Sông Đông Êm Đềm
Tác giả: Mikhail Sholokhov
Dịch giả: Nguyễn Thụy Ứng
Nhà Xuất Bản Văn Học - 2005 (xuất bản lần
thứ 6)
Phần VI
2
Từng đoàn tàu sơn đỏ xuất phát từ vùng sông
Đông chạy xuyên qua Ukraina, chở về Đức bột mì, trứng, bơ, bò. Những tên lính Đức
đứng ở đầu các toa xe với những chiếc mũ nồi, những chiếc áo quân phục ngắn màu
xanh xám, lưỡi lê cắm sẵn trên đầu súng.
Những đôi ủng da màu vàng rất tốt của quân
Đức, với những cái đế đóng cá sắt, đầm phẳng những con đường của vùng sông
Đông. Bọn kỵ binh Bavaria dắt ngựa ra sông Đông uống nước... Trong khi đó ở
vùng giáp ranh với Ukraina, những gã thanh niên Cô-dắc vừa được huấn luyện ở
Pécxianovca, gần Novocherkask, bị gọi ra lính để đánh nhau với bè lũ Petliura.
Gần một nửa trung đoàn Cô-dắc sông Đông số 12 vừa được tổ chức lại đã nằm lại ở
gần Starobensk để dành giật cho Quân khu một mẩu đất thừa trên lãnh thổ
Ukraina.
Trên miền Bắc, trấn Ust-Medvedskaia luôn
luôn bị truyền từ tay nọ sang tay kia, chi đội Hồng quân Cô-dắc tràn tới từ các
thôn của các trấn Gladunovskaia, Novo-Alexandrovskaia, Kumyngienskaia
Xcurisenskaia cùng những trấn khác vừa đánh chiếm được nó thì một tiếng đồng hồ
sau họ đã bị chi đội du kích Bạch vệ của tên sĩ quan Alekseev đánh bật ra, và
trên các phố đã thấp thoáng những chiếc áo ca-pốt của bọn học sinh trung học, học
sinh trường thực nghiệp và trường thầy dòng là thành phần cốt cán của chi đội Bạch
vệ này.
Quân Cô-dắc Đông Thượng tiến dần từng chặng
về phía Bắc, từ trấn nọ qua trấn kia, Hồng quân rút lui về phía địa giới tỉnh
Saratov, bỏ lại gần toàn bộ khu Khopesky. Đến cuối mùa hạ, quân đội vùng sông
Đông, gồm những tên Cô-dắc đủ các lứa tuổi, chỉ cần cầm nổi cây súng, đã tiến tới
các địa giới. Được tổ chức lại trên đường tiến quân, được bổ sung thêm bằng những
tên sĩ quan được điều từ Novocherkask, nom nó đại khái đã có vẻ một quân đội thật
sự: các đội dân quân ít người do các trấn điều đi được biên chế hỗn hợp với
nhau; các trung đoàn chính qui cũ được khôi phục lại với những tên quan binh cũ
còn sống sót sau chiến tranh chống Đức; các trung đoàn được ghép lại thành sư
đoàn; trong các ban chỉ huy, những tên đại tá già kinh nghiệm đã thay thế bọn
thiếu úy, các cấp thủ trưởng cũng dần dần được thay đổi.
Đến cuối mùa hạ, các đơn vị chiến đấu thành
lập với các đại đội Cô-dắc của mấy trấn Migulinskaia, Meskovskaia, Kazanskaia
và Sumilinskaia, đã theo lệnh tên thiếu tướng Alferov vượt địa giới vùng sông
Đông, rồi sau khi chiếm Doneskskoie, làng đầu tiên thuộc địa phận tỉnh Voronez,
chúng bao vây huyện lỵ Bogutra.
*
* *
Đã bốn ngày liền, đại đội Cô-dắc thôn
Tatarsky dưới quyền chỉ huy của Petro Melekhov vượt qua thôn và trấn để tiến về
phía Bắc của khu Ust-Medvedisky. Ở một nơi nào đó bên phải họ, Hồng quân vội vã
rút lui ra đường sắt, không chịu nghênh chiến một lần nào. Suốt thời gian đó, bọn
Cô-dắc thôn Tatarsky không hề thấy bóng vía địch đâu cả. Các chặng hành quân
cũng không dài. Tuy không ước hẹn gì với nhau, nhưng Petro cùng các gã Cô-dắc
khác đều quyết định rằng không tội vạ gì mà vội vã đâm đầu đi tìm cái chết, vì
thế mỗi ngày họ chỉ để lại sau lưng ba chục vec-xta là cùng.
Đến ngày thứ năm thì họ tiến vào địa hạt trấn
Kumyngienskaia. Họ vượt sông Khop ở thôn Didunkov. Muỗi nhắt rùng rùng bay lơ lửng
trên đồng cỏ như một tấm màn the, tiếng vo vo rất thanh rung lên trong tai mỗi
lúc một to. Hàng triệu triệu con muỗi lúc nhúc lượn tròn một cách mù quáng,
chui cả vào tai vào mắt người và ngựa. Những con ngựa tức tối, chốc chốc lại hắt
hơi, còn bọn Cô-dắc thì vung tay loạn xạ để xua muỗi, thuốc lá nhà trồng tha hồ
đem ra mà hun khói.
- Đùa kiểu gì mà lạ, con muỗi khốn kiếp
này! - Khristonhia đưa tay áo lên chùi nước mắt kêu lên.
- Sao thế, bị nó lọt vào mắt à? - Grigori mỉm
cười hỏi.
- Đốt cả vào mắt. Chưa biết chừng muỗi độc
đấy, con quỉ dữ!
Khristonhia giương cái mí mắt đỏ rực, đưa một
ngón tay sần sùi lên sờ vào trong con mắt, rồi hắn chẩu môi, dụi mãi mu bàn tay
lên mắt.
Grigori cho ngựa đi bên cạnh Khristonhia. Từ
hôm lên đường hai người vẫn cùng đi với nhau. Nhập bọn với họ có thêm Anikey.
Thời gian gần đây anh chàng này đẫy ra, vì thế nom càng giống đàn bà.
Quân số không được đủ một đại đội. Tên quản
Latysev đến lấy vợ ở thôn Tatarsky làm đội phó cho Petro. Grigori chỉ huy một
trung đội. Những gã trong trung đội của chàng gần như toàn là dân nửa dưới
thôn: Khristonhia, Anikey, Fedot Bodovskov, Marchin Samin, Ivan Tomilin, gã
Borsev lêu đêu như cây sào và gã Dakha Korolev nặng nề phục phịch như con gấu,
Prokho Zykov, gã Merkulov nòi Digan, Epifan Marsaev, Egor Sinilin và chừng mười
lăm gã thanh niên cùng tuổi tác.
Trung đội trưởng trung đội hai là Nicolai
Kosevoi, trung đội ba do Yakov Koloveydin chỉ huy, còn trung đội bốn thì trung
đội trưởng là Mitka Korsunov. Sau vụ hành quyết Potchenkov, Mitka đã được tên
tướng Alferov đề bạt ngay lên cấp thượng sĩ.
Đại đội cho ngựa chạy một nước kiệu đặc biệt
dùng trên đồng cỏ. Con đường lượn vòng những cái đầm lầy nước, trườn xuống một
cái khe nhỏ mọc đầy lau sậy non và liễu rồi bò ngoằn ngoèo trên đồng cỏ.
Trong mấy hàng cuối, Yakov “Móng lừa” cười
khề khề bằng một giọng trầm. Andrinsca Kasulin hòa theo bằng giọng nam cao. Thằng
cha này cũng đã kiếm được cái lon hạ sĩ nhờ có máu của những người bạn chiến đấu
của Potchenkov.
Petro Melekhov cho ngựa chạy bên cạnh hàng
quân cùng với Latysev. Hai gã khẽ nói với nhau không biết những gì. Latysev nghịch
nghịch cái dây ngù mới của thanh gươm. Petro đưa tay trái ra vuốt lông và gãi
gãi khoảng giữa hai tai con ngựa. Một nụ cười nở trên khuôn mặt phúng phính của
Latysev, dưới hàng ria thưa thớt nhe ra mấy cái răng ám khói thuốc lá, nửa vàng
nửa đen, chân răng sứt nham nhở.
Con ngựa cái khoang thọt cẳng nhỏ loắt choắt
của gã Anchipnhip Apdeevich, con trai lão “Vua nói khoác” lon ton chạy sau
cùng. Gã đã được anh em Cô-dắc tặng cho cái biệt hiệu là Anchip Brekhovich,
nghĩa là “Anchip con trai lão nói khoác”.
Một gã nào đó trong đám Cô-dắc kể chuyện.
Có những gã phá rối hàng ngũ, cho ngựa leo lên đi hàng năm, những gã khác chăm
chú ngắm vùng đất xa lạ, với cánh đồng cỏ lỗ chỗ ao đầm như một bộ mặt rỗ, dãy
tiêu huyền và dương liễu mọc xanh rờn như một bức rào.
Cứ nhìn cách trang bị cũng có thể thấy rằng
đội Cô-dắc đang tiến hành một cuộc trường chinh: các túi yên đựng quá nhiều đều
phồng to, các túi thồ đầy ắp, và người nào cũng lo buộc áo ca-pôt vào đai yên.
Ngay đến các đồ thắng cũng có thể giúp cho việc nhận xét: mỗi cái dây da nhỏ đều
còn mang vết chỉ, mọi thứ đều được khâu lại, buộc lại, sửa chữa lại. Một tháng
trước đây mọi người còn tin tưởng rằng sẽ không có chiến tranh, nhưng hiện nay
ai nấy đều buồn rầu chịu đựng ý nghĩ là không sao tránh khỏi đổ máu nữa. “Hôm
nay còn giữ được cái thân xác, nhưng có lẽ ngày mai bị quạ đen rỉa thây ở nơi đồng
không mông quạnh nào”, - anh chàng nào cũng nghĩ như thế.
Mọi người đã qua thôn Krepchy. Những căn
nhà lợp lau thưa thớt thấp thoáng ở bên phải, Anikey lấy trong túi quần ra một
miếng bánh khô, cắn một nửa, những cái răng cửa nhỏ như răng chuột nhe ra đầy vẻ
háu ăn, cắn xong lại đưa quai hàm nhai rất nhanh như con thỏ.
Khristonhia liếc nhìn hắn.
- Cậu đói lắm à?
- Không đói thì ăn làm gì? Vợ mình làm cho
đấy.
- Nhưng cậu nhai khỏe thật! Có lẽ cái bụng
của cậu cũng chẳng kém gì bụng con lợn đực thiến. - Rồi hắn quay sang nhìn
Grigori và nói giọng bực bội than vãn. - Cái thằng quỉ sứ này nó ăn như thần
trùng, đến là khó coi! Không biết nó chứa chỗ nào cho hết mà tọng vào lắm thế?
Mấy hôm nay, mình chỉ nhìn nó ăn mà sờ sợ thế nào ấy. Kể ra người ngợm nó cũng
chẳng to lớn gì, thế mà ngốn ngấu quá cái thùng không đáy.
- Mình ăn của mình chứ có ăn của ai đâu, vì
thế phải ra sức mà ăn. Buổi tối vừa ăn thịt cừu, thế mà sáng hôm sau đã lại
thèm rồi. Chúng mình thì thanh bông hoa quả, thứ gì cũng có thể chén được. Hễ
đưa được lên miệng, ăn vào là đều có ích cả.
Thấy Khristonhia nhổ bãi nước bọt có vẻ bực
bội, Anikey nháy mắt với Grigori và hất hàm về phía Khristonhia, cười khà khà.
- Anh Petro Panteleev này, anh định cho nghỉ
đêm ở đâu thế? Anh xem, những con ngựa nom đã mệt lử cả rồi! - Tomilin kêu lên.
Merkulov cũng hùa theo Tomilin:
- Đến lúc dừng lại nghỉ đêm rồi đấy. Mặt trời
sắp lặn rồi.
Petro vung cái roi ngựa.
- Chúng ta sẽ nghỉ đêm ở Kliutri. Còn có thể
kéo đến Kumynga cũng chưa biết chừng.
Merkulov tủm tỉm cười sau bộ râu đen loăn
xoăn, khẽ bảo Tomilin:
- Thằng chó, nó muốn tâng công với lão
Alferov đấy! Vội vội vã vã.
Có gã đã tinh nghịch trong khi tỉa râu hộ
Merkulov, đem cắt ngắn hẳn đi, làm cho cả bộ râu xồm chỉ còn nhỏ xíu, rồi lại
xén nhọn thành hình một cái nêm xiên xẹo. Nom anh chàng lạ hẳn đi, đến là buồn
cười, nhờ đó anh em đã có một chuyện để lúc nào cũng có thể đem ra pha trò.
Tomilin không nhịn được nữa bèn nói:
- Còn cậu thì không muốn thăng quan tiến chức
đấy phỏng?
- Mình làm gì để thăng quan tiến chức?
- Chẳng phải cậu đã tỉa râu theo kiểu những
ông tướng rồi đấy sao? Có lẽ cậu nghĩ rằng cứ tỉa râu theo kiểu một ông tướng
là người ta sẽ đem ngay một sư đoàn trao cho cậu phải không? Thế mà là không muốn
gì à?
- Đồ ngu, đồ quỉ sứ! Người ta nói chuyện đứng
đắn với nó mà nó chỉ tếu.
Mọi người tiến vào thôn Kliutri giữa tiếng
cười, tiếng nói.
Andriusca Kasulin được phái đi trước để kiếm
chỗ ở đã chờ đón đại đội ở căn nhà đầu thôn.
- Trung đội tôi theo tôi! Trung đội một ở
ba cái nhà kia, trung đội hai ở bên trái, trung đội bốn ở cái nhà có cái giếng
và tiếp liền bốn cái nữa.
Petro tới bên hắn:
- Cậu có nghe thấy phong phanh gì không? Có
đi hỏi han thăm dò không?
- Vùng này không có hơi hướng gì của chúng
nó đâu. Nhưng người anh em ạ, ở đây mật ong nhiều ghê lắm. Có một mụ già nuôi tới
ba trăm tổ. Đến đêm thế nào cũng phải phá một tổ mới được!
- Thôi thôi, đừng có giở trò! Nếu không tôi
cho một trận đấy! - Petro cau mày giơ roi đánh ngựa.
Mọi người về chỗ nghỉ. Những con ngựa được
sắp xếp chăm nom. Trời đã tối. Các chủ nhà dọn bữa tối cho bọn Cô-dắc ăn. Trong
sân các ngôi nhà, bọn Cô-dắc đi lính và những gã trong thôn ngồi trên những đống
củi liễu đỏ đẵn từ năm ngoái, tán hươu tán vượn chuyện này chuyện nọ rồi chia
tay nhau đi ngủ.
Sáng hôm sau đại đội lại tiến ra khỏi thôn.
Đến khi hành quân gần tới Kumyngienskaia thì có một tên liên lạc đuổi kịp đại đội.
Petro mở cái phong bì đựng công văn, đọc rất
lâu, người ngật ngưỡng trên yên, bàn tay giơ ra cầm tờ giấy rất vất vả, cứ như
đỡ một vật gì rất nặng. Grigori cho ngựa tới gần.
- Mệnh lệnh à?
- Phải!
- Họ viết gì thế?
- Có việc đây! Họ ra lệnh bàn giao đại đội.
Tất cả những thằng ra lính cùng một năm với tao bị gọi đi Kazanskaia, họ đang
thành lập trung đoàn Hai mươi tám. Cả những thằng pháo binh và súng máy cũng thế.
- Thế số còn lại thì đi đâu?
- Đã có viết trong này đây: “Đến Argenovskaia chịu quyền chỉ huy của Trung
đoàn trưởng trung đoàn Hai mươi hai. Hỏa tốc chuyển quân”. Mày xem đấy! “Hỏa tốc”!
Latysev cho ngựa chạy tới, tiếp lấy bản mệnh
lệnh trong tay Petro. Hắn cong xếch hai hàng lông mày, vừa đọc vừa động đậy cặp
môi dầy cứng đờ.
- Tiến! - Petro hô to.
Đại đội lại đi tiếp, ngựa đi bước một. Bọn
Cô-dắc thỉnh thoảng ngoái đầu lại, chăm chú nhìn Petro, chờ xem hắn có nói gì
không.
Đến Kumyngienskaia thì Petro công bố bản mệnh
lệnh. Những tên Cô-dắc nhiều tuổi quân hối hả sửa soạn quay trở về. Mọi người
quyết định sẽ nghỉ lại trong trấn một ngày rồi sáng sớm hôm sau nữa sẽ chia tay
nhau mỗi toán đi một ngả. Petro tới chỗ Grigori ở. Suốt ngày hôm ấy, hắn đã cố
tìm kiếm một dịp nói chuyện với thằng em.
- Ta ra chỗ thao trường một lát đi.
Grigori lặng lẽ bước ra cổng. Mitka
Korsulov đã chạy theo hai anh em, nhưng Petro lạnh lùng bảo nó:
- Thôi cậu đi chỗ khác đi, Mitka. Anh em
mình có câu chuyện muốn nói với nhau.
- Cũng được thôi, - Mitka mỉm cười ra vẻ
thông cảm và đứng lại.
Grigori liếc nhìn Petro, thấy hắn có vẻ muốn
nói với mình một chuyện quan trọng. Chàng đã đoán ra ý định của anh, nhưng muốn
đánh trống lảng, bèn vờ nói bằng một giọng vui vẻ:
- Thật là kỳ quặc: mới ra khỏi nhà một trăm
vec-xta mà dân chúng đã khác hẳn. Lời ăn tiếng nói cũng khác vùng ta, nhà cửa
cũng dựng theo một kiểu khác, y như ở chỗ bọn theo giáo phái Polipon ấy. Anh
xem, bên trên cổng nhà nào cũng có một cái mái nhỏ ghép bằng ván, cứ như ở các
miếu thờ ấy. Vùng ta làm gì có như thế? Và kia nữa, - chàng chỉ một ngôi nhà
giàu có ở gần đấy, - ngay đến cái ụ đất đắp chung quanh nhà cũng có ốp ván: có
phải để cho gỗ khỏi mục hay không?
- Thôi cái chuyện ấy đi. - Petro cau mày. -
Đâu phải là mày muốn nói những chuyện ấy... Nhưng hượm đã, chúng mình vào hàng rào
đi. Người ta nhìn đấy.
Vài người dân Cô-dắc, vừa đàn ông vừa đàn
bà, đi từ chỗ thao trường tới, tò mò nhìn hai anh em. Một cụ già mặc chiếc áo
sơ-mi màu lam không thắt dây lưng đứng lại hỏi, cái mũ cát-két Cô-dắc đội trên
đầu quá cũ nên vành mũ đã bạc thành màu hồng.
- Ngày mai các bác còn nghỉ lại chứ?
- Vâng, chúng cháu muốn nghỉ lại một ngày.
- Thế đã có lúa yến mạch cho ngựa chưa?
- Cũng đã có chút ít, - Petro trả lời.
- Nếu không thì cứ tạt vào nhà tôi, tôi có
thể đong cho hai ba mê-ra.
- Lạy Chúa tôi, cám ơn cụ!
- Lạy Chúa tôi... Bác cứ lại. Nhà tôi kia,
có cái mái tôn màu xanh lá cây ấy.
- Anh muốn nói chuyện gì bây giờ? - Grigori
sốt ruột cau mày hỏi.
- Đủ mọi chuyện. - Petro mỉm một nụ cười
đau khổ như kẻ có lỗi, hắn nhay nhay món ria màu lúa mạch nhét vào một bên mép.
- Grisatca ạ, thời buổi như thế này thì anh em mình chưa biết chừng không còn
được trông thấy nhau nữa đâu...
Nụ cười thảm hại của Petro và cái tên gọi
“Grisatca” còn lại từ một thời xa xưa lắm, từ hồi còn thơ ấu, đã làm tan biến trong
nháy mắt lòng căm ghét mà không hiểu sao từ nãy Grigori cứ cảm thấy đối với
anh. Petro âu yếm nhìn thằng em, vẫn nụ cười gượng gạo trên môi. Nhưng hắn đã động
môi xóa hết nét cười, nghiêm nét mặt và nói:
- Mày xem, cái bọn chó đẻ ấy, chúng nó chia
rẽ dân chúng có ghê không! Cứ như vừa có một lưỡi cày kéo qua, đằng sau lưỡi
cày ấy là một phần đất ngả sang bên này, một phần đất ngả sang bên kia. Một cuộc
sống ma quái, thời thế đến là khủng khiếp? Người này không còn đoán được ra tâm
tư của người khác nữa... Như mày đây,- Petro bỗng lái ngoặt câu chuyện, - mày
là em ruột của tao, nhưng tao chẳng làm thế nào hiểu được mày, thật thế đấy?
Tao cảm thấy rằng mày cứ tựa như dần dần rời xa tao... Tao nói có đúng không? -
Hắn hỏi xong lại tự trả lời - Thật thế đấy. Mày cứ sục ngầu lên... Tao chỉ sợ
mày sẽ chạy sang bọn Đỏ mất thôi... Grisatca, đến bây giờ mày vẫn còn chưa tìm
được cho mình con đường đi.
- Thế anh tìm ra rồi à? - Grigori vừa hỏi vừa
nhìn vừng mặt trời đang lặn sau dòng sông Khope mà chàng không trông thấy, sau
dãy núi đá phấn, nhìn ráng chiều cháy bừng bừng và những đám mây trôi từ phía
đó lại nom như những đám bông cháy đen.
- Tìm ra rồi. Tao đã đi theo đúng luống cày
của tao. Mày sẽ không đẩy được tao ra khỏi luống cày ấy đâu! Grisatca ạ, tao sẽ
không ngả nghiêng nghiêng ngả như mày đâu.
- Thật thế ư? - Grigori cố nặn ra được một
nụ cười bực bội.
- Tao sẽ không nghiêng ngả đâu! - Petro tức
tối xoắn ngược hàng ria, hai con mắt hấp háy giờ lâu như chói nắng. - Tao thì
có bị lồng cái vòng thòng lọng vào cỗ cũng không ai lôi được sang với bọn Đỏ
đâu. Người Cô-dắc chống lại chúng nó, tao cũng chống lại chúng nó. Tao không muốn
làm trái lại, và sẽ không làm trái lại đâu! Tao không có gì phải sang với chúng
nó, tao với chúng nó không đi cùng đường!
- Thôi không nói chuyện ấy nữa. - Grigori đề
nghị, giọng mệt mỏi.
Chàng bỏ đi trước về chỗ ở của chàng, chân
cố bước thật vững vàng, hai cái vai gù gù hơi động đậy.
Về đến cổng, Petro chậm bước lại hỏi:
- Mày thử bảo cho tao biết... Nói đi,
Grisatca, mày có chạy sang với chúng nó không?
- Chưa chắc... Còn chưa biết được.
Grigori trả lời thẫn thờ và miễn cưỡng.
Petro thở dài, nhưng thôi không hỏi nữa. Hắn bỏ đi, vẻ mặt xao xuyến, nom tiều
tụy hẳn đi. Cả hắn lẫn Grigori đều đã nhìn thấy hết sức rõ rằng: những con đường
trước kia nối liền hai người nay đã mọc đầy những bụi rậm không thể nào len qua
được, các bụi rậm ấy là những điều thể nghiệm trong đời, và người này không còn
có thể đi vào trái tim của người kia nữa. Thật cứ như bên trên một cái khe có một
con đường trườn ngoằn ngoèo theo sườn dốc, con đường rất phẳng phiu vì đã có những
móng chân dê dẫm trụi hết cỏ, nhưng bỗng nhiên đến một chỗ ngoặt nào đó, con đường
ấy đâm thẳng xuống đáy khe, như bị cắt đứt và từ đấy không còn thấy có lối đi
nào nữa, những bụi ngưu bàng dựng lên như một bức tường, nom bạc bẽo với khách
như cái ngõ cụt.
...Hôm sau Petro đem một nửa đại đội quay về
Vosenskaia. Số Cô-dắc còn trẻ thì tiến về hướng Argenovskaia dưới quyền chỉ huy
của Grigori.
Từ sáng mặt trời đã thiêu đốt không thương
tiếc. Đồng cỏ sôi lên dưới một làn sương mù màu nâu. Phía sau, những nhánh núi
tím ngắt của dãy núi ven sông Khop đã chuyển thành màu xanh da trời, bãi cát trải
dài như làn nước màu vàng nghệ. Dưới những chàng kỵ sĩ ngồi trên yên, những con
ngựa đẫm mồ hôi lảo đảo đi bước một. Nắng làm cho da mặt bọn Cô-dắc xạm lại, mất
hết vẻ hồng hào. Các giá yên, bàn đạp, các bộ phận bằng kim khí trên dây hàm
thiếc đều nóng bỏng, tay không dám động vào nữa. Vào đến trong rừng cũng chẳng
cảm thấy mát mẻ chút nào, vì hơi nước ngột ngạt không tản đi đâu được, mùi nước
mưa xông lên nồng nặc.
Một nỗi buồn u uất xâm chiếm tâm hồn
Grigori. Suốt ngày chàng ngồi lắc lư trên yên với những ý nghĩ không đầu không
đũa về tương lai. Những lời Petro nói vẳng lại trong óc chàng như một chuỗi hạt
thủy tinh, làm chàng cảm thấy day dứt đau khổ. Mùi ngải cứù hắc hắc và ngây ngất
như đốt cặp môi Grigori. Con đường bị hun đến bốc khói. Đồng cỏ vàng vàng nâu
nâu nằm sóng soài dưới nắng. Những làn gió hanh mò mẫm khắp đồng cỏ, uốn rạp những
lớp cỏ rối bết, thốc lầm cát bụi.
Lúc trời sắp hoàng hôn có lớp mây mù trong
suốt che phủ mặt trời. Bầu trời bệch màu đi, xám lại. Phía Tây thấy hiện lên những
đám mây nặng chịch. Những đám mây đó đứng sừng sững, đuôi mây thõng xuống, chạm
tới đường chân trời mong manh như dệt bằng một thứ sợi mịn. Rồi gió lùa mây lừng
lững trôi tới, đầy vẻ hăm dọa, kéo lê những cái đuôi nâu nâu rất thấp như khiêu
khích, còn đỉnh đám mây thì tròn lại, trắng ra như đường.
Đội quân vượt sông Kumynga lần thứ hai, rồi
lại chui xuống cái mái tròn của một khu rừng tiêu huyền. Lá cây lăn lộn dưới những
làn gió, lật mặt trái lên, xanh xanh bạc bạc mịn như sữa, với những tiếng xào xạc
trầm trầm rất êm tai. Ở một nơi nào đó bên kia sông Khop, một trận mưa đá rơi
xuống chếch chếch từ dưới cái vạt trắng lóa của một đám mây và quất mạnh xuống
mặt đất. Một dải cầu vồng lao cái dây lưng ngũ sắc của nó bó ngang tất cả các
tia mưa.
Đội quân ngủ đêm trong một thôn nhỏ, rất hẻo
lánh. Grigori thu xếp chăm nom cho con ngựa xong, bèn ra chỗ nuôi ong. Chủ nhà
là một ông lão Cô-dắc tóc xoăn đã rất già. Ông cụ gỡ mấy con ong bám vào chòm
râu ông rồi nói với Grigori giọng lo lắng:
- Tổ ong này tôi mới mua hôm kia đấy. Mang
về đến đây thì không hiểu sao bao nhiêu ong non đều chết ráo. Bác xem, ong
chúng nó đang lôi những con chết ra đấy. - Ông lão dừng lại bên một cái tổ ong làm
bằng khúc gỗ đục rỗng, chỉ vào một cái cửa, trong đó vô số những con ong lớn
đang lôi xác những con ong non ra ngoài rồi mang đi với những tiếng vo vo trầm
trầm.
Người chủ nhà nheo cặp mắt hung hung đỏ
nhìn có vẻ tiếc rẻ và chép miệng một cách đau khổ. Người ấy cứ đi đi lại lại, vụt
cái chỗ này, vụt cái chỗ kia, hai tay đưa đi đưa lại một cách vụng về. Thân
hình ông lão thô kệch nhưng lại quá hiếu động, các cử động thì hấp tấp giật giật,
làm người khác cảm thấy bị truyền sang cho mình một tâm trạng lo lắng. Người ấy
có vẻ thừa bên cạnh cái tổ ong, trong đó tập thể khổng lồ nhưng trật tự và hòa
hợp của những con ong đang từ tốn làm một công việc khôn ngoan. Grigori nhìn
ông lão với cảm giác hơi khó chịu. Cái cảm giác ấy đã tự nhiên nẩy sinh trong
lòng chàng vì ông già Cô-dắc vai rộng này cứ bất thình lình động chân động tay
và nói bằng một giọng đã nhanh lại rin rít:
- Năm nay mật ong thu hoạch khá lắm. Bách
lý hương ra nhiều hoa, mật làm bằng nhụy bách lý hương đấy. Nuôi khung thì tốt
hơn nuôi hòm. Tôi nuôi đấy...
Grigori uống nước trà với thứ mật ong đặc sệt
như keo. Mật ong tỏa ra mùi thơm ngọt ngọt của bách lý hương, hoa chua me, và
các thứ hoa khác trên đồng cỏ. Con gái chủ nhà, một ả vợ lính vắng chồng dong dỏng
cao, đẹp gái, ra rót nước trà. Chồng của chị đã ra đi theo Hồng quân, vì thế
người chủ nhà có thái độ rất xum xoe, quỵ lụy. Ông ta không nhận thấy rằng con
gái ông cứ mím chặt cặp môi nhợt nhạt, mỏng dính, chốc chốc lại đưa nhanh mắt
nhìn Grigori qua hàng mi. Lúc ả vươn tay với lấy ấm trà, Grigori nhìn thấy một
đám lông loăn xoăn, đen như nhựa chưng dưới nách ả, và nhiều lần chàng bắt gặp
cặp mắt, cặp mắt tò mò của ả nhìn như sờ nắn mình, thậm chí còn có cảm tưởng
như lúc con mắt hai ngươi bắt gặp nhau, gò má người thiếu phụ Cô-dắc ửng lên,
và bên mép thoáng hiện một nét cười kín đáo.
- Tôi sẽ dọn giường cho ngài ở phòng trong.
- Grigori uống trà xong, ả vừa ôm gối và đệm đi qua, vừa nói với chàng, cặp mắt
thèm khát trắng trợn như muốn đốt cho chàng cháy bùng lên. Ả đập đập cái gối và
líu nhíu nói rất nhanh như không có chủ tâm gì. - Tôi xuống nằm dưới nhà kho...
Trong nhà bức quá, lại bị rệp cắn...
Vừa nghe thấy người chủ nhà bắt đầu gáy,
Grigori đã tháo ủng, chỉ đi bít tất xuống ngay nhà kho với ả. Ả tránh ra, nhường
cho chàng một chỗ bên cạnh mình trên chiếc xe bò tháo phần trước, rồi vừa kéo
cái áo choàng lông cừu đắp lên mình, vừa đưa chân cọ vào Grigori rồi lại nằm
yên. Môi ả khô cứng, nặc mùi hành và một vị tươi mát kỳ lạ. Grigori gối đầu lên
cánh tay mảnh khảnh và rám nắng của ả, hú hí với ả đến khi trời hửng. Suốt đêm ả
ghì chặt Grigori vào lòng, vuốt ve chàng không biết chán và vừa cười, vừa cắn
đùa vào môi chàng đến chảy máu, để lại trên cổ, trên ngực, trên vai chàng dấu vết
tím bầm của những cái hôn cắn da cắn thịt, của những cái răng nhỏ và nhọn như
răng thú. Sau khi gà gáy đợt ba, Grigori sắp sửa trở vào phòng trong để ngủ nốt,
nhưng ả giữ chàng lại.
- Buông ra nào, em yêu của anh, buông ra
nào, của quí của anh! - Grigori mỉm cười sau hàng ria đen chảy xệ, nhẹ nhàng
tìm cách vùng ra cố khuyên.
- Nằm lại chút nữa anh... cứ nằm lại đi!
- Nhưng người ta nhìn thấy mất! Xem kìa, trời
sắp rạng rồi!
- Không sao, mặc người ta!
- Thế còn cha em?
- Cha em biết rồi.
- Làm thế nào biết được? - Grigori ngạc
nhiên rung rung hai hàng lông mày.
- Biết hẳn đi chứ...
- Nói gì mà lạ! Làm thế nào biết được!
- Anh biết không, cha em, hôm qua cha em đã
bảo em rằng nếu ông sĩ quan gạ gẫm thì cứ nằm với người ta, van xin người ta, kẻo
lại vì thằng Gerasin hạng bét, mà bị lấy mất ngựa hoặc còn chuyện gì nữa chửa biết
chừng. Chồng em, gã Gerasin ấy, nó đi theo quân Đỏ mà...
- À à à ra vậy! - Grigori mỉm cười châm biếm,
nhưng trong thâm tâm thật ra chàng đã phật ý.
Tuy vậy ả đã đánh tan ngay cái cảm giác khó
chịu ấy. Ả âu yếm sờ vào con chuột trên cánh tay Grigori rồi rùng mình:
- Chồng em, cái gã mà em không yêu nữa ấy,
hắn chẳng được như anh đâu...
- Thế hắn làm sao? - Grigori vừa tò mò hỏi
thêm, vừa đưa cặp mắt đã tỉnh hẳn nhìn lên khoảng đỉnh trời đang nhợt nhạt dần.
- Hắn chỉ là một của vứt đi... lẻo khẻo lèo
khèo... - Ả nằm sát vào Grigori một cách tin cậy, giọng ả ấm ức như muốn khóc,
nhưng lại không có nước mắt. - Em ăn ở với hắn mà chẳng được hưởng chút ngọt
bùi nào... Về chuyện đi lại với đàn bà, hắn chẳng được tích sự gì cả...
Một tâm hồn mới gặp, ngây thơ như con nít,
đã tự cởi mở một cách đơn giản với Grigori, đơn giản như một đóa hoa xinh xinh
nở ra sau khi đã uống chán sương đêm. Điều đó làm chàng ngây ngất trong lòng, bất
giác thấy thương thương. Grigori nhắm cặp mắt mệt mỏi, âu yếm vuốt ve bộ tóc tả
tơi của người đàn bà ngẫu nhiên chung chăn gối với mình.
Ánh trăng sắp lặn rỉ xuống qua kẽ mái lau của
hàng hiên. Một vì sao sa rời bỏ bầu trời vụt rơi xuống đường chân trời, để lại
một vết lân tinh ngưng đọng trong nháy mắt trên màn trời xám như rắc tro.
Trong đầm có con vịt cái quàng quạc cất tiếng
gọi, con vịt đực âu yếm trả lời, giọng khàn khàn.
Grigori quay vào phòng trong, chàng nhẹ
nhõm cảm thấy cái thể xác vừa bị dốc cạn của mình còn rung lên một cách khoái
trá. Rồi chàng thiếp đi, trên môi còn lưu cái vị mặn mặn của cặp môi người đàn
bà. Chàng trân trọng gìn giữ trong ký ức thân hình người đàn bà Cô-dắc khao
khát vuốt ve yêu đương cùng mùi hương của cái thân hình ấy, mùi hương hỗn hợp của
mật ong làm bằng nhụy bách lý hương, của mồ hôi và hơi ấm.
Hai giờ sau bọn Cô-dắc đánh thức chàng dậy.
Prokho Zykov thắng ngựa và dắt ra cổng cho chàng. Grigori từ giã người chủ nhà,
nhìn lại một cách cứng cỏi cặp mắt âm thầm đầy vẻ thù địch của ông lão và gật đầu
chào người con gái ông cụ đang bước qua sân vào trong nhà với một nét cười luyến
tiếc và cay đắng ẩn hiện hai bên mép cặp môi mỏng nhợt nhạt.
Grigori vừa cho ngựa đi dọc theo cái ngõ, vừa
quay đầu nhìn lại. Cái ngõ ôm vòng lấy căn nhà chàng vừa nghỉ đêm như một cánh
cung. Chàng thấy người đàn bà đêm qua sưởi ấm cho chàng vẫn quay đầu nhìn theo
mình qua dãy hàng rào, một bàn tay nhỏ nhắn ngăm ngăm đưa lên che mắt. Grigori
cảm thấy một niềm nhớ tiếc nhoi nhói trong lòng mình. Chàng quay đầu lại, cố nhớ
lại nét mặt của ả, thân hình của ả, toàn bộ đáng dấp của ả, nhưng chẳng hình
dung được gì. Chàng chỉ nhìn thấy đầu người đàn bà Cô-dắc từ từ quay nhìn theo
mình. Một đóa hoa hướng dương theo dõi con đường di động xoay vòng chậm rãi của
mặt trời cũng quay đầu như thế.
*
* *
Miska Kosevoi đã bị giải từ trấn Vosenskaia
ra mặt trận như một tên phạm nhân. Nhưng khi đến trấn Fedorseevskaia, viên
ataman trấn này giữ anh lại một ngày rồi cho người áp giải trở về trấn
Vosenskaia.
- Tại sao các ông lại trả tôi trở về! -
Miska hỏi tên thư ký của trấn.
- Có nhận được chỉ thị gửi tới từ
Vosenskaia, - tên kia miễn cưỡng trả lời.
Vốn là đại biểu trong đại hội thôn, bà mẹ của
Miska đã quì sụp xuống van lạy bọn bô lão, và bọn này đã nhân danh tập thể viết
một bản kiến nghị xin cho Miska Kosevoi được chỉ định làm coi ngựa, vì anh là
người lao động duy nhất để nuôi sống cả gia đình. Miron Grigorievich thân chinh
mang bản kiến nghị lên gặp tên ataman trấn và đã xin được cho Miska.
Trong nhà công sở trấn. Miska đứng cứng người
trước mặt tên ataman. Thằng cha quát tháo một thôi một hồi rồi hạ giọng kết luận
một cách tức tối:
- Chúng ta không thể tin cậy những thằng
Bolsevich, không thể trao cho chúng việc bảo vệ sông Đông! Bây giờ cho mày về sở
chăn nuôi, làm coi ngựa, rồi sau sẽ hay. Đồ chó đẻ, đối với tao thì liệu cái thần
hồn? Tao cũng thương con mẹ mày, nếu không thì... Thôi xéo đi!
Miska đã có thể đi qua những dãy phố nóng
như rang mà không còn bị áp giải. Sợi dây đeo chiếc ca-pôt cuộn tròn trên lưng
như cắt vào vai. Sau chặng đường một trăm năm mươi vec-xta, hai chân anh đau
như dần không còn muốn tuân theo ý muốn của anh nữa. Cố gắng lắm mới lê được về
tới thôn trước khi đêm xuống. Nhưng ngay hôm sau anh đã lại phải lên đường tới
trại chăn nuôi. Mẹ anh khóc như mưa, vuốt ve anh, và anh đã ra đi mang theo
trong ký ức hình ảnh khuôn mặt già sọm của mẹ cùng những món tóc bạc mà anh nhận
thấy lần đầu trên đầu bà.
Ở phía nam trấn Karginskaia có một khoảng đồng
cỏ hoang, ngàn đời nay chưa từng có ai cày bừa trồng trọt. Khu bãi này dài hai
mươi tám vec-xta, rộng sáu vec-xta. Khoảng đất rộng hàng mấy ngàn đê-xi-a-chin
này vốn được dành cho việc chăn nuôi ngựa công của trấn, vì thế mới có cái trên
là “sở chăn nuôi”. Hàng năm cứ đến ngày lễ thánh Egor [Một ngày lễ tôn giáo của người Nga vào
tháng Sáu lịch cũ] những người coi ngựa ở Vosenskaia lại đuổi những
con ngựa giống ở các chuồng ngựa ra trại chăn nuôi. Người ta đã dùng tiền công
quỹ của trấn dựng ở giữa sở những tầu ngựa lộ thiên dùng cho mùa hạ, mỗi tầu đủ
nuôi mười tám con ngựa giống.
Cạnh đấy có ngôi nhà bằng ván ghép dùng cho
bọn chăn ngựa, giám thị và y sĩ thú y. Những người Cô-dắc ở khu du mục
Vosenskaia đem những con ngựa cái đến đấy. Khi nhận ngựa cái, viên y sĩ và bọn
giám thị kiểm tra rất kỹ để con nào cũng cao ít nhất hai ác-sin [Một ác-sin bằng
0,71m] và đủ bốn tuổi trở lên. Những con khỏe mạnh được phân thành từng
đàn, mỗi đàn bốn chục con. Mỗi con ngựa giống đưa đàn của nó ra đồng cỏ và theo
dõi rất sát những con ngựa cái trong đàn.
Miska ra đi với con ngựa cái duy nhất trong
nhà. Lúc tiễn con đi, bà mẹ kéo tạp dề lên lau nước mắt và nói:
- May ra thì con ngựa cái nhà ta lấy được
giống... Con phải trông nom nó, đừng bắt nó chạy quá mệt. Nếu có được thêm con
ngựa nữa thì may quá!
Đến giữa trưa, Miska nhìn qua làn mây mù
tràn ngập trên vùng đất trũng, thấy những cái mái tôn của đám nhà ở, dãy hàng
rào và cái mái bằng ván ép của chuồng ngựa đã xám xịt vì nắng gió. Anh thúc cho
con ngựa rảo bước. Lên đến đường sống đồi thì thấy rõ ràng các khu nhà và làn cỏ
trăng trắng như sữa đang lượn sóng phía sau. Xa xa, về đằng đông có một đàn ngựa
chạy ra cái đầm, nom như những điểm màu hạt dẻ sẫm. Bên cạnh đàn ngựa có gã coi
ngựa ngồi trên yên cho ngựa chạy nước kiệu, nom chẳng khác gì một thằng người đồ
chơi đính trên con ngựa đồ chơi.
Vào đến trong sân, Miska xuống ngựa, buộc
dây cương bên thềm, bước vào trong nhà. Anh gặp một gã chăn ngựa lùn lùn, mặt đầy
tàn hương, trong dãy hành lang rất rộng.
- Hỏi ai thế? - gã vừa nhìn soát Miska từ
chân lên đầu, vừa hỏi bằng một giọng chẳng có gì là thân thiện.
- Tôi cần gặp ông giám thị.
- Strukov ấy à? Không có nhà đâu, ra ngoài
rồi. Nhưng phó giám thị Xadanov có nhà đấy. Cửa thứ hai bên trái... Nhưng có việc
gì thế? Ở đâu đến?
- Đến chỗ các cậu làm coi ngựa đây.
- Bạ thằng nào cũng tống đến được...
Gã lầu bầu bước ra cửa, cái dây thòng lọng
vắt qua vai kéo lệt sệt trên sàn nhà. Sau khi đã mở cửa, gã coi ngựa vung roi
nói bằng một giọng đã ôn tồn hơn, nhưng vẫn không quay mặt lại:
- Người anh em ạ, công việc ở chỗ bọn mình
cực nhọc lắm đấy. Có khi hai ngày hai đêm liền không được xuống ngựa đâu.
Miska nhìn theo cái lưng gù gù không thể dướn
thẳng lên được nữa và cặp chân vòng kiềng rất cong của gã. Trong khoảng sáng của
khung cửa, mỗi nét trên cái thân hình thô xấu méo mó của gã đều nổi bật lên.
Hai chân cong ra như cái bánh xe của gã coi ngựa làm Miska cảm thấy vui vui.
“Có lẽ thằng cha này đã cưỡi bốn chục năm liền trên một cái bánh xe”, - anh
nghĩ bụng và vừa cười thầm, vừa đưa mắt tìm quả đấm cửa.
Xadanov tiếp nhận chàng coi ngựa với một vẻ
oai vệ lãnh đạm.
Chẳng mấy chốc chính viên giám thị cũng ở
đâu mò về. Viên giám thị này là một gã Cô-dắc cao lớn lực lưỡng, trước kia đã
đóng quản ở trung đoàn Atamansky, tên hắn là Aphanxi Strukov. Hắn ra lệnh ghi
Miska vào sổ được lĩnh lương ăn và quần áo xong, bèn cùng anh bước ra khoảng thềm
nhà nóng bỏng dưới ánh nắng trắng lóa:
- Mày có biết huấn luyện những con ngựa
chưa thuần không? Đã làm quen công việc này chưa?
- Việc này tôi chưa được làm bao giờ. -
Miska thành khẩn thú nhận và thấy ngay rằng khuôn mặt của tên giám thị đang đờ
đẫn dưới khí trời oi bức bỗng trở nên linh hoạt và thoáng có vẻ không vừa ý.
Hắn ưỡn hai cái xương bả vai rất khỏe, gãi
cái lưng đẫm mồ hôi rồi thần thờ nhìn vào chỗ giữa hai con mắt Miska.
- Mày có biết ném dây thòng lọng không?
- Tôi ném được.
- Thế có thương yêu ngựa không?
- Có thương yêu.
- Chúng nó cũng như con người ấy, chỉ có điều
không biết nói thôi. Mày phải thương chúng nó, - hắn ra lệnh như thế rồi vô
duyên cô cớ nổi giận đùng đùng, quát rầm lên. - Mày phải thương yêu chúng nó, nếu
không sẽ ăn cặc bò ngay!
Trong giây phút bộ mặt hắn nom như vừa lanh
lợi vừa thông minh, nhưng lập tức cái vẻ lanh lợi ấy đã biến đâu mất, và mỗi
nét mặt lại mang một lớp vỏ cứng trên đó chỉ còn thấy đần độn và lãnh đạm.
- Mày lấy vợ chưa?
- Chưa ạ!
- Đồ ngu! Lấy vợ đi có hơn không? - Tên
giám thị vui vẻ nói thêm.
Hắn nín lặng một lát như chờ đợi điều gì,
chốc chốc lại đưa mắt nhìn bộ ngực mở phanh của cánh đồng cỏ, rồi vừa ngáp dài
vừa đi vào trong nhà, Miska coi ngựa hơn một tháng mà chẳng thấy hắn hé răng một
lời nào nữa.
Trong trại chăn nuôi tất cả có năm mươi
nhăm con ngựa giống. Mỗi gã coi ngựa phải trông nom hai ba đàn. Miska được trao
cho một đàn lớn, đầu đàn là một con ngựa giống già rất khỏe tên là Bakha, ngoài
ra còn một đàn nữa nhỏ hơn, có chừng hai mươi con ngựa cái theo một con ngựa giống
tên là Banannui. Tên giám thị cho gọi Sondatov Ilia, một trong những gã coi ngựa
tháo vát và gan góc nhất, rồi ra lệnh cho gã:
- Đây là thằng coi ngựa mới Kosevoi Miska,
quê ở thôn Tatarsky. Mày chỉ cho nó hai đàn của con Banannui và con Bakha, cho
nó một cái dây thòng lọng. Nó sẽ ở cùng chỗ với chúng mày. Có gì chỉ bảo cho
nó. Thôi đi đi.
Sondatov lặng thinh hút thuốc lá rồi gật đầu
ra hiệu cho Miska:
- Ta đi thôi.
Ra đến thềm, hắn đưa mắt chỉ con ngựa cái của
Miska đang đứng rũ dưới nắng và hỏi:
- Của cậu đấy à?
- Phải, của mình.
- Có mang chưa?
- Chưa!
- Cho nó lấy giống con Bakha ấy. Ở chỗ bọn
mình chỉ có con Bakha là của trại ngựa giống Hoàng gia thôi, lai giống ăng-lê đấy,
nó hăng ra hăng! Nào, lên ngựa.
Hai người cho ngựa chạy bên nhau. Hai con
ngựa chạy vướng chân trong cỏ đến đầu gối. Khu nhà ở và các tầu ngựa đã lui lại
rất xa phía sau. Phía trước, cánh đồng cỏ nằm lặng, trang nghiêm dưới một màn
khói rất dịu màu lam. Trên đỉnh đầu, mặt trời hiện lên mệt mỏi sau một dải những
đám mây trắng như đá mắt mèo. Trời nóng quá cỏ tỏa ra một làn hương thơm đặc
quánh. Bên phải, dải đầm Girov tươi cười trải dài, trắng như ngọc trai, sau một
khoảng đất trũng mung lung sương khói. Ba bề bốn bên, tầm mắt đưa đến đâu cũng
chỉ thấy một vùng mênh mông xanh rờn dưới những làn sương mù rung rinh. Cánh đồng
cỏ nguyên thủy nằm đờ đẫn dưới khí trời oi bức của buổi giữa trưa, và ở đường
chân trời có một cái kurgan xám xám ưỡn bộ ngực mênh mông của nó, nom có vẻ
không sao đi tới được như trong thần thoại.
Cỏ rậm và xanh sẫm từ ngọn tới gốc, đầu những
lá cỏ sáng loáng lên dưới nắng như rỉ đồng. Cỏ vũ mâu chưa già mọc lờm xờm, lẫn
với những đám thường xuân loăn xoăn. Cỏ nga quan khao khát vươn những bông nặng
hạt đón ánh mặt trời. Chỗ chỗ lại có những khoảng mã tiền lùn choằn choằn bạ
đâu mọc đấy, nhưng rễ bám rất chắc.
Năm thì mười họa mới thấy mọc xen vài nhánh
thử vĩ, rồi vũ mâu lại lan tràn như nước vỡ bờ, bên trong có lẫn đủ mọi thứ
hoa: yến mạch đại, hoàng sơn giới, đại tái, trần cát, giống cỏ thô bạo, thích sống
cô độc, mọc lên ở đâu là chen lấn tất cả các thứ cỏ khác.
Hai chàng Cô-dắc lặng lẽ cho ngựa chạy,
Miska cảm thấy trong lòng thanh thản và sẵn sàng chịu đựng, một cảm giác mà anh
đã mất từ lâu. Đồng cỏ đã có sức ghìm nén anh với bầu không khí tịch mịch trang
nghiêm như một nhà hiền triết. Người bạn đường của anh thì chỉ luôn luôn ngủ gà
ngủ gật trên yên, đầu gục xuống bờm ngựa, hai bàn tay đầy tàn hương đặt trên
mũi yên như trước khi nhận chiếc bánh thánh.
Một con gà nước bay vụt lên dưới vó ngựa và
lao tới chỗ khe mát với bộ lông trắng phát ra những tia sáng dưới nắng. Một làn
gió hiu hiu thổi tới từ miền Nam, uốn rạp ngọn cỏ. Có lẽ sáng nay làn gió này
đã làm gợn sóng mặt biền Azov.
Nửa giờ sau hai người đến chỗ đàn ngựa ăn cỏ
ở gần đầm Oxinovyi. Sondatov tỉnh dậy, vươn vai trên yên và nói một cách lười
nhác:
- Đàn ngựa của lão Lomakhin Panteliuska đấy.
Nhưng không hiểu sao chẳng thấy bóng vía lão đâu cả.
- Con ngựa giống tên là gì thế? - Miska vừa
hỏi vừa trầm trồ ngắm con ngựa lông hồng nhạt, giống Donesk, có cái lưng rất
dài.
- Fraze. Nó ác lắm đấy, cái con khốn kiếp!
Xem nó giương mắt nhìn chúng ta kia kìa? Nó làm đầu đàn đến là giỏi!
Con ngựa giống rẽ sang hướng khác. Đàn ngựa
cái lốc nhốc chạy theo nó.
Miska tiếp nhận hai đàn ngựa được trao cho
anh rồi đặt hành lý của mình vào một chiếc lều dã chiến. Trước khi anh đến đây
đã có ba người sống trong cái lều này: Sondatov, Lomakhin và một người được
thuê đến coi ngựa tên là Turoverov, một gã không còn trẻ nữa, suốt ngày chẳng
nói chẳng rằng. Trong bọn, Sondatov có vẻ đứng đầu. Hắn sẵn lòng dạy cho Miska
biết các công việc phải làm và ngay hôm sau đã nói cho anh nghe về tính nết và
các thói quen của những con ngựa giống. Hắn mỉm cười hóm hỉnh, khuyên Miska:
- Theo qui định thì cậu phải làm công việc
với con ngựa của cậu đấy. Nhưng nếu quần hết ngày này sang ngày khác nó cũng mệt
đến mất xác thôi. Cậu cứ thả nó vào trong đàn, thắng yên vào một con khác,
nhưng phải thay luôn ngựa cưỡi mới được.
Rồi ngay trước mắt Miska, hắn xua một con
ngựa cái ra khỏi đàn và vừa cho ngựa phi vừa lăng cái vòng thòng lọng vào cổ
con ngựa cái, động tác rất thành thạo, rất chính xác, rồi hắn lấy bộ yên của
Miska thắng lên lưng con ngựa run như cầy sấy, hai chân sau cứ khuỵu xuống.
- Cậu cưỡi nó đi. Đúng là con quỉ sứ này
còn chưa thuần! Nhưng cưỡi lên đi chứ! - Hắn giận dữ quát lên đưa tay phải kéo
mạnh dây cương, còn tay trái bóp vào chỗ dưới cái mũi nở phồng của con ngựa. -
Đối với chúng nó cậu phải nhẹ nhàng một chút. Cậu phải làm thế nào để có thể đứng
trong tàu quát tháo một con ngựa giống: “Đứng sang một bên!”, thế là nó đứng
sát ngay vào một bên cái khung của nó, nhưng chớ có lấy chuyện ấy làm trò đùa!
Con Bakha thì đối với nó phải đặc biệt cẩn thận, chớ lại gần, nó đá đấy, - Hắn
vừa nói vừa khom người trên bàn đạp, âu yếm sờ vào cái vú thẳng căng, đen mịn
như xa-tanh của con ngựa cái đang dẫm hết chân nọ đến chân kia.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét