Thứ Năm, 4 tháng 6, 2020

Đất Dữ - Phần 4

Đất Dữ
Nguyên tác: Terras do sem fim (1943)

Tác giả: Jorge Amado
Dịch giả: Dương Tường & Hà Huy Thái
NXB Văn học - 2016

Đối Mặt Với Biển Cả

1

Người mặc áo dệt màu xanh da trời không trả lời. Hắn là một gã nhỏ bé, lùn tịt, và cái áo to tướng của gã rủ lòng thòng xuống cái quần bằng vải thô màu nâu mà những vết bẩn càng làm cho nâu thêm.
Bên ngoài, trời đêm thơ mộng. Chất thơ đó của trời đêm tràn cả vào cái quán rượu sặc mùi mỡ bò, dưới hình thức một mảng sáng trắng trải ra trên lớp đá lát đường phố, một vòm sao nhìn thấy qua những cánh cửa mở hé, và một giọng đàn bà lơi lả, than van đang hát về mối tình đã mất và chuỗi ngày trôi đi tự bao giờ. Phải, cái điệp khúc buồn man mác ấy nghe còn nao lòng hơn cả ánh trăng và những vì sao, hơn cả mùi hoa nhài tội lỗi từ trong nhà hàng xóm bay ra, hơn cả những ánh sáng từ con tàu hắt ra, có lẽ còn nao lòng hơn tất cả bấy nhiêu thứ, đối với con tim chán chường của những gã đàn ông đang ngủ gà ngủ gật trên những cái hòm gỗ hoặc đang ườn xác bên quầy rượu kia.
Gã đeo nhẫn giả nhắc lại câu hỏi mà anh chàng thấp bé mặc áo dệt màu xanh da trời chưa chịu trả lời.
- Còn mày, cái con sên già này, nói đi, mày đã bao giờ vớ được một ả đàn bà nào chưa?
Chính gã tóc vàng đã trả lời:
- Thú thật, nếu nói chuyện đàn bà thì ở bến cảng nào chả kiếm được hàng tá. Đàn bà là một thứ mà một thằng thủy thủ không cần phải nhịn bao giờ. Riêng tớ đây, tớ đã chơi hàng tá.
Gã đưa tay phác một cử chỉ, những ngón tay mở ra rồi lại cụp vào.
Ả gái điếm khạc một cái qua những chiếc răng hà rồi chằm chằm nhìn gã thủy thủ tóc vàng, vẻ đầy thiện cảm.
- Tình yêu của một anh chàng thủy thủ cũng giống như sóng biển, - ả nói. - Nó đến rồi nó lại đi, cũng như sóng biển dâng lên trút xuống... Có một anh chàng José de Santa nào đó, tôi biết anh ta lắm. Một bữa kia, anh ta ra đi chẳng nói một lời, lên một con tàu cũng chẳng phải là của anh ta nữa.
- Thật thế, - gã thủy thủ nói tiếp, - một người đi biển chẳng thể bỏ neo ở khắp chốn, kể cả vào da thịt một người đàn bà. Một ngày kia, gã ra đi, vũng tàu trống không, thế rồi một gã khác lại tới và buông neo. Cô em thân mến ạ, một người đàn bà còn phản trắc hơn là một trận cuồng phong giữa biển!
Lúc này, một ánh trăng như cố sức luồn qua cửa và rọi xuống sàn nhà bằng gỗ sần sùi. Gã đeo nhẫn giả lấy đầu mũi dao dài nhay mãi vào chiếc áo dệt màu xanh.
- Thế nào, nói đi chứ, cái con sên này, có phải đúng là mày giống như một con sên không? Các cậu này, các cậu có bao giờ thấy ai giống một con sên hơn thằng cha này không nào? Tao hỏi mày: đã bao giờ mày có một mụ đàn bà chưa?
Ả gái điếm cười phá lên và đưa tay quàng lấy cổ gã thủy thủ; cả hai cùng cười. Gã mặc áo dệt màu xanh da trời nốc hết cốc rượu rum rồi lấy ống tay áo quệt miệng.
- Các cậu không thể nào biết nổi chuyện ấy xảy ra ở đâu đâu! - Gã bắt đầu nói. - Rất xa đây, trên một bến cảng khác, ở một cái xứ to hơn xứ này nhiều lắm, chuyện xảy ra trong một quán rượu, tớ còn nhớ tên quán là “Tân thế giới”.
Gã đeo nhẫn giả đập tay xuống bàn gọi một cốc rum khác.
- Tớ biết cái ả cùng đi với nàng ta; hai cô ả đi với một thằng thanh niên. Tớ đang uống rượu với một thằng bạn, tụi mình ngồi đó kể lể cho nhau nghe mọi nỗi buồn phiền. Người ta bảo rằng làm gì có chuyện đùng một cái đã phải lòng nhau, rằng đó chỉ là chuyện dối trá thôi…
Ả gái điếm dựa đầu mình vào đầu gã thủy thủ và ghì chặt hơn nữa cánh tay lực lưỡng của gã. Cái quán rượu bẩn thỉu bỗng nhiên tràn ngập những âm thanh du dương, một giọng đàn bà hát lên:
Chàng đã đi rồi chẳng bao giờ quay lại!
Họ cùng lắng tai nghe. Gã đeo nhẫn giả uống từng hớp nhỏ từ cốc rum như uống một thứ rượu ngọt quý giá; mặt gã lộ vẻ nóng lòng chờ đợi câu chuyện của gã mặc áo dệt.
- Nhưng điều ấy không có gì là quan trọng hết! - Gã này nói và lại đưa tay áo lên chùi mép lần nữa.
- Này, anh trông mặt trăng mới to và đẹp làm sao, - ả gái điếm thở dài và sát lại gần gã thủy thủ tóc vàng hơn nữa. - Đã lâu lắm em chưa thấy mặt trăng như thế.
- Kể tiếp đi, nói cho bọn này nghe nốt đi, - gã đeo nhẫn giả nói.
- Này nhé, chuyện thế này: như tớ nói đấy, tớ đang ngồi uống tí ti với một thằng bạn. Hắn đang phàn nàn về cuộc đời mình. Hắn đang buồn và tớ cũng vậy, thì nàng đi vào! Nàng đi vào cùng với một ả nữa - nhưng quãng này tớ đã kể rồi phải không?
- Ừ, cậu đã kể với bọn mình chỗ ấy rồi, - gã thủy thủ nói, gã chăm chú nghe chuyện.
Cả lão người Tây Ban Nha chủ tiệm cũng cúi xuống để nghe. Tiếng hát người đàn bà từ bóng đêm dày huyền bí, yếu ớt vọng tới. Gã mặc áo dệt xanh phác một cử chỉ tỏ ý hoan nghênh sự quan tâm của gã thủy thủ, rồi nói tiếp:
- Này nhé, ừ, chuyện xảy ra đúng như thế. Nàng đi vào cùng một ả nữa và một gã thanh niên. Tớ có quen ả kia; chúng tớ đã cùng đi với nhau. Nhưng các cậu này, tớ xin cam đoan là thậm chí tớ hầu như không trông thấy ả, tớ chỉ trông thấy cô kia thôi.
- Cô ta có nước da nâu phải không? - Gã đeo nhẫn giả vốn ưng loại người như vậy hỏi xen vào.
- Da nâu à? Không, da nàng không nâu, với lại cũng không phải tóc vàng nữa. Nhưng nàng xinh lắm, như người ngoại quốc ấy, như người ở nước khác đến ấy.
- Tớ biết cái món ấy rồi, - gã thủy thủ vốn làm tàu biển chạy đường dài nói.
Gã mặc áo xanh da trời lại có một cử chỉ tỏ vẻ biết ơn. Ả gái điếm nép mình sát vào người bạn tình mới.
- Anh biết đủ mọi thứ chuyện nhỉ, - ả thì thầm. - Anh hãy nhìn mặt trăng kìa, nó mới to làm sao, và vàng làm sao!
- Như câu chuyện vừa nói với các bạn đấy. - Và gã mặc áo dệt vừa cắn môi vừa nhìn anh chàng thủy thủ. - Tưởng chừng như nàng vừa ở một con tàu từ một xứ xa xôi nào tới. Tớ cũng không hiểu tại sao tớ lại ngồi ngay bên cạnh nàng; có lẽ thằng bạn tớ đã bắt chuyện với ả kia; ả ta giới thiệu chúng tớ với cô bạn vì bọn mình đã bắt đầu trò chuyện. Tớ không thể kể cho các cậu biết bọn này đã nói những chuyện gì - tớ chỉ còn biết ngắm nàng thôi - vả lại nàng không nói gì cả. Nàng chỉ cười hoài, hàm răng trắng muốt, trắng hơn cả cát ở ngoài bãi biển. Thằng bạn mình cứ chuyện suốt, thổ lộ hết nỗi buồn phiền. Cô ả mình quen cũng nói chuyện, hình như ả ta tìm cách an ủi hắn, nhưng nói thật với các cậu là tớ chẳng hiểu gì cả. Còn cô gái kỳ lạ kia và gã thanh niên cùng đi với nàng không nói một câu nào cả; nàng chỉ cười thôi.
Chính gã cũng mỉm cười khi nhớ lại kỷ niệm đó, rồi gã kể tiếp:
- Một tiếng cười nhỏ mới ngắn gọn, mới trong trẻo làm sao, tớ chưa hề nghe thấy ai cười như thế bao giờ. Và cặp mắt của nàng!...
Gã ngừng nói, như thấy lại cặp mắt kia trong trí nhớ.
- Tớ không thể tả mắt nàng như thế nào.
Gã chìa hai bàn tay ra.
- Tớ thấy nàng có vẻ giống người đàn bà trong một câu chuyện thằng Astério da đen đã kể trên chiếc tàu Thụy Điển, chiếc tàu đã bị đắm ở ngoài mỏm đá ngầm Coqueiros ấy.
Gã đeo nhẫn chìa bàn chân ra ngoài ánh trăng và nhổ một cái.
- Thế còn cái thằng cha cùng đi với nàng, - gã hỏi, - có phải nó là chủ nhân chiếc thuyền nhỏ xinh xẻo ấy không?
- Tớ không biết. Nó không có thứ ấy đâu. Có vẻ như nó là bạn thân của nàng, nhưng tớ cũng không chắc lắm. Tớ chỉ biết có một điều là nàng ta cười, cười hoài và cười mãi với hàm răng trắng muốt, cười bằng cả bộ mặt trắng, cười cả bằng mắt nữa.
Gã thọc ngón tay vào túi áo vì gã đã uống hết cốc rượu, bàn tay chẳng còn biết dùng để làm gì.
- Thế rồi ra sao? - Gã đeo nhẫn nói.
- Bọn họ trả tiền và cả ba đi ra. Tớ cũng làm như bọn họ; nhưng tớ còn trở lại cái quán rượu này biết bao nhiêu lần. Một bữa kia, tớ lại gặp nàng ta. Nàng vừa ở một xứ rất xa trở về, tớ tin chắc như vậy - từ rất xa - nàng không phải là người ở đây.
- Ánh trăng mới đẹp làm sao! - Ả gái điếm nói, và gã thủy thủ nhận thấy mắt ả buồn buồn. Ả muốn nói một cái gì đấy, nhưng không tìm ra lời.
- Từ rất xa tới. Nào ai biết được? Từ bên kia biển cả, có lẽ thế chăng? Nàng tới rồi nàng lại đi. Đấy, tớ chỉ biết thế. Nàng không để ý đến tớ, nhưng cho đến hôm nay tớ vẫn nhớ tiếng nàng cười, nhớ hàm răng nàng và tất cả cái trắng ngần của nàng, và cả đến cái áo dài nàng mặc.
Gã gần như kêu lên vì vui sướng khi nhớ lại từng chi tiết một: “Cái áo dài ống tay xẻ”.
Gã uống cạn cốc rượu và bĩu môi, gã mất vui rồi. Có tiếng đàn bà, xuyên qua đêm tối thơ mộng, vọng tới lả lướt:
Chàng đã đi rồi chẳng bao giờ trở lại…
- Thế rồi sao nữa? - Gã đeo nhẫn giả hỏi.
Gã mặc áo dệt màu xanh da trời nín lặng; ả gái điếm làm sao biết được gã ta đang ngắm trăng hay đang ngắm một cái gì khác mà ả không nhìn thấy, xa hơn cả mặt trăng và những vì sao, tận bên kia bầu trời, tận bên kia cái đêm xiết bao êm ả và tĩnh mịch này. Ả cũng không hiểu tại sao ả lại muốn khóc. Nhưng nước mắt chưa kịp chảy ra, ả đã cùng gã thủy thủ tóc vàng đi ra để hưởng cái đêm sáng vằng vặc này.
Lão Tây Ban Nha vẫn khom người trên quầy, sẵn sàng lắng nghe những câu chuyện tình mà gã mặc áo dệt có thể kể lại, nhưng gã này đã trở lại cái vẻ lạnh lùng dửng dưng và cứ nhìn hoài lên cái đĩa vàng trên trời. Giữa chừng một câu chuyện về cô gái lai đen mà gã hoa chân múa tay kể lại, gã đeo nhẫn giả bỗng ngừng lại. Gã quay về phía người chủ tiệm và chỉ vào anh chàng bé nhỏ nọ mà rằng:
- Này, tôi hỏi ông có đúng không nào! Ai chả bảo hắn giống hệt một con sên?

2

Trong khi mọi người ngồi tán gẫu trên các bến tàu, thành phố Ilhéus vẫn thao thức trong một giấc ngủ bất an; nó luôn luôn bị kéo ra khỏi những cơn chợp mắt thiu thiu bởi những tin đồn liên tục từ Ferradas, Tabocas, và từ Sequeiro Grande tới. Cuộc đấu tranh giữa Horácio và anh em nhà Badaró đã bắt đầu. Hai tờ tuần báo trong thành phố chửi nhau dữ dội, mỗi tờ đều ca ngợi các thủ lĩnh của phe mình và dìm đối thủ xuống bùn. Anh nhà báo cừ khôi nhất là anh nào có thể tưởng tượng ra được những lời xỉ vả cay độc nhất. Không có gì là thiêng liêng đối với họ, kể từ đời tư hay đời sống gia đình những người dính líu vào chuyện này.
Manuel de Oliveira, chủ nhiệm tờ O Comércio, tờ báo của Badaró, đang ngồi đằng sau Juca, xem một ván poker.
Các tay chơi khác là đại tá Ferreirinha, Teodoro das Baraúnas và João Magalhães. Ferreirinha, vốn đã quen biết viên đại úy trên con tàu từ Bahia tới, đã giới thiệu y với Juca Badaró.
- Một anh chàng có học thức, - lão nói, - rất giàu, đi du lịch để mua vui, lại là đại úy về hưu và kỹ sư.
Juca lên tỉnh nhân vụ Sequeiro Grande này. Nhưng hiềm một nỗi tiến sĩ Roberto, người trắc địa chuyên môn lại đi Bahia không có ở Ilhéus, mà Juca thì đang cần mau mau cho đo đạc để đăng ký khu rừng ấy. Khi hắn được biết có một kỹ sư đang ở trong thành phố, hắn bèn nghĩ rằng vấn đề của hắn thế là ổn rồi.
- Tôi rất sung sướng được biết ông, thưa đại úy. Tôi có một việc muốn đề nghị với ông, ông có thể kiếm được khá nhiều tiền.
João Magalhães nổi máu hám lợi. Biết đâu đấy? Có lẽ dịp may y vẫn mong đợi là đây. Y đến Ilhéus là để kiếm tiền, nhưng phải rất nhiều tiền chứ không phải chỉ những món tiền có thể vơ được trên bàn poker, cho nên y tỏ vẻ hết sức lễ độ với Juca.
- Tất cả sự sung sướng là về phần tôi. Tất nhiên, thưa ngài, hình như tôi đã được biết ngài, chí ít cũng là biết mặt. Chúng ta cùng đi trên một chuyến tàu từ Bahia nhưng chưa có dịp làm quen với nhau kỹ hơn.
- Đúng thế, - Ferreirinha nói, - quả là ông có đi chuyến tàu ấy, ông Juca ạ. Có điều là ông quá bận vì một thiếu phụ trên tàu.
Nói tới đó, lão vui vẻ phát mạnh một cái vào bụng bạn, và cười.
Juca tỏ ý tiếc trước đó không có dịp đi lại với viên đại úy, rồi hắn đi ngay vào vấn đề đang làm hắn bận tâm nhất.
- Thưa đại úy, - hắn bắt đầu nói - câu chuyện như thế này: cái đồn điền của chúng tôi nằm ven một khu rừng chưa thuộc về ai cả, nhưng đáng lý ra phải thuộc về chúng tôi hơn ai khác, vì chúng tôi là những người đầu tiên đột nhập vào đó. Tôi muốn nói đến rừng Sequeiro Grande. Giờ đây, chúng tôi có ý định khai phá nó để trồng ca cao, nhưng có một tên đầu sỏ một bầy vô lại, một thằng Horácio da Silveira nào đó, muốn chiếm lấy khu rừng; thằng này moi đâu ra một bản họa đồ cũ và đã cho đăng ký theo tên nó cùng tên mấy đứa bạn của nó. Nhưng chuyện đó không đem khước gì cho bọn chúng nó đâu vì chúng tôi đã chặn được cái mưu “tiếm đoạt” ấy từ trong trứng.
- Tôi cũng đã được biết như vậy. Có một đám cháy ở Sở Trước bạ. - Đại úy João Magalhães vừa nói vừa kèm theo những cử chỉ ý nghĩa - Đó là việc làm của ngài có phải không, thưa ngài? Trong trường hợp ấy, xin có lời khen ngợi. Tôi ưa những người biết rõ điều mình muốn.
- Không, ông bạn Teodoro của tôi, chủ nhân vùng Baraúnas, đã làm việc đó; ông ta là người bạn táo bạo, rất can trường.
- Vâng, người ta có thể dễ tin điều đó.
- Cho nên chúng tôi đang tìm một kỹ sư để lập bản đồ khu rừng. Rủi thay, tiến sĩ Roberto lại đi vắng và ở đây chỉ có ông ta là có thể làm được công việc ấy. Những tên khác là một lũ nhát gan; chúng không muốn dây vào việc này. Khi được nghe nói ông là kỹ sư, tôi đã tính hỏi ý kiến ông xem ông có bằng lòng cáng đáng công việc này không. Chúng tôi sẽ trả ông sòng phẳng đâu vào đấy. Đừng có sợ Horácio trả thù. Chúng tôi bảo đảm sẽ bảo vệ cho ông.
Đại úy João Magalhães cười, vênh váo:
- Ấy, ấy, lạy Chúa, ngài lại nói đến chuyện sợ hãi với tôi sao! Ngài có thể ngờ là tôi đã tham gia bao nhiêu cuộc cách mạng rồi không, thưa đại tá? Hơn một tá đấy. Tôi chỉ có một lời duy nhất muốn nói lại là, về mặt pháp lý, không biết tôi có đủ... thẩm quyền để làm công việc giám định không. Ngài hiểu cho, tôi không phải là nhà trắc địa; tôi là sĩ quan công binh. Không hiểu tôi có quyền...
- Trước khi tới đây, - Juca nói, - tôi đã hỏi ý kiến luật sư của tôi và ông ta nói là ông có thể làm được, các sĩ quan có thể thực hành...
- Dù sao, tôi cũng chưa chắc chắn lắm. Lại còn chuyện khác nữa. Tôi đăng ký hành nghề không phải ở Bahia mà ở Rio de Janeiro kia. Sở Trước bạ sẽ không chấp nhận việc giám định của tôi đâu.
- Việc ấy không có gì quan trọng. Ta sẽ thu xếp với tay lục sự sau. Ông đừng lo.
Nhưng João Magalhães vẫn còn ngại. Y không phải là quân nhân, cũng chẳng phải là kỹ sư. Y biết chơi đủ ngón cờ bạc, với một cỗ bài, y biết đánh ăn và biết làm cho người khác tin mình; nhưng y còn có những tham vọng khác lớn hơn, y muốn làm được nhiều tiền và không phải tiếp tục lệ thuộc vào một chiếu bạc nữa, tiếp tục cái cảnh bữa nay thì lăn trên đống vàng để đến hôm sau không có một xu dính túi. Nói cho cùng, thử hỏi có gì nguy hiểm? Anh em nhà Badaró nắm ưu thế về chính trị, họ có đủ mọi triển vọng để thắng thế, và nếu họ thắng, người ta sẽ không bao giờ bàn cãi về quyền sở hữu của họ đối với khu rừng Sequeiro Grande cả. Và ngay như giả sử một ngày nào đó, người ta khám phá ra việc giám định kia là bất hợp pháp và việc đo đạc là do một thằng bịp bợm làm, thì lúc đó y đã cao chạy xa bay rồi, y đã hưởng thụ số tiền của mình ở một nơi khác trong nước rồi. Vụ này thật bõ công thử một keo! Y suy tính, mắt vẫn không rời khỏi Juca Badaró đang nóng lòng ngồi chờ trước mặt, tay cầm roi ngựa đập vào ủng.
- Sự thật, ở đây tôi là một kẻ ngoại cuộc và tôi không muốn bị mắc vào một vụ xung đột địa phương. Mặt khác tôi lại rất có cảm tình với ngài, nhất là sau vụ đốt cháy Sở Trước bạ. Những hành động dũng cảm như vậy gây một ấn tượng đối với tôi. Nói tóm lại...
- Chúng tôi sẽ trả ông thật hậu, ông đại úy ạ. Ông sẽ không phải hối tiếc đâu.
- Tôi không nói chuyện tiền. Nếu tôi làm việc này, đó chỉ là hoàn toàn do tình bạn mà thôi.
- Nhưng dù sao chúng tôi cũng muốn tỏ rõ sự trọng vọng của chúng tôi đối với ông. Công việc là công việc, ngoài cả tấm lòng biết ơn mà chúng tôi vẫn mắc nợ ông.
- Tất nhiên rồi.
- Việc này ông lấy bao nhiêu, thưa đại úy? Ta sẽ phải về đồn điền một tuần.
- Thế còn các dụng cụ? -
- Thế còn các dụng cụ? - Viên đại úy đưa ra câu hỏi để có thì giờ tính toán giá tiền. - Ngài cũng biết dụng cụ của tôi để cả Rio de Janeiro.
- Không quan trọng gì hết. Tôi sẽ hỏi vợ Roberto để mượn đồ của ông ta.
- Thế thì trong trường hợp ấy - viên đại úy vẫn suy nghĩ, - đồng ý. Tôi đến đây không phải để làm việc mà là để nghỉ. Xem nào: một tuần ở đồn điền. Như thế thì tôi đành nhỡ chuyến tàu ngày thứ tư này.
Y hạ giọng và lời y nói chỉ còn như một tiếng thì thầm.
- Chắc chắn là tôi sẽ không hoàn thành việc lấy gỗ kịp thời để làm nhà ở Rio de Janeiro. Đáng tiếc quá. Ồ, xem nào! - Y phát biểu ý nghĩ của mình với Juca đang bứt rứt chờ đợi và càng quất mạnh vào ủng hơn lúc nào hết. - Hai mươi conto đấy, tôi thấy như thế không nhiều quá đâu.
- Món tiền to đấy, - Juca Badaró nói. - Một tuần nữa, ông tiến sĩ Roberto sẽ trở về; ông ta sẽ làm việc này với giá ba conto.
João Magalhães nhăn mặt một cái, hoàn toàn tỏ vẻ dửng dưng, như muốn nói: Thế à, thế thì cứ việc mà đợi!
- Món tiền to đấy, - Juca Badaró nhắc lại.
- Thế này, ông bạn ạ: ba conto là món tiền thù lao cho người trắc địa của ngài; nhưng hắn ta lại đăng ký ở Bahia; hắn trú tại đấy, mặc dầu hắn là người ngoài thành phố; ít ra là một tuần nữa hắn mới trở về; còn như tôi thì tôi có thể bị hại đến uy tín chuyên môn, tôi có thể bị truy tố, có thể mất quyền hành nghề hoặc cả bằng cấp nữa. Vả lại như tôi đã nói với ngài, tôi đang đi nghỉ. Tôi có thể bị nhỡ tàu và có thể thiệt rất nhiều về một vụ giao dịch trị giá mấy trăm conto. Nếu như tôi nhận làm thì đó là chuyện tình nghĩa bạn bè nhiều hơn chứ không phải chuyện tiền nong trong việc này đâu.
- Tôi biết thế, đại úy ạ, nhưng dù sao đây cũng là một món tiền to. Nếu ông nhận lấy mười conto thì việc này coi như là xong; ngày mai ta sẽ lên đường sớm.
João Magalhães bèn đề nghị chia đôi số chênh lệch:
- Mười lăm conto.
- Đại úy ạ, tôi không phải dân Syria cũng chẳng phải là anh bán hàng rong*. Sở dĩ tôi trả mười conto đó là vì tôi muốn cho mau xong việc. Nếu ông muốn, ông sẽ có tiền ngay hôm nay và mai ta sẽ lên đường.
*[Ý nói: Tôi không phải là người keo bẩn, cò kè bớt một thêm hai]
João nhận thấy có tranh cãi nữa cũng không kiếm chác được gì thêm. “Thôi, được rồi. Thế là tôi nể ngài lắm đấy. Đồng ý”.
- Đại úy ạ, tôi sẽ chịu ơn ông suốt đời, tôi và anh tôi. Ông có thể tin cậy chúng tôi trong mọi trường hợp ông cần đến chúng tôi.
Trước khi từ biệt viên đại úy, hắn hỏi:
- Ông có muốn lấy tiền ngay không? Nếu ông cần thì xin đến nhà tôi.
- Lạ thật, ngài coi tôi là người thế nào vậy? Lúc nào cũng được thôi, việc gì mà vội.
- Vậy thì tối nay ta có thể gặp lại nhau.
- Ngài có chơi poker không, thưa ngài?
Ferreirinha nhiệt liệt hoan nghênh ý kiến đó.
- Ý kiến rất hay. Ta sẽ thu xếp làm một canh bạc nhỏ ở quán cà phê.
- Được lắm, - Juca nói. - Tôi sẽ mang tiền tới, và tôi sẽ được hết tiền của ông khi chơi poker, khiến ông sẽ phải đo đạc không công cho tôi.
João họa theo cái điệu bông lơn của hắn:
- Ngài muốn nói là tôi sẽ được của ngài mười conto nữa cho đủ số hai mươi conto tôi yêu cầu chứ gì? Ngài nên nhét giấy bạc cho thật đầy túi mà đến, ngài Juca Badaró ạ!
- Ta cần có một chân thứ tư nữa, - Ferreirinha nhắc.
Juca giải quyết ngay vấn đề:
- Tôi sẽ kéo Teodoro đến.
Thế là bọn họ tụ tập cả ở phía trong cùng hàng cà phê của Nhozinho và ngồi chơi poker.
Juca Badaró mỗi lúc một thích viên đại úy hơn. João Magalhães là kiểu người hắn thích: nói chuyện xuất sắc, rất từng trải về chuyện đàn bà, có nghệ thuật kể chuyện tục tĩu. Hai gã này chia nhau được bạc; Ferreirinha và Teodoro đều thua rất to. Tiền đặt cược rất cao, cao đến nỗi Manuel de Oliveira phải ra phòng khiêu vũ tìm Astrogildo, cũng là một tay điền chủ, để hắn ta trông thấy những món tiền đặt kếch xù ấy. Cả hai đứng xem.
- Tôi theo một trăm sáu mươi của anh và tố thêm ba trăm hai mươi nữa - Teodoro nói.
- Ông ta đã thua mất hơn hai conto rồi đấy. - Manuel de Oliveira nói nhỏ với Astrogildo. - Tôi chưa hề thấy như thế này bao giờ.
Juca Badaró ra tiền để xem bài. Teodoro có những con chín trên tay, Juca có những con mười.
- Không may rồi, anh bạn ạ, - và Juca vơ lấy những thẻ bạc.
Lúc đó Nhozinho bước vào, cúi rạp người chào, chân ngoáy tròn, miệng pha trò và tay bưng một khay rượu whiskey. Manuel de Oliveira cầm lấy một cốc. Gã lượn quanh quẩn các phòng bạc chính là để kiếm những món bở như thế này: một cốc whiskey, một suất ăn nhỏ bữa tối và dăm thẻ bạc thất lạc nhặt được ở chỗ đánh bài baccarat và ở chỗ cò quay.
- Ngon lắm, cái thứ whiskey này, - gã nói.
Viên đại úy tặc lưỡi:
- Ngon hơn cả thứ rượu người ta bán cho tôi ở Rio de Janeiro, bán lậu thuế ông ạ - thật là rượu tiên.
Teodoro yêu cầu im lặng. Mọi người thường bảo hắn là anh thua bạc thì xấu tính, điều đó thật là tai hại, vì nỗi hắn rất hám ăn may với đủ loại cờ bạc, người ta còn nói thêm rằng lẽ ra hắn có thể làm giàu được, nếu như gã không có cái tật xấu ấy. Những ngày được bạc, gã mời tất cả phòng uống rượu, tiêu văng mạng cho gái, thết những bữa ăn đêm ở quán cà phê, nhưng khi thua, hắn khó tính không ai chịu nổi, và chửi cả người bạn thân nhất.
- Đã chơi poker thì đừng nói chuyện, - hắn phản kháng như vậy.
Ferreirinha chia bài, và ai nấy đều đánh theo. Manuel de Oliveira ngồi sau Juca Badaró chậm rãi nhấm nháp cốc whiskey, gã cũng chẳng thiết theo dõi canh bạc nữa, bao nhiêu tâm trí trút cả vào cốc rượu. Astrogildo, trái lại, đứng đằng sau Teodoro, theo dõi thật kỹ những con bài. Cứ nhìn vào mặt gã lộ rõ vẻ bất như ý, João Magalhães có thể biết đích xác được bài trên tay Teodoro ra sao. Teodoro rút hai cây, và mặt Astrogildo tỏ vẻ chán chường. Với bài có trên tay, João đánh theo mặc dầu y chỉ có một đôi. Teodoro bèn xòe bài lên mặt bàn.
- Cứ mỗi lần mình định tháu cáy thì cơ sự lại ra thế này đây!
Mọi người ném bài xuống và João vơ tất cả số tiền đặt.
Nhozinho lại xuất hiện, hỏi xem có ai cần dùng gì nửa không.
- Cút đi, - Teodoro nói.
Ván nào hắn cũng đắt và cứ thua hoài. Cuối cùng, khi viên đại tá gạt một đôi xì ra để rút lấy một bộ năm con đồng hoa thì Astrogildo không thể nín được nữa.
- Ông cứ chơi mãi như thế này, - hắn nói, - thì chỉ có mà thua thôi. Không phải chơi poker nữa; mà là vứt tiền qua cửa sổ... bỏ đi một...
Teodoro nhảy chồm ra khỏi ghế, hắn muốn đánh nhau.
- Đừng nhúng vào việc của người khác, đồ khốn nạn! Tiền của tao hay tiền của mày? Tại sao mày lại không lo đến những việc của mày?
- Chính mày là đồ khốn nạn ấy! - Và Astrogildo rút súng lục ra định bắn, Juca Badaró và Ferreirinha vội chạy xổ vào để can hai người. João Magalhães cố hết sức làm ra vẻ bình tĩnh và không lộ vẻ sợ hãi. Manuel de Oliveira ngồi yên trên ghế không động đậy, vẫn tiếp tục nhấm nháp cốc whiskey với một vẻ thản nhiên, thậm chí gã còn lợi dụng lúc xô xát để rót vào cốc mình một nửa cốc của Ferreirinha chưa đụng tới. Khi Astrogildo và Teodoro đã bị tước mất súng rồi, Juca Badaró bèn tìm cách dàn hòa đôi bên.
- Sao lại điên rồ thế? - Hắn nói. - Hai người bạn mà lại định đánh lộn nhau như vậy. Các anh hãy dành đạn cho Horácio và bè lũ của nó.
Teodoro ngồi xuống, mồm vẫn còn làu bàu chửi rủa cái bọn “thộn” cứ đứng sừng sững mà nhìn người ta đánh bạc. Bọn này làm cho hắn đen rấp, hắn nói vậy. Astrogildo, mặt hơi tái, cũng ngồi xuống nhưng lần này hắn ngồi bên cạnh João Magalhães.
Họ chơi dăm ván nữa, rồi Ferreirinha bàn nên đi nhảy một chút ở phòng trước mặt. Khi tính thẻ bạc, người ta thấy João Magalhães được ba conto và Juca Badaró được một conto rưỡi. Trước khi rời khỏi căn phòng, Juca còn can Teodoro và Astrogildo một lần nữa.
- Thế là đủ rồi nhé. Cái trò cờ bạc, các cậu biết đấy... Người ta dễ cáu...
- Nhưng anh ta lại chửi tôi, - Astrogildo nói. Teodoro chìa tay ra; hắn bắt tay bạn. Rồi cả bọn đi sang phòng trước mặt, nhưng Teodoro không ở lại lâu; hắn lấy cớ nhức đầu rồi đi về.
- Thằng cha này rồi có ngày đến bị giết chết, - Ferreirinha nhận xét, - nếu hắn cứ xử sự theo lối này. Nó sẽ ăn đạn trước khi biết có chuyện gì xảy ra.
Juca bào chữa cho bạn:
- Nó có thói xấu thật, nhưng nó là một thằng tốt.
Phòng cà phê nhộn nhịp. Một ông già da đen đánh một chiếc dương cầm còn cũ hơn cả tuổi tác ông ta trong khi một gã tóc vàng đang cố hết sức kéo một cây vĩ cầm.
- Dàn nhạc ba bị! - Ferreirinha nói.
- Tởm, - Manuel de Oliveira công nhận.
Từng cặp ôm chặt lấy nhau nhảy một điệu waltz; những người đàn bà thuộc nhiều lứa tuổi ngồi rải rác khắp các bàn. Phần đông khách hàng uống bia, nhưng đây đó, có bọn uống whiskey và rượu mạnh. Nhozinho đến hầu rượu họ, vì Juca vốn ghét hai anh bồi bàn về cái tật đồng tính luyến ái thành thử chủ nhân phải thân đến phục vụ. Vì Juca Badaró có thói quen ăn tiêu rộng rãi, Nhozinho tỏ ra hết sức kính cẩn, ra sức phục vụ thật chu đáo. Ferreirinha đã rời khỏi bàn ra nhảy với một cô còn non choẹt, xem chừng chưa đến mười lăm tuổi. Chắc là cô ta mới làm đĩ chưa được bao lâu, và Ferreirinha vốn mê những “con bé” “tươi mát và dịu dàng xiết bao” ấy, theo lời hắn nói với João Magalhães; một thiếu phụ không còn trẻ nữa đến ngồi cạnh Manuel de Oliveira.
- Anh trả tiền cho em một cốc nhé, anh Manuel? - Ả chỉ cốc whiskey hỏi. Manuel nhìn Juca và khi thấy Juca Badaró gật đầu đồng ý, hắn bèn gọi Nhozinho.
- Một cốc whiskey cho bà này và nhanh lên, - hắn nói giọng hách dịch.
Dàn nhạc đã ngừng chơi, và Ferreirinha trở về bàn, bắt đầu kể lại câu chuyện đã xảy ra với hắn xưa kia:
- Ông thấy đó, ông đại úy, trong vùng chúng tôi, phải biết mỗi thứ một tí, là kỹ sư, thế mà giờ ông phải làm công việc một người trắc địa. Còn như tôi, chỉ trần là một thằng chủ trại dốt nát, tôi đã từng đóng vai một nhà phẫu thuật đấy.
- Phẫu thuật à?
- Phải, phẫu thuật. Có một tên thợ trong đồn điền tôi nuốt phải một cái xương thỏ, xương chui vào nằm trong ruột thằng cha đáng thương ấy, và nó sắp chết (thậm chí nó không ỉa đái được nữa kia). Không có thì giờ cử người ra tỉnh tìm thầy thuốc, chỉ còn cách là chính tôi phải mổ cho nó.
- Nhưng ông xoay xở ra làm sao?
- Tôi lấy một thứ dụng cụ bằng mẩu dây thép dài và nặng, ở đầu dây, tôi uốn một cái móc. Tất nhiên là thoạt đầu tôi đem rửa cái đó bằng cồn. Thế rồi tôi lật sấp thằng cha khốn nạn ấy xuống và thọc cái dây thép vào bụng nó. Công việc trót lọt. Chảy nhiều máu lắm và cái xương cũng ra theo; và đến nay nó vẫn sống và khỏe mạnh.
- Cừ đấy chứ, hở?
- Ồ, tôi xin cam đoan với ông, tay Ferreirinha này...
- Nhưng đại úy ạ, điều đáng sợ là chuyện đó đã làm tôi nổi tiếng. Có những người đi hàng dặm đường đến xin tôi chữa bệnh. Nếu tôi muốn mở một phòng khám bệnh thì tôi đã làm phá sản vô khối bác sĩ giỏi rồi đấy.
Hắn cười; những tay khác cũng cười theo.
- Đúng đấy, - Juca Badaró nói, - sống ở đây thì phải biết làm đủ mọi thứ. Ông sẽ thấy những thằng tiều phu ở đường trong có thể lên lớp cho một luật gia được kia đấy, đại úy ạ.
- Không còn nghi ngờ gì nữa, thật là một xứ rất có tương lai, - João nói, đầy vẻ thán phục.
Manuel de Oliveira hẹn hò với ả gái điếm nhưng Juca chỉ để mắt tới Margot đang ngồi ở một bàn cùng với Virgílio. Astrogildo đưa mắt liếc theo hướng nhìn của bạn; hắn tưởng Juca nhìn viên thầy kiện.
- Thằng Virgílio đấy, chính nó đã đăng ký tờ chứng thư “tiếm đoạt”.
- Phải, tôi biết, tôi có biết nó.
João liếc mắt về phía Margot và gật đầu chào.
- Ông quen cô ta à, đại úy?
- Quen quá đi ấy chứ! Cô ta bao giờ chả đi cùng với một cô em kháu khỉnh của tôi ở Bahia tên là Violeta. Cô ta ở với Virgílio như thế là hai năm rồi đấy.
- Cô ta xinh nhỉ? - Juca nói, và João lập tức thấy rằng Juca thích Margot. Cứ nhìn mắt hắn, nghe giọng nói của hắn, y cũng đoán ra được điều ấy. Viên đại úy tự hỏi không biết y có thể kiếm chác được gì ở đấy không.
- Một cô gái dễ thương, bạn rất thân của tôi. - Juca quay lại nhìn y trong khi y vẫn thủng thẳng nói tiếp - Cô ta ở khách sạn Machadão. Ngày mai, lúc nào cô ta ở nhà một mình, tôi sẽ ghé qua thăm. Tôi không thích đến đấy khi tay trạng sư có nhà vì hắn hay ghen. Thật là một cô gái trung thực, rất dịu dàng.
- Nhưng ngày mai thì ông không đến được, đại úy ạ. Mai ta sẽ về đồn điền từ sớm, đi chuyến tàu tám giờ.
- Ừ nhỉ! Nếu vậy thì để đến khi về vậy.
- Một cô gái cừ khôi đấy, - Astrogildo bình luận.
Ở bàn bên, Margot và Virgílio đang chuyện trò sôi nổi.
- Họ cãi nhau, - Juca nói.
- Họ cãi nhau, - Juca nói.
- Họ chỉ có mỗi việc ấy thôi, - người đàn bà luống tuổi ngồi cùng Manuel de Oliveira nói.
- Làm sao nhà chị biết được?
- Machadão bảo tôi thế. Chuyện ấy đã tai tiếng ầm cả lên mà.
Họ gọi một chầu whiskey nữa. Dàn nhạc lại tiếp tục chơi, và Margot cùng Virgílio tiến ra; nhưng họ không nói năng gì trong lúc nhảy. Đang giữa bài nhạc, nàng hất tay Virgílio xuống và quay về ghế ngồi. Gã đứng yên một lát không biết làm gì, rồi gọi người hầu bàn, trả tiền, cầm lấy mũ và bỏ đi.
- Quả là họ cãi nhau thật, - Juca nói.
- Lần này có vẻ nghiêm trọng đây, - người đàn bà nói.
Lúc này, Margot đang nhìn căn phòng, làm ra bộ thản nhiên. Juca cúi xuống thì thầm với João Magalhães:
- Ông có thể giúp tôi một việc không, đại úy?
- Nhất định chứ!
- Ông hãy giới thiệu tôi đi.
João Magalhães nhìn viên chủ đồn điền, vẻ vô cùng thích thú. Y đặt nhiều kế hoạch. Y sẽ giàu khi rời khỏi xứ này.

3

Trong đêm tràn ngập ánh trăng và thơ mộng, Virgílio bước lan dọc theo con đường sắt. Tim gã đập tưởng như sắp vỡ ra, nhưng tuyệt nhiên không phải vì gã nhớ tới cuộc cãi lộn gay gắt với Margot ở quán cà phê. Nếu như có lúc nào nghĩ tới chuyện ấy, gã chỉ lạnh lùng nhún vai. Tốt hơn hết là chấm dứt như vậy cho xong, một lần dứt khoát.
Gã đã định tiễn nàng về nhà, nói với nàng rằng gã có một cuộc hẹn bàn công việc có thể giữ gã ở lại rất khuya, và như thế đêm nay gã không thể về với nàng được. Margot, vốn đã ngờ vực, bực bội, không muốn nhận những lời xin lỗi của gã: hoặc là gã phải đưa nàng về nhà, hoặc là nàng sẽ ở lại quán cà phê, và mọi chuyện giữa hai người như thế là hết.
Không rõ đích xác để làm gì, gã cứ cố thuyết phục nàng rằng thật quả gã có một cuộc hẹn và nàng nên về nhà nghỉ. Nàng từ chối; rút cục họ cãi nhau và gã bỏ đi chẳng chào hỏi gì hết. Giờ đây, có lẽ nàng đang ngồi ở bàn Juca Badaró, ngồi cùng với tay đối thủ mà nàng đã đem ra dọa gã.
Gã cần gì kia chứ? Cô ta đi với thằng khác lại càng tốt. Thật ra, đó là cách giải quyết tốt nhất. Gã mỉm cười nghĩ vậy.
Thời thế đã thay đổi biết bao nhiêu! Một năm trước đây chỉ mới nghĩ đến chuyện Margot gắn bó với một người khác là gã đã rất có thể mất bình tĩnh và làm điều càn rỡ. Có một lần, tại quán “Nhà Mỹ” ở Bahia, gã đã gây chuyện tai tiếng, đánh nhau và cuối cùng phải vào nằm ở bót cảnh sát, chỉ vì một gã trai trẻ nào đó đã buông lời nhận xét xúc phạm đến Margot.
Và bây giờ gã cảm thấy thật sự nhẹ người khi biết Juca Badaró mê nàng, thèm muốn xác thịt của nàng! Virgílio mỉm cười khi nhớ tới điều đó. Juca có nhiều lý do xác đáng để ghét gã, người biện sư của Horácio; thế mà nó đã vô tình giúp Virgílio một việc lớn mà nó không hay.
Nhưng trong khi men theo dọc đường xe lửa, cố bước cho ăn khớp giữa các thanh tà vẹt, Virgílio không hề nghĩ tới Margot. Đêm nay, mắt gã như uống lấy cảnh đẹp của thế gian: mặt trăng tròn vành vạnh nghiêng mình xuống trái đất, bầu trời chi chít sao trên thành phố, tiếng dế kêu trong những bụi cây xung quanh. Một chuyến tàu chở hàng kéo còi ở xa xa, gã rời khỏi đường sắt. Gã lần đi sau một dãy nhà có những khu vườn lớn im lặng. Một cặp tình nhân đứng ở một khung cửa. Gã rảo bước để khỏi lộ mặt. Ở một lối cửa ra vào khác, xa hơn, Ester đang chờ gã.
Tòa nhà Horácio vừa xây dựng xong ở Ilhéus, cái “lâu đài” như mọi người thường gọi, nằm trong thành phố mới, đột ngột xuất hiện giữa những đám ruộng cách đây ít lâu còn trồng đầy ca cao.
Mặt sau của tất cả những nhà này đều trông ra đường sắt. Một công ty đã được thành lập để mua khu đất này rồi, sau khi đã đốn cây, đem chia ra bán thành từng lô một.
Chính tại nơi đấy, sau khi cưới vợ, Horácio đã dựng tòa nhà ở thành phố của lão, một trong những tòa nhà đẹp nhất ở Ilhéus, xây bằng thứ gạch nung đặc biệt tại lò riêng của lão ở đồn điền; đồ đạc và màn, rèm đều mua từ Rio de Janeiro về. Đằng sau tòa nhà đó, Ester đang đợi gã, người run lên vì sợ, lòng tràn ngập nỗi khắc khoải yêu đương.
Virgílio rảo bước. Gã đến chậm vì mắc cãi lộn với Margot. Chuyến tàu chở hàng chạy qua, đèn ở đầu tàu chiếu sáng cảnh vật. Gã dừng lại đợi tàu vượt qua, rồi tiếp tục đi dọc theo những thanh tà vẹt.
Gã phải vất vả lắm mới dỗ được Ester đợi gã ở ngoài cổng để hai người yên ổn trò chuyện với nhau. Ả sợ bọn đầy tớ, sợ những tiếng thị phi ở Ilhéus, hoặc giả là một ngày nào đó, Horácio biết chuyện. Cho đến nay chuyện dan díu của họ chưa vượt quá một sự mê say rất dè dặt chỉ giới hạn trong những lời thầm thì vội vã, một bức thư dài và nồng nhiệt của gã, một mảnh giấy trả lời của ả vẻn vẹn có hai, ba chữ: “Em yêu anh, nhưng mà không thể được”, những bàn tay xiết chặt nơi cửa ra vào, những cái nhìn đầy dục vọng. Tất cả những cái đó đối với họ có vẻ chẳng nghĩa lý gì, họ không hề nghĩ rằng cả cái thành phố này, dù nhỏ bé, cũng đã bàn tán về họ, coi họ là đôi tình nhân và chế giễu Horácio.
Sau lần trao đổi thư từ, khi Horácio quay về đồn điền, Virgílio đã đến thăm Ester. Thật ra dám coi thường uy lực của những chuyện thị phi như vậy, quả là một hành động rồ dại. Ester đã nói với gã như vậy, và van gã hãy đi đi, và, để gã bằng lòng ra về, đã hứa sẽ gặp gã đêm sau, tại hàng rào sắt ngoài vườn. Gã định ôm hôn ả, nhưng ả đã chạy trốn.
Trái tim chộn rộn của Virgílio có cái hăng hái sầu tư của một gã si tình măng sữa, trong khi với tất cả nhiệt tình của tuổi thanh xuân, gã để cho cái huyền diệu của ban đêm thấm vào lòng một cách thèm khát.
Hàng rào sắt phía sau nhà Horácio đã hiện ra. Virgílio run lên, hết sức xúc động, khi tiến lại gần. Cửa hé, gã lấy tay đẩy, mở rộng ra. Dưới một gốc cây, Ester đứng đợi, mình khoác áo choàng, toàn thân tràn ngập ánh trăng.
Gã chạy lại, nắm lấy tay ả: “Em yêu dấu”. Người đàn bà trẻ rùng mình dưới vòng tay xiết chặt; những lời nói yêu đương đều là thừa dưới ánh trăng.
- Anh muốn đưa em đi xa đây, rất xa, xa tất cả mọi người để chúng ta cùng làm lại cuộc đời mới.
Ả khóc khe khẽ, đầu ngả vào ngực gã. Tóc ả tỏa ra một mùi thơm làm trọn vẹn thêm vẻ đẹp và huyền bí của trời đêm. Tiếng rì rào của biển, theo gió đưa về, đến hòa vào những giọt nước mắt của ả: “Em yêu dấu”.
- Không được đâu, anh Virgílio ạ. Em phải nghĩ đến con em. Chúng ta không thể làm thế được đâu.
- Chúng ta sẽ đem con đi cùng. Chúng ta sẽ đi xa, đến một nước khác, không có ai biết chúng ta cả.
- Horácio sẽ đuổi chúng ta, lão sẽ đuổi theo chúng ta đến cùng trời cuối đất.
Nhưng trong yêu đương, những cái hôn say đắm vẫn tỏ ra có sức thuyết phục hơn lời lẽ, và vầng trăng của những kẻ yêu nhau đang nghiêng xuống nhìn họ. Những ngôi sao mọc lên trên bầu trời Ilhéus, và Ester không khỏi nghĩ đến bà xơ Angelica. Cái thời ả còn có thể mơ mộng được trở lại rồi; mơ ước đã biến thành hiện thực. Ả nhắm mắt lại khi cảm thấy bàn tay của Virgílio vuốt nhẹ tấm thân trần của mình dưới lần áo khoác. Đêm là ánh trăng, chăn là sao trời, những tiếng rên rỉ và những tiếng thở dài tột độ của ái ân.
- Em sẽ đi theo anh, anh yêu dấu, tới bất cứ nơi nào anh muốn. - Và ả cảm thấy mình như chết dần trong tay tình nhân. - Cho đến chết.

4

Đại úy João Magalhães, từ bàn mình gửi một nụ cười tới Margot, và Margot mỉm cười đáp lại. Y đứng lên đi lại phía nàng và cầm lấy tay nàng:
- Cô đơn và sầu não ư?
- Thế đấy...
- Cãi nhau à?
- Mọi chuyện thế là chấm dứt rồi.
- Thật không? Hay vẫn như mọi khi thôi?
- Không, lần này thì thật là dứt khoát hẳn. Tôi không phải thứ đàn bà để người ta đối xử như vậy được.
João Magalhães làm ra bộ bí mật:
- Thế thì Margot này, tôi phải nói với cô một điều, với tư cách là bạn thân. Tôi có một tin mừng cho cô. Ở đây hiện có một người, tiền bạc nhiều đến nỗi không biết dùng làm gì, đang chết mệt vì cô. Bây giờ...
- Juca Badaró chứ gì, - nàng ngắt lời.
Y gật đầu:
- Hắn ta cay lắm rồi...
Margot chán không muốn nghe y nói tiếp:
- Tôi biết rồi. Trên chuyến tàu đi tới đây, hắn đã bám riết tôi. Có điều là lúc bấy giờ tôi mải theo Virgílio.
- Thế bây giờ?
Margot bật cười: “Bây giờ lại là chuyện khác. Ai mà biết được?”. Viên đại úy bèn quyết định khuyên nàng một lời như tình cha con: “Rồ dại như thế là đủ rồi, cô em thân mến ạ, trong khi cô đang còn trẻ, hãy nhét vào trong bít tất len tất cả tiền nong cô kiếm được. Chọn một thằng nghèo làm nhân tình, chỉ những mụ có chồng giàu làm như thế là tốt thôi”. Nàng nghe đã xuôi xuôi: “Quả là tôi dại thật, ở Bahia, tôi có, chao ôi! Không thể nói với anh được là đã có bao nhiêu người theo đuổi tôi, - nàng xòe ngón tay làm điệu bộ - Anh biết là thế đấy”. Viên đại úy nghiêng mình. “Thế mà tôi cứ ở đấy, như một con mụ già bám lấy Virgílio. Thằng cha ấy hắn bỏ mặc tôi ở giữa rừng, mòn đời vá bít tất cho hắn ở Tabocas. Nhưng thôi thế là xong, tôi ngán lắm rồi”.
- Cô có muốn để tôi giới thiệu với Juca Badaró không?
- Hắn nhờ anh à?
- Hắn đang muốn được gặp cô đến chết đi được ấy. - Y quay người lại trên ghế và ra hiệu; Juca cài lại cúc áo, đứng dậy và đi về phía họ, nụ cười nở trên môi. Khi hắn rời khỏi bàn, Astrogildo nhận định với Manuel de Oliveira và Ferreirinha:
- Chuyện này cuối cùng rồi sẽ đưa đến chỗ xô xát thôi!
- Mọi chuyện ở Ilhéus cuối cùng đều đưa đến chỗ xô xát, - anh chàng nhà báo đáp.
João sắp sửa giới thiệu hai người với nhau, nhưng Margot không để cho y kịp nói:
- Chúng tôi đã biết nhau rồi. Bữa nọ, ông đại tá đã cấu tôi một cái, và còn để lại một vết tím bầm đấy.
Juca cười với mọi người.
- Thế là cô trốn biệt và tôi không gặp lại cô nữa. Tôi hay tin là cô đi Tabocas; tôi tới đó nhưng không thấy cô đâu. Người ta nói với tôi là cô đã có chồng, và vì vậy tôi kính trọng...
- Họ ly dị nhau rồi. - João Magalhães báo tin.
- Cãi nhau à?
Margot không muốn giảng giải nhiều.
- Anh ta bỏ tôi lại để đến một cuộc hẹn bàn công việc, - nàng nói, - nhưng tôi không phải là hạng đàn bà để người ta có thể bỏ mặc vì bận công việc.
Juca Badaró lại cười một lần nữa:
- Cả thành phố Ilhéus đều biết đó là công việc gì rồi.
- Ông muốn nói gì kia? - Margot hỏi, vẻ bực tức.
Juca không giữ được miệng.
- Vợ Horácio, Dona Ester. Ông thầy kiện bé con ấy có một chuyện tâm tình với cô nàng.
Margot cắn môi. Im lặng một lát và viên đại úy nhân đó rút về bàn kia.
- Thật vậy ư?
- Tôi không phải là người nói dối.
Nàng cười một hồi lâu:
- Ông có mời tôi uống chút gì không? - Nàng hỏi, giọng gượng gạo. Juca bèn gọi Nhozinho lại.
- Cô còn nhớ không, - hắn nói với Margot trong khi người ta rót rượu vào cốc. - Tôi đã đưa ra một đề nghị ở trên tàu với cô, khi tới đây.
- Có, tôi có nhớ.
- Thế này nhé, tôi nhắc lại đề nghị đó. Tôi để cô sống ở một ngôi nhà và cho cô tất cả những gì cô ao ước. Nhưng xin cô nhớ cho rằng một người đàn bà nào đã thuộc về tôi thì không thể thuộc về ai khác được nữa.
Nàng nhìn chiếc nhẫn ở ngón tay hắn.
- Nhẫn đẹp quá!
Juca Badaró rút nhẫn ra và đeo vào ngón tay Margot:
- Của cô đấy.
Đến lúc trời rạng đông, khi họ ra về cùng Manuel de Oliveira, thì cả hai đều say mềm, gã này khi vừa thoáng nhìn thấy những cốc sâm banh đã đến ngồi vào bàn của họ, và uống nhiều hơn cả hai người cộng lại. Trời trở lạnh vào lúc tinh mơ trên những chuyến tàu Ilhéus, nhưng Margot vẫn hát và gã nhà báo hát theo đoạn điệp khúc. Còn Juca Badaró thì đang vội vì hắn cần đi chuyến tàu tám giờ. Dân chài đã quay về với mẻ cá đánh được từ ngoài khơi.

5

Có một quyết định của thành phố cấm những đoàn lừa chở ca cao đi vào trung tâm thành phố. Những đường phố chính của Ilhéus đều lát đá hết và có hai đường lát gạch, đó là dấu hiệu tiến bộ mà dân phố rất lấy làm hãnh diện. Vì vậy các đoàn lừa phải dừng lại ở các phố quanh ga và người ta tải ca cao vào thành phố trên những xe do ngựa kéo để chất vào những kho rộng gần cảng.
Tuy nhiên, chỉ có một phần nhỏ số thu hoạch mang đến Ilhéus để xuất cảng là tải bằng lừa thôi; phần lớn được chở bằng tàu hỏa hay bằng sà lan ở Banco da Vitória trên sông Cachoeira đổ ra biển ở quãng đó.
Cảng là mối quan tâm lớn của dân thành phố. Lúc bây giờ chỉ có một cái bến có thể cho tàu cắm neo, và khi có nhiều tàu cập bến trong một ngày, thì phải dùng thuyền để dỡ hàng. Một công ty được lập ra để sửa sang và khai thác bến cảng, và người ta thường bàn đến chuyện phải xây nhiều bến khác và nhiều kho chứa hàng lớn, cũng như phải nạo vét cửa cảng vì chỗ này nông quá có thể xảy ra nguy hiểm.
Ilhéus mọc trên một cụm đảo và nằm trên một mũi đất, giữa hai quả đồi gọi là Unhão và Conquista, nó còn lấn sang cả những hòn đảo lân cận; trên một trong những hòn đảo này là ngoại ô Pontal, nơi bọn nhà giàu thường xây nhà nghỉ mát. Dân số tăng nhanh một cách lạ lùng từ khi việc trồng ca cao trở thành phổ biến trong vùng, vì hầu như toàn bộ thu hoạch của Nam phần bang Bahia đều được tải tới đây để chuyển về thủ đô. Chỉ có một bến cảng, bến Barra do Rio de Contas, rất nhỏ, ở đây chỉ những tàu buôn mới có thể bỏ neo được. Dân Ilhéus ao ước một ngày kia có thể xuất cảng thẳng, không cần phải qua Bahia nữa. Mối hi vọng đó cung cấp một đề tài thường xuyên cho những bài xã luận của báo chí địa phương: cần phải khơi sâu cảng để có thể đón được những tàu có trọng tải lớn. Tờ báo của phe đối lập lợi dụng việc này để công kích chính phủ; cơ quan ngôn luận của chính phủ thỉnh thoảng cũng đả động tới việc này và in những bài báo nói rằng “ngài tỉnh trưởng rất xứng đáng và rất năng động của chúng ta đã có những cuộc thương lượng với chính quyền bang và chính phủ liên bang ngõ hầu tìm ra một giải pháp dứt khoát về vấn đề bến cảng”. Nhưng thực tế thì chẳng bao giờ có gì xảy ra cả bởi vì chính quyền bang vẫn cố tình gây những trở ngại, để bảo đảm doanh lợi cho cảng Bahia.
Tuy nhiên, cũng đề tài này, diễn đạt bằng những chữ gần tương tự, cung cấp nội dung cho chương trình của hai đảng chính trị và cho những bài diễn văn của hai vị ứng cử tỉnh trưởng. Có khác nhau chăng chỉ là ở cách hành văn, ở chương trình cho ứng cử viên phe Badaró đề nghị thì do thầy kiện Genaro viết, còn như chương trình của ứng cử viên phe Horácio là do ngòi bút xuất sắc hơn nhiều của thầy kiện Rui thảo ra.
Ở Ilhéus, tài sản của một viên đại tá đo bằng số nhà hắn có; tên nào cũng tìm cách xây một ngôi nhà đẹp hơn, thành thử dần dà gia đình họ quen sống ở thành phố nhiều hơn là ở đồn điền. Tuy nhiên, những ngôi nhà này đều đóng cửa bỏ đấy phần lớn thời gian trong năm và chỉ đông người vào ngày hội của nhà thờ. Thành phố không có nhiều trò vui giải trí. Đành rằng bọn đàn ông có quán cà phê, và cũng có những quán rượu, nơi bọn người Anh có quan hệ với chuyện đường sắt đến tiêu sầu trong những cốc whiskey hoặc chơi súc sắc và là nơi những người grapiúnas tặng nhau những phát súng lục; nhưng đối với phụ nữ, thì chỉ còn có việc đi thăm gia đình nhau, ngồi lê đôi mách về đời tư của người khác, và náo nức lên với nhau những khi có hội hè lễ lạt của nhà thờ. Rồi khi bắt đầu xây trường xơ, thì một vài bà lại họp nhau tổ chức những cuộc bán từ thiện và những buổi khiêu vũ.
Nhà thờ thánh Jorge, thần bảo hộ của cả vùng, là một tòa nhà rộng mênh mông và thấp, kiến trúc hoàn toàn thiếu vẻ đẹp; nhưng bên trong thì lại phong phú về mặt trang trí bằng vàng chạm trổ. Nó đứng sừng sững trên một cái bãi rộng được sửa sang thành vườn hoa. Lại còn có nhà thờ thánh Sebastião, ở bên cạnh quán cà phê, quay mặt ra biển, và trên ngọn đồi Conquista, về phía bên kia nghĩa địa, là tiểu giáo đường Đức mẹ Thắng lợi, dựng trên một ngọn đồi, trấn cả thành phố. Cũng có một nhà thờ Tin Lành cho bọn người Anh làm việc ở đường sắt, nhà thờ này cũng kiếm được vài tín đồ trong vùng. Và cuối cùng, để nói cho dứt chuyện tôn giáo, ở các phố nhỏ còn có các buổi lên đồng linh tinh ngày càng nhiều. Nhìn chung, thành phố Ilhéus với các ngoại ô ở ngoài và các đồn điền ca cao, thường bị tai tiếng xấu với địa hạt đức tổng giám mục Bahia; tại đây, người ta nói nhiều về thành phố đó, nào là dân chúng thiếu lòng mộ đạo, nào là các buổi lễ chầu vắng nam giới, nào là nạn mãi dâm rất tràn lan. Tóm lại, đây là một nơi khủng khiếp, là xứ sở của bọn sát nhân, số cha cố của thành phố hay của tòa thị chính nói chung, quả là còn ít so với số thầy cò và bác sĩ; còn như mấy “cha” hiếm hoi ở đây thì đa số, theo thời gian, đã trở thành điền chủ và rất ít bận tâm đến việc cứu rỗi linh hồn.
Người ta dẫn ra trường hợp cha Paiva thường đeo súng lục dưới áo thầy tu và không hề mảy may bối rối khi có xảy ra một cuộc ẩu đả trước mặt mình. Cha là thủ lĩnh chính trị cho phái Badaró ở Mutuns, và đến ngày bầu cử, cha thường kéo cả một đoàn cử tri tới. Người ta kể rằng cha hứa dành cho họ một phần thiên đường thực sự và nhiều năm sống ở thiên đường ngay trên thế gian này, nếu họ bỏ phiếu “cho thích đáng”. Cha có chân trong hội đồng thành phố Ilhéus, nhưng tuyệt nhiên không hề cảm thấy mình dính dáng đến đời sống tôn giáo của thành phố. Người tu sĩ duy nhất quan tâm đến vấn đề này là thầy tu Freitas, người mà trong một trường hợp đáng ghi nhớ, đã làm một bài thuyết giáo trong đó ông đem so sánh những món tiền các ngài đại tá tiêu pha ở quán cà phê hoặc cho gái điếm với số tiền ít ỏi ông thu được trong các cuộc lạc quyên để xây dựng nhà thờ. Một bài thuyết giáo gay gắt, sôi nổi, nhưng chẳng đem lại chút kết quả nào. Nhà thờ tiếp tục sống bằng tiền cúng của đám phụ nữ là những người sống với nhà thờ, lễ lạt, rước xách, hội hè trong tuần lễ thánh. Vừa trao đổi với nhau những chuyện thóc mách khoái trá, họ vừa trang hoàng các bàn thờ hay đi may áo mới cho các bức tượng thánh.
Thành phố nằm giữa sông và biển, ở một nơi phong cảnh mỹ lệ, giữa những cây dừa. Một nhà thơ đến nói chuyện ở Ilhéus đã gọi nó là “thành phố của những cây dừa lộng gió”, một hình ảnh mà báo chí địa phương thích dẫn ra luôn luôn. Thực ra, giống gồi chỉ biết có mỗi việc là mọc lên và đu đưa dưới làn gió. Thứ cây thực sự có ảnh hưởng đến đời sống ở Ilhéus là ca cao, mặc dù ngay ở trong thành phố, người ta không nhìn thấy một cây nào cả. Tuy nhiên, nó vẫn có mặt ở đằng sau tất cả sinh hoạt của São Jorge dos Ilhéus. Đằng sau mỗi công việc giao dịch, đằng sau mỗi cửa hàng trù phú, đằng sau mỗi phát súng nổ ra giữa phố, người ta đều thấy nó. Không một cuộc trò chuyện nào trong đó cái tiếng ca cao lại không đóng một vai trò chủ yếu. Trong các kho chứa hàng, trên các chuyến xe lửa, trong hầm tàu biển, trên xe vận tải, ở khắp mọi nơi lúc nào cũng phảng phất mùi sô cô la tức là mùi ca cao phơi khô.
Một quyết nghị khác của thành phố cấm mang vũ khí, nhưng chẳng mấy ai biết có pháp lệnh ấy bao giờ; những người biết thì không hề nghĩ đến chuyện tôn trọng nó. Người ta thường thấy những người đi ngoài phố, mang ủng hoặc giày bằng da thô, quần ka ki và áo len, đeo một khẩu súng lục ở bên trong áo. Có những người đi ngang qua thành phố với một khẩu súng trường đeo bắt chéo ngang vai, và chẳng ai chú ý đến cả. Cho nên ngoài những ngôi nhà cầu kỳ, những tòa lâu đài bằng đá và những đường phố lát, Ilhéus phần nào vẫn còn có vẻ một đồn trại vũ trang. Thỉnh thoảng khi có những chuyến tàu chở đầy người di cư ở nội địa, từ Sergipe và Ceará đến, những quán hàng ở gần ga chật ních người, thì người ta dựng lên những lều vải đối diện với bến cảng, dựng gấp những cái bếp tạm bợ và các viên đại tá thường đến đây để mộ phu đồn điền. Một hôm thầy kiện Rui đã dẫn một vị khách từ thủ đô tới xem một cái trại.
- Chợ bán nô lệ đây, - hắn nói với một giọng tự hào pha lẫn khinh bỉ, bởi vì hắn thực tình yêu mến cái thành phố này, - nó đã xuất hiện trong một đêm chung quanh những kho hàng, đã lớn lên với vùng ca cao, và giờ đây đã trở thành thành phố phồn vinh nhất của cả bang.
Rất ít người sinh đẻ ở đây, giờ lại có được một vai trò quan trọng trong thành phố này. Hầu hết các tay điền chủ, bác sĩ, luật gia, nhà trắc địa, nhà chính trị, nhà báo và thầu khoán đều từ nơi khác đến; tuy nhiên, họ đều cảm thấy gắn bó mật thiết với cái đất giàu có và đầy những chuyện phiêu lưu, mạo hiểm này. Họ đều tự cho mình là grapiúnas; ở Bahia, người ta nhận ra họ ở cái vẻ hãnh diện khi nói tới thành phố ấy. “Tay này là người Ilhéus đây”, dân Bahia nói vậy. Trong các quán cà phê, trong các hãng buôn ở thủ đô, họ phô trương sự giàu có của mình một cách ngông cuồng, tiêu tiền không nghĩ tới giá trị của hàng hóa nhận được, không bao giờ thèm mặc cả, luôn luôn sẵn sàng gây ẩu đả không cần biết vì bất kỳ chuyện gì. Họ rất được trọng vọng trong các nhà chứa ở Bahia, tại đó họ vừa được mọi người sợ, vừa được cầu cạnh riết. Trong bàn giấy ở các cửa hàng bán buôn giao dịch với nội địa, bọn lái buôn ở Ilhéus bao giờ cũng được kính nể nhất; và ở đó họ có uy tín vô cùng.
Từ khắp miền Brazil, người ta đi xuống mảnh đất phía Nam Bahia này. Tiếng tăm của nó vang đi xa; người ta nói rằng ở đây vàng dùng để lát đường phố và không ai thèm chú ý đến một đồng hai milreís cả. Những chuyến tàu chật ních người di cư, chở đến những kẻ giang hồ đủ các loại, kể cả những phụ nữ đủ các lứa tuổi, coi Ilhéus là niềm hi vọng đầu tiên hay cuối cùng của mình. Tất cả trà trộn với nhau trong thành phố: vì kẻ nghèo khổ hôm nay có thể là kẻ giàu có ngày mai, gã chăn la có thể trở thành một tay điền chủ và anh thợ vô học có thể trở thành một thủ lĩnh chính trị được kính nể. Người ta kể ra nhiều ví dụ và không bao giờ quên nhắc đến tên Horácio, xuất thân từ chăn la và bây giờ là một trong những tay điền chủ lớn nhất vùng. Kẻ giàu có hôm nay cũng có thể trở thành kẻ nghèo khổ ngày mai, nếu một tên khác giàu hơn có thầy cò giúp đỡ, bày ra một cuộc “tiếm đoạt” khéo léo và chiếm được đất của anh ta. Hơn nữa, có thể hôm nay anh vẫn còn sống, ngày mai người ta đã thấy anh chết phơi thây ngoài phố với một viên đạn nằm trong ngực. Bởi vì, đứng trên những phiên tòa của ông thẩm phán, của ông chưởng lý, của ông bồi thẩm, còn có luật của cái cò súng nắm quyền chung thẩm ở Ilhéus.
Vào thời bấy giờ, thành phố bắt đầu được tô điểm bằng những vườn hoa và tòa thị chính có mướn người làm vườn từ thủ đô về. Sự cải thiện này đã được tờ báo phe đối lập chỉ trích, báo đó tuyên bố rằng:
- Ilhéus cần phố hơn là cần vườn!
Tuy nhiên, nhóm thuộc phe đối lập vẫn lấy làm hãnh diện phô cho khách tới thăm những bông hoa tô điểm các quảng trường xưa kia phủ đầy cỏ dại. Còn đường phố đã có người và lừa ngựa tự mở mang lấy trong khi tải ca cao ra bến cảng, nơi có tàu nằm đợi. Thời kỳ này, thành phố Ilhéus bắt đầu xuất hiện trên các bản đồ kinh tế, có một cây ca cao đánh dấu vị trí của nó.

6

Tờ báo của phe đối lập tên là A Folha de Ilhéus ra vào ngày thứ bảy; đúng vào cuối cái tuần lễ ta đang nói tới, số báo nhuốm đầy một vẻ hung hăng chưa từng thấy. Tờ báo này do Andréia Filemon xuất bản, một gã thợ may cũ từ Bahia tới, nay đã bỏ nghề, ở trong thành phố, người ta thừa biết rằng Filemon không thể viết nổi lấy một dòng, cả đến những bài báo do hắn ta ký tên cũng do người khác viết hộ. Tóm lại, hắn là một thằng ngu xuẩn, và không ai có thể nói rõ làm sao hắn lại có thể trở thành chủ báo. Hắn có làm một công việc chính trị nào đấy cho Horácio; nhưng khi lão này mua một cái máy in và những hòm chữ để tung ra một tờ tuần báo, người ta hết sức ngạc nhiên về việc chọn người của lão.
- Này, nó đọc còn không thông kia mà!
- Phải, nhưng mà người ta nói rằng ông ấy là trí thức, - luật sư Rui giải thích. - Đó là một danh xưng rất hay. Đấy là một vấn đề mỹ học.
Hắn phồng má lên trong khi trịnh trọng nói:
- Filemon Andréia! Tên một nhà thơ lớn!
Nhân dân thành phố vẫn cho thầy kiện Rui là người chịu trách nhiệm viết những bài xã luận đăng trên tờ A Folha de Ilhéus và, vì ngày bầu cử sắp tới, hai tờ báo bắt đầu đấu khẩu và mạt sát nhau, nên toàn thể dân chúng chia thành nhiều nhóm, cãi nhau kịch liệt. Một bên là luật sư Rui với lối viết dài dòng, những đoạn văn khoa trương, lời lẽ rườm rà; một bên là Manuel de Oliveira, thỉnh thoảng có luật sư Genaro giúp sức. Manuel vốn làm nghề nhà in và đã làm việc cho nhiều tờ báo ở Bahia. Juca Badaró quen hắn trong các tiệm cà phê và thuê hắn về nắm sinh mệnh tờ O Comércio. Khôn ngoan và thẳng cánh hơn đối phương, bao giờ hắn cũng được hoan nghênh hơn.
Những bài báo của luật sư Genaro đầy những dẫn chứng về pháp luật. Làm thầy cò cho nhà Badaró, tay này, nói chung, vẫn được coi là người có học thức nhất trong thành phố, và những người đồng hương với hắn thường vẫn nói đến hàng trăm cuốn sách của hắn một cách thán phục. Hắn sống ru rú trong nhà với hai đứa con và hầu như không bao giờ bước ra khỏi cửa. Hắn không rượu chè và không ai nhìn thấy hắn ngồi trong hiệu cà phê bao giờ; còn về khoản đàn bà thì nghe nói mụ Machadão vẫn đều đặn một tháng hai lần đến ngủ với hắn. Bây giờ mụ đã già rồi, mụ tới thành phố này khi nó bắt đầu mở rộng; hai mươi năm về trước, mụ đã từng là người đàn bà rất được chú mục ở Ilhéus. Bây giờ, mụ là chủ một ngôi nhà chứa, nhưng bản thân mụ thì không hành nghề nữa, trừ đối với luật sư Genaro là người, theo lời mụ, không thể ngủ được với bất cứ người đàn bà nào khác.
Có lẽ chính vì thế mà thứ bảy đó, bài xã luận của tờ A Folha de Ilhéus, chiếm gần hết cả một trang trên tờ báo nhỏ của phe đối lập, đã ám chỉ luật sư Genaro, gọi hắn là “thầy tu đạo đức giả”; tuy nhiên, trong số báo đó, hắn là người bị đả kích ít nhất trong số bạn bè của anh em Badaró. Bài này nhắc tới vụ đốt cháy văn phòng Venâncio ở Tabocas mà tờ báo kịch liệt lên án, coi như một hành động dã man, đi ngược lại luật lệ của một tập thể văn minh, và phương hại đến thanh danh của thị xã Ilhéus đối với cả nước. Còn vấn đề đại tá Teodoro, thì tên tuổi hắn dắt dây theo hàng tá cột báo đầy những lời xỉ vả, cả một bộ sưu tập tuyệt diệu những danh từ và hình dung từ nhục mạ “thằng kẻ cướp, thằng say rượu bất trị, con bạc máu mê có dòng dõi đã biến cái thói xấu đó thành nghề nghiệp, tâm hồn dâm loạn, không xứng đáng sống trong xã hội văn minh, tên khát máu” và vân vân. Mặc dầu thế, vẫn còn những lời chửi dành cho anh em Badaró. Juca bị vạch mặt là một kẻ “trứ danh trong việc chinh phục những gái làng chơi bằng giá rẻ mạt”, “một tên chó dái vô sỉ, bao che cho bọn kẻ cướp”, còn những lời buộc tội Sinhô thì cũng tương tự: vì hắn đã trở thành bậc thầy trong nghệ thuật tiến hành những vụ “tiếm đoạt”, thủ lĩnh bọn jagunco, “dầm mình trong của phi nghĩa, chịu trách nhiệm về cái chết của hàng chục nhân mạng, chính khách vô lương tâm” và vân vân.
Bài xã luận đòi pháp luật phải ra tay. Nó nêu rõ rằng về mặt pháp lý thì không còn phải ngờ vực gì nữa về quyền sở hữu khu rừng Sequeiro Grande cả. Khu rừng này đã được đo đạc và chứng từ sở hữu đã được đăng ký. Nó không phải là vật sở hữu của riêng một cá nhân nào mà là của chung một số người trồng ca cao, trong số đó đành rằng có một hai người rất nổi tiếng, nhưng phần đông đều là những người trồng trọt nhỏ - bài báo khẳng định như vậy. Thế mà anh em Badaró lại tìm cách làm chủ và độc chiếm khu đất đó, và, làm như vậy, không những chúng chỉ tước đoạt quyền lợi của chủ nhân hợp pháp mà còn ngăn trở xứ sở phát triển, bởi vì khuynh hướng của thời đại là chia nhỏ những dinh cơ to lớn, như nước Pháp đã làm. Và bài báo tiếp tục chứng minh rằng đại tá Horácio, một người có đầu óc tiến bộ, với tư cách là người biết nhìn xa về tương lai, khi dự định hạ khu rừng Sequeiro Grande để trồng ca cao đã không hề nghĩ đến quyền lợi riêng của mình, mà nghĩ đến quyền lợi chung của thành phố, bởi vì ông đã tập hợp vào công việc của mình tất cả những người trồng trọt nhỏ có đất ở ven khu rừng. Đó là con người mà ta có thể gọi được là một công dân tốt và hữu ích. Làm sao có thể đem ông ta so sánh với anh em nhà Badaró, cái bọn tham lam và vô lương tâm chỉ biết kiếm cách làm giàu? Tờ A Folha de Ilhéus kết thúc bài báo bằng cách tuyên bố rằng:

“Đại tá Horácio và những vị chủ nhân hợp pháp khác của khu rừng Sequeiro Grande sẽ phải cậy đến thần công lý; và nếu như anh em nhà Badaró tìm cách ngăn trở việc khai phá rừng và trồng ca cao, thì chúng sẽ phải chịu trách nhiệm về những hậu quả xảy ra. Bọn chúng là những kẻ dùng bạo lực trước, chúng sẽ chịu tội về những chuyện sau này”.

Bài báo kết luận bằng câu dẫn tiếng La tinh: “Alea jacta est*”
*[Số trời đã định thế]
Những ai đã từng quen thuộc với các cuộc bút chiến trên báo chí đều rất hồi hộp về toàn bộ việc này, họ bàn thêm rằng cuộc chửi nhau có vẻ hứa hẹn sẽ dữ dội chưa từng thấy. Người ta nhận thấy bài xã luận trong tờ A Folha de Ilhéus không phải là tác phẩm của luật sư Rui, độc giả từ lâu đã biết cách hành văn của ông này. Luật sư Rui thường dùng nhiều câu văn chương hoa mỹ hơn thế; trước mặt các vị phụ thẩm thì ông ta biện hộ giỏi, nhưng trên những cột báo, ông ta không hăng hái được như thế. Bài xã luận kia tỏ ra mạnh mẽ hơn, có lý luận vững vàng hơn; những hình dung từ cũng sâu cay hơn. Chẳng bao lâu người ta biết ra rằng tác giả bài báo nọ là luật sư Virgílio, cố vấn pháp luật của phe đối lập, trú tại Tabocas nhưng hiện đang ở Ilhéus. Tin này do luật sư Rui cho biết, ông này sau khi nhận được những lời khen ngợi về bài báo nọ, đã nói lộ ra tên tuổi tác giả. Vả chăng người ta còn nhớ rằng Virgílio có trực tiếp dính líu đến việc này, vì chính hắn đã đăng ký bản giám định tại văn phòng bị Teodoro đốt cháy. Và những cái miệng lưỡi ba hoa còn nhắc lại rằng hắn muốn tòm tem vợ Horácio. Không còn nghi ngờ gì nữa, tờ O Comércio xuất bản ngày thứ tư tới, sẽ có chuyện nói tới quãng đời tư này của viên thầy cò, và công chúng thích thú chờ đợi.
Thế nhưng, tờ O Comércio đã làm cho ai nấy phải ngạc nhiên, trong bài trả lời đối phương - một bài trả lời cũng chẳng trong sáng chút nào - nó làm như không biết đến vấn đề chung. Thoạt tiên tờ báo cho độc giả hay rằng “nó sẽ không dùng đến cái giọng lưỡi máy nước như cái gã con rối kia đã làm trong khi đả kích hèn hạ anh em ông Badaró và những người cộng sự chính trị của họ”. Nó cũng không hề có ý định “sục vào đời tư của người nào, như cái cơ quan nhơ bẩn của đối phương vẫn quen làm”. Tuy nhiên, phải công bằng mà nhận rằng lời hứa sau cùng này đã không được thực hiện, bởi vì bài báo đã ra sức đi sâu vào dĩ vãng của Horácio, “cái gã xưa kia đi dắt la mà chẳng ai biết làm thế nào lại trở nên giàu có”. Tác giả bài báo kể lẫn lộn cả việc công lẫn việc tư, một mặt thì nhắc lại bản tố cáo viên đại tá trong vụ giết ba người, nói rõ vì sao, nhờ thủ đoạn quỷ quyệt của những tên thầy kiện đã làm ô danh nghề nghiệp mà hắn đã thoát khỏi một bản án công minh nhưng vẫn không tránh nổi sự lên án của công luận; mặt khác, bài báo có những nhận xét hết sức cá nhân về cái chết của vợ Horácio chứa đựng một sự ám chỉ về “những trường hợp bí mật chúng ta ai nấy đều đã biết, về những người trong gia đình bỗng nhiên mất tích và đến đêm thì bị mang chôn”. Lời hứa về giọng lưỡi cũng không giữ được nốt: trong bài báo, Horácio bị gọi là tên sát nhân mạt hạng, còn luật sư Rui thì bị nêu lên như một tên nghiện rượu đã thành cố tật, như một con chó chỉ sủa mà không cắn, một người bố gia đình không xứng đáng, cả đời chỉ lê la trong các quán rượu và tuyệt nhiên không nghĩ đến vợ con.
Tuy nhiên, người bị gán cho những hình dung từ thậm tệ nhất là luật sư Virgílio - Manuel de Oliveira khi bắt đầu phần nói về viên thầy cò này - một bản tiểu sử sơ lược về hắn - có nói rằng “đáng lẽ phải nhúng ngòi bút xuống bùn để viết tên tiến sĩ Virgílio Cabral”. Đoạn văn này rõ ra là còn kỹ hơn một bản tiểu sử sơ lược, vì trong đó tác giả kể cả cuộc đời sinh viên của Virgílio ở Bahia, “bộ mặt quen thuộc nhất của các nhà thổ ở thủ đô”, và nói tới những khó khăn về mặt tài chính gã này đã phải chịu đựng để học cho xong, “phải sống bằng những mẩu thức ăn rơi vãi trên bàn của lão già quỷ quyệt Seabra”. Cả Margot cũng được điểm vào bức tranh ấy, mặc dù tên nàng không bị nêu lên.
Đây là đoạn nói về nàng:

“Và thời gian này, không phải chỉ có bọn chính trị gia hèn hạ mới ních đầy bao tử cho cái tên thanh niên lười biếng, trụy lạc ngay trong những năm hắn còn là sinh viên. Một gái làng chơi được nhiều người chuộng cũng là nạn nhân của những thói quen bịp bợm của hắn. Khi đã lừa được cô gái trẻ đẹp, tên phóng đãng nọ bèn sống bám vào cô ta, và bằng số tiền cô này kiếm được ở lầu xanh, luật sư Virgílio đã dùng để trả những món phí tổn cho mảnh bằng luật học. Cần phải nói thêm rằng, sau khi đã được rèn giũa trong nghề hầu hạ gã chăn la Horácio, tên khốn nạn ấy đã bỏ rơi nạn nhân của mình, một con người đẹp cả người lẫn tâm hồn đã giúp hắn qua những bước thất cơ lỡ vận”.

Mặc dầu O Comércio là tờ báo khổ lớn hơn tờ A Folha de Ilhéus nhiều, bài báo vẫn chiếm cả một trang rưỡi. Nó tả tỉ mỉ việc đốt cháy bàn giấy của Venâncio, giảng giải cho độc giả hiểu rằng cái việc muốn đăng ký một chứng từ sở hữu trên cơ sở một sự giám định cũ không có một giá trị pháp lý nào và hơn nữa còn có chỗ bị tẩy xóa: tên tuổi của Horácio và bọn “tay sai” của hắn được thay vào tên của Mundinho de Almeida, là một vụ “tiếm đoạt vô lý” đến thế nào. Còn về vụ cháy ở Sở Trước bạ thì chính Venâncio là thủ phạm, “tên đầy tớ bất trung này của công lý, khi đại tá Teodoro đòi xem giấy tờ giám định, đã đốt nhà, để bằng cách đó, hủy bỏ những tang chứng về sự đê tiện của bản thân hắn”.
Ngược lại, người ta đã mô tả anh em nhà Badaró trong bài báo ấy như những vị thánh, không làm hại đến cả một con ruồi. Còn những lời chửi rủa khốn nạn “do thằng hề phát ngôn của phe đối lập tung ra” thì không thể nào làm ai nghi ngờ danh tiếng của những người được trọng vọng như anh em nhà Badaró, đại tá Teodoro hay “ánh sáng trứ danh của khoa học và luật pháp” có tên gọi là tiến sĩ Genaro Torres mà phàm người grapiúnas nào có học thức cũng đều lấy làm tự hào. Cuối cùng người ta ám chỉ tới những lời “hăm dọa của Horácio và đàn chó của hắn”. Công chúng trong những ngày sắp tới, hẳn sẽ nhớ rằng tên kia đã thở ra những lời hăm dọa đẫm máu và hẳn sẽ xét xử những trách nhiệm tinh thần trên cán cân của công lý dân gian. Tuy nhiên, Horácio nên hiểu rằng những lời “huênh hoang lố bịch” của hắn không làm cho ai sợ hết. Họ nhà Badaró biết dùng vũ khí của thần công lý và của luật pháp, nhưng họ cũng biết - như tờ O Comércio cảnh cáo - sử dụng bất cứ thứ vũ khí nào khác mà “kẻ thù bất chính” của họ muốn chọn. Dù cho trường tranh đấu là như thế nào đi nữa, họ cũng sẽ làm cho cái hạng kẻ cướp vô sỉ ấy và bọn thầy cò vô lương tâm của chúng phải chịu sự trừng phạt thích đáng. Để kết luận, và để đối lại câu “alea jacta est” của đối phương, bài xã luận của tờ O Comércio cũng viện đến một câu dẫn La tinh: “Quousque tandem abutere, Mule-driverus patientia nostra?*”, là phần đóng góp của luật sư Genaro vào bài báo của Manuel de Oliveira. Thành phố Ilhéus, ở mọi góc phố, đều lấy làm khoái trá.
*[Bớ tên dắt la, ngươi định lợi dụng lòng kiên nhẫn của ta cho tới bao giờ?]

7

João Magalhães, giờ đây râu ria xồm xoàm và đôi ủng bê bết bùn, vừa ở rừng Sequeiro Grande về; y cảm thấy trong lòng rộn lên những cảm giác linh tinh xung đột nhau. Y định về ở đồn điền Badaró một tuần và đã ở lại đó mười lăm ngày, kéo dài thời gian lưu trú quá mức cần thiết. Y đã gần sử dụng được những khí cụ của người trắc địa, nào kính vĩ nghi, nào dây xích, trắc giác kế và máy ghi dấu, là những khí cụ y chưa hề nhìn thấy bao giờ trong suốt cả cuộc đời con bạc nhà nghề của mình. Chính việc đạc điền phần lớn là do Juca Badaró làm; có thể nói y chỉ việc xác nhận những kết quả của họ bằng cách nguệch ngoạc vài con tính về những hình vuông và hình tam giác. Họ đã sống mấy ngày ở trong rừng, bọn da đen thì khiêng dụng cụ, Juca Badaró thì tỏ ra rất am hiểu đất đai vùng này.
- Đại úy này, - hắn nói, - tôi cam đoan là trên khắp thế giới, đại úy sẽ không tìm đâu thấy chỗ đất nào tốt hơn đất ở đây để trồng ca cao.
João cúi xuống và bốc một nắm đất ẩm.
- Đúng, đất thượng hảo hạng, đúng vậy, thêm một tí phân bón nữa, nó sẽ là thứ đất tốt nhất.
- Không cần phân bón, - Juca nói, - đây là đất hoang, đại úy ạ, màu mỡ không đâu bằng; rừng cây ở đây sẽ sai quả hơn tất cả các rừng khác trước đây.
João Magalhães lại tiếp tục gật đầu tán thành, y không muốn đi sâu vào vấn đề quá mức cần thiết, sợ lòi cái dốt của mình. Cứ thế họ đi sâu vào cánh rừng khổng lồ, Juca thì ca ngợi đất, chỗ mà cây cối chung quanh họ mọc ở trạng thái hoang dại.
Nhưng điều làm cho viên đại úy quan tâm hơn cái chất đất tốt, đó là cô thiếu nữ có mái tóc nâu óng ánh, Don’Ana Badaró. Y đã nghe nói tới cô ở Ilhéus, y biết rằng Don’Ana đã hạ lệnh cho Teodoro đốt cháy phòng giấy của Venâncio. Ngoài thành phố, người ta nhắc tới cô ta như một thiếu nữ kỳ lạ, không thích ngồi lê mách lẻo và dự những buổi lễ ở nhà thờ (mặc dầu có một người mẹ rất mộ đạo); cô ta cũng không ưa những buổi khiêu vũ hay những gã si tình. Rất ít người nhớ là đã trông thấy cô ta nhảy và không ai có thể kể ra được tên tuổi của một chàng nào mê say theo đuổi cô. Cô ta thích cưỡi ngựa hơn nhiều, thích đi săn hoặc đi thăm dò những bí mật của đồn điền hay của nơi thôn dã. Olga thường hay nói với hàng xóm rằng Don’Ana rất dửng dưng với những chiếc áo dài Sinhô mua cho cô ta ở Bahia hay ở Rio de Janeiro, những bộ quần áo sang trọng, sáng tác của những nhà vẽ kiểu quần áo nổi tiếng. Cô ta chẳng buồn nghĩ đến những chiếc áo đó, mà thích chăm nom những chú ngựa mới đẻ hơn; cô ta biết tên của tất cả súc vật có trong nhà, kể cả tên những con lừa trong đàn. Cô ta chịu trách nhiệm giữ sổ sách, và Sinhô mỗi khi cần biết rõ tình hình ra sao, đều phải gọi đến cô ta. Juca vẫn nói rằng: “Don’Ana đáng lẽ sinh ra là con trai mới phải”.
João Magalhães không đồng ý về cái điểm cuối cùng này. Có lẽ đôi mắt cô ta - chúng khiến y nhớ đến những con mắt khác y đã từng tôn thờ - đã thu hút y từ đầu. Y vừa cố gắng dùng những điệu bộ và lời lẽ thật lịch sự với cô ta, vừa đắm đuối ngắm đôi mắt mê hồn kia, đôi mắt đột nhiên bừng lên một ánh sáng mãnh liệt như một cặp mắt khác ngày xưa đã biểu lộ biết bao khinh bỉ đối với y. Về sau, cùng với ngày tháng trôi qua và khi đã hiểu Don’Ana thêm, y đã quên dần đôi mắt của cô thiếu nữ y đã bỏ lại ở Rio de Janeiro.
Trong nhà Badaró, đề tài nói chuyện duy nhất là khu rừng Sequeiro Grande và những kế hoạch của Horácio cùng bạn bè lão. Người ta tìm cách đoán thử, đặt giả thuyết, cân nhắc mọi khả năng. Horácio sẽ làm gì khi lão biết rằng anh em nhà Badaró đang đo đạc khu rừng, sắp đi đăng ký và giành lấy một chứng thư ưu tiên? Juca không nghi ngờ gì về vấn đề này cả. Horácio sẽ tìm cách vào rừng ngay lập tức, đồng thời gửi một lá đơn lên tòa án Ilhéus đòi quyền sở hữu về khu đất, căn cứ vào bản đồ đã đăng ký ở phòng giấy của Venâncio. Tuy nhiên, Sinhô không tin như vậy. Lão đưa ý kiến rằng, do chỗ Horácio không được chính phủ ủng hộ, vì hắn ở phe đối lập, trước hết hắn sẽ cố gắng hợp thức hóa tình hình bằng một hình thức tiếm đoạt nào đó trước khi dùng đến vũ lực.
Juca kể lại những tin tức cuối cùng ở Ilhéus: Dư luận thành phố đang dị nghị về Ester và Virgílio. Sinhô không muốn tin là thế.
- Đó chỉ là chuyện nhảm nhí của những kẻ ăn không ngồi rồi!
- Nhưng, anh Sinhô ạ, nó đã bỏ cả con bé đang ăn ở với nó. Thế thì anh bảo sao? Đó là việc có thật, tôi có đủ lý do để tin được.
Hắn đưa mắt nhìn João và cười khi nghĩ đến Margot.
Viên đại úy tham gia vào mọi câu chuyện và mọi cuộc bàn bạc đó như thể y cũng là người nhà Badaró, như Teodoro das Baraúnas đã làm vào cái buổi tối hắn ta nghỉ lại ở nhà họ. Y cảm thấy có một mối liên hệ họ hàng, và mỗi khi Don’Ana nhìn về phía y và kính cẩn hỏi: “Ý kiến đại úy thế nào ạ?”, y không tiếc lời chửi rủa Horácio và đồng đảng của lão. Thậm chí, một hôm đôi mắt kia có vẻ quan tâm và dịu dàng hơn thường lệ, y đã đi đến chỗ xin hiến cho anh em Badaró “kiến thức khoa học quân sự của mình, với tư cách là một đại úy đã từng tham gia tám cuộc cách mạng”. Y sẵn sàng tuân theo mệnh lệnh của họ. Nếu như phải chiến đấu, họ có thể tin vào y. Y sẵn sàng làm mọi việc, cho dù có xảy ra chuyện gì. Nói đến đây, y mỉm cười với Don’Ana, và cô ta bỗng trở nên rụt rè và đỏ mặt lên, bỏ chạy vào trong nhà, trong khi Sinhô Badaró cảm ơn viên đại úy về nhã ý của y. Sinhô tỏ lòng biết ơn, nhưng hi vọng rằng sự giúp đỡ của viên đại úy sẽ không cần thiết, rằng mọi việc sẽ có thể giải quyết êm thấm, không phải đổ máu. Thật ra vẫn cần phải sẵn sàng trước mọi bất trắc có thể xảy ra, lão nói, nhưng vẫn nên hi vọng rằng Horácio sẽ bỏ ý định tranh chấp với lão về quyền sở hữu khu rừng. Còn như từ bỏ lập trường của lão thì không thể được; lão là chủ gia đình và phải chịu mọi trách nhiệm; bởi lẽ, lão đã có lời cam kết với bạn bè, với những người đã hy sinh vì lão như Teodoro das Baraúnas.
Nếu Horácio muốn làm già, thì lão đây, Sinhô, lão cũng sẽ làm như vậy. Nhưng lão vẫn còn hi vọng. Juca nhún vai, hắn hoàn toàn tin chắc là Horácio sẽ tìm cách đi vào khu rừng bằng vũ lực và rất nhiều máu sẽ phải đổ trước khi nhà Badaró có thể yên ổn trồng ca cao trên khu đất mới. Câu cuối cùng này như báo hiệu cho đại úy João phải đáp lại một lần nữa bằng cách tự nguyện được giúp đỡ.
- Tôi xin làm mọi việc sức tôi có thể làm được; tôi không ưa khoe khoang sự can trường của tôi, nhưng tôi đã quen với những cái trò ẩu đả nho nhỏ này.
Ngày hôm ấy, mãi cho đến giờ đọc Kinh Thánh, y không gặp lại Don’Ana. Khi cô bước vào phòng, Juca đón chào cô bằng một tiếng cười và hắn chỉ vào cô cháu:
- Có chuyện gì xảy ra với chúng ta thế này? Đã đến ngày tận thế rồi sao?
Sinhô cũng nhìn con gái. Don’Ana làm vẻ mặt quan trọng và nghiêm nghị. Được Raimunda giúp, cô ta cố trau chuốt một kiểu tóc như của Ester trong một ngày lễ ở Ilhéus, ấy thế là mọi người bèn chế nhạo cô ả. Cô còn vận một cái áo dài mặc buổi tối, thành thử nom đến là kỳ khôi trong phòng khách nhỏ của nhà lớn.
Juca vẫn cười hoài, còn Sinhô thì không hiểu đã có chuyện gì xảy đến với con gái. Chỉ có riêng João Magalhães là vui sướng. Dù thấy khá rõ sự tình thật lố bịch, khi nhìn thấy Don’Ana ăn vận như để đi khiêu vũ, y vẫn giữ vẻ nghiêm trang và gửi về phía người thiếu nữ một cái nhìn trìu mến. Nhưng cô ả không nhìn ai cả. Cô chỉ thấy có một điều: họ đang chế giễu mình. Tuy nhiên, cuối cùng khi ngước mắt lên và bắt gặp cái nhìn âu yếm của viên đại úy, cô thấy có đủ can đảm để đáp lại Juca:
- Có gì mà chú phải cười? Chú tưởng chỉ có vợ chú là người duy nhất biết mặc đẹp và chải tóc đẹp thôi à?
- Con gái cha, - Sinhô nói bằng một giọng khiển trách, - sao con lại nói thế? - Lão ngạc nhiên về thái độ gay gắt của con gái hơn là về trang phục.
- Cái áo dài này là của con. Chính cha đã cho con. Con thích mặc nó lúc nào thì con mặc, và không ai có quyền chế giễu con cả.
- Nom cháu có vẻ như một cô gái mặc đồ mẫu chiêu hàng vậy, - Juca nói đùa.
João Magalhães lúc đó bèn quyết định can thiệp:
- Cái áo thật lịch sự hết chỗ nói. - Y nói - Cô giống như một carioca* vậy; các thiếu nữ ở Rio de Janeiro đều ăn mặc đúng như thế. Ông muốn nói đùa đấy thôi.
*[Carioca: thiếu nữ thành phố Rio de Janeiro]
Juca nhìn viên đại úy. Cử chỉ đầu tiên của hắn là định kiếm cách gây sự với gã đại úy. Nó muốn cho mình một bài học về cách cư xử có lễ độ chăng? Rồi hắn lại nghĩ, với cương vị là khách, viên đại úy cần phải tỏ ra lịch sự với cô gái.
- Vấn đề sở thích và màu sắc… - Hắn vừa nói vừa nhún vai.
Sinhô Badaró chấm dứt cuộc tranh cãi:
- Đọc đi, con.
Nhưng cô đã bỏ chạy để mọi người khỏi nhìn thấy những giọt nước mắt của mình.
Cô mặc sức nức nở trong tay Raimunda và tối hôm ấy, chính João Magalhães, mải mê theo đuổi ý nghĩ riêng của mình, là người đọc cho Sinhô Badaró nghe những đoạn Kinh Thánh, còn Sinhô thì liếc mắt nhìn y dò xét.
Ngày hôm sau, khi viên đại úy vừa dậy xong, đi ra ngoài chơi mát buổi sáng, y gặp Don’Ana ở chuồng bò đang giúp người nhà vắt sữa. Y đến nói chuyện với cô; cô ta ngừng tay vắt sữa một lát và ngước nhìn lên.
- Tối hôm qua, tôi đâm ra lố bịch, - cô nói. - Thưa ông, chắc ông đã nghĩ đủ mọi thứ chuyện về tôi. Khi một đứa con gái quê mùa muốn trở thành một cô gái tỉnh thành thì sự thể xảy ra là như vậy đó.
Cô cười, để lộ hàm răng rất đẹp.
Viên đại úy ngồi lên hàng rào.
- Tối qua cô rất đẹp! - Y nói. - Nếu như tối qua là một buổi khiêu vũ ở Rio de Janeiro thì cô đã là người phụ nữ xinh đẹp nhất trong đó, tôi cam đoan với cô thế.
Cô nhìn y chằm chằm.
- Thế ông có thích tôi mặc quần áo thường ngày hơn không?
- Thành thật là có, - và viên đại úy nói thật. - Tôi rất thích cô như lúc này, đối với tôi thế là đẹp lắm rồi.
Don’Ana đứng dậy, xách thùng sữa lên.
- Ông thành thực đấy, thưa ông. Tôi ưa người nào nói thật.
Và cái nhìn về phía y chính là lối tỏ tình của cô ả.
Raimunda vừa cười vừa chạy đến chỗ họ - một tiếng cười khe khẽ đồng tình. Ả cầm lấy những thùng sữa ở tay cô chủ và cả hai cùng bước đi.
- Có vẻ là, - João Magalhães khẽ nói với những con bò ở sân kho thóc, - có vẻ là mình sắp lấy vợ đấy.
Và y nhìn bao quát tòa nhà lớn, bãi cỏ chung quanh và những rừng ca cao ở phía xa với cái nhìn của một vị chủ nhân. Rồi y nhớ tới Juca, Sinhô cùng những jagunco ở đồn điền, và y rùng mình.
Ngày hôm đó nhộn nhịp, túi bụi hơn thường lệ. Mỗi buổi sáng, một số thợ đi nhặt ca cao ở trong rừng, một số khác đạp ca cao ở trong hố hay đạp ca cao khô trong máng; và vừa làm việc, họ vừa hát bài ca buồn tủi của họ.
Đời người da đen biết bao cực nhọc
Phải, cực nhọc hơn mọi cuộc đời.
Gió cuốn đi những lời than van, rền rĩ ấy của những con người, từ sáng đến chiều, dưới ánh mặt trời chói chang, phải nai lưng làm trong các đồn điền.
Ôi! Đêm nay tôi muốn chết
Ở một nơi hẻo lánh xa xôi.
Tà áo em quất vào tôi
Tôi muốn chết vì khuôn mặt em hiền dịu.
Đám thợ vừa làm vừa hát những bài hát thê lương của họ: những khúc hát về kiếp nô lệ và tình yêu bị hắt hủi.
Nhưng cũng có một hạng dân cư khác ở trong đồn điền.
Bằng vào giọng nói cộc cằn, vẻ bề ngoài, cách nói năng, quần áo thì họ giống như công nhân; nhưng những người giờ đây hàng ngày đến ở chật các túp lều, ngủ trong nhà kho hay nằm dài trên hiên nhà lớn, đều là bọn jagunco do Juca tập hợp lại hoặc do Teodoro, do lão cai Esmeraldo ở Tabocas, do Azevedo hay do Paiva ở Mutuns cử tới để canh gác đồn điền Badaró và đề phòng những chuyện có thể xảy ra. Một số không đông lắm đi ngựa tới; số lớn đi bộ, súng đeo vai, dao giắt lưng. Họ đến trình diện ở ngoài hiên, vừa đợi lệnh của Sinhô Badaró vừa uống rượu rum do Don’Ana cho người đưa ra. Nói chung, họ là những người ít lời, khó đoán được tuổi, da đen hoặc lai đen, đây đó có một cái đầu tóc vàng nổi bật hẳn lên giữa những cái đầu khác. Sinhô và Juca đều biết họ cả; Don’Ana cũng thế. Ngày nào cũng vậy; João Magalhães ước chừng đã có khoảng ba mươi người tới, kể từ hôm y đến đây. Y không thể không hỏi xem sắp xảy ra chuyện gì và bên nhà Horácio đang chuẩn bị cái gì đây. Y rất chú ý đến việc này, vì y đã cảm thấy cái đẹp của vùng này quyến rũ lòng mình như thể đột nhiên y đã bắt rễ ở nơi đây. Những dự định đi chu du đã lùi xa biết mấy! Y không nghĩ tới chuyện rời khỏi Ilhéus nữa; y cũng không hề thấy lý do gì để đi khỏi nơi đây.
Y nuôi những ý nghĩ như vậy khi quay về thành phố. Ngồi trong tàu hỏa bên cạnh Sinhô Badaró cứ ngủ suốt, y thả sức suy nghĩ. Hôm qua y đã từ biệt Don’Ana ở ngoài hiên.
- Sáng mai tôi đi.
- Vâng, tôi biết rồi. Nhưng ông sẽ trở lại, có phải không?
- Nếu cô muốn thì tôi sẽ trở lại.
Cô nhìn y gật đầu, và chạy biến vào trong nhà không để cho y kịp ôm hôn một cái, điều mà y mong ước và cũng là điều mà y hi vọng biết chừng nào.
Ngày hôm sau, y không gặp Don’Ana nhưng Raimunda chuyển cho y một lời nhắn:
- Dona sai cháu nói với ông rằng cô cháu sẽ về Ilhéus trong dịp ngày hội thánh Jorge.
Và cô còn tặng một bông hoa mà y hiện đang giữ trong ví.
Trên tàu hỏa, y cố hết sức suy nghĩ thật cẩn thận và y đi tới kết luận rằng mình đã hoàn toàn mắc cạm. Thoạt tiên là cái chuyện đo đạc kia mà y đã làm xong và đã ký vào mọi văn kiện. Y không phải kỹ sư mà cũng chẳng phải đại úy; y có thể bị truy tố và vào tù. Tốt hơn hết là nên rời đi nơi khác bằng chuyến tàu biển đầu tiên; y có đủ tiền để không cần phải lo lắng gì trong vòng hai mươi tháng. Nhưng đen đủi nhất là chuyện phải lòng Don’Ana. Juca có vẻ nghi ngờ điều gì rồi; hắn cười, nói đùa đôi ba câu, hắn có vẻ như tán thành. Hơn nữa, hắn còn báo trước cho y biết là ai mà lấy Don’Ana thì phải đường đường chính chính nếu không muốn có chuyện lôi thôi với vợ. Và Sinhô cũng đã điều tra, nghiên cứu về y cẩn thận: có một buổi tối, lão đã hỏi đủ mọi chuyện về gia đình y, về sự giao du của y ở Rio de Janeiro, về công việc của y.
Cho nên, đại úy João Magalhães bắt buộc phải lao vào hàng loạt chuyện dối trá. Lúc này đây, ngồi trên tàu hỏa, y sợ hãi nghĩ đến những chuyện đó, chốc chốc lại đua mắt nhìn cái nòng súng thò ra dưới áo Sinhô. Nghĩ tới đó, y quyết định phải chuồn thật sự, đáp tàu thủy đi Bahia, và thậm chí không nên nán lại lâu ở thành phố đó vì cái chuyện đo đạc này. Y sẽ không thể quay lại Rio de Janeiro được, nhưng y đã có cả một vùng phương Bắc để lựa chọn: những chủ nhân các xưởng lọc dầu ở Pernambuco, những chủ đồn điền cao su ở Amazon, ở Recife, ở Belém hoặc ở Manaus. Cái tài chơi poker sẽ giúp y. Y sẽ lại tiếp tục sống cuộc đời của mình, không có chuyện rắc rối nào khác ngoài chuyện thỉnh thoảng bị một con bạc đa nghi kết tội, bị đuổi ra khỏi một sòng bạc hay bị gọi ra đồn cảnh sát, và sau đó chẳng xảy ra điều gì nghiêm trọng cả.
Và thế là, ở trên tàu, João quyết định sẽ ra đi vào chuyến tàu biển tới. Y có tới ngàn rưỡi, ngàn sáu conto có thể đem tiêu được ngay lập tức và cho phép y hưởng thụ cuộc đời trong một thời gian ngắn.
Nhưng khi Sinhô Badaró ngủ dậy, viên đại úy nhìn thấy mắt lão, lại nhớ tới cặp mắt của Don’Ana và y chợt nhớ ra rằng cô gái cũng dính vào chuyện này. Cho tới nay, y vẫn cố gắng nhìn mối quan hệ giữa hai người bằng con mắt trơ tráo vô sỉ, chỉ coi đó là một khả năng để lọt vào gia đình Badaró và giàu sang bằng cách lấy vợ. Nhưng giờ đây, y lại nhận ra rằng còn có nhiều chuyện hơn thế nữa. Y cảm thấy thiếu Don’Ana với những cử chỉ cộc cằn, với phong cách lúc dịu dàng, lúc nghiêm khắc, trong khi cô vẫn sống riêng biệt cuộc đời trinh nữ của mình, không biết đến những cái hôn và không cả những giấc mộng tình. Cô đã sai người nói với y rằng cô sẽ về Ilhéus dự hội thánh Jorge. Trong ít bữa nữa thôi. Tại sao không nán đợi cô đến, rồi sau đó hãy quyết định sẽ làm gì? Như vậy có lẽ cũng chẳng có gì là nguy hiểm cả. Điều nguy hiểm nhất là Sinhô Badaró tìm hiểu tung tích y ở Rio de Janeiro, lúc đó y sẽ không tài nào tránh khỏi sự trả thù của những con người thô bạo vừa dễ khích động này, và may lắm mới hòng toàn mạng. Y lại nhìn cái nòng súng lục. Nhưng lại còn có cặp mắt của Sinhô, và như thể Don’Ana đang ngồi bên cạnh lão. Viên đại úy không biết làm thế nào; và con tàu huýt còi đi vào ga.
Tối hôm ấy, y đến thăm Margot, để chuyển cho nàng một lời nhắn của Juca. Nàng đã rời nhà Machadão và sống trong một biệt thự nhỏ với một người hầu gái vừa làm bếp vừa dọn dẹp trong nhà. Nàng cho đem quần áo từ Tabocas tới và đi chưng diện ngoài đường phố Ilhéus với những chiếc áo dài kiểu mới nhất và chiếc dù đăng ten, giữa những tiếng xì xào của dân chúng. Ai nấy đều biết là nàng đã thuộc về Badaró rồi, nhưng còn tình hình giữa nàng và Virgílio đích xác ra sao thì có nhiều dư luận khác nhau.
Vây cánh của Badaró thì khẳng định rằng Juca đã cướp nàng khỏi tay Virgílio, còn bạn bè của Horácio thì lại quả quyết là Virgílio đã bỏ nàng từ trước. Từ lúc xuất hiện bài báo trong tờ O Comércio, những tiếng xì xào lại càng tăng lên, và ở ngoài phố, phe Badaró gọi nàng là “người đàn bà đã trả tiền ăn học cho luật sư Virgílio”. Thật là một thắng lợi cho Margot. Juca đã mở tài khoản cho nàng ở các cửa hàng và bọn nhà buôn cúi rạp người chào nàng, nói với nàng những lời ngọt xớt.
Margot kéo ghế mời y ngồi trong phòng ăn và viên đại úy ngồi xuống. Y nhận lấy tách cà phê do cô hầu đưa tới và làm nhiệm vụ chuyển lời nhắn của Juca; hắn sẽ về thăm nàng tuần sau và muốn biết nàng có cần gì không. Margot bèn tra hỏi viên đại úy những chuyện gì đã xảy ra ở đồn điền; và chính nàng cũng thấy mình có phần sở hữu trong cái cơ nghiệp nhà Badaró. Nàng hầu như đã quên hẳn Virgílio rồi và chỉ có một lần nhắc đến hắn khi hỏi viên đại úy đã đọc bài báo trong tờ O Comércio chưa.
- Khi người ta bôi nhọ tôi thì người ta phải đền tội, - nàng nói.
Nàng tiếp tục khen Manuel de Oliveira:
- Đó là một anh chàng khôn ngoan, có đầu óc vững vàng. Hơn nữa anh ta còn là một anh chàng tốt, rất vui tính. Anh ta vẫn đến chơi với tôi luôn. Anh ta thật đáng yêu biết mấy!
Viên đại úy đem lòng nghi ngờ ngay lập tức. Margot định kết với gã nhà báo chăng? Làm thế nào mà biết được? Nhưng do y cảm thấy phần nào như có một liên hệ bà con với ả, vì cả hai đều là kẻ giang hồ nơi đất lạ, y thấy cần phải khuyên ả một điều, như trong một trường hợp đã qua.
- Cô có thể cho tôi biết một điều này không? - Y hỏi. - Cô không đú đởn với thằng cha Oliveira đấy chứ, có phải không?
Ả chối nhưng không lấy gì làm cương quyết lắm.
- Tôi không thấy gì là…
- Này, thôi, để tôi khuyên cô một điều.
- Đừng nói ra làm gì với tôi, cái đó chẳng có gì là quan trọng, tôi không cần biết đến.
- Nhưng tôi muốn nói với cô thế này kia: hãy coi chừng anh em nhà Badaró! Đừng có lừa gạt họ. Nếu cô còn thiết đến cái mạng cô thì đừng có bao giờ định lừa dối một người nào trong gia đình nhà ấy. Không! Không thể lừa gạt họ được đâu!
Y nói với Margot, mà như muốn thuyết phục chính bản thân mình:
- Bỏ tất cả đi còn hơn là định làm cho họ tưởng mướp đắng là dưa chuột.

8

Hãng xuất khẩu của anh em nhà Zude và công ty ở ngay trên bến cảng, trong một tòa nhà hai tầng, tầng dưới là kho chứa ca cao, các bàn giấy thì đặt ngay ở trên gác. Hãng này là một trong số ba bốn nhà làm việc xuất khẩu từ mấy năm nay. Trước kia việc thu hoạch mùa màng ở địa phương còn ít và chỉ hạn chế trong việc tiêu thụ trong nước; nhưng dần dà việc trồng trọt càng phát triển, một số nhà buôn ở Bahia và vài người nước ngoài, người Thụy Sĩ hoặc người Đức, đã lập ra những công ty để buôn bán món hàng mới. Trong số mấy hãng này, có hãng của anh em Zude, xưa kia xuất cảng cà phê và thuốc lá. Họ đặt thêm một ngành buôn bán ca cao, mở một phòng giấy ở Ilhéus và cử đến một tay đại diện là Maximiliano Campos, một viên quản lý tóc đã bạc và giàu kinh nghiệm. Vào thời kỳ ấy, các nhà xuất khẩu thường đặt tiền trước cho các viên đại tá, bọn quản lý và nhân viên đối với họ rất khúm núm, còn bọn chủ công ty thì bao thầu các bữa ăn cho bọn điền chủ trong khi họ lưu lại ở thủ đô, và dắt họ đến các tiệm cà phê và nhà chứa. Những thương điếm chuyên trách về món ca cao chưa phát triển mấy; những chuyến buôn lớn vẫn phải giao dịch qua các hãng xuất khẩu thuốc lá, cà phê, bông và ca cao.
Vậy nên, khi Sinhô vừa leo hết những bậc thang công ty anh em nhà Zude và đẩy cánh cửa phòng viên quản lý, thì Maximiliano Campos vội vàng đứng lên và tiến ra bắt tay lão.
- Thật là một dịp may bất ngờ, thưa đại tá. - Hắn mời khách ngồi vào cái ghế tốt nhất trong phòng, ghế riêng của hắn, còn hắn ngồi xuống một cái ghế mây. - Lâu rồi, tôi không được gặp ngài, kể từ ngày tôi đến nhà ngài để đề nghị mua đợt thu hoạch mùa năm ấy.
- Tôi vẫn ở đấy, làm việc cật lực.
- Thế công việc ra sao ạ, thưa đại tá? Ngài thấy thu hoạch mùa năm nay thế nào ạ? Hình như có thể còn tốt hơn năm ngoái nhiều, phải không ạ? Tháng vừa qua, ở đây chúng tôi mua ca cao nhiều hơn cả mười hai tháng trước cộng lại. Mặc dầu một vài điền chủ lớn, như ngài chẳng hạn, chưa bán gì cả mà đã thế rồi đó.
- Cho nên tôi mới tới gặp ông, - Sinhô nói. Maximiliano Campos lại càng khúm núm hơn nữa.
- Vậy ra ngài đã quyết định không đợi thời giá hời hơn nữa? Tôi cho thế là ngài làm đúng đấy ạ, thưa ngài. Tôi không tin răng năm nay món ca cao lại được hơn mười bốn milreís một tạ và xin ngài nhớ cho rằng với cái giá mười bốn milreís thì trồng ca cao có lợi hơn là đi hát chầu đại lễ đấy! - Hắn bật cười vì cái lối nói bóng gió của mình.
- Theo ý riêng tôi, ông bạn Maximiliano ạ, tôi cho rằng nó sẽ còn được giá hơn nữa kia, ít nhất là mười lăm milreís vào cuối mùa này. Ai giữ lại được ca cao sẽ kiếm bẫm. Sản xuất sẽ không kịp nhu cầu. Người ta nói với tôi rằng ở Hoa Kỳ...
Maximiliano Campos lắc đầu:
- Đành rằng chúng tôi có khả năng tiêu thụ tất cả số ca cao có thể mua vào được. Nhưng vấn đề giá cả là do bọn “gringo”* quyết định. Ca cao của chúng ta không thể cạnh tranh được với thứ ca cao của Costa d’Ouro** đâu. Và nước Anh lại định ra giá cả. Những điền chủ các ngài, khi nào mà các ngài biến được cả cái vùng này thành đất trồng trọt, khi nào các ngài khai phá được hết cả cái khu rừng vẫn còn nguyên vẹn ở quanh chúng ta đây, lúc bấy giờ có lẽ ta mới buộc được Hoa Kỳ phải ăn giá của ta.
*[Gringo: tiếng của người Mỹ La tinh, dùng để chỉ người Hoa Kỳ một cách khinh bỉ]
**[Costa d’Ouro: Bờ biển Vàng (ở châu Phi), tên gọi cũ của Ghana]
Sinhô Badaró đứng lên khỏi ghế; râu lão rủ xuống cà vạt và mặt trước chiếc áo sơ mi.
- Đúng là ý tôi như thế đấy, ông bạn Maximiliano ạ. Tôi sắp hạ khu rừng Sequeiro Grande và trồng ca cao ở đấy. Năm năm nữa, tôi sẽ bán cho ông món hoa lời của khu đất ấy, và lúc đó ta sẽ có tiếng nói của chúng ta về vấn đề giá cả.
Điều này đối với Maximiliano không phải là tin gì mới lạ. Ở Ilhéus, ai là người không biết những dự định của anh em Badaró về khu rừng Sequeiro Grande? Nhưng người ta còn biết là Horácio cũng ấp ủ những dự định y hệt. Maximiliano bèn đưa ra nhận xét đó.
- Khu rừng ấy là của tôi, - Sinhô Badaró trả lời. - Tôi định cho đăng ký ngay hôm nay chứng khoán sở hữu tại phòng giấy của Domingos Reis. Và cầu Chúa hãy rủ lòng thương kẻ nào định dính vào chuyện này! - Lão nói những câu này với một vẻ kiên quyết, và Maximiliano Campos phải lùi lại trước ngón tay lão chìa ra. Tuy nhiên Sinhô vẫn cười và tiếp tục nói đến công việc đang thương lượng.
- Tôi muốn bán vụ thu hoạch của tôi. Bây giờ tôi bán mười hai ngàn tạ. Bán theo giá hiện nay là mười bốn milreís hai xu, tổng cộng là một trăm bảy mươi conto. Có đúng thế không?
Maximiliano làm mấy con tính.
- Thế trả bằng cách nào? - Hắn ngước mắt lên hỏi và bỏ cặp kính ra.
- Tôi không muốn lấy tiền mặt. Nhưng tôi muốn mở một tài khoản đứng tên tôi. Tôi sắp cần một món ứng trước để dùng vào việc đốn cây và trồng trọt. Mỗi tuần tôi sẽ rút ra một ít.
- Một trăm bảy mươi conto bốn trăm milreís, - Maximiliano nói sau khi đã tính xong.
Họ tiếp tục thảo luận những chi tiết. Anh em nhà Badaró đã bán ca cao cho công ty anh em nhà Zude từ mấy năm nay, và hãng xuất khẩu này chưa kính nể một khách hàng nào bằng anh em nhà Badaró. Sinhô cáo lui; hôm sau, lão sẽ tới để ký giấy bán.
- Phải, - lão nói trước khi rời phòng giấy. - Tôi sắp cần đến tiền để khai phá khu rừng, trồng ca cao, và, nên cần, để đấu tranh nữa, ông bạn Maximiliano ạ.
Mặt lão trông nghiêm nghị và cái nhìn thật khắc nghiệt trong khi lão vuốt râu. Maximiliano không biết trả lời ra sao.
- Thế còn tiểu thư Don’Ana có khỏe không ạ?
Bộ mặt của Sinhô lập tức mất vẻ cứng rắn và nở một nụ cười.
- À! Thật là một con bé dễ thương và xinh đẹp nữa. Cháu nó chả bao lâu nữa sẽ lấy chồng.
Maximiliano xuống thang gác với viên đại tá, tiễn lão ra tận phố và bắt tay thật lâu từ biệt lão:
- Xin gửi tới tôn quyến những lời chúc mừng tốt đẹp nhất, thưa đại tá.
Sinhô Badaró đi giữa phố, tay luôn luôn đưa lên mũ để đáp lại những người chào lão từ khắp phía. Một số người còn đi ngang qua phố để tới chào lão nữa.

9

Những hồi chuông rung inh ỏi vào buổi chiều ngày thánh Jorge, sự kiện lớn lao trong số các ngày lễ lớn ở Ilhéus, ngày hội vị thánh bảo trợ thiêng liêng của thành phố. Sáng hôm ấy ông thị trưởng đã đọc một bản tuyên bố ở tòa thị chính nhắc nhở tới hương hồn của Jorge de Figueiredo Correia vốn là đại úy ở Ilhéus, người đã thiết lập nhà máy lọc đầu tiên sau này bị người da đỏ tàn phá; và những vị kế tiếp ông ta đem những cành ươm ca cao đến cũng được tưởng nhớ. Luật sư Genaro đọc một bài diễn văn đầy những lời trích dẫn bằng một thứ tiếng nước ngoài mà phần đông không ai hiểu nổi.
Trong mọi cuộc nghi lễ chính thức này, phe phái của Horácio không hề tham gia; nhưng họ đều có mặt tất cả, mình vận lễ phục đen; họ đi xuống phía nhà thờ, từ đó đám rước sẽ đi diễu quanh các đường phố chính. Thầy tu Freitas bao giờ cũng cố gắng đứng ngoài cuộc hỗn chiến, các cuộc tranh chấp chính trị lục đục giữa những tay đại tá điền chủ kếch xù; cha không hề bao giờ bị mắc vào trong đó, mà vẫn giữ được mối giao hảo với anh em nhà Badaró, với Horácio, với viên thị trưởng Ilhéus và bác sĩ Jessé. Nếu cha mở một cuộc lạc quyên cho trường xơ, cha chuẩn bị sẵn hai tờ giấy, sao cho cả Sinhô Badaró lẫn Horácio không ai phải ký sau. Thành thử mỗi bên đều thỏa mãn khi nhận được tờ giấy trắng, tưởng mình là người đầu tiên ghi tên vào đấy; cái chiến lược khôn khéo ấy đem lại kết quả là kéo được chính phủ và phe đối lập, cả hai bên đều ủng hộ nhà thờ.
Về mặt này, thầy tu Freitas tỏ ra hoàn toàn rộng rãi. Cha không muốn kiếm chuyện vì đa số bọn điền chủ giàu có đều có chân trong hội Tam điểm. Đành rằng cha có giúp đỡ Sinhô Badaró khi lão này chỉ trích hội Tam điểm (bởi vì hội này đã bầu Horácio làm bậc Thầy cả*), [Cấp bậc trong hội Tam điểm] nhưng cha không ra mặt giúp mà chỉ hoạt động trong hậu trường. Cuộc đấu tranh công khai duy nhất của cha là chống lại tôn giáo của những người Anh là đạo Tin Lành. Còn trong mọi trường hợp khác, cha đều phải giữ thái độ trung dung. Vào dịp lễ cửu nhật thánh Antônio, nếu vợ Horácio làm chủ lễ lần này thì lần khác lại đến vợ Juca Badaró và Don’Ana chủ trì; trong những dịp ấy, hai bên nữ đối thủ lại cố vượt nhau và cho thả cửa đốt pháo hoa. Tháng Năm, cha cũng chỉ định một bên làm đại lễ mixa và bên kia coi sóc bàn thờ. Trong mọi dịp có thể được, cha đều lợi dụng sự kình địch này, và khi lợi ích của cha cần như vậy thì cha lại tìm cách thu xếp dàn hòa đôi bên.
Đám nam giới đứng xếp hàng chung quanh quảng trường, áo đuôi tôm cài khuy, còn phụ nữ thì đi nhanh vào nhà thờ. Ester áo quần rất sang trọng, khoác tay Horácio đi qua, cảnh này khiến ả nhớ lại những ngày sống trong trường nhà dòng ở Bahia. Khi trông thấy ả, Virgílio ngả mũ chào. Horácio đưa tay lên chào gã, và Ester nghiêng đầu, trong khi những người có mặt xì xào với những nụ cười giễu cợt. Tiếp theo đó là Sinhô và Juca Badaró, Sinhô dắt con gái, Juca dắt vợ. Đến lượt viên đại úy ngả cái mũ chóp và cúi chào rất thấp. Y mặc một chiếc áo đuôi tôm màu xám, bất chấp tục lệ và do đó, gần như gây nên một chuyện tai tiếng. Sinhô chạm tay lên vành mũ còn Don’Ana giấu mặt đằng sau chiếc quạt.
- Kìa, xin chào ông đại úy, - Juca nói to.
- Đôi tình nhân! - Một cô gái đứng sát gần họ nói.
Bác sĩ Jessé chạy tới, ướt đẫm mồ hôi. Ông ta dừng lại một lát để nói chuyện với Virgílio rồi lại tiếp tục rảo bước. Thầy cò Genaro khoan thai bước theo sau, dáng nghiêm trang và trịnh trọng, mắt dán xuống đất. Viên thị trưởng đi qua, theo sau là Maneca Dantas cùng với Dona Auricídia và các con nhỏ. Teodoro das Baraúnas ăn vận như thường ngày trừ chiếc quần trắng bong và hồ cứng thay cho chiếc quần ka ki; trên ngón tay hắn lóng lánh chiếc nhẫn nạm một viên kim cương to.
Margot cũng xuất hiện. Tuy nhiên ả không đi vào nhà thờ mà đứng ở một góc nói chuyện với Manuel de Oliveira. Đám phụ nữ vừa liếc mắt nhìn ả, vừa nhận xét về bộ cánh và cách cư xử của ả. “Nhân tình mới của Juca Badaró đấy”, một bà nói.
- Nghe nói ả ta nguyên là nhân tình của luật sư Virgílio.
- Ông ấy bây giờ có món oách hơn rồi. - Họ phá ra cười với nhau.
Những người đàn ông đi chân đất quây lấy đám đông giờ đây đã tràn ra ngoài nhà thờ và ngoài quảng trường, và tỏa đi các phố. Thầy tu Freitas và hai cha cố khác đi ra cổng lớn và tổ chức đám rước. Thoạt tiên tượng Đức Chúa nhỏ tiến ra, do một tốp trẻ em mặc đồ trắng chọn lựa trong các gia đình khá giả nhất khiêng; một đứa nhỏ trong bọn là con của Maneca Dantas. Đám rước đi xuống phố, có đội kèn đồng đi trước. Theo sau tượng Đức Chúa là học sinh các trường mặc đồng phục, có các thầy giáo kèm. Khi vừa có một khoảng trống khá rộng thì tượng Đức mẹ đồng trinh xuất hiện; do các thiếu nữ trong thành phố rước, trong số đó có Don’Ana Badaró. Khi đi ngang qua, ả mỉm cười nhìn João Magalhães và viên đại úy không khỏi nghĩ rằng ả thật giống Đức mẹ đồng trinh, mặc dù ả có nước da nâu và bức tượng thì lại bằng sứ màu xanh lơ.
Kèn đồng và đám học sinh tiến tới đâu thì đám đàn ông nín lặng tới đấy, mũ bỏ ra cầm tay, suốt dọc đường đám rước đi qua. Đám nữ học sinh các trường nhà dòng đi sau tượng Đức mẹ đồng trinh, cũng mặc đồ trắng, dải băng xanh của giáo hội quàng quanh cổ. Rồi đến lượt các bà: vợ Juca khoác tay chồng; Ester và một người bạn gái; vợ Maneca Dantas là Dona Auricídia, thấy cái gì cũng cho là “thật là tuyệt quá”. Cuối cùng, người ta dẹp chỗ cho tượng Thánh Jorge to và trang hoàng lộng lẫy, đi tiếp theo đám rước. Đức Thánh cưỡi ngựa nom rất cao lớn, đang đánh bại con rồng: bức tượng do Horácio và Sinhô Badaró khiêng ở phía trước, phía sau là thầy cò Genaro và bác sĩ Jessé. Hai người này chuyện trò thân mật, nhưng Horácio và Sinhô thì không thèm nhìn nhau lấy một cái, mà cứ tiếp tục đi đều bước rất nghiêm trang, mắt nhìn thẳng về đằng trước. Bốn người khiêng tượng này mặc áo dài đỏ trùm ra ngoài áo đuôi tôm đen.
Đoạn cuối đám rước gồm có đức cha Freitas, hai thầy tu đi kèm hai bên, và tất cả các nhân vật quan trọng trong thành phố: thị trưởng, nghị viên, chánh án, biện lý, một số luật gia và bác sĩ, các nhà trắc địa, các đại tá và nhà buôn.
Maneca Dantas và Ferreirinha, Teodoro, thầy cò Rui đi trong đám này. Cuối cùng, đám đông nhập vào đám rước: các bà mộ đạo, phụ nữ thành phố, dân chài, thợ thuyền, đàn ông đàn bà đi chân đất, đàn bà thì cầm giày trong tay, để thực hiện lời nguyền.
Đội kèn đồng bắt đầu nổi nhạc và đám rước bắt đầu đi, trật tự và chậm chạp.
Gần như cùng một lúc, luật sư Virgílio và đại úy João Magalhães rời khỏi chỗ đứng bên vỉa hè để nhập vào đám đông đi sau tượng Đức mẹ đồng trinh. Juca Badaró và Virgílio vừa lạnh lùng chào nhau thì viên đại úy đi tới, đưa mời kẹo y vừa mua. Don’Ana nghe thấy tiếng y, bèn quay đầu lại làm bức tượng đảo đi mất một lúc. Các phụ nữ khác cười thầm.
Một đám đàn ông đứng quây chung quanh Margot và nhìn đám rước đi qua.
- Này, ông thấy thế nào? - Một người trong bọn họ nói - Đại tá Horácio sát cánh với Sinhô Badaró. Và bác sĩ Jessé sát cánh với trạng sư Genaro. Thật là chuyện kỳ diệu!
Manuel de Oliveira trong một lúc bỗng quên rằng mình là chủ bút tờ báo của anh em nhà Badaró.
- Và mỗi bên, - hắn nhận xét bằng một giọng cay độc - mỗi bên đều cầu thánh giúp mình giết chết bên kia. Họ cầu nguyện với lời đe dọa ở miệng.
Margot và những người khác bật cười. Rồi tất cả nhập vào đám rước đang chậm chạp diễu qua các phố hẹp ở Ilhéus, như một con rắn khổng lồ.
Pháo hoa bay lên, vạch ngang dọc bầu trời.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét