Sông Đông Êm Đềm
Tác giả: Mikhail Sholokhov
Dịch giả: Nguyễn Thụy Ứng
Nhà Xuất Bản Văn Học - 2005 (xuất bản lần
thứ 6)
Phần III
6
Các tráng đinh Cô-dắc bị gọi vào lính đợt
hai của thôn Tatarsky và các thôn lân cận từ giã gia đình hôm trước thì hôm sau
nghỉ đêm ở thôn Eia. Bọn Cô-dắc cuối thôn không ở chung với bọn đầu thôn. Vì thế
Petro Melekhov, Anikey, Khristonhia, Stepan Astakhov, Tomilin Ivan và một số gã
khác cùng ở một nhà. Chủ nhà là một ông lão cao lớn, già lụ khụ, trước kia có
tham gia cuộc chiến tranh Thổ-nhĩ-kỳ. Cụ bắt chuyện với họ. Bọn lính Cô-dắc trải
thảm cả trong bếp lẫn ở nhà trong, đã nằm xuống sắp ngủ và đang hút điếu thuốc
cuối cùng trước khi chợp mắt.
- Này các thầy quyền, có lẽ ra trận phải
không?
- Ra trận đấy, bố già ạ.
- Có lẽ đánh trận lần này không giống lần
chiến tranh Thổ-nhĩ-kỳ đâu. Vì bây giờ người ta dùng những vũ khí lợi hại lắm.
- Cùng một duộc thôi. Cũng là những của thổ
tả như nhau thôi. Trong cuộc chiến tranh Thổ nhĩ kỳ họ đưa nhân dân đi nướng
thì lần này cũng sẽ lại như thế, - Tomilin lầu bầu, không biết anh chàng đang
có chuyện bực dọc với ai.
- Này anh bạn thân mến ạ, anh nói năng đến
là hồ đồ. Chiến tranh lần này sẽ khác đấy.
- Tất nhiên thế rồi, - Khristonhia ngáp
dài, lấy móng tay gảy tàn thuốc, lười nhác tán thành.
- Đằng nào chúng mình cũng phải đánh đấm, -
Petro cũng ngáp dài rồi đưa tay lên miệng làm dấu phép và kéo áo ca-pôt lên
trùm đầu.
- Các con ạ, lão muốn xin với các con một
điều này nhé. Lão chân thành xin các con nhớ lấy điều lão nói,- Ông lão nói.
Petro hất tà áo ca-pôt, lắng nghe.
- Các con hãy nhớ lấy điều này: nếu muốn giữ
lấy tính mạng của mình, nếu muốn ra khỏi cuộc chiến tranh đầy chết chóc được
nguyên vẹn thì phải giữ cho đúng chân lý của con người.
- Chân lý như thế nào? - Stepan nằm sát mép
tấm thảm cất tiếng hỏi. Nụ cười của anh ta đầy vẻ hoài nghi.
Từ ngày nghe tin chiến tranh bùng nổ.
Stepan đã bắt đầu lấy lại được nét cười. Chiến tranh hấp dẫn anh ta, tình hình
hoảng loạn chung và những nỗi đau khổ của người khác tưởng chừng sẽ xoa dịu nỗi
đau khổ của chính anh ta.
- Chân lý là như thế này này: trong chiến
tranh chớ lấy cái gì của người khác, là một. Tuyệt đối không được động đến đàn
bà, ngoài ra còn phải thuộc bài kinh cầu nguyện như thế này.
Bọn Cô-dắc ngọ nguậy, cùng nói nhao nhao.
- Bây giờ thì chỉ mong của mình khỏi mất,
còn nghĩ gì được đến của người khác.
- Còn đàn bà thì tại sao lại không được động
đến? Chỉ là chuyện ngớ ngẩn. Việc ấy tôi thấy không thể giữ được đâu. Còn bài
kinh thì sao?
- Làm thế nào mà nhịn được?
- Đằng nào thì cũng thế thôi.
- Còn bài kinh cầu nguyện thì thế nào hả cụ?
Cặp mắt ông lão nghiêm hẳn lại, cụ trả lời
chung tất cả mọi người:
- Đàn bà thì dù sao cũng không được động tới.
Dứt khoát không được. Nếu không nhịn được thì sẽ hóa điên hóa rồ hoặc bị thương
vì gươm đạn. Hối hận thì đã muộn. Còn bài kinh cầu nguyện thì lão sẽ cho các
con biết. Lão đã có mặt từ đầu đến cuối trong cuộc chiến tranh Thổ-nhĩ-kỳ, cái
chết lúc nào cũng lủng lẳng trên vai như cái túi dết, nhưng lão vẫn sống chính
là nhờ bài kinh cầu nguyện này đấy.- ông lão đi vào nhà trong, lục lọi dưới cái
ổ để hình thánh rồi mang ra một tờ giấy cũ quá đã thành mầu nâu.
- Đây. Các con dậy mà chép đi. Có lẽ sáng
mai gà chưa gáy đã lên đường rồi chứ gì?
Ông lão đặt tờ giấy lên bàn, lấy tay vuốt
loạt soạt cho phẳng rồi bỏ ra ngoài. Anikey là người ngồi dậy trước tiên. Gió
luồn que khe cửa thổi vào ngọn đèn, in những cái bóng chỗ sẫm chỗ nhạt lên bộ mặt
nhẵn thín như mặt đàn bà của hắn. Trừ Stepan, tất cả mọi người đều ngồi dậy
chép. Anikey chép xong trước tất cả mọi người bèn xé lấy tờ giấy trong quyển vở,
vo tròn lại buộc vào dây đeo cổ, phía trên thánh giá. Stepan đưa đi đưa lại bàn
chân, chế Anikey:
- Thế là cậu đã sắp sẵn cho loài rận một chỗ
nương thân rồi đấy. Chúng nó không thể nào sống trên dây đeo thánh giá được.
Nhưng nay thì cậu đã xây cho chúng nó một cơ ngơi bằng giấy rồi. Chà!
- Này, anh hùng rơm vừa chứ, không tin thì
im cái miệng đi! - Ông lão nghiêm nét mặt ngắt lời Stepan. - Chớ có gây trở ngại
cho người khác và chớ có phỉ báng tín ngưỡng. Cũng phải biết thẹn chứ, và làm
như thế là có tội đấy!
Stepan mỉm cười, không nói gì nữa. Để không
khí đỡ căng thẳng. Anikey hỏi ông lão:
- Trong bài kinh cầu nguyện có chỗ nói về
thương và tên là nghĩa thế nào hả bố già?
- Bài kinh cầu nguyện lúc xung phong hãm trận
không phải đã được soạn ra trong thời đại ngày nay của chúng ta đâu. Mồ ma ông
cụ đẻ ra lão đã được ông tam đại của cụ truyền cho rồi. Và có lẽ bài kinh còn
được soạn ra trước nữa kia. Thời xưa người ta vốn là đánh nhau bằng thương và
cung tên mà.
Mọi người tùy ý lựa chọn, ai thích bài nào
thì chép bài nấy.
KINH CẦU NGUYỆN TỴ SÚNG ĐẠN
Lạy
Chúa tôi, cầu Người ban phước lành. Trên núi có một khối đá trắng, ngó tựa con
ngựa. Nước không thấm đặc khối đá cũng như tên và đạn không xuyên đặng người
tôi, nô lệ của Thượng đế, đồng bạn tôi và con chiến mã của tôi. Cũng như búa đập
xuống đe lại nảy lên, cầu khiến cho đạn cũng nảy khỏi người tôi. Cũng như cái cối
xay quay, cầu khiến cho mũi tên cũng quay tít, không tới đặng người tôi. Mặt trời
mặt trăng xưa nay hằng sáng, cũng như tôi, nô lệ của Thượng đế, nhờ đó mà hằng
tráng kiện. Phía sau trái núi có một tòa lâu đài, tòa lâu đài này đã bị đóng chặt
cửa. Tôi ném những cái khóa xuống biển, xuống dưới khối đá trắng nóng bỏng
Anto. Dù là phù thủy nam hay phù thủy nữ, dù là thầy tu hay ni cô, không ai
trông thấy đặng khối đá ấy. Nước không khá chảy khỏi đại dương, cát vàng không
khá đen, cũng như tôi, nô lệ của Thượng đế, không ai khá dùng gì mà bắt đặng.
Nhân danh đức Chúa cha, đức Chúa con và Thánh thần, Amen!
KINH CẦU NGUYỆN TỴ GIAO CHIẾN
Có một
đại dương, trên đại dương ấy có khối đá trắng Anto. Trên khối đá Anto có một
người đàn ông bằng đá ở đấy đã muôn ngàn đời, cầu lấy một cái áo bằng đá che
cho tôi, nô lệ của Thượng đế, cùng các đồng bạn của tôi, từ phương đông cho tới
phương đoài, từ dưới đất cho tới trên trời, đặng tỵ kiếm nhọn gươm sắc, tỵ mũi
giáo mũi mác, tỵ những cây lao có hơ lửa và không hơ lửa, tỵ dao găm, búa rìu
và pháo đạn, tỵ đạn chì và các thứ vũ khí bách phát bách trúng, tỵ mọi thứ tên,
dù là lông đại bàng hay lông thiên nga, lông ngỗng hay lông hạc, lông gà hay
lông quạ, tỵ những trận chiến đấu với quân Thổ nhĩ kỳ, tỵ quân Krym và quân Áo,
tỵ những kẻ địch truy kích người Tarta và người Ladvia, người Đức, người Silin
và người Kalmys. Cầu các Đức cha chí thánh và thần lực trên trời che chở cho
tôi, kẻ nô lệ của Thượng đế. Amen.
KINH CẦU NGUYỆN KHl XUNG PHONG HÃM TRẬN
Lạy Đức
mẹ chí tôn vô nhiệm nguyên tội và Chúa Giê-su của chúng tôi. Cầu Chúa ban phước
lành. Tôi là nô lệ của Thượng đế cùng các đồng bạn của tôi đang đi xung phong
hãm trận, cùng với tôi còn có con ngựa. Cầu Chúa lấy mây che phủ, cầu vây quanh
chúng tôi một bức tường trời bằng đá thiêng. Lạy Đức thánh Dimitri Solunsky, cầu
Người che chở cho tôi, nô lệ của Thượng đế, cùng các đồng bạn của tôi ở cả bốn
phương tám hướng, cầu Người khiến cho những quân hung tàn bạo ngược, dù già dù
trẻ, dù da đỏ hay da đen, dù là quân dị giáo, dù là bọn pháp sư phù thủy hay mọi
loại tà đạo đều không bắn bằng tên, đâm bằng giáo, chém bằng búa tầm sét, nện bằng
chày, xả bằng gươm, bổ bằng rìu hoặc đâm chém bằng dao nhọn. Trong lúc này, mọi
vật đều đang bày ra trước mặt tôi kẻ nô lệ của Thượng đế, cô độc và đang bị xét
xử. Trên biển cả, trên đại dương, trên đảo Buian, có một cây cột thép. Trên cái
cột ấy có một người thép, chống một cái gậy thép, người ấy thu hút mọi thứ đồ sắt
thép, thiếc, chì và mọi thứ binh khí. Này hỡi sắt thép ơi, ngươi hãy quay về với
mẹ người là đất, hãy tránh kẻ nô lệ của Thượng đế này, các đồng bọn của ta và
con ngựa chiến của ta. Này hỡi tên gỗ ơi hãy trở vể rừng, này hỡi lông kia hãy
trở về với chim là mẹ ngươi, còn dao kia thì hãy trở về với cán. Cầu Người dùng
mộc vàng ròng che chở cho tôi, kẻ nô lệ của Thượng đế, đặng tỵ búa rìu, tên đạn,
đao thương và dao nhọn. Cầu cho thân tôi rắn tầy giáp sắt. Amen.
Các binh sĩ Cô-dắc chép xong mấy bài kinh cầu
nguyện đều đeo dưới cái áo sơ-mi lót mình. Họ buộc các bài kinh ấy vào dây
thánh giá, cùng với vật được mẹ chúc phước tặng cho, với cái gói đựng dúm đất cố
hương, nhưng cả những anh chàng đeo các bài kinh cầu nguyện cũng chẳng được thần
chết buông ta.
Biết bao xác chết đã thối rữa trên những
cánh đồng Galixi và Đông Phổ, ở Karpat và Rumani, ở khắp các nơi nào có ánh lửa
chiến tranh và in móng ngựa Cô-dắc.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét