nòi giống, còn em và Kôka...
- A - ha, lại còn cả Kôka nữa ư? Có nước hay khan? [Chơi chữ: “kôka” tiếng Gruzya nghĩa là “cái bình”] - Giáo sư hỏi và phá lên cười vì câu nói đùa của mình. Cả các chàng trai cũng cười phá lên, họ thích thú vì đã làm cho giáo sư vui.
- Vậy là anh và Kôka cho rằng có chủng tộc và có gene. Đúng không?
- Đúng thế ạ! - Kôplic gật đầu.
- Các anh nói đúng!... Lý thuyết chủng tộc là phản khoa học, phản động. Đấy là lý thuyết phát xít. Còn về di truyền học nghiên cứu tính di truyền và biến dị của các cơ thể thì ở đây vấn đề có hơi khác...
- Xin lỗi giáo sư, - Berđơzêna ngắt lời ông. - Thế còn những động vật giống thì sao? Người ta vẫn gây những giống ngựa tốt nhất kia mà? Ở vườn hoa Alêcxanđrơ của chúng ta đấy, người ta tổ chức những cuộc triển lãm đặc biệt những con chó nòi, tặng huy chương cho chúng nữa kia!
- Anh tên là gì?
- Mêrap!
- Này, anh bạn Berđơzêna thân mến ạ, suốt nhiều thế kỷ, bằng con đường chọn lọc tự nhiên, trong giới động vật...
- Thế con người không phải là một động vật xã hội à? - Tsiska không để cho giáo sư nói nốt. - Trong nông nghiệp chẳng phải là chúng ta vẫn chọn giống, lai giống, gây giống mới đấy ư. - Các bạn trẻ ơi, sao các bạn cứ như cái radio, chỉ biết nói, không biết nghe vậy?! - Giáo sư giơ hai tay lên và buông rơi chiếc cặp.
Batsana từ nãy vẫn im lặng, liền nhanh nhẹn nhặt cái cặp lên, luồn nó vào nách ông và nói một cách nhũn nhặn:
- Kính thưa giáo sư, xin cho nghe ý kiến của thày...
- À-à... tên anh là gì nhỉ?
- Batsana.
- Thế này nhé, hỡi tất cả các chàng Batsana, Kôka, Kôplic, Berđơzêna, Tsiska và Kôpaka thân mến của tôi, những vấn đề như thế người ta không giải quyết ở đường phố... Xin mời đến giảng đường của tôi, từ năm đến sáu giờ, hoặc đến nhà, từ mười giờ tối đến sáng, chúng ta sẽ thảo luận, lâu bao nhiêu tùy ý các bạn. Bằng lòng chứ? - Giáo sư hỏi những chàng trai đang ngơ ngác.
- Nếu có thể được, chúng em sẽ đến nhà giáo sư, - Batsana đáp.
- Thế thì nhất!
- Người ta có cho chúng em vào không ạ? - Kôplic hỏi, liếc nhìn đôi giày cao cổ của mình.
- Tất nhiên! Chỉ cần các anh xưng tên: chúng tôi là các thanh niên Vêre đến gặp giáo sư.
- Tạm biệt, thưa giáo sư kính mến! - Tsiska chào chia tay.
- Chúc các bạn khỏe mạnh! - Giáo sư nhích chiếc mũ phớt lên một chút và tiếp tục đi đường mình. Đám thanh niên cúi đầu tỏ ý kính trọng.
- Ông ấy là người tốt, đáng tiếc lại là giáo sư! - Tsiska tổng kết cuộc nói chuyện.
- Các cậu ơi, Margô ngây dại đang đi kìa! - Berđơzêna bỗng kêu lên.
Margô - cô gái mà cả vùng đều biết - đi từ phía chợ Vêre, phía bên trái phố Mêlikisvili, vừa đi vừa vung vẩy hai tay và khe khẽ hát một bài vui vẻ:
Tàu lướt sóng biển khơi
Tới bến bờ hải ngoại.
Đem về tặng phẩm quý.
Ơi con tàu mến thương!
Khabarđa [Tránh ra!”, “nhường đường!” - Tiếng lóng thành phố]! Margô của Vêre đấy! - Đôi lúc nàng ngừng hát, rồi lại tiếp tục:
Tôi sẽ khiêu vũ cùng các bạn
Cả điệu Iêzghinka, cả điệu tănggô.
Hãy đến đây ngắm nhìn
Nàng Macgô kiều diễm...
Margô say. Những người qua đường biết Margô đều mỉm cười chào cô, rồi quay đi, lắc đầu thương hại và tiếp tục đi. Những người không biết nàng thì lảng tránh người phụ nữ say rượu rõ ràng là không bình thường, vội vã rời khỏi hè xuống đường.
Đến chỗ các chàng trai, Margô đặt hai tay lên môi, rồi dang tay ra như đôi cánh, gửi cho họ những cái hôn gió.
- Margô say rạp đầu chào các chàng trai Vêre!
- Chào Margô! - Các chàng trai giơ tay lên chào nàng.
- Thế nào, các bạn thân mến, lại uống rượu cho rã con say hôm trước và trong túi lại chỉ có phân chuột thay cho tiền phải không? Đến chỗ tôi, các bạn quý hóa của tôi, chúng ta sẽ xuống Tantxơ-Ghêurôc, tôi thết các bạn chầu bia! - Margô lấy trong cooc-xê ra mấy tờ ba mươi rúp, khua lên trong không khí. - Đi đi, đừng ngại! Rồi ngày mai các bạn sẽ lại thết đãi tôi mà!
- Margô thân mến, đi đi, về nhà nghỉ ngơi đi. Chúng tôi uống đủ rồi, - Kôpaka nài nỉ nàng.
- Chà-ng ơi, cưng ơi, tôi biết đi đâu được, mái đầu khốn khổ của tôi phải kính cẩn cúi xuống ở nơi đâu?! Cho tôi theo về với! Margô dở người cần một ông chủ chính như thế! Ai là người có thể chăm sóc Margô chu đáo hơn anh? Hãy lấy tôi làm vợ! Hãy thương tôi! Suốt đời tôi sẽ mơ ước về anh, ngôi sao của tôi! Cho tôi ôm bộ ngực tráng sĩ của anh dù chỉ một lần thôi! Hay tôi không xứng đáng với anh? Anh xem, vóc dáng tôi như thế nào và đồ lót của tôi có tuyệt không! - Margô một tay chạm vào đùi, tay kia vén áo váy, phô ra bộ đồ lót trắng như tuyết viền đăng ten. - Mai tôi sẽ mặc hàng Crép! - Nàng nhanh nhẹn vượt ngang qua đường và tới chỗ các chàng trai.
- Đi đi, Margô, về nghỉ đi! - Kôpaka ôm lấy vai người phụ nữ.
- Tôi chẳng cần gì hết, các anh ạ! Tôi sẽ lấy một người trong các anh. Tôi yêu tất cả các anh như nhau, sao lại nhăn răng ra thế, Berđơzêna? Chỉ có anh là tôi không muốn lấy! Tính anh quá đồng bóng, anh sẽ đầu độc tôi suốt đời! Tsiska thì lại là chuyện khác! Anh ấy là trí thức...
- Chị vừa bảo là chị yêu tất cả chúng tôi như nhau kia mà, - Batsana xen vào.
- Cả anh cũng ở đây ư, cậu bé côi cút đáng thương của tôi? Tôi sẽ đến thăm cậu, nhất định tôi sẽ đến! Tôi sẽ tắm rửa, chải tóc cho cậu, sẽ giặt áo, là quần cho cậu, rồi tôi sẽ ra về... Cậu giống ai vậy? Hãy soi gương xem.
- Thôi được, đủ rồi, Margô... Chị thấy đấy, mọi người đang xúm lại... Đi đi, bạn thân mến, tôi tiễn chị... - Kôpaka năn nỉ, khoác tay người phụ nữ.
- Tôi bất chấp thiên hạ!... Các chàng trai Vêre muôn năm! - Margô ôm lấy Kôpaka, kéo đầu anh vào ngực mình và cất tiếng hát:
Ta sẽ đi, anh yêu, ta sẽ đi,
Đôi ta cùng nhau đi khắp thế gian...
Đến góc phố, Kôpaka chia tay với Margô và để nàng đi. Anh đứng chờ một lát, khi biết chắc người phụ nữ về nhà, anh trở lại với các bạn.
- Này, này, Kôpaka, đừng có làm bộ mặt đưa đám! - Tsiska nạt nộ khi thấy bộ mặt rầu rĩ của bạn.
Margô ở cuối phố Pêtriasvili, trong căn buồng nhỏ nửa nổi nửa chìm ẩm ướt có hai cửa sổ.
Từ sân, bốn bậc thang gỗ dẫn vào buồng. Một chiếc bàn trải khăn, một chiếc giường sắt với những vòng mạ kền đã han rỉ, một cái tủ, hai cái ghế, một chiếc bàn là, tấm ván là - đấy là tất cả tài sản của chị. Trên cửa chính vào buồng có hàng chữ viết bằng phấn: “Margô điên” - tác phẩm của bọn trẻ ở sân. Chị không xóa và không giận chúng.
- Thứ nhất, đó là bàn tay thiên thần viết, thứ hai - đó là sự thực.
Mất bố sớm, Margô là con gái một của mẹ. Có nhan sắc, vóc dáng tuyệt đẹp, chị lớn lên trong tình yêu thương của cả khu phố, mỗi năm một kiều diễm hơn. Người Vêre tự hào về mỹ nhân của mình. Cứ như thế cho đến cái ngày bất hạnh năm 1936, khi trận lụt chưa từng thấy ào vào thành phố, quét sạch một nửa Nakhalôpka, cuốn băng mất cái nhà xay ở Pêxki [Nakhalôpka, Pêxki, tên cũ của các quận ở Tbilixi], dìm chết người trong các hầm của các nhà tắm nước lưu huỳnh. Hôm ấy mặt trời của Margô đã tắt, bánh xe hạnh vận của chị lăn xuống dốc.
Năm ấy, các bà già Vêre làm mối Vargô cho Vanô, con trai nuôi bác thợ làm đồ vàng Gôghia. Theo tập tục ở thành phố này thời ấy, phải làm lễ xem cô dâu: cô gái phải đến nhà tắm, ra mắt mẹ chồng và em gái chồng sau này trong trạng thái như lúc mẹ sinh ra cô, để không có sự lừa dối, không có chuyện người ta tráo đưa cho chú rể một cô gái khuyết tật. Cả bà mẹ chồng, cô em chồng và bà mẹ bất hạnh của Margô đều có tội với trời! Lại còn bày ra chuyện kiểm tra cái hay cái đẹp của một cô gái như thế kia chứ! Thỉnh thoảng, khi Margô chạy trên phố Pêtriasvili như một con đama, rồi tiếp tục đi trên phố Mêlikisvili, những người bán và người mua túm tụm ở cửa các tiệm buôn há hốc mồm nhìn theo cô bằng con mắt thán phục.
Sáng chủ nhật hôm ấy, người ta dẫn Margô vào nhà tắm công cộng của phụ nữ. Khi cô gái cởi hết áo váy, đứng trước bầy quạ vây quanh cô, đầu cất cao kiêu hãnh, những búp tóc đen như mun xõa xuống bộ ngực tròn căng, toàn thân trắng muốt và cân đối như bức tượng điêu khắc bằng cẩm thạch, khi các bà già sửng sốt vì vẻ đẹp của cô dâu, xì xào khen ngợi và chép chép những cái miệng móm thì những luồng nước ùa vào nhà tắm. Các bà các cô khiếp sợ, gào rú đâm bổ ra cửa, và đáng lẽ giật cửa về phía mình thì trong lúc kinh hoảng và nhốn nháo, họ dồn đống cả lại ở cửa và tự bịt mất lối ra. Trong nháy mắt, nước phù sa đục ngầu tràn ngập hầm. Tiếng la gào và tiếng khóc bặt hẳn... Lát sau, những người chạy đến cứu hiểu rằng chẳng còn ai mà cứu nữa... Liền đó, có người nào nhận thấy một cô gái với đôi mắt điên dại vì sợ hãi, dán người vào mạng song sắt trên trần một hầm nhà. Người ta bẻ gãy mạng song sắt, nhưng không gỡ ngay nổi hai bàn tay đã cứng đơ của nàng.
Margô nằm bệnh viện một tháng. Nàng chẳng nhớ gì hết: cả cái chết của mẹ và của những người họ hàng tương lai, nói chung cũng không nhớ đến trận lụt khủng khiếp, dường như ngày hôm ấy không hề có chuyện gì xảy ra... Mọi cố gắng của các bác sĩ nhằm làm cho cô gái tỉnh lại đều vấp phải sự im lặng ngây độn, dai dẳng của nàng... Sau đó người ta chuyển nàng sang bệnh viện chuyên khoa tâm thần. Margô ở đấy nửa năm. Cuối cùng, nàng tỉnh lại, bắt đầu nói, nhưng mọi người đều hiểu rằng cô gái đã loạn trí không cách gì vãn hồi được.
Suốt trong thời gian ấy, tên xỏ lá Vanô không đến thăm vợ chưa cưới lần nào, không bận tâm đến số phận nàng, không gửi tiền cho nàng.
Trở về nhà, Margô ngồi trong buồng mình suốt tuần, không cho ai vào. Một buổi sáng, hàng xóm nghe thấy tiếng hát từ buồng nàng vẳng đến. Họ dùng sức mạnh xộc vào buồng nàng. Margô ngồi bên bàn, trước mặt nàng là hai chai “Xaravi”, một chai cạn sạch, chai kia đầy.
Thấy hàng xóm vào, nàng mỉm cười cất tiếng hát:
Tôi sẽ khiêu vũ cùng các bạn
Cả điệu lêzghinka, cả điệu tăngô,
Hãy đến đây ngắm nhìn
Nàng Macgô kiều diễm...
Hàng xóm và những người quen bận bịu ngập đầu ngập cổ về những lo âu riêng, dần dần lãng quên tai họa của Margô. Chính nàng cũng quen với sự cô đơn của mình. Nhưng cô gái bị mọi người bỏ rơi không ra phố ngửa tay xin bố thí.
Nàng bắt đầu nhận quần áo lót của những gia đình phong lưu đem về giặt là. Tiền kiếm được hoàn toàn đủ nuôi sống nàng. Rồi tự hồi nào không hay, cô gái nghiện rượu vang. Nàng ăn vận bao giờ cũng sạch sẽ, tề chỉnh, ngày nào cũng thay đồ lót. Cứ sau mỗi lần lĩnh tiền thường kỳ, uống rượu say, nàng lại đi rong chơi trên phố, khe khẽ hát những bài ca ưa thích và vén áo lên trước mặt khách qua đường: xem này, tôi mặc đồ lót đẹp chưa! Liền đó, nàng nói tên người khách có bộ đồ lót ấy...
Dần dà, rượu bắt đầu có ảnh hưởng tai hại. Mặt Margô mất vẻ tươi tắn và màu hồng trước kia, hằn những nếp nhăn nhỏ. Bây giờ, khi thấy người phụ nữ tàn tạ quá sớm, say rượu, vừa hát vừa đi trên đường phố, chỉ có những người sống lâu năm ở khu phố lắc đầu buồn rầu nhớ lại thời thanh xuân và nhan sắc của nàng, cùng với phong thái kiêu hãnh và ánh long lanh của đôi mắt màu mã não.
Trong thời gian dân phố còn chưa quen hẳn với những thói quen của người phụ nữ điên, trong số họ có những người dám chế nhạo người phụ nữ xấu số, chính hồi đó Margô đã học được những câu chửi tục. Nàng ra giữa đường, văng vào mặt kẻ xúc phạm mình lời chửi tục tĩu đến nỗi người qua đường phải bịt tai lánh xa. Nhưng hễ thấy trên phố một đứa trẻ là nàng lập tức thôi chửi và bình tĩnh đi về nhà.
- Không ai có quyền làm bẩn tai thiên thần, ngay cả chính Thượng đế đi nữa! - Nàng nói.
Thêm nữa, suốt thời gian sống trong cảnh ngộ thảm thương. Margô không hề đánh mất danh dự và phẩm giá trinh nữ của mình. Bất cứ người dân nào của Vêre cũng có thể viện Phúc âm ra mà thề rằng nàng trong trắng như thiên thần.
Buổi chiều Margô đến nhà Batsana.
- Anh bạn côi cút của tôi, anh có nhà đấy ư? - Nàng lớn tiếng gọi, và vào buồng, không đợi trả lời.
Batsana ngồi bên bàn, chuẩn bị môn kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, đến thứ tư anh sẽ thi.
- Gì đây, Margô? - Anh hỏi, đặt bản ghi tóm tắt sang bên.
- Có gì giặt thì đưa đây! - Margô đáp và bắt đầu giở những trang ghi tóm tắt.
- Còn giặt giũ cái quái gì kia chứ! Có bao nhiêu tôi mặc ráo cả trên người đây này!
- Sẽ tìm được một cái gì đó! - Margô không chịu thôi.
Batsana mở tủ, ném xuống sàn hai chiếc sơmi cũ và chiếc quần cũ sờn.
- Xin làm ơn giặt cẩn thận cho, không giặt nó cũng đã bục rồi đấy. - Anh đề nghị, rồi lại chúi mũi vào bản ghi tóm tắt.
- Chẳng lẽ bài ghi của anh thú vị đến nỗi anh không thể rời lấy một phút ư? - Margô vừa hỏi vừa mở chiếc tủ con ăn vào tường.
- Rất thú vị, thêm nữa tôi sắp thi đến nơi rồi!
- Ngốc ơi là ngốc! Nếu thú vị thì người ta đã chẳng trả tiền cho anh để anh học, ngược lại người ta sẽ bắt anh phải trả tiền thì có! - Margô nói và bất bình sập cửa tủ lại. - Giữ trong phòng cái hòm rỗng tuếch này làm qué gì? Vứt quách nó ra sân cho xong!... Ở đây có cái gì uống không?
- Những giọt valêrian. [Thuốc an thần (N.D)]
- Hãy đem những giọt đó cho giáo sư của anh trước khi thi!
Margô cúi xuống, bắt đầu nhặt chiếc quần và những chiếc sơ mi. Lúc đứng thẳng lên, nàng ôm bụng, nhăn mặt:
- Đồ quỷ, không để cho người ta yên! - Rồi nàng trải rộng một chiếc sơmi ra và lắc đầu:
- Cái gì thế này: áo sơ mi hay khăn trải bàn? Tất cả thực đơn của Tants-Ghêurốc đều có ở đây! Anh không biết xấu hổ sao?
- Rất xấu hổ là đằng khác, Margô thân mến của tôi ạ, nhưng tôi biết làm thế nào được?
- Lấy vợ đi, ngốc ạ, lấy vợ đi!
- Vậy ư? Nhưng tôi lấy gì nuôi nàng, vợ tôi ấy mà?
- Ăn lẫn nhau!
- Được, tôi sẽ làm như vậy! - Batsana hứa.
- Mai tôi sẽ mang trả quần áo của anh. Chuẩn bị năm rúp! - Margô đi ra cửa. Bỗng nàng dừng lại, vén áo dài lên, cho xem chiếc quần đùi bằng vải crêp. - Này đoán xem, tôi mặc đồ lót của ai vậy?
Batsana nhún vai.
- Của Bộ trưởng văn hóa giao thông ngoại giao!
Margô thốt lên bằng giọng tự hào và rời khỏi buồng.
*
*    *
Chiều hôm sau, nàng không đến. “Hẳn là chị ta đã đánh chén say và đang ngủ bù ở đâu đó” - Batsana đoán chắc và thân hành đến tìm nàng.
Cửa buồng mở, đèn sáng. Margô mặc chiếc áo ngủ màu hồng có hình thêu, nằm trong giường. Mặt nàng đỏ bừng, mắt sáng quắc.
- A... a, anh bạn côi cút của tôi, tôi biết anh sẽ tới mà. - Nàng mỉm cười với Batsana, rồi lấy chiếc cặp nhiệt độ ở nách ra. - Này, xem hộ xem bao nhiêu? Tôi chẳng thấy gì cả, mắt chỉ toàn nhìn thấy những vòng tròn màu vàng...
Batsana nhìn cái cặp nhiệt độ và bàng hoàng: ba mươi chín độ chín.
- Chị sao thế, Margô?
- Tôi không biết, bạn thân mến ạ, tên đểu cáng nào cứ đâm, cứ khoan bụng tôi bằng cái xiên nóng bỏng... Rượu vang cũng như vôt-ka đều không làm đỡ chút nào... Tôi gắng chịu đựng đến chiều... Bây giờ thì quỵ... Bao nhiêu đấy?
- Cao... - Batsana đặt cái cặp nhiệt độ xuống bàn.
- Nhưng bao nhiêu mới được chứ?
- Ba mươi tám...
- Áo sơ mi và quần của anh ở trên bàn... Ơn trời, tôi đã kịp là... Mở tủ ra, lấy ít giấm, pha thêm nước thấm vào khăn mặt và đắp lên trán tôi... Đầu nóng rừng rực... Bộ óc khốn khổ của tôi lại đến thế này nữa thì thật là hết nước...
Batsana đáp ứng lời yêu cầu.
- Tôi sẽ đi lôi một người nào đến đây. - Anh nói.
- Ai?
- Một bác sĩ!
- Ai cần đến tôi, một kẻ dở người?... Ở chỗ họ người bình thường còn chết không được chăm nom nữa là... - Margô mỉm cười.
Batsana lẳng lặng ra khỏi phòng và cắm đầu chạy trên phố Pêtriasvili.
Mấy chàng trai đứng gần hiệu thuốc, oang oang tranh cãi gì không rõ.
- Margô sắp chết! - Batsana thở hổn hển, buột ra.
- Sao lại sắp chết là thế nào?! Hôm qua chị ta ở đây kia mà?! - Tenghix ngạc nhiên.
- Đúng thế, nhưng bây giờ sắp chết! - Batsana nhắc lại.
- Vô lý! Nói cho rõ đi! - Kôplic lắc anh.
- Tớ nói với các cậu là chị ta sắp chết rồi!
- Chị ta làm sao? - Tsiska hỏi.
- Đau bụng, nhiệt độ bốn mươi!
- Vì sao thế, Đatikô? - Kôpaka hỏi.
- Tớ không biết, Tenghix ạ. Cần một bác sĩ giải phẫu.
- Ta chạy đến tìm Satirisvili! - Kôka quát...
- Satirisvili là thằng khốn khiếp! Không có tiền, một bước hắn cũng chẳng chịu đi đâu, vả lại chắc bây giờ hắn ngủ rồi! - Berđơzêna nói và khinh miệt nhổ bọt sang bên cạnh.
- Cóc cần hắn! Mình đến bố của Văctangơ, bác Igơnati, bác ấy là người đứng đắn! - Tsiska thét to và lao đi.
Năm phút sau, mấy gã trai rón rén vào buồng Margô và lẳng lặng đứng xếp hàng bên giường. Người phụ nữ vật vã. Thấy các chàng trai, nàng ngạc nhiên chống khuỷu tay nhỏm lên, rồi lại vật mình xuống chiếc gối và bật khóc nức nở. Rồi nàng bật cười, tiếng cười hạnh phúc, nóng nảy:
- Các bạn thân mến của tôi... Tôi chờ các bạn và tôi đã không lầm... Các bạn quý hóa của tôi. Giãn ra đi, sao các bạn lại đứng như làm lễ cầu hồn vậy... Mong sao tất cả bệnh tật của các bạn trút cả sang cho Margô điên dại...
- Đừng sợ, Margô, Tsiska đưa bác sĩ đến bây giờ đấy. - Tenghix gắng lắm mới buột ra lời.
- Tôi cần bác sĩ làm gì? Bây giờ tôi không chết được đâu... Cơn đau đã hết, nhiệt độ cũng đã hạ... - Margô giật chiếc khăn ướt khỏi đầu, quẳng xuống sàn và vỗ tay.
Batsana nhúng ướt khăn và lại đắp lên trán người ốm.
- Anh bạn côi cút ơi, anh làm náo động anh em đấy phải không? Hãy xin lỗi anh em đi! Ngay bây giờ!... Ô-hô-hô! Có ai trong số người ốm, nhất là lại điên, đã từng mơ thấy những người như thế đến thăm mình chưa?! Hoan hô Margô! Margô cừ lắm! - Nàng òa khóc.
Các chàng trai đứng cúi đầu, không biết cất tay và mắt vào đâu.
Đã hơi yên tâm, Margô gọi Batsana:
- Kia, trên tủ có cái tráp gỗ. Đưa nó cho tôi... Thế... - Nàng đặt cái tráp lên ngực mình, nghĩ ngợi điều gì, rồi đưa cái tráp lên gần tai, lắc và mỉm cười sung sướng, mở nắp ra. Trong tráp có những chiếc nhẫn, vòng đeo tay, hoa tai và những vật linh tinh khác sáng lấp lánh.
- Mặt đá vô giá này đem từ Kabun, thủ đô Apganixtan về dành riêng cho nữ hoàng Tamar... - Margô lấy trong tráp ra một chiếc nhẫn nhỏ bằng đồng nạm thủy tinh xanh, trị giá hai rúp. - Tôi tặng anh, Kôpala... Khi nào lấy vợ, anh đeo cho vợ anh chiếc nhẫn này vào ngón giữa của bàn tay phải. Nói với nàng rằng nếu tôi trẻ hơn chút nữa thì nàng đừng hòng lấy được anh... Tôi cầu phúc cho anh!... Cầm lấy!...
Tenghix cầm lấy chiếc nhẫn, và Batsana thấy những cục u của anh ta chuyển động.
- Còn cái này tặng vợ anh, công tước Kôka Amirêgibi, những chiếc khuyên bằng san hô Ấn Độ... Nó hợp với người phụ nữ mặt trắng, tóc đen, mắt xanh... Cầm lấy, đừng ngại... - Margô bỏ vào bàn tay chìa ra của Kôka đôi khuyên đồ chơi đáng giá một xu.
- Còn cái vòng đeo tay bằng vàng này là của anh, Berđơzêna!... Công trình của những tay thợ lành nghề Đaghextan... Chiếc vòng tay như thế thích hợp với người vợ cao lớn, ngực tròn căng, mắt đen... Tôi tặng anh! - Berđơzêna kính cẩn nhận từ tay Margô cái vòng hình bầu dục dẹt phẳng làm bằng sắt tây đồ hộp và không thốt lên lời nào, chạy khỏi phòng.
- Còn cái này phần tôi! - Margô áp vào ngực mình một chuỗi hào bạc. - Suốt cả thời thanh xuân, tôi chưa hề xa rời chuỗi ngọc này, vì thế tôi không thể nhường nó cho ai... Đừng giận!... Batsana, lại gần tôi!
Batsana đến.
- Tôi dành cho anh viên ngọc bích Ba Tư này... Còn anh thì nên lấy một cô gái mồ côi nghèo, cô gái khác sẽ không hiểu nổi anh... Cầm lấy, và cầu trời cho anh hạnh phúc trong cuộc sống! - Batsana cầm lấy từ tay Margô chiếc cúc màu xanh da trời xâu bằng sợi dây thép. - Những thứ còn lại thì anh phân phát đi...
Batsana bê cái tráp đi khắp lượt trước các bạn, và mỗi người, không nhìn vào tráp, lấy ra một vật.
- Tôi mệt rồi... Vậy mà nó vẫn thọc và đâm bằng những cái xiên... - Margô rên rỉ và kiệt lực, ngật đầu ra phía sau.
- Gắng chịu một chút, Margô, bác sĩ sắp đến rồi! Đừng sợ! - Kôplic dỗ dành, tay đỡ cho cằm khỏi run.
- Ai bảo anh là tôi sợ? Tôi vẫn chờ mãi cái ngày này, như chờ mong mặt trời mọc... Đến đi, đến với ta, thần chết, đừng làm tình làm tội ta nữa!... - Margô nhắm mắt. Nước mắt chảy ròng ròng trên má nàng.
...
- Đến rồi! - Có người nào reo lên.
Giáo sư và Tsiska vào phòng.
Giáo sư gật đầu chào mọi người, rồi đến giường Margô. Ông ngồi xuống chiếc ghế người ta đưa ra cho ông ngồi, bắt mạch người bệnh, rồi đặt tay lên vầng trán bốc lửa của nàng. Margô mở mắt.
- Chào cô nàng thân mến! - Giáo sư mỉm cười.
Margô đưa tay dụi mắt và nhìn chằm chằm vào người mới đến.
- Cầu trời ban sức khỏe cho bác Igơnati kính mến! - Nàng đáp và cũng mỉm cười.
- Chị biết tên tôi à?
- Ai mà không biết? Một nửa Gruzya nhờ giáo sư mà được trở về từ thế giới bên kia!
- Mới non nửa thôi! - Giáo sư nói đùa. - Bây giờ xin cho biết, chị khó ở thế nào?
- Tôi phiền lòng vì mấy tay tướng cướp này dám quấy quả giáo sư giữa đêm khuya!
- Về chuyện ấy thì không ngại. - Giáo sư nói cho Margô yên tâm, - nghề nghiệp của tôi là phải như thế, ban ngày tôi sẽ ngủ bù... Xin cho biết, chị đau ở đâu, chỗ nào?
- Tôi cháy, bác sĩ ạ, cháy như đốt trên lửa...
- Cái đó bắt đầu từ bao giờ?
- Từ sáng... Không, hôm qua, hôm kia... Trước đây tôi làm giảm đau bằng Vôtka... Hôm nay thì tôi quỵ...
- Nào, bỏ chăn ra! - Giáo sư yêu cầu.
- Bác sĩ ơi, tuy tôi điên nhưng vẫn biết xấu hổ...
- Trong chừng mực nào đó, tất cả chúng ta đều điên, bởi vậy chúng ta không xấu hổ gì hết. - Giáo sư lầm bầm và lập tức tự tay lật tấm chăn. Các chàng trai quay đi. Giáo sư bắt đầu thận trọng sờ nắn bụng người bệnh bằng bốn ngón tay, hỏi: - Đau ở đây à?... Còn ở đây?... Ở đây?...
Margô bặm môi, im lặng. Chỉ sau khi giáo sư đã thăm bệnh xong, nàng mới rên rỉ:
- Đau khắp nơi, bác sĩ ạ, đau đến nỗi thà chết còn hơn...
Giáo sư gạt tấm chăn sang một bên, uốn gập chân phải Margô và chậm chạp kéo nó lên phía trên, tới gần bụng. Margô kêu thét lên. Giáo sư đứng nhanh dậy.
- Có máy điện thoại ở đây không?
Tsiska nhìn Margô, và dò hỏi.
- Ở nhà Đuglatzê, - Nàng rên rỉ.
- Gọi ngay về chỗ “cấp cứu”. nói rằng Igơnatijiki bảo gọi, yêu cầu cho xe đến đây ngay!
Tsiska chạy đi.
- Bệnh tôi nguy kịch ư, thưa bác sĩ? - Margô ngồi dậy trên giường.
- Đừng cử động, cô em thân mến ạ. Cô không được động đậy! - Giáo sư đặt Margô nằm xuống, khẽ vỗ vào má nàng. - Trước nay cô đã chữa ở đâu?
- Không sao, thưa bác sĩ, chết đối với tôi là một ngày hội. Xin đừng mất công...
Giáo sư đến ngồi bên bàn, hai tay đỡ lấy đầu và im lặng.
Kôka lén bỏ tiền vào túi ngoài áo vét của giáo sư. Không nhìn Kôka, giáo sư lấy tiền ra, đặt lên bàn. Rồi ông lấy ở trong túi trong ra một tập giấy bạc mười rúp, đặt cạnh số tiền kia. Đoạn ông đứng dậy và ra khỏi buồng. Các chàng trai ra theo ông.
- Có hy vọng gì không, thưa giáo sư? - Berđơzêna hỏi.
Giáo sư lắc đầu.
- Không có hy vọng gì ạ? - Tenghix hỏi lại.
- Một phần trăm...
- Cô ấy làm sao, thưa giáo sư?
- Viêm màng bụng.. thủng ruột thừa... Bị như thế thì hôm nay là ngày thứ ba... Lạ thật.
Mười lăm phút sau, xe “cấp cứu” đến. Người ta đặt Margô lên cáng và khiêng ra xe. Khi rời khỏi căn buồng nhỏ của mình, nàng quay về phía các chàng trai:
- Vĩnh biệt các chàng trai Vêre! Vĩnh biệt các bạn trẻ yêu quý của tôi! - Nàng bỗng nhỏm dậy trên cáng và cầu khẩn thốt lên: - Đừng đến nhà tắm nước lưu huỳnh!... Tôi van các bạn! Đừng bao giờ đến đấy! Đấy là lời trăng trối của tôi cho các bạn!
*
*    *
Xác được đưa ra vào thứ ba, từ phòng giải phẫu của chính cái bệnh viện mà Margô đã vào nằm trong ngày xảy ra trận lụt năm 1936.
Cả Vêre, các phố Pêtriasvili và Mêlikisvili đông nghịt người, người tò mò nhiều hơn người quen.
Chiếc quan tài ngập trong hoa, đặt trên cáng gỗ, được khiêng lên dốc Vêre bởi tám chàng trai, đi bên cạnh có tám chàng trai khác để thay thế. Đi trước quan tài là một chiếc ô tô kết hoa. Hoa nhiều đến nỗi tưởng chừng như một bó hoa khổng lồ sống động đang tự đi đến nghĩa trang.
Trên phố Mêlikisvili, dòng chuyển động dừng lại. Ô tô buýt, ô tô, xe điện đứng chết gí tại chỗ. Ở góc phố Peetriasvili, một số thanh niên làm cho đám tang ngừng lại năm phút. Một chiếc ô tô nổi còi, rồi chiếc thứ hai, chiếc thứ ba, bỗng nhiên cả khu phố tràn ngập tiếng còi ô tô inh ỏi, liên hồi.
- Chuyện gì quái lạ thế! - Người lái của một chiếc ô tô ngẫu nhiên lọt vào đám tang thò đầu ra khỏi ca-bin. - Định không cho chúng ta đi qua chắc?!
- Bấm còi đi! - Một chàng trai người khu phố nói với anh ta.
- Tại sao? - Người lái xe ngạc nhiên.
- Cần như thế!
- Cần là thế nào? - Người lái xe cãi bướng.
- Là thế này này! - Gã trai bấm còi.
- Bỏ tay ra! Ắc quy hết điện mất!
- Không sao! Chúng tôi sẽ đẩy xe. - Gã trai đáp, tay không rời nút bấm còi.
- Đám tang nhân vật cỡ bự nào mà phải bấm còi? - Gã lái xe nổi cáu, lại thò đầu ra khỏi cabin.
- Đám tang Margô ở Vêre...
- Ai?!
- Nghe đây, bảo gì làm nấy, chừng nào tay còn lành lặn! - Gã trai ấn đầu người lái xe vào cabin. - Hiểu chưa?
Tay lái xe hiểu rằng gã trai không đùa, và ra sức bấm còi. Chàng trai đến chiếc xe khác. Năm phút sau, cả chiếc xe đó cũng nổi còi. Chờ gã trai đi khỏi, người lái xe cả cười:
- Đám tang Gian Đa chắc?!
- Không, đám tang Margô điên! - Một người tham dự đám tang, đi qua đấy, đáp.
- Người điên à?! Đám tang người điên mà như thế ư?!
- Chúng tôi làm lễ tang như thế đấy! - Một người Vêre đồng nghiệp với anh lái xe trả lời anh ta.
- Hoan hô anh em! Sống trong một khu phố như thế này có chết cũng không ân hận! - Người lái xe hoan hỉ kêu lên.
Buổi chiều, quán rượu Tantx-Ghêurka đông nghịt các chàng trai Vêre. Các bàn bầy biện sơ sài: bánh mì, pho mat, rượu vang, củ cải. Không có người chủ trì. Khi ai nấy đã ngồi yên vị và trong hầm nhà bắt đầu lặng phắc như tờ, Tsiska đứng lên, rót rượu vang đầy cốc, rỏ mấy giọt xuống mẩu bánh mì và lên tiếng:
- Vì nỗi đau xót của khu phố ta, vì những giọt nước mắt và niềm vui sướng của khu phố ta, vì trang nhan sắc đã mất của khu phố ta!
Tất cả đứng lên và lẳng lặng cạn cốc.
Hôm ấy, trong nhà hầm Tanxt-Ghêurka, không ai nói thêm một lời nào nữa, không ai uống thêm một cốc rượu nào nữa.
*
*    *
- Kém, kém, Ramisvili ạ... - Giáo sư miễn cưỡng giở quyển sổ ghi điểm của Batsana. - Sao thế?
Batsana im lặng.
- Có chuyện gì thế, Ramisvili? - Không thấy anh trả lời, giáo sư hỏi.
- Em ốm, thưa giáo sư, em không kịp chuẩn bị...
- Không phải là ốm, mà là bận bịu với cô gái điên ấy!... Em tưởng tôi không thấy hôm qua em đi sau quan tài cô ta như người ruột thịt của cô ấy sao?
- Chị ấy không điên, thưa giáo sư! - Batsana bác lại.
- Thế chị ta là người thế nào? Vua Irakli ư? Quái lạ, cả khu phố như hóa rồ! Hai tiếng đồng hồ tắc nghẽn giao thông!
- Chị ấy ốm, thưa giáo sư, bệnh tâm thần! - Cảm thấy vị mặn mặn trong miệng, Batsana đứng dậy.
- Em đi đâu? - Giáo sư ngạc nhiên.
- Em sẽ đến lần khác, - Batsana khẽ đáp.
- Chị ta là chỗ thân quyến gì với em sao?
Batsana im lặng một lúc lâu, rồi nhìn giáo sư và nói:
- Đấy là chị ruột em...
Giáo sư chăm chú nhìn vào mắt Batsana. Không chịu nổi cái nhìn, Batsana cúi đầu xuống. Bắt đầu im lặng. Rồi giáo sư đóng quyển sổ ghi điểm lại, đưa cho Batsana và nói:
- Về đi, Ramisvili. - Chính ông đứng lên và tới gần cửa sổ.
Batsana bỏ quyển sổ ghi điểm vào túi và đi ra.
- Thế nào? Điểm mấy? - Các sinh viên vây lấy anh. Batsana không trả lời. Anh đi ngang qua hành lang, xuống thang, ra vườn trường đại học và ngồi xuống chiếc ghế dài lúc này không có ai ngồi. Batsana ngồi một mình hồi lâu, chẳng để ý đến ai và bất cứ cái gì. Rồi anh lấy quyển sổ ghi điểm của mình ra và buồn tay, anh mở quyển sổ.
... Đấy là điểm năm đầu tiên Batsana nhận được trong suốt cả đời anh.
Anh đóng sập quyển sổ lại, và lại mở ra, nhưng không nhìn thấy gì.
Mắt Batsana đẫm lệ.
Batsana khóc.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét