Sông Đông Êm Đềm
Tác giả: Mikhail Sholokhov
Dịch giả: Nguyễn Thụy Ứng
Nhà Xuất Bản Văn Học - 2005 (xuất bản lần
thứ 6)
Phần III
7
Thông thường các tráng đinh Cô-dắc các trấn
miền trên Quân khu sông Đông: Elanskaia, Vosenskaia, Migulinskaia và Cadanskaia
đều được đưa về hai trung đoàn Cô-dắc dã chiến 11, 12 và trung đoàn ngự lâm
Atamansky.
Nhưng năm 1914, không biết vì lý do gì một
phần trong số các tráng đinh Cô-dắc người trấn Vosenskaia bị gọi vào lính hiện
dịch lại được đưa vào trung đoàn Cô-dắc sông Đông số 3 mang tên Emark
Timofeevich*, trung đoàn này trước kia gồm những gã Cô-dắc khu Ust-Medvedisky.
Trong số những người bị gọi đi Trung đoàn 3 có cả Mitka Korsunov.
*[Người anh hùng Cô-dắc xưa kia đã đi đánh người Tarta ở
Sibiri và chết ở đấy]
Trung đoàn này đóng ở Vilnius [Nay là thủ đô nước
Litva], cùng với vài phân đội của Sư đoàn kỵ binh số 3. Đến tháng
Sáu các đại đội đều thả ngựa ra ngoài thành phố cho ăn cỏ trên đồng.
Một ngày mùa hè ấm áp, u ám, mây trôi trên
trời ụn lại từng chỗ, nom như những đàn gia súc, che cả mặt trời. Trung đoàn tiến
theo đội hình hành quân. Quân nhạc cử vang trời. Các ngài sĩ quan cưỡi ngựa đi
túm tụm một đám với những chiếc mũ cát-két mùa hè màu ka-ki, những chiếc áo
quân phục mỏng nhẹ, khói thuốc tỏa xanh xanh trên đầu.
Hai bên đường làng, những người đàn ông
mu-gích và những người đàn bà quần lành áo tốt đang cắt cỏ. Họ đưa tay lên che
mắt nhìn các đoàn quân Cô-dắc.
Ngựa đổ mồ hôi đã khá nhiều. Mồ hôi sủi từng
đám vàng vàng dưới háng ngựa. Gió đông nam hiu hiu thổi không làm cho ngựa ráo
mồ hôi mà càng làm không khí trở nên ngột ngạt, đầy hơi nước.
Đến giữa chặng đường hành quân, khi chỉ còn
cách một cái làng nhỏ không xa, bỗng có một con ngựa non xén bờm tự nhiên chạy
lẫn vào đại đội năm. Nó đang phi như bay từ một dãy hàng rào ra, thì trông thấy
đàn ngựa đông như thế, bèn hí dài một tiếng, phóng ngang qua, cái đuôi vắt hẳn
sang một bên vẫn còn giữ những sợi lông tơ bù xù của thời thơ ấu. Bụi xám bay
mù lên dưới bốn cái móng nhỏ gọn như vỏ sò rồi lại rơi lả tả xuống lớp cỏ xanh
đã bị dẫm nát. Nó chạy lên tới trung đội đi đầu rồi tinh nghịch húc mõm vào bẹn
con ngựa của lão quản. Con ngựa của lão quản đã hất mông lên nhưng không nỡ đá:
có lẽ nó cũng thương.
- Xéo ngay, đồ ngu xuẩn! - Lão quản vung
roi quát.
Binh lính Cô-dắc phá lên cười, họ cảm thấy
thích thú trước cái vẻ đáng yêu của con ngựa non gợi lại cho họ những cảnh ở
nhà. Đến lúc ấy thì xảy ra một chuyện chẳng ai lường trước: con ngựa non láo xược
len vào giữa các hàng của trung đội, thế là trung đội bị tách ra, mất hẳn đội
hình chỉnh tề, chặt chẽ lúc nãy. Những con ngựa bị thúc đi cứ trù trừ giậm chân
loạn lên. Con ngựa non bị những con ngựa khác len chặt bèn quay ngang và tìm
cách cắn con ngựa gần nó nhất.
Viên đại đội trưởng phi ngựa như bay tới:
- Có chuyện gì thế này?
Ở chỗ con ngựa xén bờm lỗ mãng xông bừa
vào, có mấy con ngựa quay ngang hí rầm lên. Bọn Cô-dắc vừa cười vừa lấy roi quất
con ngựa non. Trung đội không còn hàng ngũ gì nữa, láo nháo dồn cả lại một chỗ.
Các trung đội phía sau thì thúc lên. Viên sĩ quan chỉ huy trung đội từ dưới
đuôi đại đội phi lên theo lề đường, mặt giận bừng bừng.
- Có gì thế hử? - Viên đại đội trưởng gầm
lên rồi cho ngựa xông vào giữa đám đông.
- Có con ngựa con kia...
- Nó xông ngay vào giữa đám chúng tôi...
- Cái con quỷ con này, không làm thế nào đuổi
đi được!
- Thì cho nó vài roi! Thương cái gì?
Bọn Cô-dắc mỉm cười ra vẻ nhận lỗi. Họ kéo
chặt dây cương giữ những con ngựa đang tức bực.
- Chánh quản đâu? Ngài trung úy, trò của nợ
gì thế này hả? Ngài chỉnh đốn ngay hàng ngũ trung đội của ngài đi, thật chưa từng
thấy thế này bao giờ?
Viên đại đội trưởng cho ngựa chạy sang bên.
Con ngựa của hắn lùi lại, tụt hai chân sau xuống một cái rãnh bên đường. Hắn
thúc cho nó một cái đinh gót ủng, con ngựa nhảy sang bên kia rãnh, lên cái ụ mọc
đầy tân lê và cúc vàng. Một nhóm sĩ quan đứng lại đằng xa.
Một viên trung tá ngửa đầu uống nước trong
bi-đông, một tay đặt lên mũi yên bọc sắt rất đẹp, với cái vẻ âu yếm của một người
cha đặt tay lên đầu con.
Lão quản cho trung đội tản ra, rồi vừa văng
tục vừa đuổi con ngựa non ra khỏi mặt đường. Trung đội lại tập hợp. Một trăm rưởi
cặp mắt cùng nhìn lão quản dướn thẳng người trên bàn đạp, phi ngựa đuổi theo
con ngựa non. Nhưng con ngựa non kia lúc thì đứng lại dựa cái sườn bẩn thỉu đầy
phân khô vào con ngựa ba véc-sốc của lão quản, lúc lại ngoặt đuôi phi vụt lên.
Lão quản đã tìm đủ mọi cách mà không tài nào quất nổi cái roi vào lưng nó, lần
nào cũng chỉ trúng cái đuôi xòe ra như cái chổi. Cái đuôi bị đánh rơi thõng xuống,
nhưng chỉ một giây sau lại ngang ngạnh vung vẩy trước gió.
Toàn đại đội phá lên cười. Bọn sĩ quan cũng
cười. Ngay đến bộ mặt sầm sầm dái trâu của viên đại úy cũng có một cái nhếch
mép tương tự như nét cười.
Đi trong hàng thứ ba của trung đội đầu tiên
có Mitka Korsunov cùng với Mikhail Ivankov, một gã Cô-dắc ở thôn Kargin trấn
Vosenskaia, Kotma Kriuchkov ở Ust-Khop. Gã Ivankov mặt to, vai rộng, cứ lầm lì
chẳng nói chẳng rằng. Còn Kriuchkov, biệt hiệu là “Lạc đà” là một gã hơi rỗ
hoa, lưng gù gù, luôn kiếm chuyện với Mitka. Kriuchkov là gã Cô-dắc “cũ”, tức
là đã ở lính hết năm cuối cùng của thời hạn đi lính, và theo một thứ luật không
ghi trên giấy trắng mực đen được áp dụng trong trung đoàn, cũng như tất cả các
tên Cô-dắc “cũ” khác, gã có quyền đốc thúc, bắt ne bắt nét những thằng Cô-dắc
ít tuổi, hơi có chút không vừa ý là có thể rút dây lưng đánh được. Đã qui định
như sau: một gã Cô-dắc khóa 1913 có lỗi thì bị đánh mười ba roi, nếu là khóa 1914
thì mười bốn roi. Bọn quản và bọn sĩ quan rất khuyến khích thứ quy củ này vì
chúng cho rằng làm như thế thì nhồi nhét được cho binh lính ý thức phục tùng
người trên, không những theo cấp bậc mà còn theo tuổi.
Mới gần đây Kriuchkov được gắn lon binh nhất.
Gã gù lưrg ngồi trên yên, hai vai xuôi thõng, so lại như con chim. Gã nheo mắt
nhìn một đám mây xám ưỡn căng bộ ngực mênh mông, rồi bắt chước giọng viên đại đội
trưởng đại úy Popop vai u thịt bắp, hỏi Mitka:
- Nè, Korsunov, mi bảo tao hay, đại đội trưởng
đại đội ta tên là gì hử?
Mitka đã nhiều lần được nếm mùi roi da vì
cái tính ngang ngạnh đầu bò đầu bướu của nó, vì thế lần này nó cố làm vẻ mặt
cung kính phục tùng.
- Là đại úy Popop, thưa thầy Cô-dắc “cũ”?
- Sao?
- Là đại úy Popop, thưa thầy Cô-dắc cũ!
- Tao có hỏi thế đâu. Mày bảo tao hay anh
em Cô-dắc chúng ta nói riêng với nhau gọi là gì cơ.
Ivankov hoác cái miệng sứt môi ra cười rồi
nháy mắt ra hiệu cho Mitka, vẻ sợ hãi. Mitka đưa mắt nhìn thì thấy chính viên đại
úy Popop đang từ phía sau đi tới.
- Thế nào? Trả lời đi!
- Thưa thầy Cô-dắc cũ, anh em gọi là đại úy
Popop ạ.
- Mười bốn roi. Có nói ngay không, đồ mạt
kiếp!
- Thưa thầy Cô-dắc cũ, tôi không biết ạ.
- Được rồi, về đến chỗ thả ngựa, -
Kriuchkov nói giọng không còn có vẻ đùa nữa, - tao sẽ cho mày ăn roi da! Đã hỏi
thì phải trả lời.
- Tôi không biết mà.
- Sao vậy, thằng nhóc con chết tiệt này,
mày không biết anh em gọi giễu lão là gì à?
Mitka nghe thấy sau lưng có tiếng con ngựa
của viên đại úy rón rén bước tới như một thằng ăn cắp, bèn ngậm tăm.
- Thế nào hử? - Kriuchkov hung hãn nheo mắt.
Những hàng phía sau cố nén tiếng cười.
Kriuchkov không hiểu người ta cười cái gì, nên cứ tưởng họ cười mình, bèn nổi
xung.
- Thằng Korsunov, mày liệu cái thần hồn! Về
đến nơi tao sẽ nện cho mày năm mươi roi.
Mitka nhún vai đánh liều.
- Nhọ đuôi!
- Đúng rồi, có thế chứ.
- Khriuchkov! - Sau lưng có tiếng gọi.
Thầy Cô-dắc cựu binh run bắn trên yên, cố
rướn thẳng người.
- Mày, thằng khốn nạn này, mày giở trò bậy
bạ gì ở đây thế hử? - Viên đại úy Popop vừa nói vừa cho ngựa lên ngang con ngựa
của Kriuchkov. - Tại sao mày lại dạy thằng Cô-dắc nhóc con này như thế hả?
Kriuchkov hấp háy hai con mắt nheo lại, má
gã đỏ tím như quả bồ quân. Bọn lính phía sau phá lên cười.
- Năm ngoái tao đã cho đứa nào một bài học
rồi hử? Cái móng tay này đã xọc rách mõm thằng nào mày còn nhớ không hử? - Viên
đại úy giơ cái móng tay út vừa dài vừa nhọn ra trước mũi Khriuchkov, ria hắn
rung rung. - Đừng để lần sau tao nghe thấy như thế nữa! Hiểu không?
- Thưa vâng, bẩm quan lớn hiểu rồi ạ!
Viên đại úy cho con ngựa của hắn chạy chậm
lại rồi rẽ sang bên đường giữ ngựa, chờ đại đội tiến qua. Đại đội bốn và đại đội
năm đã chuyển sang nước kiệu.
- Đại đội nước kiệu... tiến!
Kriuchkov cầm lại dây cương, ngoái nhìn
viên đại đội trưởng lúc này đã ở tụt lại phía sau. Gã kéo lại ngọn giáo cho
ngay ngắn rồi lắc lắc đầu bực bội.
- Thế đấy cái lão Nhọ đuôi này! Không biết
tự nhiên ở đâu mò tới thế?
Mồ hôi còn đầm đìa sau mẻ cười, Ivankov kể
lại:
- Lão đã đi mãi sau lưng bọn mình mà lại.
Nói những gì lão đều nghe thấy hết. Hoặc có lẽ lão đã đánh hơi thấy mình nói
chuyện gì.
- Đồ ngu xuẩn, sao mày không nháy mắt ra hiệu
cho tao biết?
- Nhưng chuyện can gì đến tôi.
- Không can gì à? Thế thì được, lột quần mười
bốn roi!
Các đại đội đóng quân tại các trang trại của
bọn địa chủ trong vùng. Ban ngày binh lính cắt cỏ chua me và các thứ cỏ khác
trên bãi cho địa chủ, đêm đến lại buộc hai chân sau những con ngựa, thả cho ăn
cỏ những nơi đã chỉ định rồi túm tụm đánh bài, kể chuyện cho nhau nghe hay giở
những trò tinh nghịch quanh những đống củi khói bốc nghi ngút.
Đại đội sáu đã biến thành cố nông cho tên đại
địa chủ Ba Lan Snaider. Bọn sĩ quan ở một chái nhà, chúng hết chơi bài, bí tỉ
chai bố chai con lại bám lấy đứa con gái lão quản lý như một đàn nhặng.
Binh sĩ Cô-dắc đóng trại ở một nơi cách
trang trại ba vec-xta. Sáng sáng “pan” [Tiếng Ba Lan: quan lớn, địa chủ, ông] quản lý
cưỡi một chiếc xe đua đến chỗ họ ở. Lão quý tộc lớp dưới béo phệ và bệ vệ ấy đứng
dậy trên xe, duỗi duỗi cho cặp giò toàn mỡ bớt tê dại và không bao giờ quên vẫy
cái mũ cát-két trắng lưỡi trai véc-ni chào “anh em Cua-dắc”. Trong hàng lính
Cô-dắc mặc áo sơ-mi trắng có những tiếng gọi ơi ới:
- Xuống cắt cỏ với chúng tôi cái, “pan”!
- Xuống làm một lát cho tiêu bớt lớp mỡ đi
chứ!
- Cầm lấy cái hái mà đi vài hàng, kẻo bán
thân bất toại mất!
“Pan” mỉm cười khá điềm tĩnh, rút chiếc mùi
xoa đưa ra lau vừng trán hói rất dốc rồi đưa lão quản đi nhận những khoảng cỏ mới
cho anh em cắt.
Xe nhà bếp đến lúc giữa trưa. Binh lính
Cô-dắc lau rửa rồi đi ăn. Trong bữa ăn anh chàng nào cũng câm như hến, nhưng đến
nửa giờ nghỉ sau bữa trưa, chuyện mới nở như pháo ran.
- Cỏ vùng này thật là thổ tả. Bì sao được với
cỏ đồng ta.
- Hầu như chẳng thấy sợi nga quan nào.
- Ở vùng sông Đông, bà con ta bây giờ cắt cỏ
xong rồi đấy.
- Cả chúng mình cũng cắt sắp xong rồi. Hôm
qua là ngày đầu tuần trăng, sắp mưa đấy.
- Lão Ba Lan này thật vắt cổ chày ra nước.
Anh em vất vả thế này mà chẳng cho được chai rượu.
- Ồ hô-hô? Rượu lão còn cất trên bàn thờ...
- Này, các cậu ạ, thế này là nghĩa lý làm
sao nhỉ: càng giàu có càng keo kiệt?
- Chuyện này thì cậu lên tìm hoàng đế mà hỏi.
- Còn ả con gái lão địa chủ, đã có cậu nào
trông thấy chưa?
- Thế sao?
- Một con bé đần đẫn những thịt là thịt!
- Lợn sữa à?
- Đúng đấy đúng đấy.
- Món ấy thì có thể để nguyên xơi tái...
- Không biết có đúng hay không, nhưng nghe
nói họ hàng nhà vua đã có người đánh mối rồi đấy.
- Miếng ngon như thế thì đâu đến miệng dân
ngu cu đen?
- Này các cậu ạ, có tin đồn hình như bộ tư
lệnh tối cao sắp tới kiểm tra chúng ta thì phải.
- Con mèo vô công rồi nghề, thành thử...
- Thôi bỏ cái chuyện ấy đi, Tarat.
- Cho anh em một khói được không?
- Đồ dị chủng, đồ quỷ đói, muốn dài tay ra
ăn xin thì đến nhà thờ!
- Này, các thầy quyền lại đây mà xem,
Fedorna nó rít có ghê không, chẳng còn chút gì cả.
- Còn tàn đấy thôi.
- Trông kìa, người anh em, lửa chỗ kia cứ
như trong một ả đa tình ấy.
Mọi người nằm sấp hút thuốc. Những cái lưng
trần phơi nắng đỏ ửng lên. Ở một chỗ khác, chừng năm gã Cô-dắc cựu binh tra hỏi
một tên lính mới:
- Cậu ở trấn nào thế?
- Trấn Elanskaia.
- Như thế là cậu thuộc loài dê à? [Dê là biệt
hiệu của trấn Elanskaia]
- Đúng thế.
- Thế ở vùng các cậu người ta chở muối bằng
gì hả?
Ngay gần đấy Kriuchkov Kotma đang nằm trên
tấm áo ngựa, vẻ mặt chán ngán, mấy ngón tay vê vê những sợi ria lơ thơ.
- Bằng ngựa.
- Còn bằng gì nữa?
- Bằng bò.
- Còn cá dầy ở Krym thì chở đến bằng gì? Cậu
có biết không, cái giống bò có cái gì gồ gồ trên lưng nhai cả gai ấy mà, người
ta gọi là gì nhỉ?
- Là lạc đà.
- Ô hô-hô-ha-ha!
Kriuchkov lừng khừng đứng dậy bước tới trước
mặt kẻ vừa phạm tội, lưng gã gù gù hệt như lưng lạc đà. Gã vươn cái cổ nâu nâu
vàng vàng, chỗ lộ hầu to tướng, vừa đi vừa tháo dây lưng.
- Nằm xuống.
Tối tối, khi bóng đêm tháng sáu bềnh bệch
như mắt đá mèo toả xuống cánh đồng, bên đống lửa lại có tiếng hát:
Viễn chinh đồng đất nước người,
Con ngựa huyền đưa chàng trai Cô-dắc,
Vĩnh biệt quê hương, ruổi rong vạn dặm xa...
Giọng nam cao sang sảng như tiếng bạc thít
đi, nhường cho những giọng trầm trải rộng tấm thảm nhung của nỗi buồn u uất:
Nơi cắt rốn chôn rau, chẳng bao giờ chàng trở lại.
Giọng nam cao lại vút lên mãi, mỗi lúc một
trong:
Người vợ trẻ hướng về phương bắc,
Sớm ngóng trông, chiều lại ngóng trông,
Đợi đợi mãi, mong có ngày sẽ thấy,
Ngựa chiến trả về chàng Cô-dắc bạn lòng.
Rồi không biết bao nhiêu giọng cùng hòa
theo. Vì vậy bài hát nghe đặc quánh và ngây ngất như thứ rượu bia vùng Polesia:
Bên kia núi, nơi mịt mùng bão tuyết,
Nơi đại hàn, tiếng băng nổ rền vang,
Nơi rừng thông ngả nghiêng trong gió,
Dưới lớp tuyết kia, chàng Cô-dắc gửi nắm xương tàn.
Những giọng hát kể lể câu chuyện mộc mạc về
một cuộc đời Cô-dắc. Bè nam cao phụ rung lên như tiếng chim sơn ca tháng tư,
khi mặt đất đã tan tuyết:
Lúc hấp hối, chàng xin các bạn.
Đắp cho mình nấm kurgan to.
Kèm theo là những giọng trầm u uất:
Trên mộ ấy, hoa tuyết cầu yêu dấu
Sẽ nở xum xuê, muôn sắc huy hoàng.
Bên một đống lửa khác, một đám người ít hơn
hát một bài khác hẳn:
Biển Azop ầm ầm cuộn sóng,
Đoàn chiến thuyền tiến ngược sông Đông
Chàng ataman trẻ trai
Về với nhà cửa ruộng đồng.
Cách đó hơi xa, một gã bẻm mép trong đại đội
ngồi bên đống lửa thứ ba kể một câu chuyện diễn biến rất éo le. Khói bốc nghi
ngút làm hắn húng hắng ho. Mọi người nín thở lắng nghe từ đầu đến cuối.
Năm thì mười họa, chỉ những lúc người anh
hùng trong chuyện vượt được một cách tài tình những cạm bẫy do bọn Môtxcan*
cùng với tà ma bày ra, thì qua ánh lửa mới loáng thấy bàn tay của một anh chàng
nào đó vỗ đen đét vào ủng, rồi một giọng khản đặc vì khói kêu lên ra vẻ rất thống
khoái:
- Ái chà chà, quả là tài tình, chúa thật!
Rồi chỉ còn cái giọng thao thao bất tuyệt,
trơn leo lẻo của anh chàng kể chuyện.
*[“Moskan” là cái tên mà người Ukraina và người Bạch Nga
dùng để gọi một cách khinh bỉ cho đại biểu chính quyền cũng như dân chúng và
binh lính Moskva]
Trung đoàn chuyển ra đóng quân trên đồng cỏ
được một tuần thì viên đại úy Popop cho gọi gã đóng móng ngựa của đại đội và
lão quản đến gặp hắn:
- Con ngựa thế nào rồi? - Hắn hỏi lão quản.
- Bẩm quan lớn khá lắm, rất béo khỏe nữa là
khác. Các chỗ gầy hõm trên lưng đã đầy lên cả rồi. Nó đã lại sung sức.
Viên đại úy vê vê hàng ria đen, vuốt nhọn
ra như mũi tên (chính vì thế anh em mới đặt cho hắn cái biệt hiệu Nhọ đuôi), rồi
nói:
- Quan trung đoàn trưởng vừa ra lệnh mạ thiếc
lại tất cả các bàn đạp và hàm thiếc. Bộ tư lệnh tối cao sẽ xuống kiểm tra trung
đoàn. Phải làm thế nào cho bất kỳ cái gì cũng sáng bóng: yên cương cũng như tất
cả các thứ khác. Phải làm thế nào cho tất cả những thằng Cô-dắc đều có vẻ đáng
yêu, ưa nhìn. Thế nào, người anh em, bao giờ thì mọi việc sẽ làm xong?
Lão quản đưa mắt cho gã đóng móng ngựa. Gã
đóng móng ngựa đưa mắt cho lão quản rồi cả hai cùng nhìn viên đại úy.
Lão quản nói:
- Bẩm quan lớn, đại khái đến chủ nhật được
không ạ? - Rồi lão đưa mấy ngón tay lên vuốt hàng ria mốc xanh vì khói thuốc để
tỏ vẻ cung kính.
- Với tôi thì cẩn thận đấy? - Viên đại úy dọa
trước.
Đến đây thì lão quản và gã đóng móng ngựa
ra ngoài.
Từ hôm ấy, mọi người bắt đầu làm các công
việc chuẩn bị cho bộ tư lệnh tối cao tới kiểm tra. Ivankov Mikhail là con một
người đóng móng ngựa và chính hắn cũng biết nghề này, vì thế hắn đã giúp gã
đóng móng ngựa tráng thiếc lại tất cả các bàn đạp và hàm thiếc. Tất cả các binh
sĩ khác tắm chải cho ngựa đến sạch quá tiêu chuẩn. Họ dùng gạch vụn đánh bóng tất
cả các dây xích và các bộ phận bằng kim khí trên đồ thắng.
Một tuần sau trung đoàn đã bóng lộn như một
đồng hai mươi kopeik mới toanh. Từ móng ngựa tới mặt mũi binh sĩ Cô-dắc, mọi thứ
đều sáng như gương. Đến hôm thứ bảy, viên trung đoàn trưởng đại tá Grekov xuống
kiểm tra trung đoàn, đã ngợi khen các ngài sĩ quan cùng anh em Cô-dắc siêng
năng mẫn cán làm các công việc chuẩn bị và có được một vẻ hùng dũng như thế.
Những ngày tháng Bảy tuôn dần ra như cuộn sợi
xanh da trời. Được ăn uống no đủ, đàn ngựa Cô-dắc mỗi ngày một béo phây ra, chỉ
có binh lính Cô-dắc là nhốn nháo cuống cuồng, trong lòng như thiêu như đốt vì
những ý đoán mò: về chuyện bộ tư lệnh tối cao xuống kiểm tra chẳng có phong
thanh gì... Những buổi chuyện trò bàn tán quẩn quanh, những cuộc cưỡi ngựa và tập
luyện, thế là hết một tuần. Chợt đùng một cái có lệnh đi Vilnius.
Trời gần tối thì tới Vilnius. Các đại đội lại
nhận được mệnh lệnh thứ hai: chuyển ngay những cái hòm đựng các đồ riêng của
binh lính Cô-dắc lên các xe quân nhu để có thể lại xuất phát.
- Bẩm quan lớn, có chuyện gì thế? - Bọn
Cô-dắc bực bội, cố hỏi các sĩ quan chỉ huy trung đội xem tình hình đích xác thế
nào.
Bọn sĩ quan chỉ nhún vai. Chính họ cũng
đang muốn biết tình hình, dù phải trả tiền.
- Tôi không biết.
- Sắp tới có những buổi diễn tập cho hoàng
thượng duyệt hay không?
- Tạm thời chưa rõ. - Những câu trả lời của
bọn sĩ quan cũng làm cho binh lính Cô-dắc vui vui.
Chiều mười chín tháng Bảy gã liên lạc của
viên trung đoàn trưởng rỉ tai thằng bạn gã là Mrykhin ở đại đội sáu, đang trực
nhật trong tàu ngựa:
- Chiến tranh rồi, anh em ạ!
- Chỉ nói bậy!
- Lạy Chúa tôi, thật đấy. Nhưng cậu chớ có
hở với ai đấy nhé?
Sáng hôm sau trung đoàn tập hợp trong đội
hình sư đoàn. Các khung cửa sổ của doanh trại nhấp nhoáng một thứ ánh sáng ảm đạm
trên những miếng kính đầy bụi. Toàn trung đoàn ngồi trên lưng ngựa chờ trung
đoàn trưởng.
Đại úy Popop cưỡi con ngựa chân rất dài đứng
trước đại đội sáu, tay trái đeo găng trắng kéo dây cương. Con ngựa cúi cong cái
cổ như hình bánh xe, ngoẹo đầu cọ mõm vào mấy bắp thịt trước ức.
Viên đại tá từ góc ngôi nhà của doanh trại
tiến ra, cho ngựa đứng nghiêng trước hàng quân. Viên phó quan rút khăn tay,
ngón tay út được chăm sóc cẩn thận tách ra nom rất điệu, nhưng hắn chưa kịp xỉ
mũi thì viên đại tá đã phá tan bầu không khí chết lặng căng thẳng.
“Đúng rồi” - Ai cũng nghĩ bụng như thế. Mọi
người đều hồi hộp, tinh thần căng thẳng như lò xo. Con ngựa của Mitka Korsunov
giậm hết chân nọ đến chân kia. Nó tức mình thúc luôn cho con ngựa một cái gót ủng.
Bên cạnh nó là Ivankov. Thằng cha ngồi chĩnh chện trên yên, há hốc miệng ra
nghe, cái môi sứt để lộ hàm răng khấp khểnh đen sì. Kriuchkov ở sau lưng hắn,
lưng gù gù, mặt nhăn như bị. Xa chút nữa là gã Lapin với hai cái tai như tai ngựa.
Sau lưng hắn có thể nhìn thấy bộ mặt cạo nhẵn nhụi và chỗ lộ hầu nổi đầy gân của
Segonkov.
- ...Nước Đức đã tuyên chiến với chúng ta.
Tiếng loạt soạt lan khắp hàng quân tập hợp
chỉnh tề, cứ như có làn gió ào ào thổi tới làm gợn sóng cả một cánh đồng đại mạch
cuộng đen đã chín đại trà. Một tiếng ngựa hí dài xuyên vào tai mọi người nghe
như rnột tiếng rú. Ai nấy há hốc những cái miệng vuông vuông đen ngòm, giương mắt
nhìn về phía đại đội một, ở cánh trái, nơi có con ngựa cất tiếng hí.
Viên đại tá còn nói thêm nhiều nữa. Hắn đã
sắp đặt các từ ngữ câu cú theo một thứ tự cần thiết, hòng làm cho lòng tự hào
dân tộc bùng cháy trong mọi người, nhưng hàng ngàn binh lính Cô-dắc đâu có nhìn
thấy trước mặt họ những lá cờ lụa của quân địch loạt soạt ngã xuống dưới chân
mình, mà chỉ thấy những cái gì có quan hệ xương máu với mình trong cuộc sống
hàng ngày đang hiện lên rõ mồn một, đang kêu gọi inh tai nhức óc: vợ con, người
yêu, lúa má chưa gặt, thôn xóm quạnh hiu, cửa nhà...
“Hai giờ nữa trung đoàn sẽ lên đoàn tàu
quân sự”. Đó là lời duy nhất lọt vào trí nhớ mọi người.
Những người vợ sĩ quan đứng túm tụm cách đó
không xa lấy khăn tay che mặt khóc. Binh lính Cô-dắc kéo nhau đi từng đám về
doanh trại. Viên trung úy Khorov gần như bế bổng vợ hắn, một người đàn bà Ba
Lan, đang có mang.
Trung đoàn ra ga, vừa đi vừa hát. Quân nhạc
lúc đầu thổi inh tai, nhưng đến giữa đường lại ngượng ngùng câm bặt. Các bà vợ
sĩ quan đi theo bằng xe ngựa. Những đám người quần áo sặc sỡ đứng nháo nhác
trên hè đường. Vó ngựa hất tung cát bụi. Gã quản ca của đơn vị như nhạo nỗi đau
khổ của mình và của người khác, cứ nhún nhún vai trái, làm nhô cái lon vai màu
lam rúm ró, cất giọng hát những lời lăng nhăng của một bài hát Cô-dắc thô tục:
Này cô nàng hơ hớ, anh mới vừa được con cá măng...
Đại đội cố hát lẫn lộn phần lời của bài
hát, đệm theo chỉ có tiếng những vó ngựa mới đóng móng. Họ mang theo ra ga, những
toa xe đó từ nay trở thành nhà ở, cả một sự thiếu thốn của mình thể hiện trong
bài hát:
Con cá măng, con cá măng, con cá măng anh vớ được,
Quẳng vào nồi anh luộc, anh nấu cháo cá măng.
Cháo cá măng, cháo cá măng, cháo cá măng, này cô nàng hơ hớ...
Viên phó quan của trung đoàn cho ngựa chạy
từ dưới đuôi đại đội lên đám đang hát, mặt đỏ như gấc vì cười và vì ngượng. Gã
quản ca vung tay, quẳng dây cương xuống, nháy mắt một cách rất mất dạy với đám
đàn bà đứng xúm đông bên hè đường tiễn đơn vị Cô-dắc. Một thứ nước ngải cứu sắc
đắng hắc, không còn là mồ hôi nữa, chảy ròng ròng từ hai bên má đen như đồng
hun của gã xuống hàng ria đen.
Này cô nàng hơ hớ, anh tìm bà mối, anh mời sơi cháo cá măng...
Tìm bà mối, tìm bà mối, anh mời xơi cháo cá măng...
Trên đường ray, đầu máy xe lửa rúc còi một
cách tỉnh táo, như báo trước cho người ta đề phòng rồi phì hơi chuyển bánh.
*
* *
Những đoàn tàu chở quân... Những đoàn tàu
chở quân... Những đoàn tàu chở quân... Đếm sao hết những đoàn tàu chở quân.
Trên khắp các mạch máu của đất nước, theo
các đường xe lửa, nước Nga đang sôi sục đổ dồn về biên giới miền Tây những đợt
máu đựng trong những chiếc áo ca-pôt màu xám.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét