Đất Dữ
Nguyên tác: Terras do sem fim (1943)
Tác giả: Jorge Amado
Dịch giả: Dương Tường & Hà Huy Thái
NXB Văn học - 2016
Giao Chiến
1
Những khúc đàn ghi ta ở đâu vang đến trong
cái đêm không trăng này? Một bài hát buồn buồn, một giai điệu nhớ nhung nói về
cái chết. Sinhô Badaró thường không hay mất thì giờ suy nghĩ về những lời sầu
thảm, về nhạc điệu những khúc hát do những người da đen, người lai đen hay da
trắng ở đồn điền vẫn hát; nhưng tối nay, nhún nhảy trên lưng con ngựa đen, lão
cảm thấy lây nỗi buồn của họ; không hiểu sao lão nghĩ tới những nhân vật vẽ
trên bức tranh treo ở phòng khách nhà lớn.
Điệu nhạc kia có lẽ phát ra từ một
khu rừng nhỏ, từ một căn nhà đâu đây ẩn giữa những cây ca cao. Một giọng đàn
ông... Sinhô tự hỏi tại sao bọn da đen lại bỏ ra quá nửa phần đêm để gảy đàn
ghi ta như vậy trong khi chúng chỉ có rất ít thì giờ để ngủ. Và cái điệp khúc
kia cứ đuổi theo lão ở mỗi chỗ đường rẽ, khi thì thủ thỉ, khi lại vang to lên
như bay đến gần bên lão:
Đời
tôi không hi vọng
Vất vả
suốt đêm ngày…
Sinhô Badaró nghe thấy đằng sau có tiếng vó
ngựa của bọn capanga nhà lão. Chúng
có ba người: gã lai đen Viriato, Telmo, cao và gầy, giọng như giọng đàn bà
nhưng là xạ thủ bách phát bách trúng, và Costinha, kẻ đã hạ thủ đại tá Jacinto.
Họ vừa cưỡi ngựa vừa trò chuyện, và từng mẩu chuyện của họ theo gió đêm vẳng đến
tai lão.
- Nó đã đặt tay lên cánh cửa, lúc đó đang
cãi nhau om sòm.
- Mày bắn chứ?
- Tao không kịp.
- Cứ dính vào đàn bà là bao giờ cũng chuốc
lấy chuyện phiền.
Nếu thằng Damião da đen có đấy, Sinhô hẳn
đã gọi nó lên đi cạnh lão rồi; lão sẽ kể cho nó biết những dự định của mình và
thằng da đen chắc sẽ lặng im nghe, gật đầu tán thưởng. Nhưng giờ đây Damião chỉ
còn là một thằng nửa ngây nửa dại, lang thang trên những con đường lớn, cười cười
khóc khóc như con nít; Sinhô phải vất vả lắm mới ngăn được Juca giải thoát cho
nó khỏi kiếp sống khốn khổ. Một lần nó tới gần đồn điền vừa khóc vừa rên rỉ; những
người trông thấy nó đều không nhận ra vì nó gầy rộc đi, lông rậm mọc khắp người,
hai con mắt lõm sâu vào, nó vừa đi vừa nói về chuyện những đứa trẻ con chết và
những cái bụng trắng của các thiên thần. Nó vốn là một thằng da đen trung thực,
và Sinhô Badaró vẫn chưa hiểu làm sao nó lại có thể bắn trượt trong cái đêm nó
nổ súng vào Firmo. Hay là lúc bấy giờ nó đã điên rồi?
Bài hát vẫn vẳng đến bên tai lão ở chỗ đường
quành làm lão nhớ lại buổi chiều hôm ấy và nhớ đến bức tranh treo trên tường
phòng khách nhỏ: mục đồng thổi sáo, phong cảnh thôn dã, bầu trời xanh êm ả.
Họ hẳn đang chơi một khúc nhạc vui với những
lời yêu đương dịu dàng, một điệu nhảy, vì thấy đứa con gái nhỏ co một chân lên.
Chứ không phải một khúc hát sầu thảm như khúc hát đang bay tới lão, y như một
bài điếu vậy:
Đời
tôi là một gánh nặng, tôi kiệt lực rồi;
Tôi
đã tới, đôi chân vướng víu
Mắc kẹt
trong bùn ca cao…
Sinhô Badaró nhìn quanh lão. Khúc hát này hẳn
từ một túp lều nào quanh đây bay tới. Hay đó là của một lữ khách, đàn ghi ta
đeo chéo qua vai, muốn khuây khỏa cái buồn nản của những giờ lê bước hàng dặm
đường?
Mười lăm phút đồng hồ rồi, người hát vẫn
theo đuổi bọn Sinhô, than vãn về cuộc đời mình đang sống trong đồn điền này,
nói về nỗi lao khổ và cái chết, và số phận những ai bị cám dỗ đến đất này. Mắt
Sinhô dù đã quen với bóng đêm, vẫn không nhận ra một ánh sáng nào ở chung
quanh. Mắt lão chỉ bắt gặp hai con mắt khác, mắt một con cú có tiếng rúc khủng
khiếp. Đúng, có ai đó vừa hát vừa men theo con đường mòn; nhưng nếu như bài nhạc
rút ngắn đoạn đường của người lữ khách, thì nó lại như càng kéo dài thêm đoạn
đường của Sinhô.
Bởi vì giờ đây, yên tĩnh không còn ngự trị
chung quanh khu rừng Sequeiro Grande nữa, những con đường này đã trở nên nguy
hiểm. Buổi chiều hôm lão ra lệnh cho Damião da đen đi giết Firmo, lão vẫn còn
hi vọng. Giờ đây thì đã muộn quá rồi. Tuyên chiến rồi, Horácio đã vào rừng, đã
chuẩn bị tay chân, đã đệ đơn chính thức để chiếm hữu đất. Cái buổi chiều hôm
xưa, nhìn cô gái chăn cừu châu Âu nhảy múa trước mắt, Sinhô Badaró vẫn còn tin
tưởng, vẫn nghe thấy tiếng hát của người đàn ông nọ. Hẳn có ai theo con đường
nhỏ tiến lại gần, vì tiếng hát cứ to dần lên, và càng thêm u uất:
Khi
tôi từ bỏ cõi đời
Họ sẽ
khiêng tôi đi trong chiếc võng đu đưa…
Biết bao nhiêu võng rồi đây sẽ theo con đường
này; và cảnh đó sẽ còn tái diễn trong bao nhiêu đêm nữa. Máu từ trên võng sẽ tưới
xuống đất. Không, đất này không phải là đất của những cô gái chăn cừu có cặp má
hồng, của những điệu vũ quê mùa, của những nền trời xanh biếc. Đất này đen lắm,
nhưng là đất trồng ca cao tốt, tốt nhất thế giới…
Tiếng hát càng lại gần, ê a khúc ca chết
chóc:
Khi
tôi chết đi
Hãy
chôn tôi ở vệ đường…
Có biết bao nhiêu cây thập tự vô danh suốt
dọc con đường, đánh dấu mồ của những người đã chết vì đạn, vì sốt, vì những
nhát dao găm trong những đêm tội ác, hay khi bệnh dịch hạch hiểm độc tàn phá
xóm làng. Nhưng cây ca cao vẫn lớn lên, ra quả, và ông bạn Maximiliano nói rằng
ngày mà rừng được khai phá xong, đất có cây trồng, thì các điền chủ sẽ định giá
cho bọn lái buôn Bắc Mỹ phải theo. Họ sẽ có nhiều ca cao hơn bọn Anh, và ở New
York, Sinhô Badaró sẽ nổi tiếng là chủ nhân những đồn điền ở São Jorge dos
Ilhéus. Lão sẽ giàu hơn Misael. Và Horácio sẽ bị vứt bỏ ở gần đường cái, còn những
cây thập tự không tên sẽ đánh dấu nơi an nghỉ cuối cùng của Firmo và của Braz,
của Jarde và của Zé da Ribeira. Chúng đã muốn thế; lẽ ra Sinhô Badaró chỉ mong
sao mọi chuyện sẽ xảy ra như ở trong bức tranh màu nọ, mỗi người cứ nhảy múa
trên nền trời xanh theo tiếng sáo; đó là lỗi của Horácio; tại sao nó lại đi thò
mõm vào miếng đất không phải là của nó, chỉ có thể thuộc về họ nhà Badaró, mà
không ai được quyền tranh giành? Phải, chính Horácio đã muốn thế; lẽ ra Sinhô
chỉ mong muốn được nghỉ ngơi, có một cô thiếu nữ chân giơ lên bắt đầu điệu nhảy
trên thảm cỏ đầy hoa kia. Một ngày kia, nơi đây sẽ cũng giống như ở châu Âu. Một
nụ cười nở ra trên mặt Sinhô, phía trên bộ râu, tựa hồ lão đoán biết được tương
lai như một nhà tiên tri hay một anh bói bài vậy.
Từ chỗ ngoặt nơi con đường hẻm bắt gặp đường
cái, người đeo đàn ghi ta hiện ra:
Khi
tôi chết đi
Hãy
chôn tôi dưới một gốc ca cao…
Những tiếng vó ngựa át cả tiếng hát, và
Sinhô bỗng không nghe thấy nữa. Lão không còn nhìn thấy một cô gái nhảy múa
trên đất ca cao, mà chỉ thấy những cánh rừng trồng cây và những giá cả do thành
phố Ilhéus định ra. Lão nhìn thấy người nọ, ngón tay gảy đàn ghi ta, chân giẫm
lên mặt đường bùn, đi ra đường cái lớn và dừng lại nhường lão cùng bộ hạ vượt
qua.
- Xin chào ông chủ.
- Chào, - và bọn cabra đồng thanh đáp lại - Thượng lộ bình an.
- Cầu Chúa phù hộ ngài trên dọc đường.
Tiếng hát nhỏ dần nơi xa khi người kia tụt
lại đằng sau trên đường cái; chẳng bao lâu giọng anh ta mất hẳn, cái giọng nỉ
non những lời than vãn về cuộc đời; cái giọng cầu xin người ta chôn anh dưới gốc
ca cao. Theo truyền thuyết thì bùn ca cao, dính bết vào chân người, giương bẫy
ra giữ chân người lại. Sinhô Badaró chưa từng biết một kẻ nào thoát khỏi. Lão
biết đã có bao kẻ khóc thương cho số kiếp mình, như gã da đen kia, khóc ngày
khóc đêm trong các túp lều, quán rượu, trong các phòng giấy, trong tiệm cà phê.
Bao kẻ nói rằng cái xứ này xấu lắm, hẩm hiu lắm, rằng nó là nơi tận cùng của thế
giới, không có chi để giải trí, cũng chẳng có gì vui thú, rằng ở đây người ta
giết để mà giết, hôm nay còn giàu có, mai đã nghèo xác nghèo xơ. Sinhô Badaró
biết nhiều người trong bọn này; lão đã nghe họ nói chuyện không biết bao nhiêu
lần, lão đã nhìn thấy họ phải bán rừng, thu vén tiền nong, thề sẽ ra đi để
không bao giờ trở lại nữa. Họ xuống tàu đi Ilhéus, đợi chuyến tàu biển thứ nhất
đi Bahia. Bahia là một thành phố lớn; ở đây có đủ mọi thứ: những cửa hàng đẹp,
những nhà ở đủ tiện nghi, những rạp hát, đủ mọi thứ mà một con người có thể ao
ước; sẵn tiền trong túi, người ta có thể hưởng thụ cuộc đời ở đây được. Nhưng
trước khi tàu khởi hành, họ đã quay trở lại, chất ca cao lầy nhầy đã dính vào
chân họ và giữ họ lại; người ta lại dốc tiền vào một miếng đất để trồng cây lần
nữa. Kẻ nào đi thoát thì sau chuyến đi, khi tới Bahia, cũng không nói chuyện gì
khác ngoài cái xứ họ vừa bỏ lại là Ilhéus. Và lão chắc chắn, chắc chắn như tên
lão là Badaró vậy, rằng chỉ trong vòng sáu tháng hoặc một năm sau, vẫn cái anh
chàng ấy lại quay về, nhẵn túi, để sống lại cuộc đời như cũ. Người ta nói rằng
chất ca cao bám lấy chân và không thể nào đi thoát được. Những bài hát nhắc lại
điều đó, những bài hát mà người ta nghe thấy những buổi tối ở đồn điền.
Lúc này, Sinhô và bộ hạ của lão đã tới rừng
ca cao, khu rừng của mụ góa Merenda, ven rừng Sequeiro Grande. Sinhô Badaró
nghe nói rằng mụ này đã ăn cánh với Horácio. Điều đó không hề ngăn lão đi theo
đường tắt, đỡ được một dặm. Nếu mụ đứng về phía Horácio thì mặc thây mụ và hai
thằng con trai mụ, rừng của mụ sẽ cộng thêm vào những khu mới mà anh em nhà
Badaró có ý định trồng trên khoảng đất của cánh rừng. Trong năm năm nữa, Sinhô
sẽ đến phòng giấy của hãng anh em Zude và công ty để bán ca cao từ những đồn điền
mới của lão. Lão đã nói vậy, và nhất định sẽ là như vậy; vì không bao giờ lão
chịu sai lời cả. Cô bé chăn cừu bắt đầu nhảy múa trong tranh kia - cô em sẽ nhảy
múa trên cánh đồng vàng ối, một cánh đồng ca cao còn đẹp hơn cái màu xanh lơ
trên bức tranh nhiều - đẹp hơn nhiều lắm.
Có tiếng súng nổ đầu tiên và tiếp theo là
nhiều tiếng nổ khác. Sinhô Badaró chỉ vừa kịp kéo cương con ngựa thì nó đã bị một
phát đạn vào bụng và ngã vật sang một bên. Bọn jagunco nhảy xuống đất và nấp vào sau những con ngựa đã quỳ phục xuống.
Trong lúc ấy, Sinhô cố rút cái chân bị mắc
dưới thân con ngựa đang hấp hối. Lão gắng nhìn xuyên vào bóng đêm và từ chỗ
mình, lão có thể nhận ra được bọn kẻ cướp của Horácio mai phục sau hàng cây sa
kê gần đường.
- Bọn chúng kia kìa, sau cái cây ấy, - lão
nói.
Tiếp theo loạt đạn đầu tiên là một sự im lặng
chết chóc trong khi lão cố tìm cách rút chân ra. Rút được rồi, lão vùng đứng dậy
thì một viên đạn xuyên qua mũ.
Lão nổ súng lục và thét bọn tay chân:
- Nào, khử hết chúng đi.
Đầu một tên trong bọn tấn công ló ra sau gốc
cây trong khi hắn nhắm bắn. Telmo đứng bên cạnh Sinhô.
- Để nó cho tôi, ông chủ! - hắn nói giọng ỏn
ẻn. Rồi hắn giơ khẩu súng trường; đầu tên kia tung lên và rơi xuống như một
trái cây chín nẫu. Sinhô vừa tiến lên vừa bắn. Giờ đây họ đã nấp sau một lùm
cây ca cao, từ đó họ có thể nhìn thấy kẻ thù ở trong chỗ nấp: có năm tên, kể cả
thằng mà họ vừa giết chết. Đó là hai thằng con trai mụ góa Merenda, và ba thằng
khác trong bọn capanga của Horácio. Sinhô đứng sau Viriato nhắm và bắn. Họ tiếp
tục men theo các gốc cây tiến lên vì kế hoạch của Sinhô là đánh tập hậu bọn tấn
công. Thế nhưng bọn này đã nhận ra mưu ấy, và để tránh bị tập hậu, chúng thấy tốt
hơn hết là nên lùi lại một quãng, Sinhô lại bắn chết một tên nữa khi bọn chúng
rút. Gã này oằn oại và ngã vật xuống, một chân và một bàn tay chới với trong
không trung; Viriato bắn cho nó chết hẳn.
- Đủ rồi, thằng khốn. Không phải lúc nhảy
múa đâu.
Giữa cuộc loạn đả này, Sinhô nhớ tới cô gái
chăn cừu trẻ, một chân giơ lên. Không phải lúc nhảy múa đâu, Viriato nói đúng.
Họ lại tiếp tục bắn. Một viên đạn trúng phải vai Costinha và máu tóe trên đôi ủng
của Sinhô Badaró.
- Không sao cả, - Costinha nói - chỉ xước
da tí thôi.
Cả bọn tiếp tục tiến lên thành hình vòng
tròn; ba tên kia thấy cơ mưu đã lộ bèn bỏ chỗ nấp, và xuyên rừng chạy trốn.
Sinhô bắn theo hướng chúng chạy, rồi quay lại chỗ con ngựa đen của lão. Vết
thương bên sườn nó chảy máu chan hòa, thành một vũng nhỏ trên mặt đất. Telmo lại
gần để tháo yên ra, và Viriato đi tìm con lừa của gã đã lùi lại phía sau một
quãng trong khi đôi bên bắn nhau. Sinhô bèn trèo lên lưng lừa, và Telmo đặt cả
yên cương lên lừa của mình. Viriato cưỡi lừa của Costinha bị thương ngồi đằng
sau hắn, tay bịt lấy vai để giữ cho máu khỏi chảy.
Lên ngựa như vậy xong, bọn họ đi theo con
đường cái, Sinhô vẫn lăm lăm khẩu súng lục trong tay. Mắt lão có vẻ buồn buồn
trong khi lão cố gắng nhìn vào đêm tối bao quanh. Nhưng khúc ca đã tắt rồi,
không còn tiếng ai hát lên những tai ương của đất này. Không có mảnh trăng nào
soi sáng những xác chết nằm ở những gốc ca cao. Đằng sau lão, Telmo giọng the
thé như đàn bà, huênh hoang:
- Tao xơi tái cái thằng con hoang ấy, trúng
giữa đầu.
Một ngọn nến do những bàn tay thành kính đặt
đấy, chiếu ánh sáng lên một cây thập tự mới ở bên đường, và Sinhô Badaró nghĩ rằng,
nếu cần phải thắp nến như thế này cho tất cả thập tự rồi đây sẽ dựng lên, thì
những con đường lớn của cái đất ca cao này sẽ rực rỡ hơn cả những đường phố ở
Ilhéus. Mọi thứ đều khiến cho lão buồn. “Không phải lúc nhảy múa đâu, con gái ạ,
nhưng đó không phải là lỗi tại ta. Không phải thật đấy”.
2
Những trận chiến bắt đầu từ đêm hôm đó chỉ
ngừng lại khi cánh rừng Sequeiro Grande biến thành rừng ca cao. Những người ở
vùng trong từ Palestine đến Ilhéus và cả những người ở Itapira, về sau thường bằng
vào cuộc xung đột này để tính ngày tháng.
- Dạo ấy là vào trước những trận đánh nhau ở
rừng Sequeiro Grande.
- Chuyện đó xảy ra sau khi cuộc tranh chấp
rừng Sequeiro kết thúc.
Đó là lúc kết thúc cuộc giao chiến lớn để
chiếm đất, và là trận tàn khốc nhất trong tất cả, cho nên nó vẫn là một thực tế
còn sống mãi trong nhiều năm, những giai thoại về nó truyền đi từ miệng người
này sang miệng người khác, từ cha đến con, từ ông lão đến thanh niên. Và trong
các buổi chợ phiên, tại các thành phố lớn nhỏ, có những nhạc sĩ mù vẫn ca ngợi
những cuộc ẩu đả xưa kia đã tưới ngập máu vùng đất đen của ca cao:
Đó là
một chuyện yêu ma
Trong
một đêm những mụ phù thủy ruổi ngựa
Vì những người mù là những nhà thơ và nhà
chép sử của đất nước này. Họ đi, tay gảy đàn, nương giữ những truyền thống của
địa phương trong tiếng hát mê hồn của mình. Những đám đông và những người đến
mua hàng, tất cả đều quây quanh những nhà thơ mù hát rong nọ để nghe kể chuyện
về cái thời mới bắt đầu trồng ca cao, thời mà thế kỷ hãy còn non trẻ. Họ ném những
đồng tiền nhỏ vào chiếc bát gỗ dưới chân người ăn xin trong khi chiếc đàn rền
rĩ và một giọng run rẩy nhắc lại những cuộc tử chiến xa xưa ở Sequeiro Grande:
Chưa
bao giờ từng thấy bắn nhau như vậy
Biết
bao xác chết trên
phố phường...
Người thì ngồi xổm trên mặt đất, một nụ cười
trên môi, kẻ tì lên cây gậy, ai nấy chăm chú lắng nghe câu chuyện của người mù.
Đàn ghi ta đệm theo những vần thơ; và cứ hát đến đâu, những con người ngày nay
lại thấy sừng sững hiện ra trước mắt họ những con người của thời xưa, những kẻ
đã khai phá rừng rậm, hạ cây rừng, đã chém giết và đã chết, đã trồng ca cao.
Nhiều kẻ trong số đã tham gia cuộc đánh nhau ở Sequeiro Grande, ngày nay vẫn
còn sống và một vài người trong bọn họ được kể đến trong những bài thơ do người
mù hát; những thính giả không bao giờ nghĩ đến việc gắn những chủ đồn điền ngày
nay với những người đi chiếm đất hôm qua. Dường như bọn này đã thuộc về một thế
giới khác, vì thời gian đã thay đổi biết bao. Nơi trước kia là rừng bao phủ đầy
bí mật với những thân cây cổ thụ, ngày nay là những rừng ca cao quả vàng óng.
Những người mù tiếp tục hát và chuyện của họ thật là khủng khiếp:
Tôi sẽ
kể các bạn cùng nghe
Một
câu chuyện rùng mình sởn gáy...
Một câu chuyện rùng mình sởn gáy - đó là
chuyện rừng Sequeiro Grande. Ngay cái đêm anh em nhà Merenda và ba tên cabra của Horácio tập kích Sinhô Badaró
trên con đường tắt, ngay đêm đó Juca cầm đầu một tá tay chân, ra đi và đã gây
ra hàng loạt hành động tàn bạo ở vùng lân cận. Bắt đầu, chúng giết hai anh em
Merenda ngay trước mặt người mẹ, để làm gương, theo như người ta kể lại. Rồi
chúng đến khu rừng của Firmo và đốt cái đồn điền trồng sắn của hắn; sở dĩ chúng
không giết Firmo là vì tình cờ hắn lại ở Tabocas.
- Thế là hai lần nó thoát khỏi tay ta rồi,
- Juca nói - lần thứ ba thì đừng hòng.
Sau đó, chúng đến nhà Braz, nhưng nổ ra
đánh nhau ở đây vì Braz cùng tay chân của hắn chống cự lại kịch liệt và Juca phải
rút, để lại một xác chết, còn không biết phía bên kia có bao nhiêu tên bị hạ.
Có điều chắc chắn là Antônio Vítor đã hạ một tên, vì Juca có nhìn thấy nó ngã
xuống. Antônio quả quyết rằng hắn còn bắn trúng một tên nữa, nhưng không ai dám
chắc cả.
Khoảng hai mươi năm sau, những ca sĩ mù đi
thăm các phiên chợ tại các thành phố mới Pirangi và Guaraci mọc lên ngay ở chỗ
khu rừng Sequeiro Grande xưa kia, đã tả lại chi tiết trận đánh như sau:
Buồn
bao nhiêu và hổ thẹn bao nhiêu!
Đã có
biết bao người bị giết!
Người
của Horácio và người của Badaró
Nằm
sóng sượt bên nhau trên mặt đất
Ôi!
Thật là buồn héo ruột
Phải
nhìn thấy cảnh chém giết này.
Nhìn
thấy những người đã mất đi cuộc sống
Hằng
ngày, từ mặt trời này sang mặt trời kia.
Hình như những người thời trước đều phải
tuyển tất cả jagunco nổi tiếng bắn chắc
tay và có lòng dũng cảm từng được thử thách. Nghe nói Horácio đã cử người vào nội
địa, tìm những tên du côn trứ danh, và anh em nhà Badaró thì không kể đến tiền
khi cần phải thuê một xạ thủ giỏi. Đêm tối đầy hãi hùng, bí mật, đầy những chuyện
bất ngờ. Không một con đường nào an toàn đối với khách bộ hành, dù đường đó dài
hay khuất nẻo đến đâu. Cả những người không hề dính dáng gì đến cánh rừng
Sequeiro Grande, với Horácio hoặc anh em nhà Badaró, cũng không dám mạo hiểm đi
trên những con đường ở cái đất ca cao này, nếu không có ít nhất là một tên cabra xạ thủ nhà nghề đi theo. Bọn
thương gia buôn hàng sắt kiêm bán cả vũ khí thời bấy giờ phất to. Tất cả đều vớ
bẫm, trừ Azevedo ở Tabocas đã vỡ nợ khi cung cấp súng tự động cho nhà Badaró. Nếu
như hắn còn lại được phần nào, sau cuộc kinh doanh lụn bại, là nhờ ở tài khéo
léo về chính trị. Về sau, hắn mở một cửa hàng ở Ilhéus, và cả hắn nữa, trong tuổi
già khốn khổ cũng kể lại những chuyện giống như loại chuyện của các sinh viên
trẻ ngoài thành phố:
Họ vứt
rìu và dao quắm
Vác
khẩu súng lên vai
Thằng
lái súng phất to
Người
ta mua hàng rừng vũ khí
Tôi đồ
rằng, mọi khoản tính xong xuôi,
Nó
bán được đến non triệu súng.
Như thế đó, những người ăn xin mù, hai mươi
năm sau, kể lại những chiến công dũng cảm của anh em Badaró, Sinhô và Juca:
Sinhô
là người thần thế
Thủ
lĩnh nhà Badaró
Gần
xa khét tiếng
Một
phát chết năm.
Juca
cũng can trường rất mực
Nổi
tiếng vì dũng mãnh hơn người
Dọc
ngang trời đất
Không
sợ một ai.
Nhưng họ cũng ca ngợi sự dũng cảm của
Horácio và đồng đảng hắn, nhất là Braz, con người can trường hơn tất cả, bị ba
vết thương vẫn tiếp tục chiến đấu và còn giết chết hai người.
Braz,
gọi đủ cả họ tên
Là
Brasilino José dos Santos
Nằm hấp
hối trên mặt đất,
Vẫn bắn
mãi không thôi
Vì
chưa hề thỏa nguyện giao tranh
Bị
thương rồi vẫn hạ bay địch thủ
Họ tả lại cả Horácio trong đồn điền, ra lệnh
cho bọn tay chân và phái chúng lên các ngả đường bao quanh rừng Sequeiro
Grande.
Thủ
lĩnh Horácio truyền lệnh
Bọn cabra cưỡi ngựa rong ruổi trên
đường
Gieo
cái chết khắp nơi khắp chốn.
Những bài dân ca bắt nguồn từ cuộc giao
tranh ở rừng Sequeiro Grande không chỉ mô tả nhân vật và chiến công của những
nhân vật chính, mà còn nói tới cả cuộc sống rối loạn của người thời ấy. Chẳng hạn
như:
Đàn
bà có chồng nơi đây tuyệt giống
Trừ
phi sống ở Bahia.
Ở đất
này người ta thường nói:
Đàn
bà có chồng cũng như tất thảy
Hôm
nay là bà nội
Ngày
mai sẽ lại góa chồng.
Hai mươi năm sau, những người ở phiên chợ,
nghe bài hát tại các thành phố dựng trên khu rừng cũ, kinh ngạc kêu lên hoặc cười
vui vẻ và bình luận câu chuyện bằng những câu ngắn và sôi nổi. Nhờ giọng hát của
người mù, cả một năm rưỡi tranh hùng kia như diễn ra trước mắt họ, con người ta
giết nhau, chết, bón đất bằng máu của mình. Và khi người mù kết thúc bài hát:
Và giờ
đây tôi đã kể xong câu chuyện
Làm
các bạn rùng mình sởn gáy
Họ ném vài đồng tiền nhỏ vào cái bát gỗ của
lão và vừa tản đi vừa bảo nhau: “Chuyện yêu ma đó thôi, không có gì khác cả”.
Bài hát cũng nói như vậy: “Đó là chuyện yêu ma, trong một đêm những mụ phù thủy
ruổi ngựa”. Lời nguyền của lão da đen Jeremias đè nặng trên mặt đất thuở đó,
truyền từ đồn điền này sang đồn điền khác, qua tiếng nói của gã Damião da đen,
cái bóng gầy gò và bẩn thỉu, con người ngây ngô không làm hại ai, chỉ khóc lóc,
rên rỉ, lang thang dọc những con đường cái và đường hẻm trên cái đất ca cao
này.
3
Những câu chuyện bàn tán về vụ đánh úp và
mưu sát Sinhô Badaró, rồi về cái chết của hai anh em Merenda chưa nguội thì
thành phố Ilhéus lại rộn lên về vụ xảy ra ở tiệm cà phê giữa Virgílio và Juca.
Những sự kiện trong vòng một năm rưỡi này nối tiếp nhau xảy ra nhanh đến nỗi
Dona Iaiá Moura, mụ gái già không chồng, trông nom bàn thờ ở nhà thờ thánh
Sebastian, một hôm đã đến phàn nàn với bạn là Dona Lenita Silva, trông nom bàn
thờ đối diện.
- Nhiều chuyện xảy ra quá, bà Lenita ạ, - mụ
nói, - đến nỗi thật quả là ta không có đủ thì giờ bàn bạc cùng nhau nữa. Mọi
chuyện đi nhanh quá!
Thực vậy, Horácio và anh em nhà Badaró đều
cần nhanh chóng giải quyết cho xong. Bên nào cũng muốn đốn rừng và bắt tay vào
việc trồng ca cao càng sớm càng hay.
Cuộc tranh giành rất tốn kém: jagunco được trả lương theo công nhật và
những kết toán ngày thứ bảy lên cao chưa từng thấy, cả giá mua khí giới cũng
lên. Cho nên cả anh em nhà Badaró lẫn Horácio đều không muốn mất thì giờ; và
tháng nào cũng chồng chất nhiều sự kiện đáng bình luận, đến nỗi các mụ già ở
nhà thờ thực sự không còn theo dõi nổi; chưa xong việc này, việc khác đã đến bắt
các bà phải quan tâm tới.
Báo chí cũng vậy. Manuel de Oliveira đang
viết một bài đập Horácio tơi bời về một chuyện chiếm công vi tư nào đó thì lại
có một tin mới đến, quan trọng hơn nhiều. Thái độ hung hăng của tờ O Comércio và tờ A Folha de Ilhéus thật không còn giới hạn nào hết. Không một hình
dung từ sỉ nhục nào không được đem ra dùng; và một ngày đáng ghi nhớ đối với
tòa soạn báo O Comércio là hôm thầy
cò Genaro nhận được cuốn từ điển tiếng Bồ Đào Nha to tướng lão đặt mua tận Rio
de Janeiro, vì ở Bahia không tìm đâu ra. Sách này xuất bản ở Lisbon* và chuyên
về từ vựng của thế kỷ thứ 16. Thế là tờ O
Comércio bèn gọi Horácio và bạn bè của lão là đồ “ba que xỏ lá”, là đồ hợm
mình, đồ tôi tớ, đồ thô bỉ, đồ hải tặc, vân vân, làm cho dân thành phố khoái
trá, thán phục. Tờ A Folha de Ilhéus
bèn đối lại bằng cách dùng những tiếng lóng dân tộc, về món này thầy cò Rui rất
thạo.
*[Lisbon: thủ đô Bồ Đào Nha. Ở châu Mỹ La tinh, chỉ riêng
Brazil dùng tiếng Bồ Đào Nha làm quốc ngữ, còn các nước khác đều nói và viết tiếng
Tây Ban Nha]
Còn về cái đơn mà Horácio đệ lên tòa án thì
vẫn tiếp tục nằm đấy, chưa thấy có triển vọng gì giải quyết cả. “Việc đang
xét”, đó là thứ từ ngữ pháp lý không thích đáng nhất, thường dùng mỗi khi có một
việc gì của phe đối lập đưa ra chống lại phe chính phủ, trường hợp ở đây cũng vậy.
Đã có sẵn quan tòa đấy để bảo vệ quyền lợi cho nhà Badaró; nếu ông ta không làm
tròn nhiệm vụ của mình, thì chí ít cũng bị chính phủ bang thuyên chuyển đến một
thành phố nhỏ nào đó trong nội địa, ở đấy ông ta sẽ không còn một tí tiện nghi
nào nữa, sẽ hoàn toàn thất thế và bị quên lãng, không còn phương kế nào khác là
sống mòn mỏi năm này qua năm khác; trong khi tòa án Ilhéus là cái bậc thang dễ
leo lên tòa án tối cao của bang, ở đó người ta trở thành pháp quan cao cấp, tiếng
cả lương nhiều.
Cho nên luật sư Virgílio và luật sư Rui cứ
hoài công gửi tới tấp các thư kiến nghị, khiếu nại về yêu cầu điều tra, vân
vân, đến tòa án.
Như lời Horácio nói, công việc của lão tiến
hành “chậm như sên”. Với lại lão cũng không đặt tin tưởng gì nhiều lắm vào những
biện pháp hợp pháp, mà chủ yếu lão chỉ dựa vào vũ lực để chiếm đoạt lấy khu đất;
lão cố giữ sao cho về mặt ấy, để đối lại thủ tục tố tụng, lão không phải mất
thì giờ gì cả. Anh em nhà Badaró cũng mong có một cách giải quyết nhanh chóng.
Năm sau sẽ có bầu cử; nhiều người cả quyết rằng sẽ có sự chia rẽ giữa chính quyền
các bang với chính quyền liên bang vì thay đổi tổng thống. Nếu như chính phủ
bang thua thì nhà Badaró sẽ ở về phía đối lập, trong trường hợp ấy thì không thể
trông mong gì được vào viên quan tòa. Và việc của Horácio sẽ không còn bị “bỏ lửng”
nữa.
Người ta bàn nhiều đến những chuyện này
trong các quán rượu, ở các góc phố, trong các nhà ở Ilhéus, và cả trên những
con tàu bỏ neo trong cảng, giữa những người phu xếp hàng và thủy thủ. Và ở các
thành phố xa xôi, ở Aracaju và Vitória, ở Maceió và Recife, người ta tranh cãi
nhau về những vụ xung đột ở Ilhéus hệt như những vụ xung đột của cha Cícero trứ
danh ở Juazeiro do Ceará vậy.
Virgílio ở Bahia về và được một ông quan
tòa thuộc tòa án tối cao, ủng hộ phe đối lập, cấp cho một bản quyết định có lợi
cho Horácio về quyền sở hữu khu rừng Sequeiro Grande. Bản quyết định này cộng với
những tài liệu khác khiến luật sư Genaro đã phải nát óc nghiên cứu những sách
luật để tìm cách xóa bỏ hiệu lực của nó và làm yên lòng ông quan tòa ở Ilhéus
đang hoảng lên vì có một vị pháp quan cao cấp đã can thiệp vào một vụ đang còn ở
thời kỳ tố tụng đầu tiên. Tuy nhiên, điều làm cho Juca Badaró bực dọc hơn tất cả
mọi chuyện khác, hơn cả cái bản quyết định kia, là loạt bài Virgílio viết cho tờ
báo của phe đối lập ở Bahia về những chuyện rối loạn ở Ilhéus.
Anh em nhà Badaró không hề quan tâm chút
nào đến những bài báo in trên tờ A Folha
de Ilhéus, nhưng những bài báo đăng trên một tờ báo hàng ngày của thủ đô đã
vang dội ra ngoài bang, và mặc dù những tờ báo hàng ngày của chính phủ đã bênh
vực Sinhô Badaró, đích thân ngài thống đốc vẫn cho lão hay rằng tốt hơn là nên
tránh đừng có phô phang gì hết về những sự việc như vậy, giữa lúc quan hệ giữa
chính phủ bang với nhà chức trách liên bang không được tốt lắm. Horácio được biết
tin này, và thế là Virgílio cứ nghênh ngang trên các đường phố ở Ilhéus với
dáng điệu một kẻ thắng trận.
Một buổi tối, gã tới tiệm cà phê. Lâu rồi
gã không lại đấy; đêm đêm gã ngủ trong tay Ester, những đêm ân ái điên dại mê
cuồng; vì xác thịt Ester đã bừng dậy với những khoái cảm vật dục và bén mùi những
ngón ve vuốt lọc lõi mà gã đã được Margot truyền cho. Nhưng tối hôm ấy, Horácio
có mặt ở Ilhéus và Virgílio không biết đi đâu cả. Gã đã quen tối tối đi chơi rồi
nên quyết định vào tiệm cà phê uống một cốc whiskey. Gã đi với Maneca Dantas
cùng ra thành phố với Horácio. Virgílio bèn mời hắn.
- Ta đến tiệm cà phê chăng?
Maneca cười:
- Anh định làm trụy lạc một ông bố gia đình
chăng, luật sư? Tôi vợ con rồi, anh biết rằng tôi không hề đặt chân đến những
nơi ấy - hắn ta nói đùa.
Cả hai bật cười và bước lên cầu thang, ở
phòng cuối Badaró đang đánh bài với đại úy João Magalhães và những người bạn
khác. Nhozinho nói cho hai người mới tới hay rằng đây là một canh bạc kinh khủng,
tiền đặt cao nhất từ xưa đến nay hắn ta từng thấy.
Virgílio và Maneca vào phòng nhảy nơi người
đánh dương cầm và người kéo vĩ cầm đang chơi những bài dân ca. Họ ngồi xuống gọi
một chai whiskey và lúc ấy Virgílio trông thấy Margot ngồi ở một bàn cùng với
Manuel de Oliveira và những bạn khác của anh em nhà Badaró. Anh chàng nhà báo
chào viên thầy cãi vì hắn ta không hề gây sự với ai bao giờ; hắn nói hắn là nhà
báo chuyên nghiệp; những điều hắn viết trên báo là ý kiến của anh em nhà Badaró
và không dính dáng gì đến ý kiến riêng của hắn, đó là hai chuyện rất khác nhau.
Virgílio chào lại và cũng ra hiệu chào những
người kia nữa. Margot mỉm cười với gã. “Tối nay anh ta trông điển trai quá”, nàng
nghĩ thầm, và, chợt nhớ tới bao đêm khác, môi nàng nở hé ra cái cử chỉ đầu tiên
của dục vọng. Nhozinho mang một chai whiskey bước vào.
- Đây là loại rượu tốt - loại Scots - tôi
chỉ đem ra hầu một số khách quý thôi. Rượu này không phải ai cũng được uống
đâu.
- Thế tỷ lệ nước là bao nhiêu đấy? - Maneca
vẫn đang đà bông lơn, hỏi vậy.
Nhozinho thề rằng không dám pha thêm nước
vào whiskey bao giờ - nhất là đối với một thứ whiskey như thế này, loại chính cống
- và hắn hôn đánh chụt một cái lên mấy đầu ngón tay để nhấn mạnh lời mình nói.
Sau đó hắn hỏi tại sao lâu ngày không thấy Virgílio. Vắng Virgílio, hắn thấy nhớ
lắm.
- Bận lắm, ông Nhozinho ạ, bận lắm - lý do
tóm lại chỉ có thế!
Nhozinho rút lui, nhưng Manuel de Oliveira
vừa thoáng thấy chai whiskey đã tiến đến hỏi thăm Virgílio về tin tức một nhà
báo khác, bạn của họ, đang viết cho tờ báo của phe đối lập ở Bahia.
- Ông có gặp Andrade trong thời gian lưu lại
ở Bahia không, thưa luật sư? - Hắn hỏi, sau khi bắt tay Virgílio và Maneca
Dantas.
- Chúng tôi có cùng ăn cơm với nhau.
- Anh ta thế nào?
- Ô! Vẫn thế thôi. Cứ rượu từ khi thức giấc
đến lúc đi ngủ. Vẫn những thói quen cũ ấy, anh chàng kỳ lạ thật!
- Cậu ta vẫn viết báo khi say rượu đấy chứ?
- Manuel de Oliveira nhắc lại kỷ niệm cũ.
- Lúc nào hắn cũng chân nam đá chân xiêu.
Maneca gọi lấy một cái cốc nữa và rót mời
anh nhà báo.
- Một bạn đồng nghiệp của tôi đấy, ông đại
tá ạ. Nhà văn cừ nhất Bahia, một nhà báo hoàn toàn về mọi mặt. Nhưng hắn rượu
chè một cách kinh khủng. Vừa mở mắt ra, trước khi đánh răng, hắn đã làm một “hớp
nhỏ”, như lời hắn nói, tức là một cốc rum. Ở bàn giấy không ai nhìn thấy hắn ngồi
được ngay ngắn bao giờ, nhưng một tay cứng đấy, đại tá ạ. Không bao giờ hắn mất
phương hướng. Hắn có thể viết được về bất cứ đề tài nào. Một đầu óc xuất sắc. -
Nói đến đấy, Manuel nốc cạn chén rượu và nói sang chuyện khác - Cái loại
whiskey này ngon thật.
Hắn nhận một cốc nữa, cứ để đầy nguyên mang
về bàn mình, nhưng trước đó hắn nói với Virgílio:
- Có một cô bạn gái của ông ngồi bên bàn
chúng tôi gửi lời chào mừng ông. - Cả hai nhìn về phía Margot. - Cô ấy nói là
muốn nhảy một điệu waltz với ông.
Và khi đi khỏi hắn nháy mắt nói thêm:
- Khi người ta đã làm vua, ông biết đấy,
thì người ta sẽ luôn là kẻ tối thượng.
Virgílio cười. Nói cho cùng, gã không thấy
thích thú gì chuyện ấy. Gã tới quán cà phê để uống rượu và chuyện gẫu một chút,
chứ không phải để theo một ả nào, càng không phải với một ả đang làm tình nhân
của Badaró và được Badaró bao. Hơn nữa, gã sợ rằng Margot - gã không hề nói
chuyện với ả từ khi hai người cãi lộn - lại tiếp tục mè nheo gã. Ả không còn là
gì đối với gã nữa, thế thì nhảy với ả làm gì? Nối lại sợi dây đã đứt để làm gì?
Gã nhún vai và cầm lấy một cốc whiskey.
Trái lại sự kiện này lại khiến Maneca
Dantas rất thích thú. Hắn rất muốn mọi người trong tiệm cà phê nhìn thấy
Virgílio nhảy với Margot. Như vậy mọi người sẽ rõ là ả còn yêu gã thầy cò trẻ
trai, rằng ả đi với Juca hoàn toàn chỉ vì Virgílio đã bỏ ả.
- Người thiếu phụ nọ không rời mắt khỏi ông
đấy, ông luật sư ạ, - Maneca nói.
Virgílio đảo mắt nhìn quanh một vòng, và
Margot mỉm cười, nhìn gã chằm chằm.
- Tại sao ông không nhảy với cô ta một bài?
Nhưng Virgílio vẫn nghĩ: chả bõ.
Gã ngả người ra trên ghế, Margot ở bàn bên
kia tưởng gã sắp đến, bèn đứng dậy. Thế là bất đắc dĩ gã phải quyết định. Không
nhảy thì còn làm gì bây giờ được? Một điệu waltz lả lướt, và khi họ tiến ra mọi
người đều nhìn họ; bọn gái điếm bắt đầu bàn tán. Ở bàn Margot, một người rời khỏi
ghế và hình như sau đó có một cuộc bàn cãi xảy ra giữa hắn và Manuel de
Oliveira. Anh nhà báo tìm cách thuyết phục hắn về một điều gì đó; nhưng nghe
xong, gã kia gỡ tay Oliveira ra và đi về phía phòng đánh bài.
Người chơi dương cầm gõ ngón tay dạo điệu
waltz chậm trên chiếc đàn cũ kỹ và Virgílio cùng Margot lặng lẽ nhảy, không nói
năng gì; nhưng mắt ả nhắm lại và đôi môi hé mở.
Giữa lúc ấy Juca Badaró từ phòng bên xộc
vào, theo sau là người vừa đi gọi hắn, cùng với João và những tay bạc khác. Từ
chỗ cửa ngăn đôi hai phòng, hắn nhìn cặp kia trừng trừng, hai tay đút vào túi,
mắt đầy một ánh hăm dọa. Khi điệu nhạc chấm dứt và những người nhảy đang vỗ tay
để yêu cầu chơi lại bài nhạc, hắn đi một mạch ngang qua gian phòng, nắm lấy
cánh tay Margot và lôi nàng về bàn. Nàng hơi cưỡng lại một chút và Virgílio tiến
đến. Gã sắp nói thì nàng ngăn lại:
- Em van anh, anh đừng nên dây vào.
Gã đứng ngần ngừ một lúc, nhìn Juca; Juca
có vẻ như đang chờ đợi. Rồi gã chợt nhớ tới Ester. Gã cần gì phải bận tâm tới
Margot?
- Cảm ơn, Margot, - gã mỉm cười nói với
tình nhân cũ; rồi gã trở về bàn, Maneca Dantas đã đứng dậy, súng lục cầm tay, đề
phòng một cuộc xô xát.
Juca và Margot về đến bàn, to tiếng cãi
nhau đến nỗi mọi người đều nghe thấy. Manuel de Oliveira định can nhưng Juca chỉ
lừ mắt một cái cũng đủ khiến anh nhà báo đứng im.
Cuộc cãi lộn càng kịch liệt, Margot định đứng
dậy, nhưng Juca đẩy nàng thật mạnh. Các bàn khác hoàn toàn im lặng. Cả người
chơi dương cầm cũng ngồi ngây nhìn cảnh ấy. Juca nhảy chồm tới người nhạc sĩ:
- Tại sao mày không chơi cái đàn dương cầm
chết tiệt của mày đi? - Hắn quát; ông già vội bổ lên phím đàn, và các cặp lại
tiếp tục nhảy. Juca bèn nắm lấy tay Margot, bắt nàng phải đi theo. Khi họ đi
qua trước bàn Virgílio, Juca quay về phía nàng, hắn gần như lôi nàng xềnh xệch.
- Tao sẽ dạy cho mày biết kính trọng một bậc
tu mi nam tử chân chính, đồ dâm đãng. Chắc chắn đây là lần đầu tiên mày kiếm được
một người như vậy sống với mày.
Những lời này là dành cho Virgílio, và
Virgílio mất bình tĩnh đã sắp sửa đứng dậy; nhưng Maneca Dantas giữ gã lại.
Maneca biết rằng chỉ cần làm một cử động nhỏ, viên thầy kiện sẽ bị Juca giết chết.
Juca và Margot đi xuống, và từ ở phòng trên người ta có thể nghe thấy tiếng hắn
đánh nàng.
Virgílio tái mặt, nhưng Maneca năn nỉ giữ
gã lại, bảo không bõ dây vào làm gì.
Câu chuyện không đi xa hơn nữa; sáng ngày
hôm sau, Virgílio đã quên hết cả. Margot đối với gã không còn thú vị gì nữa. Ả
ta đã tự ý đi sống với Juca Badaró. Trước kia, Virgílio đã có ý định tống ả về
Bahia với một số tiền đủ sống được vài tháng; ả lại ưng đi với Juca ngay cái
đêm hai người cắt đứt với nhau. Ả đã trở thành nhân tình của Juca và đã cung cấp
cho tờ báo nhà Badaró những chi tiết về cuộc đời sinh viên của người tình đầu
tiên. Giờ đây, ả có Juca, và nếu như ả không được tự do nhảy, ả chỉ có thể tự
trách mình mà thôi; Virgílio này không bận gì vào đấy cả.
Về một mặt nào đó, gã chỉ có thể tán thành
Juca. Nếu như Margot vẫn là nhân tình của gã, thì gã cũng sẽ không thích thấy ả
nhảy với một thằng đàn ông trước đó đã bao ả.
Mấy năm về trước, chính gã cũng đã làm rầm
lên trong một tiệm cà phê ở Bahia về một cớ còn nhỏ mọn hơn thế này nhiều. Gã cảm
thấy có thể bỏ qua lời sỉ nhục của Juca lúc hắn đi khỏi; tựu trung chỉ vì cơn
ghen đã bốc lên đầu hắn. Virgílio thấy biết ơn Maneca Dantas đã ép gã phải ngồi
xuống giữa lúc gã sắp sửa làm một điều dại dột và gây ra một vụ xung đột vì
Margot. Thậm chí gã cũng không có ý định làm nhục Juca nếu như hắn nói với gã ở
ngoài phố; gã không giận hắn, gã hoàn toàn thông cảm. Và gã tuyệt nhiên không
muốn cãi lộn với bất kỳ ai vì Margot.
Nhưng câu chuyện truyền từ miệng này sang
miệng khác cứ phình to ra. Người thì nói Juca đã giằng Margot ra khỏi tay
Virgílio và đã tát viên luật sư, có người lại cải biên thành một câu chuyện ly
kỳ. Theo như câu chuyện cuối cùng được thuật lại thì Juca bắt gặp Margot đang
ôm hôn Virgílio; y đã rút súng lục ra. Tuy nhiên Virgílio không để cho y kịp nổ
súng, và hai bên đã ghì lấy nhau, đánh nhau để giành lấy người con gái. Cách
thuật lại như vậy được nhiều người công nhận nhất, nhưng cả đến những người được
chứng kiến vụ này, khi kể lại cũng lúng túng vì những mâu thuẫn hiển nhiên.
Theo một số thì Juca đã rời khỏi tiệm cà phê để cho Margot không tiếp tục nhảy
với Virgílio, và đã xin lỗi tay này khi qua bàn gã. Nhưng đa số thì nói ngược lại:
Juca đã thách Virgílio chơi nhau một trận và viên thầy kiện đã lộ rõ mặt là một
thằng hèn.
Mặc dầu có một thực tế là những chuyện nhỏ
mọn nhất ở Ilhéus thường được khuếch đại lên rất nhiều, Virgílio vẫn lấy làm ngạc
nhiên khi thấy Horácio xem đó là chuyện trọng đại. Ngày hôm sau, viên đại tá mời
Virgílio đến ăn cơm; Virgílio mừng rỡ nhận lời, vì như vậy gã đã có cớ để ra mắt
và được gần Ester, được cảm thấy sự có mặt của ả, được nghe thấy tiếng nói yêu
dấu của ả. Gã đến trước giờ một chút, nên tới cửa đã gặp Maneca Dantas cũng được
mời tới. Maneca ôm hôn gã, Horácio cũng làm như vậy khi họ đi vào nhà.
Hai người kia có vẻ rất nghiêm trọng, và
Virgílio tưởng đã xảy ra chuyện gì mới ở quanh khu rừng Sequeiro Grande. Gã định
hỏi thì cô hầu đã ra báo đến giờ ăn. Thế là Virgílio quên hết - gã sắp được gặp
Ester. Nhưng gã hết sức kinh ngạc khi thấy ả tiếp gã một cách lạnh lùng; gã
nhìn thấy mắt ả có vệt nước mắt mới chùi. Gã tưởng Horácio đã biết điều gì về
Ester và gã, và bữa cơm chỉ là một cái mẹo thôi. Gã lại nhìn Ester và lúc đó,
gã nhận thấy không phải ả chỉ buồn mà còn phật ý nữa. Tuy nhiên, đại tá Horácio
vẫn tỏ ra khá hòa nhã, hòa nhã hơn cả mọi khi nữa. Không, chắc chắn không phải
là chuyện Ester và gã. Thế thì có chuyện quái quỷ gì đã xảy ra vậy?
Chỉ có Horácio và Maneca nói chuyện; và
trong khi ấy, Virgílio không thể không nhớ lại một bữa ăn khác ở đồn điền và cuộc
gặp gỡ đầu tiên giữa gã với Ester. Mới có vài tháng trôi qua; và nàng đã thuộc
về gã; gã đã biết tất cả bí mật trên tấm thân yêu dấu của nàng, gã đã biến nàng
thành của riêng gã và đã dạy nàng những bí ẩn say sưa nhất của ái ân. Nàng đã
là sở hữu của gã, là vợ gã. Gã chỉ nghĩ đến một điều: đưa nàng đi xa khỏi cái đất
đầy án mạng và chết chóc bất thần này, đến Rio de Janeiro, để sống cuộc đời của
họ trong một ngôi nhà thật sự là của họ. Đó không phải chỉ là một ước mơ suông.
Virgílio chỉ còn đợi làm được kha khá tiền, gã cũng đợi thư trả lời của một người
bạn ở Rio de Janeiro đang gắng tìm cho gã một chân luật gia hay một chức vụ gì
đó. Chỉ có Ester và gã là biết điều bí mật ấy; họ đã bàn tới việc đó giữa những
cái hôn, trên cái giường rộng mênh mông chiếm gần hết cả gian phòng. Họ đã mơ tới
ngày hoàn toàn thuộc về nhau, không còn phải sợ hãi gì cho mối tình của họ như
bây giờ, sợ bọn đầy tớ ngờ vực sự có mặt của gã trong nhà. Họ đã mơ tới lúc có
thể khoác tay nhau đi ngoài phố khi họ sẽ mãi mãi là của nhau. Trong khi Maneca
Dantas và Horácio bàn chuyện mùa màng, giá ca cao, chuyện trời mưa, số ca cao mềm
bị mất, Virgílio nghĩ tới lúc họ nằm với nhau, vuốt ve nhau, bàn tính chuyện đi
trốn tỉ mỉ từng chi tiết một, để mỗi lần lại kết thúc bằng những cái hôn vui sướng
và kéo dài, làm bừng bừng xác thịt yêu đương của họ, cho tới khi bình minh đến
đuổi gã lén lút ra khỏi nhà Horácio.
Những ý nghĩ trên bị ngắt đứt vì Ester lợi
dụng lúc câu chuyện ngừng lại để hỏi một câu:
- Nghe nói đêm qua ông đã đóng vai hiệp sĩ
lang thang, có phải không, ông tiến sĩ Virgílio? - Ả cười, nhưng mặt vẫn lộ vẻ
buồn.
- Tôi ấy à? - Virgílio nói, chiếc dĩa trong
tay đang giơ lên dừng lại.
- Ester muốn nói tới chuyện xung đột ở tiệm
cà phê tối hôm qua đấy, - Horácio giải thích. - Tôi cũng nghe thấy.
- Nhưng có cuộc xô xát nào đâu, - Virgílio
đáp. Gã phân trần về chuyện đã xảy ra. Hôm qua gã có điều phiền muộn, gã thấy
trong lòng bồn chồn vì một lý do nào đó - nói tới đấy, gã nhìn Ester - và nhân
gặp đại tá Maneca, gã mời ông ta giải khát ở tiệm cà phê.
- Ông nên nói là ông đã kéo tôi đến đấy.
Chuyện ra sao thì cứ thế mà kể lại đi. - Và Maneca Dantas cười.
Như vậy là họ đi uống một cốc whiskey, có
thế thôi, rồi Manuel de Oliveira đến bắt chuyện với họ. Ở bàn hắn ta có một ả
mà Virgílio có quen ở Bahia lúc còn đi học. Hai người nhảy với nhau một điệu
waltz, và khi gã vỗ tay hô bis* thì
Juca Badaró ở đâu hiện ra, kéo ả kia đi. Ả chẳng là cái quái gì đối với gã cả,
và câu chuyện sẽ không có gì là quan trọng nếu như Juca khi đi ngang qua không
chửi gã một câu. Đại tá Maneca Dantas đã ngăn không cho gã trả miếng lại lời sỉ
nhục ấy, nếu không gã đã đâm ra lố bịch vì một con người mà gã không hề quan
tâm đến tí nào.
*[Bis: lại một lần nữa]
Tất cả câu chuyện là như vậy; gã lấy Maneca
ra làm chứng. Nhưng Ester vẫn tỏ ra dửng dưng trước mọi lời phân trần đó.
- Dù sao đi nữa, việc ấy thì có gì là quan
trọng? - Ả nói. - Tiệm cà phê là nơi người ta có thể gặp một thanh niên chưa vợ,
không có gia đình ràng buộc. Ông hoàn toàn có quyền giải trí, và không ai trách
móc gì ông cả. Còn như ông bạn Maneca của chúng ta hiện có mặt ở đây thì lại là
chuyện khác. - Ả giơ ngón tay lên dọa hắn - Ông ta đã có vợ có con, có lẽ tôi đến
phải nói cho bà ấy biết mới được, ông nghĩ thế nào? - Nụ cười của ả trông chẳng
vui chút nào.
Maneca thực thà cười vui vẻ, và yêu cầu ả đừng
có nói gì với Auricídia: “Nhà tôi ghen kinh khủng lắm”. Horácio bèn dừng câu
chuyện lại: “Thế là đủ rồi đấy, mình ạ. Ai cũng có quyền vui chơi bằng cách này
hay cách khác để quên những điều mình lo nghĩ”.
Virgílio cảm thấy thoải mái hơn; giờ đây gã
đã biết tại sao Ester lại phật ý, biết lý do của cái vẻ dửng dưng gượng gạo
kia, của những vệt nước mắt kia. Thôi thì còn thiếu chuyện ngồi lê mách lẻo nào
mà nàng không phải nghe, từ miệng những mụ gái già kỳ quái kia trong thành phố
nói ra, từ miệng những bà mộ đạo không còn có việc gì làm ngoài việc thò mũi
vào đời tư người khác. Gã những muốn ôm lấy nàng trong tay vừa vuốt ve nàng, vừa
phân trần với nàng rằng Margot không có nghĩa lý gì đối với gã cả, rằng gã nhảy
với ả chỉ là một chuyện hoàn toàn ngẫu nhiên.
Một niềm trìu mến sâu xa tràn ngập lòng gã;
cũng có một thứ tình cảm khác nữa, pha lẫn chút hãnh diện khi gã biết rằng nàng
đã buồn vì ghen. Cô hầu đưa cà phê vào.
Bấy giờ Horácio mời Virgílio sang phòng giấy
vì lão muốn nói chuyện với hắn. Maneca Dantas cũng vào; Ester ngồi lại đan.
Phòng giấy cũng nhỏ thôi, cái két bạc to tướng
là thứ nổi lên rõ nhất. Virgílio ngồi xuống, và Maneca chọn một chiếc ghế bành:
“Ghế này mới hợp với khổ người tôi”. Virgílio chờ đợi, tưởng rằng Horácio muốn
hỏi ý kiến gã về một điểm nào về luật có dính dáng đến vụ kiện.
Viên đại tá tiếp tục vấn thuốc lá, bàn tay
đầy chai chậm rãi cuốn thuốc, lấy dao díp nạo cái cọng rơm lúa mạch. Cuối cùng
lão nói:
- Tôi ưa cái cách ông vừa giải thích câu
chuyện cho Ester, - lão nói. - Nếu không thì nhà tôi sẽ băn khoăn bởi vì nhà
tôi rất có cảm tình với ông, luật sư ạ. Nhà tôi gần như không có ai để nói chuyện,
tội nghiệp, vì nhà tôi vốn có học thức hơn những phụ nữ khác trong vùng này nhiều.
Nhà tôi thích nghe ông nói chuyện; ông và nhà tôi hai người đồng điệu với nhau.
Virgílio đưa mắt nhìn xuống, và Horácio nói
tiếp, sau khi châm điếu thuốc lão vừa quấn xong.
- Nhưng câu chuyện đêm vừa rồi là một việc
tệ hại. Ông có biết Juca Badaró tung ra tin đồn thế nào không luật sư?
- Tôi không biết, và xin nói thật với ông
là tôi không hề quan tâm đến chuyện ấy chút nào hết. Tôi rất hiểu anh em Badaró
chẳng có lý do gì để ưa tôi. Tôi là luật sư của ngài, thưa ngài, và hơn nữa lại
là luật sư của đảng. Lẽ dĩ nhiên là họ phải nói xấu tôi.
Horácio đặt chân lên một chiếc ghế; lão đứng
ngay bên cạnh Virgílio.
- Đó là chuyện của ông, tất nhiên rồi, luật
sư ạ. Tôi không thích đi vào đời tư người khác. Ngay cả khi người trong cuộc là
một người bạn thân của tôi như ông.
- Nhưng sao, có chuyện gì đấy ạ? - Virgílio
hỏi.
- Luật sư này, thế ông không hiểu rằng, nếu
ông không có được một hành động nào đó, thì không một ai ở đây, xin lỗi ông cho
tôi được nhấn mạnh, thì không một ai ở đây còn coi ông ra gì nữa.
- Nhưng tại sao kia?
- Juca Badaró kể với bất kỳ ai muốn nghe nó
rằng nó đã giằng được một phụ nữ ra khỏi tay ông, đã chửi ông mà ông chẳng làm
gì hết. Nó lại nói thêm - xin lỗi ông cho tôi được nhắc lại - rằng ông là một
thằng hèn, luật sư ạ.
Virgílio tái mặt đi, nhưng cố trấn tĩnh được.
- Tất cả những ai chứng kiến cái cảnh ấy, -
gã nói - đều biết rằng không hề có chuyện như thế. Tôi nhảy xong và đang đợi
chơi lại bài nhạc. Và ngay cả lúc hắn nắm lấy tay Margot, tôi đã định can thiệp,
nhưng cô ta đã yêu cầu tôi không nên làm như vậy, và sau đó, khi hắn chửi,
Maneca Dantas đã giữ tôi lại.
Bấy giờ Maneca mới xen vào nói câu đầu
tiên:
- Cũng dễ hiểu thôi, luật sư ạ. Nếu tôi để
ông giơ tay lên lúc đó, thì giờ đây chúng tôi đã phải dự đám tang ông rồi; vì
Juca nó đã để tay vào khẩu súng và không ai ở đây muốn thấy ông bị giết cả, luật
sư ạ.
- Ông luật sư này, - Horácio nói - tôi ở
cái xứ này từ hồi còn nhỏ - và cũng đã lâu rồi đấy - tôi không hề thấy ai thông
tỏ những thói tục ở cái đất Ilhéus này bằng tôi. Ông bạn chúng ta đây nói đúng:
không ai muốn ông chết cả; nhất là tôi, vì tôi đang cần đến ông. Nhưng tôi lại
cũng không muốn thấy ông bị mất thanh danh ở xứ này và bị người ta coi là một
thằng hèn. Đó là lý do tại sao tôi lại đường đột nói với ông như vậy.
Lão ngừng lại như vừa đọc xong một bài diễn
văn dài. Lão quẹt một que diêm khác và giữ nó trong tay trong khi nhìn vào tận
mắt viên thầy cò, đợi gã trả lời.
- Thế thì thưa ngài, tôi phải làm gì, theo
ý ngài? - Virgílio hỏi.
Que diêm cháy đến ngón tay; Horácio vứt nó
xuống mặt sàn; điếu thuốc lá chưa cháy, lủng lẳng dính vào môi lão, trông nhỏ
xíu so với cặp môi dày của lão.
- Ở đây tôi có một tên cabra, - lão nói - một người hoàn toàn tin cậy được. Thứ năm này, Juca
Badaró sẽ lên đồn điền theo như lời người ta nói với tôi. Cho nó năm mươi milreís, luật sư ạ, nó sẽ đảm đương công
việc.
- Thế nào kia? - Virgílio chưa hiểu rõ lắm.
- Năm mươi milreís thôi, - Maneca Dantas cắt nghĩa - nó sẽ làm việc kia. Ngày
thứ năm nó sẽ đợi Juca ở dọc đường và có mà thánh cũng không cứu hắn thoát được.
- Và ông sẽ không bị nguy hiểm chút nào hết,
- Horácio nói thêm để khuyến khích - vì anh em nhà Badaró sẽ cho rằng chính tôi
sai nó đi. Nếu như có truy tố gì thì sẽ là truy tố tôi thôi. Nhưng phải làm thế
nào để chuyện đó không làm rầy đến ông.
Virgílio đứng lên:
- Nhưng thưa ngài đại tá, thản nhiên sai một
tên jagunco đi giết một người, như vậy
đâu phải là tỏ ra mình dũng cảm. Tôi không cho thế là dũng cảm. Chà, nếu là gặp
Juca ngoài phố và cho nó một quả đấm vào mặt thì lại là chuyện khác. Nhưng sai
một tên cabra đi bắn nó, không, thế
không phải là dũng cảm.
- Tuy nhiên sự việc lại đến chỗ phải như thế
đấy, luật sư ạ. Và nếu ông còn muốn làm nên sự nghiệp, thì hãy để tôi gọi tên ấy.
Nếu không thì đừng có hi vọng gì hết. Cho dù ông có là luật sư giỏi nhất thế giới,
cũng sẽ chẳng có ai cần đến ông nữa đâu.
- Kể cả đảng nữa, - Maneca Dantas nói.
Virgílio gieo mình xuống ghế, ngẫm nghĩ. Gã
không ngờ chuyện lại xoay ra như thế. Nhưng gã hiểu rằng Horácio nói đúng, ở
cái đất này, sai giết được ai là một hành động dũng cảm, và khiến ta trở thành
người đáng kính trọng. Gã biết chắc chắn rằng không có chuyện lừa bịp nào hết;
nếu như sau đó có xảy ra việc gì lôi thôi về pháp lý, thì tội vạ sẽ đổ lên đầu
Horácio. Nhưng Virgílio vẫn thấy mình không có lý do gì để ám sát Juca Badaró cả.
- Cho phép tôi nói với ông một lời này, luật
sư ạ, vì tôi là bạn thân của ông. - Horácio nói thêm - Dẫu sao đi nữa thì tôi
cũng sẽ khử Juca Badaró. Tôi đã quyết định như vậy rồi. Nó đã giết chết bốn thủ
hạ của tôi - lão cải chính - nghĩa là nó đã cho tay chân nó giết, nhưng, ở đây,
thì cũng là vậy thôi. Nó đã đốt cháy đồn điền của Firmo, nó đã bao vây nhà của
Braz. Và chưa hết đâu, tốt hơn cả là hạ thủ nó đi cho xong chuyện. Tuần sau,
tôi sẽ bắt đầu khai phá rừng và thằng Juca Badaró sẽ không còn đấy nữa để nhìn
thấy tôi.
Lão ngừng lại, quẹt một que diêm khác, kéo
một hơi thuốc lá. Lão nhìn Virgílio chằm chằm và lời lão nói trở nên đầy ý
nghĩa: “Tôi chỉ tìm cách giúp ông thôi, luật sư ạ. Ông chỉ có mỗi việc là ra lệnh
cho thằng kia, và tất cả mọi người sẽ biết là chính ông đã sai nó đi giết Juca
Badaró, cho dù tôi vẫn nhận hết tội vạ về phần mình. Sau đó, sẽ không ai kiếm
chuyện làm phiền ông, kể cả ông lẫn bất cứ một người đàn bà nào của ông. Người
ta sẽ kính trọng ông”.
Maneca Dantas vỗ vai Virgílio; đối với hắn
thì chuyện đó thật giản dị nhất trần đời. “Ông chỉ phải nói bốn năm tiếng, thì
phỏng có mất gì nào?” Và Horácio nói như để kết luận: “Luật sư ạ, ông biết là
tôi yêu mến một người có học thức; nhưng ở cái đất này nếu chỉ có học thức thôi
thì không nên công trạng gì đâu”.
Virgílio cúi đầu xuống. Viên đại tá muốn
sai người đi giết Juca nhưng lão ta lại muốn chính gã phải ra lệnh cho thằng jagunco; bằng cách ấy, tên gã sẽ được
đưa lên bảng danh dự của những người đại đởm ở Ilhéus. Gã nghĩ đến Ester ngồi
đan ở phòng bên đang nát gan nát ruột vì ghen. Gã nghĩ tới chuyện ra đi với ả,
rời bỏ cái xứ sở này đến một xứ văn minh, ra đi thật xa khỏi những cánh rừng
này, những thành phố này, khỏi cái thị trấn dã man này, khỏi ngôi nhà có hai
tên đại tá đang khuyên gã nên sai sát thủ đi giết người, vì lợi ích của gã -
“vì lợi ích của gã!”
Ôi! Cùng Ester trốn đến một xứ mà mỗi buổi
sáng đều khác nhau, mỗi buổi chiều đều đẹp hơn, còn như mỗi buổi tối những lời
than van duy nhất chỉ là những tiếng thở dài dịu dàng của ái ân. Trên một mảnh
đất khác, một mảnh đất khác xa xôi...
Tiếng nói của Horácio xuyên ngang gian
phòng lọt vào tai gã:
- Ông quyết định đi, ông luật sư!
4
Suốt mùa đông dài dằng dặc này mưa như trút
nước; nước mưa róc rách trên mái nhà, chạy dọc theo cửa kính. Gió thốc lên từ mặt
biển, lay động những hàng cây trong vườn; lá và quả xanh rơi đầy mặt đất. Ester
nhắm mắt lại chập chờn như thấy một chiếc lá đang xoáy lộn điên cuồng trong
không trung; những giọt nước mưa nặng nề rơi vào chiếc lá, đè dấn nó xuống đất.
Ả rùng mình và định ngủ; ả thu mình nép sát bên tình nhân, chân quấn lấy chân
gã, đầu đặt lên bộ ngực rộng của gã. Virgílio hôn lên mái tóc lộng lẫy và nhẹ
nhàng đặt môi lên mi mắt nhắm chặt của ả. Ả rút tay ra và ôm lấy người gã.
Giấc ngủ đã đến, mi mắt ả mỗi lúc một nặng,
người mệt nhoài vì cuộc yêu đương cuồng nhiệt vừa qua. Virgílio vẫn cứ nói tiếp,
giọng hấp tấp, bứt rứt: gã muốn ả thức cùng với mình. Nửa đêm rồi; mưa không ngớt,
mà càng mau hạt hơn lúc nào hết; cùng với cơn mưa, giấc ngủ đã đến làm Ester thấy
thoải mái dễ chịu. Virgílio vẫn cứ nói, gã kể cho ả nghe những kỷ niệm xưa, hồi
gã còn là sinh viên ở Bahia. Thậm chí gã còn nhắc đến cả những người đàn bà gã
đã gặp trong đời, thử xem như thế có làm ả tỉnh ngủ được không, để ả phải chống
lại giấc ngủ. Nhưng Ester chỉ trả lời dóng một và cuối cùng ả quay hẳn người
đi, úp mặt vào gối: “Anh cứ kể tiếp đi, anh yêu, kể cho em nghe...”
Gã thấy ả đã ngủ mất rồi; và lúc bấy giờ gã
mới thấy hết sự trống rỗng của những lời mình nói, của mọi thứ chuyện gã kể về
cuộc đời sinh viên của mình. Những chữ hoàn toàn vô nghĩa hoặc vô bổ.
Những giọt nước mưa chảy ròng ròng theo những
ô kính “như những giọt nước mắt”, Virgílio nghĩ vậy. Giá khóc được thì tốt quá,
để cho nỗi đau khổ thoát ra khỏi đôi mắt và chảy xuống hai bên má.
Đối với Ester thì như thế đấy, khi ả biết
gã nhảy với Margot trong tiệm cà phê, ả đã để cho nước mắt chảy ra; sau đó ả đã
nghe và đã tin những lời phân trần của Virgílio dễ dàng hơn. Có nhiều người
cũng giống như ả khóc được thì cảm thấy như mình được an ủi. Nhưng Virgílio
không biết khóc. Ngay như khi nghe thấy tin bố chết đột ngột ở mạn trong, gã
cũng không khóc nổi. Gã yêu bố tha thiết; vì gã biết rằng việc học hành của gã
đã làm cho người bố tốn kém biết bao nhiêu và gã biết bố gã rất hãnh diện vì
con. Gã cứ đứng ngây ra giữa phố, cổ nghẹn lại, khi một người quen đưa gã một
lá thư của bà dì báo tin buồn, cổ họng nghẹn lại, nhưng không có giọt nước mắt
nào trong đôi mắt ráo hoảnh, ráo hoảnh đến thành nhức nhối. Không có lấy một giọt
nước mắt nào cả.
Những giọt nước-mắt-mưa ròng ròng trên mặt
kính, giọt nọ tiếp giọt kia. Virgílio bèn nghĩ rằng đêm tối đang khóc những người
đã chết của cái đất này.
Họ nhiều biết bao! Chỉ có một trận mưa rào
lớn mới có thể rửa hết bấy nhiêu máu đổ! Gã làm gì ở đây, tại sao gã lại đến
đây? Giờ thì đã muộn quá mất rồi, đã có Ester, con người duy nhất gã sẽ đem đi
theo. Gã đến đây, lòng đầy tham vọng; gã đã mơ tưởng sẽ có vàng nhiều như suối
chảy, một ghế ở Viện dân biểu, một tiền đồ chính trị, với cả cái vùng ca cao
phì nhiêu này mà gã chỉ việc xòe tay ra là nắm được. Thoạt đầu, gã chỉ nghĩ đến
bấy nhiêu thứ, và mọi chuyện đều trôi chảy cả, sự việc xảy ra đã thỏa mãn đầy đủ
những khát vọng của gã: gã kiếm ra tiền, bọn đại tá tín nhiệm gã, gã đã thành đạt
trong cương vị nhà luật học; về mặt chính trị mà nói, mọi chuyện cũng đều tốt đẹp.
Cái hố chia cách chính phủ bang và chính quyền Rio de Janeiro [thủ đô liên bang
Brazil] ngày càng rộng ra, và người ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng
chắc chắn sau kỳ đầu phiếu này, cái chính quyền hiện nay của bang sẽ bị đổ, thậm
chí còn có triển vọng nó phải rớt đài sớm hơn, vì ở Bahia, người ta đã nói tới
một hành động can thiệp của liên bang. Những thủ lĩnh của phe đối lập ở Rio de
Janeiro giờ đây đang đàm phán; tổng thống nước cộng hòa đã tiếp họ, tình hình
ngày một sáng sủa dần ra. Cũng có cơ sang năm tới, Virgílio sẽ có chân trong Hạ
nghị viện, và nếu như có một sự thay đổi chế độ, thì không còn nghi ngờ gì nữa,
nhất định gã sẽ trúng cử.
Ester xuất hiện; thế là gã chẳng còn biết
gì nữa hết. Giờ đây chỉ còn thân hình nàng, cặp mắt, giọng nói, những dục vọng
và tình yêu của nàng là đáng kể mà thôi. Nói cho cùng, Virgílio vẫn có thể xây
dựng được một sự nghiệp ở Rio de Janeiro cũng như ở đây kia mà; thực ra, gã đã
nghĩ tới chuyện đó ngay từ đầu khi đỗ bằng tiến sĩ luật. Nếu như gã có thể kiếm
được việc làm với một luật sư có đông khách hàng, thì nhất định gã sẽ đi ngay.
Thời gian sống ở Tabocas và Ilhéus sẽ không uổng chút nào cả. Trong một năm tám
tháng gã đã học được nhiều hơn là năm năm ở nhà trường.
Người ta thường nói một viên thầy cò ở
Ilhéus có thể hành nghề ở bất cứ nơi nào, và quả đúng như vậy ở đây, mọi ngón
tinh vi nhà nghề đều được đem ra thử thách, ở đây, phải có một hiểu biết sâu sắc
về luật và các mánh khóe xoay trở nó thành chuyện khôi hài. Muốn đi đâu thì đi,
Virgílio cũng vẫn có nhiều triển vọng thành công - không phải vô cớ mà trong giới
luật sư ở Ilhéus, người ta nhận xét gã là một trong những thầy cò giỏi nhất
thành phố. Tất nhiên, ở những nơi khác thì chẳng phải dễ dàng đến thế; gã sẽ
không tiến nhanh được bằng ở cái thành phố này, nơi mà gã đã gây được tên tuổi
và một tiền đồ chính trị. Dễ dàng, nhanh chóng - hai tiếng ấy như in vào đầu
gã.
Ở đây, gã đã vươn lên nhanh chóng, nhưng
không phải dễ dàng. Bắt buộc phải sai tay chân đi giết người khác để được vị nể,
đó phải chăng là chuyện dễ dàng? Để gây uy tín với mọi người và rẽ lấy một lối
đi trên trường chính trị? Không, chẳng dễ dàng tí nào đâu. Dù sao thì đối với
gã cũng không dễ dàng gì; gã là người được nuôi dạy ở một vùng khác, có những tập
quán khác, và những cách nhìn nhận sự việc theo lối khác. Đối với bọn đại tá ở
xứ này, đối với các nhà luật học đã sống già đời ở đây - đối với Horácio, với
Maneca Dantas, đối với lão luật sư Genaro hay lên mặt học rộng tài cao và nổi
tiếng chay tịnh chỉ vì lý do không bao giờ đi chơi nhà thổ - đối với bọn họ thì
là chuyện dễ dàng đấy. Bọn chúng sai tay chân đi giết người như sai chặt một cây
gỗ, hay là tìm một bản trích lục khai sinh vậy. Phải, đối với bọn chúng thì khá
dễ dàng đấy, và Virgílio ít nhiều đã từng nghĩ ngợi về tình trạng kỳ lạ này.
Nhưng lúc này đây, gã nhìn nhận với một quan điểm khác về những con người thô bạo
ở đồn điền, những tay luật gia xảo quyệt ở thành phố và ở thị trấn, những kẻ hết
sức bình thản sai bọn cabra đi phục
sau một gốc cây đợi kẻ thù của chúng mà bắn vào đầu họ. Ước vọng đầu tiên của
gã là đi trốn với Ester; thứ nữa là quên đi những tấn thảm kịch hằng ngày vẫn
diễn ra ở trong vùng. Phải đến khi chính gã bắt buộc phải sai người đi giết một
người khác, gã mới nhận ra cái xấu xa ghê tởm của tất cả những chuyện đó, mới
hiểu rằng cái xứ sở này đã làm cho con người đê tiện đi đến thế nào.
Phu các đồn điền dính bết bùn ca cao; bùn ấy
biến thành một lớp vỏ dày không thứ nước nào có thể cọ đi cho sạch được. Và tất
cả - phu phen, jagunco, đại tá, luật
sư, bác sĩ, nhà buôn, bọn làm nghề xuất khẩu - tất cả đều có cái chất bùn này
dính chặt vào tâm hồn, trong tận đáy lòng, vào tim; không một thứ giáo dục nào
có thể gột nó đi được. Vì ca cao là giàu có, ca cao là thế lực, ca cao là tất cả
trên đời; không phải chỉ là một thứ được cắm xuống đất đen và tràn đầy nhựa, mà
là một thứ đã trở thành thân thích của họ. Nó mọc lên trong lòng họ, nó chiếu một
cái bóng hắc ám vào con tim họ, bóp chết mọi hoài bão cao xa. Virgílio không
căm ghét gì Horácio, Maneca Dantas, càng không căm ghét người da đen tươi tỉnh
mà gã đã ra lệnh đi giết Juca Badaró buổi tối thứ năm ấy, cái lệnh mà gã đã phải
khó nhọc lắm mới thốt ra được. Không, nếu như gã có căm ghét cái gì thì đó là
ca cao. Gã cảm thấy bị nó thống trị, và hết sức chua xót về nỗi đã không đủ nghị
lực từ chối và để mặc Horácio một mình gánh lấy trách nhiệm về cái chết của
Juca.
Thật ra, gã không ý thức được rằng cái đất
này cùng những phong tục của nó, và tất cả những gì dính dáng đến ca cao, đã
xâm chiếm gã đến mức nào. Một hôm, ở Tabocas, gã đã tát Margot, và khi đó, lần
đầu tiên, gã nhận ra rằng có một Virgílio khác, một Virgílio xa lạ với gã, khác
hẳn với Virgílio ngồi ở ghế nhà trường, hiền lành và hòa nhã, đầy tham vọng
nhưng vui vẻ, hay thương người, bao giờ cũng dễ xúc động trước đau khổ. Giờ
đây, gã đã trở thành một con người thô bạo. Nào gã có khác gì Horácio? Thật vậy,
gã giống hệt như lão; họ đều có những phản ứng như nhau. Khi gã biết Ester, gã
những tưởng sẽ cứu nàng thoát khỏi tay một con quỷ, một con người hèn hạ, vô
ích và nhu nhược. Nhưng rốt cuộc, nào có gì là khác? Cả hai đều là kẻ sát nhân;
cả hai đều sai capanga đi giết người;
cả hai đều sống bằng quả vàng của cây ca cao.
Lúc này đây, Virgílio nghĩ bụng, Juca chắc
đã ăn đạn rồi và chỉ còn là một cái xác chết trên đường. Nhưng nó sẽ không phải
chôn dưới một gốc cây như kẻ khác, với một cây thập tự thô kệch đánh dấu chỗ. Juca
là một điền chủ giàu có, xác nó sẽ được mang về Ilhéus, nó sẽ được đưa đám trọng
thể, và luật sư Genaro sẽ đọc một bài diễn văn tại nghĩa địa, so sánh người quá
cố với những danh nhân lịch sử của dĩ vãng. Có thể cả Virgílio cũng sẽ đi đưa
đám, vì ở đất này, kẻ giết người đi theo quan tài nạn nhân của mình không phải
là chuyện lạ; nghe nói người ta còn thấy có tên giúp một tay khiêng linh cữu,
hoặc buồn rầu và bận đồ đen nữa kia. Không, gã sẽ không đi đưa đám ma Juca; làm
sao gã có thể nhìn thẳng vào mặt Dona Olga được? Juca vốn không phải là thằng
chồng tốt, nó đã sống chung với nhiều đàn bà khác; nó đã từng cờ bạc ở quán cà
phê; mặc dầu vậy, Olga sẽ khóc và thở dài. Làm sao gã có thể nhìn mặt mụ những
lúc ấy được? Gã chỉ còn mỗi một cách là ra đi, đi xa, đi xa đủ để quên thành phố
Ilhéus, quên chuyện ca cao và chuyện chết chóc trong đêm tối; đi xa để khỏi phải
nhớ cái đêm ấy trong nhà Ester, khỏi phải nhớ cái cảnh ấy trong phòng giấy viên
đại tá, nơi gã đã đồng ý gọi tên cabra
tới.
Tại sao gã lại đồng ý thế, nếu như gã không
bị cột chặt vào cái đất này không gỡ ra được? Và cái ước vọng tha thiết của gã:
đi trốn với Ester, phải chăng đó là giấc mơ cứ lùi mãi về tương lai? Phải,
Virgílio đã bị buộc chặt vào cái đất này; gã hi vọng chính mình sẽ trở thành điền
chủ; trong thâm tâm, gã hi vọng Horácio một ngày kia sẽ bị giết chết trong một
cuộc ẩu đả ở rừng Sequeiro Grande, để cuối cùng gã có thể lấy được Ester.
Phải nhận rằng chính gã đã ước mong như vậy,
rằng ngày này qua ngày khác gã vẫn chờ đợi cái tin viên đại tá chết, cái tin
báo rằng lão đã bị một viên đạn của anh em nhà Badaró hạ thủ. Kể cả lúc gã dự định
kiếm một việc làm ở Rio de Janeiro, kể cả lúc gã cố gắng làm được nhiều tiền
hơn nữa để có thể đi khỏi, bao giờ gã cũng tìm thấy những cớ để hoãn lại cuộc
đi trốn với Ester; gã vẫn luôn luôn chờ đợi cái điều mà gã cho là không thể
tránh khỏi: Horácio bị anh em nhà Badaró giết chết và vấn đề như vậy là được giải
quyết. Đã có lần gã nảy ra ý nghĩ như vậy; gã cố xua đuổi nó đi khỏi đầu óc.
Nhưng nếu chuyện Horácio bị giết chết xảy ra thực, gã nghĩ bụng, thì lúc đó gã
sẽ khuyên Ester dàn hòa với anh em nhà Badaró, thỏa thuận với bọn chúng để cùng
nhau chia lại khu rừng, đồng thời chấm dứt cuộc xung đột. Nhưng nghĩ đến đấy,
gã lại tự dối lòng bằng cách tự nhủ rằng đó chỉ là chuyện phỏng chừng thôi, rằng
gã không có quyền trốn tránh nhiệm vụ làm thầy cò của gia đình Horácio.
Hôm nay, nằm trên giường này, nhìn mưa khóc
trên cửa kính, gã thấy phải tự thú với mình một sự thật: gã cảm thấy mình không
còn có tự do rời bỏ đất này nữa, mà trái lại gã đã bị gắn chặt vào đó bằng một
cái xác chết, bằng Juca Badaró, bởi vì gã phải chịu trách nhiệm về vụ án mạng
này. Vậy gã chỉ còn cách là chờ nữa, ngày này qua ngày khác, chờ tới bao giờ đến
lượt Horácio chết, và người ta sẽ chôn viên đại tá. Lúc bấy giờ gã sẽ được
Ester; sẽ được cái cơ nghiệp này và khu rừng Sequeiro Grande. Gã sẽ giàu có và
được kính nể, gã sẽ là thủ lĩnh chính trị, là dân biểu, là nghị sĩ, là gì nữa
chẳng được?
Người ta sẽ bàn tán về gã trong các phố phường
ở Ilhéus, nhưng người ta sẽ phải chào gã một cách quỵ lụy, và người ta phải cúi
rạp mình trước mặt gã. Không có lối thoát nào khác cả. Đừng có hoài công nghĩ đến
chuyện đi trốn, đến chuyện rời khỏi đây để làm lại cuộc đời khác; muốn đi đâu
thì đi, gã vẫn phải mang theo hình ảnh Juca Badaró ngã ngựa, tay ôm lấy vết
thương, hình ảnh mà Virgílio thấy chập chờn phản chiếu trên mặt kính chan hòa
nước mưa. Gã nhìn vào hắn với hai con mắt ráo hoảnh, không một giọt nước mắt,
và gã chợt nhớ ra rằng tim gã cũng khô héo, cũng bị bóng cây ca cao màu đêm đen
bóp nghẹt.
Phải, đừng có hoài công nghĩ đến chuyện đi
trốn. Chân gã đã sa lầy trong lớp bùn của đất này rồi; bùn của ca cao, bùn của
máu nữa. Không bao giờ gã có thể mơ tới một cuộc đời khác. Đêm thứ năm ấy, trên
dọc đường về Ferradas, có một người đi hạ sát Juca Badaró. Virgílio quay người
lại để ôm hôn Ester nằm bên gã. Còn ngái ngủ, ả mỉm cười:
- Không làm bây giờ đâu, anh yêu ạ.
Nỗi khắc khoải càng tăng lên, gã vội vã mặc
quần áo. Phải để cho nước mưa ướt sũng người, làm ướt cái đầu nóng bỏng, gã muốn
rửa hai bàn tay này đi, hai bàn tay vấy máu, và cả trái tim, cũng vấy cùng một
thứ máu kia. Mải nghĩ, gã quên bẵng không giữ gìn thận trọng như mọi lần khi lẻn
ra vườn và đi lên con đường xe lửa. Gã bỏ mũ ra, cho nước mưa chảy ròng ròng
trên mặt, như những giọt nước mắt mà tự gã không tài nào khóc ra cho được.
5
Tuy nhiên, chẳng có việc gì đáng để cho
Virgílio phải bồn chồn, cũng như chẳng có gì khiến cho Horácio lạc quan, cái vẻ
lạc quan mà bác sĩ Jessé tưởng như đọc được trên nét mặt lão trong cái đêm thứ
năm ấy khi lão nghỉ lại nhà viên thầy thuốc ở Tabocas. Ngay từ khi bắt đầu nổ
ra những cuộc xung đột về khu rừng Sequeiro Grande, Horácio thôi không dám đi
đường ban đêm nữa, mặc dầu có bọn tay chân hộ vệ đi theo. Chiều hôm đó có về đồn
điền cũng quá muộn mất rồi, lại mắc công việc ngoài tỉnh, nên lão bèn hoãn lại
đến hôm sau mới đi, và giải trí bằng cách đến phòng khám của viên bác sĩ xem
ông ta thăm bệnh. Thì giờ cũng chẳng mất đi đâu cả, vì các khách đến chữa bệnh
đều là chỗ quen thuộc và phe cánh của lão. Lão nói với mỗi người một câu, hỏi
thăm về công việc buôn bán hoặc chuyện riêng tư, chuyện gia đình. Lão biết cách
tỏ ra rất hòa nhã khi lão muốn, và ngày hôm đó lão rất hồ hởi; thì giờ trôi
qua, thái độ lão càng thêm thân mật.
Từ cửa sổ phòng khám bệnh, lão nhìn thấy
Juca Badaró đi ủng có đinh thúc ngựa, ở cửa hàng sắt nhà Azevedo bước ra và đi
dọc theo đường phố. Nét mặt viên đại tá nhoẻn một nụ cười mãn nguyện khi lão
nhìn thấy kẻ thù bước đi một cách bực dọc. Lúc này đây, tên cabra lão đã cử đi, đang nấp trong một
chỗ kín trên con đường về Ferradas. Virgílio phải vất vả lắm mới tự quyết định
được. Horácio mến gã thầy kiện trẻ nọ; lão tin chắc là mình đã thực sự giúp đỡ
gã, cho gã cái ưu thế là khử Juca mà không nguy hiểm chút nào. Lão điền chủ rời
cửa sổ để ra nói chuyện với một thiếu phụ vừa bước vào, đó là vợ Sílvio
Mãozinhas, người có một khu đất ở gần Palestine và là một trong những đồng đảng
tin cậy nhất của viên đại tá ở vùng này. Chồng mụ sốt mê man và ngày hôm ấy mụ
phải đưa hắn ra tỉnh cho bác sĩ Jessé khám. Họ nghỉ trong ngôi nhà nhỏ của họ ở
bên kia sông. Mụ vợ rất lo lắng. Phải cáng chồng mụ trong một cái võng, mụ nói,
vì y không còn sức đi ngựa nữa.
Horácio đi theo bác sĩ Jessé đến nhà người ốm,
rồi giúp một tay vực y lên giường cho bác sĩ khám. Lão hỏi người đàn bà xem mụ
có cần tiền không, và mong được giúp đỡ mụ. Bác sĩ Jessé biết viên đại tá vốn
hay tỏ ra khá sốt sắng với các bạn bè chính trị của hắn, nhưng ông ta thấy sự sốt
sắng của lão có điều hơi quá đáng, vì lão không chịu rời khỏi gian phòng khi
ông ta khám bệnh; lão cứ nằn nì đòi giúp người đàn bà sửa lại cái bình đựng nước
tiểu cho ngay ngắn, thay bộ quần áo ướt đẫm mồ hôi cho Sílvio, cho y uống thuốc
do phòng bào chế gửi đến.
Khi ra về, bác sĩ Jessé gọi riêng viên đại
tá ra nói:
- Một ca tuyệt vọng.
- Có lẽ nào?
- Cái bệnh sốt này cướp người đi một cách
phũ phàng. Hắn không qua khỏi ngày hôm nay đâu. Tốt hơn là ông nên về đi tắm và
lấy cồn rửa tay đi. Không nên đùa với cái trò này.
Nhưng Horácio phá ra cười. Lão ở đến bữa
cơm chiều và hứa sẽ quay lại nữa.
Mãi đến khi ngồi vào bàn ăn, lão mới đi rửa
tay, và vẫn cười mãi về nỗi lo lắng của Jessé. Bệnh sốt chẳng dám lại gần lão
đâu, lão nói. Bác sĩ Jessé cứ ngập vào những chuyện giải thích khoa học; bởi vì
cái bệnh sốt chưa thể xếp loại được này là một trong những mối quan tâm chủ yếu
của ông ta. Chỉ trong rất ít ngày thôi là chết; hoàn toàn không có một phương
thuốc nào cứu chữa được cả. Tuy nhiên, không gì có thể làm giảm bớt cái nhiệt
tình của Horácio tối hôm ấy. Lão cảm thấy mình quảng đại đến nỗi đã trở lại
đóng vai y tá, chính lão đã chạy đi tìm bác sĩ Jessé khi người ốm sắp chết; lại
cũng chính lão đi tìm linh mục. Khi họ đến thì Sílvio đã chết rồi; mụ vợ ngồi
khóc trong một góc buồng. Horácio lúc đó mới chợt nhớ ra rằng Juca Badaró cũng
chỉ còn là một cái xác chết nằm sóng sượt trên đường, hai con mắt mở to và lờ đờ
như mắt Sílvio. Lão nói với bà góa rằng lão sẽ rất sung sướng được trả mọi phí
tổn về an táng, lại còn giúp mụ thay quần áo cho chồng.
Tuy nhiên, thực ra không có lý do gì đáng để
cho Horácio lạc quan và cho Virgílio chán chường cả. Bởi vì Juca Badaró, đối tượng
họ đang nghĩ tới, lúc này đang rong ruổi trên mình ngựa trở về đồn điền, bỏ lại
đằng sau hắn, trên đường cái, xác của người được sai đi phục kích hắn. Cúi gập
trên mình một con lừa do Viriato cầm cương dắt, là Antônio Vítor, lần thứ hai cứu
chủ thoát chết và trở về với một vết thương. Đó là một sự ngẫu nhiên. Khi tên
kia chuẩn bị súng, lắng nghe tiếng vó ngựa và mắt chằm chằm nhìn vào người cưỡi
ngựa đi đầu mà hắn nhận ra đúng là Juca, thì cùng lúc đó Antônio Vítor nghe thấy
một tiếng sột soạt khẽ ở ven đường. Tưởng đó là một con chuột bạch hay một con
vật gì đó, gã liền thúc lừa rẽ vào rừng, tính mang về một con thú cho Don’Ana.
Thoáng thấy tên cabra đang giơ súng
lên, gã liền bắn ngay, nhưng trệch đích. Tên kia bèn quay phắt lại, bắn Antônio
bị thương vào chân. Sở dĩ Antônio không bị viên đạn bắn trúng ngực bởi vì đúng
lúc đó gã đang nhảy xuống ngựa. Nghe thấy tiếng súng nổ, Juca và Viriato chạy tới
và tên cabra không kịp bỏ trốn. Trước
khi giết hắn, và chưa kịp săn sóc gì đến Antônio Vítor, Juca hỏi:
- Mày hãy nói cho chúng tao biết ai đã sai
mày đi, tao sẽ để cho mày sống.
- Ông luật sư Virgílio, - người kia nói -
nhưng ông đại tá Horácio...
Khi tên cabra
bước đi, Viriato bèn giơ súng lên; một tia chớp rạch màn đêm, và tên kia
ngã lao đầu xuống trước. Juca đang mải buộc vết thương cho Antônio Vítor bằng một
miếng vải xé ở chiếc sơ mi lụa của mình, nghe thấy tiếng nổ và đứng lên.
- Tao đã bảo tha cho nó kia mà? - Hắn thét
lên giận dữ.
Viriato tìm cách biện bạch:
- Bớt đi được một thằng, ông chủ ạ!
- Tao phải dạy cho mày biết vâng lời tao mới
được; đã nói sao là dứt khoát thế. Juca Badaró này không có nói hai lời.
Viriato cúi đầu xuống và lặng im. Rồi gã đi
lại chỗ người kia, lúc đó đã chết. Juca nhăn mặt.
- Lại đây, giúp tao một tay, - hắn nói với
Viriato.
Chúng đặt Antônio Vítor lên lưng lừa,
Viriato cầm lấy dây cương; chúng ra đi. Khi về đến đồn điền, đèn đóm đã đốt lên
cả, chứng tỏ Sinhô đang lo cho em trai đáng lẽ phải về tới nhà sớm hơn. Mọi người
đều ra cả ngoài bãi cỏ, một số jagunco
và thợ thuyền đến đỡ Antônio Vítor xuống ngựa. Nhiều câu hỏi rào rào nổi lên
khi đám người làm ở đồn điền xúm lại, tỏ ý muốn được giúp đỡ kẻ bị thương.
Sinhô Badaró đích thân ôm lấy vai gã khiêng vào trong nhà. Người ta đặt gã nằm
trên một cái ghế dài; Don’Ana sai Raimunda đi tìm cồn và bông. Khi nghe thấy
tên cô gái lai đen, Antônio Vítor bèn quay đầu lại. Chỉ có Don’Ana và gã nhận
ra tay Raimunda run lên khi ả đưa cho cô chủ chai rượu cồn và gói bông.
Ả đứng sát vào để giúp Don’Ana rửa vết
thương (viên đạn đã xé rách thịt nhưng không chạm vào xương); bàn tay thô và to
của ả trở nên âu yếm và mềm mại, dịu dàng, đúng với tính chất của bàn tay phụ nữ;
đối với Antônio Vítor, chúng lại càng dịu dàng hơn, dịu dàng và âu yếm hơn cả
đôi bàn tay nhẹ nhàng, thanh tú của cô chủ là Don’Ana.
6
Vào một buổi sáng rực rỡ và êm dịu, cô gái
lai đen Raimunda đi đến lán tiều phu, đem bánh và sữa của Don’Ana gửi cho
Antônio Vítor. Lán trống không, thợ thuyền đã đi rừng hái ca cao, và kẻ bị
thương nằm trằn trọc trên giường, giãy giụa trong một giấc ngủ mê man. Cô gái dừng
lại bên giường và nhìn gã. Cái chân quấn băng thòi ra khỏi một cái chăn cũ may
chần; ả nhìn thấy một lượt bùn ca cao dày cộp lên. Chiều nay, gã sẽ không đợi ả
ngoài bờ sông, sẽ không giúp ả nhấc xô nước lên.
Thốt nhiên Raimunda đâm hoảng. Nếu gã chết
thì sao? Sinhô Badaró nói vết thương của gã không sao cả, chỉ ba hoặc bốn ngày
nữa, Antônio Vítor sẽ lại đứng dậy đi lại như thường, sẵn sàng nhận một vết
thương khác. Mặc dù thế ả vẫn thấy sợ. Nếu như lão Jeremias da đen còn sống, ả
sẽ đánh bạo xuyên rừng đi xin thuốc của lão thầy mo ấy. Ả không tin những thứ
thuốc do nhà bào chế bán ra, đặt ở chỗ kia bên cạnh giường, mà giờ này ả sẽ cho
gã uống. Ả biết một câu thần chú chống bệnh sốt, chữa rắn cắn, một câu chú mà mẹ
ả đã dạy trong bếp. Thế là trước khi cho người bệnh uống thuốc, ả quỳ xuống đất
và cầu khấn:
- Cơn sốt chết băm chết vằm kia, tao chôn
vùi mày ba lần trong lòng đất. Lần thứ nhất, nhân danh Cha, lần thứ hai nhân
danh Con, và lần thứ ba nhân danh Thánh Thần, với sự phù trợ của Đức mẹ Maria đồng
trinh và tất cả các thánh. Tao van mày, cơn sốt chết băm chết vằm kia, và tao
ra lệnh cho mày phải quay về lòng đất, để cho...
Theo mụ Risoleta da đen, khi đọc đoạn này,
phải nói rõ quan hệ họ hàng gắn bó giữa bệnh nhân và người cầu khẩn là thế nào:
“bố tao, chồng tao, anh tao, chú tao” và vân vân. Raimunda ngập ngừng mất một
lúc. Nếu như trường hợp không nặng đến thế này và nếu như Antônio Vítor không
ngủ thì có lẽ ả đã không đọc hết câu thần chú:
“... để cho chồng tao khỏi bệnh, cầu sao được
vậy”.
Antônio Vítor thức giấc, mặt Raimunda lại cứng
rắn trở lại, cử chỉ cộc cằn. “Đến giờ uống nước rồi đấy”. Ả đưa cánh tay to
tròn nâng đầu gã dậy, gã nuốt một thìa nhỏ thuốc nước rồi nhìn ả bằng con mắt hừng
hực sốt. Ả đến gần cái chỗ có lẽ là bếp: ba hòn đá với một ít than còn sót lại,
những mẩu gỗ cháy dở, một cái siêu đặt trên những hòn đá. Ả hắt nước đi đổ đầy
sữa vào siêu, nhóm lửa. Antônio Vítor đưa mắt nhìn theo mỗi cử chỉ của ả. Gã
không biết bắt đầu ra sao. Cô gái ngồi xổm cạnh bếp đợi cho sữa sôi.
- Raimunda! - Gã gọi. Ả quay đầu lại và
nhìn gã.
- Lại đây...
Ả miễn cưỡng tiến lại, bước đi ngắn và chậm.
- Cô ngồi xuống đây, - gã nói và nhích ra để
một chỗ cho ả ngồi lên giường.
- Không, - ả trả lời trống trơn.
Antônio Vítor nhìn ả chằm chằm rồi lấy hết
can đảm hỏi:
- Cô muốn lấy tôi không?
Ả còn có vẻ hơi phật ý, mặt vẫn không lộ vẻ
gì, tay mân mê gấu váy, mắt chằm chằm xuống nền đất nện. Ả không đáp mà chạy đến
chỗ siêu sữa đang bắt đầu sôi:
- Sữa sôi rồi, suýt nữa thì trào mất.
Antônio Vítor nằm vật xuống, mệt nhoài vì cố
gắng vừa rồi. Lúc này, ả đang đun nước pha cà phê rồi rót vào một cái chén bằng
thiếc, nhúng bánh vào đấy để gã đỡ phải mất công làm. Rồi ả rửa chén và tắt lửa.
- Đến bữa ăn sáng tôi sẽ trở lại.
Antônio Vítor không nói gì, chỉ nhìn ả. Trước
khi đi, ả dừng lại một lần nữa bên giường gã, mắt nhìn xuống, tay vò váy, vẻ
cau có và giọng nói hơi gắt gỏng.
- Nếu bố đỡ đầu cho phép thì tôi cũng thuận.
Nói rồi, ả bước qua cửa, và Antônio Vítor cảm
thấy cơn sốt dâng lên.
7
Juca Badaró vừa mưu tính xong với Sinhô từng
chi tiết nhỏ về việc khai phá khu rừng. Đến thứ hai sẽ bắt đầu. Số người đã được
chỉ định: những ai hạ cây, đốt rừng, và những ai vác súng đi canh gác.
- Thế là nhất trí, thứ hai tôi bắt đầu.
Ngồi trong chiếc ghế kiểu Áo cao, Sinhô chờ
đợi. Lão biết Juca còn có chuyện khác muốn nói: “Cái thằng Antônio Vítor là một
caboclo khá đấy”.
- Phải, một thanh niên tốt, - Sinhô công nhận.
- Mà nó cũng kỳ cục thật. - Juca vừa nói tiếp
vừa cười - Tôi có xuống lều tiều phu nói chuyện với nó. Đây là lần thứ hai nó cứu
tôi, anh biết đấy. Lần thứ nhất ở Tabocas, anh còn nhớ không?
- Có, tôi nhớ.
- Cả tối hôm qua nữa. Cho nên tôi đã xuống
đấy xem thử nó thích cái gì. Tôi định cho nó cái mảnh đất đã vỡ hoang và đốt trụi
mà năm ngoái ta còn để chừa lại chưa trồng trọt gì. Đất ấy ở gần đồn điền giáp
giới ven rừng. Đất màu mỡ và có thể trồng trọt tốt. Nhưng anh có biết nó trả lời
tôi thế nào không?
- Không, thế nào?
- Nó nói - một lần nữa Juca lại cười - rằng
nó chỉ ao ước có một điều thôi, là xin anh cho nó cưới con Raimunda làm vợ. Đấy,
nó muốn như thế đấy... Mỗi người mỗi sở thích. Mình đến định cho nó một khu đất,
mà nó lại chỉ nghĩ tới cái con phù thủy gớm ghiếc kia thôi! Tôi có hứa là anh sẽ
bằng lòng.
Sinhô không phản đối gì:
- Tôi rất ưng để nó cưới con ấy, - lão nói
- và ngoài ra, nó sẽ được thêm cả khu đất nữa. Chuyến đi Ilhéus sắp tới này, tôi
sẽ bảo Genaro đăng ký quyền sở hữu cho nó. Với lại Raimunda cũng là một đứa con
gái tốt đấy. Tôi đã hứa với bố nó sẽ trông nom cho nó khi đến tuổi lấy chồng.
Tôi sẽ ưng thuận.
Lão định cất tiếng gọi Raimunda và Don’Ana
để báo tin, nhưng thấy Juca đưa tay ra hiệu, lão dừng lại.
- Tôi còn một đám xin cưới nữa muốn hỏi ý
anh.
- Một đám nữa? Chú định trở thành ông thánh
Antônio của bọn phu phen trong đồn điền chăng?
- Không phải chuyện một thằng phu đâu.
- Thế thì ai?
Juca tìm cách đi dần vào đề:
- Anh biết đấy, - hắn nói - Raimunda và
Don’Ana, hai đứa cùng một tuổi; hai đứa cùng bú sữa của mụ Risoleta da đen;
chúng cùng lớn lên với nhau; giá đem gả chồng cho chúng cùng một lúc thì thật đẹp.
- Don’Ana ấy à? - Sinhô Badaró lim dim đôi
mắt và đưa tay lên vuốt râu.
- Vấn đề này liên quan đến đại úy João
Magalhães. Hắn ta đã nói chuyện ấy với tôi ở Ilhéus. Tôi xem hắn khá đấy.
Sinhô nhắm mắt rồi lại mở ra:
- Về mặt này, tôi đã thấy rõ sự tình ra thế
nào rồi. - Lão nói - Tôi đã nhận thấy Don’Ana bối rối biết chừng nào mỗi khi có
mặt viên đại úy - hôm ở đây, rồi hôm đi rước nữa.
- Vậy thì anh nghĩ thế nào?
- Chẳng ai thực sự biết rõ hắn. - Sinhô nói
giọng suy nghĩ - Hắn kể những là hắn thế này, những là hắn thế kia, và còn nhiều
chuyện khác nữa ở Rio de Janeiro, có trời mà biết được. Nhưng không ai thực sự
biết tí gì về hắn cả. Bản thân chú biết được gì?
- Tôi cũng không biết nó nhiều hơn anh đâu,
nhưng tôi cho là việc ấy chẳng quan trọng gì. Chúng ta ở một xứ mới, anh Sinhô ạ;
ở đây cái gì cũng mới cả, anh cũng biết điều đó như tôi. Lúc bắt đầu thì chẳng
ai là vương tướng gì, người ta xét người chính là chỗ người đó đã làm nên gì.
Trước khi đến đây, nó đã là chi chi đi nữa thì phỏng có gì quan trọng? Chỉ có
tương lai nó là đáng kể mà thôi, và viên đại úy cho tôi cái cảm giác là người
có thể thành đạt được; nó có bản lĩnh đấy.
- Có thể lắm.
- Nó cứ thẳng tiến, nó đã đo đạc khu rừng
này, mặc dầu về mặt pháp lý mà nói, nó không có quyền. Tôi cũng biết nó làm thế
vì hám lợi chứ không phải vì chỗ thân tình, nhưng việc nó muốn cưới Don’Ana thì
không phải vì tiền đâu; nó yêu con bé. Tôi biết người biết của cũng như thông
thạo đất vậy. Cho dù con bé không có lấy một cái bát mẻ và nó có phải xuất phát
từ tay trắng, nó cũng vẫn cứ lấy, nó có bản lĩnh, đấy là cái chính; cái đó tốt
hơn là cứ đi nói nhảm và than vãn.
Sinhô ngẫm nghĩ, hai con mắt lim dim, tay
lùa vào bộ râu đen.
- Còn một điều này nữa tôi muốn nói thêm với
anh. - Juca tiếp - Anh chỉ có một mụn con gái, tôi thì không có con cái gì và sẽ
chẳng bao giờ có con vì bác sĩ có nói với tôi rằng chả nên hi vọng gì về Olga nữa.
Một ngày nào đó, chúng nó sẽ hạ tôi bằng một phát súng, anh cũng hiểu rõ điều
đó như tôi. Một tên trong bọn thù địch của tôi sẽ cho tôi đi đứt, tôi sẽ không
còn ở trên đời nữa để xem chuyện này kết thúc thế nào. Và khi anh già rồi, người
nào trong họ Badaró sẽ thu hoạch ca cao và lựa chọn thị trưởng Ilhéus? Ai nào,
tôi hỏi anh thế thôi?
- João đúng là người chúng ta cần. - Juca
tiếp - Cứ cho rằng nó là một thằng cờ bạc nhà nghề như tôi vẫn thường nghe nói,
thế thì đã sao? Mà tất cả cái chuyện này cũng chẳng là một ván bạc đó sao?
Chúng ta cần có một người như nó ở trong gia đình, một người sẽ thay chân tôi
khi tôi bị chúng nó thủ tiêu.
Hắn bước những bước dài ngang qua căn
phòng, tay cầm chiếc roi ngựa quất lên đôi ủng.
- Anh có thể gả cháu cho một thằng làm nghề
tự do, bác sĩ hay là thầy kiện, nhưng anh có biết rồi sao nữa không? Thằng đó sẽ
sống nhờ vào hoa lợi của ca cao mà chẳng bao giờ làm được một cái đồn điền, hoặc
khai phá một khu rừng; nó chỉ biết mỗi việc tiêu vào lợi tức thôi. Nhưng viên đại
úy này thì đã từng trải, hiện nay nó đã quyết định sẽ trở thành điền chủ. Chính
vì vậy mà tôi nghĩ đám cưới này là một việc tốt.
Raimunda đi vào quét phòng, nhưng Sinhô ra
hiệu cho ả hãy đi ra.
- Vậy nên tôi đã nói với nó thế này: Có một
điều kiện đấy, ông đại úy ạ. Người nào muốn lấy Don’Ana thì phải mang họ nhà
nó. Không phải tôi không biết làm như vậy là trái với tục lệ đâu, thường thường,
người vợ phải lấy tên chồng. Nhưng trong trường hợp của Don’Ana thì chồng nó sẽ
thành người họ Badaró.
- Thế nó nói sao?
- Thoạt tiên thì nó chẳng hài lòng chút
nào. Họ nhà Magalhães, nó nói, là thế này thế nọ... nhưng khi nó thấy chẳng có
cách giải quyết nào khác thì nó đồng ý.
Bấy giờ, Sinhô Badaró bèn gọi:
- Don’Ana, Raimunda đâu! Vào đây!
Cả hai ả bước vào. Don’Ana có vẻ đã ngờ ngợ
về nội dung câu chuyện của hai người đàn ông. Raimunda, tay cầm chổi, tưởng người
ta gọi ả vào để quét dọn. Sinhô nói với cô gái lai đen trước.
- Antônio Vítor muốn cưới mày làm vợ. Tao
đã ưng thuận rồi. Tao cũng sẽ cho mày cái khu đất ở đằng sau khu rừng biên giới
làm của hồi môn. Mày có bằng lòng không?
Raimunda không còn biết nhìn đi đâu:
- Nếu cha đỡ đầu nghĩ rằng như thế là được...
- Tốt, vậy thì mày chuẩn bị cho ngày cưới
đi. Đừng mất thì giờ. Mày có thể đi ra được rồi.
Raimunda đi khỏi, Sinhô gọi Don’Ana đến cạnh
lão.
- Cũng có người hỏi con đấy, con ạ. Chú
Juca thì rất ưng ý, nhưng cha chưa biết trả lời ra sao. Đó là anh chàng đại úy
đã tới chơi nhà ta. Con nghĩ thế nào?
Cũng như Raimunda lúc ở trước mặt Vítor,
Don’Ana đưa mắt nhìn xuống sàn nhà, tay thu trong váy và chả tìm ra được câu gì
khác mà hỏi.
- Đại úy João Magalhães phải không ạ?
- Chính nó đấy. Con có ưng lắm không?
- Có ạ, thưa cha. Con ưng anh ấy.
Sinhô Badaró chậm rãi vuốt râu:
- Lấy quyển Kinh Thánh ra đây. Ta xem thử
sách nói thế nào?
Don’Ana bèn ngước mắt lên, rút tay ở trong
váy ra; giọng ả trở nên rắn rỏi và cương quyết:
- Cho dù Kinh Thánh nói thế nào đi nữa,
thưa cha, con cũng chỉ lấy có mỗi một người ở trên đời này, đó là anh đại úy.
Cho dù cha không ban phước cho con nữa.
Và nói xong, ả ngã xuống chân bố, đưa tay
ôm choàng đầu gối bố.
8
Bác sĩ Jessé phải bỏ đi giữa chừng vở kịch,
để mặc những tài tử đoàn kịch ở Tabocas không có người đạo diễn, cũng không có
người nhắc vở. Sự vắng mặt của ông ta làm hỏng cả vở kịch, vì có một số diễn
viên chưa thuộc vai mình lắm và trông mong nhiều vào người nhắc vở. Tuy nhiên,
điều đó cũng không có gì là quan trọng, bởi vì dân thành phố cũng không rảnh
thì giờ để bình luận vở Những kẻ hút máu
xã hội. Người đến tìm ông bác sĩ đã mang đến một cái tin giật gân: Horácio ốm,
phải nằm liệt giường vì sốt. Cho nên ông bác sĩ phải bỏ cả ngày hội. Nhét một số
thuốc vào túi thuốc, ông ta lên ngựa ngay lập tức và ra đi, theo sau là gã đưa
tin. Tuy vậy, tin này cũng được truyền từ miệng người này sang miệng người kia
suốt dọc các lối đi, ở trong phòng và mười một giờ ngày hôm sau, khi Ester ở
trên xe lửa bước xuống và lấy ngựa đi ngay cùng bọn cabra bao quanh hộ tống, thì cả thành phố Tabocas đã biết là
Horácio bị sốt vì đã chăm sóc cho Sílvio mới chết cách đây ba ngày.
Mụ vợ góa của Sílvio đã bắt đầu một cái lễ
chín ngày cho Horácio, “một con người hoàn hảo làm sao”, như lời mụ nói. Chẳng
thèm bận tâm gì đến những chuyện thị phi, Virgílio đi theo Ester đến tận
Tabocas, nhưng hôm ấy gã không theo nàng về đồn điền. Nếu bệnh tình của viên đại
tá trầm trọng hơn thì gã mới về.
Bây giờ, gã cũng đeo một khẩu súng lục, từ
khi được tin Juca thoát khỏi cuộc mai phục. Trong thời gian này, thành phố sống
trong sự chờ đợi những người đưa tin về tìm thuốc. Phòng khám bệnh của bác sĩ
Jessé đóng cửa, vợ ông ta nói với bệnh nhân rằng bao giờ ngài đại tá “qua khỏi
giai đoạn cấp tính” thì ông bác sĩ mới trở về, điều đó, theo cách hiểu ở địa
phương, có nghĩa là ông bác sĩ sẽ trở về cùng với xác Horácio, bởi vì không ai
qua khỏi được cái bệnh sốt này cả. Người ta kể vô số trường hợp những công
nhân, đại tá, người làm nghề tự do, nhà buôn, để chứng minh cho lời nói ấy. Và
một lần nữa, trong các bà sùng đạo lại truyền đi câu chuyện con ma ở trong cái
chai sắp đến tìm bắt linh hồn Horácio đem xuống địa ngục. Người ta nói rằng thầy
tu Bento đã lên đường về đồn điền để làm tẩy lễ trước khi lâm chung, lễ xưng tội
và xá tội cho lão.
Nhưng Horácio không chết. Một tuần sau, cơn
sốt hạ xuống rồi dứt hẳn. Cái thể chất xương đồng da sắt của lão đã cứu lão hiệu
nghiệm hơn thuốc của ông bác sĩ Jessé bởi vì lão vốn không có tật gì, cơ thể
cũng chẳng có chỗ nào suy nhược, và các bộ phận trong người lão đều lành mạnh.
Chưa khỏi hẳn, lão đã ra lệnh cho bọn tay chân đi khai phá khu rừng Sequeiro
Grande. Virgílio được gọi về đồn điền, vì viên đại tá muốn hỏi gã một vài điều
về pháp luật. Gã đã về đây một lần, nhưng khi ấy Horácio còn đang mê sảng, hết
nói đến ca cao, đến rừng đã khai phá, lại đến đồn điền, mùa màng và thét lên ra
lệnh cho tay chân. Ester, cái bóng nhỏ mảnh dẻ, không muốn rời khỏi giường người
ốm và tỏ ra vô cùng tận tụy với chồng. Khi Virgílio đến thăm lần thứ nhất, nàng
chỉ hỏi thăm tin tức con gái nàng ở Ilhéus thôi, và gã chỉ gặp riêng nàng được
có một lúc. Khi gã gặp, và hôn nàng, thì chỉ được chốc lát, trong lúc nàng bưng
một thau nước nóng từ bếp lên buồng. Họ chỉ trao đổi với nhau vài lời, và
Virgílio từ biệt nàng, buồn như cảm thấy bị phụ tình. Trong con mắt của viên thầy
kiện còn có cả một vẻ ngượng ngập giấu kín, dường như gã tự thấy mình phải chịu
trách nhiệm về sự ốm đau của Horácio và về cái chết của lão mà gã cho là không
sao tránh khỏi và dường như lão đại tá mắc bệnh là để thỏa mãn những điều ước
nguyện thầm kín của viên luật sư trẻ. Gã hiểu rằng Ester cũng cảm thấy như thế;
mặc dầu vậy, thái độ của người thiếu phụ cũng làm cho gã bị xúc phạm như thể
nàng đã không chung thủy với gã vậy.
Khi Horácio đã tai qua nạn khỏi, gọi gã đến,
Virgílio cố làm ra mặt giận đối với Ester và nàng cũng có vẻ mỏi mệt, ủ rũ.
Mình mặc chiếc áo ngủ, lão đại tá nằm trong những tấm khăn trải giường trắng; vợ
lão ngồi trên giường, hai tay nắm chặt lấy tay chồng. Chưa bao giờ Horácio thấy
sung sướng bằng trong mấy ngày qua, những ngày mà lão có dịp thử thách lòng yêu
thương của Ester. Lão thấy mình đã hồi phục hoàn toàn và tràn đầy sinh lực, và
lão bắt đầu ra lệnh không những cho đám công nhân mà cho cả Maneca Dantas và
Braz khi hai gã này đến thăm lão. Virgílio bước vào phòng, cúi xuống hôn viên đại
tá, bắt tay Ester, hôn Maneca và ngỏ lời khen ngợi bác sĩ Jessé “về cái phép lạ
ông ta đã thực hiện”. Horácio liền cười: “Sau Chúa, - lão nói, - đây là người
đã cứu tôi”, và lão chỉ vào Ester. Rồi lão xin lỗi bác sĩ Jessé: “Tất nhiên rồi,
ông bạn ạ, ông đã làm hết sức mình: thuốc men, điều trị, và đủ mọi thứ. Nhưng nếu
không có vợ tôi, nàng không ngủ lấy một giây đồng hồ nào, thì tôi không hiểu
là...”
Ester đứng dậy và rời khỏi phòng; Virgílio
vô tình ngồi vào giường, đúng vào chỗ nàng vừa rời khỏi. Gã cảm thấy hơi ấm của
tấm thân người yêu, và đột nhiên gã thấy căm giận Horácio. Horácio đáng lẽ phải
chết. Trong chốc lát, Virgílio để cho ý nghĩ thầm kín nhất tự do xâm chiếm tâm
hồn. Đáng lẽ lão phải chết đi. Chao! Nếu như Virgílio có thể sai một tên cabra đi giết lão, chính lão ta ấy!
Mê mải với những ý nghĩ riêng tư, gã không
nghe mọi người trò chuyện trong một lúc. Nhưng một câu của Maneca: “Thế ông
nghĩ thế nào về chuyện ấy, ông luật sư?”, đưa gã trở về với những cái chung
quanh.
Sau đó, gã gặp Ester ở chỗ máng gỗ. Nàng
níu lấy gã nức nở:
- Anh cho là em không nên làm như vậy, có
phải không? Em không thể làm thế nào khác được.
Gã vô cùng cảm động và luồn tay vào trong
quần áo vuốt ve tấm thân yêu dấu. Gã hôn mắt, hôn mặt nàng rồi thốt nhiên kêu
lên:
- Trời ơi, em bị sốt rồi!
Nàng quả quyết là không phải, nàng chỉ mệt
thôi. Gã lại hôn nàng nhiều lần, nhiều lần nữa trong khi nàng van nài gã ở lại
đồn điền đêm hôm ấy. Nàng có thể đến gặp gã trong khi đi lại trong nhà chăm nom
người ốm. Gã hứa ở lại, xúc động vì những lời cầu khẩn của nàng, và vì thèm
khát ái ân. Cho mãi tới khi nhìn thấy một đám thợ thuyền đi xuống đường, gã mới
buông cho nàng đi khỏi.
Tuy nhiên, đến bữa tối, Ester không ăn được
mà cũng không thể ngồi lại ở bàn được. Nàng kêu là bị rét, buồn nôn và rời khỏi
phòng. Virgílio tái hẳn người đi: “Bà ấy mắc bệnh sốt rồi!”, gã nói với bác sĩ
Jessé, ông bác sĩ bèn đứng dậy đi tìm Ester đang ở trong phòng tắm đóng kín cửa.
Virgílio cũng đứng dậy, không để ý gì đến Maneca Dantas và Braz nữa. Gã đứng cùng
với ông bác sĩ ở ngoài hành lang, đợi Ester mở cửa; khi nàng đi ra, mắt nàng rực
lên một ánh kỳ lạ.
- Bà thấy khó chịu ạ? - Gã cầm lấy cánh tay
nàng hỏi.
Nàng mỉm cười trìu mến và khẽ nắm tay gã.
- Không, không sao hết. Có điều tôi không
tài nào đứng vững được. Tôi đi nằm một lát, rồi sẽ quay lại.
Nàng sai bảo Felícia, rồi lên căn buồng
Virgílio đã ngủ trong cái đêm tưởng như đã xa xôi lắm, khi gã đến thăm đồn điền
lần đầu. Gã đứng trong gian phòng rộng và nhìn nàng nằm dài trên giường. Bác sĩ
Jessé theo vào và xin lỗi rồi đóng cửa lại. Từ buồng phía trước, Horácio gọi
người nhà và hỏi xem đã xảy ra chuyện gì. Virgílio bèn đi vào buồng viên đại
tá.
- Bà ấy bị lây bệnh sốt, - gã nói, giọng
run run. Gã muốn nói thêm điều gì nữa, nhưng không thốt lên lời và đứng im, mắt
đăm đăm nhìn Horácio. Hai mắt Horácio mở to tướng, mồm lão cũng vậy; cả lão nữa
cũng muốn nói điều gì, nhưng không thốt ra được tiếng nào. Lão giống như một
người bị ném vào khoảng không, chẳng biết bấu víu vào đâu. Virgílio những muốn
hôn lão, vì họ là hai kẻ khốn nạn đáng thương trong một niềm đau khổ chung.
9
Ý kiến chung của nhân dân Ilhéus đều cho rằng
anh em nhà Badaró đã thắng thế trong cuộc đấu tranh để chiếm đoạt khu rừng
Sequeiro Grande. Và không phải chỉ có những mụ già mộ đạo ở kho đồ thánh là có
ý kiến ấy; những người am hiểu tình hình trong các quán rượu cũng tán thành, và
cả các quan tòa nữa. Ai nấy đều đồng ý rằng như vậy là anh em nhà Badaró đã thắng,
một phần lớn nhờ trận ốm của Horácio. Ở tòa án, công việc đã đến chỗ bế tắc vì
có lá đơn phản đối của luật sư Genaro mà quan tòa đã chấp thuận. Và Juca Badaró
đã vào trong rừng, đang khai phá cái khoảnh đất sát với đồn điền của Sant’Ana;
đồng thời hắn cũng bắt đầu cho đốt luôn.
Thực ra những trận đánh nhau vẫn tiếp diễn;
Maneca Dantas, Jarde, Braz, Firmo, Zé da Ribeira và những điền chủ nhỏ khác
đang làm hết sức mình để ngăn trở những cố gắng của bọn tay chân nhà Badaró.
Maneca Dantas đã tổ chức một cuộc đánh úp những công nhân đi chặt cây ở một
quãng nào đó trong rừng. Và Braz, một đêm nọ, đã cùng bọn tay chân xông vào nơi
dựng trại của bọn kia khi Juca đi vắng. Mặc dầu vậy, công việc vẫn tiến triển
và anh em nhà Badaró đã đặt chân được vào trong rừng.
Bây giờ những trận tấn công của đồ đảng phe
Horácio lại càng ác liệt hơn bao giờ hết. Trong khi Juca đi theo và bảo vệ cho
công nhân thì Teodoro das Baraúnas mở cuộc tấn công. Một đêm, hắn tới đồn điền
của José da Ribeira và châm lửa đốt kho ca cao, làm thiệt hại tới hai trăm năm
mươi tạ đã nhận bán. Hắn đốt cả những đồn điền sắn, và Zé da Ribeira phải khó
khăn lắm mới dập tắt được ngọn lửa.
Ở Ilhéus, người ta kể rằng sau khi đốt
phòng giấy của Venâncio, Teodoro das Baraúnas trở thành nghiện đốt nhà. Trên tờ
A Folha de Ilhéus, bao giờ nói đến hắn,
người ta cũng gọi là thằng đốt nhà. Thầy cò Rui viết cả một bài báo trứ danh
đem so sánh Teodoro với Nero đã chơi vĩ cầm trong khi thành Roma bốc cháy; ông
ta cũng đem so sánh José da Ribeira và đám công nhân của hắn với những con
chiên đầu tiên, nạn nhân của sự điên cuồng tội lỗi của cái tên Nero khát máu hiện
đại này, cái tên quỷ còn đáng sợ hơn cả gã hoàng đế đồi trụy nọ. Trong số tất cả
những bài báo đăng trong thời gian tranh chấp Sequeiro Grande, thì bài báo kia
thành công nhất; nó được tờ báo phe đối lập ở Bahia đem in lại, dưới cái tiêu đề
“Những tội ác của đảng thuộc phe chính phủ
ở Ilhéus”. Teodoro đã bị truy tố.
Nhưng làn gió dư luận đã dứt khoát xoay chiều
có lợi cho anh em nhà Badaró, kể từ dạo Horácio không thể bắt tay được vào việc
khai phá cánh rừng ở phía bên cạnh đồn điền của lão, ngay cả sau khi đã khỏi bệnh.
Người ta coi sự thiếu kiên quyết ấy là tại Ester ốm; tuy nhiên, có một thực tế
là một đôi lần, bọn công nhân và jagunco
do viên đại tá sai đi đã phải quay về, không thể bắt tay vào việc khai phá và đốt
rừng được. Lần này Sinhô Badaró, trong hai đêm, đã thân chinh dẫn bọn tay chân
đánh vào trại của Jarde và cuối cùng người của Horácio phải bỏ dở công việc;
Braz, được một vài đồng đảng giúp sức, là kẻ duy nhất đốt được một khu rất nhỏ,
nhưng không thể đem so sánh khu này với diện tích anh em nhà Badaró đã khai phá
được.
Tuy nhiên, vẫn có người đánh cuộc là
Horácio sẽ thắng. Ý kiến của họ chủ yếu căn cứ vào sự giàu có của viên đại tá,
bởi vì lão có một số tiền lớn gửi nhà băng, và còn có thể tiếp tục chiến đấu
lâu dài. Không những việc đốn cây, thiết lập đồn điền tốn kém rất nhiều, mà nhất
là còn phải chi tiêu những món lớn để nuôi cả một đội quân kẻ cướp đánh thuê.
Đã thế Sinhô Badaró lại đang chuẩn bị gả chồng cho con gái và muốn tổ chức một
đám cưới linh đình. Lão gửi mua ở Rio de Janeiro về một lô các thứ và sửa lại
hoàn toàn ngôi nhà của lão ở Ilhéus, xây thêm cả một cánh nữa cho đôi vợ chồng
trẻ ở. Lão còn cho sơn lại cả nhà lớn ở đồn điền trong khi các cô khâu thuê và
làm ren tíu tít may quần áo, bởi vì đám cưới một cô gái con nhà đại tá là cả một
sự kiện quan trọng. Cô dâu tương lai cần phải có quần áo, đủ mặc trong nhiều
năm, sau này lại còn dùng cho con cái, cháu chắt nữa; nào chăn may chần, khăn
trải giường, đệm ủ chân, nào áo gối, khăn bàn, mọi thứ đều được thêu thùa lộng
lẫy. Họ cử người về các làng mua những tấm đăng ten đẹp nhất. Sau hết, tính
chung tất cả, nếu đem cộng số tiền thuê bọn jagunco
để giết người với tiền trả công các cô khâu mướn, các người đóng giày và các
người bán hàng khác, thì tiền bạc cứ không ngừng chảy ra như suối. Ở Ilhéus,
người ta nói nhiều đến đám cưới này không kém gì những trận đánh nhau tranh
giành rừng Sequeiro Grande. João Magalhães đã rời thành phố về ở đồn điền để
giúp sức vào việc khai hoang; nhưng thỉnh thoảng y lại trở về Ilhéus chơi vài
ván bài ở tiệm cà phê, cố xoay thêm một ít tiền ở bàn poker; sống ở nhà lớn, y
không phải tiêu pha gì và tiết kiệm được khá tiền.
Tuy nhiên, có vài người biết rằng Sinhô
Badaró đã tiêu hết các khoản lợi tức mùa màng năm ấy. Maximiliano còn nói với những
người thân cận rằng Sinhô đã phải thương lượng bán trước cả hoa lợi năm sau nữa
với một giá tương đối hạ, còn Horácio thì vẫn chưa phải đụng đến một nửa số ca
cao thu hoạch trong năm.
Dù sao những người đánh cuộc là lão thắng vẫn
không nhiều mấy. Đa số cuộc cho nhà Badaró. Họ không thấy là anh em nhà Badaró
có thể thua được. Cho nên người ta đi may quần áo mới để ăn cưới Don’Ana. Những
bà sùng đạo và những bà có chồng thường cứ xế chiều là đến tụ tập ở nhà Juca
Badaró, xem Olga phô bày những đồ trang sức sang trọng vừa được gửi từ Rio de
Janeiro về: quần áo lót bằng vải mịn có thêu, áo ngủ đẹp mê ly, nịt vú loại mới
nhất, đăng ten vùng Ceará. Họ cứ há hốc mồm ra mà thốt lên những tiếng “Ồ!”
thán phục; thành phố Ilhéus chưa từng được thấy những thứ sang trọng như thế
bao giờ, và sự phô trương xa hoa này đủ tỏ rõ thanh thế của gia đình nhà
Badaró.
Và mỗi khi Sinhô, nét mặt ủ ê đóng khung giữa
bộ râu đen đi vào những đường phố hẹp của thị xã, bọn nhà buôn liền cúi rạp
mình chào lão, và chỉ vào lão cho bọn khách thương ở Bahia hoặc ở Rio de
Janeiro biết:
- Ông chúa vùng này, Sinhô Badaró đấy!
10
Ester chết vào một buổi sáng đầy nắng,
trong lúc tiếng chuông trong thành phố rộn rã kêu gọi các tín đồ tới chầu lễ một
ngày hội. Bệnh tật đã tàn phá gần hết sắc đẹp của nàng, tóc nàng rụng đi, thời
gian gần đây nàng chỉ còn là cái bóng của người thiếu phụ ngày xưa, hai con mắt
lồi ra ngoài, khuôn mặt hốc hác; nàng biết rõ là mình sẽ chết và thấy thèm sống
biết bao nhiêu! Thoạt tiên, nàng mê sảng dữ dội, và mồ hôi đầm đìa, lẩm bẩm những
lời vô nghĩa.
Có một lần nàng níu chặt lấy Horácio, thét
lên rằng có một con rắn quấn lấy cổ và bóp nghẹt nàng. Maneca Dantas đến đồn điền
vài ngày, và, vốn có nhiều nghi ngờ nghiêm trọng về quan hệ giữa Ester và
Virgílio, đã gần như run lên khi nghĩ rằng nàng có thể gọi đến tên viên luật sư
trong một cơn mê sảng; nhưng nàng như chỉ nhìn thấy rắn trong cái hồ của khu rừng,
lặng lẽ và hiểm độc, sẵn sàng nhảy bổ vào chú ếch khờ khạo nào. Những khi ấy,
nàng thét lên nỗi đau đớn của mình, não ruột những ai đến gần, trong khi
Felícia lai đen sụt sịt khóc.
Khi thấy cơn sốt không hạ, bác sĩ Jessé bèn
khuyên nên đưa Ester đi Ilhéus. Ảo não thay cái cảnh bọn phu khiêng võng rời khỏi
đồn điền.
- Thật cứ y như là đã đi đưa đám bà ấy vậy,
tội nghiệp bà ấy, - bác sĩ Jessé nói với Virgílio.
Horácio đi theo vợ, và cả ba im lặng bước
đi, riêng Virgílio thì không nói được gì kể từ ngày nàng bị ốm. Gã chỉ còn biết
thơ thẩn trong nhà lớn, mỗi ngày lại kiếm một cớ mới để khỏi phải trở về
Tabocas.
Tuy nhiên, không ai để ý đến gã, vì cả nhà
đang hết sức bối rối, và bọn cabra
lúc nào cũng bận chạy đi tìm thuốc. Các mụ da đen đun nước, và Horácio khi thì
hạ lệnh cho đám tay chân đi vào rừng, khi thì hối hả bổ đến giường, nơi Ester
đang mê sảng.
Khi họ sắp đỡ nàng dậy để đặt vào võng,
nàng tỉnh lại được một lát và nắm lấy tay Horácio, như thể lão là chủ nhân số
phận của vũ trụ: “Đừng để em chết”.
Virgílio tuyệt vọng đi ra bãi cỏ. Cái nhìn
trong cặp mắt Ester kia là dành cho gã; một cái nhìn van vỉ, một khao khát điên
cuồng muốn sống. Nó chỉ lâu chừng một giây đồng hồ, nhưng trong cái nhìn đó, gã
đọc thấy giấc mơ của họ muốn được sống một cuộc đời khác trên một mảnh đất
khác, cả hai đều được tự do yêu nhau. Giờ đây, gã không thấy căm thù ai hết
ngoài cái đất này đã giết nàng, đã cướp nàng đi mãi mãi. Nhưng trong lòng gã
còn có cái gì mạnh hơn cả sự căm thù. Không ai thoát khỏi cái đất này, nó bắt lấy
tất cả những ai tìm cách bỏ trốn. Nó đã buộc chặt Ester vào với nó, bằng những
sợi dây của cái chết, nó buộc cả gã vào nữa, và sẽ không để cho gã đi. Gã đi dưới
những gốc cây ca cao, dạo quanh cho đến khi người ta gọi gã. Cái võng phủ một tấm
chăn, đi đầu; người theo sau. Cuộc hành trình dài kinh khủng. Khi nghỉ tạm ở
Ferradas, cơn sốt lại lên. Nàng kêu, kêu rằng nàng không muốn chết.
Ngay tối hôm ấy, họ tới Tabocas từ lúc còn
sớm, và căn nhà của bác sĩ Jessé chả mấy chốc đã đầy những khách. Virgílio suốt
đêm không ngủ, luôn luôn trở mình trong cái giường đơn độc kia đã bao lâu rồi
gã không nằm tới. Gã nhớ lại những đêm nằm cùng với Ester, những vuốt ve bất tận,
hai tấm thân run rẩy ái ân, những đêm hoan lạc trong ngôi nhà ở Ilhéus. Ngày
hôm sau, gã trông thấy nàng ra đi bằng toa xe riêng, trên một cái giường làm tạm
bợ. Horácio ngồi một bên và bên kia là ông bác sĩ Jessé ngủ gà ngủ gật. Khuôn mặt
người thầy thuốc mang những nét mệt mỏi; mắt ông ta trũng xuống trong khuôn mặt
phị ra. Ester nhìn Virgílio, và cái nhìn đó đối với gã như một lời vĩnh biệt.
Những kẻ tò mò kéo ra ga từng đám đông. Khi tàu đi rồi, họ lùi lại cho gã đi
qua, những lời bàn tán của họ đi theo gã ra tận phố.
Ngày hôm sau, gã không sao dằn lòng nổi và
đi Ilhéus. Rời khỏi nhà Horácio, sau một cuộc đến thăm kéo dài vô hạn độ, gã chẳng
biết làm gì khác ngoài việc vào tửu điếm uống rượu, vì chẳng còn bụng dạ nào đến
trình diện tòa án. Vừa ngái ngủ, vừa bực dọc, gã cảm thấy cô độc, không có lấy
một người bạn. Gã thấy nhớ Maneca Dantas vì viên đại tá này đã thực sự yêu mến
viên thầy cãi trẻ. Gã những muốn nói chuyện với một người nào cho khuây khỏa
đôi chút, kể lại tất cả những điều đã xảy ra với gã, tất cả những điều gã mơ ước,
cuộc đời cùng với người yêu chung sống trên một mảnh đất khác, chỉ có hai người
với mối tình của họ, và cả cái phần buồn nữa, cái phần gã cầu mong cho Horácio
chết vì một viên đạn của kẻ thù. Thỉnh thoảng gã vẫn còn nghĩ đến chuyện bỏ đi,
nhưng gã cũng biết rằng chuyện ấy sẽ chẳng bao giờ tới, rằng gã đã bị cột chặt
mãi mãi vào cái đất này.
Những chuyện về các trận đánh nhau ở rừng
Sequeiro Grande là những sự kiện duy nhất có thể kéo gã ra khỏi tình trạng thẫn
thờ. Nó như càng buộc chặt gã hơn nữa vào với Ester, vì nhờ khu rừng nọ mà họ
đã biết nhau và yêu nhau. Còn như Horácio, cho dù lão có buồn phiền đến đâu vì
bệnh tật của Ester, lão vẫn không chểnh mảng công việc, mà còn cho gọi những điền
chủ khác và các đốc công đến Ilhéus để bàn bạc cùng lão. Maneca Dantas, trong một
chuyến đi, đem theo Dona Auricídia để trông nom đứa con. Trong thời gian này,
Virgílio lao vào những cuộc tranh luận dài với các viên đại tá về chính trị, về
cách thức tiến hành vụ kiện cáo, về những bài báo đăng trong tờ A Folha de Ilhéus. Horácio nói đến chuyện
viên thầy cò ra tranh cử dân biểu như một chuyện đã thu xếp xong xuôi. Trong thời
gian Ester ốm, Virgílio đã đi đến chỗ bắt đầu kính nể chồng nàng; gã cảm thấy
mình gắn bó với viên đại tá, và sung sướng nhận thấy rằng, mặc dầu lão có vẻ
như không có khả năng cảm xúc, đau khổ, Horácio vẫn đau đớn, và làm mọi điều có
thể làm được để cứu Ester, cho gọi các thầy thuốc đến khám bệnh, hoặc cầu nguyện,
hoặc tổ chức những buổi lễ.
Virgílio chỉ nói chuyện riêng với Ester được
có một lần, nàng như chỉ chờ đợi có dịp ấy. Đó là cái đêm trước khi nàng chết.
Horácio đi vắng; Dona Auricídia ngủ gà ngủ gật ở phòng khách nhỏ; gã lén vào
phòng để thay bác sĩ Jessé, ông ta mệt đến nỗi không đứng vững nữa. Ester đang
ngủ, khuôn mặt đẫm mồ hôi. Virgílio đặt tay lên đầu nàng rồi rút khăn tay ra
lau mồ hôi cho nàng. Nàng giãy giụa trên giường, rên rẩm và cuối cùng thức giấc.
Khi đã nhận ra và thấy có mình gã, nàng rút một bàn tay khẳng khiu ra khỏi
chăn, và nắm lấy tay gã đặt lên ngực mình. Nàng gắng hết sức mỉm cười và nói:
- Phải chết thì tiếc biết bao.
- Em sẽ không chết đâu.
- Chết à, không đâu. - Nàng lại mỉm cười, nụ
cười buồn nhất trên đời - Em muốn nhìn anh.
Virgílio quỳ xuống bên giường, đầu đặt lên
đầu người yêu; gã hôn lên mặt, lên mắt, lên đôi môi nóng bỏng vì sốt của nàng.
Rồi gã để cho nước mắt tràn ra ướt bàn tay Ester, những giọt nước mắt lành lạnh
ròng ròng trên má gã. Hồi lâu, cả hai không ai nói một điều gì, bàn tay hầm hập
sốt trong bàn tay lạnh giá, miệng Virgílio hôn lên trên khuôn mặt xấu đi vì bệnh
tật.
Dona Auricídia cựa quậy làm động mạnh khiến
gã phải đứng dậy, nhưng trước khi đó, gã hôn nàng cái hôn vĩnh biệt. Rồi gã bước
ra, tìm một chỗ có thể đứng một mình mà khóc trộm.
Khi Dona Auricídia bước vào phòng, Ester có
vẻ dễ chịu hơn nhiều.
- Đó là phút hồi dương trước khi chết, -
ngày hôm sau Dona Auricídia nhận xét như vậy khi Ester chết. Chỉ riêng Virgílio
biết rằng đó là sự vĩnh biệt của tình yêu.
Rất đông người đi đưa đám. Một chuyến tàu hỏa
đặc biệt từ Tabocas đến, chở tới nhiều người nữa ở Ferradas, có cả Maneca
Dantas và những điền chủ khác có dinh cơ ở ven khu rừng Sequeiro Grande. Có những
bè bạn từ Banco da Vitória và cả Ilhéus tới tham gia tang lễ. Trong chiếc quan
tài đen, khuôn mặt người quá cố hồi lại chút nhan sắc, và Virgílio ngắm nàng y
như cái hôm trước khi nàng chết, cái hôm nàng tỏ ra tươi cười, sung sướng vì đã
yêu và được yêu lại.
Bố Ester khóc. Horácio mặc đồ đen, nhận những
lời chia buồn, còn Dona Auricídia thì đứng cạnh xác chết. Việc chôn cất tiến
hành muộn vào lúc chiều tà, hoàng hôn buông xuống trước lúc làm lễ an táng tại
nghĩa địa. Bác sĩ Jessé nói mấy lời ai điếu; thầy tu Freitas ban phước cho thi
hài, còn những người đưa đám thì cố tìm ra những nét buồn trên khuôn mặt tái
xanh của Virgílio.
Khi viên luật sư mời Maneca Dantas ăn tối với
mình, viên đại tá từ chối; hắn phải bầu bạn với Horácio trong cái đêm tang chế
đầu tiên của lão. Virgílio bèn đi lang thang các phố. Rồi gã vào một tiệm rượu,
và nhận ngay ra rằng ở đây người ta đều tò mò nhìn gã, gã bèn đi ra các bến
tàu; đến nơi, gã đứng lại một lúc nhìn một chiếc tàu dỡ hàng. Gã bắt chuyện một
lát với một người mặc áo nịt màu xanh lơ say rượu bí tỉ. Gã muốn tìm một ai đó
có thể nói chuyện lâu, tìm một cái ngực để dựa lên mà khóc cho hết nước mắt
dâng đầy tim gã. Cuối cùng gã đi về phía nhà Margot. Nàng đang ngủ và rất ngạc
nhiên khi tiếp gã. Nhưng khi thấy gã buồn và khổ sở như vậy, nàng thấy đứt cả
ruột, nàng kéo gã vào lòng và đùm bọc gã trong cái mối tình mẹ con như nàng đã ấp
ủ gã một đêm xưa kia ở Bahia, khi gã được tin bố chết ở vùng quê miền trong.
11
Những trận mưa đông đã qua; những ngày nóng
nực mùa hè đã tới. Thân và cành cây ca cao đã nảy lộc, dấu hiệu đầu tiên của
mùa thu hoạch mới. Từng toán lớn phu công nhật, không có rừng để canh, cũng chẳng
có ca cao để phơi khô, giờ đây được giao đi đốn cây cho anh em nhà Badaró và
cho Horácio. Bởi vì sau khi Ester chết, lão này lại lao vào cuộc đấu tranh để
chiếm đất rừng. Chính lão cũng vào rừng, đánh lui những trận tấn công của bọn
cướp nhà Badaró, mở rừng, đốt nhiều khoảng đất rộng mênh mông. Từ hai phía rừng,
người ta cùng tiến vào; sự thực, đây là một cuộc chạy đua xem ai đến trước. Những
cuộc chiến đấu võ trang phần nào có dịu đi, nhưng những người thông hiểu điều
cơ mật đều nói chắc rằng nó sẽ lại tiếp diễn khi Horácio và anh em Badaró gặp
nhau bên bờ con sông chia đôi khu rừng.
Trong cả thời gian ấy, Horácio tìm thấy ở
Virgílio một trong những người cộng tác đắc lực nhất. Chẳng những công việc ở
tòa án có tiến bộ nhờ những tờ kiến nghị mà viên luật sư ngày nào cũng tới tấp
gửi đến quan tòa, mà tập hồ sơ gã đã thu thập được với tư cách là luật sư của
Zé da Ribeira để chống lại Teodoro das Baraúnas, còn trở thành một kiệt tác thuộc
loại này. Vì Virgílio đã nghiên cứu kỹ lưỡng cái chứng thư sở hữu do Sinhô
Badaró đăng ký, và đã phát hiện ra những khuyết điểm lớn về hình thức và nội dung,
nên chứng thư đâm ra vô giá trị. Thí dụ như về đo đạc không được đầy đủ; nó
không ghi ranh giới thực sự của khu đất đang tranh chấp, mà lại rất mơ hồ,
không chính xác chút nào. Ở tòa án, Virgílio đã làm một bản trình bày dài về vấn
đề này để bổ sung vào những tài liệu khác trong đơn kiện của Horácio.
Rồi đến lượt những ngày nóng nực cũng trôi
qua; những trận mưa dài mùa đông lại trở về, làm rắn quả ca cao, và làm vàng rực
các khu rừng râm mát. Khi đã qua cái mùa nhàn rỗi, các con đường đi Tabocas,
Ferradas, Palestine và Mutuns đầy ắp những thương khách. Cả những chuyến tàu biển
từ Bahia đi Ilhéus cũng vậy. Những người di cư cũng tới, từng bầy, từng đoàn,
đi hạng ba, trong những hầm tàu chật ních. Những người Syria đổ lên bộ, và đi
ngay về phía rừng, tài sản đeo cả trên lưng. Nhiều thân cây cháy đã mọc lên những
cành mới, và cánh rừng thưa rực rỡ màu sắc. Người ta dùng nhiều con đường mới,
và trận mưa ngày hôm trước đã làm hoa nở quanh những cây thập tự cắm xuống đất
từ mùa đông trước. Chỉ riêng trong năm ấy, rừng Sequeiro Grande đã thu hẹp lại
đến non nửa. Giờ đây nó nằm giữa những cánh rừng thưa và những khoảng đất đốt rồi;
nói tóm lại, nó đang sống mùa đông cuối cùng của nó. Vào những buổi sáng trời
mưa, đám thợ thuyền đi qua, dao phát trên vai, hát lên những khúc hát buồn, những
điệp khúc và âm điệu mất hút dần trong các ngả đường sâu thẳm, bí ẩn của khu rừng
khổng lồ.
Ca
cao là loại cây trồng tốt
Mùa
thu hoạch mới đã báo hiệu rồi.
12
Đám cưới của Don’Ana Badaró và João
Magalhães được tổ chức vào đầu mùa đông. Juca và Olga đứng ra làm chứng cho chú
rể, luật sư Genaro và vợ bác sĩ Pedro Mata làm chứng cho cô dâu. Thầy tu
Freitas làm lễ hôn phối đã tác thành luôn thể cho Antônio Vítor và Raimunda “đến
bạc đầu”. Antônio đi một đôi ủng đen làm gã vướng víu vô cùng; Raimunda thì vẻ
mặt vẫn quàu quạu như thường lệ. Don’Ana đã nói với cặp vợ chồng nọ rằng ngày
hôm ấy họ không có việc gì phải làm cả, nhưng Raimunda vẫn nằn nì để được giúp
việc nhà bếp, và Antônio Vítor vẫn mang đồ giải khát hầu khách khứa, chân đi tập
tễnh vì giày chật.
Ngày hôm ấy trở thành ngày đáng ghi nhớ ở
Ilhéus. Don’Ana rất xinh trong chiếc áo màu trắng, trùm khăn voan trắng, với những
bông hoa cam và chiếc nhẫn cưới to tướng bằng vàng, còn João Magalhães mặc một
chiếc áo đuôi tôm lịch sự đã thu hút được những tiếng trầm trồ của các cô gái đến
tuổi lấy chồng. Sinhô Badaró vẻ hơi buồn, chủ tọa các cuộc vui, mắt nhìn theo
con gái đon đả tiếp khách. Tiếp đó, những người có mặt diễu qua phòng cô dâu
chú rể, trước cái giường to xếp đầy đồ mừng. Có những bộ đồ pha trà, đồ bằng bạc,
đồ trang sức, những đồ bày cảnh xinh xinh và những đồ trang trí nho nhỏ. Sau hết,
một đồ mừng không kém giá trị là một khẩu súng lục Colt 38, một kiệt tác, tặng
phẩm của Teodoro das Baraúnas biếu đại úy João Magalhães. Teodoro uống rượu sâm
banh, nói đùa với viên đại úy về những vết bẩn trên khăn trải giường, trong lúc
khách khứa đi sang phòng khiêu vũ, nơi một đội kèn mặc đồng phục đang chơi những
điệu waltz, polka và thỉnh thoảng cả một điệu maxixe* nữa.
*[Maxixe: một điệu nhảy của Brazil, tiết điệu gần như
tango]
Tảng sáng, khi đã đến lúc ra về, Juca kéo
riêng đôi vợ chồng ra một chỗ:
- Này, hãy nghĩ đến chuyện bắt đầu đúc một
chú nhóc, hử? - Hắn vừa cười vừa nói với hai người - Một chú Badaró theo đúng
pháp luật.
Tuần trăng mật ở đồn điền đột nhiên bị đứt
quãng vì cái tin Juca bị ám sát ở Ilhéus. Sau ngày cưới, hắn cũng trở về đồn điền
rồi cùng bè lũ đi vào rừng. Đến cuối tuần hắn trở về thành phố để gặp Margot.
Ngày chủ nhật, hắn ăn sáng với một thầy thuốc
vừa tới Ilhéus, đem theo một lá thư của một người bạn của Juca ở Bahia giới thiệu
ông ta với hắn. Viên thầy thuốc ở tại nhà trọ của một người Syria giữa thành phố.
Phòng khách cũ đã đổi thành tiệm ăn; Juca và viên bác sĩ ngồi ở bàn đầu tiên chỗ
ra vào; Juca quay lưng ra phố. Tên cabra
thò súng lục qua cửa ra vào và bắn có một phát. Juca từ từ gục xuống bàn, trong
khi viên thầy thuốc giơ tay ra đỡ hắn. Rồi hắn bỗng đứng phắt dậy, và một tay nắm
lấy khuôn cửa, tay kia đưa súng lục lên. Tên sát nhân bỏ chạy theo dọc hành
lang, nhưng ba phát súng nổ liên tiếp, ba phát đạn của Juca trúng hắn và hắn nặng
nề ngã vật xuống đất. Bấy giờ Juca mới ngã xuống chỗ gần cửa, khẩu súng lục rời
khỏi tay rơi đánh xoảng xuống nền đá. Tất cả cảnh này diễn ra không quá một
phút đồng hồ. Những khách trọ khác đều chạy đến chỗ Juca, còn người qua đường
thì quây lấy tên cabra ở ngoài phố.
Ba ngày sau, Juca Badaró chết ở giữa gia
đình, lúc đầu hắn đã kiên cường chịu đựng một cuộc phẫu thuật của viên thầy thuốc
cố gắng lấy viên đạn ra. Nhưng ở Ilhéus hoàn toàn thiếu phương tiện cần thiết
cho một cuộc phẫu thuật như vậy; không có cả đến thuốc mê nữa; tuy nhiên, Juca
vẫn mỉm cười chịu đựng trong lúc bác sĩ hết sức chữa chạy cho hắn.
- Hãy cứu sống em tôi, - Sinhô Badaró nói với
ông này - và ông có thể đòi hỏi tôi mọi thứ ông muốn.
Nhưng vô ích; cả giới y học ở Ilhéus, cả
bác sĩ Pedro từ Tabocas tới cũng không cứu được hắn. Trước khi chết, Juca gọi
Sinhô đến bên cạnh, và nhờ lão chuyển cho Margot một số tiền. Và hắn nói với
viên đại úy và Don’Ana, mặc dầu lúc ấy trong phòng đầy những người:
- Hãy nghĩ đến thằng “bé tí teo”, hầy? Đừng
có quên một chú Badaró đấy! - Rồi hắn cầm lấy tay Don’Ana vuốt ve.
- Lấy tên chú mà đặt cho nó, - hắn nói.
Olga không còn tự kiềm chế nổi nỗi đau đớn,
nhưng Juca không hề để ý và chết khá bình thản. Điều luyến tiếc duy nhất mà hắn
bộc lộ trong những lời nói cuối cùng, là trước khi chết không được nhìn thấy
cánh rừng đã trồng ca cao.
Sau cái chết của Ester, ở Ilhéus chưa có
đám đưa ma nào kèn trống ồn ã như thế. Chẳng những vậy, còn có cả một chuyến
tàu hỏa đặc biệt từ Tabocas. Antônio Vítor trở về - đôi bốt dưới chân gõ cộp cộp
theo mỗi bước hắn đi - khóc lóc như một đứa con nít. Manuel de Oliveira biên một
bản cáo phó tràn ngập những hình dung từ đẹp đẽ, còn luật sư Genaro thì đọc một
bài diễn văn bên mộ Juca mà trong đó ông dùng những lời lẽ cay nghiệt nhất để
hình dung về Horácio. Về phần lão, Teodoro das Baraúnas thề sẽ trả thù cho
huynh đệ của mình. Khi quan tài của Juca Badaró được hạ xuống huyệt, Don’Ana
ném xuống một bó hoa, rồi Sinhô đổ xuống xẻng đất đầu tiên.
Đêm ấy, Sinhô ở lại trong cái nhà có tang ấy,
đi bách bộ trong phòng. Lão nghĩ đến chuyện trả thù. Lão biết có giết bọn đánh
thuê của Horácio cũng không ăn thua gì. Những điền chủ khác, bọn cộng tác của
lão cũng đồng ý với lão; điều duy nhất cần làm là thủ tiêu viên đại tá. Chỉ có
một sinh mạng duy nhất có thể trả được sinh mạng của Juca: đó là sinh mạng của
Horácio da Silveira. Vậy nên lão quyết định làm phứt cho xong đi, muốn ra sao
thì ra. Lão hỏi ý kiến Teodoro và viên đại úy trước mặt Don’Ana. Luật sư Genaro
và viên dân biểu đều cho rằng cần phải truy tố Horácio trước pháp luật, bởi vì
kẻ giết Juca là một tên trong bọn jagunco
của lão, đang làm việc trong đồn điền của lão, không ai không biết thế. Nhưng
Sinhô gạt phăng ngay ý kiến đó. Như vậy không đủ lý do để truy tố. Thật khó mà
buộc tội Horácio được, giờ đây kẻ giết người đã chết rồi; hơn nữa Sinhô Badaró
cảm thấy nếu kẻ thù của mình chỉ bị truy tố như một tên tội phạm thì chưa thể
coi là đã báo thù xong. Don’Ana tán thành ý kiến của lão, viên đại úy cũng đồng
ý, mặc dầu đúng ra y cảm thấy hoảng sợ trước tất cả công việc này, vì y không
hình dung được nó sẽ kết thúc ra sao. Hôm sau Teodoro das Baranúas còn trở lại
để bàn bạc thêm nữa.
Nhưng giết Horácio không phải là chuyện dễ.
Lão hiểu rất rõ rằng các ngả đường cái và phố xá trong thành phố đều nguy hiểm,
cho nên lão ít khi rời khỏi đồn điền. Khi phải đi Ferradas hay Tabocas, lão huy
động một đội hộ tống mạnh, gồm toàn những xạ thủ xuất sắc bao quanh lão và Braz
thì hầu như bao giờ cũng đi cạnh lão. Hàng mấy tháng trời, lão không trở về
Ilhéus; Virgílio phải đi đi về về thông báo cho lão rõ tình hình.
Và sau một thời gian, luật sư Genaro đã
thuyết phục được Sinhô tiến hành việc yêu cầu truy tố Horácio trước pháp luật.
Sinhô đồng ý vì những lý do riêng của lão. Thế là viên đại diện cảnh sát ở
Ilhéus bèn mở một cuộc điều tra, y về Tabocas để lấy cung một số nhân chứng; ai
nấy đều xác nhận rằng kẻ giết Juca làm việc ở đồn điền Horácio. Có một gã làm
việc ngoài bến tàu, đeo một chiếc nhẫn giả, đã nhắc lại hết sức quả quyết một
cuộc trò chuyện giữa gã với kẻ giết người vào hôm trước khi xảy ra vụ án mạng,
trong một tiệm rượu của một người Tây Ban Nha. Tên cabra đã say mèm và gã đeo nhẫn giả khêu cho nó nói chuyện. Nó chìa
ra cho gã xem tờ giấy bạc một trăm milreís
và thổ lộ rằng nó có một việc quan trọng phải làm cho đại tá Horácio. Ông biện
lý đã chấp nhận lời khai đó, Sinhô làm áp lực với quan tòa, và Virgílio chỉ có
thể làm cho Horácio khỏi bị giam giữ mà thôi. Quan tòa xin lỗi Sinhô bằng cách
hỏi lão một câu: “Ai dám đi bắt Horácio ở chính tại đồn điền của hắn? Với tất cả
lòng tôn trọng cần phải có đối với luật pháp tôn nghiêm, tốt hơn hết là đợi đến
ngày Horácio ra tòa, ta sẽ bắt hắn. Và Virgílio đã hứa rằng khách hàng của hắn
sẽ có mặt trong phiên tòa”.
Luật sư Genaro hi vọng có một đoàn bồi thẩm
sẽ tuyên bố chống lại viên đại tá. Dù sao, anh em nhà Badaró vẫn là những tay
tai to mặt lớn về chính trị, rất có thể các vị bồi thẩm sẽ ra một bản phán quyết
công nhận bị cáo phạm tội và đòi phải kết tội nặng nhất. Sinhô có những hi vọng
khác: lão tính sẽ trừ khử được kẻ thù trước lúc những cuộc tranh cãi mở đầu; hoặc
giả, cùng lắm (lão đã nói như vậy với João Magalhães) lão sẽ hạ thủ Horácio khi
hắn ra trước tòa. Cho nên lão cứ để cho công việc tố tụng đó tiếp tục.
Tuy nhiên, Horácio không hề nghĩ đến chuyện
tố tụng hình sự kia. Điều lão mong muốn trước hết là biết được những đơn của
chính lão xin truy tố Sinhô và Teodoro về chuyện chứng thư sở hữu khu Sequeiro
Grande đã tiến triển ra sao. Sau những cuộc tranh biện, kiện cáo trước tòa như
vậy, bọn thầy cò trong thành phố lại giàu to, với các thứ hồ sơ, giấy tờ đòi ra
hầu tòa, các bản kiến nghị và phản kiến nghị, trong khi họ tích cực chuẩn bị
các diễn văn trước đoàn bồi thẩm.
Mặc dầu những khó khăn cản trở việc ám sát
Horácio, lão đã hai lần suýt mất mạng. Lần thứ nhất là khi một tên tay chân của
Teodoro tới được chỗ cây ổi ngay gần sát nhà lớn của lão. Nó đợi mấy tiếng đồng
hồ; viên đại tá hiện ra ở ngoài hiên, và ngồi xuống một cái ghế dài, bắt đầu
róc mía cho một con lừa rất dạn người. Viên đạn trúng vào con vật và Horácio đuổi
theo tên cabra vừa nổ súng, nhưng
không bắt được nó. Lần thứ hai là khi một ông già định giết lão. Ông già này
thoạt tiên đi đến đồn điền Badaró và nhận với Sinhô sẽ giết Horácio. Ông lão
không cần được trả công, ông ta chỉ xin một khẩu súng, ông ta có chuyện phải
thanh toán với Horácio, ông nói thế. Sinhô sai người đưa cho ông già một khẩu
súng trường, và một đêm trăng ông ta đã tìm cách lẻn vào gần nhà lớn. Về sau có
người cho hay rằng đó là bố João Joaquim, xưa kia có một khu rừng bị Horácio
chiếm đoạt mất.
Cho nên Horácio đã tăng cường đội hộ vệ của
lão và họa hoằn lắm mới bước ra khỏi nhà; nhưng không phải vì thế mà người của
lão không tiếp tục khai phá khu rừng Sequeiro Grande. Giờ đây, chẳng lâu la gì
nữa, phu phen hai phe sẽ gặp nhau. Rừng rậm cứ ngày một thu hẹp dần, và kho chứa
của mỗi bên đồn điền đầy những mầm ca cao để trồng thế vào chỗ những cây cối khổng
lồ. Khi bọn cabra của Horácio và của
nhà Badaró chạm trán nhau, chắc chắn là hai bên sẽ dàn quân ra đánh nhau, máu sẽ
chảy ngập đường.
13
Nhưng đúng vào lúc người ta nghe thấy tiếng
rìu chặt cây của đối phương vang lên ở phía bên kia sông thì một buổi sáng
Ilhéus bừng tỉnh dậy đồng thời có một bức điện tới, đem lại một tin rất kích động.
Chính phủ liên bang đã quyết định can thiệp vào bang Bahia, quân đội chính quy
đã chiếm đóng thành phố, viên thống đốc đã xin từ chức, và thủ lĩnh phe đối lập
từ Rio de Janeiro tới với tư cách là quan cai trị. Như vậy có nghĩa là Horácio
giờ đây đã đứng về phe đảng của chính phủ; Sinhô Badaró thành ra đại diện cho
phe đối lập. Còn có một bức điện khác gửi cho quan cai trị mới, triệt hồi thị
trưởng Ilhéus và bổ nhiệm bác sĩ Jessé làm chức vụ ấy. Trong chuyến tàu thủy thứ
nhất từ Bahia tới có một chánh án mới và một biện lý mới, đem theo giấy ủy nhiệm
Braz làm sĩ quan cảnh sát của thành phố. Viên quan tòa cũ được cho về giữ
nguyên chức vụ ở một thành phố nhỏ trong một vùng quê xa tít, nhưng ông ta từ
chối, ưng về hưu hơn. Người ta nói rằng ông ta giàu rồi, không cần đến cái chức
quan tòa mới sống được. Để chào mừng cái tin lớn ấy, tờ A Folha de Ilhéus ra một số báo với trang nhất in hai màu.
Bấy giờ, Horácio mới đến Ilhéus để đáp lại
bức điện của quan cai trị mời lão về Bahia thương nghị. Bạn bè và phe đảng
chính trị của lão hết lời chúc tụng và khen ngợi lão và một đám rất đông đi
theo lão khi lão cùng Virgílio bước xuống bến tàu; vì viên thầy cò cũng đi với
lão.
- Ông luật sư ạ, - Horácio nói khi họ lên
tàu - ông có thể coi như ông đã là nghị sĩ của liên bang rồi.
Sinhô Badaró cũng về Ilhéus. Tối hôm ấy lão
gặp thầy cò Genaro, quan tòa cũ và đại úy João Magalhães. Lão ra lệnh cho bọn
tay chân trong thời gian ấy cứ tiếp tục khai phá khu rừng. Ngày hôm sau, khi
quay về đồn điền của Sant’Ana, lão gặp Teodoro das Baraúnas đang đợi lão ở đấy.
14
Bức điện của Braz đã kéo Horácio ra khỏi những
cuộc thương thuyết chính trị với viên quan cai trị, khỏi tay các ả trong các tiệm
cà phê ở Bahia, khỏi các “tiệc rượu khai vị” với các nhà chính trị trong các tiệm
khiêu vũ lịch sự của thành phố; hắn đáp chuyến tàu thủy về Ilhéus.
Người của Badaró hình như đã ập tới chỗ phu
phen của lão khi bọn này chặt cây, và chúng đã tiến hành một cuộc tàn sát thực
sự. Và điều quan trọng hơn là chúng đã đốt một số lớn rừng ca cao. Cho tới nay,
suốt trong cuộc tranh chấp, những vùng trồng ca cao đều được tôn trọng, theo một
thỏa thuận ngầm với nhau. Ngọn lửa có thể thiêu hủy phòng giấy, những đồn điền
kê và sắn, những kho chứa đầy ca cao khô; giết người, chuyện đó đã xảy ra mãi rồi;
nhưng rừng cây ca cao thì chưa bao giờ bị đụng đến.
Tuy nhiên, Sinhô biết rằng lão đã chơi đến
con bài cuối cùng. Tình hình chính trị thay đổi đã tước mất của lão con chủ bài
cuối cùng, về điểm này, lão đã thấy có chứng cớ: một sự bất ngờ khó chịu chờ đợi
lão khi lão đem bán vụ thu hoạch mùa tới ở nhà anh em Zude và công ty. Họ nói
thác là họ hết tiền, và cuối cùng đồng ý mua ca cao của lão nhưng chỉ với điều
kiện là lão phải cam kết bán cho họ các vụ thu hoạch về sau. Sinhô nổi giận.
Sao? Đòi lão phải đem cầm cố rừng của lão, rừng của Sinhô Badaró ư? Lão tức giận
đến nỗi Maximiliano sợ là hắn có thể bị hành hung; tuy nhiên, hắn vẫn khăng
khăng từ chối không mua, nếu không có những điều đảm bảo như hắn đã yêu cầu.
“Chúng tôi được lệnh như vậy”, Sinhô chỉ có thể moi được ở hắn có thế thôi. Do
đó, Sinhô phải bán ca cao cho một nhà xuất cảng Thụy Sĩ với một giá rẻ mạt. Việc
đó dẫn lão đến chỗ ủy cho Teodoro toàn quyền hành động về vấn đề khu rừng. Những
vụ đốt cháy rừng của Firmo và Jarde xảy ra sau đó, và cả mấy vạt rừng của
Horácio nữa. Và đám lửa cứ theo chiều gió lan đi, kéo dài hàng mấy ngày liền,
và rắn rết rít lên chạy trốn.
Trên bến tàu ở Ilhéus, bạn bè của viên đại
tá chờ đợi để bắt tay lão và bày tỏ lòng thông cảm với lão trước thái độ xấu xa
của anh em nhà Badaró. Trong khi đó, Horácio không nói gì cả, chỉ tìm Braz ở
trong đám đông và đi về đồn cảnh sát bàn bạc với nhau rất lâu. Lão đã hứa với
viên quan cai trị là mọi sự sẽ diễn ra hợp pháp; và bọn jagunco, khi đó được lệnh tấn công đồn điền nhà Badaró và bao vây
nhà lớn, trên các cột báo nghiễm nhiên được gọi là “những lực lượng cảnh sát”
đi lùng bắt tên đốt nhà Teodoro das Baraúnas đang trốn ở đồn điền Sant’Ana như
người ta đã biết.
Cuộc bao vây “nhà lớn nhà Badaró” này đánh
dấu chấm hết cuộc tranh giành khu đất Sequeiro Grande. Teodoro muốn tự nộp mình
và bằng cách đó, làm cho Horácio mất cái cớ về pháp lý. Nhưng Sinhô không đồng
ý và bố trí cho hắn bí mật đi thoát và đưa hắn về Ilhéus, ở đấy có các bạn bè
đưa hắn lên tàu đi Rio de Janeiro. Sau này, người ta được biết hắn ngụ tại
Vitória do Espírito Santo, làm việc cho một hãng buôn. Có thể Horácio cũng biết
Teodoro đã bỏ trốn; nhưng lão không đả động gì đến việc ấy, và tiếp tục bao vây
nhà lớn ở Sant’Ana cứ như là Teodoro vẫn còn trốn ở trong ấy. Rừng Sequeiro
Grande đã khai phá xong; những khoảnh đất thiêu phát để trồng cây non không
khác gì những khu rừng bị phóng hỏa: không có một đường ranh giới phân biệt nào
cả. Báo và khỉ đã bỏ trốn từ lâu rồi, cả ma quỷ nữa; và thợ thuyền đã tìm thấy
hài cốt của lão Jeremias, họ đem đi chôn và cắm một cây thập tự để đánh dấu mộ.
Sinhô Badaró cùng bọn cabra đã cầm cự bốn ngày và bốn đêm; cuối cùng, khi Sinhô bị thương
ngã xuống, và theo lệnh Don’Ana, người ta mang lão đi Ilhéus thì Horácio lần đầu
tiên mới có thể lại gần được ngôi nhà. Buổi sáng, Sinhô đã được bọn chân tay
mang đi; ngay chiều hôm ấy, đại úy João Magalhães cho Olga và Don’Ana lên ngựa
đi theo lão. Raimunda cùng đi với hai người đàn bà; họ được năm tên jagunco hộ vệ. Họ phải nằm lại ở đồn điền
Teodoro, và hôm sau đáp tàu hỏa đi Ilhéus.
Bấy giờ, João Magalhães và những người còn
lại bèn cố thủ ở bờ sông. Bên cạnh y là Antônio Vítor thỉnh thoảng lại giơ súng
lên bắn. Viên đại úy vốn mắt quen nhìn ánh đèn thành phố, cảm thấy bất lực
không thể nhận ra được cái gì trong đêm không trăng. Thằng cha người lai đen
kia bắn ai thế nhỉ? Tiếng súng bắn trả lại chứng tỏ Antônio Vítor đã nhìn đúng;
mắt gã đã quen với bóng tối trong rừng, gã hoàn toàn có thể phân biệt được những
bóng người đang tiến lại gần. Họ bị vây rồi; không còn cách nào khác là rút lui
ra đường cái lớn. Dù có làm thế, đa số trong bọn họ vẫn có thể rơi vào tay bọn
kẻ cướp của Horácio. Quân số giảm đi không ngừng, cho đến lúc chỉ còn lại có bốn
người. Khi đó Antônio Vítor biến đi một lúc, rồi trở lại với một con ngựa mới
được thắng yên cương.
- Ông phải lên ngựa và trốn đi thôi, đại úy
ạ. Không còn làm gì ở đây được nữa đâu.
Đúng là như vậy. Bọn tay chân của Horacio
do Braz dẫn đầu giờ đây đã ở trên bãi cỏ của nhà lớn.
- Thế còn các người, các người sẽ làm ăn ra
sao? - João Magalhães nói.
- Chúng tôi sẽ cùng đi để bảo vệ ông.
Lúc bọn này bắt đầu lên đường thì Braz đã
lên tới hiên ngôi nhà trông có vẻ vắng tanh. Một phút im lặng chết chóc trôi
qua như để phù hợp với đen tối của đêm trường. Người của Horácio tụ tập trên
bãi cỏ, sẵn sàng vào nhà. Một tên được lệnh xòe diêm đốt cây đèn lồng. Từ trong
nhà một tiếng súng bắn ra làm tắt phụt đèn, nhưng kỳ lạ thay tên kia không chết.
Bọn này bèn nằm rạp cả xuống đất và tìm cách bò vào trong nhà. Lại có tiếng
súng nổ nhằm vào Horácio giữa bọn capanga
của lão.
- Hãy còn một tên nữa đấy, - Braz nói với
viên đại tá.
Họ vào trong nhà, tay lăm lăm vũ khí, mắt
gườm gườm dò xét. Giờ đây lòng họ tràn đầy căm thù. Họ sẽ hành tội mấy tên cố
thủ cuối cùng này ghê gớm hơn cả đối với những tên đã gục ở bên sông hay trên
đường cái, những tên mà họ đã móc mắt, cắt tai và xẻo dái. Họ lục soát khắp nhà
không tìm thấy ai. Tiếng súng nổ đã dứt.
- Chúng thiếu đạn, - Braz nói.
Hắn dẫn đầu cả đội, mỗi bên hắn có một người.
Horácio theo sau. Chỉ còn phải khám căn phòng xép nữa thôi. Họ trèo lên cái cầu
thang chật, và Braz đạp tung cánh cửa ra. Don’Ana nổ súng, một tên cabra gục xuống. Rồi khi thấy đã hết đạn,
ả vứt khẩu súng lục xuống chân Horácio.
- Này, bảo chúng giết tao đi, đồ sát nhân,
- và ả tiến lên một bước.
Lão chẳng vừa nhìn thấy ả cùng Olga và
Raimunda với một nhúm người hộ vệ đi xuống con đường lớn đó sao? Lão đã để cho
bọn họ đi ngang tầm súng mà không bắn. Quái quỷ thế nào mà ả lại lộn trở lại được?
Don’Ana lại tiến thêm một bước nữa và đứng giữa khung cửa.
Horácio né sang một bên:
- Thưa bà, bà có thể đi được, tôi không giết
đàn bà.
Don’Ana xuống cầu thang và đi qua phòng
khách nhỏ; ả ngước mắt nhìn lên bức tranh màu khi đi ngang qua. Một viên đạn đã
làm vỡ mặt kính, bắn thủng lồng ngực cô thiếu nữ chăn cừu đang nhảy trong
tranh. Don’Ana ra tới bãi cỏ. Đám đàn ông đứng im lặng.
- Khiếp, cái con mụ bé con này! Nó mới can
trường làm sao! - Một tên trong bọn thì thầm.
Don’Ana lấy một con ngựa sẵn cả yên cương, ả
trèo lên mình ngựa, đưa mắt nhìn tòa nhà lớn lần cuối cùng, thúc ngựa và biến
vào đêm tối không trăng không sao. Mãi tới khi bóng ả khuất rồi, Horácio mới
giơ tay lên, đồng thời cất tiếng hạ lệnh cho bọn tay chân đốt ngôi nhà của gia
đình Badaró.
15
Luật sư Genaro, vốn ưa thích châm ngôn ngạn
ngữ, nhiều năm về sau, khi đến ở hẳn Bahia cho con cái được giáo dục tốt hơn,
thường hay nói rằng: “Cả tấn bi kịch này đã kết thúc thành hài kịch”, ông ta ám
chỉ đến những trận đánh nhau để chiếm lấy khu rừng và vụ xử Horácio ở Ilhéus.
Trước ngày mở phiên tòa ít bữa, tòa án có
ra một nghị định về việc Horácio thưa kiện để bảo vệ quyền sở hữu của lão đối với
khu rừng Sequeiro Grande. Nghị định này công nhận đại tá Horacio da Silveira và
những người cộng tác với ông ta là những chủ nhân hợp pháp, và ra lệnh cho viên
công tố truy tố Teodoro das Baraúnas về tội đốt cháy phòng giấy của Venâncio ở
Tabocas. Tòa cũng truy tố Sinhô Badaró và đại úy João Magalhães vì đã đăng ký một
chứng thư sở hữu bất hợp pháp. Tuy nhiên, việc truy tố này bị bãi bỏ, vì
Horácio, theo lời khuyên của Virgílio, không thúc đẩy thêm việc tố tụng. Xét về
mặt tài chính thì gia đình nhà Badaró hiện đang lâm vào cảnh rất gay go; họ mắc
nợ tất cả các nhà xuất khẩu; họ đã mất hai vụ mùa, và tài sản của họ không sinh
sôi nảy nở được chút nào trong cái năm giao tranh này. Ngược lại, không những
tòa nhà lớn, các sà lan và các lò sấy bị phá hủy mà cả những cây non trong các
kho cũng bị đốt cháy, và một số đồn điền của họ bị thiệt hại rất nặng nề. Phải
nhiều năm mới khôi phục lại tàm tạm một phần cái mà trước kia là một cơ nghiệp
lớn. Như vậy là Horácio không còn địch thủ nào nữa.
Còn vụ án, thì đó chỉ là một sự minh oan
cho viên đại tá. Trước ngày mở phiên tòa, lão tự nộp mình làm tù nhân, và gian
phòng đẹp nhất của tòa thị sảnh thành phố, dùng luôn làm cả tòa án lẫn nhà tù,
đã biến thành phòng ngủ. Braz đã cắt đặt một số cảnh sát lập thành một đội bảo
vệ và chính hắn cũng ở cùng với Horácio. Bạn bè viên đại tá đến chật buồng,
chuyện trò náo nhiệt, sai người đi tìm rượu whiskey và, nói chung, làm cho tòa
nhà ngỏ cửa đến tận sáng.
Ngày hôm sau, phiên tòa bắt đầu lúc chín giờ,
và kéo dài đến tận ba giờ đêm hôm sau nữa. Họ nhà Badaró đã cho mời từ Bahia tới
một luật sư rất nổi tiếng, một vị tiến sĩ luật khoa, tên là Fausto Aguiar, là
người sẽ cùng với trạng sư Genaro cãi cho bên nguyên. Bởi lẽ mọi người đều biết
rằng viên biện lý sẽ chỉ luận tội qua loa thôi vì ông ta cùng phe đảng chính trị
với Horácio.
Quan tòa bước vào, mặc áo thụng đen, theo
sau là những viên lục sự và mõ tòa; ông ta ngồi xuống một chiếc ghế bành có
thành tựa cao, bên trên treo một tượng Chúa Jesus, máu đỏ thẫm từ chỗ vết
thương chảy ra ròng ròng. Viên biện lý ngồi xuống cạnh quan tòa; những chiếc ghế
tựa dành cho luật sư Genaro và luật sư Fausto, là những luật sư của bên nguyên.
Virgílio và luật sư Rui nhận trách nhiệm bào chữa cho bên bị. Quan tòa nói vài
lời theo thủ tục và tuyên bố phiên tòa bắt đầu. Phòng họp đầy ắp, đám đông tràn
ra cả ngoài hành lang. Một chú bé, người mà nhiều năm sau sẽ viết những chuyện
vặt của cái xứ này, được một viên mõ tòa gọi vào để rút thăm trong một hòm phiếu
tên những công dân sẽ họp thành hội đồng bồi thẩm. Chú rút ra một tấm thẻ, quan
tòa đọc tên lên, một người đứng dậy, đi qua phòng và ngồi vào một trong những
chiếc ghế tựa dành cho bảy vị bồi thẩm. Chú rút ra một tấm thẻ khác, và quan
tòa đọc: “Maneca Dantas”. Đại tá Maneca Dantas đã đứng lên rồi thì có tiếng luật
sư Genaro vang lên: “Tôi phản đối vị bồi thẩm này”.
- Bên nguyên khước từ! - Quan tòa tuyên bố.
Maneca ngồi xuống và chú nhỏ lại tiếp tục
rút thăm. Thỉnh thoảng lại có một người bị bên nguyên hoặc bên bị khước từ; cuối
cùng hội đồng bồi thẩm cũng được chọn xong.
Trong khi đó, cả phòng xì xào:
- Nhất trí tha bổng thôi.
- Tôi không chắc, có hai bồi thẩm đáng ngờ.
- Và người ta thì thào nói tên ra.
- Có lẽ ba đấy, - một người khác nói. -
José Faria chắc chắn không phải là bạn thân tình với Horácio đâu. Có thể hắn sẽ
bỏ phiếu chống lại lão đại tá.
- Luật sư Rui hôm nay có đi gặp ông ta. Ông
ta sẽ bỏ phiếu tha bổng.
- Họ sẽ chống án...
- Họ chả cần chống án đâu; toàn thể sẽ tán
thành!
Người ta bèn đánh cuộc xem thử có hay không
có khả năng xin chống án.
Tòa án tối cao vẫn còn đại diện cho cái
chính phủ vừa bị lật đổ, và nếu như có chuyện chống án, Horácio có thể bị kết
án là có tội, hay ít ra người ta cũng có thể quyết định xử lại. Tuy nhiên, số
đông người dự đều tin rằng hội đồng bồi thẩm không có lý do để chống án lên
trên nữa. Giờ đây, tất cả các vị bồi thẩm đều thề “sẽ phán quyết theo đúng luật
pháp, chứng cớ và lương tâm của mình”; họ ngồi xuống ghế dài. Chú nhỏ đã rút
thăm xong bèn rời khỏi bục quan tòa và ngồi xuống đằng sau bên bị.
Ngồi đây, chú có thể theo dõi hết cả diễn
biến của phiên tòa; tai vểnh ra và cặp mắt long lanh, chú không để sót một tí
nào. Thậm chí, mãi đến tận buổi sáng sớm hôm sau khi một số người tham dự trong
phòng đã ngồi ngủ gật trên các ghế dài, chú bé vẫn say sưa theo dõi cảnh này.
Tiếng xì xào thốt nhiên ngừng bặt; mọi người
im lặng vì quan tòa vừa ra lệnh đưa bị cáo vào. Braz bèn đi ra rồi quay trở lại,
theo sau là đại tá Horácio da Silveira đi giữa hai tên cảnh sát. Viên đại tá mặc
một cái áo đuôi tôm đen, tóc chải ngược ra phía sau; mặt lão có vẻ trang
nghiêm, gần như hối hận. Lão dừng lại trước quan tòa, giữa một không khí im lặng
như tờ trong khi những người đi xem cúi cả về đằng trước.
- Tên ông là gì?
- Horácio da Silveira, đại tá dân vệ.
- Nghề nghiệp?
- Điền chủ.
- Bao nhiêu tuổi?
- Năm mươi hai.
- Trú quán?
- Ở đồn điền tên thánh Chúa Jesus, trên địa
phận Ilhéus.
- Ông đã nghe lời buộc tội chưa?
Tiếng viên đại tá sang sảng, rành rọt và mạnh
mẽ: “Rồi”.
- Ông có cần gì để bênh vực cho mình không?
- Những luật sư của tôi sẽ nói hộ tôi.
- Ông có luật sư à? Những ai vậy?
- Các luật sư Virgílio Cabral và Rui
Fonseca.
Quan tòa chỉ cho lão chiếc ghế dài của bị
can: “Ông có thể ngồi xuống”.
Nhưng Horácio vẫn đứng. Braz hiểu ý bèn nhấc
chiếc ghế dài nhục nhã kia ra, thay vào một cái ghế tựa. Horácio vẫn từ chối
không chịu ngồi, khiến trong phòng họp xôn xao. Luật sư Rui bèn xin phép quan
tòa cho bị can được đứng, không phải ngồi vào cái ghế dài tượng trưng kia. Lời
yêu cầu được chấp thuận; thế là từ khắp các góc phòng, người ta đều có thể nhìn
thấy dáng người đồ sộ của viên đại tá đứng khoanh tay, mắt không rời khỏi chỗ
ông quan tòa. Chú bé nọ đứng hẳn lên để nhìn lão cho rõ. Chú thấy lão oai vệ và
uy phong lẫm liệt không sao quên được.
Viên lục sự đọc bản cáo trạng. Việc đọc kéo
dài ba giờ đồng hồ đằng đẵng; tiếp theo là lời cung của các nhân chứng. Thỉnh
thoảng các luật sư lại ghi chép; cạnh luật sư Genaro là một chồng sách luật nặng.
Lục sự đọc xong vào lúc một giờ trưa. Quan tòa tạm cho nghỉ trong giờ ăn trưa.
Những vị trong hội đồng bồi thẩm không được phép nói chuyện với bất cứ ai, phải
ở lại trong phòng; khách sạn cho người đưa thức ăn đến cho họ, tiền do tòa thị
chính trả. Trừ có Camilo Góis đau dạ dày, phải ăn theo chế độ đặc biệt, cơm của
ông ta có người mang từ nhà tới.
Chú bé đã theo dõi các cuộc tranh cãi bèn rời
khỏi phòng, đưa tay cho bố nắm, nhưng khi mõ tòa rung cái chuông lớn gọi các lục
sự và luật sư trở lại thì chú lại quay về chỗ cửa. Horácio bước vào và vẫn đứng
vào chỗ cũ trước mặt quan tòa. Ông biện lý lên tiếng, và đúng như người ta chờ
đợi, bản luận tội của ông ta không có gì đáng kể. Ông ta nói trong nửa tiếng đồng
hồ, để lộ vô khối khe hở thuận tiện cho việc bào chữa.
Tuy nhiên, theo thủ tục, ông kết luận bằng
cách khép tội nặng nhất là ba mươi năm tù. Luật sư Genaro tiếp lời; ông ta nói
trong hai giờ đồng hồ, trích dẫn sách luật, bằng tiếng Pháp hay tiếng La tinh lẫn
lộn - và phân tích tỉ mỉ những bằng cớ mà, theo ông ta, đã chứng tỏ, không còn
nghi ngờ gì hết, rằng kẻ sát nhân là một tên cabra ăn lương của Horácio. Ông ta đặc biệt quan tâm đến lời khai của
gã đeo nhẫn giả đã nói chuyện với tên kẻ cướp trước hôm xảy ra vụ án mạng. Ông
ta kể lại quá trình đấu tranh để chiếm khu rừng Sequeiro Grande và kết luận bằng
cách tuyên bố rằng: “Nếu như bị can được
tuyên bố vô tội thì công lý ở vùng Ilhéus này sẽ chỉ là một trò hề bi thảm nhất”.
Rồi nói thêm mấy câu tiếng La tinh, ông ngồi xuống. Cử tọa hiểu được rất ít cái
bài “hổ lốn” đầy những lời dẫn bằng các thứ tiếng ấy, nhưng sự thán phục của họ
đối với luật sư Genaro cũng không vì thế mà giảm sút. Ông bảo vệ cho bên nào,
điều ấy không quan trọng lắm; người ta coi viên thầy cãi này như một thứ gì quý
giá thuộc về Ilhéus.
Bây giờ đến lượt trạng sư Fausto, và mọi
người đều nghển cổ lên. Cái tiếng tăm là nhà hùng biện lớn đã bay đến đây trước
ông ta, vì những bài cãi của ông ở Bahia rất nổi tiếng. Nói đúng ra người dân
Ilhéus trong dịp này mong được nghe ông ta cãi cho bên bị hơn nhiều; nhưng người
ta biết rằng Sinhô Badaró đã đưa ông ta mười lăm conto để cãi cho lão. Ông ta không nói dài vì còn để dành đến lúc
luận chiến với đối phương; nhưng bài diễn văn của ông ta kêu oang oang, giọng
ông đầy xúc động. Ông ta nói tới người thiếu phụ mất chồng, người anh mất em; rồi
ông ta ca ngợi Juca Badaró là “chàng hiệp
sĩ lang thang của đất ca cao”. Giọng ông nhịp nhàng lên bổng xuống trầm, chất
đầy oán thù khi nói tới Horácio, cái tên jagunco
đã trở thành thủ lĩnh bọn jagunco.
Ngược lại ông đã dùng giọng dịu dàng nhất khi nói tới Olga, “người đàn bà bất hạnh
và người quả phụ không gì an ủi được”. Ông kết luận bằng cách kêu gọi những
tình cảm cao quý về công lý của các vị trong hội đồng bồi thẩm; và phiên tòa một
lần nữa lại tạm nghỉ để dùng bữa chiều.
Tối đến, đám đông lại càng dày đặc, và chú
bé nọ vất vả lắm mới giữ được chỗ của mình. Nhân viên các hãng buôn buổi sáng
không tới xem được, cả buổi chiều cũng vậy; bây giờ họ tranh nhau chỗ đứng cả
trên mấy bậc cầu thang của tòa thị chính.
Diễn giả đầu tiên buổi tối là Virgílio, trả
lời luật sư Genaro. Gã ra sức bác bỏ những chứng cớ buộc tội, vạch rõ tất cả những
chỗ đuối lý của những bằng chứng chống lại Horácio; gã đã gây được kích động lớn
khi nói về người đeo nhẫn giả mà lời khai được coi như cơ sở chính để kết tội,
gã vạch ra đó là một tên ăn cắp tên gọi Fernando, tới Ilhéus cách đây vài năm,
và đã trở thành một gã cầu bơ cầu bất không có phương tiện sinh sống rõ ràng:
“nhân chứng bên nguyên quý trọng biết bao” kia, lúc này đây đang nằm trong xà
lim ở Ilhéus, bị bắt vì tội du đãng và tư cách bừa bãi. Vậy thì lời nói của một
con người như vậy, một tên ăn cắp, lang thang, dối trá phỏng còn có giá trị gì?
Virgílio đọc tiếp đến lời khai của người Tây Ban Nha chủ tiệm rượu, nơi gã đeo
nhẫn giả đã trò chuyện với tên sát nhân. Người Tây Ban Nha nọ tuyên bố rằng
nhân chứng đó xưa nay vẫn nổi tiếng là một thằng nói dối, hay đặt điều và bịa
chuyện, rằng chính ông - tức người Tây Ban Nha ấy - còn ngờ là hắn đã hai lần
đánh cắp tiền trong ngăn kéo của ông ta. Những bằng chứng từ một nguồn như vậy
thử hỏi còn có giá trị gì về mặt pháp lý? Còn ai có thể tin cậy vào một nhân chứng
như thế? Nói tới đó, diễn giả trước hết nhìn ông chánh án rồi đến hội đồng bồi
thẩm; cuối cùng, gã đảo mắt nhìn một vòng tất cả cử tọa. Rồi gã tiếp tục nói,
trình bày cách giải thích riêng của mình về chuyện khu rừng Sequeiro Grande. Gã
cũng nhắc lại đám cháy ở phòng trước bạ. Khi đã nói được hai tiếng đồng hồ, gã
chấm dứt bằng cách yêu cầu khách hàng của gã phải được xử công minh.
Luật sư Rui trả lời luật sư Fausto. Giọng
nói mạnh mẽ của ông ta, hơi ngắt quãng vì rượu, vang lên trong phòng, ông ta
run lên, khóc, cảm kích, tung ra những lời buộc tội, bảo vệ cho khách hàng của
mình; và các thính giả khi thì rơi nước mắt, khi lại bật cười; nhưng ông ta nói
với trạng sư Fausto một cách hung hãn đặc biệt, tên thầy cãi đã dám dùng những
lời lẽ hèn ha làm ô uế cái thanh danh không chút gợn của “vị Bayard* của thành
phố Ilhéus là đại tá Horácio da Silveira”. Ngoài các luật sư và chú bé kia ra,
không ai biết Bayard là ai cả, nhưng tất cả đều cho sự so sánh đó là rất hay.
*[Bayard: hiệp sĩ Pháp thời Trung cổ]
Horácio vẫn khoanh tay đứng nguyên, không tỏ
ra mỏi mệt chút nào. Thỉnh thoảng lão lại mỉm cười khi nghe một số lời châm chọc
đặc biệt dữ dội hoặc độc địa của viên luật sư đả kích vào thầy cãi Fausto.
Tiếp đến là những bản sao lục, và tất cả lại
lên tiếng lần nữa. Điều mới mẻ duy nhất là một lời khai do luật sư Genaro thu
lượm được để bác bỏ lời khai của người Tây Ban Nha chủ tiệm rượu mà Virgílio đã
ghi lại làm dẫn chứng.
Bằng chứng mới này do một người quen của gã
đeo nhẫn giả, tức là người mặc áo dệt xanh, khai ra, người này đồng thời cũng
là khách hàng của tiệm rượu người Tây Ban Nha. Người này khẳng định rằng gã đeo
nhẫn giả “là một người trung thực, mặc dù bề ngoài hắn không có vẻ như vậy”. Hắn
ta có thể bịa ra nhiều chuyện, nhưng cũng có nhiều điều gã thuật lại đã xảy ra
thực sự. Và luật sư Genaro tiếp tục lên tiếng hùng biện phản đối cái đội cảnh
sát địa phương không xứng đáng kia đã bỏ tù một người chỉ vì lý do duy nhất:
ngăn không cho người ấy làm chứng ở phiên tòa.
Trạng sư Fausto đứng dậy đọc bài diễn văn lớn
của mình. Ông ta cố hết sức làm cho tiếng mình rung mạnh hơn luật sư Rui, và một
số thính giả lại phải khóc một lần nữa. Như vậy là ông ta gắng trổ hết tài
năng. Virgílio lại nói thêm mười phút, chỉ đề cập đến vấn đề người đeo nhẫn.
Bài diễn văn cuối cùng là của luật sư Rui,
ông so sánh thần công lý với Đức Chúa Jesus treo trên đầu ông chánh án. Ông ta
kết thúc bằng một câu rất kêu đã chuẩn bị sẵn từ hai hôm nay:
- Tha bổng đại tá Horácio da Silveira, thưa
các vị bồi thẩm, các vị sẽ chứng tỏ cho thế giới văn minh giờ đây đang đổ dồn
con mắt vào tòa án này, biết rằng ở Ilhéus không phải chỉ có ca cao, có tiền,
có đất màu mỡ; mà còn có cả công lý, mẹ đẻ của mọi đức tính mà mỗi dân tộc cần
phải có.
Mặc dầu sự quá đáng của lời quyết đoán đó -
rằng toàn thế giới đang đổ dồn con mắt vào cái tòa án này - và có lẽ cũng chính
vì lý do đó - nó vẫn tạo ra những tràng vỗ tay nhiệt liệt mà ông chánh án phải
rung chuông để duy trì lại trật tự.
Hội đồng bồi thẩm bèn rút vào trong để nghị
án. Horácio cũng ra đứng ở ngoài hành lang để nói chuyện với các luật sư của
mình. Mười lăm phút sau các vị bồi thẩm lại trở về chỗ ngồi, và Braz trở vào với
viên đại tá.
Virgílio vừa nói nhỏ vào tai lão đại tá một
tiếng: nhất trí.
Ông chánh án đọc bản phán quyết nhất trí
tha bổng đại tá Horácio da Silveira. Đến đây, một số người bắt đầu rời khỏi
phòng, còn một số khác đến ôm hôn Horácio và các luật sư của lão. Braz ra lệnh
thả viên đại tá, và tên bị cáo hôm qua thế là ra đi với các bè bạn theo lão về
đến tận nhà.
Bố chú bé thấy con mệt quá bèn đặt chú ngồi
lên vai. Mắt chú bé còn nhìn theo Horácio khi lão rời khỏi tòa án.
- Con thích cái gì nhất? - Bố chú hỏi.
Chú bé khẽ mỉm cười rồi thú thật: “Con
thích nhất, vâng, thích nhất tất cả, là người đeo nhẫn giả, ông ta thông tỏ bao
nhiêu chuyện”.
Luật sư Rui đi ngang qua nghe thấy câu nói ấy
bèn đặt tay lên đầu chú bé tóc vàng, rồi chạy một mạch xuống cầu thang để đuổi
kịp Horácio đang sắp bước ra khỏi cửa lớn tòa thị chính, trong cái buổi sáng rực
rỡ và lạnh giá đang dâng lên từ mặt biển, trên cái thị trấn Ilhéus này.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét