Con Bim trắng tai đen
Tác giả: Gavriil Troyepolsky
Dịch giả: Tuân Nguyễn - Trần Thư
Nhà xuất bản Văn Học - 2012
(Theo bản in của NXB Cầu Vồng - Moskva -
1989)
Chương 4
Rừng
vàng
Một
trong những ngày sau đó, từ sớm tinh mơ, hai thầy trò đã rời nhà ra đi. Thoạt đầu
là đi tàu điện, đứng ở đầu toa. Chị lái tàu thì ra là người Ivan Ivanưts và Bim
quen. Tất nhiên là Bim đã chào chị ta khi chị bước ra bẻ ghi. Chị beo tai nó,
nhưng nó không liếm tay chị mà chỉ giậm giậm chân ngồi xuống và đập đập đuôi
như trong trường hợp chào hỏi.
Sau
đó, ra đến ngoại thành rồi thì họ đi xe buýt mà vào cái giờ sớm sủa này chỉ có
cả thảy dăm sáu người ngồi. Lúc họ lên xe, người lái xe cứ càu nhàu cái gì, nhắc
đi nhắc lại cái tiếng “chó” và “không được”. Bim chẳng khó khăn gì mà không
đoán ra (nó nhìn mặt mà đoán): người lái xe không muốn chở hai thây trò nó, và
điều đó không tốt. Một trong những hành khách bênh vực hai thầy trò nó, một người
khác thì ngược lại, ủng hộ ông tài. Bim rất chăm chú theo dõi cuộc đấu khẩu. Cuối
cùng người tài xế bước xuống xe. Chủ nó đứng trước cửa xe đưa cho anh ta một tờ
giấy nhỏ vàng vàng, rồi cùng với Bim bước lên bậc xe, ngồi vào chỗ và buồn bã
thở dài: “Hà-à-à!”.
Bim
từ lâu đã để ý thấy người ta hay trao đổi cho nhau những tờ giấy nhỏ nhỏ gì ấy
nó có cái mùi chẳng phân biệt ra là cái mùi gì. Một lần nó đánh hơi thấy một tờ
ở trên bàn có mùi máu, nó gí mũi vào tờ giấy, cố làm cho chủ chú ý, nhưng ông
ta cứ phớt lờ đi - điếc mũi mà lị! Và nhắc lại cái câu “không được” của ông ta.
Lại còn đút những tờ giấy ấy vào ngăn kéo bàn khóa lại nữa chứ. Thực ra có những
tờ, - khi chúng còn sạch sẽ - ngửi có mùi bánh mì, mùi dồi, nói chung là mùi cửa
hàng, nhưng đa số những tờ ấy là có cái mùi của đủ các thứ bàn tay. Những tờ giấy
nhỏ ấy, thiên hạ ưa thích chúng, giấu chúng
vào trong túi hoặc trong ngăn kéo bàn, cũng như chủ nó. Mặc dầu trong chuyện ấy
Bim chẳng hiểu cái quái gì nhưng nó cũng dễ dàng biết rằng: một khi chủ nó đã
đưa cho người lái xe một tờ giấy thì là họ đã trở thành bạn bè. Còn vì sao Ivan
Ivanưts thở dài thì dù đã chăm chú nhìn vào những biểu hiện ở trong mắt ông bạn
nó vẫn không hiểu được. Nói chung, về sức mạnh kỳ diệu của những tờ giấy nho nhỏ
ấy, nó cũng chỉ là láng máng đoán ra mà thôi - chuyện đó đâu có phải trong tầm
trí khôn của chó; nó đâu biết rằng một ngày kia những mẩu giấy ấy sẽ chơi cho
nó một cú tai hại.
Từ
đường cái vào đến rừng hai thầy trò cuốc bộ.
Ivan
Ivanưts tới bìa rừng dừng lại nghỉ, còn Bim đứng cạnh thì quan sát khu vực. Rừng
như thế này nó chưa từng thấy bao giờ. Nói đúng ra thì rừng này, chính cái rừng
này đây, họ đã đến hồi mùa xuân, và mùa hè cũng đến (nó đung đưa, thế đấy),
nhưng bây giờ ở đây mọi vật xung quanh đều vàng và đỏ ối, tưởng đâu như mọi vật
đều bốc cháy và lấp lánh cùng với mặt trời.
Cây
rừng vừa mới bắt đầu trút bỏ quần áo, và lá rơi, liệng trong không trung, êm ả
và nhịp nhàng. Mát rượi và thoải mái, và chính vì thế mà vui. Rừng thu có một
cái mùi đặc biệt, có một không hai, bền vững, và trong sạch đến nỗi cách xa
hàng chục mét Bim vẫn ngửi thấy hơi chủ. Nó
“tóm được” một chú chuột rừng từ xa, nhưng chẳng buồn đuổi theo (lạ gì cái đồ
ranh con!). Nhưng chợt có một mùi gì xộc mạnh vào mũi nó từ xa, đến nỗi Bim đứng
sững lại. Rồi nó tiến đến sát, xông vào sủa một cục tròn tròn đầy gai.
Ivan
Ivanưts rời gốc cây đứng dậy đi tới chỗ Bim:
-
Không được, Bim! Không được, đồ ngốc. Con nhím đấy! Lùi lại! - Rồi kéo Bim đi
theo.
Vậy
ra nhím là một con thú nhỏ, thêm vào đó là nó tốt, và chớ nên đụng vào nó.
Bây
giờ Ivan Ivanưts lại ngồi xuống cái gốc cây, ra lệnh cho Bim cũng ngồi xuống, rồi
bỏ mũ kê pi ra đặt xuống đất, ngay cạnh, và đưa mắt nhìn lá rụng. Và lắng nghe
cái tĩnh mịch của rừng. Tất nhiên là ông mỉm cười! Lúc này đây ông ở trong trạng
thái như mọi lần trước khi bước vào săn.
Bim
cũng lắng nghe.
Một
con chim ác là bay đến, kêu ken két một cách láo xược rồi bay đi. Một con giẻ
cùi nhảy chuyền từ cành này qua cành khác mà tới gần, ngoạc mồm ra kêu rồi cũng
lại chuyền cành mà nhảy đi như thế. Và đây một chú chim tải cúc bé bỏng, chú
này kêu ngay bên tai: “Xvít, xvít! Xvít, xvít!”. Và
làm gì được nó nào! Bé tí bằng con bọ dừa mà cứ ngậu lên: “Xvít, xvít!”. Cứ như
chào hỏi vậy.
Ngoài
ra là tĩnh mịch.
Và
đây, chủ nó đứng dậy, tháo súng ra, lắp đạn vào. Bim
run lên vì xúc động. Ivan Ivanưts âu yếm vỗ vỗ lên u vai nó, làm nó càng thêm hồi
hộp.
-
Nào, cu con... sục đi!
Bim
lao đi! Nó lao đi như một con thoi nhỏ, ngoằn ngoèo lách qua các gốc cây, nom
chắc nịch, uyển chuyển và hầu như không gây một tiếng động. Ivan Ivanưts rón
rén theo gót Bim, thán phục theo dõi công việc của nó. Giờ đây khu rừng với tất
cả vẻ đẹp của nó đã lui xuống hàng thứ yếu: Bim là chính, con Bim duyên dáng
hăng say, dáng nhanh nhẹn. Thỉnh thoảng Ivan Ivanưts lại gọi nó trở lại,
lệnh báo nó nằm xuống, để cho nó bình tâm lại, nhập dần vào công việc. Và lát
sau Bim đã lại tiến lên nhịp nhàng, thành thạo. Lao động của một con chó setter thật là cả một
nghệ thuật! Đó, nó đang phi một nước đại nhẹ nhàng, đầu ngẩng cao, đối với nó
thì không có chuyện cúi tìm dưới đất, nó đánh hơi trên cao, trong khi đó đám
lông óng mịn ôm sát lấy cái cổ
thon thon của nó; chính vì nó đẹp như vậy cho nên nó ngẩng cao đầu, với một vẻ
đường hoàng, tự tin và hăng say.
Những
giờ phút như vậy đối với Ivan Ivanưts là những giờ phút quên lãng. Ông quên đi
cuộc chiến tranh, quên đi những gian truân cua cuộc sống quá khứ và cảnh cô đơn
của mình. Ngay cả như Kôlia, người con trai máu mủ của ông đã bị cuộc chiến
tranh tàn bạo lấy mất đi, dường như cũng tham gia với ông lúc này, và dường như
ông, người cha, đã đem lại cho anh ta niềm vui ngay cả khi anh đã khuất. Xưa
kia anh ta cũng là một nhà săn bắn mà! Người đã chết không đi ra khỏi cuộc sống
của những ai yêu họ, người chết chẳng già đi, lúc ra đi họ như thế nào thì họ
còn lại mãi trong lòng người sống như thế. Ở lvan Ivanưts cũng vậy: vết thương
trong lòng đã thành sẹo, nhưng vẫn đau. Và chính trong lúc đi săn mọi nỗi đau lòng giảm đi, dù chỉ là chút ít thôi. Sung sướng
thay người nào sinh ra để làm nhà săn bắn!
Chợt
Bim chậm bước lại, thu hẹp đường ngoằn ngoèo, dường như đứng khựng lại giây lát
rồi rón rén bước lên bước một. Có một cái gì rất mèo trong những cử động của
nó, những cử động mềm mại, thận trọng, uyển chuyển. Giờ đây đầu nó đã vươn ra
ngang tầm với thân nó. Mọi bộ phận trong thân thể nó, kể cả cái đuôi duỗi thẳng
có túm lông dài ở đầu, đều tập trung vào cái luồng hơi thoảng. Một bước... Và
chỉ một cẳng giơ lên thôi... Một bước nữa - và cái cẳng tiếp theo cũng vậy, đờ
ra trong không trung trong một góc tích tắc rồi thả xuống không một tiếng động.
Cuối cùng cái cẳng trước bên phải, xưa nay hầu như bao giờ cũng thế, đờ ra, lơ
lửng không chạm đất.
Phía
sau, Ivan Ivanưts súng lăm lăm trong tay rón rén bước tới. Giờ đây là hai bức
tượng: một người, một chó.
Rừng
lặng tiếng. Chỉ những ngọn lá vàng của các cây bạch dương tắm mình trong ánh nắng
lấp lánh là khe khẽ lay động. Các cây sồi non nín lặng bên các cây sồi già khổng
lồ hùng vĩ thuộc thế hệ cha ông. Các ngọn lá xám ánh bạc còn sót lại trên cây hoàn
diệp liễu lặng lẽ rung rinh. Và trên thảm lá vàng cháy, một con chó đứng đó, một
trong những sáng tạo hoàn mỹ nhất của thiên nhiên và của con người đầy kiên nhẫn.
Không có qua một thớ thịt nào rung! Trong những giây phút này Bim dường như chết
đứng, giống như trạng thái của kẻ mất hồn vì thán phục và đắm đuối. Tư thế đừng
khựng cổ điển trong khung cánh rừng vàng là như thế đó.
-
Tiến lên, con...
Bim
xồ cho con dẽ giun bay vọt lên.
Đoàng!
Rừng
giật mình, đáp lại bằng một tiếng vọng bực dọc, khó chịu. Có vẻ như cây bạch
dương, mọc chen vào rìa khu vực đám sồi và đám hoàn diệp liễu, đã hoảng lên, và
rùng mình. Các cây sồi thốt lên một tiếng “chà!”, như những chàng dũng sĩ. Cây
hoàn diệp liễu đứng bên thì vội vã rắc lá xuồng đất.
Con
dẽ giun rụng xuống như một hòn đá rơi. Bim trao nó cho chủ theo đúng mọi quy
cách. Nhưng chủ, sau khi vuốt ve và hoan nghênh Bim đã làm ăn khá, cứ cầm con chim trên lòng bàn tay,
nhìn và trầm ngâm nói:
-
Chà, lẽ ra chả nên...
Bim
không hiểu, nhìn chằm chằm vào mặt Ivan Ivanưts. Còn ông thì nói tiếp:
-
Chỉ vì mày đấy thôi, Bim ạ, vì mày, đồ ngốc ạ. Nhưng thật chẳng đáng.
Bim
vẫn chẳng hiểu - nó đâu đủ trình độ để hiểu điều đó. Rồi trong suốt buổi đi săn
ấy, Bim cảm thấy như vậy, nhà đi săn đã bắn toàn “đi đâu” ấy, cứ như một anh mù
bắn súng. Con chó rất không hài lòng thấy chủ tuyệt nhiên chẳng bắn được một
con dẽ giun nào cả. Thế nhưng con cuối cùng thì ông đã hạ một cách gọn ghẽ.
Trời
nhá nhem thì hai thày trò trở về nhà, mệt mỏi và đối với nhau thân ái, ân cần.
Chẳng hạn Bim không muốn ngủ ở chỗ của nó, đã lôi cái ổ đến kề bên giường Ivan
Ivanưls và nằm xuống cạnh ông ở dưới sàn. Việc ấy có ý thế này: đừng có mà đuổi
nó về chỗ, bởi vì “chỗ” của nó, nó đã lôi theo
nó rồi. lvan Ivanưts sờ tai nó, vỗ vỗ u vai nó. Tình bạn tưởng như sẽ vĩnh cửu...
Đêm
hôm ấy không hiểu sao Ivan Ivanưts lại khe khẽ rên rỉ, ngồi dậy, nuốt vài viên
thuốc rồi lại nằm xuống. Bim thoạt đầu vểnh tai nghe ngóng, nhìn bạn chằm chằm,
rồi đứng dậy liếm liếm bàn tay của ông bạn chìa ra ngoài thành giường.
-
Cái mảnh đạn... Bim ạ, mảnh đạn... nó bò đấy. Hỏng rồi, con ơi, - Ivan Ivanưts
nói, tay ôm lấy Bim.
Cái
tiếng “hỏng” thì Bim hiểu lắm, và hiểu từ lâu rồi. Và đã vài lần nó nghe thấy tiếng “mảnh đạn”, tiếng ấy nó
chưa hiểu, nhưng trong thâm tâm nó, nó cảm đoán thấy đó là một tiếng chẳng
lành, xấu, một tiếng gớm ghê.
Nhưng
rồi lại ổn cả: đến sáng, đi dạo xong, Ivan Ivanưts lại ngồi vào bàn như thường
lệ, đặt trước mặt một tờ giấy trắng và cầm cái que đưa đi sột soạt trên mặt giấy.
Nhật ký của chủ
Hôm
qua quả là một ngày sung sướng. Vạn sự đều như ý: mùa thu, nắng ấm, rừng vàng,
cung cách làm việc tuyệt vời của Bim. Nhưng vẫn có cái gì đó lấn cấn trong
lòng. Sao vậy nhỉ?
Trên
xe buýt, Bim rõ ràng đã để ý thấy mình thở dài, và cũng rõ ràng là nó không hiểu
nổi mình. Con cún hoàn toàn không thể tưởng tượng được là mình đã đút lót anh
chàng lái xe. Đối với con chó, việc đó có nghĩa lý quái gì? Nhưng đối với mình?
Một rúp mình đút lót cho một việc nhỏ, hay hai chục rúp cho
một việc lớn, hay một ngàn rúp cho một việc tày đình, thì có
gì khác nhau nhỉ? Đều là đáng xấu hồ. Có khác gì đem lương tâm ra bán dần bán
mòn. Tất nhiên, Bim ở một trình độ quá thấp so với người, cho nên chẳng bao giờ
đoán hiểu được điều đó.
Bim
đâu có thể hiểu được rằng những mẩu giấy nhỏ ấy và lương tâm con người đôi khi
lại trực tiếp phụ thuộc vào nhau. Nhưng sao mình buồn cười thế nhỉ! Ai lại đi
đòi hỏi ở một con chó những điều vượt ra ngoài khả năng nó, coi nó như một con
người.
Lại
thêm nữa: bắn chết con chim mình thấy tội nghiệp cho nó. Cái đó chắc hẳn là tuổi
già. Mọi sự xung quanh đang tốt lành là thế, bỗng dưng một con chim lăn quay ra
chết... Mình không phải người ăn chay, cũng không phải kẻ đạo đức giả ngồi tả
dông dài về những đau đớn của giống vật bị mổ thịt rồi nhai luôn thịt chúng một
cách ngon lành, nhưng đến cuối ngày mình đã tự đặt cho mình một điều kiện: mỗi
lần đi săn, chỉ một hai con dẽ giun thôi, không hơn. Nếu không con nào thì càng
tốt, nhưng nếu như vậy thì Bim sẽ mai một đi về phương diện là một con chó săn,
và mình sẽ buộc phải mua một con chim mà một người nào khác bắn chết hộ mình, ồ
không, xin miễn cho cái trò ấy... Nhưng thực ra thì mình nói với ai đây vậy? Vả
chăng với chính mình: sự phân đôi con người trong một tình trạng cô đơn lâu dài
ở một mức độ nào đó là không tránh khỏi. Bao đời nay chó vẫn cứu người khỏi sự
đó. Vậy thì vì sao vẫn có cái cấn cái của ngày hôm qua? Và có phải chỉ hôm qua
thôi không? Mình có đã bỏ qua một ý nghĩ nào đó không?... Vậy là, hôm qua: niềm
khao khát hạnh phúc rồi đồng rúp vàng; cánh rừng vàng rồi con
chim bị hạ sát. Cái đó là cái gì: phải chăng là một sự thỏa hiệp với lương tâm?
Khoan!
Cái ý nghĩ mà hôm qua mình đã để lọt qua đi là ý nghĩ này đây: không phải là thỏa
hiệp với lương tâm, mà là lương tâm quở trách, là thương xót cho tất cả những sinh
vật đã bị giết chóc một cách vô ích khi con
người để mất tính người. Từ quá khứ, từ sự hồi tưởng lại quá khứ, trong mình đã
nảy sinh và ngày càng lớn lên trong lòng thương hại giống chim muông.
Mình
nhớ:
Một
hồi đã có cái quyết định của ban lãnh đạo Liên đoàn săn bắn về việc cần tiêu diệt
chim ác là coi như giống chim có hại, và việc đó dường như dựa trên cơ sở quan
sát của các nhà sinh vật học. Thế là tất cả mọi người đi săn đã giết chim ác là
thoải mái, không chút bận bịu lương tâm. Cũng có một quyết định như vậy về chim
diều hâu. Chúng cũng bị diệt. Rồi về chó sói. Bọn này đã bị diệt gần như sạch
sành sanh. Diệt được một con sói thì được thưởng ba trăm rúp (tiền
cũ), và cứ mang đến Liên đoàn săn bắn nộp một cặp cẳng chim ác là hoặc diều hâu
thì được thưởng năm hoặc mười lăm kôpêc gì đó, mình không nhớ.
Nhưng
đột nhiên có quyết định mới tuyên bố chim ác là và diều hâu là giống chim có
ích, chứ không phải là kẻ thù của loài chim: cấm săn giết chúng. Cái lệnh diệt
kiên quyết nhất được thay bằng cái lệnh cấm kiên quyết nhất.
Bây
giờ thì chỉ còn có một loài chim phải bị tiêu diệt và bị đặt ra ngoài vòng pháp
luật: con quạ xám. Nó tuồng như hay đi phá các tổ chim (vả chăng chính con ác
là cũng đã từng bị buộc oan cho cái tội ấy). Trái lại thì không có ai chịu
trách nhiệm về việc rải chất độc hóa học diệt chim các vùng đồng có và rừng đồng
cỏ. Để cứu rừng và cánh đồng khỏi các giống phá hoại, chúng ta đã diệt chim,
nhưng tiêu diệt chim, chúng ta đã làm chết... rừng. Con quạ xám, một chiến sĩ vệ
sinh nổi tiếng và bạn đường của xã hội loài người, chẳng lẽ lại là kẻ có tội
hay sao?
Trăm
sự là tại quạ xám! - Đó là lời biện hộ chắc chắn nhất và sơ đẳng nhất biện hộ
cho con người về các loài chim bị can tội chết.
Những
cuộc thí nghiệm kéo dài với thần chết - thật là kinh khủng. Giờ đây đã có những
nhà bác học - sinh vật học và những nhà đi săn trung thực đứng lên chống lại việc
đó, giờ đây một cuộc đấu tranh bảo vệ chim và rừng đang diễn ra trên quy mô thế
giới. Mình có đã lên tiếng kịp thời chống lại những cuộc thí nghiệm chết chóc ấy
không? Không. Và đó cũng là lời quở trách của lương tâm mình. Tiếng nói của
mình nghe mới nhạt nhẽo và vô vị biết bao, nếu như bây giờ mình nói vuốt đuôi rằng:
Hãy
cứu lấy quạ xám, chiến sĩ vệ sinh xuất sắc của những nơi có người ở. Hãy cứu nó
khỏi bị tiêu diệt, bởi vì nó giúp ta làm sạch rác rưởi quanh nơi ta, cũng giống
như nhà văn trào phúng quét sạch những rác rưởi tinh thần của xã hội, hãy cứu lấy
quạ xám chính vì cái lẽ ấy; nó có đánh cắp ít trứng chim thật, nhưng chính nhờ
quạ xám mà các loài chim biết xây tổ, hãy cứu lấy kẻ giễu cợt chua cay, con
chim duy nhất có cái ngây thơ một cách láo xược đến nỗi có thể từ trên cành cây
mà nói vỗ mặt người ta: “Kạ-ạ-ạc!” (Cút đi, đồ ngu!). Và anh vừa mới đi khỏi là
nó bay xuống, vừa kêu quang quác lên một cách giễu cợt, vừa sà vào ngấu nghiến
ăn tiếp miếng thịt thối mà không một con chó nào thèm đớp; hãy cứu lấy quạ xám,
nhà châm biếm của thế giới loài chim! Đừng sợ nó. Hãy nom kia, những con én bé
nhỏ đang thân mật mổ nó, đuổi nó khỏi cái nơi chẳng có nó cũng đã sạch rồi, và
thế là nó bỏ chúng đấy bay đi, miệng kêu quang quác một cách chua ngoa, tới cái
nơi hoắc lên mùi thịt thối. Hãy cứu lấy loài quạ
xám!
Thực
tế, kết quả sẽ là vừa vô tác dụng vừa vô căn cứ. Nhưng cứ để nó lưu lại trên cuốn
sổ này về Bim. Ta sẽ viết thẳng lên bìa ngay bây giờ chữ “Bim”. Tất cả đây sẽ
chỉ là để cho chính mình mà thôi. Số là mình bắt tay vào viết nhật ký là để cứu
danh dự cho Bim về sự ra đời lầm lỗi của nó, nhưng cuốn nhật ký càng phát triển
ra thì lại gồm có đủ mọi điều không những chỉ liên quan đến Bim mà thôi, mà cả đến mình nữa. Rõ
ràng sẽ chẳng ai đem in nó đâu; vả lại “chuyện con chó, chuyện mình” thì có thú
vị gì cho ai? Chẳng cho ai cả. Lại nhớ đến những câu thơ của Kôntxốp:
Tôi viết đây không vì vinh quang chốc lát
Mà để giải trí, để vui chơi
Cho những người bạn thân tình tôi yêu quý nhất
Cho kỷ niệm buồn vui năm tháng qua rồi.
...
Còn Bim thì cứ nằm đó - ngày hôm nay cu cậu đã làm việc cật lực và hít no những
mùi tốt lành của rừng vàng.
Ôi,
rừng vàng, rừng vàng! Đây chính là một mảnh hạnh phúc cho ta đó, đây chính là
nơi cho ta trầm tư mặc tưởng. Trong rừng thu nắng ấm con người càng thêm trong
sạch hơn.
------------
Còn
tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét