Sông Đông Êm Đềm
Tác giả: Mikhail Sholokhov
Dịch giả: Nguyễn Thụy Ứng
Nhà Xuất Bản Văn Học - 2005 (xuất bản lần
thứ 6)
Phần IV
15
Những đường chiến hào ngoằn ngoèo chữ chi
chạy kỳ quặc bên cạnh một khu rừng, chỉ cách những đống hoang tàn của một thị
trấn nhỏ bị hỏa lực pháo binh san bằng trong những trận chiến đấu tháng Sáu có
một vec-xta. Đại đội Cô-dắc đặc biệt chiếm khu vực ở ngay mép rừng.
Phía sau là một cánh rừng liễu đỏ xanh rờn,
rậm đến không qua được và khoảng bạch dương còn non. Rồi đến một bãi lầy nhiều
than bùn, loáng nhoáng màu rỉ, hồi trước chiến tranh đã bắt đầu được khai thác
đôi chút. Tầm xuân nở hoa vui mắt như những chùm quả đỏ. Bên phải thấy nhô ra một
góc rừng, có con đường cái bị đạn pháo bắn thủng lỗ chỗ, bây giờ nom cứ như những
con đường hoang không có ai đi nữa. Ở ven rừng có những đám cỏ dại đã cằn cỗi lại
bị đạn bắn thêm xơ xác, những gốc cây cụt, cháy thui nhô lên như những cái lưng
gù, các ụ đất sét, các chiến hào chạy ra xa tít ở hai bên trên cánh đồng trơ trụi.
Ở phía sau, ngay đến bãi than bùn lầy lội khai thác dở với những chỗ đào nham
nhở, ngay đến con đường cái bị phá hoại vẫn còn tỏa hơi sống, còn ghi lại sự
lao động nửa chừng đứt quãng, chứ ở chỗ lề rừng này, mặt đất chỉ phô ra trước mặt
con người một cảnh sầu thảm đầy đắng cay.
Hôm ấy anh chàng Kotliarov trước kia làm thợ
máy ở nhà máy xay Mokhov, có lần đến cái thị trấn nhỏ ở ngay sát mặt trận, nơi
đoàn xe vận tải tuyến nhất tới đỗ. Trời sắp hoàng hôn Kotliarov mới trở về.
Trong khi len lỏi về căn hầm của mình, anh vấp phải Dakha Korolov. Dakha vung
loạn hai tay một cách ngớ ngẩn, bước rảo gần như chạy, thanh gươm vướng cả vào
các bậc bao cát. Kotliarov né sang một bên nhường đường cho Dakha, nhưng Dakha
nắm lấy một cái khuy trên chiếc áo va-rơi của Kotliarov, trợn mắt khẽ nói, lòng
trắng con mắt vàng khè như mắt người ốm:
- Cậu đã biết tin gì chưa? Bọn bộ binh ở
bên phải đánh bài chuồn rồi đấy! Chưa biết chừng họ đang bỏ mặt trận.
Bộ râu rối như bòng bong của hắn bỗng sững
lại không động đậy nữa, nom như đúc bằng gang đen, hai con mắt nhìn chằm chằm,
đầy vẻ khao khát, mong mỏi.
- Sao, thế là chúng rời bỏ mặt trận à?
- Chúng nó bỏ đi rồi, còn như thế nào thì
mình không biết.
- Hay có bọn khác đến thay chăng? Chúng
mình vào chỗ thằng hạ sĩ, thử hỏi xem.
Dakha quay gót bước vào hầm của tên hạ sĩ,
hai chân cứ trượt trên mặt đất ướt rất trơn.
Một giờ sau, đại đội Cô-dắc được bộ binh đến
thay thế, đã hành quân tới thị trấn. Sáng hôm nay họ đến chỗ bọn giữ ngựa nhận
ngựa rồi tiến về hậu phương với tốc độ hành quân cấp tốc.
Mưa lất phất. Những cây bạch dương khom
lưng buồn bã. Con đường đâm thẳng vào rừng. Ngửi thấy mùi hơi ẩm và mùi lá héo
năm ngoái hắc hắc, u uất, đàn ngựa thở phì phì, chân bước nhẹ nhàng vui vẻ hơn.
Những chùm quả trong các bụi sao hoa lóng lánh như những chuỗi hạt cườm màu hồng.
Được nước mưa rửa sạch, những lá chua me lấm tấm những giọt nước trắng bóng lên
một cách lạ lùng. Gió rung cành cây làm những giọt nước vừa to vừa nặng rơi lộp
bộp xuống đoàn người ngựa. Các áo ca-pôt và mũ cát-két mang những chấm đen lấm
tấm, nom như bị đạn ghém bắn phải. Khói thuốc lá hạng tồi chập chờn và tan dần
trên đầu các hàng quân trong trung đội.
- Họ xách cổ bọn mình đi rồi không biết sẽ
đem đến nơi quỷ quái nào đây.
- Nằm bẹp mãi trong chiến hào như thế chưa
đủ ngấy hay sao?
- Nhưng thật ra không hiểu chúng mình bị
kéo đi đâu nhỉ?
- Có lẽ có một chuyện biên chế lại gì đó.
- Hình như không phải thế đâu.
- Chà, các bạn đồng hương ạ, ta hãy hút điếu
thuốc cho quên hết buồn phiền!
- Buồn phiền của mình thì mình đeo nó trong
ba-lô...
- Thưa ngài đại úy, ngài cho phép hát một
bài nhá?
- Được phép rồi phải không? Nào, lên giọng
đi, Arkhiv!
Trong mấy hàng đầu có một anh chàng nào đó
húng hắng vài cái rồi cất tiếng hát:
Đoàn Cô-dắc giải ngũ hồi hương,
Lon trên vai, đầy ngực huân chương.
Chỉ có vài giọng ống bơ rỉ uể oải hòa theo
rồi lắng bặt. Dakha Korolov đi cùng hàng với Kotliarov bèn kiễng chân trên bàn
đạp, gào lên pha trò:
- Này, cái bọn già nua mù lòa kia! Anh em
mình có hát cái kiểu như thế bao giờ đâu hử? Như các cậu thì chỉ bị gậy ra đứng
trước cửa nhà thờ mà “Thương chúng con đui mù” cũng là những ca sĩ đấy.
- Thế cậu thử cất giọng xem nào?
- Cổ nó ngắn chùn chùn như thế thì làm gì
có chỗ chứa hơi?
- Khoe khoang lắm vào, bây giờ tao cho thì
cụp đuôi.
Korolov đưa tay lên nắm chặt lấy chòm râu
đen chấy rận nhừ sung, dim mắt một lát rồi bất thình lình vung mạnh dây cương,
cất giọng hát câu đầu:
Vui lên đi,
Các chàng trai dũng cảm,
Các chàng trai Cô-dắc sông Đông...
Tựa như bị lời kêu gọi đó làm cho tỉnh ngủ,
toàn đại đội cùng gầm lên theo:
Hãy vui lên,
Với vinh dự, với chiến công!
Và bài hát vang lên trên cánh rừng ẩm ướl,
trên con đường mòn:
Nào, ta hãy nêu gương cho đồng đội,
Xem đây này, ta bắn kẻ thù chung!
Súng vẫn nổ, đội hình ta không loạn,
Lệnh trên truyền, ta chém, ta đâm!
Ta chỉ biết tuân theo mệnh lệnh,
Của chỉ huy, của cha ta, dù dẹp bắc hay đánh đông!
Suốt chặng đường mọi người vừa hành quân vừa
ca hát, trong lòng như mở cờ: thế là thoát khỏi “nơi tha ma của loài sói” rồi.
Đến chiều thì đại đội được đưa lên những toa xe lửa. Đoàn tầu nhà binh chuyển
bánh về phía Pskov. Mãi đến khi tầu chạy qua được ba ga, mọi người mới biết đại
đội đang cùng với các đơn vị khác của Quân đoàn kỵ binh số ba tiến về Petrograd
để trấn áp các cuộc rối loạn mới chớm nở. Sau khi biết tin đó, anh nào anh nấy
đều im như thóc, không nói năng gì nữa. Bầu không khí lặng lẽ, mơ màng như ru
ngủ mọi người trong các toa xe sơn đỏ.
- Vừa ra khỏi lò than lại đâm ngang đầu vào
đám cháy! - Mãi mới thấy gã cao kều Borsev nói lên ý nghĩ chung của phần lớn
anh em.
Từ tháng Hai đến nay, Kotliarov vẫn liên tục
được bầu làm chủ tịch Ủy ban binh sĩ đại đội. Tầu vừa dừng bánh ở ga, anh đến
tìm ngay viên đại đội trưởng.
- Thưa ngài đại úy, anh em Cô-dắc đang xao
xuyến đấy.
Viên đại úy nhìn rất lâu vào chỗ hõm sâu ở
cằm Kotliarov rồi mỉm cười nói:
- Anh bạn thân mến ạ, chính tôi cũng đang
xao xuyến đây.
- Người ta đưa chúng tôi đi đâu bây giờ?
- Đến Petrograd!
- Đi trấn áp à?
- Thế cậu nghĩ là đi góp phần vào các vụ lộn
xộn đấy phải không?
- Chúng tôi thì cả hai đằng đều không muốn.
- Thật ra người ta có hỏi ý kiến chúng ta
đâu.
- Anh em Cô-dắc...
- “Anh em Cô-dắc” cái gì? - Viên đại đội
trưởng đã bắt đầu khùng lên, hắn ngắt lời Kotliarov. - Chính tôi cũng đã biết
anh em Cô-dắc nghĩ thế nào rồi. Cậu tưởng tôi thích làm cái nhiệm vụ này phải
không? Thôi cầm lấy cái này mang về đại đội mà đọc. Đến ga sắp tới tôi sẽ xuống
nói chuyện với anh em.
Viên đại đội trưởng chìa cho Kotliarov một
bức điện cuộn tròn rồi nhăn mặt bắt đầu nhai những miếng thịt hộp lổn nhổn những
hạt mỡ rất to, coi bộ hắn vừa ăn vừa tởm.
Kotliarov lui về toa xe của anh, bức điện
trong tay nóng bỏng như hòn than.
- Các cậu gọi hộ anh em các toa khác lại
đây.
Đoàn tầu đã chuyển bánh nhưng vẫn còn những
gã Cô-dắc nhảy lên toa xe. Tập họp được chừng ba mươi người.
- Đại đội trưởng đã nhận được một bức điện.
Vừa đọc xong.
- Thế nào trong đó viết những gì? Đọc đi
nghe nào!
- Đọc đi, nhưng chớ đọc dối đọc bậy đấy!
- Ký hòa ước rồi phải không?
- Im cả đi nào!
Trong không khí chết lặng như ngưng đọng,
Kotliarov đọc bản hiệu triệu của Tổng tư lệnh tối cao Kornilov. Sau đó tờ giấy
với những từ ngữ viết theo thể điện tín được truyền qua những bàn tay đẫm mồ
hôi.
“Tôi,
Tổng tư lệnh tối cao Kornilov, xin tuyên bố trước toàn thể quốc dân đồng bào rằng
trong giờ phút nghiêm trọng này của Tổ quốc, nhiệm vụ của người quân nhân, tinh
thần hy sinh cho nước Nga tự do của người công dân và lòng yêu Tổ quốc không bờ
bến đã bắt tôi không được tuân theo mệnh lệnh của Chính phủ lâm thời và vẫn giữ
quyền chỉ huy tối cao trong Lục quân và Hải quân. Quyết tâm này đã được toàn thể
các vị Tổng tư lệnh tối cao mặt trận ủng hộ, tôi xin tuyên bố trước toàn thể
nhân dân Nga rằng tôi thà chết còn hơn chịu để cho mình bị cất chức Tổng tư lệnh
tối cao. Một người con chân chính của nhân dân Nga bao giờ cũng chết trên cương
vị phục vụ của mình và hiến dâng cho Tổ quốc vật quý nhất của mình là tính mạng.
Trong
giờ phút quả thật là khủng khiếp này đối với sự mất còn của Tổ quốc, lúc những
con đường dẫn tới hai kinh đô đã gần như mở toang cho quân thù chiến thắng tiến
vào, Chính phủ lâm thời đã quên mất đại sự là sự trường tồn độc lập của nước
nhà, chỉ đem cái bóng ma phản cách mạng ra làm nhân dân hoảng sợ, mà phong trào
phản cách mạng ấy, chính họ đang giúp cho nó trở thành sự thật một cách hết sức
nhanh chóng, do thiếu năng lực quản lý quốc gia, nhu nhược về pháp chế, do dự
trong hành động.
Nhưng
tôi là con đẻ của nhân dân, đã hiến dâng tất cả để trung thành phục vụ nhân dân
như tất cả mọi người đều biết, tôi không thể không đứng ra bảo vệ các quyền tự
do vĩ đại, bảo vệ tương lai vĩ đại của nhân dân mình. Nhưng hiện nay tương lai ấy
đang bị nắm trong những bàn tay yếu đuối, nhu nhược. Kẻ thù ngạo ngược đang
dùng cách mua chuộc, phản bội để hoành hành trong nước ta như trong nhà nó, lăm
le thủ tiêu không những quyền tự do mà cả sự sống còn của nhân dân Nga. Những
ai là người Nga hãy thức tỉnh, hãy nhìn kỹ cái hố không đáy, nơi Tổ quốc chúng
ta đang lao vùn vụt tới!
Để
tránh mọi sự xáo lộn, để ngăn ngừa mọi cuộc đổ máu người Nga, mọi cuộc chiến
tranh nồi da nấu thịt, tôi xin quên mọi điều xúc phạm, nhục mạ, để đứng truớc
toàn thể đồng bào tuyên bố với Chính phủ lâm thời: các ngài cứ đến với tôi ở Đại
bản doanh, ở đấy tự do và an toàn của các ngài sẽ được đảm bảo bằng lời hứa
danh dự của tôi, các ngài hãy cùng với tôi đặt kế họach và tổ chức một nền quốc
phòng nhân dân, vừa đảm bảo tự do vừa đưa dắt nhân dân Nga tới một tương lai rực
rỡ, xứng đáng với một dân tộc tự do hùng mạnh.
Đại
tướng Kornilov”.
Đoàn tàu nhà binh chạy đến ga sau đó thì bị
ngăn lại. Trong khi chờ tàu lại chuyển bánh, anh em Cô-dắc tập hợp bên những
toa xe, bàn tán về bức điện của Kornilov, cùng bức điện của Kerensky mà viên đại
đội trưởng vừa đọc cho nghe, tuyên bố Kornilov là một kẻ phản bội và phản cách
mạng. Mọi người hoang mang bàn quanh bàn quẩn. Viên đại đội trưởng và các sĩ
quan phụ trách trung đội cũng hết sức bối rối.
- Trong đầu óc mình tất cả đều rối như bòng
bong. - Gã Marchin Samin than vãn. - Ma quái nào hiểu được ai ngay ai gian bây
giờ.
- Họ quạng vào mõm nhau rồi lại làm khổ
thêm cả quân đội.
- Các ông to đầu rửng mỡ hóa điên rồi.
- Anh nọ muốn ngồi lên đầu anh kia.
- Trâu bò đánh nhau, ruồi muỗi chết.
- Tất cả sẽ nháo nhào cho mà xem... Thật
tai họa!
Một nhóm Cô-dắc tới tìm Kotliarov. Họ yêu cầu:
- Cậu lên gặp đại đội trưởng hỏi xem làm thế
nào bây giờ.
Họ kéo nhau tới tìm đại đội trưởng. Bọn sĩ
quan đã tụ tập trong toa xe riêng của chúng, không biết chúng đang bàn bạc với
nhau những gì. Kotliarov bước vào:
- Thưa ngài đại đội trưởng, anh em Cô-dắc
muốn hỏi chúng ta làm thế nào bây giờ.
- Tôi ra ngay đây.
Đại đội đã tập họp cạnh toa xe cuối cùng và
đang chờ. Viên đại đội trưởng đi cùng với đám Cô-dắc, lách tới giữa đám rồi giơ
tay nói:
- Chúng ta không phục tùng Kerensky, chúng
ta phục tùng Kornilov và thủ trưởng trực tiếp. Như thế có đúng không? Vì thế chúng
ta phải tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh của cấp trên và đi Petrograd. Cùng lắm,
khi tới ga Dno, chúng ta cũng có thể tìm sư đoàn trưởng Sư đoàn sông Đông số một
để hỏi xem tình hình thực tế như thế nào. Tôi đề nghị anh em Cô-dắc đừng nên
xao xuyến lo lắng. Nhất là giữa lúc chúng ta đang sống trong thời buổi như thế
này.
Viên đại đội trưởng còn nói rất lâu về
nghĩa vụ của nhà binh, về Tổ quốc, cách mạng, cố dỗ ngon dỗ ngọt binh sĩ và chỉ
trả lời các câu hỏi một cách quanh co. Nhưng hắn cũng đã đạt được mục đích:
trong lúc hắn nói, đầu máy đã được mắc xong (anh em Cô-dắc biết đâu rằng có hai
tên sĩ quan đại đội họ đã chĩa súng dọa người sếp ga, bắt phải cho đoàn tàu
chuyển bánh sớm) và binh sĩ lại giải tán trở về các toa xe, Đoàn tàu nhà binh
chạy thêm một ngày một đêm, mỗi lúc một gần tới Dno. Nhưng đến đêm, nó lại phải
dừng lại cho đoàn tàu của bọn Cô-dắc Usuri và trung đoàn Dagestan chạy trước.
Đoàn tàu của bọn Cô-dắc sông Đông bị dồn sang đoạn đường dự bị. Các toa xe của
trung đoàn Dagestan chạy qua trước mặt họ trong bóng đêm bềnh bệnh như đá mắt
mèo, với những ánh đèn lung linh. Những tiếng nói khàn khàn phát ra từ trong họng,
tiếng đuốc-na [Một
thứ kèn phổ biến ở vùng Kavkaz] như than vãn, những bài hát với giai
điệu xa lạ vẳng tới tai họ, nghe mỗi lúc một xa. Mãi nửa đêm, đại đội Cô-dắc mới
lên đường. Chiếc đầu máy công suất nhỏ dừng lại rất lâu bên cạnh tháp nước, những
tin lửa bắn ra tung tóe từ trong lò xuống đất. Người thợ máy phì phèo điếu thuốc,
đứng ở trong cửa sổ nhìn ra như đang chờ ai. Một gã Cô-dắc đứng trong toa xe
sát đầu máy thò cổ ra cửa sổ quát lên:
- Này, Gavrila, có mở máy đi không, chúng
tao bắn chết ngay cho mà xem.
Người thợ máy nhổ mẩu thuốc, nín lặng một
lát, hình như còn bận nhìn theo nó bay thành đường vòng cung trong không khí, rồi
mới húng hắng ho và nói:
- Chúng bay bắn thế nào được hết mọi người!
- Anh ta nói xong bước khỏi chỗ cửa sổ.
Vài phút sau các toa xe bị đầu máy giật mạnh,
các “tăm pông” kêu lách cách, những con ngựa mất thăng bằng vì tàu giật, lộp cộp
đập vó xuống sàn tàu. Đoàn xe thẫn thờ trườn qua cái tháp nước, qua vài khuôn cửa
sổ hiếm hoi thấp thoáng ánh đèn, qua những đám bạch dương đen sì hai bên đường.
Anh em Cô-dắc lấy thức ăn cho ngựa rồi nằm xuống ngủ, nhưng thỉnh thoảng lại có
một anh chàng thao thức, ra hút thuốc ở chỗ cửa toa hé mở, nhìn lên bầu trời uy
nghiêm, nghĩ về một chuyện riêng.
Kotliarov nằm bên cạnh Korolov, mắt nhìn
qua khe cửa về phía dòng tinh tú lấm tấm chảy trên trời. Trong ngày qua, anh đã
đắn đo tất cả các mặt và đã quyết định dứt khoát sẽ dùng mọi cách chống lại việc
đại đội tiến thêm về phía Petrograd. Anh trằn trọc nặn óc, không biết nên làm
thế nào để thuyết phục anh em Cô-dắc ngả theo mình, làm thế nào tác động tới họ.
Ngay trước khi nghe lời hiệu triệu của
Kornilov, anh đã nhận thức rõ ràng người Cô-dắc không thể nào đi cùng một đường
với Kornilov, nhưng linh cảm cũng cho anh biết rằng Kerensky không phải là người
mà mình cần phải bảo vệ. Vì thế anh suy đi tính lại mãi rồi cuối cùng quyết định:
không để đại đội về tới Petrograd, và nếu cần phải xung đột với một kẻ nào đó
thì cũng không phải vì Kerensky, vì chính quyền của Kerensky, mà vì một chính
quyền được lập nên sau khi Kerensky bị lật đổ. Điều mà anh ta tin tưởng hơn hết
là sau Kerensky sẽ có chính quyền mà mình mong mỏi, một chính quyền thực sự của
mình. Ngay từ mùa hè, anh đã có dịp lên Petrograd, tới bộ phận quân sự của ban
chấp hành Xô viết công nhân binh sĩ. Đại đội đã cử anh lên đấy xin ý kiến về một
vụ xung đột nổ ra với viên đại đội trưởng. Anh đã nhìn thấy ban chấp hành làm
việc thế nào, đã được chuyện trò với vài đồng chí Bolsevich.
Anh nghĩ bụng: “Cứ lấy thịt da công nhân của
chúng ta đắp lên bộ xương ấy thì sẽ có một chính quyền thực sự! Kotliarov à, chết
thì chết, nhưng cứ bám chặt lấy chính quyền đó như đứa trẻ bám lấy đầu vú mẹ ấy!”
Đêm nay, nằm trên tấm áo ngựa, Kotliarov
càng nhớ nhiều hơn mọi ngày người lãnh dạo mình mò mẫm trên con đường đời gian
khổ, nhớ với cả một lòng trìu mến thắm thiết chưa từng thấy. Trong khi nặn óc
nghĩ xem ngày mai mình sẽ phải nói như thế nào với anh em Cô-dắc, anh nhớ lại
những lời Stokman đã nói về người Cô-dắc, những lời đó Stokman luôn luôn nhắc
đi nhắc lại nên đã ăn sâu vào óc anh như cái đinh đóng ngập đến mũ:
“Bản chất của dân Cô-dắc là bảo thủ. Mỗi
khi cậu muốn thuyết phục cho một người Cô-dắc tin vào tính chất đúng đắn của
các tư tưởng Bolsevich, cậu chớ quên điều đó, phải hành động thận trọng, chín
chắn, phải biết thích ứng với hoàn cảnh. Đầu tiên người ta sẽ đối xử với cậu
cũng dựa theo cái thành kiến mà đầu tiên cậu và Miska Kosevoi đã có đối với
mình, nhưng cậu chớ vì thế mà mất tinh thần. Kiên nhẫn bền bỉ, thắng lợi cuối
cùng sẽ về tay chúng ta”.
Kotliarov trù tính rằng trong khi vận động
anh em Cô-dắc đừng đi theo Kornilov, thể nào mình cũng sẽ vấp phải một số ý kiến
phản đối, nhưng sáng hôm sau, khi trong toa xe anh nói với họ một cách thận trọng
rằng cần phải đòi quay về mặt trận chứ không đi Petrograd đánh lại chính anh em
mình, thì mọi người đều đồng ý ngay và rất sẵn sàng quyết định không tiến thêm
về phía Petrograd nữa. Dakha Korolov và anh lính Tunlin người trấn
Chernysevskaia là hai người giúp việc gần gũi nhất của Kotliarov. Suốt ngày ba
người len lỏi từ toa nọ sang toa kia nói chuyện với anh em Cô-dắc, nhưng đến
chiều khi đoàn tầu giảm dần tốc độ, chạy vào một ga xép nào đó, anh chàng hạ sĩ
trung đội ba Psenitnikov nhảy lên toa Kotliarov.
- Đến ga chính sắp tới, đại đội sẽ xuống
tàu ngay! - Hắn quát lên với Kotliarov, giọng xúc động. - Cậu làm chủ tịch Ủy
ban cái kiểu gì mà anh em Cô-dắc muốn gì cậu cũng chẳng biết! Trước kia chúng
ta sống u mê như thế đã đủ rồi! Chúng ta sẽ không đi thêm nữa! Bọn sĩ quan đang
lồng dây thòng lọng vào cổ anh em mà cậu cứ bằng chân như vại, chẳng hé răng gì
cả. Chúng mình bầu cậu lên để cậu làm thế có phải không? Thế nào, sao cậu cứ
nhăn nhăn nhở nhở như thế?
- Đáng là cậu phải nói với mình những lời
như thế này từ lâu rồi mới phải - Kotliarov tủm tỉm cười.
Tầu vừa dừng bánh, anh đã là người đầu tiên
nhảy từ trên toa xe xuống. Anh tới gặp sếp ga, có Turilin cùng đi.
- Bác đừng cho đoàn tầu chúng tôi đi thêm nữa.
Chúng tôi sẽ bắt đầu xuống tàu ở đây.
- Sao lại thế? - Người sếp ga ngơ ngác hỏi
- Tôi đã nhận được lệnh... có cả giấy lộ trình.
- Thôi im mồm đi! - Turilin nghiêm khắc ngắt
lời người sếp ga.
Hai người tìm đến chỗ ủy ban nhà ga, trình
bày rõ tình hình với chủ tịch ủy ban, một nhân viên điện tín vạm vỡ, tóc hung
hung. Vài phút sau người thợ máy đã vui vẻ dồn đoàn tầu vào đọan đường cụt.
Anh em Cô-dắc hối hả bắc ván cầu, bắt đầu dắt
ngựa trên các toa xe xuống. Kotliarov dạng hai cái chân dài ngoẵng đứng cạnh đầu
máy, tươi cười lau mồ hôi trên khuôn mặt rám nắng. Viên đại đội trưởng chạy tới,
mặt cắt không còn hột máu.
- Mày làm gì thế hử? Mày có biết rằng...
- Biết rồi! - Kotliarov ngắt lời hắn. - Còn
ngài thì ngài câm cái mồm đi, ngài đại úy ạ. - Rồi anh tái mặt nói dằn từng tiếng,
hai cánh mũi phập phồng: - Mày đã hết cái thời có thể mồm loa mép giải rồi, đồ
nhãi ranh! Bây giờ chúng ta sẽ buộc cho mày cái rọ mõm. Tình hình lúc này thế đấy!
- Tổng tư lệnh tối cao Kornilov. - Viên đại
úy đỏ mặt tía tai, còn định lắp bắp những gì nữa, nhưng Kotliarov vẫn dán mắt
xuống đôi ủng mòn vẹt đứng lún xuống lớp cát xốp và khoát tay một cách thoải
mái, khuyên hắn:
- Mày hãy đeo nó lên cổ thay huân chương,
chúng tao chẳng cần đến nó làm gì cả.
Viên đại úy xoay gót ủng, chạy về toa xe của
hắn.
Một giờ sau đại đội Cô-dắc đã rời khỏi nhà
ga tiến về hướng Tây - Nam, không còn một tên sĩ quan nào nữa, nhưng hàng ngũ
chỉnh tề, quân số đầy đủ. Kotliarov lên nắm quyền chỉ huy đại đội và chỉ huy
phó là anh chàng Turilin lùn choằn choặt đi trong trung đội đầu, cùng với các
khẩu đội súng máy.
Đại đội dựa vào bức bản đồ tước được của
viên đại đội trưởng cũ, tìm hướng rất vất vả, hành quân tới thôn Goreloie và
nghỉ đêm tại đấy. Mọi người họp hội nghị toàn thể, quyết định trở lại mặt trận,
và nếu bị cản trở thì sẽ chiến đấu chống lại.
Sau khi buộc hai chân sau các con ngựa và đặt
xong các vọng gác, anh em Cô-dắc nằm xuống ngủ. Mọi người không thắp đèn. Có thể
cảm thấy rằng tinh thần phần đông là u uất, ngả lưng xuống rồi là im như thóc,
không tán chuyện và pha trò như thường ngày, ai cũng như giấu không muốn chọ
người khác biết ý nghĩ của mình.
“Nếu họ hối lại, trở về đầu thú thì làm thế
nào bây giờ?” - Kotliarov trằn trọc dưới chiếc áo ca-pôt suy nghĩ không phải
không có ý lo ngại.
Turilin như đoán được ý nghĩ của Kotliarov,
bước tới:
- Cậu ngủ rồi à, Ivan?
- Chưa ngủ đâu.
Turilin ngồi xổm dưới chân Kotliarov, ánh lửa
ở đầu điếu thuốc lấp loáng. Hắn thì thầm:
- Anh em Cô-dắc đang thấp thỏm... Làm liều
xong rồi lập tức lo ngay ngáy. Chúng mình đã bắt đầu nấu món cháo... nhưng cũng
không đặc lắm, cậu thấy thế nào.
- Cứ chờ đấy rồi sẽ biết. - Kotliarov bình
thản trả lời. - Nhưng cậu không sợ chứ?
Turilin luồn tay xuống dưới cái mũ cát-két,
gãi gáy và mỉm một nụ cười gượng gạo:
- Nói thật ra thì mình cũng có sờ sợ... Lúc
mới bẳt tay vào làm thì không sợ đâu, nhưng sau mới thấy rờn rợn.
- Gan cậu nhỏ lắm.
- Nhưng Ivan ạ, cậu phải biết rằng lực lượng
của chúng nó lớn lắm đấy.
Hai người nín lặng giờ lâu. Trong thôn đã tắt
hết đèn lửa. Không biết từ chỗ nào vẳng tới tiếng vịt kêu quàng quạc trên bãi lầy
mênh mông mọc đầy loại liễu nhỏ của đồng cỏ.
- Vịt cái đấy! - Turilin mơ màng khẽ nói rồi
lại lặng thinh.
Bầu không khí tịch mịch của trời đêm bao
trùm khắp đồng cỏ, nhẹ nhàng, ve vuốt. Sương rơi trĩu những ngọn cỏ. Một làn
gió hiu hiu đưa tới nơi đại đội Cô-dắc đóng trại mùi các hố giải, mùi lau mục,
mùi đất bãi lầy, mùi cỏ đậm sương đêm, tất cả trộn lẫn với nhau thành một thứ
mùi hỗn hợp. Thỉnh thoảng lại có tiếng xích chân ngựa lách cách, tiếng ngựa thở
phì phò hay rít lên và tiếng những con ngựa lăn xuống đất. Sau đó tất cả lại lặng
tờ. Mãi xa, mãi xa, thoáng có tiếng một con vịt đực gọi khàn khàn và tiếng
quàng quạc của một con vịt cái trả lời gần hơn. Bỗng có tiếng đập phần phật rất
nhanh của một đôi cánh không thể nhìn thấy trong bóng đêm. Đêm. Không một tiếng
động. Hơi ẩm trên đồng cỏ mung lung sương mù. Phía tây, ngay sát đường chân trời
có một đám mây màu tím sẫm, nom xốp như bột bánh đang lên men. Còn ở giữa trời,
trên vùng đất cổ kính của khu Pskov sông Ngân Hà rộng mênh mông hiện rõ như một
lời nhắc nhở luôn luôn vẳng bên tai.
Trời vừa hửng, đại đội Cô-dắc đã lên đường.
Đoàn người ngựa tiến theo qua thôn Goreloie. Những người đàn bà và trẻ chăn bò
nhìn theo họ rất lâu. Đại đội leo lên một ngọn gò bị ánh mặt trời mọc nhuộm đỏ
như gạch. Turilin quay đầu nhìn lại rồi khẽ chạm chân vào bàn đạp của
Kotliarov.
- Cậu nhìn mà xem, phía sau có mấy thằng cưỡi
ngựa phi đến đấy.
Ba người cưỡi ngựa đang vòng qua thôn phóng
nước đại tới gần, bụi bốc lên chung quanh họ như một thứ vải mịn hồng hồng.
- Đại đội đứng lại! - Kotliarov ra lệnh
Theo thói quen, loáng một cái anh em Cô-dắc
đã tập hợp thành một hình vuông xám xịt. Ba người kia đến cách chừng nửa
vec-xta thì cho ngựa chuyển sang nước kiệu. Một người trong đám, một sĩ quan Cô-dắc,
rút ra một chiếc khăn tay, vẫy vẫy trên đầu. Anh em Cô-dắc không rời mắt khỏi
ba gã đang mỗi lúc một gần. Viên sĩ quan mặc áo quân phục mầu ka-ki tiến lên
trước. Hai tên kia mặc tréc-két [Một thứ áo ngoài thường mặc ở vùng Kavkaz, khít lưng, rộng
tà] ghì ngựa tụt lại xa một chút.
- Có việc gì thế? - Kotliarov cho ngựa chạy
đến trước mặt viên sĩ quan và hỏi.
- Đàm phán. - Viên sĩ quan đưa tay lên lưỡi
trai trả lời. - Trong đám các anh ai nắm quyền chỉ huy đại đội?
- Tôi.
- Tôi là đại diện toàn quyền của Sư đoàn
Cô-dắc sông Đông số một, còn kia là hai đại diện của sư đoàn Tuzemnaia. - Viên
sĩ quan đưa mắt về phía hai viên sĩ quan miền núi và vừa kéo dây cương vừa vuốt
vuốt cái cổ bóng nhoáng vì mồ hôi của con ngựa chạy đã sùi bọt mép. - Nếu anh
muốn đàm phán thì hãy cho đại đội xuống ngựa. Tôi có nhiệm vụ truyền đạt mệnh lệnh
bằng lời của thiếu tướng Grekov, sư đoàn trưởng.
Anh em Cô-dắc xuống ngựa. Ba tên đại diện
cũng xuống ngựa và đi tới. Chúng len vào giữa đại đội. Mọi người lùi lại, dành
cho chúng một khoảng nhỏ.
Viên sĩ quan Cô-dắc nói trước:
- Hỡi anh em đồng hương! Chúng tôi đến đây
là để khuyên anh em nghĩ lại và ngăn ngừa những hậu quả tai hại mà thành động vừa
qua của anh em có thể gây ra. Hôm qua sư đoàn bộ đã được tin là không biết do sự
tuyên truyền tội lỗi của kẻ nào mà anh em đã tự ý rời bỏ các toa xe. Hôm nay sư
đoàn bộ cử chúng tôi đến truyền đạt cho anh em mệnh lệnh lập tức quay về ga
Dno. Hôm qua sư đoàn Tuzemnaia cùng những đơn vị kỵ binh khác đã chiếm được
Petrograd, hôm nay vừa nhận được điện. Tiền vệ của chúng tôi đã tiến vào kinh
đô, chiếm tất cả các cơ quan Chính phủ, nhà băng, nhà dây thép, các trạm điện
thọai và tất cả các địa điểm quan trọng. Chính phủ lâm thời đã bỏ chạy và bị
coi như giải tán. Hỡi anh em đồng hương, anh em hãy mau mau tỉnh ngộ! Phải biết
rằng anh em đang đi tới chỗ chết! Trong trường hợp anh em không phục tùng lệnh
của sư đoàn trưởng, lực lượng vũ trang sẽ được điều đến trừng trị anh em. Hành
động của anh em đã bị coi là một sự phản bội, không chấp hành nhiệm vụ chiến đấu.
Để tránh khỏi cái cảnh người mình làm đổ máu người mình, anh em chỉ còn một
cách là phục tùng vô điều kiện.
Lúc ba tên đại diện đang tới gần, Kotliarov
cân nhắc về tinh thần của anh em Cô-dắc và hiểu rằng không thể nào tránh cuộc
đàm phán, vì nếu từ chối thì sẽ gây ra những hậu quả không tốt. Anh đắn đo một
lát rồi ra lệnh cho đại đội xuống ngựa, còn mình thì kín đáo đưa mắt cho
Turilin và lên thật gần tới chỗ ba tên đại diện. Trong lúc tên sĩ quan nói,
Kotliarov nhận thấy anh em Cô-dắc cứ cúi đầu, cau có lắng nghe; một số thì thầm
với nhau. Dakha Korolov mỉm cười gượng gạo, bộ râu đen nhánh của hắn chảy xuống
chiếc áo sơ-mi, nom như một dòng nước gang đã đông lại, Borsev liếc nhìn sang
bên cạnh, tay nghịch nghịch chiếc roi ngựa; Psenitnikov há hốc miệng, nhìn thẳng
vào mắt tên sĩ quan đang nói; Marchin Samin đưa bàn tay nhớp nhúa lên xoa má, mắt
nháy lia lịa; sau lưng hắn là Bagrov với bộ mặt đần độn vàng ệch; chàng súng
máy Krasnickov nheo mắt như chờ đợi; Turilin thở như kéo bễ; gã Obnidov mặt đầy
tàn hương hất chiếc mũ lưỡi trai ra sau gáy, lắc lắc cái đầu có bờm tóc trước
trán, nom cứ như con bò mộng lúc cảm thấy cái ách cày đã đặt lên cổ; toàn trung
đội hai đứng gục đầu như đang nguyện kinh. Tất cả đám người đứng sát vào nhau
thành một khối, chẳng nói chẳng rằng, hơi thở nặng nề và nóng ran, các nét mặt
thoáng có vẻ hoang mang.
Kotliarov hiểu rằng tinh thần anh em Cô-dắc
đang sắp chuyển tới một bước ngoặt: chỉ vài phút nữa là tên sĩ quan mồm mép này
sẽ có thể lôi cuốn được đại đội theo hắn. Dù sao cũng phải phá tan cái ấn tượng
mà những lời hắn nói đã gây ra, phải làm lung lay cái quyết tâm đã thành hình
trong đầu óc anh em Cô-dắc mà chưa nói ra. Anh bèn giơ tay, mở trừng trừng hai
con mắt ra một cách rất lạ, nhìn tất cả đám người.
- Anh em! Hượm một lát đã! - Rồi anh quay
sang hỏi viên sĩ quan - Các anh có mang theo bức điện không?
- Bức điện nào cơ chứ? - Viên sĩ quan có vẻ
ngạc nhiên.
- Bức điện báo tin Petrograd bị chiếm ấy.
- Bức điện ấy à? Không có. Nhưng bức điện
có dính dáng gì đến chuyện này?
- À hà! Không có... - Toàn đại đội thở phào
nhẹ nhõm, như từ cùng một lồng ngực.
Nhiều người đã ngẩng đầu lên, nhìn
Kotliarov chằm chằm ánh mắt đầy tin tưởng. Lúc này Kotliarov cất cao cái giọng
khàn khàn của anh, quát lên với một vẻ rất tự tin, vừa căm phẫn vừa châm biếm,
làm mọi người đều phải chú ý:
- Không có à, anh bảo thế phải không? Thế
mà đòi chúng tôi tin thế nào được! Anh muốn chơi xỏ chúng tôi à?
- Bịp bợm! - Toàn đại đội đều gầm lên.
- Bức điện có phải là đánh cho tôi đâu! Anh
em đồng hương hiểu cho! - Tên sĩ quan áp hai nắm tay vào ngực cố phân bua.
Nhưng chẳng ai nghe hắn nữa rồi, Kotliarov
thấy cảm tình và lòng tin tưởng của đại đội đã lại chuyển về với mình, bèn nói
bằng một giọng sắc như con dao cắt kính:
- Mà dù cho Petrograd có thất thủ chăng nữa,
chúng tôi cũng không đi cùng đường với các anh! Chúng tôi không muốn đánh nhau
với chính anh em mình. Chúng tôi không phản lại nhân dân! Các anh muốn đâm bị
thóc chọc bị gạo à? Đừng hòng! Những thằng ngu xuẩn trên đời này đã hết sạch rồi!
Chúng tôi không muốn lập lại chính quyền của bọn tướng tá nữa. Đúng là như thế
đấy.
Các binh sĩ Cô-dắc cùng làm ầm lên một trận,
đám người rung chuyển, nhao nhao la hét:
- Như thế mới đúng!
- Dồn cho cứng lưỡi rồi nhé!
- Thật là chí lý!
- Thôi tống cổ các quan lớn ấy đi đằng nào
thì đi!
- Thứ như thế mà cũng đòi làm mối làm manh.
- Ở Petrograd có ba trung đoàn Cô-dắc, các
anh em ấy không chống lại nhân dân đâu.
- Này, Ivan! Cho chúng nó vài gậy đi! Cho
chúng nó xéo đi!
Kotliarov nhìn ba tên đại diện. Tên sĩ quan
Cô-dắc mắm môi mắm lợi kiên nhẫn đứng chờ. Sau lưng hắn, hai tên sĩ quan người
miền núi đứng sát vai nhau. Một tên còn trẻ, người Ingus, thân hình cân đối,
khoanh hai tay trên ngực chiếc tréc-két rất đẹp, hai con mắt xếch quả trám long
lanh dưới chiếc mũ cu-han-ca [Một kiểu mũ lông vùng Kavkaz, tròn và dẹt]
lông đen. Tên kia là một lão Oxelin đã có tuổi, đứng dạng chân đầy vẻ coi thường.
Hắn đặt một tay lên cán cây gươm cong cong, nhìn khắp lượt anh em Cô-dắc như muốn
nắn gân họ. Kotliarov vừa muốn cắt đứt cuộc đàm phán thì tên sĩ quan Cô-dắc đã
hành động trước. Hắn rỉ tai tên sĩ quan Ingus rồi kêu lên sang sảng:
- Anh em sông Đông! Anh em cho phép đại diện
của sư đoàn “Man Dã” [Biệt danh của sư đoàn Tuzemnaia, gồm toàn dân miền núi
Kavkaz] nói vài lời chứ?
Không chờ mọi người đồng ý, gã sĩ quan
Ingus nhẹ nhàng dậm đôi ủng không đế, bước vào giữa khoảng trống giữa đám người,
sửa lạì chiếc dây lưng nhỏ chạm trổ, cử chỉ đầy vẻ nóng nảy:
- Anh em Cô-dắc! Có gì mà làm ầm ĩ lên như
thế? Nói năng phải cho bình tĩnh mới được. Anh em không thích tướng quân
Kornilov à? Anh em muốn chiến tranh à? Được thôi! Đánh nhau thì đánh nhau!
Chúng tôi không sợ! Chẳng sợ chút nào cả! Ngay hôm nay chúng ta sẽ đè bẹp anh
em. Sau lưng chúng tôi có hai trung đoàn miền núi. Chà, làm gì mà ầm ĩ lên như
thế, ầm ĩ lên như thế làm gì? - Đầu tiên hắn nói còn có vẻ bình tĩnh một chút,
nhưng cuối cùng hắn hăng lên cất cao giọng, tuôn ra một loạt những lời hậm hực.
Giọng hắn đã khàn khàn ngọng nghịu lại xen thêm những từ ngữ của tiếng mẹ đẻ. -
Thằng Cô-dắc này đã làm anh em lầm lẫn rồi đấy, nó là một thằng Bolsevich, mà
anh em lại đi theo nó? Chà! Tôi nhìn rõ lắm chứ. Anh em hãy bắt giữ nó! Tước vũ
khí của nó.
Hắn ngang ngạnh chỉ thẳng vào Kotliarov và
đi lại lồng lộn trong khoảng trống nhỏ hẹp, hoa chân múa tay một cách sôi nổi,
bộ mặt nâu nâu tái nhợt đi. Bạn hắn, tên sĩ quan tóc hung có tuổi thì vẫn lạnh như
tiền. Tên sĩ quan Cô-dắc mân mê cái dây ngù gươm rách nham nhở. Bọn lính Cô-dắc
lại im thin thít, lại xáo động bối rối, Kotliarov không rời mắt khỏi tên sĩ
quan Ingus, anh nhìn hàm răng trắng lóa của hắn nhe ra như nanh thú dữ, nhìn
dòng mồ hôi xám xám chảy chéo trên thái dương bên trái của hắn, và cứ tiếc là
mình đã bỏ lỡ cơ hội chỉ nói một lời là chấm dứt cuộc đàm phán và đưa anh em
Cô-dắc đi. Nhưng Turilin đã kịp cứu vãn tình thế. Anh chàng nhảy vào giữa chỗ
trống, vung hai tay lên một cách tuyệt vọng, giật đứt cả các khuy cổ áo sơ-mi,
và gào lên khàn khàn, gân mặt giật lia lịa, bọt mép xùi cả ra:
- Thật là một đàn rắn hèn nhát! Bọn quỷ dữ
này! Lũ đốn mạt này! Chúng nó tán tỉnh dụ dỗ như những con đĩ như thế mà cứ vểnh
tai lên nghe! Bọn sĩ quan chúng nó đang muốn mang tai mang vạ đến quàng vào cổ
mà chẳng biết gì cả! Còn đứng làm gì thế này? Làm cái gì thế này hử? Không chém
mẹ chúng nó đi mà lại đứng nghe chúng nó! Phải chém đầu chúng nó, phải chọc tiết
chúng nó. Trong lúc các cậu đứng đực ra ở đây thì chúng nó đến bao vây đấy!
Súng máy chúng nó sẽ quét cho! Dưới đạn súng máy thì tha hồ mà họp mít-tinh...
Chúng nó bịp các cậu để chờ quân của chúng nó kéo đến mà không biết! Ô-ô-ôi
dào, Cô-dắc gì cái thớ các cậu! Đi mà liếm váy!
- Lên ngựa! - Giọng Kotliarov gầm lên như sấm.
Tiếng hô của anh nổ ra trên đầu mọi người
như một phát đạn ghém. Anh em Cô-dắc đổ xô ra chỗ để ngựa. Chỉ một phút sau đại
đội đang tan tác như đàn ong tập hợp thành đội hình trung đội hàng dọc.
- Hãy nghe tôi nói đã! Anh em đồng hương
ơi! - Tên sĩ quan Cô-dắc cuống lên.
Kotliarov hất khẩu súng trường trên vai xuống,
kiên quyết đặt ngón tay trỏ có những đốt sưng vù vào cò súng, kéo mạnh hàm thiếc
vào mép con ngựa đang nhảy chồm rồi quát lên:
- Không đàm phán gì nữa! Nếu bây giờ còn phải
nói chuyện với chúng mày thì đây sẽ là tiếng nói của chúng tao. - Rồi anh lắc lắc
khẩu súng trường, động tác mang rất nhiều ý nghĩa.
Các trung đội nối đuôi nhau xuống đường
cái. Anh em Cô-dắc nhìn lại còn thấy ba tên đại diện ngồi trên mình ngựa bàn
tán với nhau không biết những gì. Tên sĩ quan Ingus nheo mắt tranh cãi sôi nổi,
chốc chốc lại giơ tay lên, bên tay của chiếc áo tréc-két lật lên cho thấy lần lụa
lót trắng như tuyết.
Kotliarov ngoái nhìn lại lần cuối cùng,
cũng trông thấy mảnh lụa trắng lóa đó, và không hiểu sao trước mắt anh lại hiện
lên bộ ngực của sông Đông rách nát dưới làn gió hanh, những đợt sóng bạc đầu mầu
xanh lá cây và cái cánh trắng muốt của con hải âu bói cá lượn vòng, quệt đầu
cánh xuống ngọn sóng.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét