Sông Đông Êm Đềm
Tác giả: Mikhail Sholokhov
Dịch giả: Nguyễn Thụy Ứng
Nhà Xuất Bản Văn Học - 2005 (xuất bản lần
thứ 6)
Phần III
22
Trên mặt trận Tây Nam, trong khu vực Seven,
bộ tư lệnh tập đoàn quân quyết định dùng một đợt tấn công đại qui mô bằng kỵ
binh để chọc thủng trận tuyến của địch. Một chi đội kỵ binh lớn có nhiệm vụ thọc
sâu vào hậu phương địch, rồi liên tục đột kích dọc theo mặt trận, tiến đến đâu
phá hủy các tuyến giao thông liên lạc, làm tan rã các đơn vị của địch bằng những
cuộc tập kích bất ngờ. Bộ tư lệnh đã đặt rất nhiều hy vọng vào việc thực hiện
có kết quả kế hoạch này: một lực lượng kỵ binh lớn chưa từng thấy đã được điều
tới khu vực chỉ định. Trong số các trung đoàn kỵ binh bị ném vào khu vực này,
có cả trung đoàn Cô-dắc của Litnhitki. Trận tấn công đáng lẽ phải được thực hiện
ngày hai mươi tám tháng Tám, nhưng vì trời mưa nên bị hoãn đến ngày hai mươi
chín.
Từ sáng, sư đoàn đã tập hợp thành đội hình
trên một cơ địa xuất phát rất rộng, sẵn sàng tấn công.
Ở cách sườn bên phải chừng tám vec-xta, bộ
binh tổ chức một cuộc tấn công nghi binh để thu hút hỏa lực của địch. Những
phân đội của một sư đoàn kỵ binh di động theo một hướng nghi binh khác. Phía
trước, trong khoảng tầm mắt có thể bao quát được, chẳng thấy có địch ở đâu cả.
Trước mặt đại đội của hắn chừng một vec-xta, Evgeni chỉ nhìn thấy những đường ụ
chiến hào bị vứt bỏ hiện lên, đen sì như những cái hang thú rừng. Đằng sau các
đường chiến hào ấy là những cánh đồng lúa nhấp nhô dưới làn sương mù xám xám
trước lúc hoàng hôn bị gió quật ngang quật dọc.
Không biết bộ chỉ huy của quân địch đã được
biết về trận tấn công đang được chuẩn bị hay đã dự đoán trước mà trong đêm hai
mươi chín, các đơn vị địch đã rời bỏ chiến hào, lui về phía sau chừng sáu
vec-xta, chỉ để lại những điểm mai phục có súng máy. Chính các điểm mai phục
này đã quấy nhiễu bộ binh ta trên khắp khu vực.
Ở một chỗ nào đó trên cao, sau những đám
mây bông, mặt trời mọc bắt đầu chiếu sáng, trong khi thung lũng tràn ngập một lớp
sương mù vàng vàng màu kem. Có lệnh tấn công, các trung đoàn xông lên. Hàng bao
nhiêu ngàn vó ngựa trải ra khắp vùng một thứ tiếng rầm rập trầm trầm, nghe như
vang từ dưới đất lên. Evgeni ghìm con ngựa thuần giống của hắn, không cho chuyển
sang nước đại. Bên tấn công đã để lại phía sau một khoảng chừng một vec-xta rưỡi.
Hàng ngũ chỉnh tề, mỗi lúc họ tiến một gần tới một dải đất trồng lúa. Lúa mạch
đen cao quá thắt lưng đan lẫn với những cây thổ ti bám rất chắc và cỏ dại, làm
cho ngựa chạy hết sức vướng chân.
Phía trước vẫn là lúa mạch đen rập rờn như
những bờm ngựa, còn phía sau lúa má đều bị vó ngựa dẫm lụi xuống. Sau khi chạy
đến vec-xta thứ tư, những con ngựa bắt đầu vấp chân, mồ hôi đổ khá nhiều. Nhưng
địch vẫn chẳng thấy tăm hơi đâu. Evgeni đưa mắt nhìn viên đại đội trưởng: mặt
viên đại úy âm thầm đầy vẻ thất vọng...
Sau khi chạy một chặng sáu vec-xta vất vả tới
mức khó tưởng tượng, những con ngựa đã kiệt sức, một số quỵ xuống cùng với những
kẻ cưỡi trên lưng, những con dai sức nhất cũng lảo đảo, cố dùng nốt số sức lực
còn lại. Đến lúc đó, súng máy của quân Áo mới bắt đầu quét, những loạt đạn nổ
ròn đều đặn... Hỏa lực khủng khiếp của chúng phạt rụng ngay những hàng đầu. Bọn
kỵ binh nhẹ rối loạn hàng ngũ, cho ngựa quay trở lại trước tiên. Trung đoàn
Cô-dắc cũng mất hết tinh thần. Trong lúc cuống cuồng tháo chạy, họ bị những trận
mưa đạn súng máy tưới như bình phun nước hoa và bị pháo binh giã giò. Do thóì cẩu
thả tội ác của bộ tư lệnh tối cao, trận tấn công quy mô chưa từng thấy kết thúc
bằng một thất bại hoàn toàn. Vài trung đoàn mất tới nửa số người ngựa. Trung
đoàn của Evgeni cũng bị thương vong khoảng bốn trăm binh sĩ và mười sáu sĩ
quan.
Con ngựa Evgeni bị bắn chết, chính hắn cũng
bị hai vết thương: ở đầu và ở chân. Lão quản Trebotarev nhảy trên yên xuống, ôm
lấy Evgeni, xốc hắn lên yên, chạy thoát.
Tham mưu trưởng sư đoàn, viên đại tá của bộ
tổng tham mưu Golovachev chụp được vài bức ảnh chớp nhoáng trong trận tấn công,
rồi đem cho bọn sĩ quan xem. Viên trung úy bị thương Trecviakov là người đầu
tiên cho hắn một cú quai hàm. Bọn Cô-dắc chạy tới xé tan xác ngay Golovachev, rồi
làm tình làm tội cái xác chết rất lâu trước khi quẳng nó xuống cái rãnh bên đường,
vào những vật bẩn thỉu. Trận tấn công nổi tiếng về tính chất nhục nhã của nó đã
kết thúc như thế.
Từ nhà thương Vacsava, Evgeni báo tin cho bố
biết rằng sau khi chữa lành các vết thương hắn sẽ về với lão ở Yagonoie trong
thời gian nghỉ phép. Lão già nhận được thư con bèn khóa chặt cửa phòng làm việc
của lão lại, mãi hôm sau mới mò ra, mặt mày nhăn nhó.
Lão ra lệnh cho Nikichit thắng một con ngựa
chạy nước kiệu vào chiếc xe nhẹ, ăn sáng qua quít rồi phóng lên trấn
Vosenskaia. Lão gửi cho thằng con bốn trăm rúp bằng ngân phiếu điện tín kèm
theo một bức thư ngắn:
“Cha
chỉ có thể lấy làm sung sướng vì con, con trai yêu của cha, đã ra hỏa tuyến lần
đầu. Một vận mệnh cao quý thì phải ở ngoài đó, đâu phải ở nơi cung đình. Con
quá trọng danh dự và cũng đã thông minh nên tất nhiên không thể nào khom lưng uốn
gối trước mặt người khác mà lương tâm không bị cắn rứt. Trong gia đình nhà ta
không một ai có cái thói đó. Vì thế nên ngay ông nội con đã bị cấp trên ghét bỏ
và phải về sống nốt cuộc đời ở Yagonoie, không hy vọng mà cũng chẳng mong chờ bậc
đế vương gia ân. Evgeni ạ, cầu mong con khỏe mạnh, chóng lại sức. Con hãy nhớ rằng,
trên đời này cha chỉ có một mình con thôi. Cô con gửi lờí hỏi thăm con, cô vẫn
khỏẹ mạnh. Còn về phần cha thì chẳng có chuyện gì đáng viết, con cũng biết cha
sống như thế nào rồi. Tình hình hiện nay ở ngoài ấy, trên mặt trận là như thế
nào? Chẳng nhẽ không có được những người thông minh một chút hay sao? Cha không
tin các tin tức thông báo trên báo chí, láo toét cả thôi. Kinh nghiệm những năm
xưa đã cho cha biết như thế. Evgeni, chẳng nhẽ chúng ta thua trận này hay sao?
Cha
nóng lòng sốt ruột mong con về nhà!”
Của đáng tội thật quả lão Litnhitki cũng chẳng
có gì đáng viết về đời sống của lão. Cuộc sống ấy vẫn đơn điệu như xưa, chẳng
có gì thay đổi. Chỉ có điều nhân công tăng giá và rượu xem ra không đủ uống
thôi. Lão địa chủ uống rượu nhiều hơn trước, trở nên bẳn tính, hay bới chuyện.
Một hôm, lão gọi Acxinhia vào một giờ chẳng thích hợp chút nào và nói:
- Công việc mày làm như mèo mửa. Tại sao
hôm qua bữa sáng đem vào lại nguội. Tại sao tách cà phê không rửa sạch? Nếu còn
như thế nữa, mày nghe rõ chưa, tao sẽ tống cổ ra khỏi cửa. Tao không chịu được
những đứa làm ăn bẩn thỉu! - Lão địa chủ vung mạnh tay. - Nghe rõ chưa? Tao
không chịu được đâu.
Acxinhia mím chặt môi rồi bất chợt khóc òa
lên.
- Thưa cụ Nicolai Alekseevich! Con bé cháu
nó ốm. Xin cụ cho nghỉ tạm ít bữa... Tôi không sao để cháu một mình được.
- Nó bị thế nào hử?
- Cổ họng cháu khó thở...
- Sốt phát ban à? Sao không nói sớm hử, đồ
ngu khổ ngu sở? Chà, quỷ dữ lột da mày ra, quân khốn kiếp! Chạy ngay đi bảo thằng
Nikichit thắng ngựa vào xe lên trấn đón tên y sĩ về đây. Nhanh lên!
Acxinhia chạy tế ra ngoài. Tiếng lão già ồm
ồm như sấm vẫn như nã bom sau lưng nàng:
- Đàn bà gì mà ngu khổ ngu sở! Đàn bà gì mà
ngu khổ ngu sở! Đồ ngu xuẩn!
Đến sáng thì Nikichit mời được người y sĩ đến.
Người ấy khám cho con bé nằm mê mệt, người nóng như lửa, rồi không trả lời câu
hỏi của Acxinhia, đi ngay lên nhà trên gặp lão địa chủ. Lão Litnhitki đứng tiếp
người ấy ở phòng ngoài, cũng không thèm chìa tay cho bắt.
- Con bé ra sao? - Lão vừa hỏi vừa chào giả
người y sĩ bằng một cái gật đầu khinh bạc.
- Bẩm cụ lớn, sốt phát ban.
- Nó sẽ khỏi được chứ? Có hy vọng gì không?
- Vị tất đã qua khỏi được. Con bé sẽ chết mất...
Xin cụ lớn cũng tính một điều là tuổi nó quá nhỏ.
- Đồ ngu xuẩn! - Lão địa chủ đỏ mặt tía
tai. - Người ta đã dạy anh những gì hả? Chữa cho khỏi đi!
Rồi đóng sầm cánh cửa trước mũi người y sĩ
hết hồn hết vía, và cứ đi đi lại lại trong phòng khách.
Acxinhia gõ cửa bước vào.
- Bẩm ông y tá xin ngựa trở về trấn.
Lão già xoay gót giầy quay phắt lại.
- Bảo với nó rằng nó là một thằng ngu! Truyền
lời cho nó biết rằng không chữa được con bé cho tao thì đừng hòng đi khỏi nơi
này! Dọn cho nó căn phòng ở chái nhà, cho nó ăn đi! - Lão già vung nắm tay
xương xẩu, quát. - Cho nó uống, tọng cho nó phễnh bụng ra, nhưng không được đi
đâu cả! - Lão không nói nữa, bước ra cửa sổ, gõ gõ những ngón tay, rồi lại gần
bức ảnh phóng to chụp thằng con nằm trong tay người vú nuôi. Lão lùi hai bước,
nheo mắt nhìn rất lâu như không nhận ra.
Ngay hôm đầu, hôm đứa bé vừa lăn ra ốm,
Acxinhia đã nhớ lại câu nói cay đắng của Natalia: “Nước mắt của tôi rồi sẽ chảy
sang mắt chị...”, và nàng cho rằng Chúa phạt mình về tội đối xử tàn tệ với
Natalia.
Rầu rĩ, hốt hoảng vì lo cho tính mạng của
con, Acxinhia không còn có thể suy nghĩ thế nào là đúng sai nữa. Nàng chạy lăng
xăng không mục đích, công việc làm chẳng đâu vào đâu.
“Chẳng nhẽ Chúa đòi nó về hay sao?” - Một ý
nghĩ rát như lửa luôn luôn ám ảnh nàng, nhưng nàng không tin, hết sức không muốn
tin. Nàng cầu nguyện như điên như cuồng, cố xin Chúa ban ơn lần chót; giữ cho
nàng cái mạng của đứa con.
“Lạy Chúa tôi, xin Chúa tha tội cho tôi?
Xin người đừng đòi nó về? Cầu Chúa rủ lòng thương, cầu Chúa ban ơn!”
Bệnh tật đã bóp chết cái sinh mạng nhỏ
nhoi.
Đứa bé nằm liệt giường, qua cái cổ họng
sưng phồng nghe khè khè có tiếng thở rất khó khăn. Người y sĩ trên trấn ở chái
nhà, mỗi ngày đến thăm bệnh cho nó khoảng bốn lần, tối tối đứng giờ lâu bên thềm
nhà đầy tớ hút thuốc và nhìn các sao thu lạnh lẽo lấm tấm trên trời.
Đêm nào Acxinhia cũng quỳ bên giường đến
sáng. Những tiếng thở khò khè lọc ọc cứ đâm nhói vào tim nàng.
- M-mẹ... - có tiếng thều thào qua cặp môi
nhỏ xíu khô cứng.
- Hạt thóc nhỏ của mẹ, con gái yêu của mẹ!
- Người mẹ cố nén tiếng kêu. - Đoá hoa nhỏ nhoi của mẹ, đừng bỏ mẹ mà đi,
Tanhiuska! Con ngoan con đẹp của mẹ, mở mắt ra đi con ơi! Con yêu con quý của mẹ,
con bé mắt đen của mẹ... Sao lại thế nầy, lạy Chúa tôi!
Năm thì mười họa con bé mới hé hai hàng mi
sưng mọng, cặp mắt nhỏ xíu đờ đẫn, đầy gân đỏ có một cáỉ nhìn trơn tuột khó hiểu.
Người mẹ khao khát cố bắt gặp cái nhìn ấy,
cái nhìn có vẻ như nhìn vào bên trong, buồn thảm, chịu đựng.
Đứa bé chết trong tay mẹ. Lần cuối cùng,
cái miệng nhỏ xíu xám ngoét ngáp ngáp nức nở, cái thân hình nhỏ nhoi dướn lên,
đờ ra, cái đầu đẫm mồ hôi ngật sang bên lăn khỏi tay Acxinhia, hai con mắt âm
thầm của nhà Melekhov nheo lại, nhìn như có điều gì ngạc nhiên với hai tròng
con mắt không còn sức sống.
Cụ Xaska đào một cái huyệt tí hon bên bờ
ao, ngay dưới gốc cây tiêu huyền già cành vươn rất rộng. Cụ kẹp dưới nách chiếc
quan tài nhỏ xíu rồi chôn vội chôn vã, cái vội vã chưa từng thấy ở cụ bao giờ.
Cụ kiên nhẫn đứng chờ rất lâu, nhưng
Acxinhia vẫn không chịu đứng lên để rời khỏi nấm mồ đắp bằng đất sét. Cụ không
chờ mãi được bèn hỉ mũi như tiếng roi quất, bước về chuồng ngựa... Cụ lấy trên
gác rơm xuống một lọ nước hoa Côlônhơ và một bình cồn vơi đã biến chất, trộn
hai thứ với nhau trong một cái chai, rồi vừa lắc, vừa ngắm màu rượu và nói:
- Ta uống để tưởng nhớ cháu. Cháu sẽ được
lên thiên đàng. Linh hồn thiên sứ đã xuất hiện.
Cụ uống một hơi hết chỗ rượu, lắc lắc đầu
như người mất trí, bóp bẹp một quả cà chua để nhắm, rồi cảm động nhìn cái chai
và nói:
- Cháu đừng quên ta, cháu yêu của ta, còn
ta sẽ không quên cháu đâu! - Rồi cụ lại khóc sướt mướt.
*
* *
Ba tuần sau, Evgeni Litnhitki gời một bức
điện báo tin hắn đã được nghỉ phép và đang trên đường về nhà. Người ta đánh ra
ga chiếc xe ba ngựa để đón hắn. Tất cả đầy tớ trong nhà đều bấn cả lên: người
ta giết gà tây, giết ngỗng, cụ Xaska làm thịt một con cừu, cứ như sửa soạn đại
tiệc đón khách khứa đến đông.
Một cỗ ngựa đã được đánh lên làng Kamenka
trước một ngày để thay cho ba con ngựa kia khi về. Đến đêm cậu công tử con cụ
chủ mới về đến nhà. Mưa lâm râm, ánh đèn rọi xuống những vũng nước ảm đạm trên
đường. Mấy con ngựa dừng bước trước cái thềm, tiếng nhạc ngựa leng. Evgeni mỉm
cười, bước ra khỏi cái thùng xe che mui, vẻ mặt cảm động. Hắn ném vào tay cụ
Xaska chiếc áo mưa ẩm, bước lên thềm, chân rõ ràng có khập khiễng. Từ trong
phòng khách, lão địa chủ vội vàng xô bàn xô ghế, lệt sệt chạy ra.
Acxinhia đem bữa tối lên phòng ăn rồi đi mời
hai bố con sang ăn. Nàng nhìn qua lỗ khóa thấy lão địa chủ ôm chặt lấy thằng
con, hôn vai nó; cổ lão nhăn nheo lũng nhũng như mọi người già, khẽ run run.
Nàng chờ vài phút rồi lại nhòm vào: Evgeni
phanh tà áo quân phục màu ka-ki, quỳ trước tấm bản đồ lớn trải trên sàn.
Lão địa chủ hút píp, vừa thở ra những vòng
khói lờm xờm, vừa gõ những ngón tay xương xẩu lên thành ghế bành, nói ồm ồm giọng
phẫn nộ:
- Aleseyev à? Không thể thế được! Tao không
tin.
Evgeni chỉ ngón tay lên bản đồ, khẽ nói rất
lâu không biết những gì để thuyết phục bố. Lão già cố tự chủ trả lời giọng trầm
trầm:
- Trong trường hợp nầy thì Bộ tư lệnh tối
cao không đúng. Thật là hẹp hòi thiển cận! Nhưng thôi, Evgeni ạ, bây giờ cha kể
cho con nghe một thí dụ tương tự trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật. Con đã thấy
chưa? Con đã thấy chưa, con đã thấy chưa?
Acxinhia gõ cửa.
- Thế nào, bữa ăn đã dọn lên rồi à? Ra ngay
đây.
Lão già bước ra, hoạt bát vui vẻ, mắt long
lanh, nom trẻ hẳn ra.
Hai cha con lão uống với nhau một chai rượu
vang mới đào dưới đất lên hôm qua. Tờ nhãn hiệu mốc xanh vẫn còn giữ được con số
bạc màu: năm 1879.
Trong khi đứng hầu và nhìn hai bộ mặt tươi
vui ấy, Acxinhia càng cảm thấy thấm thía hơn nỗi cô quạnh của mình. Nỗi đau khổ
không thể khóc cho nguôi cứ luôn luôn làm tình làm tội nàng. Mấy ngày đầu sau
khi con chết, nàng muốn khóc lắm nhưng không sao khóc được Tiếng khóc đã dồn
lên đến họng, nhưng không có nước mắt, vì thế nỗi đau trong lòng đè xuống như
đá lại càng nặng gấp đôi.
Acxinhia ngủ rất nhiều (nàng cố ngủ mê mệt
cho khuây khỏa), nhưng ngay trong giấc mơ, tiếng gọi hư ảo của đứa con cứ ơi ới
đuổi theo nàng. Nàng có cảm tưởng như con gái còn nằm bên cạnh, nên thỉnh thoảng
lại né ra, quờ tay lên giường tìm con. Có lúc lại như có tiếng gọi thều thào:
“Mẹ, nước”.
- Con yêu đứt ruột đứt gan của mẹ... - Cặp
môi buốt giá của Acxinhia thì thầm.
Thậm chí ban ngày ban mặt, giữa lúc nhận thấy
rõ ràng nỗi đau khổ đè nặng trong lòng mình, đôi lúc nàng cảm tưởng như đứa bé
đứng áp vào đầu gối mình, và nàng bắt gặp mình đưa tay định xoa những món tóc
loăn xoăn trên đầu nó.
Evgeni về nhà đến ngày thứ ba thì hắn xuống
chỗ cụ Xaska ngồi rất khuya, nghe cụ kể những câu chuyện chất phác về thời xưa,
về cuộc sống tự do ở vùng sông Đông trước kia. Đến chín giờ hắn mới ở đấy bước
ra. Ngoài sân gió thổi vù vù, chân dẫm trên bùn ộp oạp. Vừng trăng non vàng ệch
lang thang giữa những kẽ mây.
Evgeni xem đồng hồ dưới ánh trăng rồi đi về
phía nhà đầy tớ. Đến bên thềm, hắn châm thuốc hút, đắn đo một lát rồi nhún vai,
tặc lưỡi đứng lên. Hắn nhẹ nhàng đẩy cái then cửa, cánh cửa cọt kẹt mở ra.
Hắn bước vào gian Acxinhia ở, đánh que
diêm.
- Ai thế? - Acxinhia vừa hỏi vừa kéo chăn
lên che thân.
- Tôi đây.
- Tôi mặc áo ngay đây.
- Không cần. Tôi chỉ đến một phút thôi.
Evgeni hất chiếc áo ca-pôt trên vai, ngồi
xuống mép giường.
- Chị vừa mất con bé cháu.
- Nó chết rồi. - Acxinhia trả lời như tiếng
vọng.
- Chị đổi khác nhiều quá. Còn sao nữa, tôi
cũng hiểu mất đứa con là chuyện như thế nào. Nhưng tôi nghĩ rằng chị chỉ tự
mình làm khổ mình một cách vô ích mà thôi, có cách nào cứu sống nó lại được
đâu. Mà chị còn trẻ, còn có con được nữa cơ mà. Không nên thế! Phải cứng cỏi
lên mới được, phải biết chịu đựng... Mà xét đến cùng thì dù sao cũng không nên
vì con bé không còn nữa mà vứt bỏ hết thảy. Trước mặt còn cả cuộc đời, chị thử
ngẫm mà xem!
Evgeni nắm lấy tay Acxinhia, vuốt ve nàng,
dịu dàng âu yếm, với vẻ một người có quyền làm như thế. Trong khi đó hắn vẫn tiếp
tục vận dụng những nốt trầm trong giọng nói. Rồi hắn chuyển sang thì thầm và đến
khi hắn cảm thấy toàn thân Acxinhia run bần bật trong tiếng khóc ấm ức cuối
cùng òa lên thành tiếng nức nở thì hắn bắt đầu hôn hai bên má đẫm nước mắt của
nàng, hôn mắt nàng...
Trái tim người đàn bà vốn thèm khát thương
yêu, ve vuốt. Acxinhia đang đau khổ và tuyệt vọng đến mê dại, không còn biết
mình đang làm gì nữa, đã hiến thân cho hắn với cả một sự cuồng si sôi nổi mà
nàng đã quên từ lâu. Nhưng đến khi làn sóng hưởng lạc vô sỉ nó làm tâm hồn trống
rỗng, đen tối như chưa từng thấy, đã rút đi như nước thủy triều, thì nàng bừng
tỉnh, kêu lên một tiếng thất thanh, và mất cả lý trí, cứ gần như trần truồng chạy
ra thềm, trên mình chỉ có chiếc áo lót. Evgeni hấp tấp chạy ra theo, mặc cho
cánh cửa mở toang. Hắn bước vội vã, vừa đi vừa cài cúc áo ca-pôt, và đến khi hắn
thở hổn hển leo lên sân thượng nhà trên thì trên môi hắn nở nụ cười sung sướng,
thỏa mãn. Một niềm vui khoái trá tràn ngập lòng hắn. Sau khi đã nằm lên giường,
hắn xoa bộ ngực phồng to, mềm nhẽo thì thầm: “Về phía một con người chính trực
làm như thế là đê tiện, vô luân lý. Grigori... Mình đã lấy cắp của đồng loại,
nhưng phải biết rằng ngoài kia, ngoài mặt trận, mình đã đem tính mạng ra mạo hiểm.
Viên đạn rất có thể chệch sang bên phải một chút và xuyên qua đầu mình. Nếu thế
thì bây giờ mình đã thối rữa ra rồi, xác thịt mình đang nuôi béo dòi bọ rồi...
Cần phải sống gấp từng giây, từng phút mới được. Đối với mình việc gì cũng được
phép làm tuốt!”. Các ý nghĩ của hắn đã làm hắn hoảng lên trong một phút, nhưng
trong óc tưởng tượng của hắn lại hiện ngay rõ mồn một quang cảnh rùng rợn của
trận tấn công cùng giây phút hắn nhổm lên từ cái xác con ngựa bị giết rồi gục
xuống vì trúng những viên đạn.
Ngay khi đã thiu thiu, hắn còn tự nhủ, cố
làm cho mình yên tâm: “Chuyện ấy hãy để đến mai, bây giờ ngủ đã, ngủ đã...”
Sáng hôm sau, lúc chỉ có mình hắn với
Acxinhia trong phòng ăn, hắn nở một nụ cười như nhận tội, bước tới gần nàng,
nhưng nàng đứng áp mình vào tường, vươn hai tay ra, căm giận khẽ kêu lên một
câu làm hắn cảm thấy rát như lửa đốt:
- Đừng tới gần tôi, đồ khốn nạn!
Đời sống bắt con người phải theo những quy
luật không có ai viết thành văn. Ba hôm sau, ban đêm Evgeni lại mò vào phòng
Acxinhia, và Acxinhia đã không tống cổ hắn ra.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét