Sát Thủ Tokyo
Tác giả: Barry Eisler
Người dịch: Khánh Vân
Nhà xuất bản Văn Học - 2014
7
Ngày hôm sau, tôi
nhận được tin nhắn từ Harry, cậu ta sử dụng một mật mã số đã được thống nhất từ
trước để nói với tôi rằng cậu ta đã tải một thứ lên Bulfinch mà chúng tôi sử dụng. Tôi cho rằng đó là địa chỉ của
Midori, và Harry đã không làm tôi thất vọng.
Cô ấy sống trong
một tòa chung cư nhỏ có tên là Harajuku Badento Haitsu - Cao ốc Xanh Harajuku -
ngay gần những đường cong duyên dáng của sân vận động Olympic Tokyo 1964 do
Tange Kenzo* thiết kế. Harajuku là ranh giới nằm vắt ngang giữa sự tĩnh mịch
cùng những rặng thông liễu uy nghiêm của công viên Yoyogi và đền Minh Trị với sự
náo nhiệt của đám thanh thiếu niên phát cuồng vì mua sắm của phố Takeshita cùng
những cửa hàng và tiệm cà phê nhỏ thanh lịch của Omotesando.
*[Tange Kenzo (1913 - 2005): Kiến trúc sư nổi tiếng
người Nhật, được coi là một trong những người làm nên bộ mặt của kiến trúc thế
kỉ XX]
Harry khẳng định
rằng Midori không có chiếc ô tô nào được đăng kí với Cục Quản lí Xe Cơ giới
Tokyo, có nghĩa là cô ấy sẽ phụ thuộc vào tàu: một là JR*, mà cô ấy sẽ bắt ở ga
Harajuku, hai là một trong các tuyến tàu điện ngầm mà cô ấy sẽ lên ở
Meiji-jingumae hoặc Omotesando.
*[Đường sắt Nhật Bản, một tập đoàn nắm giữ hầu hết hoạt
động đường sắt Nhật]
Vấn đề là, nhà ga
JR nằm ngược chiều với nhà ga tàu điện ngầm, và khả năng cô ấy chọn một trong
hai phương tiện đó là như nhau. Vì không có một vị trí yết hầu nào dẫn đến cả
hai nhà ga, nên tôi chẳng có cơ sở nào để chọn lựa. Tôi sẽ phải tìm địa điểm hợp
lí nhất để chờ đợi và quan sát rồi dựa vào đó mà quyết định.
Đại lộ
Omotesando, nơi các ga tàu điện ngầm tọa lạc, là nơi phù hợp nhất. Được biết đến
với cái tên “Champs Elysées* của Tokyo”,
mặc dù chủ yếu giữa những người chưa từng đặt chân tới Paris, Omotesando là một
đại lộ mua sắm dài với hai hàng du ven đường, mỗi mùa thu, những chiếc lá hẹp của
chúng lại tạo nên một vòng vương miện và sau đó là một tấm thảm vàng tuyệt đẹp
trong vài ngày. Nhiều quán rượu nhỏ và tiệm cà phê nơi đây được thiết kế theo
phong cách Paris để các vị khách có thể ngắm nhìn người đi đường qua lại, và
tôi có thể dành một hai tiếng để quan sát đường phố từ vài địa điểm khác nhau
mà không thu hút sự chú ý.
*[Tên của một đại lộ lớn, đẹp và nổi tiếng của thủ đô
Paris, Pháp]
Tuy nhiên, nếu
thiếu may mắn, tôi sẽ gánh chịu một vài ngày chờ đợi và quan sát cực kì nhàm
chán. Nhưng Harry có một phát minh có thể cứu nguy cho tôi: một cách để biến
chiếc điện thoại thành một cái micro từ một nơi xa xôi.
Trò này chỉ hiệu
quả với các điện thoại kĩ thuật số có tính năng loa ngoài, khi đường dây vẫn được
kết nối mà không cần phải nhấc ống nghe. Tín hiệu không rõ lắm, nhưng anh vẫn
có thể nghe thấy. Tiên liệu trước hành động tiếp theo của tôi, Harry đã thử đường
dây của Midori hộ tôi và cho tôi biết rằng chúng tôi đã có thể sẵn sàng hành động.
Vào mười giờ sáng
thứ bảy tuần sau, tôi đến tiệm cà phê Aoyama Blue Mountain trên đại lộ
Omotesando, mang theo một thiết bị nhỏ dùng để kích hoạt điện thoại của Midori
và một cái di động để nghe bất cứ thứ gì mà tôi kết nối tới. Tôi chọn một cái
bàn nhỏ hướng ra đường, gọi một tách cà phê espresso từ nữ nhân viên phục vụ
trông có vẻ chán chường. Quan sát những đám khách bộ hành thưa thớt của buổi
sáng lướt qua, tôi bật công tắc trên thiết bị và nghe một tiếng xì xì khe khẽ
trong ống nghe cho tôi biết rằng kết nối đã được thiết lập. Ngoài ra, chỉ có sự
im lặng. Chẳng còn việc gì khác để làm ngoài chờ đợi.
Một nhóm thợ xây
đã tụ tập lại cách cửa Blue Mountain vài mét, sửa những cái ổ gà trên đường. Bốn
công nhân bận rộn trộn sỏi và tính toán lượng nguyên vật liệu thích hợp - công
việc này chỉ cần cùng lắm là hai người thôi, nhưng yakuza, mafia của Nhật Bản, hoạt động mật thiết với ngành công nghiệp
xây dựng và đòi hỏi rằng các công nhân đều phải có việc làm. Chính phủ, hài
lòng với cách tạo thêm công ăn việc làm này, cũng đồng lõa. Tình trạng thất
nghiệp được giữ ở mức độ xã hội chấp nhận được. Guồng máy cứ thế vận hành.
Là thứ trưởng của
Kokudokotsusho, cha của Midori sẽ chịu trách nhiệm về vấn đề xây dựng và phần lớn
các dự án công trình công cộng chính trên khắp đất nước Nhật Bản. Ông ta chắc hẳn
đã lún sâu vào chuyện này. Không ngạc nhiên gì khi có người muốn ông ta chết sớm.
Hai người đàn ông
trung niên mặc com lê đen và đeo cà vạt, trang phục dự tang lễ hiện đại của người
Nhật, rời tiệm cà phê, và mùi sỏi nóng thoảng đưa tới bàn của tôi. Thứ mùi này
gợi nhắc tôi nhớ đến tuổi thơ Nhật Bản, về những ngày cuối hè khi mẹ dẫn tôi đến
trường trong ngày đầu tiên của năm học mới. Vào thời điểm đó trong năm, các con
đường luôn có vẻ đang trong quá trình lát lại, và với tôi loại hình xây dựng
này vẫn luôn tỏa ra điềm báo về một loạt những trò bắt nạt và tẩy chay mới.
Đôi khi tôi cảm
thấy cuộc đời mình như đã bị phân chia thành từng đoạn nhỏ. Đáng lẽ tôi phải gọi
chúng là các chương, nhưng chúng bị phân chia quá đột ngột đến mức tổng thể thiếu
đi cái tính liên tục mà các chương sẽ đem lại. Đoạn đầu tiên kết thúc khi cha
tôi bị giết, một sự kiện làm sụp đổ cái thế giới an toàn và có thể tiên liệu,
và thay bằng sự yếu đuối và sợ hãi. Một sự gián đoạn khác là khi tôi nhận được
điện tín của quân đội thông báo rằng mẹ tôi đã qua đời, và cho phép tôi về Mỹ để
chịu tang. Cùng với sự ra đi của mẹ, tôi đã mất đi một trọng tâm cảm xúc, một sự
chi phối tâm lí từ xa cho hành vi của mình, và chỉ còn lại một cảm giác tự do mới
mẻ và khủng khiếp đang ngập tràn. Campuchia là một sự đứt quãng khác nữa, một
bước lún sâu hơn vào bóng tối.
Kì lạ thay, thời
điểm mẹ dẫn tôi rời Nhật để tới Mỹ không được coi là một mốc ranh giới, kể cả hồi
đó lẫn bây giờ. Tôi là kẻ ngoại cuộc ở cả hai nơi, và sự di chuyển này chỉ càng
khẳng định tình trạng đó. Những lần lang bạt của tôi sau này cũng vậy. Trong cả
một thập kỉ sau đám tang của Jake Khùng, tôi đã lê la khắp nơi trên trái đất
như một tên lính đánh thuê, thách thức các thánh thần giết tôi, nhưng cuối cùng
vẫn sống sót bởi vì một phần trong tôi đã chết.
Tôi đang chiến đấu
bên cạnh những người Li Băng theo đạo Cơ Đốc ở thủ đô Beirut thì CIA tuyển dụng
tôi để đào tạo lực lượng du kích Hồi giáo chiến đấu chống lại Liên Xô ở
Afghanistan. Tôi là kẻ lí tưởng: kinh nghiệm chiến đấu dồi dào, và một lịch sử
làm lính đánh thuê có thể khiến chính phủ dễ dàng phủ nhận mối liên hệ với tôi.
Đối với tôi, lúc
nào cũng đang tồn tại một cuộc chiến, và khoảng thời gian trước đó cứ ngỡ như
không thực, giống như vừa mơ. Chiến tranh là nền tảng để tôi tiếp cận mọi thứ
khác. Chiến tranh là tất cả những gì tôi biết rõ. Anh có biết một câu chuyện ngụ
ngôn của đạo Lão không? Một người mơ thấy mình là một con bướm, thế rồi ông ta
tỉnh dậy và bắt đầu tự hỏi phải chăng mình là một con bướm đang mơ làm người?
Qua mười một giờ
một chút, tôi nghe thấy những chuyển động trong căn hộ của Midori. Tiếng bước
chân, sau đó là tiếng nước chảy, có lẽ cô ấy đang tắm. Tôi chợt nhớ ra cô ấy
làm việc vào ban đêm; lẽ dĩ nhiên cô ấy sẽ dậy muộn. Sau đó, gần giữa trưa, tôi
nghe tiếng cửa bên ngoài đóng lại và tiếng bấm khóa, và tôi biết cuối cùng cô ấy
đã lên đường.
Tôi trả tiền cho
hai tách espresso mà tôi đã uống và bước ra đại lộ Omotesando, bắt đầu thong thả
bước về phía ga JR Harajuku. Tôi muốn đến cầu vượt bộ hành ở Harajuku. Nó sẽ
cho tôi một tầm nhìn bao quát, nhưng cũng sẽ dễ dàng khiến tôi bị lộ, vì vậy
tôi sẽ không thể nán lại đó lâu.
Tôi tính toán thời
gian thật khéo. Tôi chỉ phải đợi trên cầu vượt khoảng một phút thì thấy cô ấy.
Cô ấy đang đi tới từ tòa nhà của mình và rẽ phải vào đại lộ Omotesando. Tôi sẽ
dễ dàng theo cô ấy từ chỗ đó.
Tóc cô ấy được buộc
theo kiểu đuôi ngựa, đôi mắt đen giấu sau cặp kính râm. Cô ấy đang mặc chiếc quần
đen bó sát và cái áo len cổ chữ V màu đen, sải bước tự tin, có chủ đích. Tôi phải
thừa nhận rằng trông cô ấy thật đẹp.
Đủ rồi, tôi tự nhủ. Cô ta đẹp hay xấu cũng chẳng liên quan gì đến
chuyện này.
Cô ấy đang xách một
cái túi mua sắm, nhờ vào màu gỗ thích nổi bật của nó mà tôi nhận ra nó thuộc
hãng Mulberry, một hãng sản xuất đồ da của Anh. Họ có một cửa hàng ở Minami
Aoyama, và tôi tự hỏi có phải cô ấy đang mang thứ gì đó đi trả không.
Nửa chừng đến đường
Aoyama, cô ấy rẽ vào cửa hàng Paul Stuart. Tôi có thể theo cô ấy vào đó, vờ như
tình cờ chạm trán cô ấy, nhưng tôi tò mò muốn biết cô ấy còn định đi đâu nữa,
và quyết định chờ đợi. Tôi rẽ vào Fouchet Gallery phía đường đối diện, ngắm
nghía vài bức tranh ở chỗ tôi có thể nhìn ra ngoài đường trong khoảng hai mươi
phút, cho đến khi cô ấy bước ra, tay cầm một cái túi mua sắm của hãng Paul
Stuart.
Điểm dừng tiếp
theo của cô ấy là Nicole Farhi London. Lần này tôi đợi cô ấy ở Aoyama Flower
Market, nằm ở tầng trệt của tòa nhà La Mia. Từ đó, cô ấy tiếp tục rẽ vào một loạt
những con phố nhỏ vô danh ở Omotesando, thi thoảng dừng lại để ngó qua một cửa
hàng, cho đến khi tới đường Koto thì rẽ phải. Tôi đi theo cô ấy, duy trì vị trí
đằng sau và ở phía lề bên kia, cho đến khi thấy cô ấy rẽ vào Le Ciel Bleu.
Tôi bước vào cửa
hàng Tokyo J. M. Weston, ngắm nghía những đôi giày làm thủ công trong các tủ
kính bày hàng với một góc độ cho phép tôi quan sát được Le Ciel Bleu. Tôi suy
ngẫm. Có vẻ như cô ấy chủ yếu chuộng đồ Âu. Cô ấy tránh những cửa hàng to, kể cả
những cửa hàng sang trọng. Và có vẻ sắp đi trọn một vòng quãng đường đưa cô ấy
về lại căn hộ của mình. Và cô ấy vẫn đang xách cái túi Mulberry.
Nếu cô ấy thực sự
đang trên đường đem trả thứ gì đó, tôi sẽ có cơ hội tới đó trước. Đó là một điều
mạo hiểm bởi vì nếu tôi đợi sẵn ở đó mà cô ấy lại đi đường khác thì tôi sẽ mất
dấu cô ấy. Nhưng nếu tôi đoán đúng và có mặt ở điểm dừng tiếp theo trước khi cô
ấy tới, cuộc gặp gỡ sẽ có vẻ giống với một sự tình cờ hơn là kết quả của một cuộc
theo dõi.
Tôi rời cửa hàng
Weston và đi thật nhanh ngược lên đường Koto, vừa đi vừa nhìn các tủ kính bày
hàng để ngoảnh mặt khỏi vị trí của Midori. Khi đã ra khỏi tầm nhìn của Le Ciel
Bleu, tôi băng sang đường và đi vào cửa hàng Mulberry. Tôi dạo bước qua gian
hàng dành cho nam giới, nói với bà chủ rằng tôi chỉ xem đồ thôi, và bắt đầu ngắm
nghía vài cái va li đang trưng bày.
Năm phút sau, cô ấy
bước vào cửa hàng như tôi đã hi vọng, gỡ cặp kính râm và đáp lại lời chào irasshaimase của bà chủ với một cái cúi
đầu nhẹ nhàng. Giữ cô ấy trong giới hạn tầm nhìn ngoại biên của mình, tôi nhấc
một cái va li lên, như thể đang kiểm tra trọng lượng của nó. Từ góc độ này, tôi
cảm thấy ánh mắt cô ấy dừng lại ở tôi và nán lại lâu hơn mức một cái liếc mắt
không chủ đích quanh cửa hàng cho phép. Tôi kiểm tra cái va li lần cuối, rồi đặt
nó xuống giá và ngẩng lên. Cô ấy vẫn đang nhìn tôi, đầu khẽ nghiêng sang bên phải.
Tôi chớp mắt một
lần, như thể ngạc nhiên, và tiến đến chỗ cô ấy.
- Cô Kawamura, -
tôi nói bằng tiếng Nhật. - Quả là một bất ngờ thú vị. Tôi mới gặp cô ở Câu lạc
bộ Alfie hôm thứ sáu vừa rồi. Cô là một nghệ sĩ tuyệt vời.
Cô ấy âm thầm
đánh giá tôi một lúc lâu trước khi trả lời, và tôi mừng vì canh bạc của mình đã
thắng lợi. Tôi cảm nhận rằng người phụ nữ thông minh này sẽ hoài nghi những sự
tình cờ, và nếu tôi bước sau, cô ấy có thể sẽ ngờ rằng mình đã bị theo dõi.
- Vâng, tôi nhớ,
- cuối cùng cô ấy nói. - Anh là người nghĩ rằng nhạc jazz giống như tình dục. -
Trước khi tôi có thể nghĩ ra một câu đáp thích hợp, cô ấy tiếp tục, - Anh không
cần phải nói như thế, anh biết đấy. Anh có thể cố gắng khoan dung hơn.
Lần đầu tiên, tôi
có cơ hội nhìn thấy thân hình cô ấy. Cô ấy mảnh mai và có tay chân dài, có lẽ
được di truyền từ cha cô ấy, người có chiều cao nổi trội khiến tôi dễ dàng theo
dõi trên phố Dogenzaka. Đôi vai cô ây rộng và hòa hợp với cái cổ dài duyên
dáng. Khuôn ngực nhỏ, và, tôi khó lòng ngăn mình không để ý, cân đối bên dưới
cái áo len. Làn da trên vùng ngực để lộ của cô ấy đẹp tuyệt: mịn màng và trắng
ngần, được đóng khung trong thứ màu đen đối lập của cái áo cổ chữ V.
Tôi nhìn vào đôi
mắt đen của cô ấy, và cảm thấy thôi thúc đấu khẩu thường lệ đã tiêu tan đâu mất.
- Cô nói đúng, -
tôi nói. - Tôi xin lỗi.
Cô ấy chớp mắt và
lắc đầu.
- Anh có thích buổi
biểu diễn không?
- Rất thích. Tôi
có đĩa CD của cô, và đã nuôi ý định đi nghe cô và nhóm tam tấu của cô từ lâu rồi.
Nhưng tôi phải đi đi lại lại nhiều quá, và mãi đến bây giờ mới có cơ hội đầu
tiên.
- Anh đi những
đâu vậy?
- Chủ yếu là Mỹ
và châu Âu. Tôi là một nhà tư vấn, - tôi nói với giọng điệu ám chỉ rằng công việc
sẽ là một chủ đề nhàm chán với tôi. - Chẳng hề thú vị như một nghệ sĩ dương cầm
chơi nhạc jazz.
Cô ấy mỉm cười.
- Anh nghĩ làm
nghệ sĩ dương cầm chơi nhạc jazz là thú vị ư?
Cô ấy có thói
quen lặp lại điều cuối cùng người khác vừa nói như một nhà thẩm vấn, khuyến
khích họ chia sẻ thêm. Điều này không có tác dụng với tôi.
- Chà, để tôi nói
rõ hơn nhé, - tôi nói. - Tôi không nhớ có ai từng gợi ý với tôi rằng công việc
tư vấn giống với tình dục cả.
Cô ấy ngửa đầu ra
sau và cười, không thèm làm cái điệu bộ dễ thương không cần thiết của phụ nữ Nhật
điển hình là lấy tay che miệng, và một lần nữa tôi sửng sốt trước sự tự tin lạ
thường của cô ấy.
- Rất hay, - cô ấy
nói sau một thoáng ngừng, khoanh tay trước ngực và đôi môi vẫn tủm tỉm.
Tôi mỉm cười đáp
lại.
- Hôm nay cô có kế
hoạch gì vậy? Đi mua sắm một chút à?
- Một chút. Còn
anh?
- Giống như cô
thôi. Đã đến lúc tôi cần mua một cái va li mới. Những nhà tư vấn như bọn tôi phải
giữ gìn hình ảnh, cô biết đấy. - Tôi liếc nhìn túi đồ cô ấy đang xách. - Tôi thấy
cô có vẻ chuộng đồ của Paul Stuart. Đó sẽ là điểm đến tiếp theo của tôi.
- Đó là một cửa
hàng tốt. Tôi biết nó từ hồi còn ở New York, và đã rất vui khi họ mở một chi
nhánh ở Tokyo.
Tôi khẽ nhướng
mày.
- Cô từng ở New
York một thời gian dài à?
- Ngắn thôi, - cô
ấy nói với nụ cười mủm mỉm, nhìn thẳng vào mắt tôi.
Chết tiệt, cô ấy thật ghê gớm, tôi nghĩ. Hãy thử thách cô ấy.
- Tiếng Anh của
cô thế nào? - Tôi hỏi, không dùng tiếng Nhật nữa.
- Đủ dùng, - cô ấy
nói, không lỡ một nhịp.
- Cô muốn uống một
tách cawfee [cà phê] không? - Tôi hỏi,
vẫn nói tiếng Anh và dùng giọng Brooklyn.
Cô ấy lại mỉm cười.
- Giọng
anh khá chuẩn đấy.
- Lời mời của tôi
cũng thành thật như vậy.
- Tôi tưởng
anh định đến Paul Stuart.
- Tôi đã định thế.
Nhưng chợt thấy khát quá. Cô biết tiệm cà phê Tsuta không? Nó tuyệt lắm. Và ở
ngay gần đây, trên một con phố nhánh của đường Koto thôi.
Tay cô ấy vẫn
khoanh trước ngực.
- Tôi không biết.
- Vậy thì cô phải
thử nó. Cà phê bà Koyama pha chế là ngon nhất Tokyo này đấy, và cô có thể vừa uống
vừa nghe Bach hoặc Chopin, nhìn ra một khu vườn bí mật tuyệt vời.
- Một khu vườn bí
mật? - Cô ấy hỏi, câu giờ, tôi biết mà. - Bí mật gì vậy?
Tôi nhìn cô ấy với
vẻ nghiêm túc.
- Bà Koyama nói rằng
nếu tôi tiết lộ với cô, tôi sẽ phải giết cô. Vì vậy tốt hơn là cô nên tự mình đến
xem.
Cô ấy lại cười, bị
dồn vào thế bí nhưng có vẻ không bận tâm.
- Tôi nghĩ tôi cần
biết tên anh trước, - cô ấy nói.
- Fujiwara
Junichi, - tôi đáp, cúi đầu một cách máy móc. Fujiwara là họ của cha tôi.
Cô ấy cúi đầu đáp
lại.
- Hân hạnh được gặp
anh, anh Fujiwara.
- Hãy để tôi giới
thiệu cô với Tsuta, - tôi nói, mỉm cười, và chúng tôi khởi hành.
Quãng đường đến
Tsuta mất chưa đến năm phút, vừa đi chúng tôi vừa nói chuyện về những thay đổi
của thành phố trong những năm qua, về nỗi tiếc nhớ của chúng tôi với ngày xưa,
khi đại lộ trước mặt công viên Yoyogi cấm tất cả xe cộ vào các ngày chủ nhật và
tổ chức một lễ hội hóa trang sôi động, khi diện mạo của nhạc jazz Nhật mới đang
hình thành trong một nghìn quán bar dưới tầng hầm và tiệm cà phê, khi chưa có
Tòa thị chính mới bóng bẩy ở Shinjuku và khu vực này vẫn còn tràn ngập những ước
mơ, lãng mạn và can đảm. Tôi thích nói chuyện với cô ấy, và biết rằng trong chừng
mực nào đó, điều này thật kì lạ, thậm chí có thể gây phiền phức.
Chúng tôi đã gặp
may, và một trong hai cái bàn trông ra khu vườn bí mật của Tsuta qua một cửa sổ
ngắm cảnh cỡ lớn vẫn đang còn trống và chờ đợi chúng tôi. Nếu chỉ có một mình,
tôi thường chọn ngồi ở quầy, thích thú quan sát những thao tác chuẩn bị cà phê
đầy thành kính của bà Koyama, nhưng hôm nay tôi muốn một không khí có lợi hơn
cho cuộc trò chuyện. Mỗi người chúng tôi gọi một tách cà phê đen nhỏ đặc trưng
của quán, được pha chế từ loại cà phê rang kĩ nguyên chất nhất, và ngồi vuông
góc với nhau, để cả hai đều có thể nhìn thấy khu vườn.
- Cô sống ở Tokyo
bao lâu rồi? - Tôi hỏi, khi chúng tôi đã yên vị.
- Thật ra tôi cứ
đi đi về về ấy mà, - cô ấy nói, chậm rãi khuấy một thìa đường trong tách cà phê
đen. - Hồi nhỏ tôi có vài năm sống ở nước ngoài, nhưng chủ yêu lớn lên ở Chiba,
thành phố cạnh đây. Hồi niên thiếu tôi thường xuyên đến Tokyo, cố gắng lẻn vào
các câu lạc bộ nhạc sống và nghe jazz. Sau đó tôi sang New York bốn năm, học ở
trường Julliard. Và cuối cùng lại trở về Tokyo. Còn anh?
- Cũng như cô thôi
- đi đi về về suốt cả cuộc đời.
- Và anh học được
cách gọi cà phê đúng giọng New York ở đâu vậy?
Tôi nhấp một ngụm
chất lỏng đắng đót trước mặt và cân nhắc câu trả lời. Tôi hiếm khi chia sẻ những
chi tiết tiểu sử của mình. Những việc tôi đã làm, và tiếp tục làm, đã nhuốm lên
người tôi một vết nhơ, như Jake Khùng từng nói, và, cho dù dấu vết đó là vô
hình đối với phần lớn thế giới rộng lớn ngoài kia, nhưng tôi luôn ý thức được sự
tồn tại của nó. Sự thân mật không còn là điều quen thuộc với tôi. Đôi khi tôi
nhận ra với một chút tiếc nuối rằng có lẽ nó không còn tồn tại nữa.
Tôi không có mối
quan hệ tình cảm thực thụ nào ở Nhật từ khi ẩn mình trong bóng tối. Có vài cuộc
hẹn hò hời hợt mà tôi đi gặp cho có lệ. Tatsu, và vài người bạn khác mà tôi
không còn gặp gỡ nữa, thi thoảng cố gắng giới thiệu tôi với những người phụ nữ
mà họ biết. Nhưng những mối quan hệ ấy sẽ đi đến đâu, khi hai chủ đề nói rõ tôi
nhất lại là điều cấm kị, không thể đề cập tới? Thử tưởng tượng ra cuộc đối thoại
này xem: “Tôi từng phục vụ quân đội ở Việt
Nam.”. “Sao lại thế được?”. “Tôi mang trong mình nửa dòng máu Mỹ, cô thấy đấy,
một người lai”.
Thi thoảng tôi gặp
một vài phụ nữ hành nghề mizu shobai,
cách Nhật Bản gọi kĩ nữ. Chúng tôi quen nhau đã lâu nên mối quan hệ giữa chúng
tôi không còn dựa trên cơ sở “tiền trao cháo múc” nữa, thay thế cho nó là những
món quà đắt tiền, và trong chừng mực nào đó chúng tôi thậm chí còn cảm mến
nhau. Họ đều cho rằng tôi đã có vợ, một giả định khiến tôi dễ dàng giải thích
thói quen cảnh giác của mình. Và giả định đó cũng hợp lí hóa cho tính thất thường,
lúc có lúc không của mối quan hệ giữa chúng tôi, và sự kín tiếng của tôi về những
chi tiết cá nhân.
Nhưng Midori cũng
khá kín tiếng về cô ấy, dù cô ấy vừa mở lòng kể cho tôi nghe một chút về tuổi
thơ. Tôi biết rằng nếu tôi không đáp lại, tôi sẽ không biết được gì thêm về cô ấy.
- Tôi lớn lên ở cả
hai đất nước, - tôi nói sau một khoảng lặng kéo dài. - Tôi chưa bao giờ sống ở
New York, nhưng thi thoảng có đến đó, và biết vài ngữ giọng ở đó.
Đôi mắt cô ấy mở
to.
- Anh lớn lên cả ở
Nhật và Mỹ ư? Sao lại thế được?
Tách cà phê tiếp
tục được đưa lên, và cô ấy nhấp một ngụm.
- Anh sống ở đâu
nhiều hơn?
- Tôi sống ở Nhật
đến năm mười tuổi, sau đó chủ yếu sống ở Mỹ. Tôi quay lại đây vào đầu những năm
tám mươi.
- Với cha mẹ?
Tôi lắc đầu.
- Không. Họ đều
đi xa rồi.
Tôi nhấn mạnh từ
đi xa, và cô ấy gật đầu thông cảm.
- Từ lúc anh còn
nhỏ?
- Mới mười mấy tuổi,
- tôi nói chung chung, vẫn cố gắng giữ sự mập mờ mỗi khi có thể.
- Thật khủng khiếp,
khi mất cả cha lẫn mẹ lúc còn quá nhỏ như vậy. Anh có gần gũi với họ không?
Gần gũi ư? Mặc dù
khuôn mặt tôi mang đậm những nét đặc trưng châu Á của ông, và ông đã kết hôn với
một người Mỹ, nhưng tôi tin rằng cha tôi có một sự coi trọng quá mức về vấn đề
chủng tộc như một người Nhật điển hình. Việc tôi bị bắt nạt ở trường đã khiến
ông vừa tức giận vừa xấu hổ.
- Khá gần gũi,
tôi cho rằng vậy. Họ mất lâu rồi mà.
- Anh có nghĩ đến
chuyện quay lại Mỹ không?
- Có lúc tôi đã
nghĩ vậy, - tôi nói, nhớ lại rằng mình đã bị cuốn vào công việc này thế nào đến
nỗi bây giờ có vẻ như tôi đã bị gắn với nó vĩnh viễn. - Sau khi quay lại Nhật
lúc trưởng thành, trong mười năm đầu, lúc nào tôi cũng tự nhủ rằng tôi sẽ chỉ ở
thêm một năm nữa thôi rồi sau đó quay lại. Bây giờ thì tôi thực sự không còn
nghĩ như vậy nữa.
- Anh có cảm thấy
Nhật Bản là nhà của mình không?
Tôi nhớ lại điều
Jake Khùng đã nói với tôi, ngay trước khi tôi làm điều cậu ta đề nghị. Chúng ta không có nơi nào là nhà, John ạ.
Sau những gì chúng ta đã làm.
- Tôi cho rằng nó
đã trở thành nhà của tôi, - tôi nói sau một lúc lâu. - Còn cô? Cô có muốn quay
lại sống ở Mỹ không?
Cô ấy đang nhẹ
nhàng gõ gõ lên tách cà phê, những ngón tay chuyển động như sóng gợn từ ngón út
đến ngón trỏ, và tôi nghĩ, Cô ấy đang biểu
diễn tâm trạng của mình. Bàn tay tôi
sẽ làm gì nếu tôi có thể làm việc đó?
- Tôi thực sự yêu
New York, - cô ấy nói sau một thoáng, mỉm cười trước một kí ức nào đó, - và tôi
muốn quay lại nơi ấy, dù chỉ trong một thời gian. Quản lí của tôi nghĩ rằng ban
nhạc không còn cách thành công bao xa nữa. Chúng tôi sẽ có một buổi biểu diễn ở
Vanguard vào tháng Mười một; điều đó sẽ thực sự đưa tên tuổi chúng tôi xuất hiện
trên bản đồ âm nhạc.
Village Vanguard,
thánh địa của nhạc jazz sống ở Manhattan.
- Vanguard ư? -
Tôi nói, bị ấn tượng. - Nó đã có lịch sử lâu đời. Coltrane, Miles Davis, Bill
Evans, Thelonious Monk, toàn những người nổi tiếng.
- Đó là một cơ hội
lớn, - cô ấy nói, gật đầu.
- Cô có thể dùng
nó làm đòn bẩy, biến New York thành bệ phóng cho cô, nếu cô muốn.
- Chúng tôi sẽ
xem thế nào. Đừng quên là tôi đã từng sống ở New York. Đó là một nơi tuyệt vời,
có lẽ là nơi thú vị nhất mà tôi từng ở. Nhưng sống ở đó cũng giống như đang bơi
dưới mặt nước vậy, anh biết chứ? Ban đầu anh cảm thấy anh có thể bơi như vậy
mãi, quan sát mọi thứ từ một góc nhìn mới, nhưng cuối cùng anh cũng phải ngoi
lên hít thở không khí. Sau bốn năm, tôi đã trở về nhà.
Đây chính là cơ hội
tốt để bắt đầu.
- Hẳn là cha mẹ
nuông chiều cô lắm, nên mới sẵn sàng để cô sống ở nước ngoài lâu như vậy.
Cô ấy mỉm cười gượng
gạo.
- Mẹ tôi mất hồi
tôi còn nhỏ - giống như anh vậy. Cha tôi đã gửi tôi đến Julliard. Ông ấy yêu nhạc
jazz và rất hoan hỉ khi tôi muốn trở thành một nghệ sĩ dương cầm chơi nhạc
jazz.
- Mama nói với
tôi ông ấy vừa mất, - tôi nói, nghe thấy âm điệu đều đều của những lời nói ấy
vang vọng trong tai. - Tôi rất tiếc.
Cô ấy cúi đầu đáp
lại lời chia buồn của tôi, và tôi hỏi:
- Ông ấy làm nghề
gì?
- Ông ấy là một
quan chức.
Đây là một nghề
danh giá ở Nhật Bản, và từ kanryo
trong tiếng Nhật không có những ý nghĩa tiềm ẩn tiêu cực giống như từ tương
đương với nó trong tiếng Anh.
- Thuộc bộ nào?
- Trong phần lớn
sự nghiệp, ông ấy thuộc Kenketsusho.
Bộ Xây dựng.
Chúng tôi đang có
vài bước tiến triển. Tôi nhận ra sự lợi dụng này đang khiến tôi khó chịu. Kết thúc trò phỏng vấn này thôi, tôi
nghĩ. Rồi biến đi thật lẹ. Cô ấy làm mày
bị phân tán tư tưởng; thật là nguy hiểm.
- Xây dựng hẳn là
một lĩnh vực ngột ngạt đối với một người mê nhạc jazz, - tôi nói.
- Thi thoảng nó
cũng khiến ông ấy không thoải mái, - cô ấy thừa nhận, và đột nhiên tôi cảm nhận
được sự thận trọng của cô ấy. Tư thế cô ấy không thay đổi, vẻ mặt vẫn vậy,
nhưng không hiểu sao tôi biết cô ấy đã định nói nhiều hơn nhưng rồi lại thôi. Nếu
tôi có động đến một vấn đề nhạy cảm, thì cô ấy cũng không để lộ cho tôi biết.
Cô ấy không mong tôi nhận ra điều đó.
Tôi gật đầu, hi vọng
nó mang tính an ủi.
- Tôi có biết đôi
chút về việc không thoải mái trong môi trường của mình. Ít nhất con gái của cha
cô không có những vấn đề như thế - biểu diễn ở Alfie là việc rất có ý nghĩa với
một nghệ sĩ dương cầm chơi nhạc jazz.
Tôi cảm thấy sự
căng thẳng kéo dài thêm một giây, rồi cô ấy khẽ cười như thể đã quyết định
buông bỏ điều gì đó. Tôi không chắc mình đã chạm phải vấn đề gì và sẽ suy nghĩ
về nó sau.
- Chà, bốn năm ở
New York, - tôi nói. - Quả là một thời gian dài. Cô hẳn phải có một cách nhìn rất
khác khi cô quay về.
- Đúng vậy. Người
từ nước ngoài trở về không còn là người đã rời đi ban đầu.
- Ý cô là gì?
- Quan điểm của
anh thay đổi. Anh không còn coi mọi điều là chuyện đương nhiên như trước đây nữa.
Chẳng hạn, ở New York, tôi nhận thấy khi một chiếc tắc xi tạt đầu một chiếc tắc
xi khác, người tài xế bị tạt đầu sẽ luôn quát tháo người tài xế kia và làm thế
này. - cô ấy bắt chước một cách hoàn hảo một cử chỉ khiếm nhã của cánh tài xế tắc
xi ở New York. - và tôi nhận ra đó là vì người Mỹ cho rằng đối phương cố tình
làm thế, nên họ muốn dạy cho người đó một bài học. Nhưng anh biết đấy, ở Nhật,
người ta hầu như không bao giờ bực tức trong những tình huống như vậy. Người Nhật
coi lỗi lầm của người khác là một việc không chủ định, như thời tiết ấy, tôi
nghĩ vậy, chứ không phải như một điều đáng để giận dữ. Tôi đã không nghĩ tới điều
đó trước khi sống ở New York.
- Tôi cũng nhận
ra sự khác biệt đó. Tôi thích cách của người Nhật hơn. Đó là một điều đáng ao ước.
- Nhưng anh là
ai? Người Nhật hay người Mỹ? Ý tôi là cách nhìn của anh, - cô ấy vội vã nói
thêm, vì sợ xúc phạm đến tôi khi hỏi một câu quá thẳng thừng như vậy.
Tôi nhìn cô ấy,
thoáng nghĩ đến cha cô. Tôi nghĩ về những người mà tôi đã và đang làm việc
cùng, và tự hỏi cuộc sống của tôi sẽ thay đổi thế nào nếu tôi chưa bao giờ biết
họ.
- Tôi không rõ nữa,
- cuối cùng tôi nói, nhìn đi chỗ khác. - Như cô có vẻ đã nhận thấy lúc ở Alfie,
tôi không phải là người độ lượng cho lắm.
Cô ấy ngừng lại.
- Tôi có thể hỏi
anh một câu không?
- Dĩ nhiên, - tôi
đáp, không biết điều gì sẽ xảy đến.
- Ý anh là gì,
khi anh nói chúng tôi đã “cứu” anh?
- Đó chỉ là một
cách bắt chuyện thôi, - tôi nói. Lời giải thích ấy nghe có vẻ khiếm nhã, và khi
nhìn vào mắt cô ấy, tôi lập tức nhận ra đó là một câu đáp sai lầm.
Mày phải bộc lộ với cô ấy một chút, tôi lại nghĩ, không rõ liệu tôi đang thỏa hiệp hay đang biện minh.
Tôi thở dài.
- Tôi đang nói về
những điều tôi đã làm, những điều mà tôi biết - hoặc cứ nghĩ rằng tôi biết - là
đúng đắn, - tôi nói, chuyển sang tiếng Anh, nó khiến tôi thấy thoải mái hơn khi
trò chuyện về chủ đề này. - Nhưng sau đó hóa ra lại không phải. Thi thoảng những
điều đó lại ám ảnh tôi.
- Ám ảnh anh ư? -
Cô ấy hỏi, không hiểu rõ ý tôi.
- Borei no yo ni. (Như một hồn ma).
- Tiếng đàn của
tôi đã xua những hồn ma đó đi à?
Tôi gật đầu và mỉm
cười, nhưng nụ cười ấy thật buồn.
- Đúng vậy. Tôi sẽ
phải nghe nó thường xuyên hơn.
- Bởi vì
chúng sẽ quay lại?
Chúa ơi, John, chấm dứt chuyện này thôi.
- Đúng hơn là
chúng vẫn luôn ở đó. Sugita koto wa,
sugita koto da. (Quá khứ là quá khứ).
- Anh có những điều
hối tiếc ư?
- Chẳng phải ai
cũng vậy sao?
- Có lẽ. Nhưng những
nỗi hối tiếc của anh có giống như của những người khác không?
- Tôi không biết.
Tôi không hay so sánh.
- Nhưng anh vừa
làm vậy đó thôi.
Tôi cười.
- Cô thật ghê gớm,
- là tất cả những gì tôi có thể nói.
Cô ấy lắc đầu.
- Tôi
không cố tình như vậy.
- Tôi nghĩ là có
đấy. Nhưng đó lại là một ưu điểm của cô.
- Còn về câu nói
“Tôi chỉ hối tiếc những gì mình chưa làm”?
Tôi lắc đầu.
- Câu nói đó chỉ
đúng với người khác. Một người chắc hẳn cả đời chỉ ru rú trong xó nhà.
Tôi biết hôm nay
tôi sẽ không biết được gì thêm về cha cô ấy hay người lạ mà không đưa ra những
câu hỏi sẽ tiết lộ mục đích thật của tôi khi hỏi chúng. Đã đến lúc kết thúc cuộc
trò chuyện này rồi.
- Cô còn định đi
mua gì nữa không? - Tôi hỏi.
- Tôi cũng định
mua thêm vài món, nhưng chưa đầy một giờ nữa tôi phải đi gặp một người ở
Jinbocho.
- Một người bạn
à? - Tôi hỏi, tò mò theo thói quen nghề nghiệp.
Cô ấy mỉm cười.
- Quản lí của
tôi.
Tôi thanh toán và
quay lại phố Aoyama. Các đám đông đã thưa dần, không khí lạnh lẽo và âm u. Nhiệt
độ đã hạ xuống trong hơn hai tuần qua từ khi tôi xử lí Kawamura. Tôi ngẩng lên
và nhìn những đám mây dày đặc.
Tôi đã cảm thấy
vui vẻ hơn nhiều so với dự tính - hay đúng hơn là, so với mong muốn.
Nhưng cái lạnh cắt
đứt sự mơ màng của tôi, khơi dậy những kí ức và những mối nghi ngờ.
Tôi liếc nhìn
khuôn mặt Midori, ngẫm nghĩ, Mình đã làm gì đối với cô ấy? Mình đang làm gì?
- Sao vậy? - Cô ấy
hỏi, nhìn vào mắt tôi.
- Không có gì.
Tôi chỉ thấy mệt thôi.
Cô ấy nhìn sang
bên phải, rồi lại nhìn tôi.
- Như thể anh
đang nhìn ai đó vậy.
Tôi lắc đầu.
- Chỉ có chúng ta
thôi.
Chúng tôi bước
đi, tiếng bước chân khẽ khua vang. Rồi cô ấy hỏi:
- Anh sẽ đến xem
tôi biểu diễn nữa chứ?
- Tôi mong là thế.
- Một câu nói xuẩn ngốc. Nhưng tôi không nhất thiết phải thực hiện lời hứa này.
- Tôi sẽ chơi ở
Blue Note vào thứ Sáu và thứ Bảy.
- Tôi biết, - tôi
nói, lại một câu ngớ ngẩn nữa, và cô ấy mỉm cười.
Cô ấy vẫy một chiếc
tắc xi. Tôi giữ cửa xe cho cô ấy khi cô ấy bước vào trong, một phần phiền phức
trong tôi tự hỏi sẽ ra sao nếu tôi vào cùng cô ấy. Khi chiếc xe lăn bánh, cô ấy
hạ kính cửa sổ xuống và nói:
- Anh hãy đến một
mình nhé.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét