Sông Đông Êm Đềm
Tác giả: Mikhail Sholokhov
Dịch giả: Nguyễn Thụy Ứng
Nhà Xuất Bản Văn Học - 2005 (xuất bản lần
thứ 6)
Phần IV
8
Trước khi cuộc chính biến tháng Hai bùng nổ,
lữ đoàn đầu tiên của một sư đoàn bộ binh nằm trong lực lượng dự bị của Mặt trận
Tây Nam đã bị điều khỏi mặt trận cùng với trung đoàn Cô-dắc sông Đông số 27 phối
thuộc với nó. Mục đích là chuyển tới những vùng quanh kinh đô để đàn áp các vụ
rối loạn mới chớm nở. Lữ đoàn này được về hậu phương, được phát quân trang mùa
đông mới, ăn uống phè phỡn một ngày một đêm, rồi ngay hôm sau đã bị tống lên những
toa xe lửa để đưa đi. Nhưng các sự kiện đã xảy ra nhanh hơn các trung đoàn hành
quân về hướng Minsk; ngay hôm lên đường đã truyền lan những tin dồn dập nói rằng
hoàng đế đã ký tuyên cáo thoái vị tại Tổng hành dinh.
Lữ đoàn tiến quân đến giữa đường thì quay
trở lại. Trung đoàn 27 được lệnh xuống tàu ở ga Razgol. Các đường ray đều đầy
những đoàn tàu. Một số lính bộ binh đi lại trên sân ga, họ đeo những băng đạn
trên áo ca-pốt, súng trường mới toanh chế tạo tinh xảo, kiểu Nga nhưng làm ở
Anh. Trong đám bộ binh đó, nhiều người có vẻ hồi hộp xao xuyến. Họ ngại ngùng
đưa mắt nhìn đơn vị Cô-dắc tập hợp thành từng đại đội.
Một ngày ảm đạm sắp trôi qua. Nước róc rách
chảy xuống từ trên mái các ngôi nhà trong ga, những vũng nước trên các tuyến đường
loang lổ váng dầu phản chiếu bầu trời xám xịt với những đám mây lổm ngổm như
đàn cừu. Các đầu máy dồn toa rúc còi, tiếng còi âm thầm, nghe như kiệt sức.
Trung đoàn tập hợp sau dãy nhà kho trong đội hình trên ngựa chờ lão lữ đoàn trưởng.
Chân ngựa ướt đẫm đến túm lông phía trên móng bốc hơi mù mịt. Những con quạ chẳng
sợ gì cả, đến đậu ngay phía sau đội hình, vừa bới vừa mổ những đống phân ngựa lổn
nhổn vàng vàng.
Lão lữ đoàn trưởng cưỡi một con ngựa huyền
có chiều cao tiêu chuẩn, tới gần đơn vị Cô-dắc, có viên trung đoàn trưởng đi
theo. Lão ghìm cương đưa mắt nhìn các đại đội trưởng. Lão bắt đầu nói, bàn tay
không đeo găng của lão cứ như xua ra những lời âm thầm, không chút tin tưởng:
- Hỡi anh em đồng hương! Thuận theo ý dân,
Hoàng đế Nicolai đệ nhị trị vì đến nay thì... è-è-è... thoái vị. Quyền bính được
chuyển cho ủy ban lâm thời của Duma Quốc gia. Quân đội, trong đó có anh em, phải
bình tĩnh chịu đựng... è-è-è... cái tin đó... Nghĩa vụ của người dân Cô-dắc là
bảo vệ Tổ quốc chống lại những sự mưu hại của các kẻ thù... è-è-è... có thể nói
là các kẻ thù bên ngoài. Chúng ta sẽ không dính dáng vào những vụ rối loạn đã bắt
đầu nổ ra, chúng ta hãy để cho bên dân sự chọn lấy con đường tổ chức chính phủ
mới. Chúng ta phải đứng ngoài, không can dự vào việc đó! Đối với con nhà binh
thì chiến tranh và chính trị là hai chuyện không dung hợp với nhau... Trong những
ngày mà mọi cơ sở đều... è-è-è... bị lay chuyển ghê gớm như thế này... è-è-è...
chúng ta phải cứng rắn như...
Lão lữ đoàn trưởng này vốn là một viên tướng
già bất tài, suốt đời sống với lính tráng, không quen nói ở chỗ đông người, nên
luống cuống mãi moi óc không ra một hình ảnh làm thí dụ. Trên khuôn mặt bóng nhẫy
của lão, hai hàng lông mày đưa lên đưa xuống một cách đau khổ trong cơn cấm khẩu
đột ngột. Các đại đội vẫn kiên nhẫn chờ đợi.
- ...è-è-è... như gang thép. Là dân Cô-dắc
nhiệm vụ nhà binh của anh em kêu gọi anh em phục tùng các quan trên. Chúng ta sẽ
vẫn chiến đấu chống quân giặc một cách dũng cảm, vinh quang, cũng như trước
kia, còn trên kia... - Viên tướng uể oải đưa chéo tay về phía sau. - ta cứ để
Duma Quốc gia quyết định vận mệnh của nước nhà. Chúng ta hãy chấm dứt chiến
tranh đã, rồi đến lúc ấy sẽ có thể tham dự vào đời sống trong nước, còn bây giờ
thì è-è-è... không thể được. Chúng ta không thể giao phó quân đội cho ai được.
Không thể có chính trị trong quân đội!
*
* *
Vài hôm sau, cũng tại ga này, người ta làm
lễ tuyên thệ trung thành với chính phủ lâm thời, người ta đi dự những cuộc mít
tinh, tụ tập thành những nhóm đồng hương rất lớn, nhưng vẫn xa lánh những người
lính bộ binh đóng đầy sân ga. Sau đó người ta bàn tán rất lâu về những bài diễn
văn được nghe, cố đoán mò một cách thiếu tin tưởng những từ ngữ người ta thấy
là đáng nghi. Nhưng không biết vì sao trong tất cả mọi người đều tự nhiên hình
thành một niềm tin có được tự do thì tức là sẽ chấm dứt được chiến tranh. Niềm
tin ấy đã mọc rễ sâu trong lòng binh sĩ, đến nỗi bọn sĩ quan không tài nào nói
lại được, mà chúng thì chỉ muốn nhồi vào đầu óc mọi người một điều là nước Nga
phải chiến đấu đến cùng.
Sau cuộc chính biến bùng nổ, tinh thần hoảng
loạn đã xâm chiếm các phần tử lớp trên trong quân đội, rồi sau cũng phản ánh cả
trong các tầng lớp dưới. Sư đoàn bộ tựa như quên bẵng cái chuyện hiện có một lữ
đoàn điều đến giữa đường thì bị nghẽn. Từ hôm xuống xe, lữ đoàn đã chén sạch
tám ngày lương thực được cấp, vì thế bọn lính kéo đàn kéo lũ đến các làng lân cận,
ngoài chợ bắt đầu có rượu bán ở những chỗ nào đó, và trong những ngày ấy chẳng
ai lấy làm lạ khi thấy những tên say nhè đeo lon hạ sĩ quan và sĩ quan.
Bị cuộc chuyển quân làm xa rời các công việc
mà họ thường phải làm hàng ngày, bọn Cô-dắc mệt mỏi chán ngán trong các toa xe
có sưởi ấm, và chỉ chờ ngày được về vùng sông Đông, (có tin đồn những tên bị gọi
khóa hai sẽ được phục viên, và người ta đã tin như thế trong một thời gian rất
lâu), họ chểnh mảng không chịu chăm sóc ngựa, ngày ngày thất thểu ngoài bãi chợ,
họ bán tống bán táng những thứ thường dùng mang từ mặt trận về: chăn Đức, lưỡi
lê, cưa, áo ca-pôt, balô da, thuốc lá...
Lệnh quay trở về mặt trận đã được đón bằng
những lời kêu ca phàn nàn công khai. Đại đội hai từ chối không chịu lên đường,
lính Cô-dắc không để cho nối đầu máy vào các toa xe, nhưng viên trung đoàn trưởng
dọa tước vũ khí, vì thế tinh thần phản đối đã giảm dần, lắng đi. Đoàn tàu nhà
binh chuyển bánh ra mặt trận.
- Thế là nghĩa lý ra sao hở anh em? Tự do
chỉ là tự do, còn chiến tranh thì như thế là lại phải đổ máu à?
- Cái lối đè nén áp bức cũ lại ngóc đầu rồi
đấy!
- Vậy cho cái lão vua ấy về vườn thì được
tích sự gì?
- Đối với chúng ta thì điều gì hồi có lão
là tốt, bây giờ cũng vẫn thích hợp...
- Vẫn chỉ là một cái quần, có điều là mặt
trước xoay thành mặt sau thôi.
- Đúng thế đấy!
- Không biết đến bao giờ mới hết tội hết nợ?
- Đã hơn hai năm khẩu súng không rời tay rồi!
- Đó là những lời bàn ra tán vào trên các toa xe.
Khi đoàn tầu chạy đến một ga đầu mối bọn
lính Cô-dắc đều nhảy hết trên các toa xe xuống như đã hẹn nhau từ trước, rồi
không kể gì đến những lời khuyên bảo và đe dọa của viên trung đoàn trưởng, họ mở
luôn một cuộc mít tinh. Viên chỉ huy và người xếp ga đã già chạy rối lên trong
biển áo ca-pôt xám xịt của binh sĩ Cô-dắc, cố dỗ họ giải tán trở về các toa xe
và để cho các tuyến đường được thông nhưng vô hiệu quả. Bọn Cô-dắc căng thẳng
tinh thần chú ý nghe từ đầu đến cuối lời phát biểu của một hạ sĩ đại đội ba.
Sau anh ta đến lượt Mangiulov, một anh chàng nhỏ bé, nhưng người rất cân đối.
Môi Mangiulov tái nhợt, miệng méo xệch, nom
đến là hung dữ, những lời căm hờn bật ra một cách khó khăn:
- Anh em đồng hương ạ! Không thể để như thế
này được nữa! Một lần nữa, họ lại muốn lôi chúng ta vào cảnh sống khổ sống nhục.
Họ muốn lừa dối chúng ta! Một khi cách mạng đã bùng nổ và tự do đã đem lại cho
toàn dân, thì tức là phải chấm dứt chiến tranh, nhân dân cũng như chúng ta nào
có muốn chiến tranh làm gì? Tôi nói có đúng không hử? Có thật như thế không hử?
- Đúng đấy!
- Chiến tranh thì kẹp mẹ nó xuống dưới đuôi
con ngựa cái ấy!
- Tất cả chúng ta đều ngấy chiến tranh lắm
rồi!
- Quần sắp bục ra đến nơi... còn chiến
tranh cái gì?!
- Chúng ta khô-ô-ông muốn chiến tranh nữa!
- Về nhà thôi!
- Tháo đầu máy ra! Nào Fedot, lại đây một
tay!
- Anh em đồng hương ơi! Hượm đã nào! Anh em
đồng hương ơi! Anh em ơi! Ma quỉ đã ám vào mồm miệng, ruột gan, tâm hồn anh em
rồi! Anh em ơi! - Mangiulov gào lên, cố át những tiếng la thét của hàng ngàn
con người. - Hượm đã nào! Đừng động đến đầu máy làm gì! Chúng ta chẳng cần gì đến
nó, còn cái chuyện có lừa dối hay không thì... cứ để quan lớn trung đoàn trưởng
tuyên đọc cho chúng ta nghe văn kiện chính thức cho biết đơn vị thật có bị gọi
ra mặt trận hay chỉ là họ tự tiện làm liều thôi.
Viên trung đoàn trưởng như điên như cuồng,
không tự chủ được nữa. Môi run bần bật lão đọc to cho mọi người nghe bức điện
điều trung đoàn trở về mặt trận mà lão đã nhận được ở sư đoàn bộ. Mãi lúc ấy
trung đoàn mới chịu lên các toa xe.
Có sáu gã Cô-dắc người thôn Tatarsky thuộc
trung đoàn 27 cùng ngồi trên một toa xe có sưởi ấm: Petro Melekhov, Nicolai
Kosevoi chú ruột của Miska Kosevoi, Anikey, Fedot Bodovskov, Merkulov, một gã mặt
mũi hao hao như dân Di-gan, có bộ râu đen xoăn tít và hai con mắt màu nâu nhạt
lúc nào cũng long xòng xọc; Maxim Grianov, láng giềng nhà Korsunov, một gã
phóng đãng, vui nhộn. Trước chiến tranh Maxim đã giành được khắp trấn cái danh
tiếng chẳng có gì vẻ vang là một thằng ăn cắp ngựa gan liều tướng quân. “Thằng
Merkulov mới trông thì cứ tưởng nó vừa dắt ngựa nhà người ta đi, vì của đáng tội
nom nó hệt như một thằng Di-gan, nhưng... nhưng nó có lấy gì của người khác
đâu. Còn cậu Maxim, cậu thì thoáng thấy cái đuôi con ngựa là đã ngứa ngáy chân
tay rồi?” - Bọn Cô-dắc luôn luôn chế Grianov như thế.
Maxim đỏ mặt, nheo hai con mắt xanh da trời
như màu hoa đay, pha trò một cách thô bỉ để chống chế: “Bà cụ thằng Merkulov đã
ngủ với một gã Di-gan, có lẽ bà cụ nhà mình đã ghen, nếu không mình làm sao
mà... cầu Chúa chứng giám cho...”
Gió thổi thông thống qua toa xe. Những con
ngựa được đắp áo và buộc bên những máng ăn làm vội vã. Giữa toa có một đống củi
đốt trên đám đất giá băng. Khói bốc lên mù mịt từ củi ướt cứ bị hút ra khe cửa.
Bọn lính Cô-dắc ngồi quanh đống lửa trên những chiếc yên ngựa. Họ hong những dải
băng quấn chân ẩm ướt hôi khắm vì mồ hôi. Fedot Bodovskov hơ lửa hai bàn chân
cong cong, một nụ cười thỏa mãn ẩn hiện trên bộ mặt có hai gò má nhọn hoắt như
mặt dân Kalmys, Grianov dùng chỉ sáp khâu quàng khâu quấy cái đế ủng bị tuột chỉ.
Hắn vừa lúi húi khâu vừa kể bằng một giọng khàn đặc vì khói, không biết hắn định
kể cho ai nghe:
- Hồi còn nhỏ, mùa đông mình thường leo lên
chỗ nằm trên bếp lò cho bà mình mò mẫm bới tóc bắt chấy cho mình (những năm ấy
cụ đã hơn trăm tuổi rồi!). Cụ thường nói: “Cháu yêu của bà, thằng Maxim yêu quý
của bà! Xưa kia các cụ sinh sống có khuôn phép và chẳng phải chịu một tai ương
hoạn nạn nào cả. Nhưng cháu yêu của bà ơi, cháu sẽ phải sống tới một thời mà
cháu sẽ thấy khắp mặt đất chăng đầy dây thép, thấy những con chim mỏ sắt bay
trên trời xanh, bổ nhào xuống mổ người ta như những con quạ trắng mổ quả dưa bở
ấy. Con người sẽ chết như rạ về các bệnh dịch tả, dịch hạch, sẽ phải chịu đói
kém, anh em sẽ đánh lẫn nhau, con sẽ chống lại bố... Những người còn sống sót
thì cũng chẳng khác gì những sợi cỏ sau một đám cháy”. Thật chăng là như thế, -
Maxim nín lặng một lát rồi nói tiếp. - Những điều cụ nói đến nay đã sờ sờ trước
mắt. Người ta đã nghĩ ra điện tín, dây thép đấy chứ còn gì nữa. Còn những con
chim sắt là máy bay. Nó đưa anh em mình về với ông bà ông vải có phải ít đâu? Rồi
sẽ còn có nạn đói. So với những năm trước, số thóc nhà mình gieo chỉ còn một nửa,
mà nhà nào cũng đều như thế. Trong các trấn chỉ còn độc người già và trẻ con, nếu
chẳng may mất mùa thì đói ngay chứ gì?
- Nhưng còn cái chuyện anh em đánh lẫn nhau
thì có lẽ là nói bậy đấy. - Petro Melekhov vừa cời lại củi trong đống lửa vừa hỏi.
- Chờ đấy mà xem, nhân dân rồi cũng sẽ đi đến
cái cảnh ấy thôi.
- Không lập được một chính quyền sẽ loạn
cho mà xem. - Fedot Bodovskov nói xen vào.
- Rồi sẽ còn phải đi trấn áp cái bọn quỷ sứ.
- Đầu tiên cậu hãy nếm cho hết những cái khổ
vì bọn Đức đã. - Miska bật cười và nói.
- Không sao, chúng ta sẽ còn choảng nhau...
Anikey vờ làm vẻ sợ hãi, hắn nhăn bộ mặt nhẵn
thín như mặt đàn bà, kêu lên:
- Lạy Đức mẹ lắm lông chân của chúng con, sẽ
vẫn còn cái chuyện “choảng nhau” ấy đến bao giờ nữa mới thôi?
- Cho đến khi cái thằng tín đồ phái Skopet
[một giáo
phái hồi thế kỷ thứ 18, những người theo giáo phái này đều bị hoạn]
như cậu mọc lông mới thôi. - Miska cho luôn Anikey một câu.
Những tên lính ngồi quanh đống lửa cùng phá
lên cười. Petro sặc khói, ho một thôi một hồi, rồi nhìn Anikey bằng cặp mắt ràn
rụa nước mắt và chỉ chỉ ngón tay về phía hắn.
- Lông lá là một thứ ngu xuẩn..., - Anikey
ngượng quá, lắp bắp: - Nó mọc cả ở những chỗ chẳng cần mọc làm gì... Nhưng
Miska ạ, cậu đả anh em như thế cũng chẳng được gì đâu.
- Thôi, như thế đủ rồi! Anh em mình chịu đựng
quá quắt lắm rồi! - Maxim bất thần phát khùng. - Chúng ta ở đây thì chịu khổ sở,
chết vì chấy rận, trong khi đó thì vợ con ở nhà túng thiếu đói khổ, như thế thì
còn nghĩa lý ra sao nữa? Cắt thịt ra cũng chẳng còn máu mà chảy nữa đâu.
- Có gì mà cậu lên cơn phẫn nộ như thế hử?
- Petro nhai nhai một món râu vàng như màu lúa chín, hỏi giọng vẻ nhạo báng.
- Có gì thì đã hai năm rõ mười rồi, -
Merkulov cố giấu nét cười sau bộ râu xoăn tít như râu một gã Di-gan, trả lời
thay Maxim. - Rõ ràng là những thằng Cô-dắc chúng ta đang ăn không ngồi rồi đến
chán ngấy, đang nhớ nhà... Ta hãy tưởng tượng cảnh một anh chàng chăn gia súc
xua bò ngựa ra đồng ăn cỏ. Trong khi sương mai chưa bị nắng hút khô thì bò ngựa
chẳng sao cả, vẫn ăn cỏ như thường, nhưng đến khi mặt trời lên cao bằng cây sồi,
mòng bắt đầu vo ve bay đến cắn gia súc, thế là... - Merkulov đưa mắt cho bọn
Cô-dắc một cách tinh quái, rồi quay về phía Petro nói tiếp. - Đến lúc ấy thì
thưa ngài quản, cả đàn bắt đầu phát điên phát cuồng. Mà chính ngài cũng biết đấy!
Hẳn là ngài cũng chẳng xuất thân từ gia dình quan lại hay trí thức gì? Chính
ngài cũng đã từng xoắn đuôi bò để nghịch chứ gì... Thường chỉ cần có một con bò
cái tơ vắt đuôi lên lưng, rống lên một tiếng, và làm thêm cái trò gì nữa, thế
là cả đàn lồng lên chạy theo ngay. Và anh chàng chăn gia súc chỉ còn cách chạy
theo: “ái chà chà! ái chà chà...”. Nhưng đến lúc ấy thì còn làm gì được nữa? Cả
đàn lao đi ào ào như nước vỡ bờ, chẳng kém gì hồi chúng ta tràn vào trận địa của
quân Đức ở gần Netvilska. Đến lúc như thế thì thử hỏi còn có gì ngăn cản nổi?
- Cậu nói loanh quanh như thế rồi định đi đến
đâu vậy?
Merkulov không trả lời ngay. Hắn cuốn chòm
râu vào quanh một ngón tay, giật một cái thật mạnh, rồi nói bằng giọng thiết thực,
không cười nữa:
- Chúng ta đánh nhau đến nay đã là năm thứ
ba rồi... có phải thế không? Chúng ta đã bị lôi cổ vào trong các chiến hào đã đến
năm thứ ba rồi. Để làm gì và vì sao thế? Chẳng ai có thể hiểu được... Điều mà
mình muốn nói là không bao lâu nữa sẽ có một anh chàng Grianov hay Melekhov nào
đó chuồn khỏi mặt trận, rồi toàn trung đoàn sẽ theo anh ta, và toàn thể quân đội
sẽ làm theo trung đoàn đó...
- Thế là sạch sành sanh!
- Cả cậu cũng theo...
- Theo hẳn đi chứ! Mình có mù đâu, mình
nhìn thấy rõ ràng lắm chứ: tất cả đều đang treo trên đầu sợi tóc. Trong lúc này
chỉ cần có một người hô lên: “xéo đi!” thế là tất cả sẽ sụp đổ như chiếc áo
choàng cũ tụt khỏi vai. Đến năm thứ ba thì đối với chúng ta mặt trời đã cao bằng
cây sồi rồi.
- Vừa vừa chứ cậu! - Bodovskov khuyên. -
Khéo không Petro... không biết Petro đã là “ngài quản” rồi à?
- Đối với anh em từ xưa mình đã động tới ai
đâu. - Petro đỏ mặt tía tai.
- Cậu chớ vội nóng! Mình nói đùa đấy thôi. -
Bodovskov luống cuống ngọ nguậy những ngón chân sần sùi trên hai bàn chân không
đi ủng, rồi đứng dậy, đi lệt sệt về phía dãy máng ngựa.
Trong một góc toa, những gã Cô-dắc thuộc những
thôn khác thì thào bàn tán với nhau bên những hòm đựng rơm nén. Trong số đó chỉ
có hai anh chàng là người thôn Karginsky: Fadeev và Kargin, còn tám gã kia là
dân những thôn, những trấn khác.
Một lát sau nhóm này bắt đầu hát. Alimov, một
gã vùng sông Tria cất giọng hát một điệu nhảy, nhưng một gã khác đã vỗ ngay vào
lưng gã, gầm lên, giọng như người bị cảm:
- Thôi đi!
- Này các cậu mồ côi mồ cút kia ơi, lại ngồi
quanh lửa cho ấm! - Miska mời.
Mọi người cho thêm củi vào đống lửa (những
thanh củi này là di tích của một hàng rào bị phá ở một ga xép). Quanh đống lửa
tiếng hát vang lên vui vẻ hơn:
Con ngựa chiến sẵn yên cương trang bị
Hí cạnh giáo đường, có lẽ nó chờ ai.
Bà mẹ già dắt cháu thơ đứng khóc,
Vợ trẻ tràn trề dòng lệ chua cay.
Từ trong cửa nơi thánh đường tôn kính
Chàng bước ra, giáp trụ hiên ngang,
Thế là từ nay chàng Cô-dắc lên đàng.
Trong toa xe bên, một chiếc accordeon hai
dây phím kéo phù phù cái hộp da xếp, chơi bài “người đàn bà Cô-dắc”. Sàn gỗ đấy,
ủng nhà binh phát đấy, tha hồ mà dận văng mạng. Có một anh chàng gào lên, giọng
đến là khó nghe:
Nói sao hết nỗi niềm cay đắng,
Vòng của nhà vua
Siết lên cổ nhân dân Cô-dắc
Chặt như vậy, thở sao cho đặng
Pugachev khắp sông Đông rong ruổi
Kêu gọi hạ du, vùng khố rách áo ôm
Hỡi các ataman, hỡi anh em Cô-dắc!
Một giọng thứ hai kể lể liến thoắng, át cả
giọng thứ nhất, không biết anh chàng này hát mà cao một cách khó tưởng tượng.
Thờ vua ta trung thành
Để vợ nhà ta nhớ
Kiếm được nhân tình, thế là quên vợ.
Còn nhà vua... ta tráng cho lớp thiếc
Nào ta đổ!
Này thì xèo!
Huhu Hu Hu Ha!
Ha ha-hu hô hu ha-ha.
Bọn Cô-dắc bên toa này đã ngừng tiếng hát một
lúc lâu rồi. Họ lắng nghe những tiếng ồn ào vui nhộn hồn nhiên từ toa bên kia vọng
sang. Họ nháy mắt với nhau, mỉm cười đồng tình. Petro Melekhov không nhịn được
nữa, cũng phá lên cười.
- Chà, chúng nó bị quỷ dữ nhập vào hay sao
thế?
Hai con mắt nâu, lấm tấm những tia vàng óng
của Merkulov lấp loáng những ánh rất vui. Hắn nhảy chồm dậy, chờ đúng nhịp rồi
khẽ đập rất nhanh mũi ủng xuống sàn, nghe như tiếng trống rung và bất thình
lình ngồi sụp xuống, nhẹ nhàng xoay tròn, nhảy điệu pri-xi-at-ca người nhún
nhún uyển chuyển. Tất cả đều luân phiên nhảy, cố vận động mạnh cho người nóng
lên. Chiếc accordeon ở toa xe kia đã câm bặt từ bao giờ, thay vào đó đã có những
giọng khàn khàn chửi nhau rất tục tằn. Nhưng bên này vẫn cứ nhảy chết thôi, làm
cho những con ngựa cũng có vẻ lo lắng sợ hãi. Mọi người chỉ thôi nhảy khi
Anikey hăng say đến không tự kiềm chế được nữa, muốn nhảy một bước đặc biệt phức
tạp, nên ngã phệt ngay vào đống lửa. Mọi người phá lên cười, lôi Anikey dậy,
châm mẩu nến soi mãi khoảng bị cháy dưới mông chiếc quần đi ngựa còn mới toanh
và đọan gấu áo bông hơi bị xém.
- Cậu tụt quần ra thôi! - Merkulov thương hại
khuyên Anikey.
- Cái thằng Di-gan này, mày điên à? Thế thì
mình mặc bằng gì?
Merkulov bèn lục một lát trong cái túi yên
rồi lấy ra một cái áo lót đàn bà bằng vải thô. Mọi người thổi cho lửa cháy to
thêm.
Merkulov cầm hai bên vai cái áo rất hẹp, ngửa
người ra sau, cười như nắc nẻ nói:
- Thì đây! Hà! Hà! Mình đã tháu được nó
trong trấn, trên một dãy hàng rào... Định làm vải bọc chân... Hà! Thôi chẳng xé
nó ra nữa, cậu lấy mà mặc.
Anikey chửi rầm lên nhưng mọi người vẫn bắt
hắn mặc cho kỳ được. Bọn Cô-dắc phá lên cười, tiếng cười nghe khoái trá và to đến
nỗi trong cửa các toa bên có những gã tò mò thò đầu ra, quát lên trong đêm tối,
giọng đầy vẻ ghen tị:
- Các cậu bên ấy làm sao thế?
- Cái bọn ngựa đực chết tiết này!
- Có gì mà họ phởn thế nhỉ?
- Bọn nhân tình của những mụ dở người này,
chúng mày tìm được mẩu sắt vụn đấy à?
Tầu vừa đến ga, mọi người lôi luôn gã
accordeon ở toa trên xuống. Từ những toa khác cũng có những gã mò tới làm toa
xe chật như nêm. Họ xô đẩy nhau, làm nát cả cái máng ngựa ăn, họ dồn những con
ngựa vào sát thành xe, còn lại ở giữa toa một khoảng trống nhỏ. Anikey nghênh
ngáo đứng giữa. Chiếc áo dài lót xem ra là của một người đàn bà rất cao lớn, vì
thế quá dài đối với hắn và cứ làm vướng chân hắn. Song những tiếng hò hét và tiếng
cười rộ đã làm hắn hào hứng nhảy múa tới kiệt sức mới thôi.
Trong khi đó các tinh tú trên trời đang buồn
thảm đổ nước mắt quanh chòm sao Bạch Nga đẫm máu. Bầu trời đêm đen kịt, mung
lung, mù mịt, mở hoác ra như một vực thẳm. Gió thổi là là mặt đất thấm đẫm mùi
lá rụng đắng hắc, mùi đất sét ẩm chua loét như rỉ sắt, mùi tuyết tháng Ba...
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét