Sông Đông Êm Đềm
Tác giả: Mikhail Sholokhov
Dịch giả: Nguyễn Thụy Ứng
Nhà Xuất Bản Văn Học - 2005 (xuất bản lần
thứ 6)
Phần IV
4
Trận chiến đấu diễn ra bên dưới sông
Stokhot chừng bốn mươi véc-xta. Hỏa lực bắn tập trung của pháo binh nổ rền
không lúc nào ngớt trong hai tuần liền. Đêm đêm bầu trời tim tím, xa thẳm lại bị
cắt ngang cắt dọc bởi những chùm sáng của đèn chiếu. Các luồng sáng nhâp nhánh
đùng đục với những sắc cầu vồng truyền một cảm giác kinh hoàng không bút nào tả
xiết cho những người theo dõi từ đây những ánh lửa chiến tranh đang bùng lên và
lan rộng.
Trung đoàn Cô-dắc số 12 đóng trên một khu vực
hoang vu nhiều đồng lầy. Ban ngày, năm thì mười họa họ mới phải nổ súng vào một
vài tên lính Áo chạy từ chỗ này sang chỗ khác trong những đường chiến hào nông
choèn choẹt. Đêm đến được bãi lầy che chờ, họ lăn ra ngủ hoặc chúi đầu vào đánh
bài, chỉ mấy anh chàng lính gác phải theo dõi những làn ánh sáng màu da cam
rùng rợn lóe lên ở những nơi đang có chiến đấu.
Một đêm băng giá, giữa lúc những ánh đèn xa
đan nhau trên nền sáng khác thường. Grigori Melekhov bước trong hầm ra, len lỏi
theo hào giao thông, lần vào cánh rừng mọc sau các đường chiến hào, như những
đám tóc bạc trên mái cỏ đen xì của một ngọn đồi không cao lắm. Chàng nằm xuống
một khoảng đất rộng tỏa ra những mùi rất dễ chịu. Trong căn hầm tối tăm, khói
um, lớp khói thuốc nâu nâu trải ra như tấm khăn bàn có tua trên một cái bàn nhỏ
quanh đó chừng tám gã Cô-dắc vẫn còn vùi đầu vào quân bài. Nhưng trong rừng,
trên đỉnh đồi, gió hiu hiu, rất khẽ, cứ như từ hai cái cánh của một con chim vô
hình bay qua. Lớp cỏ chết úa vì sương giá tỏa ra một mùi hương u uất khó tả.
Bóng đêm trùm dày đặc khu rừng bị đạn pháo làm gãy nát nham nhở. Trên trời, đống
lửa bốc khói mù mịt của các chòm sao chung quanh Đại, Tiểu hùng tinh đã gần tàn
lụi. Đại hùng tinh nằm xoay lưng về sông Ngân hà như chiếc xe bị lật với cái gọng
xe chổng lên nghiêng nghiêng. Chỉ về phía Bắc còn thấy ngôi Bắc đầu vừa thỉu dần
đi vừa tỏa ra một ánh sáng lấp lánh đều đặn.
Grigori nheo mắt nhìn sao Bắc đẩu. Như một
con mắt lờ mờ nhưng nhìn rất sắc, ánh sáng giá băng của ngôi sao làm rỉ ra dưới
hàng mi của chàng vài giọt nước mắt cũng lạnh buốt như thế.
Trong khi nằm ở đây trên gò, không hiểu sao
chàng bỗng nhớ lại cái đêm mình đi từ thôn Hạ Yablonovsky về Yagonoie với
Acxinhia. Nghĩ tới nàng, lòng Grigori lại đau như cắt, trí nhớ tạo lại những đường
nét mông lung đã bị thời gian xóa nhòa phần nào những đường nét vô vàn thân
thương nhưng vẫn xa lạ của khuôn mặt Acxinhia. Tim Grigori bỗng nhiên đập thình
thịch. chàng cố hồi tưởng khuôn mặt ấy như trong lần gặp gỡ cuối cùng với vết
roi đỏ tía hằn ngang má, khuôn mặt hoàn toàn đổi sắc vì đau đớn. Nhưng trí nhớ
cứ gan bướng làm hiện lên khuôn mặt khác, một khuôn mặt hơi cúi cúi với nụ cười
chiến thắng trên môi. Kìa nàng đã quay đầu lại, nghịch ngợm âu yếm, hai con mắt
đen láy cháy bừng bừng như hai hòn than nhìn từ dưới lên, cặp môi đỏ mọng, đa
tình và thèm khát đang thầm thì một lời gì sôi nổi và vô cùng trìu mến. Rồi
Acxinhia từ từ đưa mắt ra chỗ khác, quay đầu, cho thấy hai món tóc xoăn rất dầy,
bông bông trên cái gáy rám nắng... hai món tóc đúng như xưa kia Grigori rất
thích hôn...
Grigori rùng mình. Chàng có cảm tưởng như
thoáng ngửi thấy trong giây phút mùi hương hết sức kín đáo, nhưng rất ngây ngất
của làn tóc Acxinhia. Chàng co hẳn người, cánh mũi phập phồng, nhưng... chẳng
còn gì nữa! Chỉ thấy có mùi lá bị nén lâu nó dễ làm người ta xao xuyến. Hình bầu
dục của khuôn mặt Acxinhia mờ đi, tan dần. Grigori nhắm mắt, đặt hai bàn tay
lên mặt đất sần sùi, rồi lại mở bừng mắt, nhìn không chớp rất lâu ngôi sao Bắc
đẩu lấp lánh như con bướm xanh rất đẹp vỗ cánh đứng yên một chỗ sau cây thông
gãy ở đường chân trời.
Những mẩu hồi ức không đầu không đũa khác
đã hiện ra, làm mờ hình ảnh của Acxinhia. Grigori nhớ lại tuần lễ chàng về thôn
Tatarsky ở với gia đình, sau khi cắt đứt với Acxinhia. Đêm nào Natalia cũng âu
yếm vuốt ve chàng một cách đắm đuối, điên cuồng, tựa như cố bù lại những ngày
nàng còn giữ cái lạnh lùng của người con gái đồng trinh. Ban ngày, lúc nào
chàng cũng thấy có sự chăm nom gần như lấy lòng của gia đình cùng với sự trọng
vọng của bà con trong thôn đối với người lính đầu tiên được thưởng huân chương
thánh Gioóc. Bất cứ chỗ nào ngay trong gia đình, Grigori cũng bắt gặp những cặp
mắt liếc nhìn mình đầy ngạc nhiên và kính trọng tựa như người ta chưa tin rằng
đây chính là cáỉ thằng Grigori phóng đãng và hay đàn đúm chơi bời trước kia.
Ngay các cụ già cũng chuyện trò với chàng bên bãi họp việc làng như với một người
ngang hàng, và gặp chàng ở đâu các cụ cũng ngả mũ chào. Bọn đàn bà con gái thì
công nhiên trầm trồ ngắm cái thân hình hùng dũng, hơi gù gù của chàng trong chiếc
áo ca-pốt với tấm huân chương đính trên một mảnh băng có gạch. Chàng thấy ông
Panteley Prokofievich lộ rõ vẻ kiêu hãnh khi ông đi cùng con trai tới nhà thờ
hay ra thao trường. Như một chất thuốc độc phức tạp, tinh vi, tất cả các thái độ
tâng bốc, trọng vọng, thán phục đó dần dần giết mất, làm tan mất trong ý thức của
Grigori cái hạt giống chân lý mà Garangia đã gieo vào đó. Grigori ở mặt trận về
là một người khác nhưng trở ra mặt trận lại là một người khác. Cái vốn dĩ của
chàng, cái bản chất Cô-dắc đưa vào người Grigori bằng sữa mẹ, được nuôi dưỡng
suốt một đời đã thắng chân lý vĩ đại của loài người.
Hôm chia tay, sau khi uống vài chén đã ngà
ngà, ông Panteley Prokofievich xúc động vuốt vuốt bộ tóc hoa râm nói:
- Griska ạ, cha đã biết, từ lâu cha đã biết
thể nào mày lớn lên cũng trở thành một thằng Cô-dắc tốt. Năm mày vừa đầy tuổi
tôi, theo phong tục Cô-dắc các cụ truyền lại từ đời xưa, cha đem mày ra sân gia
súc, bà còn nhớ không, bà lão? Và đặt mày lên lưng một con ngựa. Chà, cái thằng
chó đẻ này, hai bàn tay còn nhỏ xíu như thế mà đã chộp lấy bờm ngựa rồi! Ngay
hôm ấy, cha đã đoán biết rằng nuôi mày khôn lớn sẽ không mất công toi. Mà quả
đã thế thật.
Grigori đã trở lại mặt trận như một tay
Cô-dắc chính cống. Cuộc chiến tranh này vô nghĩa lý, trong lòng chàng không có
chút nào thỏa hiệp về điểm này, nhưng chàng thẳng thắn hết lòng gìn giữ cái
vinh quang của mình là một thằng Cô-dắc.
*
* *
Năm một nghìn chín trăm mười lăm. Tháng
Năm. Trung đoàn Thép số 13 của quân Đức tấn công trong đội hình bộ binh qua
cánh đồng cỏ màu xanh nhạt ở gần làng Olkhovtrik. Những khấu súng máy hạng nặng
nổ rền như tiếng ve sầu. Khẩu trọng liên của đại đội quân Nga bố trí trên bờ
sông tằng tằng liên hồi một cách nặng nề.
Trung đoàn Cô-dắc số 12 nhận chiến. Grigori
chạy vượt từng chặng trong đội hình chiến đấu của những gã Cô-dắc khác trong đại
đội. Chàng ngoảnh lại nhìn thấy vừng mặt trời tròn như cái đĩa đang tan chảy
trên bầu trời giữa trưa, và một vừng thứ hai cũng hệt vậy nằm ngang trên khuỷu
sông rậm rì những cây liễu rủ vàng vàng như lông cừu non. Bên kia sông, những
tên lính giữ ngựa đang ẩn nấp sau những cây tiêu huyền, còn trước mặt là đội
hình chiến đấu của quân Đức với những con đại bàng bằng đồng vàng lóe lấp loáng
trên chiếc mũ sắt. Gió rung rinh những làn khói đạn xám xám, hắc như mùi ngải cứu.
Grigori bắn không vội vã, chàng nhắm bắn rất
cẩn thận, và giữa hai lần nổ súng, chàng lắng nghe lệnh của viên trung đội trưởng
chỉ định thước nhắm. Như vậy chàng vẫn đủ thời giờ giũ khỏi tay áo quân phục một
con bọ rùa lốm đốm. Rồi đến lúc xung phong...
Grigori dùng báng súng ốp sắt đánh gục một
tên trung úy Đức cao lớn, bắt được ba tên lính Đức làm tù binh rồi bắn dọa trên
đầu chúng, bắt chúng phải chạy tới bờ sông.
Tháng Bảy năm 1915, Grigori cùng một trung
đội Cô-dắc đoạt lại được một đại đội pháo Cô-dắc đã bị quân Áo chiếm mất ở gần
Rava-Ruskaia. Cũng tại đấy, trong khi chiến đấu, chàng đã luồn vào sau lưng
quân địch, nhả đạn khẩu trung liên, làm cho trận tấn công của quân Áo biến
thành một cuộc tháo chạy.
Khi qua Baianot, trong một trận giáp lá cà,
chàng bắt sống được một sĩ quan to béo người Áo. Grigori quẳng hắn nằm ngang
yên ngựa như một con cừu, phi ngựa về, và suốt chặng đường chàng cứ phải ngửi
mùi phân người thối hoắc bốc lên từ tên sĩ quan và cảm thấy những cơn run của
cái thân hình phục phịch, đổ mồ hôi như tắm vì sợ.
Trong khi nằm trên ngọn đồi trọc đen ngòm.
Grigori nhớ lại rành rọt trường hợp đặc biệt chàng chạm trán với kẻ thù không đội
trời chung của chàng là Stepan Astakhov. Việc ấy xảy ra khi trung đoàn 12 bị
rút khỏi mặt trận và điều sang Đông Phổ. Vó ngựa Cô-dắc dẫm nát những cánh đồng
vuông vắn được chăm nom rất cẩn thận của người Đức. Lính Cô-dắc đốt trụi nhà cửa
của dân Đức. Trên đường họ qua chỉ trơ lại những bức tường cháy thui đổ nát và
những mái ngói nứt nẻ. Ở gần thành phố Stolypin: trung đoàn 12 tấn công cùng với
trung đoàn Cô-dắc sông Đông 27. Grigori thoáng nhìn thấy cạnh người anh ruột gầy
nhom của chàng, gã Stepan râu cạo nhẵn nhụi và một số anh em Cô-dắc cùng thôn.
Hai trung đoàn đã bị thua trong trận chiến đấu. Họ bị quân Đức bao vây, và khi
mười hai đại đội lần lượt xông lên mở đường máu trong vòng vây địch mỗi lúc một
khép chặt. Grigori nhìn thấy Stepan nhảy ra khỏi con ngựa huyền bị bắn chết
trong khi anh ta đang cưỡi nó, rồi lăn tít như một con quay. Grigori chợt nảy
ra một quyết tâm làm chàng cảm thấy sung sướng. Chàng vất vả lắm mới ghìm được
con ngựa đứng lại và khi đại đội cuối cùng phóng qua, thiếu chút nữa thì chà
lên người Stepan, chàng cho con ngựa phi tới gần Stepan kêu to:
- Nắm lấy bàn đạp!
Stepan nắm lấy đọan dây da trên bàn đạp, chạy
bên cạnh con ngựa của Grigori chừng nửa vec-xta.
- Đừng phóng nhanh quá! Đừng phóng nhanh
quá, hãy vì chúa Giêsu Cứu thế! - Anh ta thở hổn hển, cố van.
Hai người vượt qua đột phá khẩu được bình
an vô sự. Chỉ còn một trăm xa-gien là cùng thì tới được khu rừng, nơi các đại đội
phá vòng vây xuống ngựa, nhưng giữa lúc đó Stepan bị trúng một viên đạn vào
chân. Anh ta buông tay khỏi bàn đạp, ngã ngửa. Gió thổi bay mất chiếc mũ
cát-két của Grigori bờm tóc trước trán xõa xuống mắt chàng. Grigori hất tóc lên
ngoái nhìn lại thấy Stepan khập khiễng chạy vào một bụi cây. Anh ta vứt chiếc
mũ cát-két vào trong đó, rồi ngồi thụp xuống, vội vã cởi cái quần đi ngựa có những
nẹp đỏ lóe.
Grigori hiểu ngay: Stepan muốn sống nên vứt
bỏ cái quần Cô-dắc để lộn sòng làm bộ binh, hồi ấy quân Đức đâu có bắt lính
Cô-dắc làm tù binh. Nghe theo tiếng gọi của lương tâm, Grigori cho ngựa quay
ngoặt lại, phóng tới bụi cây và nhảy xuống đất trong lúc ngựa còn đang chạy:
- Ngồi lên yên đi...
Mắt Stepan chớp chớp rất nhanh. Grigori
không bao giờ quên được cái chớp mắt ấy. Chàng giúp Stepan ngồi lên yên, còn
mình thì nắm lấy bàn đạp, chạy bên cạnh con ngựa mồ hôi đầm đìa.
Chiuu
- Một phát đạn nóng rãy rít bay qua, và khi tai
không còn nghe thấy tiếng rít nữa, nó nổ đánh bục!
Trên đầu Grigori, trên bộ mặt nhợt nhạt như
đá phấn của Stepan, hai bên sườn hai người, chỗ nào cũng có những tiếng đạn rít
như xuyên, như khoan: chiuu-bục! Chiuu-bục...
Còn sau lưng hai người, những phát súng nổ lốp bốp liên hồi như tiếng nứt của
những quả xiêm gai quá chín.
Púc pắc!
Púc pắc! Ta ta ta ta!
Vào đến trong rừng, Stepan tụt trên yên xuống,
mặt nhăn nhó vì đau. Anh ta quẳng dây cương, khập khiễng bước sang bên cạnh.
Màu trào ra trên mép ống ủng bên chân trái, và mỗi khi bên chân bị thương dẫm
xuống đất, một tia máu nhỏ mầu anh đào lại rỉ ra dưới cái đế ủng đã long.
Stepan dựa lưng vào thân một cây sồi có những cái cành vươn rất rộng, vẫy ngón
tay gọi Grigori. Grigori bước tới.
- Máu chảy ra đầy cả ủng. - Stepan nói.
Grigori nhìn ra chỗ khác chẳng nói chẳng rằng.
- Griska ạ, hôm nay trong lúc chúng ta xông
lên tấn công... Anh nghe rõ không, Grigori? - Stepan vừa nói vừa đưa hai con mắt
sâu hoắm cố tìm cặp mắt Grigori. - Trong lúc tấn công, tôi ở đằng sau đã ba lần
nổ súng vào anh... nhưng Chúa đã không cho tôi giết anh.
Mắt hai người gặp nhau. Từ sau hai cái hố
con mắt hõm sâu cặp mắt Stepan long lanh, sắc ngọt, làm người nhìn vào rất khó
chịu. Nó nói, gần như không hé hai hàm răng siết chặt:
- Anh đã cứu tôi thoát chết... Tôi cám
ơn... Nhưng còn chuyện Acxinhia thì tôi không thể tha thứ được. Tình cảm trong
lòng thì không cưỡng ép được... Anh đừng ép buộc tôi Grigori ạ...
- Tôi không ép buộc gì cả. - Lúc ấy Grigori
đã trả lời như thế.
Lúc chia tay hai người vẫn là hai kẻ thù
quyết liệt như xưa...
Và còn nữa... Đến tháng Năm, trung đoàn
cùng với các đơn vị khác của Tập đoàn quân Brusilovskaia chọc thủng mặt trận ở
Ludk*, vận động ngang dọc ở sau lưng địch, lúc thì đánh địch, lúc thì bị địch
đánh. Ở gần Lvov**, Grigori đã chủ động lôi cuốn cả đại đội của chàng xông lên
xung phong, chiếm được một đại đội súng cối của quân Áo, bắt được cả những tên
bắn súng cối.
*[Thành phố Ba Lan]
**[Thành phố Ba Lan, sau Thế chiến hai thuộc về Ukraina]
Một tháng sau, có một đêm Grigori bơi qua
sông Búc tìm bắt một “cái lưỡi”.
Chàng đánh ngã một tên gác ở vọng tiêu, nhưng
nó là một thằng Đức vai u thịt bắp, khỏe như trâu. Grigori gần trần như nhộng cứ
bám chặt lấy nó. Nó vật lộn với chàng rất lâu, kêu như bò rống, nhất định không
chịu để Grigori trói.
Grigori nhớ lại chuyện đó bất giác mỉm cười.
Đã không ít những ngày bị dùng phí hoài như
thế ở những nơi diễn ra những trận chiến đấu gần đây và trước kia. Grigori kiên
quyết giữ vững vinh quang là một thằng Cô-dắc: chàng không bỏ lỡ một dịp nào để
tỏ rõ lòng dũng cảm không bờ của mình, chàng đã mạo hiểm như một thằng điên cải
trang luồn vào sau lưng quân Áo, không nhỏ một giọt máu mà diệt được cả một vọng
tiêu của địch. Chàng Cô-dắc đã phô hết tài năng và cảm thấy trong lòng mình đã
mãi mãi mất đi niềm đau xót cho loài người đã đè lên mình trong những ngày đầu
của cuộc chiến tranh. Trái tim của Grigori đã chai sạn, khô cứng lại, chẳng
khác gì một thửa đất mặn ngày đại hạn. Và cũng như đất mặn không thấm nước nữa,
trái tim Grigori không thể còn có chỗ lòng trắc ẩn. Chàng lạnh lùng coi khinh,
chàng đùa rỡn với tính mạng của mình cũng như của người khác; vì thế đã lừng
danh một tay gan dạ, đã được tặng thưởng bốn huân chương thánh Gioóc và bốn huy
chương, năm thì mười họa có duyệt binh, Grigori lại được đứng dưới lá cờ trung
đoàn ám khói thuốc súng của bao nhiêu trận chiến đấu. Nhưng Grigori biết rằng
mình sẽ không bao giờ còn có thể cất tiếng cười như xưa nữa. Chàng biết rằng
hai con mắt mình đã sâu trũng xuống, và gò má mình đã nhô lên nhọn hoắt. Chàng
biết rằng nếu hôn một đứa con nít thì sẽ khó mà nhìn thẳng vào cặp mắt tươi sáng
của nó. Grigori biết rằng chàng đã phải trả một giá đắt như thế nào để có được
cả một chuỗi huân chương và những lần đề bạt.
Chàng nằm trên ngọn gò, tà áo ca-pôt đệm dưới
sườn, khuỷu tay trái tì xuống đất. Trí nhớ ngoan ngoãn làm sống lại những đọan
đời đã qua, và xen lẫn với những hồi ức phiến đọan nghèo nàn về chiến tranh. một
mẩu chuyển nào đó trong thời thơ ấu xa xưa lại đan thêm vào như một sợi chỉ rất
mảnh màu xanh da trời. Con mắt bên trong của Grigori âu yếm và man mác buồn
nhìn lướt qua mẩu chuyện đó trong giây phút rồi lại chuyển ngay sang những việc
mới xảy ra gần đây. Bên các chiến hào của quân Áo, không biết có ai chơi
măng-đô-lin nghe thật tuyệt. Tiếng đàn thánh thót, hối hả chập chờn theo gió,
vang từ bên đó qua sông Stokhot và nhẹ nhàng là xuống khoảng đất đã bao lần đẫm
máu người, những ngôi sao trên đỉnh đầu sáng lên bừng bừng, bóng tối mỗi lúc một
dày đặc, làn sương mù lúc nửa đêm uyển chuyển uốn lưng trên bãi lầy. Grigori
hút liền hết hai điếu thuốc, vuốt ve đoạn dây đeo súng một cách thô bạo, rồi chống
năm ngón tay trái nhỏm dậy: rời khỏi khoảng đất từ nãy ân cần đón khách, và lại
len lỏi trong những đường chiến hào.
Những tên trong hầm vẫn còn chúi đầu vào
sát phạt. Grigori gieo mình xuống tấm ván gỗ, đầu óc vẫn còn muốn thơ thẩn qua những
mảng hồi ức, theo những con đường mà mình đã từng đi qua, những con đường bỏ
lâu quá nay đã rậm rì. Nhưng cái buồn ngủ đã làm chàng đờ đẫn, và chẳng mấy chốc
chàng đã thiếp đi trong cái dáng nằm rất không thoải mái lúc mới đặt lưng xuống.
Trong giấc mơ, chàng nhìn thấy một cánh đồng cỏ vô biên vô tận, bị gió hanh thổi
khô cháy hết, những bụi thử cúc thảo hồng hồng tím tím, những vết móng ngựa
không đóng cá sắt giữa những đám bách lý hương tím ngát, rũ rượi như những bờm
tóc... Đồng cỏ không một bóng người, yên tĩnh một cách rờn rợn. Grigori đi trên
một lớp đất nhiều cát rất rắn, nhưng không nghe thấy những tiếng bước chân của
chính mình, vì thế bông hoảng lên... Grigori giật mình tỉnh dậy, ngửng đầu lên,
trên má hằn mấy vệt chéo do nằm không khéo. Hai hàm răng của chàng cứ nhai
nhai, chẳng khác gì một con ngựa bất thần ngửi thấy mùi hương lạ của một thứ cỏ
nào đó rồi lại hít mãi mà không thấy nữa. Sau đó chàng lại lăn ra ngủ như chết
không còn mộng mị gì nữa.
Hôm sau Grigori tỉnh dậy với một nỗi nhớ
nhung cồn cào không rõ vì sao. “Tóc trái đào” thấy thế hỏi:
- Sao hôm nay cậu thẫn thờ rầu rĩ như thế?
Lại nằm mơ thấy thôn trấn có phải không?
- Cậu đoán đúng đấy. Mình lại mơ thấy đồng
cỏ. Trong lòng rối bời bời, ước gì được tạt về nhà một cái. Ghét cay ghét đắng
cái trò đi lính cho nhà vua như thế này rồi.
“Tóc trái đào” bật cười kẻ cả. Gã luôn ở
cùng hầm với Grigori và có vẻ rất tôn trọng Grigori. Sự tôn trọng mà một con
thú khỏe cảm thấy trước một con thú khác cũng khỏe như mình. Sau cuộc xô xát đầu
tiên xảy ra năm 1914, giữa hai người từ đó không còn có điều qua tiếng lại gì nữa,
và rõ ràng “Tóc trái đào” đã có tác động đối với tính tình và tâm lý Grigori.
Chiến tranh đã làm cho cách “Tóc trái đào” nhìn thế giới biến đổi rất nhiều. Gã
ngả dần sang phía chống lại chiến tranh một cách khó khăn, nhưng chuyển biến
này diễn ra không ngừng, không gì ngăn chặn được. Gã nói rất nhiều về chuyện những
viên tướng phản quốc và những mụ người Đức ngồi lù lù ngay trong hoàng cung. Có
lần gã lỡ miệng nói một câu: “Đừng chờ đợi một điều gì tốt lành, vì ngay hoàng
hậu đã mang trong người dòng máu Đức. Nếu có dịp là mụ đem ngay chúng ta bán lấy
một cái hắt hơi đấy...”.
Một hôm Grigori nói cho “Tóc trái đào” nghe
phần cơ bản trong những điều Garangia đã giảng giải cho chàng nhưng “Tóc trái
đào” không đồng tình:
- Bàỉ hát kể cũng hay đấy, nhưng tiếc rằng
giọng hơi khàn, - gã mỉm cười có vẻ chế nhạo, vừa nói vừa vỗ vỗ vào chỗ đầu hói
xám ngoét. - Chuyện ấy thì thằng Miska Kosevoi cũng đã gáy rầm lên như con gà
trống trên hàng rào rồi còn gì. Các cuộc cách mạng như thế chẳng đem lại lợi lộc
gì đâu, toàn chuyện đem ra dỗ trẻ. Cậu phải nhớ rằng chúng ta, dân Cô-dắc, chỉ
cần có chính quyền của mình thôi, không cần một thứ chính quyền nào khác cả.
Chúng ta cần có một ông vua Nga cứng rắn, đại loại như Nicolai Nicolaievich* ấy.
Còn bọn mu-gích thì chúng ta không đi cùng đường với chúng nó được: ngỗng đâu
có thể làm bạn với lợn. Bọn mu-gích muốn thừa cơ cướp ruộng cướp đất, bọn thợ
thuyền thì mong được tăng công xá, còn chúng ta thì chúng nó sẽ cho cái gì? Ruộng
đất của chúng ta đã ê hề ra đấy! Ngoài thế chúng ta còn cần gì nữa? Mà của đáng
tội chúng nó còn có quái gì cho chúng ta đòi hỏi? Chúng ta có một lão vua thật
là đoảng vị, cứ nói toạc móng heo ra như thế chẳng cần phải giấu giếm làm gì.
Thằng bố lão còn cứng rắn một chút, chứ lão thì đã để cho cách mạng bùng nổ,
như năm một nghìn chín trăm linh năm, thế là tất cả đều lộn tùng phèo, đều xuống
dốc không phanh. Những chuyện như thế chẳng có lợi gì cho chúng ta. Nếu chẳng
may Chúa để cho chúng tống cổ được vua Nga, thì chúng nó cũng sẽ tính chuyện cả
với chúng ta. Đến lúc ấy chúng nó sẽ nhớ tới thù cũ, sẽ đem ruộng đất của chúng
ta cắt chia hết cho bọn mu-gích. Không liệu tỉnh táo giữ miếng thì không xong
đâu...
*[Nicolaievich (1858 - 1929). Đại công tước, Tổng tư lệnh tối
cao của quân đội Nga từ khi chiến tranh thế giới bùng nổ. Trong thời kỳ Nội chiến,
bỏ chạy ra nước ngoài. Tại đấy, có sự ủng hộ của Vrănghen và phần lớn các phần
tử bảo hoàng là một trong những kẻ có tham vọng lên ngôi vua nước Nga]
- Bao giờ cậu cũng chỉ nghĩ có một mặt. -
Grigori cau có.
- Còn cậu thì toàn chuyện tầm phào. Cậu còn
trẻ người non dạ, chưa phải là thằng từng trải. Nhưng cứ chờ đấy mà xem, chúng
nó sẽ vần cậu như dưa, rồi lúc đó mới rõ được ai phải ai trái.
Các cuộc nói chuyện thường chấm dứt như thế.
Grigori không nói gì nữa, còn “Tóc trái đào” thì cố lảng sang chuyện khác.
Hôm ấy một trường hợp bất ngờ đã làm
Grigori bị dây vào một chuyện khó chịu. Đến giữa trưa, cũng như mọi ngày, chiếc
xe nhà bếp đã chiến từ bên kia ngọn gò chạy đến đỗ ở chỗ cũ. Bọn lính Cô-dắc
tranh nhau chạy tới theo các hào giao thông. Miska Kosevoi đi lĩnh thức ăn cho
trung đội ba: lúc về dùng một chiếc gậy dài gánh những chiếc cà mèn khói bốc
nghi ngút. Nhưng vừa bước vào hầm anh chàng đã kêu toáng lên:
- Như thế này thì không thể được, anh em ạ!
Còn nghĩa lý ra sao nữa, chúng ta có phải là chó đâu!
- Cậu nói chuyện gì thế? - “Tóc trái đào” hỏi.
- Chúng nó cho bọn mình ăn xác những con vật
chết! - Miska phẫn nộ kêu lên.
Nói xong, Miska hất ra sau gáy cái bờm tóc
vàng óng, nom như một chùm hốt bố dại, rồi vừa đặt những cái cà mèn lên chiếc
giường ván, vừa liếc nhìn “Tóc trái đào” và bảo:
- Cậu thử ngửi mà xem, xúp bắp cải gì mà thối
thế này!
“Tóc trái đào” cúi xuống chiếc cà-mèn của
gã, rung rung cánh mũi, mặt nhăn như bị. Miska bất giác bắt chước “Tóc trái
đào”, phập phồng lỗ mũi, nhăn bộ mặt bềnh bệch.
- Nấu bằng thịt thối rồi. - “Tóc trái đào”
nhận định.
Gã đẩy cái cà-mèn ra một cách dè bỉu rồi
đưa mắt nhìn Grigori.
Grigori nhổm phắt dậy trên cái giường ván,
khom lưng, dí cái mũi nhòm mồm vào gần món xúp, rồi ngửa người ra sau, lười
nhác đưa chân hất cái cà mèn gần nhất xuống đất.
- Sao cậu lại làm như thế? - “Tóc trái đào”
hỏi giọng ngập ngừng.
- Thế cậu không thấy tại làm sao à? Dí mắt
vào mà xem. Hay cậu thong manh rồi? Cái gì đây nào? - Grigori chỉ chất nước đục
ngầu đang chảy lan ra bốn phía dưới chân mọi người.
- Ô-ô-ô? Dòi! Ối bố mẹ ơi! Thế mà mình
không nhìn thấy gì cả! Bữa trưa của chúng mình thế này đây. Không phải là súp bắp
cải mà là mì sợi. Chúng nó đã lấy dòi nấu thay lòng lợn.
Dưới đất chung quanh một miếng thịt đỏ hỏn
trong những váng mỡ tròn tròn thấy lổn nhổn những con dòi đã nấu chín trắng hếu,
mình những đốt là đốt.
- Một hai ba bốn... - Miska lẩm nhẩm đếm
không biết để làm gì.
Mọi người lặng đi một phút. Grigori nhổ một
bãi nước bọt qua kẽ răng. Miska rút thanh gươm ra và nói.
- Chúng ta sẽ bắt giữ ngay món xúp này và
giải lên đại đội trưởng.
- Phải! Đúng đấy! - “Tóc trái đào” tán
thành.
Gã hấp tấp tháo lưỡi lê và nói:
- Bọn mình sẽ áp giải món xúp này, còn cậu,
Griska ạ, cậu sẽ phải đi theo. Cậu sẽ báo cáo với đại đội trưởng.
“Tóc trái đào” và Miska Kosevoi dùng lưỡi
lê khiêng một cà-mèn xúp đầy, gươm tuốt trần lăm lăm trong tay. Grigori hộ tống
phía sau. Theo sau ba người, những tên lính Cô-dắc trong các căn hầm cũng túa
ra, lốc nhốc đi trong đường hào chữ chi như một làn sóng xám xanh.
- Có gì thế?
- Báo động à?
- Có lẽ về chuyện hòa ước chăng?
- Làm gì có chuyện như thế! Cậu thì muốn có
hòa ước, thế không muốn phải ăn bánh khô chứ?
- Chúng nó bắt giữ món xúp dòi đấy.
Đến trước cửa căn hầm của bọn sĩ quan, “Tóc
trái đào” và Miska Kosevoi đứng lại. Grigori khom lưng, đưa tay trái lên giữ
chiếc mũ lưỡi trai bước vào trong “hang cáo”.
- Đừng có đẩy! - “Tóc trái đào” giận dữ nhe
nanh lườm một tên lính Cô-dắc xô vào lưng gã.
Viên đại đội trưởng vừa cài khuy áo ca-pôt
bước ra. Hắn băn khoăn, thậm chí có phần lo lắng đưa mắt nhìn Grigori, người cuối
cùng ra khỏi hầm:
- Có việc gì thế, anh em? - Hắn nhìn một lượt
qua đầu bọn lính Cô-dắc.
Mọi người lặng thinh. Grigori bước tới trước
mặt hắn trả lời:
- Chúng tôi áp giải đến đây một kẻ bị bắt
giữ.
- Kẻ nào bị bắt giữ?
- Chính nó đây... - Grigori chỉ chiếc
cà-mèn súp bắp cải đặt dưới chân “Tóc trái đào”. - Đây là kẻ bị bắt giữ... Xin
ngài thử nhìn xem anh em Cô-dắc dưới quyền ngài được cho ăn những gì.
Một bên lông mày Grigori giương lên thành
hình tam giác không đều đặn, khẽ rung rồi trở lại như cũ. Viên đại đội trưởng
theo dõi vẻ mặt của Grigori bằng cặp mắt thăm dò, rồi cau mày, đưa mắt nhìn xuống.
- Họ đã bắt đầu cho anh em ăn thịt những
con vật chết rồi! - Miska nóng nảy kêu lên. - Phải thay một trung sĩ quân nhu
khác mới được!
- Con rắn độc!
- Còn nó thì ăn hốc béo căng béo núc, đồ quỉ
dữ!
- Nó chén toàn súp nấu với bầu dục bò...
- Còn đây thì nấu với dòi! - Những người đứng
gần nói hòa theo.
Đại đội trưởng chờ những tiếng nhao nhao lắng
đi rồi nói giọng gay gắt:
- Im ngay! Bây giờ không ai được nói nữa! Mọi
điều đã nói cả rồi. Ngay hôm nay tôi sẽ thay trung sĩ quân nhu khác. Tôi sẽ chỉ
định một ủy ban điều tra các họat động của nó. Nếu chất lượng của thịt không tốt...
- Thì đưa nó ra tòa! - Mọi người phía sau gầm
lên như sấm.
Những tiếng kêu lại vang lên như một làn
sóng át cả tiếng viên đại đội trưởng.
Việc đổi tên trung sĩ quân nhu đã phải tiến
hành trên đường hành quân. Vài giờ sau khi bọn lính Cô-dắc biểu tình bắt giữ và
áp giải món súp bắp cải tới hầm viên đại đội trưởng, trung đoàn bộ trung đoàn
12 nhận được mệnh lệnh rút khỏi trận địa và dựa theo kế hoạch lộ trình kèm theo
mệnh lệnh, trung đoàn tiến sang Rumani theo đội hình hành quân. Đêm ấy khinh
binh Siberi đã tới thay thế trung đoàn Cô-dắc. Trung đoàn kiểm tra lại ngựa tại
thị trấn nhỏ Rynvid rồi sáng hôm sau tiến vào đất Rumani với tốc độ hành quân cấp
tốc.
Những binh đoàn rất lớn đã được tung sang cứu
viện cho quân đội Rumani vừa thua liên tiếp hết trận nọ đến trận kia. Chỉ một
việc dưới đây cũng đủ cho thấy rõ tình hình: ngay hôm hành quân đầu tiên, lúc
trời sắp tối, bộ phận được phái đi trước để chuẩn bị chỗ đóng quân đến một thôn
được chỉ định cho đơn vị nghỉ đêm theo kế họach lộ trình, nhưng họ đã phải về
không, vì toàn thôn đã đầy ních bộ binh và pháo binh, các đơn vị này cũng đang
tiến về phía biên giới Rumani. Trung đoàn bắt buộc phải đi thêm tám vec-xta để
kiếm chỗ ở.
Họ hành quân mất mười bảy ngày. Những con
ngựa gầy sọp đi vì thiếu ăn. Bị chiến tranh tàn phá, cả một dải biên giới không
còn có gì cho gia súc ăn. Dân chúng đã bỏ chạy vào bên trong nước Nga hoặc ẩn nấp
trong rừng. Các căn nhà nông dân trống huếch trống hoác âm thầm phơi những bức
tường trần trụi đen sì. Trong phố vắng tanh, năm thì mười họa binh lính Cô-dắc
mới bắt gặp bộ mặt nhăn nhó, khiếp hãi của một người dân, nhưng hễ thoáng bóng
một người đeo súng là dân chúng vội vã bỏ trốn ngay. Bọn Cô-dắc kiệt sức vì
hành quân liên miên, vì rét cóng, đã trở nên hung hãn vì bản thân họ, vì những
con ngựa, vì tất cả những điều họ đã phải chịu đựng.
Họ dỡ cả mái tranh của những căn nhà. Trong
các làng xóm chưa bị tàn phá, họ không ngại ăn cắp chút ít lương thực cho ngựa
còn sót lại. Các cấp chỉ huy đe dọa đến mấy cũng không ngăn nổi các hành động
trộm cướp bậy bạ cùa họ.
Trong một làng nhỏ giàu có cách lãnh thổ
Rumani không xa, “Tóc trái đào” đã dùng mẹo lấy cắp được trong một nhà thóc chừng
một bị đại mạch. Bị chủ nhà bắt quả tang, “Tóc trái đào” đã nện cho người dân
Besarabi hiền lành và đã có tuổi ấy một trận, còn thóc thì gã đàng hoàng mang
cho ngựa ăn. Viên trung đội trưởng bắt gặp “Tóc trái đào” ở chỗ cọc buộc ngựa.
“Tóc trái đào” đeo bị thóc vào cổ con ngựa đi đi lại lại, vuốt vuốt cái lưng
con ngựa gầy giơ cả xương bằng hai bàn tay run run và cứ nhìn vào mắt con ngựa
chẳng khác gì nhìn vào mắt người.
- Uriupin! Đồ chó đẻ, đem ngay thóc trả lại
người ta đi! Mày làm như thế sẽ bị họ đem xử bắn đấy, đồ khốn nạn!
“Tóc trái đào” liếc nhìn viên sĩ quan bằng
hai con mắt đục ngầu, rồi gã quẳng cái mũ lưỡi trai xuống chân và từ ngày đến
trung đoàn, đây là lần đầu tiên gã gào lên, giọng thất thanh.
- Các người đem xử thì đem xử! Đem bắn thì
đem bắn! Giết ngay thằng này ở đây thì cứ giết đi, nhưng thóc thì thằng này
không trả đâu! Sao, muốn bắt con ngựa của thằng này phải chết đói hay sao? Hả?
Thằng này không trả thóc đâu! Một hạt cũng không trả!
Hai bàn tay “Tóc trái đào” lúc thì đưa lên
ôm đầu, lúc thì vuốt bờm con ngựa đang rúc xuống nhai lấy nhai để, lúc thì nắm
lấy đốc gươm.
Viên sĩ quan không nói gì nữa, hắn đứng yên
một lát nhìn phần trên hai chân sau con ngựa gầy tọp đi một cách đáng sợ, rồi hắn
gật đầu nói:
- Con ngựa vừa chạy, mình còn nóng thế kia
mà đã cho ăn thóc. - Giọng nói của hắn rõ ràng có vẻ luống cuống.
- Không, đã mát rồi đấy. - “Tóc trái đào”
trả lời gần như thầm thì.
Gã vừa nói vừa nhặt vào trong lòng bàn tay
những hạt thóc rơi vãi trong bị ra rồi ném vào cho con ngựa ăn.
*
* *
Trong những ngày đầu thảng Mười một, trung
đoàn ra tới mặt trận. Gió lóc cuốn xoáy khắp vùng núi Transivania mây mù lạnh
giá tích đầy các khe núi thành gò thành đống. Trong các khu vực rừng thông bị
sương giá đốt cháy vàng, mùi nhựa xông lên nồng nặc. Mặt tuyết đầu mùa còn sạch
bong trên núi càng ngày càng phơi ra trước mắt con người nhiều vết chân thú rừng:
chó sói, hươu nai, dê rừng hoảng sợ trước chiến tranh đã bỏ các vùng biên giới
hoang vu, chạy vào sâu trong nước.
Ngày mồng bảy tháng Mười một, trung đoàn 12
tấn công lên cao điểm “320”. Hôm trước, các chiến hào còn do quân Áo chiếm giữ,
nhưng đến hôm tấn công, chúng đã được thay bằng bọn lính Sarxon vừa bị chuyển từ
mặt trận Pháp về. Quân Cô-dắc tiến trong đội hình bộ binh trên những sườn núi
đã phủ một lớp tuyết xốp mỏng. Chân họ dẫm lên những hòn đá vụn giá băng, làm bụi
tuyết bốc lên như khói. Grigori đi bên cạnh “Tóc trái đào”. Chàng nói với gã với
nụ cười của một kẻ biết mình có lỗi, nụ cười chưa bao giờ có vẻ ngượng ngùng
như thế này:
- Không hiểu sao hôm nay mình sợ sợ thế nào
ấy... Cứ như mình lên tấn công lần đầu ấy.
- Thật à? - “Tóc trái đào” ngạc nhiên.
Gã hạ khẩu súng trường trên vai xuống, xách
súng bằng dây da, vừa đi vừa mút những miếng băng nhỏ bám trên ria.
Quân Cô-dắc tiến lên núi trong những đội
hình tấn công nham nhở, chỉ tiến mà không nổ súng. Đỉnh các ụ chiến hào của địch
cũng chết lặng một cách rùng rợn. Chỗ ấy bên quân Đức sau một ụ đất dốc, một
viên trung úy người Sarxon có khuôn mặt đỏ tía vì gió và cái mũi bong da, đang
ngửa hẳn người ra sau, mỉm cười và kêu lên một cách ngang tàng với bọn lính:
- Các bạn! Chúng ta đã từng đánh bọn áo
xanh này (chỉ lính Cô-dắc) nhiều lần rồi! Nào, cả lần này nữa chúng ta cũng sẽ
cho chúng nó biết rằng chạm trán với chúng ta nghĩa là thế nào. Các bạn hãy chịu
khó chờ thêm. Đừng bắn vội! [Tiếng Đức trong nguyên văn]
Các đại đội Cô-dắc tiến lên tấn công. Dưới
chân họ là chất đá bở, dẫm xuống vụn ra rơi lả tả. Grigori nhét lại hai cái tai
của chiếc mũ trùm gáy đã biến thành màu hung hung đỏ, mỉm một nụ cười xao xuyến.
Một ánh xanh xanh vàng vàng hiện lên trên cặp má hõm lồm xồm những sợi râu đen
nhánh, cứng như rơm, đã lâu không cạo, và trên cái mũi dài nhòm mồm của chàng.
Hai con mắt đen như hai hòn than gầy âm thầm sáng lên dưới cặp lông mày đầy
sương muối. Grigori đã mất cái bình tĩnh thường ngày. Chàng cố cưỡng lại cái cảm
giác sợ hãi đáng nguyền rủa bỗng nhiên quay trở lại, bèn nheo hai con mắt đầy
nghi ngại nhìn đường đỉnh ụ chiến hào tuyết phủ trắng xóa và nói với “Tóc trái
đào”.
- Chúng nó cứ ngậm tăm. Để chúng mình lại gần
hơn. Còn mình thì thấy sợ, nhưng mình chẳng thấy hổ thẹn chút nào... Nếu bây giờ
mình quay lưng, bỏ chạy trở về thì sao nhỉ?
- Sao hôm nay cậu ăn nói lung tung như thế?
- “Tóc trái đào”, hỏi bực bội. - Người anh em thân mến, ở đây cũng như trong
khi chơi bài thôi: mất niềm tin ở mình là chúng nó xin ngay cái đầu. Mặt cậu
vàng như nghệ ấy. Griska ạ... Một là cậu ốm, hai là hôm nay chúng nó sẽ đưa cậu
về với ông bà ông vải. Cậu thử nhìn xem! Đã thấy chưa?!
Trên chiến hào bỗng có một tên Đức áo
ca-pôt ngắn, mũ sắt nhọn đứng thẳng lên trong một giây rồi lại ngồi sụp ngay xuống.
Người tiến bên trái Grigori là một gã Cô-dắc
đẹp trai: tóc màu hạt dẻ nhạt người trấn Elanskaia. Gã vừa đi vừa tháo chiếc
găng bên tay phải ra rồi lại đi vào và cứ làm đi làm lại như thế không biết bao
nhiêu lần. Gã bước vội vã, đầu gối gập lại rất khó khăn và thỉnh thoảng lại cất
tiếng ho rất to. “Thật y như thằng đi đêm một mình... Cứ rặn ra mà ho, cho đỡ sợ”.
- Grigori nghĩ thầm. Sau gã Cô-dắc này có thể nhìn thấy cái má đầy tàn hương của
tên hạ sĩ Marsaev, sau nữa là Emelian Grosov. Thằng cha chĩa cây súng ra phía
trước một cách vững vàng, mũi súng hơi đưa sang bên. Grigori nhớ rằng vài ngày
trước đây, trên đường hành quân, Emelian đã dùng chiếc lưỡi lê này phá khóa cửa
một nhà kho lương thực, ăn cắp túi ngô của một người Rumani. Miska Kosevoi đi gần
như ngang với Emelian. Anh chàng hút thuốc một cách thèm khát, thỉnh thoảng lại
sỉ mũi rồi chùi ngón tay vào mặt ngoài của tà áo ca-pôt bên trái.
- Mình khát nước quá. - Marsaev nói.
- Emelian ạ, còn mình thì đi đôi ủng chật
quá. Với cái của này thì nhấc chân lên không được nữa. - Miska Kosevoi than
vãn.
Emelian tức giận ngắt lời Miska:
- Ở đây không phải là chỗ nói chuyện ủng iếc
gì cả! Cậu hãy cố chịu đựng. Bọn Đức sẽ quét súng máy ngay cho mà xem.
Ngay loạt đạn đầu tiên đã bắn quỵ Grigori.
Chàng chỉ “ối chà” được một tiếng là ngã xuống. Chàng định buộc bên tay bị
thương, bèn luồn tay vào chiếc túi dết đựng bông băng cấp cứu, nhưng chợt cảm
thấy một dòng máu nóng hổi tuôn ra phùn phụt trong ống tay áo, nên không còn
chút sức lực gì nữa. Chàng nằm sóng soài, cái đầu nặng tựa đá đeo nấp sau một tảng
đá, rồi thè cái lưỡi khô bỏng ra liếm một đám tuyết lồm xồm. Môi chàng run run
hớp lấy hớp để những miếng tuyết xốp. Chưa bao giờ Grigori thấy sợ như lúc này.
Chàng run như cầy sấy lắng nghe tiếng đạn réo khô khan gay gắt và tiếng súng nổ
ầm ầm tràn ngập không gian. Chàng ngẩng đầu nhìn thấy những tên Cô-dắc trong đại
đội đang chạy nháo nhào xuống chân núi, người trượt, người ngã, vừa chạy vừa bắn
lung tung, chẳng có mục đích gì cả về phía sau và lên trời. Chính cái sợ không
gì có thể nói rõ lý do, có thể bào chữa cho Grigori trong lúc này đã làm cho
chàng đứng dậy, và bắt chàng cũng phải chạy xuống phía dưới tới khoảng lề rừng
thông lởm chởm răng cưa, nơi lúc nãy trung đoàn bắt đầu triển khai công kích.
Grigori chạy vượt Emelian Grosov. Emelian vừa chạy vừa lôi theo gã trung đội
trưởng bị thương. Trên sườn núi rất dốc, viên trung úy chạy chân nam đá chân
chiêu như thằng say rượu, thỉnh thoảng lại bám chặt lấy vai Emelian để nhổ ra
những cục máu đặc đen sì. Như một trận tuyết lở, các đại đội tuôn xuống ào ào
vào trong khu rừng. Một số xác chết nằm lại trên những sườn dốc màu tro, nom
như những đống gì xám xám. Những người bị thương, chưa kịp được mang đi thì phải
tự bò về. Súng máy địch bắn quét sau lưng họ.
U-u-u
ca-ca-va! - Đạn nổ rền như tiếng vỗ tay.
Grigori dựa vào tay Miska Kosevoi lẩn vào
trong rừng. Đạn bật nảy loạn xạ trên cái bãi thoai thoải ở ven rừng. Khẩu súng
máy hạng nặng ở sườn bên trái quân Đức vẫn bắn liên hồi. Như có bàn tay rất khỏe
ném ra một hòn đá, hòn đá ấy vừa nảy vừa kêu vang trên lớp băng mỏng manh đầu
mùa.
U u
u-u-ca-ca-ca-ca.
- Chúng nó đã dội cho anh em mình một mẻ ra
trò! - “Tóc trái đào” kêu như thích thú lắm.
Gã dựa vào cái thân màu hung hung của một
cây thông, lười nhác nổ súng vào những tên Đức chạy đi chạy lại trên các chiến
hào.
- Những thằng ngu xuẩn thì phải cho một bài
học mới mở mắt ra! Phải cho một bài học! - Miska giằng một tay khỏi tay Grigori
thở hổn hển kêu lên. - Hạng chó má! Còn tồi tệ hơn nữa là khác. Phải chờ đổ hết
máu rồi mới hiểu được vì sao chúng nó đập vào đầu mình.
- Cậu nói cái gì đấy hả? - “Tóc trái đào”
nheo mắt hỏi.
- Người thông minh thì tự nhiên tất phải hiểu,
còn kẻ ngu xuẩn... đối với kẻ ngu xuẩn thì còn cách gì nữa? Nhồi vào đầu đến mấy
cũng không hiểu được đâu.
- Cậu còn nhớ lời thề không hử? Cậu đã
tuyên thệ hay chưa? - “Tóc trái đào” hỏi vặn.
Miska không trả lời, chỉ quỳ xuống, đưa hai
bàn tay run lẩy bẩy lấy lên một vốc tuyết dưới đất, vừa ngốn lấy ngốn để vừa ho
sù sụ, người khẽ run run.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét