Cuộc Chiến Đi Qua
Tác giả: Kanta Ibragimov
Người dịch: Đào Minh Hiệp
Nhà xuất bản Văn Học 2017
Phần Một
Tháng Ba, năm 1995.
Chechnya.
Ngôi làng nhỏ Duts-Khote trên núi cao.
Một đêm dài bất an sắp trôi qua. Cảnh vật
chìm trong sương mù và trong bóng tối nhờ nhờ màu tím hoa cà. Một sự tĩnh lặng
và bình yên giả tạo bao quanh ngôi làng cổ, trong khi chính ngôi làng thì như
đang sôi lên trong khắp hang cùng ngõ hẻm. Dân chúng nháo nhào chạy ngược chạy
xuôi, đàn bà và trẻ con khóc lóc, đàn ông tỏ ra điềm tĩnh, vội vàng tất bật, la
hét đến khản cả giọng. Trong bóng đêm trước khi trời sáng, ánh mắt của mọi người
đều toát lên nỗi u buồn, sợ hãi và hoảng loạn...
Chiến tranh... Dân làng
Duts-Khote đang vội vã rời bỏ mái ấm gia đình. Cho đến trước cái đêm khủng khiếp
này, họ vẫn nghĩ ngôi làng nằm tít trên núi cao của mình sẽ tránh được sự hủy
diệt. Tuy nhiên niềm hy vọng và dự đoán của họ đã không thành.
Đã đến lượt ngôi làng Duts-Khote. Chiều hôm
trước, bốn chiếc máy bay ném bom, mỗi chiếc ném hai quả bom xuống quanh làng. Một
quả có sức công phá khủng khiếp: sau tiếng rít man rợ là quầng sáng chói lòa
bao trùm khắp thung lũng Vashandaroi, tiếng nổ đinh tai nhức óc cùng với sức mạnh
hủy diệt như cuồng phong của nó làm rung động cả những dãy núi hùng vĩ và các vực
sâu... Âm vang của tiếng bom nổ còn chưa kịp tan, thì cả ngôi làng lại bị đại
bác bắn phá dữ dội. Những loạt đạn chết người được bắn tới từ các cứ điểm trên
bình nguyên Chechnya, bay qua các con đèo, theo một quỹ đạo dài hàng chục cây số
đã được tính trước.
Cuộc bắn phá được tính toán kĩ lưỡng và
chính xác. Những quả đạn đầu tiên phá hủy ba ngôi nhà lớn nhất ở Duts-Khote.
Thêm một số ngôi nhà nữa ở rìa làng cũng bị hư hại. Sau đó đạn rơi xuống đường
làng và vườn tược. Người ta muốn ép dân chúng ra khỏi làng. Mọi người nấp trong
các tầng hầm và hầm chứa, và vì quá lo sợ, họ không biết phải làm gì. Đến nửa
đêm, cuộc bắn phá tạm dừng rồi lại tiếp tục vào lúc hai giờ khuya. Giờ đây, những
viên đạn pháo lại nổ trong khu rừng ven làng, trên các cánh đồng bằng phẳng ở
thung lũng Vashandaroi. Đến ba giờ đêm thì bắt đầu một sự tĩnh lặng nặng nề.
Dân làng Duts-Khote hiểu ra rằng, họ cần phải rời bỏ mái ấm của tổ tiên để bảo
toàn mạng sống...
Trước khi mặt trời ló dạng, một đoàn xe tải,
máy kéo có rơ-moóc, xe ngựa kéo, vội vã, lộn xộn rời khỏi ngôi làng. Đoàn xe chỉ
có thể mang theo những đồ dùng sinh hoạt vặt vãnh, nghèo nàn và giản đơn, cùng
với lũ gia súc và những con người ủ rũ, lặng câm. Đi cuối đoàn xe đau khổ ấy là
đoàn người đi bộ, dây thừng vắt vai, dắt theo khối tài sản quý giá nhất của
mình - những con bò sữa. Họ chạy vào núi trên những con đường rừng đóng băng, lở
lói, về hướng Dagestan thanh bình. Những người cuối cùng rời khỏi ngôi nhà và mảnh
đất tổ tiên là những người nghèo nhất và đông con nhất. Những người khá giả hơn
đã rời làng ngay sau khi quân đội Nga chiếm được thành phố Grozny - thủ đô nước
cộng hòa Chechnya. Còn những người giàu có nhất - khoảng ba, bốn gia đình - đã
chạy từ khá sớm trước khi chiến tranh nổ ra.
Về việc chiến tranh sẽ nổ ra, người ta đã
bàn tán từ lâu, thậm chí trên tivi đã cảnh báo. Tuy nhiên, những người dân thường
lại không tin vào cái điều vô nhân đạo như vậy, và thêm một lần nữa họ lại tin
vào lòng nhân ái của các cấp lãnh đạo. Mà thật ra thì họ cũng không có điều kiện
để rời bỏ ngôi nhà của mình, phiêu bạt nơi đất khách quê người. Còn những người
khá giả, theo cách đánh giá của dân làng Duts-Khote, là những người có học và
có nhiều thông tin. Với những bài học từ quá khứ và thực tế xung quanh, họ nhận
ra sự vô liêm sỉ của các thủ lĩnh trong các cuộc cách mạng.
...Trời sáng, làng Duts-Khote vắng hoe.
Trong cả ngôi làng chỉ còn lại hai người: ông lão chín mươi tuổi Arachaev
Tsanka và một người đàn ông không còn trẻ nữa, Goisum Datsiev. Người ít tuổi
hơn ra đời vào thời kỳ lưu đày ở vùng sa mạc Kazakhstan. Mồ côi từ nhỏ, anh trải
qua nhiều căn bệnh hiểm nghèo để thành một người vẹo vọ và thất học. Dân quanh
vùng gọi Goisum là thằng khùng, thậm chí còn mang anh ra để dọa trẻ con nữa.
Nhưng người làng vẫn thương anh và đều giúp anh khi có thể. Goisum lặng lẽ lớn
lên, trí tuệ không có gì, nhưng đôi khi anh cũng có thể nói ra những câu làm
người khác phải ngạc nhiên vì sự nhanh trí. Càng lớn lên, cơ thể của Goisum
càng biến dạng, đến mức thành dị tật. Tuy nhiên, số phận của Goisum không đến nỗi
bất hạnh hoàn toàn, cơ thể anh, nhìn bề ngoài như vậy nhưng lại rất khỏe.
Goisum sống trong túp lều xiêu vẹo được thừa kế từ bà con họ hàng, ăn uống bằng
của bố thí của người làng, lúc nào trông cũng nhếch nhác, bẩn thỉu. Ngay từ bé,
Goisum chỉ có hai trạng thái tinh thần: hoặc là cười ngây dại, điều này ít khi
xảy ra và chỉ xảy ra khi anh đã no nê, và trạng thái giận dữ, kích động. Trạng
thái thứ hai thường xuyên hơn bởi lẽ lúc nào Goisum cũng thèm ăn kinh khủng, mà
để thỏa mãn thì rất khó. Goisum ăn rất nhanh, nhanh như chó, ngay lập tức nuốt
hết, không kịp nhai, mà có nhai cũng chỉ trệu trạo trong miệng, rồi tống qua thực
quản, xuống cái bụng bao giờ cũng đói. Kẻ mồ côi này lúc nào cũng sợ người ta lấy
mất miếng ăn của mình. Tuy nhiên, số phận dù có hẩm hiu đến đâu, Goisum vẫn yêu
đời, thậm chí rất yêu, và bằng tất cả sức lực, anh vẫn cố bấu víu vào cái cuộc
sống không thể chịu đựng nổi ấy, như bà mẹ ghẻ cố bám vào cuộc sống bất công và
hẩm hiu của mình. Có thể thấy, Goisum đã tìm được trong số phận của mình những
điều tốt đẹp nào đó, và trong thâm tâm, anh vẫn hy vọng vào một tương lai tươi
sáng, về một niềm hạnh phúc giản dị của con người, về một tình yêu nam nữ.
Dù sức khỏe không tồi, nhưng Goisum không
thích làm việc, anh tẩy chay mọi hình thức bóc lột, né tránh mọi hình thức lao
động tập thể, đơn điệu. Tuy nhiên, người làng đôi khi vẫn có thể nhờ anh làm những
việc đại loại như mang vác các vật nặng. Goisum không bao giờ từ chối những
công việc như vậy vì anh biết, chỉ cần nỗ lực chút ít là anh sẽ được thưởng
ngay bằng đồ ăn.
Goisum chưa bao giờ bước chân vào trường học.
Thật ra, anh có hai đam mê xem phim hành động trên tivi và video và tham dự các
cuộc tụ tập, lễ hội - chẳng hạn như đám cưới, đám ma, nơi anh được cho ăn uống
thoải mái.
Với một cuộc đời không hề ngắn, Goisum giờ
đã bước sang tuổi năm mươi, và anh đã gặp hai sự kiện không thể tưởng tượng nổi.
Cả hai lần đều là hậu quả của việc uống khá nhiều rượu. Lần đầu xảy ra khi anh
hai mươi lăm tuổi. Khi đó, trong cơn say, Goisum đã xổ tuột hết ruột gan mình
ra: anh kết tội dân làng về những bất hạnh của mình, chửi bới thậm tệ, đuổi
đánh mọi người, phá hủy tất cả những gì gặp trên đường, rồi phỉ báng cả thánh
thần. Cho đến khi mười, mười hai thanh niên lực lưỡng vật anh xuống đất, trói
anh lại, anh mới chịu yên. Rất lâu sau đó, xấu hổ vì những gì đã làm, Goisum
không dám xuất hiện trước mắt mọi người, hai, ba tháng liền anh cứ phải cúi gằm
mặt mà đi.
Sự kiện thứ hai xảy ra bảy, tám năm sau đó,
cũng là sau khi uống say. Vào lúc trời chạng vạng, Goisum lẻn vào sân nhà hàng
xóm Borzaiev, cầm tay cô con gái Musilpat không còn trẻ nữa, rồi quỳ xuống trước
mặt cô, nước mắt giàn giụa, cầu xin cô lấy mình làm chồng. Cô hàng xóm hoảng hồn,
giật tay ra và chạy vào nhà. Goisum đuổi theo. Đến phòng ngoài, mẹ Musilpat chạy
ra ngăn lại, nhưng anh láng giềng say xỉn gạt người đàn bà sang bên, chạy tiếp
vào phòng ngủ của cô gái. Bà mẹ ra sân kêu cứu, họ hàng, láng giềng chạy lại. Họ
ùa vào nhà và chứng kiến một cảnh tượng hãi hùng: trên giường, cô gái ngồi nép vào
trong góc, hai tay ôm mặt, kêu gào thảm thiết, còn anh chàng Goisum bất hạnh quỳ
bên giường, tỏ tình với cô.
Đám đàn ông lao vào anh chàng đồng hương si
tình, đấm đá túi bụi. Lúc đầu, Goisum cắn răng chịu đựng, không né tránh những
cú đòn dữ tợn, nhưng sau đó, anh ta hét lên một tiếng man dại như con thú điên,
đứng bật dậy, và chỉ bằng vài đòn, anh ta đánh bật tất cả mọi người văng vào
góc phòng rồi hoảng sợ chạy ra khỏi nhà. Đến sân, Goisum đứng sựng lại như trời
trồng, lơ đãng nhìn quanh, vẫn còn run lẩy bẩy, cố nén chặt nỗi tức giận vào
hai quả đấm, mắt đỏ ngầu, nước mắt tuôn lã chã, mồm há rộng, đôi môi dày nhô
ra, nước bọt dính đầy trên hàm râu quai nón, cơn giận dữ điên cuồng trào lên. Tất
cả chỉ diễn ra trong khoảnh khắc. Goisum bất ngờ quay người, lao vào nhà. Lại
vang lên những tiếng la hét, rên rỉ, chửi bới. Lát sau, Goisum chạy ra, nhưng
giờ đây trên vai anh ta là thân hình cô người yêu mềm nhũn, lắc qua lắc lại.
Goisum lao như tên bắn ra vườn, nhanh nhẹn nhảy qua hàng rào và biến mất trong
túp lều của mình cùng với chiến lợi phẩm. Hai phát súng vang lên đuổi theo
Goisum.
Tất cả mọi người trong dòng họ Borzaev vây
quanh nhà Goisum. Họ không sợ sức mạnh của chủ nhà, liều lao vào túp lều ọp ẹp
của anh ta, đâm cho kẻ cưỡng bức vài nhát dao vào tay, vào chân, vào mông, giải
cứu Musilpat, rồi dân làng lại xúm vào đưa Goisum máu me bê bết đến bệnh viện
huyện.
Mấy tháng sau, để giải quyết vụ rắc rối
này, một phiên tòa của tòa án nhân dân được tổ chức. Goisum, do không có năng lực
chịu trách nhiệm về hành vi nên được tuyên bố trắng án, còn một trong số những
người bà con của gia đình Borzaev bị xử hai năm tù giam vì hành vi gây rối trật
tự công cộng. Tuy nhiên, phiên tòa trong vùng núi Chechnya này không có ý nghĩa
quan trọng, mọi người chờ sự phán quyết của Hội đồng bô lão, chính xác hơn là ý
kiến của vị công dân đáng kính nhất trong làng Duts-Khote - ông Arachaev
Tsanka. Nhà Borzaev đòi trục xuất Goisum ra khỏi làng, họ bảo, họ bị thiệt đơn
thiệt kép: con gái bị làm nhục còn một người bà con bị đi tù. Họ tìm mọi cách
tác động lên Hội đồng bô lão, tuy nhiên ông lão Tsanka lại không muốn làm căng
thẳng thêm tình hình, ông chỉ muốn xoa dịu, hòa giải. Ngoài ra, trong cuộc nói
chuyện trực tiếp với cha của Musilpat, ông Arachaev còn đề nghị gả con gái cho
Goisum. Ông Borzaev là một người khôn ngoan, ông biết, cô con gái hai mươi hai
tuổi của mình còn lâu mới có thể gọi là hoa khôi, và theo cách đánh giá của người
địa phương thì tuổi ấy không còn trẻ nữa. Ngoài ra, cũng vì cái vở hài kịch xui
xẻo kia mà cô con gái của ông rất có thể phải ở vậy suốt đời. Ông bố đồng ý. Mọi
người thở phào nhẹ nhõm, nhưng cô Musilpat cương quyết không chịu lấy anh chàng
hàng xóm lưng vẹo ấy.
Vậy là trong nhà Borzaev nổ ra bất hòa. Sau
vụ đó, cô Musilpat bỏ vào thành phố Grozny, làm ở quán café nào đó, người ta đồn,
cô cũng đã lấy chồng, nhưng không hạnh phúc, lại chia tay. Tóm lại, sau khi
trong thành phố Grozny nổ ra cuộc chính biến năm 1991, bắt đầu diễn ra mọi sự
biến động, hỗn loạn và hung bạo thì Musilpat lại quay về nhà cha mẹ sau cuộc
hôn nhân thất bại. Với thời gian, cô trở nên đầy đặn hơn, khuôn mặt khó nhìn
cũng trở nên dễ nhìn hơn, còn vóc dáng lại càng hẫp dẫn. Tuy nhiên, không một
người đàn ông nào trong làng muốn trao tay hay trao tim, chứ chưa nói đến việc
trao cả cuộc đời cho cô. Cũng có những lời đề nghị kiểu trăng hoa, người ta đồn
Musilpat cũng không từ chối, thậm chí cô còn thích đàn đúm vui vẻ nữa. Lời đàm
tiếu đến tai những người đàn ông trong gia đình Borzaev, ngay lập tức họ đánh
cho Musilpat một trận vì cái thói ong bướm thị thành, và dọa, nếu còn tiếp diễn
lần nữa, họ sẽ bắn chết rồi chôn trong rừng.
Nhưng khi những vết bầm tím trên mặt vừa
tan thì Musilpat lại trốn vào thành phố Grozny, song các anh em của cô đã tìm
được và dẫn cô về làng. Suốt nửa năm trời, cô con gái nhà Borzaev trở nên héo hắt,
thế rồi đột nhiên cô đồng ý lấy anh chàng láng giềng kỳ quái Goisum. Chính cô đặt
vấn đề với anh ta, tự mình ngỏ lời, nhưng với một điều kiện, cô chỉ lấy Goisum
khi anh xây được ngôi nhà mới và cạo sạch bộ “râu dê” quai nón. Ngay trong chiều
hôm ấy, kẻ hàng xóm si tình không chỉ cạo sạch bộ râu mà còn cạo trọc cả đầu.
Vào thời gian đó, Goisum Datsiev không còn
là một kẻ ăn không ngồi rồi nữa. Trong thời gian tiến hành điều tra để xét xử vụ
đánh cắp người đẹp và sau khi các vết thương đã lành, chính quyền đã đưa Goisum
vào bệnh viện tâm thần để khám và điều trị. Goisum không thích chút nào các quy
định chặt chẽ như nhà tù của cái cơ quan y tế này nên anh bắt đầu gây náo động.
Ngay lập tức người ta mặc cho anh chiếc áo bó và cứ để như vậy, còn ăn uống thì
rất tệ. Sau phiên tòa, người ta ra điều kiện cho Goisum: hoặc là phải đi làm,
hoặc là lại vào bệnh viện tâm thần. Thế là Goisum trở thành người chăn gia súc
trong trang trại bò sữa của nông trang. Thời gian đầu, công việc đối với Goisum
rất vất vả, nhưng rồi anh cũng quen dần và anh không chỉ làm việc mà còn vào ở
luôn trong trang rại nữa. Có khi vài tuần liền Goisum không về làng, còn khi xuất
hiện, mọi người đều phải tránh xa: cả người anh bốc mùi phân bò, mùi thức ăn ủ
chua và mùi gia súc. Cuối cùng thì Goisum cũng tạo được mối quan hệ với các bà
vắt sữa sồn sồn, và người ta đồn về anh đủ chuyện. Lời đồn đại thì nhiều, nhưng
điều mà dân trong vùng ai cũng biết, đó là Goisum có sức khỏe trong mọi việc.
Có lẽ, cái chi tiết cuối cùng này có sức
cám dỗ Musilpat, và cô quyết định tận dụng ngay sức mạnh tráng sĩ đó cho chính
mình. Tuy nhiên, cô không muốn sống trong túp lều ọp ẹp của Goisum.
Lời đề nghị của Musilpat như chắp thêm cánh
cho Goisum, với sự hứng khởi cao độ, anh bắt tay vào xây dựng ngôi nhà. Thoạt đầu
Goisum dự tính xây ngôi nhà to, nhưng dân làng đã kìm bớt sự bốc đồng của anh lại,
khuyên anh xây một ngôi nhà vừa phải thôi, không tốn nhiều tiền nhưng ấm cúng.
Sau nửa năm, cả làng đã giúp anh chàng Goisum si tình dựng xong ngôi nhà, chỉ
còn trang trí nội thất. Đúng lúc ấy thì chiến tranh bùng nổ.
Goisum sợ đại bác không kém bất cứ người
dân nào trong làng Duts-Khote, còn các vụ ném bom làm anh thót cả tim. Lẽ ra,
cùng với dân làng anh cũng bỏ chạy thật xa cơn ác mộng, nhưng có hai nguyên
nhân giữ chân anh lại: thứ nhất là ngôi nhà đẹp đẽ đang xây, thứ hai, từ lúc
cha sinh mẹ đẻ đến giờ anh không hề có mảnh giấy tùy thân. Người ta đồn, tại
các trạm kiểm soát liên hợp, lính Nga sẽ kiểm tra giấy tờ, nếu không có, người Chechnya
sẽ bị đưa vào các trại thanh lọc. Mới nghe nói vậy, Goisum liền nhớ đến bệnh viện
tâm thần, anh nghĩ, nếu trong bệnh viện mà còn khủng khiếp đến thế, thì trong
nhà tù dã chiến quân đội còn thế nào nữa? Nghĩ vậy nên Goisum càng cố chui sâu
xuống tầng hầm ngôi nhà mình đang xây, hàng giờ liền ngồi chờ trong bóng tối
cho đến khi cái đói lôi anh ra ngoài.
Cần phải nói thêm rằng, vào thời gian xét xử,
người ta đã cấp cho Goisum một cái giấy chứng nhận gì đó với tấm ảnh chân dung
trông thật gớm ghiếc, nhưng bây giờ anh không biết nó nằm ở đâu. Goisum tìm kiếm
ở nhà mình, rồi hỏi phòng tổ chức nông trang, nhưng không thấy. Vậy là, Goisum
đang ở lại trong ngôi làng bỏ hoang ảm đạm với ông lão Arachaev Tsanka.
Giờ đây, hai con người cô đơn đang đứng giữa
ngôi làng u buồn không một bóng người. Từ những ngôi nhà hoang vắng phả ra một
làn không khí ảm đạm và đau thương. Trong chuồng nhà ai đó vọng ra tiếng kêu be
be của mấy con dê đực, đâu đó ngoài bìa làng một con bê con bị bỏ đói rống lên
thảm thiết. Cảm thấy có điều bất ổn, lũ chó sủa ăng ẳng. Một con mèo con không
biết từ đâu ló ra cạnh cổng, ngạc nhiên nhìn quanh quất, không hiểu chuyện gì xảy
ra nên vẫn còn tinh nghịch chạy lại chỗ có người, kêu meo meo rồi cọ mình vào
đôi ủng bẩn thỉu của ông lão. Một con gà trống, vươn cao đôi cánh cất tiếng gáy
ó o, một vài tiếng gáy nữa phụ họa theo.
- Ông Tsanka, sao ông không đi? - Goisum
lên tiếng, phá vỡ sự im lặng nặng nề.
- Ta chẳng biết đi đâu cả, - ông lão mỉm cười
cay đắng, sửa lại cặp kính dày cộp, dựa người vào cây gậy chống nặng trịch được
chạm khắc hoa văn cầu kỳ.
- Không biết đi đâu là thế nào, ông có con
trai, có bà con họ hàng. - Goisum không chịu.
- Trong suốt cuộc đời dài của mình, không
chỉ một lần ta phải rời bỏ mái ấm gia đình, nhưng bao giờ cũng với hai bàn tay
khỏe mạnh.
- Còn bây giờ, ông chờ người ta đến vặn cổ
mình?
- Không, chỉ đơn giản là bây giờ ta không sợ
gì nữa. Không còn ai phải phụ thuộc vào ta, và ta cũng không phải nuôi ai, giờ
đây cả dòng họ phải há mồm nghe ta nói, nhưng ta lại không được chết một cách
vô ích... Ta chẳng còn điều gì phải bận tâm nữa, - ông lão sảng khoái phẩy tay.
- Suốt đời ta đã lang thang nơi đất khách quê người, chỉ mơ ước được yên nghỉ ở
quê nhà, được chôn cất ở nghĩa trang dòng họ Gazavata. Chắc là đến lúc rồi.
- Ồ không, ông Tsanka ạ, quên cái chuyện tế
sống ấy đi, - Goisum cố động viên ông lão. - Chúng ta còn sống lâu...
- Phải, phải, - ông lão mỉm cười gượng gạo,
ngắt lời. - Ta sẽ còn được dự đám cưới của chú mày.
Goisum mỉm cười thích thú, nét mặt trở nên
hiền lành, xúc động.
- Đấy, chỉ sau một vài tháng nữa là ngôi
nhà sẽ hoàn thành và cháu sẽ đưa cô dâu về, - Goisum nói không chút e ngại. -
Hôm qua, lúc bị bắn phá, cháu sợ ngôi nhà của mình bị trúng đạn, cứ run cầm cập.
Cháu vẫn còn may.
- Đúng thế, - ông Tsanka thừa nhận. - Ngôi
nhà của cháu cần phải đứng vững, chính cháu chứ không phải ai khác trên trái đất
này xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Rồi chiến tranh sẽ kết thúc, ta sẽ làm lễ
thành hôn cho các cháu. Chẳng cần phải chờ ngôi nhà xây xong, Cứ để đấy, ý trung
nhân của cháu sẽ xây nốt, cuộc sống càng thú vị.
- Đúng, đúng, - Goisum hồn nhiên phụ họa
theo, còn ông lão thì vẫn tiếp tục bằng một giọng như vậy, không biết là nói
đùa hay nói thật.
- Còn gì nữa. Bao nhiêu năm cháu phải chịu
đau khổ, chờ đợi, thế mà con bé còn đòi xây nhà mới nữa! Chẳng ra làm sao cả!
Chồng chưa cưới như cháu, tìm khắp vùng không có... Cứ để nó tự xây nhà, tự làm
vườn, tự sinh con. Chẳng có chuyện gì xảy ra với nó đâu, chỉ tốt hơn thôi, có
thể nó sẽ gầy hơn một chút đấy!
Goisum bật cười, nhưng sau khi nghe từ
“con”, anh trở nên trầm ngâm, thậm chí ngoảnh mặt đi. Ông lão đã chạm vào ước vọng
thầm kín nhất của Goisum. Ông Tsanka còn vẽ nên bao viễn cảnh tương lai, cho đến
khi đột nhiên từ đâu đó, trong vùng bình nguyên sau rặng núi, phát ra một tiếng
nổ đơn lẻ. Cả hai giật mình, quay lại với hiện thực u ám, nét mặt lại trở nên
căng thẳng, lo âu và buồn bã.
- Cháu hãy nghe đây, Goisum, - ông lão
Tsanka lại phá vỡ sự im lặng nặng nề. - Chúng ta là những người duy nhất còn lại
trong làng. Giờ đây, mọi trách nhiệm đặt lên vai chúng ta. Nào, hãy đi một vòng
qua các nhà, nhất là những nhà bị bom đạn, xem có ai bị mắc kẹt dưới đống đổ
nát hay không. Đó là điều quan trọng nhất. Trên đường đi, ta sẽ xem lũ chó mèo
và gia súc, gia cầm thế nào, những con còn sống phải thả ra, mở cổng cho chúng
đi uống ước. Cũng đừng quên mở cửa chuồng gà. Công việc không khó nhưng rất cần.
Mọi người trong lúc sợ hãi chỉ lo cứu lấy mạng sống của mình, còn sự sống của
con vật có khi lại quên mất... Cháu đi lên khu trên, ta đi xuống phía dưới. Kiểm
tra cho kĩ đấy!
Hai người tạm chia tay... Mùa xuân đến sớm
trong vùng núi Bắc Kavkaz, thời tiết thất thường, sương mù ẩm ướt. Trong các
dãy núi lởm chởm, mùa đông băng giá qua mau và trôi về các bình nguyên phương Bắc.
Dưới sự che chở của màn đêm ngắn ngủi, chút sức mạnh cuối cùng còn lại của mùa
đông chỉ tạo được một lớp băng giòn trên mặt đất và các vũng nước.
Lúc đầu, ông lão Tsanka còn dễ dàng đi trên
tuyết cứng, nhưng rồi lớp băng mỏng tan ra và đôi chân bắt đầu dính vào lớp bùn
đen sền sệt. “Chẳng thà là mùa đông băng tuyết, hay là mùa hè xanh tươi, còn
hơn là cái đám bùn bẩn thỉu này”, - ông lão Tsanka ngẫm nghĩ, rồi đột nhiên một
ý nghĩ khác lại thoáng qua: “Nếu không có những thay đổi cùng với sự bẩn thỉu
và ẩm ướt thì không thể chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác. Có thể
thấy rõ điều đó, kể cả trong thiên nhiên lẫn trong đời sống xã hội. Có nghĩa là
phải chờ thời kỳ này trôi qua, phải vượt qua nó, và những người sống sót, vượt
qua được những khó khăn tạm thời này, nhất định sẽ được hưởng niềm vui của tự
do, hạnh phúc và bình yên”. Nhưng rồi, một ý nghĩ u buồn lại ập đến: “Mình đã sống
hết thời của mình, chỉ mong bọn trẻ được sống tốt hơn, và quan trọng nhất là tự
do...”.
Bất chấp tuổi tác đáng nể của mình, ông lão
Tsanka còn đi lại vững vàng, cây gậy ông mang theo có ý nghĩa tượng trưng cho
tuổi già hơn là sự cần thiết. Đột nhiên ông nghe tiếng Goisum.
- Ông Tsanka, ông Tsanka. Ông ở đâu? -
Goisum hét lên bằng một giọng trầm khàn.
Ông lão đang cởi dây cho một con bò sữa của
nhà ai đó bỏ lại trong kho chứa.
- Có chuyện gì thế? - Ông Tsanka chạy ra
ngoài, lo lắng hỏi.
Goisum xuất hiện trước mặt ông, thở hổn hển
vì chạy, khuôn mặt tái mét, méo xệch.
- Ông Tsanka, - Goisum bật ra, - ở đằng
kia, trong ngôi nhà sập, bà Dakoza, chết rồi.
- Dakoza nào? - Ông Tsanka hét to.
- Bà quả phụ nhà Sugaip. Mấy năm nay bà ấy
sống một mình, con cái ra đi từ lâu, bỏ bà già lại.
Vài phút sau họ đến căn nhà đổ của ông
Sugaip. Có thể thấy là bà già đã cố thoát ra, nhưng cái chết đã đuổi kịp bà nơi
ngưỡng cửa. Goisum sợ hãi quay lưng lại, không dám chạm vào xác chết.
- Thôi đừng uốn éo nữa, - ông Tsanka la
lên, - phải đưa bà ấy ra khỏi nhà, rửa ráy rồi chôn cất để tránh thú dữ.
- Ai sẽ lau rửa cho bà ấy? - Goisum ngạc
nhiên.
- Ta và cháu, - ông Tsanka trả lời dứt
khoát, rồi thêm: - Vì người chết trong chiến tranh không phải tắm rửa vì cái chết
của họ rất thiêng liêng, nên chúng ta chỉ cần lau chùi cho sạch sẽ gọn gàng.
Goisum thừa biết, anh không thể né tránh,
đành nheo nheo mắt kinh hãi nâng cái xác của bà già khô đét lên rồi vội vàng
đưa vào nhà bên cạnh. Ông Tsanka bước theo sau giúp một tay.
- Được rồi, Goisum, - ông Tsanka phấn khởi
nói, - chính Thượng đế đã gửi cháu đến giúp ta đấy.
Sau câu nói đó, một kẻ lười biếng từ lúc
sinh ra như Goisum liền nhăn mặt lại vẻ không hài lòng, thậm chí quay mặt đi.
- Này Goisum, cháu xứng đáng là một bậc trượng
phu đấy, - ông Tsanka vẫn tiếp tục bằng một giọng như cũ - Công sức của cháu
không vô ích đâu. Ta sẽ cưới con bé Musilpat xinh đẹp cho cháu, rồi chúng mày sẽ
sinh cả đàn con, lúc ấy sẽ phải nhớ đến ta.
Goisum nở một nụ cười hồn nhiên, sẵn sàng
thực hiện mọi mệnh lệnh của ông lão.
- Bây giờ, - ông lão lại tiếp tục ra lệnh,
- cháu hãy chạy ra nguồn nước xách một thùng nước về đây. Còn ta, sẽ về nhà lấy
vải màn, vải xô trắng, dầu thơm để làm lễ. Ta đã dự phòng cho mình, giờ sẽ chia
sẻ với bà ấy.
Hai mươi phút sau, khi ông lão Tsanka đang
quỳ xuống, mò mẫm các ngăn bí mật trong chiếc rương bằng gỗ cũ kĩ và to tướng của
mình thì Goisum chạy vào, đầu trần, trán hói, áo bông phanh ra, khuôn mặt méo
mó đầm đìa mồ hôi, đôi mắt mở to, hoảng sợ.
- Ông Tsanka, ông Tsanka! - Goisum hét lên.
- Chết rồi! Chết rồi! Trận bom hôm qua, một quả rơi trúng nguồn nước, ở đấy chỉ
có một cái hố to tướng, mọi thứ đảo lộn hết, không còn nước nữa, cứ như là chưa
bao giờ có vậy, xung quanh khô khốc, chẳng khác gì ném trúng tim, đúng là đồ
man rợ.
- Cháu nói gì? - Ông lão quay đầu lại, bực
mình hỏi. - Cháu nói cái gì thế? Chẳng lẽ nguồn nước của chúng ta lại khô sao?
Im đi! - Ông lão hét lên, rồi bật dậy. - Không thể như thế được!
- Đúng thế đấy, ông Tsanka ạ! Nào, chúng ta
cùng ra xem! Không lẽ cháu bị mất trí hay bị mù rồi sao!? - Goisum cũng hét
lên, đáp lại.
- Mày đã bị điên từ lâu rồi, mày là thằng
ngốc, và những câu đùa cợt của mày cũng ngu ngốc nốt. - Ông lão giận dữ hét to,
những từ cuối như bị đứt ra, làm ông ho sặc sụa. Không nói thêm lời nào nữa,
ông vội vàng lao ra, đẩy Goisum sang một bên.
Hai ông cháu chạy về hướng nguồn nước. Chỉ
cần vài bước chân, Goisum đã đuổi kịp ông Tsanka. Lúc đầu ông lão còn chạy,
nhưng sau chỉ cố bước nhanh, càng lúc càng thở hổn hển. Cuối cùng ông dừng lại,
lấy cặp kính dày ra lau, nhìn mãi lên trời, rồi từ từ cúi xuống. Dòng nước ngọt
lành trong vắt, bao đời nay phun ra rất mạnh từ dưới tảng đá lăn khổng lồ, giờ
không còn nữa. Tại chỗ đó là một cái hố to tướng, toang hoác, đen nhẻm, khét lẹt.
Ông lão Tsanka thở khò khè đi theo con đường
mòn trơn truội đến gần nguồn nước, về phía dòng chảy đã cạn khô, đau đớn đổ khuỵu
xuống. Chỉ có một giọt nước mắt to tướng ứa ra nơi khóe mắt, ông lão run lẩy bẩy,
rên rỉ thảm thiết:
- Lũ đê tiện! - Vừa hớp hớp không khí, ông
lão vừa lẩm nhẩm. - Suốt đời, ta đã bị nhạo báng, vậy mà giờ đây, trước khi chết,
tâm hồn ta lại bị giày xéo, xương sống bị bẻ gãy... Ôi, Đấng tối cao ơi! Con có
cầu mong gì nữa đâu, con không cần gì cả, con chỉ cầu xin hãy trả lại nguồn nước,
trả lại cuộc sống cho vùng núi này của chúng con, hãy cho con một lần nữa được
uống thỏa thuê dòng nước quê hương này, cho con một lần nữa, được nghe, được
nhìn thấy dòng chảy sống động của nó. Xin ngài đừng để vùng núi này của chúng
con bị chết khô, dân tộc của chúng con bị biến mất. Bao nhiêu hạnh phúc và bất
hạnh con đã chứng kiến ở đây, bên cạnh nguồn nước này... Xin đấng thần linh hãy
cứu giúp! Hãy cứu nguồn nước! Con sẽ cúng bất cứ thứ gì ngài muốn, chỉ xin trả
lại cuộc sống cho vùng đất này. Con van xin ngài!
Tiếng nức nở của ông lão Tsanka mỗi lúc một
nhỏ dần rồi cuối cùng tắt lịm. Ông lão tuyệt vọng nhắm mắt lại, và trong trí nhớ
của ông chợt hiện lên rất rõ những hồi ức của một thời trai trẻ... Mà cũng có
cái để nhớ lắm chứ... Và thật lạ, toàn bộ tuổi thanh xuân của ông đều gắn liền
với chỗ này, với nguồn nước này... Thời gian trôi nhanh quá!
* * *
Cả cuộc đời của mình, theo lời ông Arachaev
Tsanka, cũng như lịch sử hai thế kỷ gần đây của vùng đất Chechnya, chỉ có bảy
năm, từ 1918 đến 1924 là hòa bình, và người dân được sống trong hạnh phúc, yên ổn.
Đó là thời của cảnh điền viên! Có thể vì thời gian đó ông Tsanka còn nhỏ, mà tuổi
thơ bao giờ cũng vô lo và nông nổi. Tuy nhiên cuộc đời ông cũng gắn với sự kiện
nước Nga bị phân hóa vì những mâu thuẫn nội tại nên đã hoàn toàn đánh mất quyền
kiểm tra và giám sát những người miền núi.
Thành trì cuối cùng của đế chế Bắc Kavkaz
là pháo đài Vedeno trên núi cao, bị bỏ hoang từ năm 1917. Ngài thống đốc của địa
hạt, không nói một lời với đội phòng vệ, trong đêm đã bỏ chạy đến Vladikavkaz
cùng với gia đình, dưới sự hộ tống của những người Chechnya thân tín. Hai ngày
sau, những người miền núi địa phương đã bao vây pháo đài và biến nó thành một đống
gạch vụn. Một vài sĩ quan định chống lại liền bị bắn chết, còn hầu hết được dẫn
giải an toàn đến huyện lỵ Shali trên bình nguyên - trung tâm của Chechnya.
Bảy năm liền, cộng đồng người dân tộc
Vainakh được sống tự do, theo những luật lệ Adat cổ xưa của mình. Chính trong
thời kỳ này, mối quan hệ giữa những người miền núi với những người Cozak Terek
và Cozak Greben rất hòa thuận. Không có thế giới quan về những vùng đất khác,
người dân sống hồn nhiên, giản dị và chủ yếu làm nông.
Nhưng ngọn gió biến động đã thổi tới vùng
núi. Bắt đầu công cuộc chinh phục mới đối với vùng đất Kavkaz. Lần này mọi sự
được tính toán kĩ lưỡng hơn, tinh vi hơn và cũng thâm hiểm hơn. Những người
Bolsevich đi bằng “con đường khác”. Những câu khẩu hiệu “Hòa bình”, “Ruộng đất”
tung bay trên bầu trời. Hòa bình thì ai cũng muốn, còn ruộng đất thì chỉ những
người chưa bao giờ có mới muốn.
Người dân miền núi, qua di truyền, có mối
quan hệ cực kỳ nhạy cảm với ruộng đất. Sống trong điều kiện núi rừng khắc nghiệt,
người Chechnya phải thường xuyên tiến hành những cuộc chiến tranh dai dẳng để bảo
vệ mảnh đất của mình, tưới máu lên mảnh đất ấy với cả nghĩa đen và nghĩa bóng
vì họ không có mảnh đất nào khác, và cũng sẽ không có ở đâu khác, cố giữ gìn cẩn
thận phần đất được chia của mình. Và họ cũng hiểu, không bao giờ được nhòm ngó
mảnh đất của người khác. Đó là luật lệ.
Tuy nhiên, những người Bolsevich cũng hiểu
rằng, đất đai không thể chia theo kiểu bình quân: ai đó, tận trong sâu kín của
tâm hồn cũng muốn chiếm miếng đất của nhà hàng xóm, mà theo quan điểm của họ,
đó là sự công bằng. Đùa giỡn và lợi dụng những ý đồ hèn hạ đó, những người
Bolsevich đã vãi ra trong xã hội một đống lộn xộn, đánh lạc hướng người dân,
gây nên cảnh rối loạn.
Những người chưa từng có một mảnh đất, mà
phần lớn trong số họ là những kẻ vô công rồi nghề và không muốn làm việc. Trong
mỗi bản làng đều có những người bản địa và ngụ cư, không có gia phả, bị xua đuổi
khỏi mảnh đất quê hương vì những hành động thù hận đẫm máu, trộm cướp, sa đọa hay
những tội ác khác.
Người Chechnya gọi những kẻ như vậy là “con
hoang”, nhưng với nghĩa rộng hơn thì những người đó sẽ không được Thượng đế ban
phước lành, và mọi hành vi của họ trong cuộc sống đều bất nhân.
Nhìn chung, những người như vậy không nhiều,
nhưng họ đều giấu mình đâu đó trong mỗi cộng đồng, mỗi buôn làng. Chính họ đã tạo
nên một tôn giáo mới không có Thượng đế, phát triển rộng khắp trên toàn Xô viết.
Nơi nào có nhiều những “con hoang” như vậy thì xuất hiện chính quyền Xô viết.
Các nhà truyền giáo Xô viết nhanh chóng tìm
được người của mình, những kẻ khốn cùng vô tích sự, mơ ước về sự thay đổi, phân
chia lại không chỉ ruộng đất, tài sản, tiền bạc, mà cả số phận. Không khó khăn
lắm để tìm được những người như thế trong xã hội, dựa vào họ để tổ chức theo một
hướng cần thiết, các Xô viết âm thầm tiến từ phía bắc xuống phía nam, lên những
dãy núi cao Chechnya cả tin.
Những người vốn chẳng là ai, thậm chí chẳng
có cái gì, tự biết như thế, rồi tất cả đều biết, bỗng trở thành chính quyền,
thành chủ nhân, thành người có quyền nắm giữ số phận của người khác.
Dòng họ nhà Arachaev Tsanka thuộc loại lớn
nhất ở ngôi làng nhỏ Duts-Khote, và chi phái danh giá nhất chính là ba anh em
ruột: người anh cả Baki là linh mục Hồi giáo, một trong số những người Chechnya
đầu tiên thực hiện cuộc hành hương Haji đến thánh địa Hồi giáo Mecca; người anh
giữa là Aldum, cha của ông Tsanka và người em út là Kosum.
Vào những năm hai mươi, ông Aldum Arachaev
được bầu làm Iurda, có nghĩa là “trưởng thôn”. Ông một mực từ chối và phản đối
quyết liệt, nhưng cuối cùng, dưới áp lực của mọi người, ông đành phải chấp nhận.
Khác với người anh cả, ông Aldum là một người
trực tính, ít học, nhưng được cái khỏe mạnh và cần cù. Ông không ý thức nổi vai
trò của mình với tư cách là trưởng thôn, né tránh các cuộc hội họp và làm quần
quật quanh năm. Thực tế, một mình ông nuôi sống cả ba gia đình, còn vai trò trưởng
thôn lại do ông anh cả Baki bí mật đảm nhiệm. Ông Baki, xét về hình dạng bên
ngoài lẫn tính cách bên trong chẳng giống chút nào với Aldum. Linh mục
Baki-Haji là một người vóc dáng nhỏ bé, ốm yếu, nhợt nhạt, sống bằng cái đầu của
mình nhưng với sự giúp đỡ của những bàn tay người khác.
Tuy nhiên, ngay trong năm đầu tiên chấp
chính, ông Aldum phải đứng trước một vấn đề khó khăn là phân chia diện tích đồng
cỏ cho các gia đình. Ông tân trưởng thôn không thèm nghe ai, thậm chí cả anh
mình, suốt hai ngày xách cây thước đi khắp các triền núi để cố chia cho thật đều.
Nhìn tổng thể thì trong làng chẳng mấy ai
nhớ có một ông trưởng thôn, mọi người vẫn sống theo những luật tục đã hình
thành từ bao đời nay, cho đến khi bỗng nhiên từ vùng bình nguyên Chechnya lan đến
tin đồn về những công việc kỳ lạ nào đó.
Linh mục Baki-Haji Arachaev thường đi lại
khắp vùng Chechnya, ông không chỉ nghe mà còn tận mắt chứng kiến tất cả những
gì đang xảy ra ở thành phố Grozny và cả trên bình nguyên nữa. Sau mỗi lần trở về,
ông cho gọi các em và những người họ hàng gần gũi lại, kể cho họ nghe về những
chuyện khủng khiếp đang diễn ra và về chính quyền mới.
Chỉ có một mình Aldum là đón nhận những tin
đó với một nụ cười vô tư rồi nói:
- Tốt lắm, có thể người ta sẽ giúp em thoát
khỏi cái chức vụ của mình.
- Chú ngốc lắm. - Baki-Haji bực tức quát. -
Ngày hôm nay đám nhãi ranh ấy giành chính quyền, ngày mai sẽ lấy đất, rồi chú sẽ
là người đầu tiên đi cày thuê cho họ.
- Thôi muộn rồi, - Aldum vừa ngáp vừa đáp,
- sáng sớm mai em phải đi bẻ ngô... Mưa xuống là hỏng hết... Em nghĩ, tán dóc
ít thôi, chịu khó nghĩ về mùa đông ấy.
Mọi người đều đồng ý với kết luận đó rồi ai
về nhà nấy, nhưng những lời đồn đại về sự thay đổi mỗi ngày một nhiều hơn, trở
thành niềm mong ước ngọt ngào đến mức nhiều người tin và chờ đợi. Cuộc sống nơi
đây vốn đã vất vả và đơn điệu quá mức! Người ta hứa hẹn thiên đường, hạnh phúc
và công bằng!
Đầu thu, trời vừa rạng, khi dân làng
Duts-Khote mới lùa gia súc ra đồng, có một người cưỡi con ngựa khỏe, cầm lá cờ
đỏ xuất hiện trong làng, đó là Abaev Nutsulkhan.
- Tập trung ở bãi chợ! Tất cả ra chợ! -
Chàng thanh niên Nutsulkhan hét lên, chậm rãi cho con ngựa mệt lử chạy lòng
vòng.
Dân chúng tò mò đổ ra đường.
- Này Nutsulkhan, cậu kiếm đâu ra con ngựa ấy
thế?
- Đàn bà có ra không? - Nhiều người hét
theo.
- Cậu lấy trộm con ngựa của ai vậy?
- Có phát kẹo không? - Đám trẻ hỏi.
Hầu như cả làng tập trung trên bãi chợ. Những
người mới đến khoảng hai chục, cả người Nga và người Chechnya, tất cả đều trẻ,
vũ khí đầy đủ, quần áo mới cứng, cưỡi toàn ngựa nòi. Họ đứng giữa sân chợ, dáng
vẻ tự tin, thoáng chút kiêu ngạo.
Một người trong số họ giơ tay lên để thu
hút sự chú ý, định nói gì đó, nhưng vừa lúc đó ông Aldum Arachaev xuất hiện.
Ông đưa hai cánh tay to khỏe gạt đám đông ra, đi vào giữa.
- Dừng lại! Nghe tôi nói đây! - Ông hét lên
bằng một giọng rất to của mình. - Ở đây tôi là trưởng thôn, chỉ có tôi, hoặc là
với sự cho phép của tôi mới được tập hợp dân làng ra chợ. Chúng ta rất quý trọng
khách, nhưng khách cần phải biết luật lệ của chúng ta.
- Chúng tôi không phải là khách, chúng tôi
là chủ nhân của vùng đất này. - Một trong số những người Chechnya vừa đến, ngắt
lời.
- Anh là chủ nhân? - Ông Aldum đỏ mặt hỏi lại.
- Trong làng Duts-Khote của chúng tôi? Sao anh dám, đồ láo xược?
Aldum tiến lại gần kẻ xúc phạm, nắm dây
cương ngựa và định túm lấy anh ta, nhưng anh ta, chẳng nghĩ ngợi lâu, không
thèm rút chân ra khỏi bàn đạp, đạp cả chiếc ủng đóng cá sắt vào hàm Aldum một
cú rất mạnh.
Cuộc ẩu đả nổ ra. Những người mới đến thoát
chết nhờ ngồi trên lưng ngựa và nhờ linh mục Baki-Haji cùng với những người cao
niên khác năn nỉ dân làng thả các vị khách ra. Dân làng thả hết, song có ba người
phải chạy bộ vì ngựa của họ đã bị ai đó thừa cơ dắt đi mất, còn kẻ xúc phạm
Aldum phải chở đến bệnh viện huyện Shali bằng xe ngựa kéo.
Hai ngày trôi qua, sáng sớm ngày thứ ba cả
làng Duts-Khote bị quân đội bao vây, đó là lực lượng quân đội thường trực. Các
kỵ binh, theo từng nhóm nhỏ vây chặt ngôi làng, lần đầu tiên dân làng
Duts-Khote được nghe và nhìn thấy công an. Đó là những người lạnh lùng, lặng lẽ
và dữ tợn, mặc quân phục xanh, có cả người Nga và người Chechnya.
Năm người bị bắt, trong đó có Aldum Arachaev.
Ngay trong buổi chiều, hai người bị bắt quay về làng và cho biết, Aldum và những
người còn lại bị đưa lên xe ô tô rời Shali đến thành phố Grozny.
Ngày hôm sau, linh mục Baki-Haji vào thành
phố tìm em trai.
Một tuần sau ông mới quay về, hốc hác, phờ phạc, nét mặt ủ rũ, vừa mệt vừa đói. Mọi người xúm lại đầy sân, im lặng chờ đợi.
Một tuần sau ông mới quay về, hốc hác, phờ phạc, nét mặt ủ rũ, vừa mệt vừa đói. Mọi người xúm lại đầy sân, im lặng chờ đợi.
Ông Baki-Haji thấp bé, mệt mỏi bước ra hiên
nhà và nói nhỏ:
- Ôi, bà con! Thật là bất hạnh! Người Nga
đã đến đây và giành lấy chính quyền ở vùng bình nguyên. Ở đó mọi chuyện thật khủng
khiếp! Chẳng bao lâu nữa họ sẽ đến đây. Giá họ là những người Nga cao quý, no đủ
và sạch sẽ thì Thượng đế sẽ phù hộ cho họ, đằng này, toàn một lũ bẩn thỉu, đói
khát và rách rưới. Khuôn mặt họ chẳng giống người, họ không được thần thánh phù
hộ. Kẻ thù số một của họ là những người tin vào Thượng đế... Mọi người hãy nói
ít thôi... Cất giấu mọi thứ cho kĩ... Trong thành phố đang đói. Họ sẽ đến đây,
sẽ lấy hết gia súc và ruộng đất... Những con người đói khát đó đáng sợ lắm,
không còn là người nữa mà là một lũ súc sinh.
Cuối tháng Mười, những bông tuyết đầu mùa
đáp xuống vùng núi, cùng với đó là tin đồn về việc ông Aldum Arachaev bị bắn
như một tên phản cách mạng gian ác. Vậy là từ đó, Tsanka cùng với em trai Basil
và em gái Kelika bị mồ côi cha.
Nhận được tin đó, ông Baki-Haji cùng với
hai người bà con lên đường vào thành phố với hy vọng nhận được xác em trai.
Nhưng vừa vào đến nơi, ông cũng bị bắt giam hơn bốn tháng. Khi ông trở về thì
chính quyền Xô viết đã đứng vững trong làng Duts-Khote. Ủy ban cách mạng được
thành lập, đứng đầu là một thanh niên đến từ một ngôi làng rất xa trên bình
nguyên. Tên anh ta là Solsaev Badrudi.
Trong làng Duts-Khote chưa bao giờ có nhà
công vụ, bởi vậy Solsaev Badrudi được bố trí vào ở trong nhà bà lão độc thân
Zorgi. Chẳng bao lâu sau, anh ta đưa về làng bà mẹ già của mình với vài thứ đồ
dùng sinh hoạt vặt vãnh. Solsaev yêu cầu tất cả mọi người không được gọi mình
trống không Badrudi, mà phải kèm theo từ “đồng chí”.
Điều ngạc nhiên là nhiều người trong làng lại
rất hào hứng thực hiện những lời kêu gọi của Xô viết: nhiều người nhận lời làm
công an, họ bảo vì được công khai mang vũ khí, số khác, vào buổi sáng hay buổi
tối, bí mật đến thăm chủ tịch Ủy ban cách mạng, người thì mang theo gà mái, người
thì gà tây, cừu đực. Có người lại đứng ra làm mối cho vị lãnh đạo trẻ. Điều làm
Solsaev thất vọng nhất là không ai muốn tham gia vào Ủy ban bần cố nông. Mọi sự
thuyết phục hay các cuộc mít tinh đều vô ích. Nhưng cấp trên yêu cầu chủ tịch
phải lập được danh sách, đưa tất cả các hộ nghèo vào đấy để liên kết họ lại.
Sau khi ra tù, ông Baki-Haji trở về nhà,
dáng vẻ bơ phờ, ốm yếu, trầm lặng. Ngay trong chiều, bà con họ hàng, láng giềng,
người làng và cả những người làng bên tụ tập tại nhà ông. Ngồi trong góc trên tấm
thảm, hai chân xếp bằng theo kiểu Tacta, ông linh mục nhìn mọi người chân
thành, chăm chú. Cặp mắt to màu đen, sâu hoắm của ông với những quầng thâm xung
quanh, ngạc nhiên lướt trên những khuôn mặt thân quen. Cuối cùng, ông linh mục
khẽ nói bằng một giọng khàn khàn:
- Điều đáng sợ nhất trên trái đất này là
khi người ta liên kết nhau lại mà không còn gì để mất, kể cả lương tâm và danh
dự.
Sáng hôm sau, một người công an - chính là
ông hàng xóm Bekhan Timishev đến gặp ông Baki-Haji. Như thông lệ, ông hàng xóm
hỏi thăm sức khỏe, chuyện làm ăn, chia buồn với gia đình về những mất mát, sau
đó, ông ta cúi xuống nhìn vào đôi ủng công vụ mới được phát của mình, cố nén
xúc động, thông báo cho gia chủ biết, đồng chí Solsaev yêu cầu ông Baki-Haji phải
có mặt tại Ủy ban cách mạng. Ông em trai Kosum tức giận lao vào người công an,
nhưng ông Baki-Haji liền giơ tay ngăn em lại, cám ơn ông láng giềng về lời chia
buồn rồi nói, hôm nay ông không thể đến gặp chủ tịch ủy ban được.
Ông Timishev liền đi ngay, còn ông anh cả
nhà Arachaev nói với ông em út:
- Chú muốn cả dòng họ nhà ta sẽ bị giết hết
sao? Hãy giữ mồm giữ miệng, kể cả những cơn bực tức của mình... Không phải như
trước đâu... Họ sẽ còn làm tình làm tội chúng ta nữa. Họ có thế lực, chính quyền
đứng sau lưng họ.
Cuộc đón tiếp và đưa tiễn của vị chủ tịch Ủy
ban cách mạng đối với ông Baki-Haji diễn ra một cách lịch thiệp và nhã nhặn
theo đúng thông lệ đối với người cao tuổi, tuy nhiên nội dung trò chuyện lại lạnh
lùng, cứng rắn và uy quyền.
Sau cuộc nói chuyện ngắn ngủi, gợi cho ông
Baki-Haji nhớ tới cuộc thẩm vấn trong nhà tù, Solsaev hỏi ông Baki-Haji có biết
đọc và biết viết tiếng Nga không.
- Không, tôi chỉ biết tiếng Arập thôi, -
ông Baki-Haji buồn rầu nhìn ông lãnh đạo trẻ, khẽ đáp.
- Tốt nhất là ông nên học tiếng Nga, -
Solsaev vừa nói vừa bập điếu thuốc trước mặt ông già và vội viết gì đó vào tờ
giấy nhăn nhúm và ố vàng vì ẩm ướt.
Khi đó, ông chủ tịch không biết ông
Baki-Haji đang thầm nghĩ: “Chú mày còn trẻ và có học, tốt hơn là cứ ở nhà mình,
chứ đến đây, vào trong núi bày vẽ ra những quy định ấy làm gì... Người ta bảo,
mẹ nó là một phụ nữ chất phác, nghèo khổ và cũng già rồi... Biết làm sao được,
một khi đã sinh ra thằng con thế này... Chúng ta cũng có những nỗi khổ của
mình...”
Nửa đêm, khi cả làng đã chìm trong giấc ngủ,
những người đàn ông bà con thân tín tụ tập trong nhà ông Baki-Haji.
- Gọi cả thằng Tsanka nữa, - ông linh mục
nhìn mọi người nói.
- Nó đang ngủ, còn nhỏ mà, - Tiếng ai đó
đáp lại.
- Không, nó không còn nhỏ nữa. Cha nó đã bị
giết, mà nó đã hai mươi rồi... máu phải trả bằng máu.
Lát sau, Tsanka đang ngái ngủ cũng có mặt.
Đập ngay vào mắt cậu là những khuôn mặt lặng lẽ, đăm chiêu của bà con họ hàng.
Mọi người chờ ông trưởng họ lên tiếng.
- Khi chú em Aldum của tôi bị bắt, cầu xin
Thượng đế phù hộ cho chú ấy và cho tất cả chúng ta, có đúng là lúc cái thằng
súc sinh ngoại lai vào sân nhà ta cùng với những người Nga?
- Đúng thế, chính nó. - Mọi người đồng
thanh đáp lại.
- Còn hai người Chechnya nữa, - Kosum nói
khẽ, - nhưng những người ấy, ta không biết, chúng ta sẽ hỏi và sẽ tìm ra chúng.
- Nếu như kẻ mới đến ấy bước vào sân nhà
ta, rồi sau đó, người thân của chúng ta bị bắt và bị bắn chết thì anh ta phải
chịu trách nhiệm về món nợ máu này.
Một sự im lặng bao trùm. Lời kết án Solsaev
Badrudi đã được tuyên.
- Ai sẽ là người đi trả món nợ máu đối với
dòng họ ấy? - Ông Basnak, một người khỏe nhất và từ nhỏ hay đánh nhau nhất của
nhà Arachaev phá vỡ sự im lặng.
- Im đi! - Ông Baki-Haji rít lên, - dòng họ
của anh ta là tất cả những người Bolsevich. Không ai được biết bất cứ điều gì.
Rõ chưa? Ai cần biết, người đó sẽ biết.
Ngày thứ hai nào Solsaev cũng phải xuống
huyện lỵ Shali để họp. Khi đi bao giờ cũng có hai công an của làng Duts-Khote
là Timishev và Abkaev hộ tống. Vào một đêm mùa xuân, chủ nhật, có mưa, vị chủ tịch
nghe tiếng động lạ ngoài sân, nhưng không dám bước ra vì sợ. Sáng hôm sau,
Solsaev phát hiện con ngựa đã bị mất. Anh ta lao đến nhà các công an viên mới
biết, Timishev đi dự đám tang ở làng bên, còn Abkaev, thì theo lời người nhà, bị
ốm nặng, thậm chí không thể ngồi dậy nữa.
Solsaev Badrudi tức run lên, nắm chặt khẩu
súng ngắn đã lên đạn trong túi, không nói gì với mẹ và với thư ký, đi bộ đến
huyện lỵ Shali.
Con đường từ Duts-Khote đến ngôi làng gần
nhất Makhketa băng qua một khu rừng rậm. Đường không xa nhưng vắng. Sau một mùa
đông dài, con đường mòn nhỏ, ngoằn ngoèo trở nên ẩm ướt, đầy ổ gà và vũng nước
lớn, vòng vèo giữa các vệt bánh xe và bùn lầy, đôi chỗ rừng rậm lấn ra sát đường,
lúc bên trái, lúc bên phải, dọc hai bên đường là những bụi phỉ tử hoang dã, kim
anh đầy gai và các loại cây khác.
Vào đúng cái chỗ đoạn đường khô ráo, rừng
cây lan ra sát đường, từ trong bụi rậm một cánh tay to tướng vươn ra, túm lấy cổ
vị chủ tịch, kéo vào trong rừng. Không nghe thấy một tiếng nào của Solsaev,
cánh tay với khẩu súng ngắn thậm chí cũng chưa kịp rút ra, chỉ có cái mồm, giống
như mồm cá, há to, không một âm thanh... Sau cú đâm thứ hai bằng dao găm, một
dòng máu nhỏ, đỏ thắm phun ra.
Solsaev còn thở và còn giãy giụa khi ông
Basnak to khỏe chìa con dao đẫm máu cho Tsanka và bảo “Hãy kết liễu con vật này
đi”.
Tsanka, vóc dáng cao, gầy, khuôn mặt tái
mét, run bần bật như chiếc lá mùa đông cuối cùng trên cây. Cậu kinh hoàng nhìn
vào khuôn mặt biến dạng vì đau đớn của người hấp hối, bối rối vung hai tay lên,
loạng choạng lùi lại, bám vào gốc cây, ngồi xẹp xuống. Khi cậu định cố đứng dậy,
ánh mắt vô tình lướt qua cơ thể đẫm máu, cậu thấy chú Kosum của mình đang chĩa
thẳng súng vào ngực người kia bóp cò. Tsanka lại bật ngửa ra sau, ngã xuống đất,
đầu đập vào gốc cây lê dại... Tiếng vang của phát đạn khô khốc lan xa vào trong
núi và cứ đọng mãi trong đầu chàng trai trẻ Tsanka.
* * *
Cũng trong buổi sáng hôm ấy, bối rối vì quá
xúc động, ông Baki-Haji thả bộ đi xem xét cơ ngơi của mình, tức là khu nghĩa
trang cổ xưa của làng trong cuộc chiến thần thánh. Được an táng ở đây là một
vinh dự không chỉ đối với người làng Duts-Khote mà đối với nhiều người khác
quanh vùng. Những người Chechnya gốc gác ở đây, dù đã chuyển ra vùng bình
nguyên sinh sống từ lâu, nhưng theo di chúc vẫn đưa người thân của mình vào
vùng núi xa xôi này để chôn cất bên cạnh tổ tiên trong nghĩa trang quê hương. Kể
từ ngày ông Baki-Haji thực hiện chuyến hành hương đến thánh địa Mecca, ông là
người quản trang chính của nghĩa trang dòng tộc này. Không có sự đồng ý của
ông, không ai có quyền chôn cất trong mảnh đất thiêng liêng của người miền núi
này. Đúng ra mà nói, không bao giờ và không có ai bị ông Baki-Haji từ chối cả,
và cái thủ tục xin phép ấy chỉ hoàn toàn mang tính hình thức. Tuy nhiên, tất cả
mọi phong tục tập quán ở vùng núi luôn được tôn trọng và tuân thủ nghiêm ngặt...
Ra đến rìa làng, ông Baki-Haji đứng lại,
nhìn bốn phía, lắng tai nghe ngóng. Sau khi ra tù, thế giới đối với ông trở nên
khác hẳn, tinh khôi, thân thuộc. Chưa bao giờ ông được hít thở một cách thoải
mái bầu không khí sạch sẽ, tươi mát như những ngày được tự do.
Mùa xuân đến sớm. Ngay từ chiều hôm trước,
từ các vùng thấp, một màn sương mù đặc như sữa, ẩm ướt và lạnh lẽo trườn vào,
phủ lên lớp tuyết mùa đông đã bị mềm ra trong các thung lũng. Lớp đất đen màu mỡ
trong vùng núi Chechnya như tỉnh dậy sau cơn mơ dài, trương nở ra vì hơi ẩm, tê
cóng chờ đợi ánh nắng mặt trời, sẵn sàng sản sinh ra cuộc sống mới, thế giới mới
rực rỡ sắc màu.
Hầu như không có một ngọn gió, cũng không
nhìn thấy gì qua lớp sương mù dày đặc. Chẳng mấy chốc, những ngôi nhà ở rìa
làng cũng bị chìm lấp trong màn sương đục như sữa. Đâu đó trong làng, một con
bò cái bị đói rống lên, phía trước vọng lại tiếng nước chảy của nguồn nước mạch,
róc rách như tiếng chuông rung.
Ông Baki-Haji chậm rãi lấy chiếc gậy chống
gạt bùn đất ở đôi ủng ra, cứ như phía trước sẽ là một con đường sạch sẽ, khô
ráo, và khi ông định bước tiếp thì một tiếng nổ đơn độc, khô khốc vang lên. Ông
linh mục ngẩng đầu lắng nghe, cặp lông mày nhướn lên, mắt mở to, miệng há ra.
Ông cứ đứng im như thế trong một phút. Thế giới như chết lịm đi. Một sự im lặng
bao trùm. Ông Baki-Haji nheo nheo mắt, ngậm miệng lại, một cái nhếch mép hay
đúng hơn là một nụ cười thoáng hiện lên bên khóe môi. Tất cả chỉ diễn ra trong
tích tắc, sau đó khuôn mặt ông lại có ngay dáng vẻ trang nghiêm bình thường, và
ông nói ra thành tiếng “Xin Thượng đế hãy tha tội, xin Thượng đế hãy tha tội”.
Ông thò tay vào túi lấy ra chuỗi hạt, rồi vừa lần tràng hạt, vừa đọc kinh cầu
nguyện, vừa nặng nhọc bước tiếp.
Một lát, ông nghe sau lưng tiếng cọt kẹt của
xe kéo bằng gỗ, ông đứng lại, né sang một bên, nhường đường. Đầu tiên, từ trong
màn sương hiện ra hai con chó to, lông lá dính bết, một con trẻ hơn, rụt rè tiến
lại gần ông, hít hít. Sau đó một con ngựa cái ốm nhom xuất hiện, kéo theo chiếc
xe một trục cổ lỗ sĩ với hai bánh xe bằng gỗ to tướng nẹp sắt mỏng. Ngồi trên
xe điều khiển con ngựa bằng cành cây mềm là một người đàn ông cùng làng tên là
Haji Haron. Sau lưng Haron, chẳng mấy ai gọi anh ta bằng tên thật mà thường gọi
là “chồng bà Alpatu”, bởi lẽ ai cũng biết bà Alpatu là một người đàn bà khỏe mạnh,
thích quyền hành và điều hành toàn bộ công việc làm ăn của gia đình. Còn Haron
là một kẻ ba hoa, nhu nhược, và theo quan niệm của dân miền núi thì còn lâu anh
ta mới là đấng quân tử.
- Assalam aleikum, ông Baki-Haji! - Haron
ngoác to miệng cười, vui vẻ chào.
- Vo-aleikum salam. - Ông Baki-Haji đáp lại.
- Ông đi đâu sớm thế? Không ngồi yên ở nhà
được à? Chắc là đến chỗ cối xay nước của mình phải không? - Haron kéo dây cương
dừng con ngựa lại, liến thoắng. - Ông ngồi lên đây, tôi đưa đi.
- Ồ, không, cối xay không sao, tôi ra nghĩa
trang, - ông Baki-Haji lạnh nhạt nói.
- Thôi được rồi, ông cứ ngồi lên đây, tôi sẽ
chở ông tới chỗ cối xay, từ đó đến nghĩa trang chỉ còn một đoạn.
- Không, không, cám ơn ông, Haron. Tôi muốn
đi bộ.
- Thôi, ngồi lên đi, - Haron vẫn không chịu,
lôi từ dưới ghế ra chiếc áo lông ngắn đã sờn cũ, định đưa cho linh mục.
- Ông cứ đi đi, đi đi. Tôi không vội, tôi sẽ
đến được.
- Không, không, tôi sẽ không đi. Ông cứ leo
lên, ngồi vào đây, thế là xong.
Biết có nói nữa cũng vô ích, ông Baki-Haji
vụng về leo lên xe. Khi ông chưa kịp ngồi xuống thì chiếc xe đã lăn bánh. Bị mất
thăng bằng, ông linh mục bật ngửa ra sau, hai tay bíu chặt vào người Haron, thế
là cả hai cùng bám vào nhau trượt ra sau, may mà không rơi xuống đất.
- Đúng là đồ nghẽo già đáng nguyền rủa! -
Haron hét lên. - Khi cần đi thì không đi, khi muốn dừng thì phi như nước đại...
Đúng là đồ súc vật ngu ngốc...
Haron còn tức giận quất mấy roi nữa vào chiếc
mông lép xẹp của con ngựa cái, cái roi nhỏ bằng nhánh cây bị gẫy văng đi mất,
trong tay ông ta chỉ còn lại mẩu que cụt. Tuy nhiên, tất cả mọi sự tác động ấy
cũng không hề ảnh hưởng tới vận tốc chuyển động của chiếc xe. Khi đó, Haron liền
lấy mẩu que chọc chọc vào dưới đuôi ngựa, miệng không ngớt chửi rủa. Con ngựa
cái ép đuôi lại, lắc lắc mông, cố chịu đựng một lúc, nhưng rồi, không chịu nổi
nữa, nó vừa đi vừa nhảy chồm chồm, đá hai chân sau lên. Dĩ nhiên con ngựa không
thể đá hậu tới chỗ người xà ích, nhưng một cục đất đen văng ngay vào mắt Haron.
- Ôi, đồ súc sinh! - Haron phát điên lên, bật
dậy, định đứng thẳng trên xe, đạp cho con ngựa một cú, nhưng ông ta mới chỉ vừa
vung tay ra thì con ngựa hoảng sợ tế lên, Haron lại văng ra sau.
Ông Baki-Haji mỉm cười theo dõi toàn bộ vở
hài kịch và không đánh giá kịp thời mức độ nghiêm trọng của nó. Trong lúc hoảng
sợ ông cố bấu vào mép chiếc xe, nhưng đã quá muộn - Haron, với toàn bộ trọng lượng
của mình ngã văng ra sau, trúng vào người ông linh mục, cả hai cùng rơi xuống mặt
đường bẩn thỉu.
Người bị thiệt hại nhiều nhất là ông
Baki-Haji. Chiếc áo choàng đen của ông nhoe nhoét bùn đất, còn chính ông thì nằm
dưới, Haron đè lên trên. Ông lão lập cập đứng dậy, trong bụng thầm nguyền rủa
ông bạn đường ngớ ngẩn cùng con nghẽo già của ông ta. Haron cũng không muốn ngồi
lâu trong vũng bùn, vội vàng bật lên, xổ ra một tràng chửi rủa cay nghiệt đối với
mụ vợ và con ngựa cái cứng đầu, rồi chạy theo chiếc xe.
Sau hai mươi phút, họ lại ngồi trên xe, tiếp
tục chặng đường ngắn ngủi của mình và bật cười thích thú nhắc lại sự cố.
- Sao anh không bán nó đi? - Ông Baki-Haji
cười hỏi.
- Bán cho ai được? Ai mua cái con nghẽo
này? - Haron đáp, thận trọng giật giật dây cương điều khiển con ngựa cái cứng đầu.
- Nói thật, tôi cứ mong nó đẻ, nhưng vô ích... ba năm ở giá rồi... Thế còn con
ngựa tía của ông?
- Hiện tại cũng chưa có gì. Chúng tôi đang
chờ.
- Tôi cũng đã đưa con ngựa cái của mình đến
với con ngựa đực giống của ông. Nhưng thấy ngay là con ngựa đực không thể.
- Con ngựa đực của tôi có thể đấy, - ông
Baki-Haji mỉm cười, - chẳng qua là anh và con ngựa cái của mình không thể.
- Ông biết nhiều quá đấy, - Haron bực mình,
- Tôi có thể cưới một cô vợ trẻ ngay bây giờ.
- Thế còn bà Alpatu? - Ông linh mục chế giễu.
- Alpatu thì sao nào, chỉ là con mụ già ngu
ngốc! Mấy hôm trước chúng tôi vào Grozny, đám gái trẻ cứ bu lấy tôi.
- Không thể như thế được?! - Ông Baki-Haji
làm ra vẻ ngạc nhiên.
- Không là thế nào, - Haron ghé sát vào mặt
ông linh mục, mùi tỏi nồng nặc từ bữa ăn hôm qua phả ra. - Bọn chúng vây lấy
tôi, thậm chí không cho đi nữa, toàn là gái trẻ, bốc lửa, thèm khát... Ở đấy,
trên khắp vùng bình nguyên, chỉ có mỗi một thằng đàn ông, mà nó cũng chỉ biết đốt
thuốc lá và nốc vodka.
- Nhưng anh có lập được chiến công nào ở đấy
không? - Ông Baki-Haji vẫn không buông tha.
- Chuyện vặt. Chẳng qua là có cô Kesyrt,
con gái của bà Haza cũng theo xe vào thành phố. Con bé, đúng là phát rồ...
- Kesyrt nào? - Ông Baki-Haji hỏi bằng một
giọng nghiêm túc.
- Nào nào cái gì? Cô Kesyrt, con gái bà Haza
làm ở chỗ cối xay nước của ông đấy.
- Thế cô ấy vào thành phố làm gì?
- Làm đủ chuyện. Mua trứng, pho mát ở chợ
Makhketa, vào thành phố bán.
- Cô ấy mang đi bằng cách nào?
- Dĩ nhiên là tự mang, - Haron vừa đáp vừa
đưa mắt dò xét người đối thoại.
- Anh nói gì thế, chẳng lẽ đồng hương người
làng với nhau mà anh không giúp à? - Ông Baki-Haji ngạc nhiên hỏi lại.
- Ông biết ở đấy có bao nhiêu đồng hương
không? Hơn nữa xe của chúng tôi cũng chất đầy hàng. Bản thân tôi còn phải đi bộ
đến tận thành phố.
- Thế anh chở gì?
- Chúng tôi chở dưa bở, pho mát, bơ, đến
Makhketa còn lấy thêm hai trăm trứng nữa. Ông biết không, lãi lắm. Lượt về,
chúng tôi chở dầu hỏa, muối, cũng kiếm được ít nữa. Phải hỗ trợ thêm cho thằng
con.
- Con anh thế nào rồi? - Ông Baki-Haji lạnh
nhạt hỏi.
- Thằng Salman hả, khá lắm! Nó làm công an,
được cấp một phòng, họ bảo sau này sẽ cấp căn hộ. Phòng ấm lắm, có điện suốt
ngày đêm, chẳng phải như chúng ta ở trong núi đâu.
- Vậy là nó phục vụ cho những kẻ vô thần? -
Ông linh mục lạnh lùng.
- Vô thần thì liên quan gì ở đây! Cần phải
sống chứ, ông Baki-Haji. Chúng ta biết làm gì bây giờ? Ông không nên nói vậy, tất
cả chúng ta đều tin vào Thượng đế! Cả ngày lẫn đêm.
- Chúng tôi biết quá rõ công an của các
anh. Chúng tôi đã nếm mùi rồi... Không sao, thời gian sẽ chứng minh, - ông linh
mục tức giận nói.
Cả hai đều im lặng, quay mặt đi.
Màn sương mù buổi sáng mùa xuân dần tan. Trời
sáng lên. Cách đó một đoạn bắt đầu hiện lên những đường nét chập chờn và sạm
đen vì thời gian của chiếc cối xay nước, còn trên sườn đồi phía sau, thấp
thoáng hình bóng các bia mộ. Núi rừng vẫn còn ngủ say trong màn sương.
- Này ông Baki-Haji, hiện giờ, tiền công
xay bột ngô ở chỗ ông là bao nhiêu? - Haron phá vỡ sự im lặng nặng nề giữa hai
người.
- Tôi không biết... Tôi đã nói với anh rồi,
đó không phải là cối xay của tôi mà là của dòng họ chúng tôi, - giọng ông
Baki-Haji run run vì tức giận.
- Thế ai biết? - Haron vẫn không chịu.
- Anh hỏi bà Haza ấy, bà ấy biết.
- Dĩ nhiên là bà ấy biết, con mụ phù thủy ấy
vừa kiếm tiền cho các ông và cũng không quên phần của mình. - Haron nhổ nước bọt,
xỏ xiên.
- Còn anh, anh muốn tất cả đều được cho
không, như những người Bolsevich vô thần muốn thế chứ gì. - Càng lúc ông linh mục
càng tỏ ra bực bội.
- Tôi không biết những người Bolsevich ấy muốn
gì, chỉ có điều, ở vùng bình nguyên, mọi thứ đều là của chung, hay là như họ
nói, của tập thể.
- Ở đây, anh đừng mong điều đó... Nếu muốn,
anh cứ đến với thằng con công an của mình trong thành phố rồi hưởng chung với
nó, còn ở đây, chúng tôi đang sống và sẽ sống như cha ông chúng tôi đã sống, và
sẽ không cho phép ai được thay đổi phong tục tập quán của chúng tôi. - Vì quá tức
giận, giọng ông Baki-Haji bị vấp, - và tôi cũng không cho phép kẻ nào nhòm ngó
vào chiếc cối xay của chúng tôi. Anh hiểu chứ?
- Sao ông lại hét lên với tôi thế? Tôi có
nói gì đâu? Lạy Thánh, ông hãy bình tĩnh lại đi.
- Tôi bình tĩnh rồi.
- Tôi chỉ muốn ông bảo với bà Haza xay cho
kĩ, và lấy rẻ thôi.
- Anh hãy tự nói với bà ấy. Không thì bảo vợ
anh, bà Alpatu đến, họ sẽ thỏa thuận được với nhau. Mà anh không có việc gì làm
nữa hay sao mà phải tự đi.
Vừa nghe ông linh mục nói, Haron bật cười
thích thú.
- Ông biết không, cả ngày hôm qua tôi cố
thuyết phục bà vợ tôi ở nhà, tôi muốn gặp riêng cô Kesyrt, con gái bà Haza ở cối
xay. - Vừa nói Haron vừa liếm liếm cặp môi dày.
- Anh gặp Kesyrt làm gì? - Ông Baki-Haji
nhìn thẳng vào mặt Haron, hỏi.
- Làm gì là thế nào, có thể tôi sẽ tán đổ
cô ấy, vui chơi tí chút.
- Thế cô ấy là gái làng chơi à?
- Tôi không biết. Nhưng, với cô ấy thế nào
mà chẳng được, gái góa mà. Hai đời chồng rồi.
- Người ta đồn thế à? - ông Baki-Haji hạ giọng.
- Có đồn gì đâu... Ở thành phố người ta nói
về cô ấy cũng tử tế lắm. Chỉ đơn giản là cô ấy rất tuyệt, tôi sẵn sàng trao cả
cuộc đời để được ngủ với cô ấy một đêm.
- Ai thèm cái cuộc đời khốn nạn của anh. -
Ông Baki-Haji mỉa mai. - Vợ anh mà biết, chắc sẽ thiến anh ngay.
Haron không nói thêm gì nữa, bực bội giật
giật dây cương, mồ hôi rịn ra đầy trán dưới chiếc mũ lông thấp, vẻ mặt cau có,
sạm lại. Chắc là những ý nghĩ u ám gì đó đang ám ảnh ông ta.
- Ông có biết tin, đêm qua nhà ông chủ tịch
của chúng ta bị mất ngựa không? - Cuối cùng, không thể im lặng được nữa, Haron
chuyển đề tài.
- Chủ tịch nào? Trong làng chúng ta chỉ có
một chủ tịch là cậu em trai Aldum của tôi, người khác tôi không biết.
- Không biết là thế nào? - Haron làm ra vẻ
ngạc nhiên, bây giờ lại muốn châm chọc linh mục. - Chẳng phải chính ông vừa đến
gặp chủ tịch để trình diện hay sao?
Đúng lúc ấy chiếc xe vừa đến ngã ba: một đường
đi lên theo sườn núi đến cối xay, đường kia đi xuống nguồn nước, sang bờ bên
kia đi về hướng nghĩa trang. Thông thường, con đường này chỉ dùng cho người cưỡi
ngựa hay đi xe, người đi bộ men theo đường mòn ngang qua cối xay. Thấp hơn chút
nữa có chiếc cầu nhỏ vắt qua suối, chỉ đi được một người.
Ông Baki-Haji khéo léo nhảy xuống trong lúc
chiếc xe còn chưa dừng, làm rơi chiếc mũ lông xuống đất.
- Lạ thật! Ngày hôm nay, cả người tôi đều bị
rơi xuống bùn, chắc là vì gặp anh đấy. - Ông Baki-Haji bực mình nói.
- Ông xuống làm gì? Cứ ngồi đến cối xay, từ
đấy đến nghĩa trang chỉ còn một đoạn... Ông định lội qua chỗ nguồn nước à? Nước
lạnh lắm đấy. - Haron tỏ ra thông cảm, chân thật.
- Không sao, không sao. Thế là được rồi,
cám ơn anh. Tôi sẽ gột quần áo cho sạch sẽ một chút.
- Sạch sẽ thì không đâu, - Haron bật cười,
dừng xe lại, quay đầu nhìn về phía ông Baki-Haji đang bước đi.
Lời nhận xét cuối cùng của Haron đã châm
chích ông linh mục một cách cay độc, ông quay ngoắt lại định đáp trả bằng một
câu gì đó, nhưng Haron đã khóa miệng ông bằng một nụ cười giả tạo, hàm ý: tôi
đùa đấy.
- Lúc nãy ông có nghe thấy một tiếng nổ ở
phía dưới, trên đường đi Makhketa không? - Bất ngờ, Haron hỏi, vẫn giữ nguyên nụ
cười trên môi.
- Tiếng nổ nào? Ở đây người ta bắn nhau còn
ít lắm hay sao?... Tôi chẳng nghe thấy tiếng nổ nào cả. - Ông Baki-Haji đáp,
quay đầu định bước tiếp, nhưng một câu hỏi khác của Haron lại bắt ông phải đứng
lại.
- Ông có biết chuyện đêm qua các công an bảo
vệ chủ tịch đã bỏ trốn hết không? Dân chúng đồn, hôm qua người của ông lảng vảng
quanh nhà họ.
- Anh huyên thuyên nhiều quá đấy, Haron ạ,
- ông Baki-Haji nổi giận.
- Thứ nhất, tôi không huyên thuyên, thứ
hai, thời buổi bây giờ không còn là thời mà dòng họ Arachaev có thể bịt mồm mọi
người được nữa đâu. - Hai hàm răng trắng như tuyết của Haron hiện ra dưới hàng
ria đen.
Ông Baki-Haji giận run người, nếu trong tay
ông giờ đây có vũ khí, chắc là ông đã lao ngay vào kẻ xúc phạm. Tuy nhiên,
Haron thừa biết, một mặt, ông già thấp bé kia, già hơn mình đến mười, mười lăm
tuổi, mặt khác, với tư cách là linh mục, ông ta sẽ không lao vào cuộc ẩu đả. Và
điều quan trọng nhất, chính quyền đã khác, thời đại đã khác: con trai ông là
công an ở Grozny, đứa khác cũng đang học ở Grozny, lại còn hai đứa nữa cũng đã
lớn. Trong mọi trường hợp, thời thế đã thay đổi, bây giờ người của dòng họ
Arachaev không còn ra lệnh ở đây nữa.
Haron giật cương, chiếc xe cọt kẹt lăn bánh
đi lên. Khi đã đi rồi, ông ta còn hét lại:
- Cô Kesyrt, con gái bà Haza, khuôn mặt giống
y như cô con gái thứ hai của ông, còn vóc dáng nữa!...
- Anh lảm nhảm gì thế, đồ cặn bã! - Ông
Baki-Haji vung cây gậy lên, hét lại.
- Có gì đâu, chẳng qua là dân chúng nói vậy
thôi... rằng ông cứ nhảy chồm chồm một chỗ, nhặng xị cả lên, như con ếch trong
đầm lầy ấy! Thôi, đi đi, ông cứ đi con đường của ông. - Haron ngoác miệng cười,
đáp lại.
Ông Baki-Haji không thể chịu đựng hơn được
nữa, ông quay ngoắt lại, bất chấp tuổi tác, lao vào kẻ xúc phạm, vung cây gậy
lên, tuy nhiên, Haron đã đề phòng trước, một tay khôn khéo tóm ngay cây gậy,
tay kia đẩy vào ngực ông linh mục. Ông già mất thăng bằng, ngã xuống đất. Haron
ném cây gậy xuống dưới chân ông, rồi không thèm nhìn, thúc ngựa chạy nhanh, miệng
lẩm nhẩm hát một câu gì đó.
Ông Baki-Haji ngồi dưới đất bẩn một lúc,
không hiểu chuyện gì đã xảy ra, sau đó ông vội vàng đứng lên, quên cả chiếc mũ
và cây gậy, chạy theo chiếc xe ngựa lúc đó đã đi khá xa. Trong tiếng trống ngực
đập thình thịch, ông linh mục nghe thấy tiếng những con chó hung dữ của bà Haza
sống tại cối xay đang đuổi cắn những con chó của Haron, rồi tiếng hét của bà
Haza mỗi lúc một to, cùng với tiếng các thớt đá cối xay nghiến vào nhau ầm ầm.
Đến chân cối xay thì ông Baki-Haji và Haron
lại chạm trán với nhau, chiếc xe ngựa ngoặt sang bên rồi lao nhanh xuống dưới.
Ông Baki-Haji định chặn chiếc xe lại, nhưng
nhìn con ngựa cái với cặp mắt như hóa dại lao đi, ông chỉ kịp né sang một bên,
một cái gì đó lướt ngang qua mặt, tiếng Haron hét lên, ông không nghe được,
nhưng mọi việc thì đã rõ.
Bà Haza lưng còng do nhiều năm lao động quần
quật, ra đón ông Baki-Haji, vẻ lo lắng, xúc động:
- Chuyện gì thế? Ông với con lợn ấy có chuyện
gì thế? - Vừa đưa ông linh mục vào căn buồng nhỏ của mình, bà Haza vừa hỏi.
- Không có gì quan trọng cả, chỉ có điều, vừa
rồi cái thằng cặn bã ấy lại bóng gió con Kesyrt là con gái tôi. Chỉ có Thượng đế
mới biết, tôi không liên quan gì tới chuyện đó, và tôi cũng không biết bà sinh
ra nó từ người đàn ông nào... Có kẻ nào đó đã tung ra cái tin đồn thâm độc này
để hại tôi. - Ông linh mục vừa nặng nề thở hắt ra, vừa nói: - Nhờ bà đi lấy cho
tôi cây gậy và chiếc mũ, chúng bị rơi ở chỗ ngã ba ấy.
Quay về với cây gậy chống và chiếc mũ, bà
Haza nhìn thấy ông Baki-Haji đang bình thản đi vòng quanh cối xay xem xét tài sản
của mình như chưa hề có chuyện gì xảy ra,
- Ông Baki-Haji, tôi mang nước quả ướp lạnh
cho ông nhé?
- Ừ, bà mang lại đây nếu không phiền.
Ông linh mục
chậm rãi uống nước, vẻ thích thú, rồi ông nhìn thẳng vào mắt bà Haza, hỏi:
- Kesyrt
đâu?
- Nó đi
buôn.
- Nó không
còn việc gì làm nữa hay sao? - Ông bực bội nói.
- Ở đây nó
biết làm gì? Nó không muốn sống trong cái hang này nữa. Ông cũng biết số phận
và tính cách của nó. Còn ở đấy, giữa chốn đông người, nó cũng kiếm ra tiền, đủ
mua quần áo, giày dép. Nó còn giúp thêm cho tôi... Tôi biết làm gì với nó bây
giờ? - Bà Haza giơ hai cánh tay to, xương xẩu vì công việc và vì tuổi tác đập
vào ngực mình. - Ông đừng lo cho nó. Nó không để ai làm nhục đâu, tốt hơn là
ông hãy lo cho mình ấy. Từ ngày đi tù về, ông gầy sọm đi, da xanh mét, chắc ở đấy
khổ lắm phải không?
- Thôi đừng
rên rỉ nữa, - ông Baki-Haji ngắt lời. - Tôi ra nghĩa trang đây. Lúc về tôi sẽ
ghé lại.
Ông
Baki-Haji đi trên cây cầu gỗ hẹp bắc qua nguồn nước, sang bờ bên kia, rồi đi
theo con đường nhỏ lát đá. Được nửa đường, ông dừng lại, nghỉ lấy hơi.
Sương đã
tan, ở phía đông, xuyên qua lớp mây trắng, cái đĩa vàng của mặt trời đã hiện
lên trên đỉnh núi Ertan-Kort. Không khí tràn ngập hương vị mùa xuân, của sự sống
và sự tinh khiết. Cánh rừng dẻ gai ở sườn núi đối diện, qua mùa đông đã chuyển
từ màu đen sang màu nâu do chồi non đã bắt đầu nhú ra chào đón cuộc sống mới,
chỉ sau một vài ngày chúng sẽ biến thành những chiếc lá xanh. Trên đỉnh Alpes,
tuyết vẫn còn phủ kín, chỉ có trong các khe núi nhỏ lộ ra màu xanh của những
cây thông. Những cọng cỏ mảnh mai như trinh nữ lần đầu đến cuộc hẹn, thẹn thùng
và bối rối xuyên qua lớp đất đen, hướng về phía mặt trời.
Ánh mắt của
ông Baki-Haji dừng lại nơi chiếc cối xay. Từ trên cao nhìn xuống, trông nó bé
nhỏ như đồ chơi. Bà Haza với chiếc chổi trong tay đi lại trên sân, lúc lúc lại
ngước mắt nhìn về hướng ông linh mục đang xa dần.
* * *
Nhiều năm
trước, dưới thời trị vì của thủ lĩnh Hồi giáo Shamil, ông nội của ông Baki-Haji
đã xây dựng tại địa điểm này một chiếc cối xay thô sơ. Ông còn nhớ rất rõ đó là
một công trình xấu xí, cấu tạo rất đơn giản: bốn bức tường bằng đá xếp, không
có xi măng gắn kết, cao khoảng hai arshin, mái che bằng đất, bên trong đủ chỗ
cho ba người ngồi xổm, ở giữa có một cái thùng làm bằng vỏ cây vừa đủ chứa thớt
đá cối xay. Cái thớt trên quay quanh trục được gắn với một trong số hai vành
bánh xe vuông góc với nó và được truyền động nhờ dòng nước chảy dưới sàn cối
xay. Do trong núi không thể xây cống trên suối được, nên thớt cối quay liên tục.
Sau này,
khi đã đi khắp thế gian về, ông Baki-Haji đã thiết kế lại và hoàn thiện toàn bộ
cấu trúc của cối xay nước. Việc đầu tiên là ông mua của những người lái buôn Do
Thái hai cái thớt đá mới - tốn của ông mất mười lăm con bò sữa và hai con ngựa,
rồi ông cho xây cối xay nước to hơn. Cùng với nhà cối xay, còn có nhà kho và
nhà ở, ngoài ra, bà Haza còn xây thêm chuồng gia súc cho mình.
Ở
Duts-Khote và trong khắp vùng, từ “cối xay” và “Haza” được hiểu là một. Không
ai biết và cũng không ai nhớ, từ đâu và khi nào bà Haza xuất hiện ở đây. Họ bảo,
bà ấy là con gái của công tước người Gruzia hay Ossetia nào đó bị thủ lĩnh
Shamil lật đổ. Haza được giao cho bà già Bikazhu lúc ấy sống ở cối xay chăm
nom, rồi sống cả đời ở đây. Về bà Bikazhu, người ta đồn đại đủ chuyện: nào là
phù thủy, nào là đồng cốt và đủ thứ khác. Bà Bikazhu đối xử với Haza rất nghiêm
khắc và độc ác, bắt làm quần quật, ngay từ nhỏ đã phải mang vác những bao tải nặng.
Sau khi bà
Bikazhu qua đời, cối xay được xây mới và mọi thứ xung quanh cũng được xây dựng
lại. Haza trở thành người quản lý giỏi: mọi thứ trong cối xay đều sạch sẽ, ngăn
nắp và ấm cúng. Tuy nhiên, Haza lại rất không đẹp. Có thể do lao động nặng nhọc
nên vóc dáng bà trông như đàn ông: khuôn mặt to, dài, ngón tay thô, bước đi huỳnh
huỵch, giọng nói thô kệch có lẽ vì hít quá nhiều bụi ở cối xay.
Một lần,
Haza biến mất làm cho mọi người vô cùng sửng sốt, rồi lại bất ngờ xuất hiện,
nhưng với cô con gái trên tay. Tiếng đồn lan khắp hẻm núi. Mọi người đều chĩa sự
chú ý về phía ông linh mục Baki Arachaev. Cũng trong năm đó, ông Baki thực hiện
chuyến hành hương đến thánh địa Mecca và trở thành Baki-Haji, uy tín của ông,
nhờ thế tăng lên đáng kể. Mọi việc cứ thế trôi qua, còn cô con gái Kesyrt của
Haza đã có thể chạy quanh núi, ra suối tắm và chỉ chơi với các bạn trai, trở
thành một cô bé can đảm, ngang bướng và không biết e sợ ai. Không ai kịp nhận
ra, Kesyrt đã lột xác từ một cô bé ngỗ ngược thành một thiếu nữ xinh đẹp.
Mọi người
rất ngạc nhiên khi thấy Kesyrt có cặp chân dài, vóc dáng cao, cơ thể cân đối,
nước da bánh mật, đôi má ửng hồng, còn cặp mắt, mái tóc và hàng mi thì đen tuyền.
Khi cô cười, hai cái lúm đồng tiền nhỏ xuất hiện nơi khóe môi, để lộ ra hai hàm
răng nhỏ, đều và trắng như tuyết.
Gái đẹp
trong vùng núi Chechnya không ít, tuy nhiên Kesyrt nổi bật lên nhờ phong thái
kiều diễm. Trong các buổi hội hè, cưới xin, mọi người đều muốn khiêu vũ với cô.
Kesyrt bước ra, không chút điệu đàng, õng ẹo, trông như một con thiên nga trang
nghiêm, duyên dáng và đầy kiêu hãnh. Cặp mắt Kesyrt không bao giờ đảo qua đảo lại,
mà thường nhìn xuống, vẻ u buồn được che bởi hai hàng mi dài và dày.
Đám thanh
niên la hét thích thú, đàn ông có tuổi thở dài, còn các cô gái thì liếc xéo với
sự ganh ghét lộ liễu.
Từ khắp
các bản làng xa gần, thanh niên đổ xô đến làm quen với Kesyrt, thậm chí chỉ để
được nhìn thấy cô. Người ta chỉ cần kháo nhau, con gái bà Haza sẽ có mặt trong
đám cưới hay trong cuộc vui của ai đó, thế là tất cả đổ xô đến. Khi Kesyrt xuất
hiện, người ta chào mừng cô bằng những tràng vỗ tay và những loạt đạn bắn bằng
đủ các loại súng, tiếng vang lan xa hàng dặm. Khi Kesyrt ra về cùng với mẹ, người
ta chẳng thèm quan tâm đến cuộc vui nữa, tất cả trở nên tầm thường, nhạt nhẽo
và đơn điệu.
Kesyrt lớn
lên trong sự nghèo túng và thiếu thốn đủ điều. Từ bé, cùng với đám con trai, cô
đã phải vào rừng lấy củi, cắt cỏ, chăn bò, chăn cừu. Mùa đông, cô phải chải
lông cừu trong làn nước giá băng lạnh buốt ở nguồn nước, phải xe sợi bằng cái
guồng thô sơ, rồi dệt vải bằng khung dệt tay làm theo kiểu người Nga, với các sợi
dọc, luồn con thoi bằng gỗ để dệt thành tấm vải. Tấm vải dệt xong, phải tháo ra
khỏi khung, ngâm vào trong bùn sét, sau đó giặt sạch rồi nhuộm bằng thuốc màu
làm từ trái cây cơm cháy. Tùy thuộc vào độ đậm đặc của thuốc màu, có thể nhuộm
ra các màu từ đỏ thẫm cho tới tím than. Còn để có màu vàng, hai mẹ con phải trữ
sẵn cỏ kim tước để làm thuốc nhuộm.
Nhiều đêm
mùa đông dài lê thê, trong ánh sáng vàng vọt của cây đèn đốt bằng mỡ, Kesyrt ngồi
sửa đi sửa lại mấy bộ áo váy ít ỏi của mình. Bước vào tuổi thiếu nữ, Kesyrt biến
đổi hoàn toàn, chỉ qua một mùa đông, từ một cô bé tuổi dậy thì Kesyrt biến
thành một thiếu nữ xinh đẹp. Cô không mặc những chiếc áo váy thô màu xanh da trời
như những cô gái cùng trang lứa nữa mà tự may cho mình những chiếc áo cánh dân
tộc, làm tôn lên vẻ đẹp của cơ thể thiếu nữ.
Tuy nhiên,
công việc Kesyrt thành thạo nhất là đan và dệt thổ cẩm. Bà Haza đã dạy cho cô
các kiểu dệt đan cơ bản nhất, song cô không chịu dừng ở đấy. Cô học cách hong sợi,
bắt đầu dệt khăn choàng, đan áo len, găng tay, rồi cả áo váy cho mình. Toàn bộ
tài năng về nữ công gia chánh của Kesyrt tập trung chủ yếu vào việc dệt đan áo
váy: từng chi tiết sắc sảo của các đường nét hoa văn, cùng với sự bền chắc, giản
đơn và màu sắc hài hòa của chiếc áo váy làm mọi người vô cùng thán phục.
Trong chiếc
áo váy bó sát cơ thể cân đối của mình, trông Kesyrt lại càng xinh đẹp hơn.
Không người đàn ông hay người phụ nữ nào có thể rời mắt khỏi cơ thể Kesyrt. E
ngại những điều chẳng lành, bà Haza choàng thêm vào người cô con gái mấy lá bùa
nữa. Còn ông Aldum, em trai ông Baki-Haji, không chút e ngại, nói oang oang trước
mặt mọi người:
- Mọi người
cứ nghĩ, chiếc áo váy đẹp, nhưng chỉ là cái giẻ rách. Bên trong cái áo váy mới
quan trọng.
- Con quỷ
cái cứ lởn vởn quanh đây thì không thằng đàn ông nào thoát khỏi tội lỗi đâu. -
Bà vợ ông Aldum càm ràm.
Câu chuyện
về chiếc áo váy nổi tiếng đến mức có một nhà nghiên cứu người Nga băng đèo lội
suối đến, đề nghị mua chiếc áo váy của Kesyrt với cái giá rất cao. Kesyrt không
ngần ngại tặng ngay chiếc áo váy cho ông. Một tuần sau, các tiểu thư trẻ tuổi
giàu có người Nga với sự hộ tống của một đoàn sĩ quan kỵ binh người Nga và
Chechnya đến cối xay của bà Haza. Các quý cô, lấy khăn tay lụa bịt mũi vì bụi,
gọi Kesyrt ra, đặt cho cô dệt may chiếc áo váy giống hệt như vậy. Để đáp lại,
con gái bà Haza chỉ thương hại nhìn họ rồi bỏ vào nhà. Thậm chí ông Baki-Haji
và ông trưởng thôn cũng chẳng giúp được gì.
Còn lâu
thì cuộc sống của Kesyrt mới có thể gọi là tốt đẹp, và sự nghèo khổ cũng không
phải là nỗi mất mát quan trọng nhất trong thời thiếu nữ của cô. Kesyrt lớn lên,
không biết mặt cha, không có anh chị em, bà con họ hàng, gia tộc. Thật là khó
khăn khi không có họ hàng, mà trong vùng núi Chechnya điều đó lại càng tệ hại.
Không chỉ một lần, Kesyrt đã phải rớt nước mắt vì những lời xúc phạm cô là con
ngoài giá thú, không chỉ một đêm cô đã phải đau khổ vì sự cô đơn và bất lực. Dù
vậy, Kesyrt vẫn tìm được sức lực, nụ cười và niềm hy vọng để nhìn thẳng vào thế
giới xung quanh, để lớn lên, trở nên điềm đạm, bình thản trước những trò tinh
quái của những kẻ ngu ngốc.
Có một
chàng trai tên là Sharpudin Tsintsiev ở làng Agishta rất kiên trì tán tỉnh
Kesyrt. Anh ta áp dụng đủ biện pháp, cả những lời tán dương hùng biện ngọt như
đường, cả sự giàu sang của dòng họ - thảy đều vô ích. Trong mắt Kesyrt, anh ta
thật đáng ghét. Hai lần, lợi dụng bóng đêm và ở xa nhà, Sharpudin định ôm hôn
Kesyrt, nhưng cả hai lần anh ta chỉ nhận được sự từ chối thẳng thừng kèm theo
cái tát. Để trả thù, anh ta tìm mọi cách làm hại cuộc đời cô gái trẻ không người
thân thích. Tình hình tồi tệ đến mức, anh ta bắt đầu xúc phạm cô ngay giữa chỗ
đông người, càng ngày càng trơ tráo và càn rỡ.
Kesyrt tìm
mọi cách tránh xa anh ta, rất ít khi vào làng, chỉ thỉnh thoảng mới tham dự các
cuộc vui. Một lần, vào mùa đông, người ta thông báo, nhân sự kiện giá lạnh
trong thung lũng Bashandaroi-ari đã trôi qua, ở làng Peskhoi-Lam sẽ tổ chức buổi
lễ. Với những lễ hội như vậy, tất cả các cô gái trẻ từ các làng xa gần đều được
mời. Đây cũng là dịp để thanh niên nam nữ làm quen, kết bạn. Và như người ta vẫn
thường nói, ai cũng muốn khoe bản thân mình và ngắm nhìn người khác.
Cô con gái
bà Haza nhận được một lời mời đặc biệt. Kesyrt phân vân rất lâu - đi hay không
đi, cuối cùng cô quyết định đi: cô muốn khoe bộ áo váy mới dệt của mình và chiếc
áo cherkeska thêu chỉ vàng.
- Con đi một
mình à? - Bà Haza rầu rĩ hỏi. - Làm sao mẹ có thể cho con đi một mình được... Mẹ
cũng muốn đi xem nữa.
- Nana,
nhưng chúng ta chỉ có một đôi giày lông mềm thôi.
- Mẹ có thể
mượn của ai đó. - Bà mẹ năn nỉ.
- Ồ không,
không nên đi giày của người khác. Nếu mẹ muốn đi, con sẽ ở nhà, đằng nào thì
con cũng chẳng có việc gì làm ở đó. - Cô con gái cương quyết nói.
- Thôi,
thôi, mẹ già rồi... Nghe nói, sẽ có nhiều thức ăn ngon lắm, xẻ thịt ba con bò
cơ mà... lâu lắm rồi chúng ta không được ăn thịt... Thôi được rồi.
- Chẳng có
gì ăn được ở đấy đâu mẹ ạ. - Cô con gái bực bội.
- Mẹ cũng
nói vậy thôi. Con cứ làm theo ý mình. - Bà mẹ vừa nói vừa thở dài. - Cầu xin
thánh thần phù hộ cho con.
Đêm đông
dài trong căn nhà nhỏ ọp ẹp của bà Haza bên cối xay nước với ngọn đèn dầu hỏa.
Kesyrt chuẩn bị rất kĩ cho buổi lễ. Hai người phụ nữ, cô con gái và bà mẹ già,
cùng chờ đợi một điều gì đó không bình thường vào ngày mai, một điều gì đó mới
mẻ, tươi đẹp. Từ hôm trước, bà Haza đã nấu nước bằng chiếc chảo gang lớn, rồi
sau khi đặt cô con gái ngồi vào chiếc thau đồng, bà mẹ nhẹ nhàng giội nước ấm
lên người cô, rồi vừa niệm thần chú vừa cầu chúc cho cô con gái độc nhất mọi điều
tốt lành. Sau đó, như hồi còn bé, bà đặt cô ngồi lên chiếc ghế đẩu, chải mái
tóc dài, dày và đen nhánh cho cô.
- Con ơi,
- bà mẹ vừa tết tóc cho Kesyrt vừa khẽ nói bằng một giọng van vỉ, - có thể ngày
mai con sẽ chọn được ai đó. Bao nhiêu chàng trai đeo đuổi... Mẹ già rồi, nhỡ mẹ
chết, rồi sẽ ra sao?
- Ôi, mẹ
ơi, mẹ ơi! - Cô con gái mỉm cười. - Nhưng con có quyền chọn đâu, còn đám thanh
niên... họ chỉ muốn giải trí với con thôi, còn lấy làm vợ, chỉ toàn những ông
già lắm tiền, hoặc là làm vợ hai, vợ ba. Mẹ đừng ép buộc con, mẹ ạ!
Bà Haza
hít một hơi dài. Một sự im lặng nặng nề kéo dài. Trong lò, thanh củi nổ lách
tách đang cháy hết...
- Giá mà
đám thanh niên ấy được nhìn thấy con thế này, da con đẹp lắm! - Bà mẹ già Haza
nói như là để an ủi chính mình và cô con gái.
- Mẹ đừng
lo, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp! Điều quan trọng là chúng ta còn sống, khỏe mạnh,
những việc khác rồi sẽ ổn... Về việc này, chúng ta có câu thành ngữ “Cái nết
đánh chết cái đẹp” đấy thôi.
Bà Haza cố
giấu những giọt nước mắt xúc động sắp trào ra khóe mắt, lại gần cô con gái.
- Mẹ đi ngủ
đi. Muộn rồi, - Kesyrt bực bội.
- Không
sao, không sao, - bà già nói. - Mẹ linh cảm, hôm nay sẽ có chuyện gì đó xảy
ra... Trái tim mẹ mách bảo như thế. Thanh niên trong núi vẫn còn nhiều... Chẳng
qua là con kén chọn quá, không hợp với chúng ta.
- Mẹ lại
thế rồi, - cô con gái cắt ngang. - Cứ nói mãi về chuyện ấy! Thôi mẹ đi ngủ đi!
Chiếc đèn
dầu hỏa bùng lên rồi chậm chạp lụi dần. Quá mệt mỏi, bà Haza không nói thêm gì
nữa, lên giường nằm rồi thiếp ngay. Sau đó, trong lúc nửa mơ nửa tỉnh, bà kéo
chiếc áo lông cừu cũ đắp lên người và hất con mèo đen to tướng ra khỏi chỗ nằm.
Con mèo khó chịu nhìn quanh bằng cặp mắt mở to, rồi lại khoan khoái cuộn mình nằm
ngay dưới chân bà.
Phía trong
góc, sau tấm rèm là con bê non đang cựa quậy. Căn phòng chìm trong bóng tối nhờ
nhờ, chỉ có những hòn than xám trong chiếc lò là còn tỏa ra niềm hy vọng mong
manh về sự ấm cúng và sáng sủa.
Bà Haza nằm
ngửa, mặt cũng ngửa lên trời, miệng rên rỉ, thở khò khè qua cái miệng móm há
to. Chiếc khăn choàng bằng vải thô in hoa tuột khỏi đầu, để lộ ra mái tóc bạc
phơ không mấy khi được chăm chút cẩn thận, xõa lên chiếc gối nhồi rơm bọc bằng
da dê và vẫn còn thoảng mùi mỡ dê.
Kesyrt
nhìn mẹ, ánh mắt cô bất chợt dừng lại nơi khuôn mặt già nua, phờ phạc vì công
việc và vì cuộc sống cô độc của mẹ: đôi môi mảnh bợt bạt, hàm dưới nhô ra vì
răng đã rụng hết và hai gò má gầy giơ xương, hai hố mắt hõm sâu với những sợi
lông mi thưa thớt, bạc phếch, chỉ có cái mũi to với cái sẹo là vẫn giữ nguyên
được hình dạng ban đầu.
“Ôi, lạy
thánh Allah, mẹ già quá rồi, - Kesyrt thầm nghĩ, cứ như là bây giờ cô mới nhìn
thấy những nếp nhăn sâu hoắm trên khuôn mặt vốn rất phúc hậu của mẹ, mà giờ đây
đã biến dạng khủng khiếp. - Mình biết làm gì nếu mẹ mất? Mình sẽ sống thế nào?
Chẳng lẽ số phận của mình đã được sắp đặt giống như của mẹ?.. Làm sao mà mẹ có
thể sống nổi một thân một mình, không họ hàng thân thích trong cái vùng đất
hoang dại này, trong cái cối xay lúc nào cũng quay không ngơi nghỉ?... Chẳng
thà chết còn hơn. Mình không thể chịu đựng nổi một cuộc sống như thế”.
Sau khi bỏ
thêm củi vào lò, Kesyrt ngồi lên tấm phản, nhìn mãi vào khuôn mặt của mẹ chìm
vào trong bóng tối và cay đắng khóc thầm.
Trời sáng,
con bê con đói bụng rống lên thảm thiết. Bà Haza rên rỉ vặn vẹo xương cốt, ngồi
dậy, cẩn thận đắp chiếc chăn lông cừu cho con gái, rồi loay hoay bên lò, bới
tro lên để nhóm lò lại. Một lát sau, cùng với mùi phân khô đã ngửi thấy mùi
khói cay cay và mùi trà núi với bạc hà. Bà Haza vừa rủa khe khẽ vừa dắt con bê
bướng bỉnh lúc lúc lại nhảy cẫng lên ra ngoài. Bên kia cánh cửa gỗ bọc da bò vọng
lại tiếng gà gáy và tiếng chó sủa rân ran.
Kesyrt
quay mặt về phía bức vách bằng ván lạnh ngắt, co mình lại, kéo chăn lên phủ kín
người và lại thiếp đi trong giấc mơ trinh nữ. Cô mơ thấy mùa hè, bên mép rừng,
cỏ lên cao rậm rì, cạnh đó có một chàng trai, dịu dàng vuốt ve cô, hôn cô và tỏ
tình với cô về tình yêu, về niềm mong ước và khát vọng bằng những lời lẽ ngọt
ngào chưa ai từng nghe làm cô vô cùng thích thú.
Từ lâu cô
đã thầm mong ước điều đó, cứ nghĩ mãi về nó, khổ đau về nó...
- Con ơi,
dậy thôi, - người mẹ khẽ đánh thức Kesyrt dậy. - Sắp đến giờ cầu kinh sáng rồi.
Con có định đi dự lễ hội không?
Kesyrt
không muốn mở mắt ra, nụ cười mãn nguyện vẫn còn đọng bên hai lúm đồng tiền
trên đôi má ửng hồng của cô.
- Con nói
mê cái gì mà thích thú thế? Mơ thấy cái gì hay lắm à?
- Ôi, còn
nói gì nữa, mẹ ơi, một giấc mơ tuyệt đẹp. Tốt hơn là đừng tỉnh dậy. - Cô con
gái vừa đáp vừa duỗi người trên tấm phản.
- Con nhìn
thấy gì?
- Tốt hơn
là mẹ đừng hỏi.
Bà Haza khẽ
mỉm cười, nhưng rồi nét mặt bà lại trở nên buồn bã và lo âu.
- Cầu mong
Thượng đế ban phước lành cho giấc mơ của con, - ngừng một lát, bà Haza thở dài,
tiếp: - Đã đến lúc con phải lấy chồng rồi. Con nhìn xem, bạn bè cùng trang lứa
đã đẻ đứa thứ hai rồi, vậy mà con vẫn phòng không... Chẳng thà con là đứa dị tật,
hay không có ai tán tỉnh thì đi một nhẽ, đằng này cứ kén cá chọn canh, mũi cứ hếch
lên.
- Mẹ lại
thế rồi! Bao nhiêu lần con nói với mẹ, đừng ép buộc con. Hay là mẹ chán con rồi?
Khuôn mặt
cô con gái tỏ ra khá nghiêm túc, nét vui vẻ bên khóe mắt như biến mất, trở nên
u buồn và thoáng chút cay nghiệt.
- Mẹ đã
làm gì nào, - bà Haza khua tay, - mẹ chỉ muốn cuộc sống của con ổn định dưới sự
bảo bọc của ai đó.
- Con
không muốn, - cô con gái cằn nhằn.
- Thời buổi
bây giờ bất an lắm con ạ, mà con lại trẻ trung, xinh đẹp thế... Nếu có ai đó
dùng vũ lực... mẹ sợ... Chẳng có ai bảo vệ chúng ta, thậm chí ban đêm mẹ cũng
không ngủ được, chỉ sợ có thằng vô lại nào đó đến đây làm nhục con.
- Mẹ cứ yên tâm
đi. Mọi việc sẽ tốt đẹp thôi.
Kesyrt xỏ
đôi giày da mềm, choàng chiếc áo khoác ngắn rồi bước ra sân. Một làn không khí
nhẹ nhõm, khô ráo và lạnh giá xộc vào trong mũi, cô hít một hơi dài, mỉm cười
khoan khoái, khẽ rùng mình vì làn không khí trong lành buổi sáng, và lại như đứa
trẻ, vô tư vươn vai. Hai con cừu giống Kavkaz màu sắc loang lổ - quà tặng của
ông Baki-Haji đang nô đùa và chạy lại chỗ Kesyrt, chồm hai chân trước lên ngực
cô, định liếm mặt và tay cô.
Mặt trời
ngày lễ chiếu sáng rực rỡ, bò dần lên trên đỉnh dãy Kavkaz. Dưới những tia nắng
vô tư của nó, tất cả hoa lá như sáng rực lên dưới lớp tuyết trắng vừa rơi trong
đêm. Trên sườn núi, cánh rừng mùa đông sẫm màu vẫn như đang ngủ mê mệt. Với những
rặng cây rụng lá trơ trụi trên đỉnh, dãy núi trông như những com nhím xù lông.
Không khí trong lành, tinh khiết. Tít bên dưới, như trong lòng bàn tay là những
ngôi nhà lộn xộn của làng Duts-Khote, thấp hơn một chút là con đường dẫn đến
làng Makhketa, đến huyện lỵ Shali, và thấp nữa là vùng bình nguyên. Từng nhóm
người, trông như những chấm nhỏ li ti đang chuyển động đến chỗ lễ hội.
Một cảm
giác dễ chịu ùa đến choán ngợp trong lòng Kesyrt, không hiểu tại sao buổi sáng
nay cô lại cảm thấy vui vẻ, sung sướng đến vậy, cô như đang chờ đợi một điều gì
đó mới mẻ, tốt đẹp, khao khát từ lâu. “Giấc mơ của mình quả là không vô ích” -
Kesyrt mỉm cười nghĩ, nhảy lên như đứa trẻ theo các bậc tam cấp bằng đất, rất
trơn, xuống chỗ nguồn nước Cô khoan khoái rửa mặt, rửa tay kĩ lưỡng trong nguồn
nước mạch. Dòng nước sống động trong núi cao, mùa hè thì mát lạnh, còn mùa đông
lại ấm. Kesyrt cứ vục mãi nước lên mặt, lên cổ, muốn làm dịu những cảm xúc đang
trào lên trong cơ thể.
Làn nước
trong khe núi trong như pha lê, vui vẻ ca bản nhạc sớm của mình, tinh nghịch lượn
quanh vô số những tảng đá lăn lớn bé, liếm vào hai bên bờ, thổi lên những bọt
bong bóng lấp lóa, xoay tròn trong vực xoáy, rồi lao xuống dưới một cách hăng
hái, trẻ trung, hòa vào các dòng sông trên bình nguyên. Đến đấy, nó trở nên điềm
đạm hơn, âu lo hơn và cũng bình tĩnh hơn, với những nỗi buồn, niềm vui và những
lo toan thế sự... Ồ, sao nó vội thế!... Sao nó vội lao đến với cái biển nước
xanh biếc đã bị nước mắt làm cho mặn chát, không còn sinh khí và không thể làm
thỏa mãn cơn khát...
- Kesyrt,
Kesyrt, con làm gì ở đấy thế? Nhanh lên, - bà Haza cố hét thật to trong tiếng
nước chảy ầm ầm. - Cậu Tsanka đến tìm con đấy.
Kesyrt chạy
lên, khuôn mặt đẫm nước, đôi tay để trần đến khuỷu.
Trong sân,
Tsanka cưỡi con tuấn mã màu đỏ tía, đang chạy lòng vòng, con ngựa non không chịu
đứng một chỗ. Sức mạnh không kìm lại được của nó và sự hăng hái của người kỵ sĩ
làm cả hai không thể đứng yên.
- Chào anh
Tsanka! Số phận nào đưa đẩy thế?
- Chúc cô
sống lâu hạnh phúc! Em tôi bảo tôi đến đón cô. Người ta bảo, không có cô thì chẳng
thành lễ hội.
- Tôi chưa
chuẩn bị xong. Anh cứ đi đi, tôi sẽ đến sau.
- Không được,
tôi phải đưa cô đi. Người ta còn gửi áo lông cho cô nữa đây.
- Áo lông
nào? - Kesyrt ngạc nhiên.
- Đây, -
Tsanka giở chiếc áo lông mới tinh được may rất cẩn thận bằng lông cừu trắng ra.
- Tôi có
áo của tôi rồi... tôi không cần gì cả, - Kesyrt lạnh nhạt đáp, cặp mắt màu đen
như sáng lên.
- Sao con
ngang thế, - bà Haza xen vào, - cứ mặc đi, đến tối trả lại.
- Vớ vẩn.
Con sẽ mặc áo của mình, - cô con gái cắt ngang, rồi quay sang chàng trai, bình
thản tiếp: - Anh đợi một chút, tôi thay quần áo rồi ta cùng đi.
Trong căn
nhà gỗ chật hẹp, Kesyrt thực hiện nghi lễ cầu kinh sáng, sau đó dưới cặp mắt
soi mói của bà mẹ, cô cởi quần áo ra, mặc chiếc áo sơ mi bằng vải hoa vào, tết
lại bím tóc, cài vào đó một cái nơ bằng lụa hồng, bên ngoài áo sơ mi choàng
thêm chiếc áo dân tộc bằng vải nhung màu đỏ boóc-đô với những đường thêu hoa
văn trên ngực cực kỳ tinh xảo bằng chỉ vàng, rồi cô khoác ra ngoài chiếc áo
cherkeska bằng vải nhung màu đỏ tươi, hai tay áo rộng của nó xõa xuống trông
như cánh chim. Chiếc áo cũng được thêu hoa văn rất đẹp bằng chỉ vàng. Cái eo thon
của cô được thắt bằng sợi dây lưng bằng da mềm gắn những chi tiết trang trí bằng
bạc. Cô đi đôi tất dạ ngắn, bên ngoài lồng thêm một đôi cũ nữa rồi mới xỏ chân
vào đôi giày da mềm.
- Phải, về
khoản giày dép, chúng ta còn thiếu, - bà mẹ lắc đầu, bóng gió.
- Thì mẹ cứ
kiếm một ông hoàng tử giàu có nào đó, ông ấy sẽ mang cho mẹ cả chục đôi giày
làm đồ dẫn cưới.
- Con đừng
nghĩ là mẹ tiếc con bò cái đối với con, - trong giọng nói của bà mẹ thoáng chút
giả tạo, ngừng một lát, bà nói thêm như với chính mình. - Mình đã lo cho nó như
thế. Trong khắp vùng làm gì có con bò cái nào như vậy... dù người ta đã để con
bê con lại. Nhưng, mình đã hứa đổi nó lấy sợi rồi.
- Mẹ lại định
làm con mất hứng phải không... Thôi con không đi nữa đâu. - Cô con gái giả vờ
nói.
- Ồ, không,
không, con gái cưng ơi. Mẹ lẩm cẩm rồi... Mẹ rất vui... Chỉ tiếc là mẹ không được
nhìn thấy con khiêu vũ ở đó, - bà mẹ thận trọng nói, tay xoa xoa vào tấm áo
nhung của con gái. - Hay là mẹ tranh thủ đến một lát, đứng từ xa ngó qua xem thế
nào?! Không ai nhìn thấy mẹ đâu. Mà có ai biết mẹ đâu cơ chứ.
- Con đã
nói không... Nếu con nhìn thấy mẹ ở đấy, con sẽ về ngay. Con không e ngại mẹ
hay vẻ ngoài của mẹ, con chỉ sợ mẹ cũng như mọi người khác, sẽ đổ xô vào chuyện
ăn uống.
- Thề có
thánh Allah, mẹ sẽ không đâu! - Bà mẹ van nài.
- Con đã
nói không là không. Thế là xong... Con sẽ kể lại cho mẹ nghe tường tận mọi việc...
Còn chiếc áo cherkeska này, phiên chợ sau mẹ mang bán đi, có thể mua được hai,
hay ba con bò sữa đấy... Nếu mang xuống huyện lỵ Shali, thậm chí có thể đổi được
con ngựa... Mẹ đưa chiếc khăn choàng cho con.
Kesyrt
choàng lên đầu chiếc khăn san mỏng dính, trên đó có đính chiếc khăn tay đan bằng
lông cừu trắng như tuyết.
- Trông
con thế nào, mẹ? - Với một sự hài lòng rõ rệt, cô con gái hỏi mẹ.
- Như vầng
thái dương! Con xinh lắm! Cầu xin Thượng đế, không ai nói gở.
- Ba tháng
ròng mới xong, may là kịp... Bao nhiêu là hoa văn thêu thùa.
- Phải, hoa khôi
của mẹ... - Bà Haza lại than thở.
- Con đã
chán hoa khôi của mẹ lắm rồi. Chẳng lẽ mẹ lại muốn con ăn mặc rách rưới hay
sao. Tốt hơn là mẹ hãy gọi Tsanka vào đây uống trà rồi lên đường.
Tsanka cúi
người lách qua khung cửa thấp, bước vào, miệng lầm bầm rất to, vẻ không hài
lòng. Nhưng câu nói của cậu mới chỉ thoát ra nửa miệng đã tắt lịm, hàng lông mày
nhướn lên như cánh chim đại bàng, mắt mở to. Tsanka quá kinh ngạc, đứng như trời
trồng ngay giữa ngưỡng cửa. Sau đó, khi đã vào trong, cậu mới hỏi khẽ bằng một
giọng cố nén lại:
- Kesyrt,
cô đấy à?
Sau khi
nhanh chóng dùng trà, họ lên đường ngay. Tsanka cưỡi ngựa đi trước, Kesyrt đi bộ
theo sau, chiếc áo măng tô dài bằng lông cừu choàng ra bên ngoài bộ trang phục
sang trọng, vóc dáng yểu điệu, thậm chí ngay cả khi xuống dốc cô cũng không
thèm khom lưng, lặng lẽ bước.
“Ta có
linh cảm, hôm nay sẽ xảy ra một điều gì đó. Không ai có thể dửng dưng trước một
người đẹp như thế này, - bà mẹ nghĩ thầm trong bụng, nhìn mãi theo đứa con độc
nhất của mình. - Lạy thánh Allah, hãy che chở cho nó. - Bà van xin. - Hãy mang
hạnh phúc đến cho nó, cùng một chút kiên nhẫn và điềm đạm”.
Còn sau
đó, khi hai người đi trảy hội khuất sau khúc ngoặt, bà mới nói to: “Dòng máu
cao thượng vẫn là dòng máu cao thượng... Không thể khác!... Ôi, xin Thượng đế
hãy bảo vệ nó!”.
Từ chỗ cối
xay đến làng Duts-Khote, con đường chạy xuống dưới theo triền dốc. Kesyrt đi bộ
tụt dần lại phía sau. Tsanka dừng ngựa lại chờ, vẻ không hài lòng.
- Lễ hội
đang sôi động, còn tôi, đến giờ ăn trưa vẫn lang thang ở đây với cô. - Tsanka bực
bội nói.
- Anh tức
cái gì? Làm như tôi gọi anh tới vậy... Anh cứ đi nhanh đi, còn tôi, tự mình
cũng đến được. - Cô bạn đường dửng dưng đáp.
- Tôi có
thể bỏ cô lại, nhưng em tôi sẽ mắng tôi.
- Mắng cái
gì?.. Làm như quan tâm lắm. Nếu cậu ta quan tâm thực sự, có thể gửi chiếc xe
trượt đến chở tôi.
- Nhưng cô
không hài lòng cái gì? Cậu ấy đã gửi áo lông cho cô, thế mà cô cũng chẳng thèm
nhìn.
- Tôi
không cần áo lông và cũng chẳng cần gì cả. Tôi có đủ. - Kesyrt cắt ngang.
- Ôi, ôi!
Đồ kênh kiệu! - Tsanka bật cười. - Nào là áo lông, nào là xe trượt, còn muốn gì
nữa...
Tsanka bỏ
lửng câu nói, bực bội quay người, giật cương, thúc ngựa đi tiếp.
- Cứ nói nữa
đi, nói nữa đi! - Kesyrt hét theo. - Cứ đi rêu rao là con gái bà nô tì Haza đòi
hỏi rất nhiều thứ!.. Cút đi cho khuất mắt! Tự tôi cũng đi được! Làm như giỏi lắm!
Đồ ranh con!
Tuy nhiên,
Tsanka không đi xa, khoảng một trăm mét, cậu dừng lại chờ Kesyrt. Rồi cả hai,
không thèm nói thêm lời nào, lại chậm chạp bước tiếp, mỗi người nghĩ về chuyện
của mình, mà cũng có thể cùng nghĩ về một chuyện cũng nên.
- Này, cô
Kesyrt, - không thể chịu đựng hơn được nữa sự im lặng nặng nề, Tsanka hỏi. -
Sao cô có thể đi lại một mình ở đây? Cô không sợ à?
- Tôi ít
đi lắm, mà chỉ đi với mẹ, - cô gái lãnh đạm đáp.
- Ôi, mẹ
cô, cận vệ giỏi đấy, - Tsanka cười giễu.
- Anh nhìn
đây, - Kesyrt rút từ trong tay áo cherkeska ra một con dao mảnh, hai cạnh sắc lẻm,
cán quấn bằng sợi cao su to bản.
- Ái chà!
- Tsanka ngạc nhiên. - Cho tôi xem nào.
- Không được,
- cô con gái bà Haza nghiêm nghị đáp. - Anh cứ đi trước đi, và đừng ba hoa nữa.
Con đường
đến làng Duts-Khote phủ đầy tuyết vì ít người qua lại. Dọc hai bên đường là những
hàng cây thấp và bụi cây. Trên cây, quả sơn trà và mơ dại bị lũ chim rỉa trơ
ra, đóng băng, khô quắt. Xa hơn một chút là những cây tiêu huyền cao to, cành
cây phủ đầy băng tuyết trắng, nhọn như kim. Một con chim gõ kiến to, lông đen
tuyền, bay lượn phía trước hộ tống hai kẻ bộ hành, thỉnh thoảng lại thò cái đầu
đỏ rực ra khỏi lùm cây, ngắm nhìn họ. Đến trước làng Duts-Khote, con chim kêu
lên một tiếng rền rĩ “rúc-úc” rồi biến mất trong rừng thông. Từ xa vọng lại rất
rõ tiếng hát, tiếng trống và tiếng người ồn ào.
Lễ hội được
tổ chức trên một khoảnh đất rộng thoai thoải ngay chân núi Peshkhoi-Lam, gần
làng Duts-Khote, giữa hai con sông Vashandaroi Thượng và Vashandaroi Hạ. Dưới
đó, ngay bên lối ra vào làng Duts-Khote, những chiếc xe trượt, xe tải và xe kéo
hai bánh cũ kĩ nằm lộn xộn. Phía bên trái, dọc theo bờ sông, kê rất nhiều chảo
to để nấu đồ ăn, lửa cháy phần phật. Khắp nơi vang lên tiếng la hét, kêu khóc,
cười đùa của lũ trẻ ăn mặc sơ sài, cùng các bà lớn tuổi, độc thân đang xúm lại
hít hà mùi vị thơm lừng của thịt bê non. Kesyrt đi ngang qua, thầm nghĩ, “May
là mẹ không đến đây, nếu không thì cũng đứng chờ ăn như các bà kia”.
Sự kiện
quan trọng nhất đang diễn ra giữa bãi đất. Hàng đoàn người, chen chúc vòng
trong vòng ngoài: một bên là đàn ông, bên kia là phụ nữ. Bên phía đàn ông, hàng
đầu tiên là các vị bô lão đáng kính, các vị khách từ xa đến, sau đó là đám
thanh niên. Bên phía phụ nữ thì ngược lại: hàng đầu là các cô gái trẻ trung,
xinh đẹp, còn đám đàn bà có tuổi thì phải xếp sau sự hồn nhiên trẻ trung.
Giữa các
hàng đàn ông và phụ nữ là một khoảnh đất rộng để khiêu vũ, trong đó có chỗ cho
hai người chơi phong cầm và hai người đánh trống. Cạnh họ, về phía nam giới, ngồi
sau chiếc bàn đánh vécni sứt sẹo được mang về từ pháo đài của người Nga vào năm
1918 là người chủ trì bữa tiệc tên là Shamso, một người đàn ông khỏe mạnh đến từ
làng Khatuni. Ông Shamso nổi tiếng khắp vùng là một người khôi hài, không có
công việc ổn định và thích nhậu nhẹt, là một “quan chức dân sự” trong tất cả
các cuộc vui. Trên chiếc bàn chiến lợi phẩm trầy trụa có một bình trà ám khói
nguội ngắt và hai, ba chiếc bát chủ yếu là để trang trí, dưới bàn có chiếc chai
to đựng rượu ngang, cạnh đó, ngồi lùi ra phía sau một chút là ông bạn nhậu khỏe
mạnh Basnak, người bà con gần của Tsanka. Basnak là người không nổi bật giữa
đám đông (mặc dù ai cũng biết và cũng nhìn thấy ông), đều đặn rót rượu nóng vào
cốc rồi đưa lên cho Shamso. Sau đó, để chuẩn bị cho cuộc “hội đàm”, ông chủ trì
bữa tiệc đã hình thành nên quanh mình một đám giúp việc, ngồi chen chúc vòng
trong vòng ngoài quanh bàn, và theo yêu cầu của ông, tất cả bọn họ, không nhất
thiết phải chạm cốc, nhưng phải uống cạn cốc rượu chúc mừng sức khỏe ông. Ông
Shamso hút điếu thuốc đã chuẩn bị sẵn cho sự kiện này rồi hét lên:
- Thôi, giải
lao thế đủ rồi. Tiếp tục khiêu vũ. Phong cầm đâu, chơi đi.
Để chuẩn bị
cho những buổi lễ như thế này, những người thợ thủ công địa phương đã chuẩn bị
sẵn vài chiếc phong cầm bằng giấy mà âm thanh đơn sơ của chúng có thể kéo dài
được hai, ba tiếng, sau đó thì chiếc đàn bị hỏng, người ta lại dùng đến chiếc
đàn tiếp theo. Buổi khiêu vũ sẽ kéo dài cho đến khi tất cả nhạc cụ đều rách
tươm, hoặc các cuộc cãi vã và ẩu đả nổ ra (trường hợp sau diễn ra thường xuyên
hơn). Cùng hòa âm với tiếng đàn phong cầm bằng giấy là tiếng trống đinh tai nhức
óc, gợi cho người ta nhớ đến tiếng vó ngựa. Đôi khi, các nhạc cụ còn được dùng
để đệm cho ca khúc ngắn do dàn đồng ca nữ đông đảo ngồi bên cạnh trình diễn.
Các ca khúc, bài thì vui vẻ, sôi nổi, bài lại sầu não, lãng mạn, tùy thuộc vào
những người đang khiêu vũ.
Những người
đàn ông muốn khiêu vũ phải trả cho ông chủ bữa tiệc một ít tiền. Số tiền này
dùng để mua đồ uống và đồ hút cho “đại tướng” cùng đám cận vệ ngồi quanh, ngoài
ra còn để mua nhạc cụ cho cuộc vui sau. Các vị khách quý từ xa đến, người cao
tuổi và người trẻ tuổi được miễn khoản đóng góp này.
Đàn phong
cầm réo rắt vui vẻ, trống đập thình thình, đám thanh niên vỗ tay rất thân thiện.
Khuôn mặt đỏ bừng vì giá lạnh và vì rượu, ông chủ xị Shamso, đưa cặp mắt sáng rực
nhưng không bao giờ say, lướt qua đám đàn ông, cố hét thật to:
- Tôi
nghĩ, đã đến lúc mời “chàng trai” Edalkh của chúng ta vào cuộc vui rồi, để ông ấy
biểu diễn cho chúng ta xem tài nghệ và sự dũng mãnh bất tận của mình.
Mọi người
hét lên hưởng ứng. Edalkh, hóa ra là một ông lão gù lưng, già khọm, nhưng vẫn
còn khá nhanh nhẹn bước vào vòng tròn, ném chiếc gậy chống xuống đất, vung hai
tay lên như cánh chim đại bàng, rồi bắt đầu đứng tại chỗ, nhảy một cách say
sưa, vui vẻ. Tất cả mọi người đều đứng dậy, ngoại trừ các nhạc công và chính
Shamso. Để phù hợp với sự chuyển động của ông già, chiếc phong cầm giấy và chiếc
trống giảm bớt nhịp điệu xuống, tương đương với nước kiệu của một con nghẽo
già. Thông thường, các ông già không chọn bạn nhảy cho mình, bất cứ người phụ nữ
nào cũng có thể bước ra để tỏ lòng kính trọng. Tuy nhiên, theo thông lệ chỉ có
các bà sồn sồn bước ra. Họ thừa biết, vào tuổi ấy chưa chắc đã được mời, bởi vậy
phải tận dụng cơ hội để chứng minh cho mọi người thấy mình vẫn còn sống, vẫn muốn
sống và muốn vui vẻ.
Cùng một
lúc có ba bà bước vào vòng tròn, cùng mỉm cười và làm như không thèm bận tâm đến
các đối thủ. Một sự bối rối thoáng qua, những tiếng cười không chút ác ý từ
phía các chàng trai vang lên. Shamso lại phải lên tiếng:
- Khoan,
khoan đã, - ông chủ xị la lên, vẻ quan ngại, - các bà đã nhảy rồi, nhường cho
bà Lala đi.
Cố che giấu
nỗi bực tức và ngượng ngùng, hai bà đành phải lui ra, còn lại bà Lala mập mạp,
khỏe mạnh. Bà Lala tỏ ra rất hài lòng, xoay tít trong một điệu nhảy quanh ông
lão, bộ ngực đồ sộ nảy tưng tưng, hai má đỏ bừng. Dàn đồng ca các cô gái bắt đầu
cất lên những giai điệu vui nhộn. Đám thanh niên la ó: “Nhìn bà ấy kìa! Không
chừng phải chở thẳng từ sàn nhảy về nhà đấy!”.
Ông lão,
chẳng còn sức đâu mà đùa giỡn, phải cố gắng lắm mới đứng vững trên đôi chân,
nhưng bà Lala vẫn tiếp tục xoay vòng, thích thú vì được mọi người chú ý.
- Thôi, đủ
rồi. Còn nhảy đến bao giờ nữa? - Cuối cùng ông Shamso lại phải hét lên.
Sau đó đến
lượt đám thanh niên khiêu vũ. Con trai nhảy rất hăng và ồn ào, còn các cô gái
thì lả lướt và êm dịu, chỉ nhìn xuống chân mình, lượn theo sự điều khiển của bạn
nhảy.
Kesyrt đứng
ở ngoài cùng nên không ai nhìn thấy cô. Nhờ chiều cao của mình và phải cố lắm
Kesyrt cũng chỉ nhìn thấy đầu của những người đang khiêu vũ. Cô bất giác vươn cổ
lên, đồng thời phải cố làm ấm đôi chân bị tê cóng vì lạnh bằng cách nhún nhún từng
chân một. Bị tách ra khỏi không khí lễ hội náo nhiệt, lòng tự ái phụ nữ của
Kesyrt trỗi dậy, hơi thở trở nên gấp gáp, máu hai bên thái dương chạy rần rật,
hai má càng ửng đó, đôi môi thắm nhô ra bực bội, cặp mắt đen, không biết có phải
vì chói hay vì nguyên nhân nào khác hơi nheo nheo và ươn ướt.
Trong lúc
đó Tsanka cố len vào chỗ Basnak lúc này đã khá say, đang uể oải vỗ vỗ hai bàn
tay to bè vào nhau.
- Này, chú
Basnak, - Tsanka chọc tay vào lưng Basnak. - Cho cháu nhảy đi.
Basnak chậm
chạp quay đầu lại, khuôn mặt lờ đờ của ông ta liền nhanh chóng trở nên lạnh
lùng, đạo mạo.
- Làm cái
gì thế? Không thấy người ta xếp hàng à? Nhảy chưa chán hay sao mà còn đòi.
- Chú
Basnak, - Tsanka vẫn không chịu, lay lay khuỷu tay người bà con, - cháu muốn mời
cô Kesyrt.
- Cái gì?
- Basnak sững người. - Thế nó đâu?
- Ngoài
kia. Cháu chỉ muốn đưa cô ấy vào trong này thôi.
- Chờ đã.
- Basnak ghé vào tai Shamso giải thích gì đó khá lâu, cuối cùng, hình như đã
xong, ông quay về phía Tsanka: - Nhưng cậu có biết nhảy không?
- Biết.
Không thua kém những người kia đâu. - Tsanka hất đầu về phía mọi người.
Sau điệu
nhảy kế tiếp, một số thanh niên bước vào vòng trong, ai cũng bảo đến lượt mình.
Các trợ lý của chủ xị nhanh chóng đưa tất cả ra ngoài.
- Chú ý! -
Shamso hét lên. - Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta nên xem thế hệ trẻ khiêu vũ. Xin
mời vào vòng trong, anh Tsanka, con trai ông Aldum Arachaev làng DutsKhote.
Tsanka, có
vẻ còn hơi e ngại, bước vào, đôi tay dài lúng túng quều quào, hai bàn tay nắm
chặt, đầu cúi, mắt nhìn xuống đất. Đây là lần đầu tiên Tsanka khiêu vũ giữa bàn
dân thiên hạ.
- Anh muốn
nhảy với ai? - Trợ lý chủ xị hỏi.
- Với cô
Kesyrt. - Tsanka đáp, đầu vẫn cúi.
- Kesyrt
nào?
- Kesyrt,
con gái bà Haza. - Tsanka lặp lại, giọng đã to hơn và mạnh bạo hơn.
- Thế cô ấy
đâu?
Tsanka hất
đầu về phía Kesyrt thấp thoáng bên ngoài.
- Xin mời
cô Kesyrt, con gái bà Haza, vào trong. - Ông Shamso hét to.
Mọi người
nín thở chờ đợi, đám phụ nữ dãn ra nhường đường. Kesyrt bước vào, bình tĩnh, tự
tin, nở nụ cười kiêu hãnh và biết ơn, rồi nhìn Tsanka, hất chiếc áo khoác ngắn
bằng lông cừu ra, ưỡn thẳng người... Tất cả đều ồ lên, còn tiếng nhạc lại lịm
đi.
- Đúng là
người đẹp! - Ramzan la lên, giọng say mèm.
- Bộ áo
váy y như của công tước tiểu thư. - Đám đàn bà xuýt xoa.
- Tôi sẽ
chỉ nhảy với cô ấy thôi!
- Cả đời,
tôi chưa bao giờ thấy một người đẹp như thế! - Tiếng một ông già.
- Sao dừng
hết lại thế? Nhạc đâu, nổi lên đi! - Shamso ra lệnh.
Tiếng
phong cầm giấy và tiếng trống lại nổi lên, dàn đồng ca nữ bắt đầu bằng một giai
điệu trữ tình, ngợi ca sắc đẹp và sự lãng mạn của các cô sơn nữ. Mọi người mê mẩn
đắm đuối, chỉ có một người, khuôn mặt sạm như thuốc súng là vẫn đứng yên.
Đó là
Sharpudin Tsintsiev. Đôi môi mỏng dưới hàng ria sâu róm của anh ta mím chặt, tức
giận, lông mày chụm lại tạo nên những nếp gấp sâu trên cái trán ngắn, hai gò má
nổi u. Sharpudin yêu Kesyrt, yêu say đắm, ghen tuông, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến
việc chiếm được trái tim cô.
Rất có thể
Sharpudin đã chiếm được Kesyrt từ lâu, nhưng anh ta không thể lấy cô con gái
ngoài giá thú của bà Haza làm vợ... Nỗi khát khao cứ giày vò dai dẳng làm anh
ta gần như phát điên lên...
...Mọi người
đồng loạt vỗ tay. Điệu nhảy bắt đầu. Tsanka lúng túng ngọ ngoạy, sau đó dường
như đã hiểu ra rằng, dù có thế nào thì cũng chẳng ai thèm để mắt đến mình, cậu
bắt đầu lượn qua lượn lại với các bước nhảy khác nhau.
Mọi cặp mắt đều đổ dồn vào Kesyrt, khuôn mặt cô ửng hồng, dáng vẻ cân đối, yểu điệu và kiêu hãnh như đang bay lượn trong điệu nhảy vòng tròn đẹp đẽ. Không ai có thể nghĩ, mới cách đây nửa giờ thôi, cô vừa bước ra từ một túp lều nhỏ bé, lụp xụp.
Mọi cặp mắt đều đổ dồn vào Kesyrt, khuôn mặt cô ửng hồng, dáng vẻ cân đối, yểu điệu và kiêu hãnh như đang bay lượn trong điệu nhảy vòng tròn đẹp đẽ. Không ai có thể nghĩ, mới cách đây nửa giờ thôi, cô vừa bước ra từ một túp lều nhỏ bé, lụp xụp.
Sau điệu
nhảy, Kesyrt được xếp ngồi vào hàng ghế đầu. Các bà ngồi cạnh khẽ chạm tay vào
chiếc áo váy của cô. Một số ngoảnh mặt đi, ghen ghét và bực tức, xì xầm về sự
nghèo túng và nguồn gốc xuất thân của cô.
Bốn trong
số bảy cặp nhảy tiếp theo các chàng trai cũng mời Kesyrt. Cuối cùng, Sharpudin
bước ra, khuôn mặt vẫn tái nhợt và nghiêm nghị, cổ to như cổ bò mộng, đôi chân
đứng thẳng vẻ cương quyết. Anh ta mạnh bạo bước lại chỗ Shamso, đặt lên bàn một
xấp tiền dày vẻ khoe khoang - vừa đúng một rúp.
- Tôi muốn
nhảy với cô Kesyrt, con gái bà Haza, - Sharpudin tuyên bố bằng một giọng run
run nhưng rất to.
- Nhưng
tôi sẽ không nhảy, - dân chúng vô cùng bất ngờ khi Kesyrt nhìn thẳng vào mặt
người mà cô rất căm ghét, đáp lại.
Rất ít người
biết về mối quan hệ giữa họ. Tiếng xì xào lan ra trong các hàng, tiếng nhạc im
bặt, tất cả như lặng đi trong sự chờ đợi căng thẳng.
- Sao cô lại
không nhảy? - Sharpudin hỏi bằng một giọng đe dọa.
- Này, sao
anh lại lên giọng với cô gái thế? - Basnak xen vào bằng một giọng trầm, lè nhè.
Không khí
dường như đã bị nung nóng, chỉ cần một câu nói nữa thì không ai biết điều gì sẽ
xảy ra, nhưng Kesyrt đã nhanh chóng làm hạ nhiệt.
- Thưa ông
chủ trì bữa tiệc, tôi rất mệt, chân lại đau, trong khi ở đây còn nhiều cô gái
khác. - Kesyrt nói bằng một giọng mềm mại hơn.
Mọi người thở
phào nhẹ nhõm, chỉ có Sharpudin cau mặt đứng giữa vòng tròn như con bò đực.
- Đúng rồi,
cô ấy nói đúng đấy, - Shamso cuống quýt vội chen ngay vào. - Để cô ấy nghỉ một
lát rồi lần sau sẽ nhảy với anh.
- Ông chủ
tiệc nói đúng đấy, đúng đấy, - mọi người hùa theo.
Sharpudin
buộc phải nhảy với cô gái khác rồi quay về chỗ của mình, không giấu nổi sự tức
giận và căm ghét, ánh mắt như muốn nuốt sống người đẹp.
Lúc Kesyrt
lại bước ra khiêu vũ sau khi nghỉ giải lao, Sharpudin cay cú nói to mấy câu xúc
phạm đến mẹ con cô và nguồn gốc xuất thân của cô.
Một nỗi
căm giận bất lực trào lên trong lòng, tim đập thình thịch, Kesyrt không còn cảm
nhận được mặt đất dưới chân mình nữa. Nếu không tuân theo các tập tục của người
miền núi, hẳn không chỉ một lần, Kesyrt đã nhìn chằm chặp vào mặt kẻ xúc phạm,
nhưng cô đã kìm lại được.
Sau cuộc
khiêu vũ, Kesyrt định ra về, nhưng cô không tìm thấy chiếc áo khoác lông ngắn của
mình. Các bạn cô ở làng Duts-Khote lại kéo cô vào ngồi với họ.
Cuộc khiêu
vũ vẫn tiếp tục, nhưng Kesyrt không nhảy với ai nữa. Tâm trạng cô đã bị vẩn đục:
người ta lại xúc phạm và sỉ nhục cô giữa chốn đông người, cô không thể chịu đựng
nổi điều đó, trong lòng mọi thứ như sôi lên, nỗi bực tức và căm hận đối với tất
cả mọi người xung quanh choán ngợp tâm trí. Cô muốn hét lên và muốn bỏ chạy. Bằng
sự mẫn cảm của phụ nữ, cô nhận thấy các tình địch của mình đang rất khoái trá
vì nỗi nhục của cô.
Một giọng
nữ sau lưng Kesyrt vang lên đủ cho cô nghe rõ:
- Anh ta
đã cho con bé kiêu ngạo ấy một bài học. Cứ ưỡn ẹo, làm như người ta không biết
nó là ai và từ đâu đến vậy.
- Ha, ha,
ha, cho nó biết thân biết phận... Người đẹp cơ đấy.
- Các chị
không biết xấu hổ à!? Thật vô liêm sỉ... Im đi!
Nét ửng hồng
trên má Kesyrt biến mất, ánh mắt cô như bị sương mù che phủ. Bàn tay Kesyrt run
rẩy lần xuống dưới ống tay áo, cảm nhận được hơi lạnh của cán dao... Và ngay
lúc ấy, một ý nghĩ khủng khiếp bất chợt lóe lên.
Kesyrt ngửa
đầu ra, trìu mến nhìn lên bầu trời xanh vời vợi và những đỉnh núi thoai thoải,
nhìn về hướng cối xay nước bị mọi người xung quanh che khuất. Cô hít một hơi
dài, nụ cười cay độc thoáng qua trên khuôn mặt xinh đẹp và kiêu hãnh, chỉ có
các mạch máu hai bên thái dương là để lộ ra cuộc đấu tranh tư tưởng trong lòng.
Kesyrt muốn
nhảy nữa, và chỉ nhảy với Sharpudin, để cắm lưỡi dao của mình vào trái tim đen
tối của anh ta, và mãn nguyện nhìn anh ta chết một cách đau đớn. Cô muốn đánh
nhau với anh ta, muốn lao vào cắn chiếc cổ mập ú, móc vào cặp mắt lồi đê tiện của
anh ta.
Cô muốn tự
bảo vệ mình và mẹ mình, trả thù cho sự xúc phạm danh dự. Cô không còn cảm thấy
sợ hãi hay do dự nữa, chỉ còn lại một quyết tâm sắt đá và nỗi căm hận.
- Còn bây
giờ, tôi nghĩ sẽ rất đúng, nếu chúng ta được hân hạnh mời vị khách quý rất đáng
trọng đến từ huyện lỵ Shali, con trai ông Movsar Isa. - Ông chủ tiệc Shamso hét
to.
Một người
đàn ông đã có tuổi, vóc dáng đẫy đà, hai má đỏ bừng, mỉm cười cám ơn mọi người
rồi chậm rãi bước vào vòng trong. Tất cả đều đứng dậy. Ai đó đập vào khuỷu tay
Kesyrt, đầu óc cô còn đang để chỗ khác.
- Thưa ông
chủ trì, thưa bà con, cho phép tôi được nói đôi lời. - Vị khách vừa bước ra lên
tiếng.
- Nói đi,
nói đi, - tiếng la hét của đám thanh niên vang lên trước khi ông Shamso kịp tỏ
thái độ.
- Có gì mà
nói, nhảy đi. - Một giọng the thé từ phía sau dãy đàn ông vang lên.
- Trật tự!
- Cuối cùng ông Shamso cũng tỉnh ra. - Dừng nhạc lại và không la hét nữa... Để
cho vị khách nói.
- Tôi chỉ
nói đôi lời thôi... và sẽ không làm mất thời gian của bà con. Nhờ ơn Thượng đế
và quý vị, cùng với ông Shamso đã tổ chức cuộc vui này nên hôm nay chúng ta mới
có dịp được vui chơi thoải mái. Cám ơn tất cả mọi người vì điều đó. - Ông Isa
ngừng một lát. - Tuy nhiên, điều đáng tiếc là ở đây vẫn có những hành động và lời
nói không được tế nhị và không xứng đáng. Cha ông chúng ta không bao giờ chấp nhận
những hành động khiếm nhã trong quan hệ ứng xử, nhất là với phụ nữ. - Nói đến
đây, ông đưa mắt về phía Sharpudin. - ...Và cuối cùng, tại sao hôm nay tôi
không nhìn thấy bà Haza ở đây. Tôi biết bà ấy từ lâu, chúng tôi cùng lớn lên với
nhau. Dạo còn bé, tôi hay đi cùng với cha tôi đến chỗ cối xay nước của các vị.
Bà Haza là một phụ nữ Hồi giáo yêu lao động, trung thực và đáng kính. Trước mặt
tất cả mọi người, tôi xin khẳng định điều đó... Còn bây giờ, một khi không có
bà Haza ở đây, tôi xin phép được mời con gái bà ấy, cô Kesyrt, dĩ nhiên nếu như
cô ấy không từ chối... Tôi rất vui vì bà Haza có một cô con gái xinh đẹp và kiều
diễm đến thế, và rõ ràng là rất có giáo dục nữa... Xin cô đừng từ chối điệu nhảy
với tôi.
Những lời
cuối cùng của người đàn ông xa lạ đã làm dịu bớt nỗi đau của Kesyrt. Chưa khi
nào và không có ai, ở chỗ đông người đã mang lại cho cô và mẹ cô bao nhiêu niềm
tự hào và sự quan tâm đến thế. Kesyrt bước ra với những giọt nước mắt biết ơn
nơi khóe mắt. Đàn phong cầm tấu lên, trống gõ dồn dập. Bất chấp tuổi tác, ông
Isa nhẹ nhàng nhón chân quay hai vòng, vươn hai cánh tay như cánh đại bàng, dìu
Kesyrt thong thả lướt quanh sân. Ông Isa nhảy khá giỏi, tạo cảm giác thoải mái
cho chính mình và cho bạn nhảy. Họ lướt đến gần bàn ông chủ trì, cả hai xoay
tròn theo nhịp trống rồi nghiêng mình chào dàn nhạc, cuối cùng ông Isa dìu
Kesyrt đến khu vực của đàn ông.
Nhẹ nhàng
và duyên dáng như một con thiên nga, Kesyrt lướt ngang qua khu đàn ông. Đám
thanh niên vỗ tay ầm ĩ, thái độ thân thiện, trầm trồ thán phục điệu nhảy vô
cùng quyến rũ của cô. Chỉ có Sharpudin là khoanh tay trước ngực, đứng im, nỗi
căm tức như hằn lên khuôn mặt u ám của anh ta. Khi Kesyrt đến gần, Sharpudin đứng
ở hàng thứ hai lại tuôn ra những lời lẽ thô bỉ. Điệu nhảy vẫn tiếp tục. Ông Isa
khéo léo dìu Kesyrt vào giữa vòng tròn, rồi đưa cô đi dọc theo hàng phụ nữ, sau
đó lại chuyển sang phía đàn ông. Điệu nhảy bắt đầu nhanh hơn, ông Isa xoay tròn
quanh Kesyrt. Nhưng ngay lúc đó, Sharpudin bỗng hét to “Lột nó ra”.
Nhiều người
nghe rõ tiếng la của Sharpudin, nhưng không ai phản ứng gì, chỉ có cơ thể
Kesyrt là run lên như có luồng điện xuyên qua. Cô đột ngột dừng lại ngay giữa
vòng tròn khiến mọi người rất ngạc nhiên. Ông Isa vẫn còn nhảy theo quán tính,
dàn nhạc vẫn chơi, nhưng những tiếng la hét điên cuồng đã vang lên.
- Mọi người
hãy nghe đây! - Đột nhiên Kesyrt vươn thẳng người lên, hai tay chống nạnh, dáng
vẻ khiêu khích, nói to.
Ngay lập tức
một sự im lặng bao trùm, mọi người như chết lặng đi, tiếng nhạc cũng tắt hẳn.
Chỉ còn vọng lại từ đâu đó ở phía dưới, tiếng ngựa hí, tiếng trẻ con nô đùa. Một
cảnh tượng như vậy chưa từng xảy ra. Chưa bao giờ một người phụ nữ, nhất là một
cô gái lại dám nói năng ngay giữa điệu nhảy. Mọi khuôn mặt đều rất nghiêm
trang, mọi ánh mắt đều hướng về phía Kesyrt.
- Mọi người
hãy nghe đây. - Kesyrt nhắc lại bằng một giọng run run. - Tôi không có anh em
trai, không có cha, không có bà con họ hàng để có thể bảo vệ tôi. Còn các người
đứng ở đây, không phải là đàn ông, nên kẻ cặn bã kia mới dám xúc phạm tôi trắng
trợn như vậy. Còn anh, chỉ là đồ rác rưởi để tiện. Anh hãy nhớ, tôi có thể đi
vào giữa đám đàn ông kia và xỉa ngón tay vào mặt anh, rồi nói cho anh biết, người
mẹ đẻ ra anh là đồ đàn bà trác táng. Tôi có thể tự bảo vệ mình trước mọi điều
vu khống. Anh thử nói thêm một câu nữa xem!.. - Kesyrt hét lên bằng một giọng đứt
quãng, cả người run bần bật.
Mấy người
đàn bà chạy lại chỗ Kesyrt, nắm lấy tay cô, đưa ra phía sau, cùng lúc ấy,
Sharpudin lại nói thêm mấy câu xúc phạm nữa. Khi đó, Kesyrt hét lên một tiếng man
dại, gạt các bà ra, chạy sang dãy đàn ông, tay nắm chặt con dao lao thẳng vào kẻ
xúc phạm. Cuộc hỗn chiến bùng lên...
Sau đó,
Kesyrt được chở về nhà trên xe trượt, chiếc áo cherkeska rách tươm, bên ngoài
khoác chiếc áo lông ngắn của ai đó, khóc tức tưởi. Nỗi buồn, thậm chí là nỗi
đau và sự xa cách bao trùm khắp căn nhà của hai người đàn bà bất hạnh.
Sáng hôm
sau, mọi việc mới được sáng tỏ, Kesyrt đã đâm con dao vào vai một ông già chẳng
có tội tình mà cũng chẳng liên quan gì. Ông già cũng chẳng khiếu nại, kiện cáo.
Vài ngày
sau thì mọi người đều biết, theo yêu cầu của dân làng Duts-Khote, đứng đầu là
ông Baki-Haji, theo các quy định của tập tục địa phương, một phiên tòa cộng đồng
đã được tổ chức ngay tại chân núi Khetash-Kort bên làng Tsontaroi.
Phiên tòa
kết án Sharpudin Tsintsiev phạm tội xúc phạm danh dự và nhân phẩm của người
khác. Ông Baki-Haji yêu cầu phải trục xuất kẻ phạm tội ra khỏi làng, tuy nhiên
hội đồng các già làng chỉ xử phạt anh ta hai con bò cái.
Hai con bò
cái, dĩ nhiên là bà Haza và cả Kesyrt, không ai nhận. Khi đó, cha của Tsanka là
ông Aldum đã dắt chúng ra chợ Makhketa bán rồi đưa tiền cho bà Haza, mà không cần
phải nài ép bà nhiều lắm.
Cái tin đồn
nặng nề và độc địa về Kesyrt lan khắp núi đồi và vực sâu Chechnya.
Phụ nữ, nhất
lại là con gái, không được phép to tiếng với đàn ông. Người ta bảo, qua vụ này,
có thể biết ngay Kesyrt là con ai, ai đã sinh ra và dạy dỗ cô ấy. Bà Haza và
Kesyrt, trước kia vốn đã ít xuất hiện chỗ đông người, nay lại càng khép kín.
Đám đàn bà gọi cối xay nước là cái hang thú, người ta cố tránh phải đi qua đấy,
việc xay xát lúa ngô được đưa đến cối xay khác, xa hơn.
Suốt ngày
Kesyrt ngồi trong túp lều nhỏ bé, ẩm thấp của mình. Cô sợ mọi người, sợ các cuộc
tiếp xúc, sợ sự xuất hiện của Sharpudin mà cô căm hận đến tận xương tủy. Kesyrt
hầu như không ăn uống gì cả, ủ ê, buồn bã, hay nổi nóng với mẹ vì những nguyên
cớ không đâu, sau đó lại khóc thút thít cả đêm. Chẳng bao lâu sau, cô lâm bệnh
nặng, sốt li bì mấy ngày liền, mê sảng, la hét, chửi rủa ai đó, đôi khi bật dậy
chạy lung tung.
Bà Haza tội
nghiệp vô cùng hoảng loạn, không biết phải làm gì với con gái. Ông Baki-Haji
vài lần đến thăm, vẽ cho mấy lá bùa mới, cầu nguyện rất lâu. Thầy lang vườn từ
làng Tsa-Vedeno được gọi tới, thuốc cũng được mua về từ huyện lỵ Shali và từ
thành phố Grozny.
Hai tháng
liền, Kesyrt vật vã với cơn bệnh, nhưng dẫu sao thì Thượng đế cũng thương tình
bà Haza và cả cô con gái của bà, bởi vậy mà giọt máu duy nhất của bà cũng bắt đầu
hồi phục.
Một buổi
sáng, sau khi vắt sữa bò xong, bà Haza bước vào lều và nhìn thấy con gái đang đứng
giữa phòng: gầy giơ xương, cao như cây sào, chỉ có đôi mắt đang hồi sinh là ánh
lên.
- Mẹ ơi, mẹ
ra nguồn nước lấy cho con ít nước. Con muốn uống nước, con đang chết khát đây.
Kesyrt uống
nước từ chiếc bình to, nước chảy ròng ròng lên cổ, lên người, lênh láng dưới
sàn nhà đất nện, túa ra xung quanh. Bà mẹ đứng nhìn con gái, mủi lòng, khóc òa
lên vì hạnh phúc, lẩm nhẩm cầu nguyện Thượng đế, cám ơn ngài cùng tất cả các
nhà tiên tri vì sự hồi sinh của con gái. Ngay trong ngày hôm ấy, bà mẹ làm thịt
một con gà trống, lấy ít bột trắng dự trữ nấu món cari gà, món canh với hành và
sữa, buổi tối có món bánh nướng bằng bí ngô, nói chung, mùi thơm tỏa lên ngào
ngạt khắp nơi. Bà Haza, chân không bén đất, chạy ngược chạy xuôi, cảm thấy như
trẻ ra, thậm chí còn lẩm nhẩm hát, mọi việc đâu vào đấy.
Sáng hôm
sau, khi Kesyrt, lần đầu tiên kể từ sau ngày bị bệnh, định ra đường, bà mẹ dặn:
- Con ơi,
ăn mặc cho tử tế vào, có một chàng trai thường hay đến đây lắm. Biết đâu, cậu ấy
lại ghé qua.
Cô con gái
mỉm cười yếu ớt:
- Mặc cái
gì thì có quan trọng đâu hả mẹ, miễn là không ở truồng.
- Thôi được
rồi, cầu xin Thượng đế phù hộ cho con.
Kesyrt bước
ra đường, gần như mất ý thức bởi cảm giác sung sướng cùng với bầu không khí
trong lành ập đến, tràn ngập cơ thể. Thế giới xung quanh rực rỡ, tươi vui theo
kiểu mùa xuân, tất cả đều hoan hỉ, đều trổ hoa. Dòng suối nguồn vui vẻ, tinh
nghịch chảy róc rách. Cả thế giới như khoác một bộ cánh mới màu xanh trẻ trung,
rực rỡ. Sườn núi quanh khu nghĩa trang tràn ngập sắc hoa với đàn bò sữa nhởn
nhơ gặm cỏ, xa hơn một chút, về phía khe núi Vashandaroi, hàng đàn cừu được đưa
vào những nội cỏ của dãy Alpes để vỗ béo, đang lười biếng, chậm chạp tiến dần
lên cao, chìm lấp trong màn sương. Trên bầu trời xanh thẳm, đàn chim én chao lượn,
đâu đó, trong bụi cây bên cạnh, một con họa mi non, lúc lại hót lên lảnh lót,
lúc lại tặc lưỡi một cách bí hiểm để khẳng định tính cách phóng khoáng của
mình. Bài hát giọng nam cao của nó “phu-it-rit” hài hòa một cách kỳ lạ với tiếng
nước chảy rì rào, trầm lắng.
Sau bữa
trưa, Kesyrt không nén nổi tò mò, liền hỏi mẹ về chàng trai hay ghé lại, đôi má
cô ửng đỏ, thậm chí lan cả xuống cổ nữa.
- Ôi, con
ơi, - bà Haza thở dài, - mẹ cũng không biết phải vui hay buồn nữa... Chàng trai
khá lắm, vóc dáng cân đối, cả làng Duts-Khote và khắp vùng quanh đây không có
người nào được như cậu ấy đâu... Mẹ biết cha cậu ấy, ông Eldmar, một người tự
chủ, rất đáng kính. Cậu con trai tên là Salakh... Nói ra thật xấu hổ, nhưng mẹ
cũng thích cậu ấy. - Bà Haza mở cái miệng móm ra, cười thật to. - Cậu ấy nói giọng
của người sống trên bình nguyên... Phong thái nhã nhặn, lịch thiệp... Ôi, mẹ ba
hoa quá đi mất, rồi con sẽ được nhìn tận mặt. Cậu ấy còn mang cả thuốc cho con
nữa. Mẹ đã chữa khỏi cho con bằng thuốc của cậu ấy đấy.
Sau cuộc
trò chuyện này, những ngày tiếp theo, không ai nhắc đến chàng trai ấy nữa, dù cả
hai chỉ nghĩ đến mỗi chuyện ấy. Bà Haza dọn dẹp sân vườn, sơn lại ngôi nhà và
nhà kho, còn Kesyrt lại bắt tay vào những công việc thêu thùa đan lát, sửa lại
các bộ áo váy giờ đây đã trở nên quá rộng sau khi lâm bệnh.
Khoảng một
tuần sau, lúc bà Haza lùa bò đi ăn, trong sân bỗng vang lên tiếng vó ngựa. Một
giọng nam cao trẻ trung vang lên, gọi chủ nhà. Sau vụ rắc rối dạo mùa đông,
Kesyrt né tránh đủ chuyện, cô nép vào trong góc, không dám bước ra. Cô lo lắng
sực nhớ lũ chó đã đi theo mẹ ra bãi chăn thả. Người mới đến lại cất tiếng gọi
gia chủ. Không nghe tiếng ai đáp lại, người đó mạnh bạo đẩy cánh cửa ọp ẹp rít
lên trèo trẹo, bước vào trong nhà, nhưng mới đến giữa phòng, liền sựng lại. Cặp
mắt màu nâu của người thanh niên bắt gặp cặp mắt màu cánh gián của Kesyrt. Một
nụ cười chân thành, cởi mở hiện lên trên khuôn mặt chàng trai.
- Chào cô
Kesyrt. Xin lỗi vì sự đường đột. - Chàng trai lên tiếng bằng một giọng nhẹ
nhàng và chân thành. - Cô ra đây một lát, tôi muốn trao đổi về việc xay xát...
Còn nếu nói thật lòng, tôi đến để được nhìn cô.
Vừa lúc
đó, bà Haza cũng đã về gần tới nhà, đàn chó sủa rân ran, nhưng sau khi đánh
hơi, biết người quen, chúng im ngay.
Kesyrt quá
bất ngờ. Những cảm giác kỳ lạ chưa bao giờ trải qua bỗng ập đến, tràn ngập
trong lòng. Cô mở to mắt, chớp chớp liên tục, rồi đi chân đất, đầu tóc chưa chải,
mặc mỗi chiếc áo cánh, lặng lẽ bước ra ngoài và đứng chết lặng nhìn chàng trai
như bị bỏ bùa mê. Còn anh ta, vẫn mỉm cười, nói một câu bông đùa gì đó với cô,
sau đó nhẹ nhàng nhảy lên ngựa, rồi cũng như lúc đến, nhanh chóng ra đi.
- Con làm
sao thế, trông bộ dạng kìa, không khăn, không tất, chân đất chạy ra gặp người
ta à? Đúng là mất trí rồi!
- Mẹ ơi, mẹ
ơi, - Kesyrt thì thào, - mẹ biết không, con đã gặp anh ấy bao nhiêu lần ở trong
mơ đấy. Có phải anh ấy hay đến thăm con không... Con không biết phải làm gì nữa,
con phải làm gì bây giờ?... Đúng anh ấy rồi!
Kesyrt từ
từ ngồi xuống bậc tam cấp bằng gỗ đã mục, lấy tay che mặt, thoạt đầu còn cười
khúc khích, rồi sau lặng lẽ khóc thút thít.
Ngày hôm
sau, chàng trai quay lại lấy bột, anh ta chỉ mang vài hạt đến xay, chủ yếu cho
có cớ.
Đêm ấy, một
cơn mưa mùa xuân rất lớn trút xuống vùng núi với những giọt mưa mát lạnh thổi
ràn rạt. Thiên nhiên như rạp xuống trước sự tấn công ồ ạt của nước lạnh từ trên
trời đổ xuống. Những chiếc lá non bé xíu chưa kịp cứng cáp, lần đầu tiên đối mặt
với sức mạnh tàn bạo của thiên nhiên, buồn bã rũ ra. Những bông hoa táo màu trắng
hồng, chưa kịp nhận ra niềm vui sướng của tình yêu và sự đơm hoa kết trái, rụng
xuống phủ trắng mặt đất, vô số những đụm tuyết trắng bị mưa cuốn trôi theo dòng
chảy, hòa vào những con suối dốc, đánh mất cả màu sắc, hình dạng và cuộc sống.
Bất chấp thời tiết không thuận lợi, Salakh vẫn tiếp tục đến, không chỉ một mình
mà cả với bạn. Chẳng cần xin phép, anh ta mạnh dạn bước vào trong nhà, để lại
phía sau những dấu chân đầy nước và bùn đất.
- Xin
chào, xin chào những con người nhân hậu! Sao, mọi người không mong chúng tôi à?
- Chàng trai vui vẻ thốt lên. - Đây là bạn tôi, Nesa, cùng tuổi đấy. Còn đây là
bác Haza và cô con gái tuyệt vời của bác ấy, cô Kesyrt... Sau này mọi người sẽ
có dịp tìm hiểu thêm.
- Thời tiết
thế này, các anh từ xa đến à? Ướt hết cả rồi. - Bà Haza rầu rĩ nói.
- Trên
bình nguyên chỗ chúng cháu, trời nắng và ấm áp. Chỉ có trong núi chỗ các bác mới
mưa thôi... - Salakh vui vẻ đáp, không chút gượng gạo, giả dối, nhanh nhẹn cởi
chiếc áo trùm đầu ra.
Cặp mắt
nâu, mở to của Salakh chỉ nhìn mỗi Kesyrt, ánh mắt trong sáng và nhiệt tình.
Lại bị rơi
vào tình thế bất ngờ, cô con gái bà Haza không biết phải làm gì với chính bản
thân. Kesyrt là cô gái kiêu hãnh và tự trọng, thường đối xử với các chàng trai
một cách kiêu kỳ và táo tợn, nhất là khi cô biết rõ họ đang si mê mình. Tuy
nhiên, giờ đây, mọi việc khác hẳn. Con người trẻ trung, mắt sáng, cao ráo và
cân đối, với cái giọng còn chưa vỡ tiếng kia, với nhúm râu rễ tre lưa thưa và
đôi má đỏ hồng đã hoàn toàn khuất phục cô chỉ bằng một ánh mắt, đánh tan mọi sự
kiêu hãnh và lòng hăng hái của cô. Chỉ trong tích tắc, Kesyrt như bị lột xác,
và cũng như mọi cô gái miền núi khác, bao giờ cũng là con tin của các tập tục
Chechnya cổ xưa và những tình cảm thuần túy phụ nữ.
- Bột ngô
xay xong rồi chứ? - Salakh bất ngờ hỏi, mắt vẫn nhìn thẳng và miệng vẫn cười với
người đẹp ốm yếu.
- Tất
nhiên, xay rồi, xay xong từ hôm qua rồi, - bà Haza cố xua đi sự bối rối. - Chỉ
có điều anh mang về bằng cách nào, ướt hết.
- Cho
chúng cháu gửi lại đây, - Salakh mỉm cười, rồi bỗng nhiên anh tỏ ra nghiêm túc,
lấy tay che miệng, hắng giọng, mắt nheo lại, nhìn xuống đất. - Cháu vượt một chặng
đường xa thế này đến đây không phải để xay bột... Chẳng có gì phải giấu giếm...
Nói tóm lại, thưa bác Haza, cháu có chuyện muốn thưa với bác và con gái bác...
Dĩ nhiên, làm thế này là không đúng theo thông lệ, nhưng trong lời đề nghị của
cháu không có gì sai trái, vì những gì cháu nói đều xuất phát từ một trái tim
trong sáng và lòng kính trọng đối với bác.
Không ai
chờ đợi một bước ngoặt bất ngờ như vậy, thậm chí ngay cả anh bạn của Salakh
cũng phải trố mắt lên. Salakh hít một hơi dài, vươn vai lên, cố làm cho cái giọng
nam cao của mình trầm xuống cho có vẻ nam tính hơn, nói tiếp:
- Chắc bác
nghĩ cháu đã coi thường các tập tục của dân tộc và xử sự một cách quá trớn khi
nghĩ rằng gia đình bác đang sa sút hay gia đình cháu đang có lợi thế hơn. Hoàn
toàn không phải vậy. Cháu sẽ chứng minh cho bác thấy ngay bây giờ... Từ những sự
việc mà mọi người đều biết rõ và do nơi ở xa xôi cách trở, Kesyrt hầu như không
ra ngoài, bởi vậy mà cháu không còn cách nào khác, và cũng không còn thời gian,
và cũng không thể kiên nhẫn hơn được nữa, - Salakh nghỉ lấy hơi, sau đó lại nói
tiếp một mạch, mắt vẫn nhìn vào người yêu đang cúi xuống vì bối rối: - Bác Haza
đã biết cháu là con ai, từ đâu đến và là người thế nào. Cháu cũng biết rõ gia
đình bác. Dĩ nhiên, nói ra điều này trước mặt bác Haza thì không được tế nhị
cho lắm, nhưng đằng nào cháu cũng phải nói, và nếu có người phải xấu hổ, thì
người đó sẽ là cháu. Cầu xin Thượng đế đừng bắt cháu phải chịu xấu hổ... Nói
tóm lại, điều quan trọng nhất, em Kesyrt, tôi rất cần em! Tôi xin em hãy đồng ý
lấy tôi làm chồng!
Một sự im
lặng như trong mồ bao trùm. Mọi người đều lặng đi vì quá bất ngờ. Một cảm xúc
hoàn toàn mới mẻ choán ngợp tâm trí Kesyrt. Khuôn mặt, cổ, thậm chí cả đôi tai
nhỏ bé của cô cũng ửng đó, tất cả như cháy lên. Cô muốn ngồi xuống, thậm chí nằm
xuống, mọi sức lực biến đâu mất, trái tim đau nhói như sắp bật ra khỏi lồng ngực,
hai tay bối rối không biết để vào đâu. Kesyrt không hiểu và cũng không thể hình
dung nổi điều gì. Cô chỉ muốn ở bên cạnh chàng trai trẻ này, mãi mãi, chăm sóc
anh, vuốt ve anh, nhìn ngắm anh, không phải chờ đến một lúc nào đó mà ngay bây
giờ, ngay phút giây này.
Chỉ cần một
chút nữa thôi là Kesyrt cũng sẽ tuôn ra những điều tương tự như kẻ si mê cô vừa
nói, tuy nhiên, sự thiếu kiên nhẫn của Salakh đã cứu cô.
- Tôi biết,
tất cả việc này đối với em là quá bất ngờ... Nhưng sắp tới tôi sẽ phải đi học
trong vài tháng, mùa hè mới về, và tôi hy vọng sẽ nhận được câu trả lời của
em... Xin mọi người hãy thứ lỗi cho tôi vì tất cả. Cầu chúc mọi điều tốt đẹp.
Salakh
không nói thêm gì nữa, hai chàng trai biến mất trong màn mưa xuân sau khi đã để
lại trong nhà hai người phụ nữ đang vô cùng sửng sốt.
- Kesyrt,
đây là mơ hay là thật hả con? - Người mẹ thì thào hỏi con.
- Con
không biết, - cô con gái cũng đáp lại bằng một giọng thì thào như vậy.
Cơn mưa lạnh
lẽo làm ướt vài chỗ trên mái nhà bằng đất sập sệ, mấp mô. Trong chuồng, con bò
cái chưa được vắt sữa rống lên. Lũ gà mái ướt sũng lông, dửng dưng với mọi chuyện,
tụm lại thành một đám, run rẩy tránh mưa dưới mái che bằng rơm thủng lỗ chỗ.
Điều làm cả
hai mẹ con rất ngạc nhiên là khắp vùng, kể cả cây cối cũng bàn tán về cái tin mới
này. Kesyrt thu mình lại, không biết có nên tin vào niềm hạnh phúc của mình hay
không. Cô cứ ngồi mãi bên nguồn nước, nhớ lại cuộc gặp bất ngờ, trái tim run rẩy
mơ ước về tình yêu và hạnh phúc, lúc lúc lại đỏ mặt, mỉm cười với chính mình.
Bà Haza,
như trẻ lại, tất bật với công việc, vừa lẩm nhẩm vừa vuốt ve con bò sữa, con bê
non và đàn gà mái quanh năm bị đói.
Vào đầu
hè, khi tiết trời đã nóng lên và oi bức đến mức không thể chịu đựng nổi, khi những
trái dâu đầu tiên đã bắt đầu chín đen, thì Kesyrt nhận được thư: trên tờ giấy trắng
như tuyết, tỏa hương thơm nức, có những nét hoa văn rất quyến rũ.
Mấy ngày
liền, hai người phụ nữ mù chữ khổ sở vì cái sự việc bất ngờ ụp xuống đầu họ. Ở
đây, trong khắp vùng Duts-Khote chỉ có mỗi ông Baki-Haji và hai, ba người nữa
là biết chữ. Làm sao có thể cho người lạ đọc thư của người yêu được? Đột nhiên,
trong đầu bà Haza bỗng lóe ra ý nghĩ. Sáng sớm hôm sau, bà lùa con bò sữa ra
bãi chăn thả và gặp Tsanka ở đó. Chàng trai dậy muộn, còn đang vịn vào các
thanh chắn bằng gỗ, chưa muốn ra roi thúc hai con bò đực lười biếng kéo chiếc
xe trượt.
Chẳng còn
nghĩ đến con bò cái, bà Haza chạy đến chỗ chiếc xe, và cũng chẳng thèm chào, bà
hỏi ngay:
- Tsanka,
cậu biết đọc chứ?
- Chuyện
gì thế? - Tsanka ngạc nhiên, nhổm dậy.
- Tôi hỏi,
cậu có biết đọc không?
- Tất
nhiên là biết. Quanh vùng, không ai có học vấn cao hơn tôi đâu. - Cặp mắt
Tsanka sáng lên. - Thế đọc cái gì?
- Khi nào
rảnh, cậu đến chỗ chúng tôi nhé, có việc cho cậu đấy.
Sau khi cắt
cỏ xong, mặc dù rất mệt và nóng bức, song vì không nén nổi tò mò, Tsanka chạy
ngay đến cối xay nước. Kesyrt đang ngồi trên chiếc ghế dài dưới bóng cây thùy
liễu, đôi chân trần đập đập xuống làn nước nguồn mát lạnh.
- Đúng là
chốn thiên đường và một cuộc sống thiên đường! - Tsanka kêu lên, đi xuống nguồn
nước. - Chào cô, Kesyrt.
- A, chào
anh Tsanka. Công việc của anh thế nào? Anh thay đổi nhiều quá, lớn hẳn lên đấy.
- Kesyrt đáp lại và như mọi khi, pha chút giễu cợt với chàng trai.
Tsanka
nhanh nhẹn bước xuống nguồn nước theo các bậc tam cấp bằng đất, khỏa tay vào
làn nước mát lạnh, rửa mặt và đôi tay rắn chắc, rồi bụm tay lại vốc nước lên uống.
- Nước
ngon quá, - Tsanka thích thú nói, mắt nhìn vào đôi chân của Kesyrt. - Giá cô biến
đi, tôi có thể tắm.
- Anh
không được tắm ở đây đâu. Chỉ có mình tôi được tắm ở đây thôi, - Kesyrt làm ra
vẻ quan trọng, bác ngay. - Anh chỉ được tắm ở dưới kia, cùng với mọi người.
- Thế khi
nào thì cô tắm? - Tsanka tinh nghịch hỏi. - Nhất định tôi sẽ đến xem.
- Đúng là
đồ trơ tráo, - Kesyrt cũng đáp lại bằng một giọng tinh nghịch. - Tôi sẽ cho anh
biết thế nào là nhìn trộm... Mới nứt mắt ra mà đã... Để anh khỏi phải bận tâm,
tôi sẽ chỉ tắm ban đêm thôi.
- Thôi được
rồi, tôi đến đây không phải vì chuyện đó. Đọc cái gì? - Giọng chàng trai có vẻ
quan trọng.
- Nhưng
anh sẽ không ba hoa chứ?
- Chính cô
mới là đồ ba hoa. Không cần thì thôi. Vì công việc tôi mới phải chạy đến đây đấy.
- Anh chờ ở
đây, tôi quay lại ngay.
Tsanka còn
lại một mình. Cậu ngồi xuống chỗ Kesyrt vừa ngồi, thọc chân xuống nước. Hơi lạnh
của dòng nước nguồn như một làn sóng vô hình lan lên khắp cơ thể. Vài con cá hồi
dẹp, vảy lấp lánh, đùa giỡn quanh các hòn đá lăn bám đầy rêu rồi bơi lên phía
trên. Những cành đũm hương dài, thân chằng chịt mấu màu đỏ sậm đong đưa trên mặt
nước, xõa cả nhánh vào trong làn nước, không để cho những con ong mập mạp có thể
tự do hút mật từ những bông hoa nhỏ màu hồng. Ngay trên đầu, trong tán lá rậm rạp,
một con sơn tước cất giọng hót lảnh lót “chítrít-chít-rít”, cạnh đấy, một con
chim khác cũng hòa theo “ti-tít-ti-tít”.
Lát sau
Kesyrt quay lại, làm ra vẻ dửng dưng đưa cho Tsanka bức thư. Tsanka thành thạo
mở tờ giấy ra, đờ đẫn nhìn rồi xoay lại.
- Anh làm
sao thế, - Kesyrt cười mỉa, - định tìm chữ quen à?
- Đừng quấy
rầy. - Chàng trai đáp bằng một giọng nghiêm túc. - Chẳng qua là nét chữ quá xấu.
Rất có thể
Tsanka chẳng hiểu gì, hoặc là cậu chỉ biết vài chữ cái, hay là cậu đã từng thuộc
lòng những gì mà ông bác Baki-Haji dạy cho cậu, nhưng cứ mỗi lần bị phạt thì chữ
thầy lại trả thầy.
- Thế nào,
trong đó viết gì? - Kesyrt không còn kiên nhẫn nữa.
- Nói ngắn
gọn...
- Không được
ngắn gọn. - Kesyrt cắt ngang. - Đọc từng chữ một.
- Anh ta
viết, rất yêu cô, buồn. Sẽ sớm quay về. Hỏi, công việc thế nào.
- Thôi, được
rồi, - Kesyrt giằng bức thư lại, - anh chẳng biết gì hết, đồ ngốc.
- Chính cô
mới là con ngốc, - Tsanka đáp lại, không chút tự ái. - Tưởng vớ được anh chàng
ngon lắm đấy. Làm như ở đây không còn ai nữa... Giá mà tôi lớn hơn một chút,
không đến lượt anh ta đâu.
- Anh lảm
nhảm cái gì thế? - Kesyrt cười mỉa, liếc nhìn Tsanka và lặng người đi: cặp mắt
to màu xanh da trời của Tsanka đang lướt trên khắp cơ thể cô, từ cổ xuống ngực,
cho tới đôi chân trần. - Anh đúng là đồ không biết xấu hổ, mới nứt mắt ra mà
đã, - rồi cô đẩy vào vai cho Tsanka tỉnh lại. - Thôi biến đi, nhanh lên.
Đêm ấy
Tsanka không sao chợp mắt được. Những ý nghĩ và tình cảm kỳ lạ choán ngợp tâm
trí. Đây là lần đầu tiên cậu trải qua cảm giác đó. Mọi ý nghĩ của cậu chỉ hướng
về Kesyrt, về thân hình cô, sắc đẹp của cô, cậu chỉ muốn được nhìn ngắm cô, lúc
nào cũng ở bên cô. Đêm hôm sau, trong bóng tối như bưng, Tsanka chui vào bụi
cây đầy gai đối diện với chỗ Kesyrt có thể tắm.
Những con
chó hung dữ nhà bà Haza đánh hơi thấy người liền sủa như điên, băng qua nguồn
nước và lao vào bụi cây. Nhận ra Tsanka, chúng hạ giọng rên ư ử, vui vẻ vẫy
đuôi. Nghe tiếng chó sủa, bà già cầm cây đèn dầu bước ra sân, la hét vài câu, đứng
một lát rồi quay vào nhà.
Bụi tầm ma
non cứa vào chân tay Tsanka rát rạt, nhánh cây tầm xuân và đũm hương cào cấu
vào mặt và quần áo. Tsanka chọn một chỗ thích hợp, ngồi quan sát. Gió lạnh thổi
thốc vào lưng, mặt trăng, lúc thì khuất sau đám mây đen, lúc lại ló ra. Đâu đó ở
tít phía dưới, vùng bình nguyên, những tia chớp lóe lên. Những chiếc lá non xào
xạc trong làn gió giật như thủ thỉ điều gì đó bí mật. Ở dưới vực sâu Vashandaroi,
những con ếch đang trình diễn một bản hòa tấu về hôn nhân. Từ cánh rừng dẻ gai
phía xa vọng lại tiếng rúc ma quái và đầy mê hoặc của con cú mèo.
Có thể vì
sợ hay vì lạnh, hay vì lý do nào khác nữa làm Tsanka run bần bật, khiến cậu phải
đảo mắt bốn phía. Không hiểu tại sao Tsanka lại có cảm giác mình cũng bị theo
dõi.
Ngồi xổm
lâu mỏi chân, Tsanka thận trọng mò mẫm, gom một ít cỏ mềm rồi nằm sấp xuống và
tiếp tục quan sát...
Một, hai rồi
ba giọt nước to rơi ngay vào đầu Tsanka. Cậu mở mắt ra và kinh hoàng không hiểu
có chuyện gì, mình đang ở đâu, xung quanh tối om, gió giật từng cơn ù ù bên
tai...
Khắp người
sây sát, ướt sũng, bẩn thỉu, Tsanka lê về đến nhà vào lúc rạng sáng. Cha mẹ cố
vặn hỏi cậu đã ở đâu. Để trừng phạt, người ta đột xuất điều động cậu vào tít
trong núi Shatoisk để chăn cừu trong suốt hai tuần. Trong thời gian bị phát
vãng, Tsanka xin với ông lão cùng đi chăn với mình cho cậu nghỉ một đêm, rồi
phóng ngay đến cối xay nước.
Lần này số
phận đã mỉm cười với Tsanka. Đêm ấy, trời trong, vầng trăng tròn vành vạnh chiếu
những tia sáng bí ẩn của mình xuống khắp núi đồi. Tiếng nước chảy róc rách vui
vẻ. Từ làng Duts-Khote phía xa vọng lại những tiếng gáy sớm của lũ gà trống. Những
con chó nhà bà Haza lại đánh hơi thấy người, sủa nhặng lên, chạy lại. Sau khi
được dằn bụng bằng chiếc bánh ngô dẹt Tsanka mang theo, lũ chó liền im hơi,
loăng quăng một lát rồi biến mất sau bụi cây.
Vơ thêm
nhiều cỏ hơn lần trước, Tsanka thiết kế cho mình một chỗ nằm thoải mái, rồi lại
nằm sấp xuống, chờ đợi người trong mộng. Mọi nỗi đau đớn khổ ải lần này được đền
đáp xứng đáng. Thật ra, điều đó cũng không làm Tsanka cảm thấy nhẹ nhõm hơn, những
cảm xúc mới lạ chưa từng xuất hiện về tình yêu, về nỗi buồn dịu ngọt choán ngợp
toàn bộ tâm trí cậu.
Tiếng kẹt
cửa đột nhiên vang lên, từ trong bóng tối của căn nhà, một tạo vật kỳ diệu bỗng
hiện ra dưới ánh trăng. Tsanka không thể hiểu, có đúng là Kesyrt hay là một ảo ảnh
nào đó. Đối với cậu, thế nào cũng được, điều quan trọng đó là một sinh vật giống
cái trẻ trung.
Đôi mắt
lóe lên bí hiểm, cô gái nhìn quanh rồi bước về phía dòng suối, trên người
choàng tấm vải trải giường, mái tóc dài đen nhánh xõa ra đến tận gót chân như một
tấm khăn voan. Đến bờ nguồn nước, dưới tán cây liễu, bóng của cô gái như hòa
vào trong bóng đêm.
Tsanka như
bị bỏ bùa mê, chỉ có thể hình dung được điều gì đang diễn ra dựa vào những cử động
mềm mại của cơ thể cô gái. Đấy, cô ấy đã bỏ tấm vải trải giường xuống, hai tay
xõa mái tóc kỳ diệu như hình rẻ quạt phủ trên cơ thể, nhẹ nhàng nhón chân lên
như sợ đánh thức ai đó và bước xuống nước. Bằng những cử động mềm mại, cô gái
phả nước lên mặt, lên cổ, lên ngực, lên cánh tay, lầm nhẩm hát như hòa âm với
tiếng nước chảy.
Cuối cùng,
cơ thể cô gái nhẹ nhàng chìm vào trong bóng tối thành một khối, chỉ còn nghe thấy
tiếng cười lanh lảnh và tiếng nước vỗ óc ách.
Miệng há hốc,
thậm chí không dám thở nữa, Tsanka ép chặt người xuống đất, vừa sợ vừa thích,
ngắm nhìn toàn bộ vở diễn.
Cuối cùng,
hình bóng trong suốt của cô gái như tách ra khỏi bóng tối của làn nước, cô nhón
chân, chậm rãi bước lên bờ, cúi tấm lưng mềm mại xuống, cầm tấm vải trải giường
lên, kéo lê trên mặt đất rồi bước đi trên thảm cỏ vằng vặc ánh trăng, những hạt
nước trên cơ thể cô lấp lóa.
Cô gái
duyên dáng ngẩng cao đầu và bằng một động tác dứt khoát hất ra sau mái tóc dài,
che kín cặp mông tròn, lấy hai tay vuốt khắp người, từ chiếc cổ cao gầy, tới bộ
ngực non trẻ rồi xuống chiếc bụng thon để gạt những giọt nước còn dính trên cơ
thể.
Đắm đuối bởi
sắc đẹp của cô gái, Tsanka hoàn toàn đánh mất sự kiểm soát chính bản thân, cả
cơ thể trai trẻ của cậu căng cứng như hóa đá. Nếu Tsanka không tin đó là tiên
nga giáng thế lúc nửa đêm mà là Kesyrt, chắc hẳn cậu đã lao tới cái vóc dáng trẻ
trung đã quyến rũ cậu đến thế. Có cảm giác, cậu đã nhìn thấy rõ như ban ngày tất
cả những đường nét mềm mại của cô gái. Những cảm xúc không thể kiềm chế như
đang sôi lên trong cơ thể trẻ trung của cậu...
Hoàn toàn
kiệt sức và trống rỗng, không còn mong gì nữa, Tsanka còn nằm lại một lát, bất
động, chúi mũi xuống mặt đất ẩm ướt. Sau đó, với một sự sợ hãi tội lỗi, cậu ngẩng
đầu lên, nhìn quanh - xung quanh vẫn là màn đêm tĩnh lặng, chỉ có dòng suối là
vẫn tiếp tục cuộc sống vô tư lự của mình.
Cố nhanh
chóng thoát khỏi cái chỗ đó, cố quên đi tất cả những cảm xúc mới mẻ vừa xuất hiện,
mãi đến gần sáng Tsanka mới leo qua hết ba cái đèo, và khi mặt trời đã lên cao
cậu mới lần đến được chỗ đàn cừu của mình.
Suốt cả
ngày, Tsanka vật vạ hết chỗ này đến chỗ khác, rồi nằm xuống bãi cỏ và ngủ mê mệt.
Sang ngày hôm sau, cậu trở nên lặng lẽ, trầm tư, buồn bực. Đến chiều, khi mặt
trời lặn, cậu không nói gì với ông lão cùng chăn cừu, lại hăng hái lao về hướng
cối xay nước. Suốt dọc đường, những ý nghĩ trái ngược cứ giằng xé trong đầu,
tuy nhiên, đến phút cuối, khi đã chui vào cái hang của mình trong bụi cây đầy
gai lúc trời tối như bưng, cậu mới có được một quyết định dứt khoát và tuyệt vọng
khủng khiếp. Cậu không nghĩ và cũng không muốn nghĩ đến những hậu quả mà tuổi
trẻ bồng bột cùng với niềm khát vọng, đam mê cảm tính và thiếu suy nghĩ sẽ gây
ra cho cậu.
Mọi chuyện
vẫn như cũ. Nhưng không hiểu tại sao chó lại không sủa nữa.
Tsanka sửa
soạn lại chỗ nằm thoải mái hơn, miệng ngậm một cọng cỏ. Cậu hình dung trong óc
màn biểu diễn sắp xảy ra, hài lòng nôn nóng ngọ ngoạy chân, cặp mắt sáng lên với
một sự quyết tâm trơ tráo.
Cùng lúc ấy,
có một cái gì đó khá to động đậy trong bụi.
“Mấy con
chó của bà Haza”, - Tsanka thầm nghĩ, định quay đầu về hướng đó thì bỗng nhiên
những cánh tay cứng như gọng kìm tóm lấy cổ và mông cậu, nhấc cậu lên khỏi mặt
đất rồi ném xuống nước. Một cơn đau nhói ở đầu gối khiến Tsanka bất giác phải
hét lên, co rúm người lại, dòng nước lạnh ngắt cuốn cậu xuống dưới, đến chỗ
vũng sâu trước con đập có các thớt đá cối xay. Vượt qua cơn đau và nỗi sợ hãi,
Tsanka vùng vẫy, giãy giụa, mấy ngón tay sây sát rớm máu, cố bò lên nhưng lại bị
tuột xuống, phải khó khăn lắn mới leo được lên bờ bên kia. Và chỉ đến khi ấy cậu
mới nghe rõ tiếng cười chế nhạo của Kesyrt. Tsanka chạy thục mạng theo sườn dốc,
giữa các bụi phỉ tử rậm tạp, không nhìn thấy gì, không phân biệt được phương hướng,
chỉ đến khi chạy đến khu rừng dẻ gai thoáng đãng cậu mới dừng lại, dựa lưng vào
một thân cây tiêu huyền cổ thụ to cao: cơn đau nhức ở dưới chân, mạch máu sau
gáy và hai bên thái dương chảy rần rật, trong tai cứ lùng bùng không dứt tiếng
cười độc địa của cô gái...
Vào đầu
tháng Bảy, khi những trái anh đào màu boóc-đô chín rụng dưới đất, một tin mới
lan đến làng Duts-Khote: một đoàn người sang trọng với những món quà đắt tiền từ
huyện lỵ Shali đến gặp bà già Haza nghèo khổ để dạm hỏi cô con gái của bà. Đúng
một tuần sau, một lễ cưới tưng bừng, đông chưa từng có ở trong núi đã được tổ
chức với các màn nhảy múa, bắn súng chào mừng và một nghi lễ long trọng để đưa
người đẹp Kesyrt xuống bình nguyên, về huyện lỵ Shali xa xôi và giàu có.
Quá đau khổ,
Tsanka không thể nhìn và nghe tất cả những điều đó. Ngay từ sáng cậu đã bỏ chạy
vào rừng sâu hoang dã, đổ vật xuống mặt đất ẩm ướt và cay đắng khóc... Đó là mối
tình đầu của cậu... Cô ấy đã thuộc về người khác!
Còn người
đẹp Kesyrt, có được cuộc sống hạnh phúc, sung túc và tràn ngập tình yêu với
Salakh vừa đúng một năm.
Vào thời
gian nổ ra cuộc nội chiến, trong một trận đánh với đội quân của Denikin tại
ngôi làng Mesker-Iurt, bên cạnh huyện ly Shali, người chồng yêu quý của Kesyrt
đã bị giết chết.
Nhận được
tin về cái chết của Salakh, cô Kesyrt đang mang thai bị ngất xỉu và cũng mất
luôn cái thai. Một tháng sau, khi mọi thủ tục tang lễ đã thực hiện xong, Kesyrt
quay trở về cối xay nước ở làng Duts-Khote với bọc quần áo ít ỏi của mình.
Muộn hơn một
chút, vào mùa đông, Kesyrt bị bắt cóc trên đường từ cối xay nước đến làng
Duts-Khote. Và một đám cưới đã được tổ chức bất chấp sự phản đối quyết liệt của
Kesyrt.
Ông
Baki-Haji, mà trước đó là bà Haza đành phải chúc phúc cho cuộc hôn nhân bất đắc
dĩ này. Kesyrt trở thành vợ của một ông nhà giàu lớn tuổi.
Bà Haza
hài lòng vì con gái, một lần nữa đã có chủ, có một mái ấm no đủ chứ không phải
là gái góa.
Tuy nhiên
cuộc hôn nhân này cũng không kéo dài được lâu. Lần này Kesyrt lại làm mọi người
hết sức ngạc nhiên: bất chấp phong tục tập quán của người miền núi, cô tự ý bỏ
chồng và quay về nhà mẹ. Không một lời thuyết phục nào, không một mệnh lệnh
nào, không một lời năn nỉ nào có tác dụng: Trước mặt mọi người, Kesyrt tuyên bố,
cô không thể chịu đựng hơn được nữa cái cơ thể mềm nhũn và bốc mùi của ông già
kia.
Vậy là
Kesyrt lại trở thành gái góa, và để cố xoa đi nỗi đau, quên đi tất cả, đồng thời
để tự nuôi sống bản thân, cô ra chợ buôn bán.
* * *
Ông
Baki-Haji đứng khá lâu bên sườn núi, cố nén cơn khó thở. Trước kia, dạo ông
chưa đi tù, những cái dốc thế này đối với ông chỉ là chuyện vặt, còn bây giờ,
không còn sức nữa. “Mình đã già rồi. - Ông cay đắng nghĩ, - Vào thời trước, cái
đồ cặn bã Haron không dám bén mảng tới gần mình... Còn bây giờ, hắn có bốn thằng
con trai lớn, trong khi mình chỉ có ba đứa con gái... Phải, thời thế đã khác rồi...”
Tâm trạng
ông lại càng trở nên nặng nề bởi những ý nghĩ u ám đó, những giọt mồ hôi lạnh,
nhỏ xíu rịn ra trên cái trán hói của ông. Ông lấy ống tay áo lau mồ hôi, gập
người xuống, dựa hẳn vào cây gậy rồi đi tiếp lên trên.
Sau một
mùa đông tuyết rơi dày, dãy hàng rào gỗ ở nghĩa trang trở nên đen sạm, đôi chỗ
sụn xuống đất. Ông Baki-Haji lầm rầm cầu nguyện cho các linh hồn, và theo bước
chân họ, ông chậm rãi mở cánh cổng vẹo vọ ra, bước đến chỗ các ngôi mộ của dòng
họ. Ở đây yên nghỉ các ông cố và cha của dòng họ Arachaev, cả những người chết
già và những người chết trẻ, chết vì bệnh tật, chết vì kẻ thù, ở đây còn có một
cái bia mà không có mộ.
Ông
Baki-Haji giơ hai tay ôm tấm bia đá như ôm người em trai ruột thịt vào lòng, gục
đầu xuống, cong người lại, những giọt nước mắt to tướng rơi lã chã, toàn thân
run lẩy bẩy.
- Aldum,
em ơi! Anh đã không bảo vệ được em! Anh đã không cứu được em và cũng không thể
mai táng cho em!... Aldum ơi, tại sao không phải là em khóc anh? Anh biết làm
gì đây?... Aldum, em yêu quý ruột thịt của anh! - Ông linh mục vừa rên rỉ vừa cầu
nguyện khe khẽ.
Chỉ sau
cái chết của người em trai, ông Baki-Haji mới hiểu được người tráng sĩ chất
phác kia có ý nghĩa thế nào trong cuộc đời ông. Một mình Aldum, bằng sự lao động
miệt mài của mình đã nuôi sống không chỉ một gia đình, trên đôi vai mạnh mẽ của
Aldum, mọi người không chỉ được no đủ, mà còn có một cuộc sống tự do, thoải
mái. Đức tính trung thực, thẳng thắn, hồn hậu và công bằng của Aldum không chỉ
một lần làm vui lòng và cũng lắm lúc làm buồn lòng người anh trai tính khí mềm
dẻo hơn.
Giờ đây
Aldum không còn nữa, mà mộ cũng không có.
- Aldum,
em ơi, hãy tha thứ cho anh, anh đã không bảo vệ được em. Anh có lỗi trong mọi
chuyện, - bằng một giọng bình tĩnh hơn, ông Baki-Haji nói tiếp, dịu dàng xoa
bàn tay già nua và gầy guộc của mình lên tấm bia đá lạnh ngắt. - Chỉ có một niềm
an ủi duy nhất, - ông tiếp tục, vẻ cương quyết, - rằng sáng nay, chúng ta đã trả
được món nợ máu cho em, trả thù được cho em... Thật ra, có Thượng đế chứng
giám, một trăm thằng quái thai như nó cũng chưa xứng với một ngón tay em...
Nhưng làm sao bây giờ, không thể giết hết được... Mà những kẻ như vậy không biết
ở đâu ra mà lắm thế... Cầu xin Thượng đế phù hộ cho em! Cho chúng ta sẽ được gặp
nhau ở thế giới trên kia!... Còn về gia đình, em đừng lo. Tsanka đã lớn rồi,
thành một tráng sĩ, những người khác đều khỏe mạnh... Cầu xin Thượng đế, mọi việc
sẽ tốt đẹp... Tạm biệt em trai. Anh không thể ở đây lâu được.
Ông
Baki-Haji lau đôi mắt đỏ hoe bằng chiếc khăn tay bẩn, rồi chậm rãi đi vòng
quanh khắp nghĩa trang, xem xét từng ngóc ngách, đi về phía khu trại có mái
che, nơi để toàn bộ đồ nghề phục vụ tang lễ. Ông luẩn quẩn ở đó khá lâu, lau
chùi, sắp xếp gọn gàng lại những dụng cụ đơn giản. Những lo toan hết sức đời
thường này đã giúp xua đi nỗi u buồn, mang lại cho ông sự bằng an và niềm vui.
- Sao họ cẩu
thả thế không biết! - Ông thốt lên không chút bực bội. - Chẳng lẽ họ nghĩ sẽ
không có ai chết nữa hay sao, hay sẽ chẳng phải chôn cất ai nữa.
Men theo
sườn núi đi xuống, khi còn cách cối xay nước khá xa, ông Baki-Haji ngửi thấy
mùi vị khá hấp dẫn của bánh nướng mới ra lò.
Bà Haza
lưng còng do thời gian và tuổi tác, lau đôi bàn tay to dính đầy bột trắng vào
chiếc tạp dề bằng vải hoa đầy vết dầu mỡ, đứng bên cạnh cây cầu chờ ông già.
- Ông
Baki, mời ông ghé lại dùng trà, - bà năn nỉ ông linh mục bằng một giọng nhỏ nhẹ.
- Sao lại
không. Mùi thơm quá, ứa cả nước miếng.
Ông
Baki-Haji dừng lại trước bậc tam cấp xiên xẹo và mục nát, chùi đất bẩn dính
trên ủng.
- Ông cứ
vào đi, vào đi, tôi sẽ lau dọn sau. - Bà Haza nhanh nhảu nói.
Ông
Baki-Haji không tháo ủng, bước vào nhà bà Haza, mệt mỏi ngồi xuống tấm phản cũ
kĩ, ọp ẹp. Bất kể sự nghèo nàn, rách nát, bà Haza sống rất sạch sẽ và ngăn nắp.
Bà chủ tỏ
ra tất bật một cách không bình thường, chạy lăng xăng trong nhà: lôi từ trong gầm
phản ra chiếc chậu đồng, chậm rãi rót nước ấm từ chiếc bình cổ ra cho ông linh
mục rửa tay. Rồi bà trải lên phản tấm khăn trải bàn tự dệt bằng vải gai chỉ để
dùng trong những dịp như thế này, đặt lên đó chiếc khay to, với rất nhiều mẩu
bánh mì dẹt đã được cắt theo hình tam giác vẫn còn bốc hơi nghi ngút, rồi đặt
bên cạnh một chiếc bát đựng đầy bơ đã nấu kĩ.
- Ông ăn
đi cho khỏe, - bà Haza vừa nói vừa nhấc ấm nước từ bếp lò ra, - tôi sẽ pha trà
Kalmyk ngay bây giờ.
Ông
Baki-Haji xắn tay áo lên, ngồi xếp bằng trên phản theo kiểu người Tatar, và bắt
đầu ăn. Ông lấy một mẩu bánh, nhúng vào bát bơ nóng rồi bỏ vào miệng và chậm
rãi nhai một cách thích thú: bà Haza nấu rất ngon, nhất là để cho ông linh mục.
Họ im lặng
khá lâu, ông già không chịu đựng nổi, lấy tay lau đôi môi dính đầy bơ, hỏi:
- Kesyrt
đâu rồi?
- Tôi cũng
không biết, ông Baki ạ.
Khi chỉ có
hai người với nhau, bà Haza bao giờ cũng gọi ông linh mục một cách ngắn gọn,
thân mật.
- Vậy thì
ai biết? - Ông già bực mình.
Chiếc bát
to hoa văn từ trên tay bà rơi xuống đất nhưng không vỡ mà lăn vào dưới gầm phản.
Bà Haza nặng nhọc thở, cúi xuống tìm rất lâu, miệng lầm bầm:
- Đồ quỷ
tha ma bắt! Nó đi xa lắm, cứ như là chân nó mọc dài ra vậy.
- Bà làm
gì ở dưới ấy thế? - Ông lão nghiêm túc hỏi. - Tôi hỏi Kesyrt đâu? Tại sao bà
không biết gì cả?
Bà Haza
chui từ gầm phản ra, quẩn quanh mãi bên chiếc chậu, lấy nước nóng tráng lại cái
bát, rồi không quay về phía ông già, bà khẽ nói bằng một giọng ngoan ngoãn:
- Tôi biết
làm gì với nó? Số phận của nó không may mắn... Mà chúng tôi cũng không gặp may
trong cuộc sống. Chắc là Thượng đế muốn vậy... Còn con Kesyrt, từ lâu nó đã muốn
sống theo ý mình. Nếu không có nó, ai sẽ chu cấp cho tôi? Còn cái cối xay, ít
người đến xay lắm... Mà nó biết làm gì ở đây?... Cứ để nó sống theo cách của
mình. Chứ như tôi, rồi cũng chết cô độc ở đây thôi.
- Thôi,
thôi, đứng rên rỉ nữa, - ông Baki-Haji cắt ngang bằng một giọng bình tĩnh hơn,
thậm chí như có lỗi.
- Suốt đời,
tôi sống một mình trong cái chốn thâm sơn cùng cốc này. Một đêm đông ở đây dài
thế nào, ông có biết không. - Bà Haza vừa rót trà Kalmyk vào trong tách vừa
nói, vẻ cương quyết hơn.
- Nhưng ít
ra bà cũng phải biết nó đang làm gì chứ? - Ông già lại ngắt lời một lần nữa.
- Tôi biết.
Nó không làm điều gì xấu xa cả... Nó chỉ buôn bán thôi... Cuộc sống đâu có dễ
dàng gì... Nó bảo, trước mùa đông này, chúng tôi sẽ đi khỏi đây, hoặc là vào
thành phố Grozny hoặc là vào Gudermes. Nó bảo, thành phố lớn lắm, có nhiều việc
làm. Điều quan trọng là chẳng ai tra hỏi, anh là ai, dân tộc nào.
Ông già định
húp một ngụm trà nhưng nóng quá, bỏng lưỡi.
- Bà làm
sao thế, điên rồi à? - Ông già lại nổi cáu. - Bà là con mụ già ngốc nghếch, con
Kesyrt của bà cũng ngốc nốt. Bà định đi đâu cơ chứ? Ai cho phép đến đấy?
Bà Haza
nhìn thẳng vào mặt ông linh mục, nheo nheo cặp mắt đã bạc phếch và mờ đục rồi mỉm
cười hiền hậu, để lộ ra cái miệng đã rụng hết răng, khiến ông linh mục rất bất
ngờ.
- Ông có
thể nói với tôi như vậy, và tôi không dám kêu ca, nhưng nếu ông nói với con
Kesyrt như thế, tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Nhờ Thượng đế mà trong chuyện
này, con bé không giống tôi. Con gái tôi giỏi lắm!
Trong sân,
đàn chó sủa rân ran, nghe thấy tiếng vó ngựa. Hai người già ngạc nhiên, im lặng
lắng nghe. Bà Haza chạy ra ngoài.
- Chào bà!
Con gái bà có nhà không? - Ông Baki-Haji nghe thấy giọng nói của em trai.
Lát sau,
ông Kosum, vẫn còn thở hổn hển, khuôn mặt đỏ bừng vì gió lạnh, hàm râu dính những
giọt hơi nước nhỏ li ti, cúi thấp người bước qua ngưỡng cửa vào nhà.
Từ nhỏ, sống
dưới sự bảo trợ đáng tin cậy và hào phóng của các anh trai, nên ông Kosum chẳng
phải lo nghĩ điều gì. Ông sống một cách thoải mái theo ý mình vì ông biết, có
người lo cho ông, làm cho ông và quyết định thay ông. Thậm chí, sau cái chết của
Aldum, ông cũng không thay đổi gì: vẫn thường xuyên vui chơi, tiêu xài hoang
phí, giấu gia đình nhậu nhẹt, chơi bời.
- Ồ, hay
quá, - ông Kosum vui vẻ thốt lên, rồi chẳng cần khách khí, ngồi ngay xuống phản,
sát chỗ đồ ăn, đưa cả hai bàn tay bẩn thỉu còn vương mùi mồ hôi ngựa bốc bánh
nướng.
- Ít ra
thì chú cũng phải rửa tay đi chứ, - không có vẻ gì nghiêm khắc, ông Baki-Haji vừa
nói vừa đẩy khay bánh nướng lại gần ông em.
Mái tóc
ông Kosum điểm bạc từ lâu, con cái cũng đã trưởng thành, nhưng ông vẫn chỉ là cậu
em trai được nuông chiều như ngày xưa. Nhiều lần, ông Baki-Haji và cả ông anh
quá cố Aldum đã phải mắng mỏ ông Kosum, xấu hổ vì ông, thậm chí cho cả bạt tai,
nhưng bao giờ cũng với tình yêu thương và lòng thương hại đối với cậu em út được
cả nhà, nhất là cha mẹ yêu quý, nuông chiều.
Không để ý
đến những lời cằn nhằn của ông anh trai, ông Kosum vẫn nhai ngấu nghiến.
- Tôi lấy
trà cho ông bây giờ hay lát nữa? - Bà Haza khẽ hỏi.
- Bây giờ
và cả lát nữa, - ông Kosum vẫn chăm chú vào việc ăn uống, miệng đầy thức ăn.
- Ăn đủ rồi
đấy. - Ông linh mục không chịu đựng nổi. - Đi thôi!
Lau đôi
tay dính mỡ vào đôi ủng, cám ơn bà Haza vì lòng hiếu khách, ông Baki-Haji bước
ra ngoài sân. Ông Kosum bất đắc dĩ phải bước theo, miệng còn nhai nhóp nhép, cố
lấy thêm miếng bánh nướng nữa.
Khi đã đi
cách nhà một đoạn, cả hai dừng lại. Ông linh mục nặng nhọc dựa vào cây gậy chống.
- Kể đi. Ở
đấy thế nào? - Ông linh mục nôn nóng hỏi.
- Mọi việc
đâu vào đấy. Không động tĩnh gì.
- “Không động
tĩnh” à, - ông anh trai nhại lại. - Thế ai bắn?
- Tôi bắn
đấy, - ông Kosum hào hứng đáp. - Hắn định chống cự, có vũ khí mà, nhưng tôi đã
nhanh tay hơn... Bắt buộc phải vậy.
- Thôi được
rồi. Thế hắn ở đâu?
- Ở đó,
bên đường.
- Đêm nay,
phải đưa xác hắn về chôn ở đây, ở đây, cậu hiểu chứ? - Ông Baki-Haji đập đập
cây gậy chống xuống đất.
- Anh nói
gì thế, phải tha cái đồ súc sinh ấy đến tận đây cơ à... Không có việc gì làm nữa
hay sao. Chúng tôi đã chôn hắn ở đấy rồi. - Ông Kosum phản đối.
- Đừng có
làm ồn lên... hắn là người Hồi giáo Chechnya, tôi phải làm lễ cầu siêu cho hắn.
- Hồi giáo
cái gì, hắn là kẻ vô thần đáng nguyền rủa. - Ông em trai vẫn không chịu. - Làm
sao mang hắn về đây được? Chúng ta còn chưa tìm được chỗ nào.
- Rồi sẽ
phải tìm được, - ông Baki-Haji cắt ngang.
- Rồi anh
sẽ cầu nguyện cho hắn? - Ông Kosum rên rỉ.
- Tôi sẽ cầu
nguyện cho hắn mỗi buổi sáng, đúng bảy ngày. Chẳng lẽ ngày nào tôi cũng phải chạy
vào rừng? Người ta nhìn thấy thì sao?
- Hiểu rồi...
Chôn ngay ở đây?
- Phải.
Ngay dưới gốc cây này.
- Thế nếu
bà Haza... - ông Kosum định nói tiếp.
- Bà Haza
sẽ không hé răng, chỉ cần các chú không ba hoa là được.
Ngay trong
đêm ấy, những người đàn ông trong dòng họ Arachaev lại tụ tập ở nhà ông
Baki-Haji. Về cái chết của ông chủ tịch Ủy ban cách mạng, không ai nói một lời,
mọi người chỉ bàn tán về những hành động kỳ lạ của lão Haron.
Về vụ việc
xảy ra ban sáng, chỉ có ba người trong số họ tham gia trực tiếp và chứng kiến.
Ngày hôm đó bà Haza không vào làng, còn ông Baki-Haji và Haron, mặc dù biết về
vụ việc nhưng không ai nói gì. Nhưng đến chiều tối thì cả làng bắt đầu bán tán
xôn xao về chuyện đó, thêm mắm thêm muối đủ điều.
Những người
trẻ tuổi có cái đầu nóng của dòng họ Arachaev không muốn gác lại công việc đến
ngày mai, họ muốn xử lý ngay kẻ đồng hương trơ tráo. Tuy nhiên, ông linh mục đã
phải khó khăn lắm mới thuyết phục được họ không manh động mà phải im lặng chờ
thời.
- Chưa đến
lúc đâu, - ông linh mục bực bội nói. - Không phải chính quyền đó... Các anh không
biết gì cả... Hãy làm như tôi nói... Kosum, chú đã làm xong việc tôi dặn
chưa?... Cho đến sáng mai, tất cả mọi việc phải được chuẩn bi đâu vào đấy cho đợt
gieo hạt. Mùa xuân đã đến sát rồi. Khi chú Aldum còn sống, tôi chẳng bao giờ phải
nhắc về chuyện này, còn bây giờ, mọi việc đã khác... Trên bình nguyên, đang xảy
ra nạn đói. Nếu chỉ lo đấu võ mồm sẽ chẳng giải quyết được cái gì. Điều quan trọng
là chờ thời cơ và làm việc... thế thôi. Ngày mai, tất cả mọi người phải ra đồng...
Kosum, cả chú nữa đấy.
Việc ra đồng
vào ngày hôm sau hóa ra không thành. Các sự kiện diễn biến hết sức bất ngờ. Khi
trời còn chưa sáng, bà mẹ của vị chủ tịch Ủy ban Solsaev Badrudi đã điên cuồng
lao vào sân nhà ông Baki-Haji. Người đàn bà để đầu trần, giận dữ la hét, cặp mắt
như hóa dại, bọt mép sùi ra cả hai bên miệng, khua lên trời con dao găm to tướng,
tuôn ra những lời nguyền rủa khủng khiếp đối với dòng họ Arachaev, với tất cả
dân làng Duts-Khote và với tất cả dân miền núi Chechnya.
Những con
chó giữ nhà ông linh mục, vóc dáng to tướng, lông lá bù xù lao vào người đàn
bà, sủa inh ỏi, xé rách chiếc áo váy của bà ra, cắn vào chân, vào tay. Trong nỗi
tuyệt vọng điên cuồng, người mẹ của kẻ bị giết không còn biết gì nữa, giận dữ
khua con dao găm lên. Những con chó cũng rít lên, chồm tới chồm lui, lao vào
người bà, cắn vào chân. Không biết mọi việc sẽ kết thúc ra sao nếu như tất cả
các thành viên trong gia đình Arachaev không đổ hết ra ngoài đường, trên người
chỉ mặc bộ đồ lót.
Khi trời
sáng hẳn thì cả làng sôi lên như cái tổ ong vỡ. Thậm chí dân làng DutsKhote
cũng không kịp đưa bò sữa và cừu ra bãi chăn thả nữa.
Đến gần
trưa thì có hai chiếc xe ngựa chở công an từ huyện lỵ Shali tới. Họ lùng sục khắp
các nhà, tra hỏi từng người. Chỉ huy cao nhất trong số họ là một người Nga, lúi
húi ghi chép gì đó, ra những mệnh lệnh ngắn gọn. Đến chiều thì họ lặng lẽ ra
đi, mang theo người đàn bà gần như phát điên lên cùng với số đồ đạc ít ỏi của
bà.
Mọi người
đều hiểu, không chỉ một món nợ máu mà cả ngôi sao cùng với búa liềm của chính
quyền Xô viết đang treo lơ lửng trên đầu những người trong dòng họ Arachaev.
Láng giềng bắt đầu né tránh, sợ phải giao tiếp, trẻ con không được đến sân nhà
họ chơi đùa. Chỉ sau một ngày, một dòng họ hùng mạnh nhất trong làng bỗng trở
nên suy yếu, bị xa lánh và bị dò xét gắt gao nhất.
Cũng trong
buổi sáng hôm ấy, khi vụ lộn xộn trong sân nhà Arachaev đang diễn ra căng thẳng,
thì ông Baki-Haji, không nói với ai một lời nào, băng qua màn sương sớm dày đặc,
đi tắt qua các khu vườn nhà người khác như lũ trẻ con tinh nghịch vẫn thường
leo qua hàng rào, ra đến rìa làng. Ông chiếu thẳng hướng ra cối xay nước, đến
chỗ dự kiến xác ông chủ tịch ủy ban phải được chôn lại.
Ông già dự
đoán không sai: mọi việc chỉ được thực hiện một cách qua quýt, mặt đất còn nham
nhở, những cục đất đen trên bề mặt lẫn lung tung với lớp đất bùn bên dưới.
“Đúng là một
lũ ngốc. Không thể tin cậy giao phó cho chúng việc gì được”, - ông già thầm rủa.
Ông liền gọi
bà Haza đến giúp. Cả hai cùng cố gắng xóa hết mọi dấu vết nguy hiểm. Sau đó, mồ
hôi đầm đìa, cả người mệt lử, ánh mắt trĩu nặng, ông vục hai cánh tay mỏi nhừ
xuống dòng nước lạnh ngắt, phả lên mặt, lên đầu.
Bị dằn vặt
bởi những mâu thuẫn nội tâm, cuối cùng ông Baki-Haji quyết định theo cách của
linh mục, của người Hồi giáo chính thống cần phải thực hiện nghĩa vụ của mình,
bất chấp kẻ quá cố kia là một trong số những kẻ có lỗi về cái chết của em trai
ông.
“Khi còn sống,
hắn là kẻ nợ máu, còn bây giờ tất cả đều nằm trong tay Thượng đế”, - ông linh mục
khẳng định dứt khoát và thầm nghĩ: “Mặc dù, thật lòng mà nói, việc gọi hắn là kẻ
nợ máu chỉ mang ý nghĩa tượng trưng thôi... Nhưng dù sao thì chúng ta cũng đã
trả thù cho em trai!”
Màn sương
tan dần lúc nào không hay, mặt trời mùa xuân rụt rè ló dạng. Trong hẻm núi lũ
chim hân hoan ca ngợi tình yêu. Trên các sườn núi nắng vàng rực rỡ, một con đại
bàng cô đơn sải cánh chao lượn. Trên phía thượng nguồn dòng nước, hàng đàn hươu
cái Kavkaz xúm lại uống nước buổi sáng. Một con hươu đực vóc dáng to lớn, hùng
dũng, kiêu hãnh đứng một bên: cái đầu to lớn của nó với hai nhánh sừng mới mọc
dài thêm ra trong mùa xuân lắc qua lắc lại, đề phòng mọi sự nguy hiểm. Hai lần,
con nai đực lạnh lùng đưa mắt về phía ông linh mục. Lũ hươu cái bình thản, chậm
rãi uống từng ngụm nhỏ để xoa dịu cơn khát rồi quay người lại, lặng lẽ khuất dần
sau những bụi cây phỉ tử rậm rạp, khoe cho ông già thấy những chiếc đuôi trắng
như tuyết.
Mượn chiếc
ghế đẩu bằng gỗ ở nhà bà Haza, ông Baki-Haji mệt mỏi làm cái lễ cầu nguyện đáng
buồn.
- Ông
Baki, - bà Haza gọi với theo. - Tôi vừa hái ít anh đào tươi, ông muốn tôi sấy
khô cho ông hay nấu mứt dẻo?
- Tôi
không cần gì cả. - Ông linh mục phẩy tay.
Đến nơi,
ông đi vòng quanh khá lâu, lắc đầu. “Ôi, một lũ ngu! Không thể giao việc gì
quan trọng cho Kosum được. Nó chôn người ta không theo hướng đông-tây như tục lệ,
mà là hướng bắc-nam... Đúng là một lũ dở hơi!”
Ông còn
càm ràm mấy câu nữa rồi ngồi xuống, lấy từ trong người ra cuốn kinh Koran nhỏ,
và không cần nhìn, ông đọc thuộc lòng đoạn kinh cầu nguyện. Cặp mắt ông đờ đẫn
nhìn vào khoảng không vô định nào đó, còn những ý nghĩ về chuyện đời thì nặng nề...
Mùi hành tỏi
xào nấu bay đến đập ngay vào mũi, nước bọt ứa ra trong miệng.
“Tại sao
mình lại cầu nguyện cho một người Bolsevich vô thần nhỉ? - Ông Baki-Haji thầm
nghĩ. - Đúng là đồ chết tiệt. Chỗ nào mỏng thì chỗ ấy dễ rách”.
Lát sau,
ông lão lại ngồi trên tấm phản trong nhà bà Haza, chờ bà dọn ăn. Bà Haza đang
loay hoay gì đó với cái giá lọc hành tỏi, rồi đổ vào cái chảo nóng, hào phóng
rót thêm khá nhiều bơ lỏng nữa.
- Trong
làng có chuyện gì thế? - Bà Haza dè dặt hỏi, đặt lên tấm khăn trải bàn trước mặt
ông linh mục một bát hành tươi và một chiếc bánh ngô dẹt vàng rực vẫn còn bốc
hơi thơm lừng.
- Không phải
chuyện của bà. - Ông lão lạnh lùng cắt ngang.
Ông
Baki-Haji lặng lẽ chậm rãi ăn, sau đó, như không chịu nổi, ông hỏi:
- Bà Haza,
từ đâu mà bà biết tất cả những chuyện đó? Có phải lũ quỷ mang tin đồn đến cho
bà không?
Bà Haza tự
ái độp lại.
- Chính
các ông mới là một lũ quỷ sứ, - bà già lầm bầm trong cái miệng không răng, ngừng
một lát, bà nói thêm, giọng đã dịu lại: - Buổi sáng tôi lùa bò ra đồng, gặp các
mụ đàn bà.
- Thế là
rõ. Vậy là các mụ đàn bà ở chỗ ta đã biết cả, - ông linh mục xuề xòa nói. Hy vọng
bà không ba hoa gì chứ?
- Tôi chẳng
có gì để ba hoa. Trong cái hang này thì có tin tức gì cơ chứ... Ông sẽ uống trà
ướp hoa hay rượu ngâm quả lê dại.
- Cho tôi
rượu ngâm đi, - ông Baki-Haji nói, thức ăn vẫn còn trong miệng.
Bà Haza
vào góc nhà, chỗ nhốt con bê vào mùa đông, lấy từ trong cái thùng gỗ sồi to ra
một cái thùng gỗ nhỏ đựng một thứ nước đùng đục màu xanh nhạt. Mùi men rượu
chua chua hòa với mùi hành tỏi thơm nức.
- Kesyrt
không về à? - Ông linh mục hỏi, đón từ tay bà Haza cái thùng gỗ nhỏ ẩm ướt, sạm
đen vì thời gian.
- Không, -
bà Haza khẽ nói. - Mười một ngày rồi, nó không về... Tôi lo quá. Có thể ngày
mai tôi sẽ đi tìm nó.
- Bà đi thế
nào? - Ông Baki-Haji cười mỉa, lát sau, ông tiếp, giọng nghiêm túc. - Thôi được
rồi, bà đừng lo. Nếu ngày mai nó không về, tôi sẽ cho người đi tìm.
Đến trưa,
sau khi trở về làng, ông Baki-Haji cử người đưa tin đến gặp các vị bô lão và
các linh mục ở các làng bên cạnh: ông đề nghị tất cả có mặt trong buổi lễ cầu
nguyện chiều để thảo luận về tình hình vừa diễn ra và xin hỗ trợ về mặt tinh thần.
Sau đó, ông ra lệnh cho bà vợ không được làm ồn, rồi lui vào phòng mình, ngủ một
giấc dài.
Trước khi
mặt trời lặn, ông bước ra sân, khuôn mặt lờ đờ, đầy các vết nhăn vì ngủ nhiều.
Ông nhìn mãi lên bầu trời chiều màu thanh thiên, phủ một lớp sương mỏng và vầng
mặt trời đỏ rực đang khuất dần sau dãy núi xa tít. Đột nhiên khuôn mặt ông bỗng
sáng lên, miệng hé ra thành một nụ cười, ông vui vẻ thì thầm như nói với chính
mình:
- Chim én
bay về rồi! Mùa xuân đến rồi!
Quên bẵng
buổi kinh cầu nguyện chiều, ông Baki-Haji chạy vào nhà kho: ở đấy, từ mùa thu
năm ngoái vẫn còn lăn lóc mấy chiếc thùng ong.
Từ nhỏ ông
Baki-Haji có hai niềm đam mê: chó và ngựa. Sau khi trở thành linh mục, ông
không được phép nuôi chó, rồi cùng với tuổi tác, lũ ngựa không còn nghe ông nữa,
cưỡi những con nghẽo già ông không muốn, mà cưỡi những chú ngựa non nhanh nhẹn
thì ông không thể điều khiển nổi, hơn nữa phóng nhanh quá cũng chóng mặt. Năm
năm trước, ông Baki-Haji đến Kabarda chơi và mang về mấy thùng ong - món quà của
một ông bạn người Adygea. Từ dạo ấy đến nay, ông Baki-Haji rất thích cái công
việc yên tĩnh và thanh bình này...
Trời sẩm tối,
nhưng ông linh mục vẫn còn lẩm nhẩm hát và loay hoay với những thùng ong: ông
mang ra đường, xếp thành hàng, ngắm nhìn bốn phía. Kosum, Basnak và những người
họ hàng gần, không hiểu được công việc thường nhật của ông già, có vẻ khó chịu,
lo lắng luẩn quẩn bên cạnh, quấy rầy ông. Cuối cùng, ông Baki-Haji chăm chú
nhìn mọi người rồi bình thản nói:
- Hãy nghe
cho kĩ lời tôi nói đây. Không được thổi bùng ngọn lửa lên nữa. Cần phải sống, sống
như ta đã từng sống, chỉ có bằng cách đó chúng ta mới tìm được lối thoát. Sáng
mai, khi mặt trời lên, tất cả phải ra đồng, phải cày ải. Mùa xuân sắp trôi qua,
vậy mà chúng ta vẫn còn chưa gieo hạt. Giá còn Aldum, tôi sẽ không phải lo lắng
đến thế, còn bây giờ, tất cả đang đè lên vai tôi... Tất cả mọi người hiểu hết rồi
chứ? Tất cả! Cầu mong đêm nay sẽ là một đêm an lành!
Cho đến
sáng, ông linh mục cứ bị những cơn mê hành hạ mãi: ông mơ thấy, lúc thì chủ tịch
ủy ban, điếu thuốc cắm trên môi, nhìn ông cười ngạo mạn, lúc thì bà mẹ của anh
ta, điên cuồng lồng lộn trong sân. Có đến mười lần ông Baki-Haji phải dậy bước
ra sân, đứng nhìn mãi lên bầu trời đầy sao, cao thăm thẳm, lắng nghe sự tĩnh lặng
của đêm - ông có cảm giác, tất cả những điều đó chỉ là một sự giả tạo, và sẽ
không có sự an bình. Gần sáng, bầu trời bị những đám mây đen che phủ, từ trên đỉnh
núi tuyết phủ trắng xóa, một làn hơi lạnh tràn xuống, đâu đó rất xa, vọng lại
tiếng chó sói tru.
Sau khi đọc
xong bản kinh cầu nguyện sáng, ông linh mục mệt mỏi đi nằm và chìm vào giấc ngủ
vô thức của những người già. Khi ông tỉnh dậy, xung quanh vắng lặng như tờ. Ở
phòng ngoài, cô con gái giữa Bazali góa chồng đang rửa bát đĩa.
- Mọi người
đâu cả rồi? - Người cha vừa ngáp vừa hỏi.
- Ra đồng
hết rồi ạ. Cha uống trà không?
- Không,
cha không muốn.
- Tất
nhiên là không muốn rồi, - cô con gái làu bàu vẻ không hài lòng, - có thể cha lại
đến ăn sáng với bà phù thủy. Rồi sẽ có lúc bà ấy cho cha ăn thuốc độc, khi ấy sẽ
biết.
- Thôi, đừng
lải nhải nữa, - ông già lên giọng, nhưng không chút bực bội, - chỉ nói bậy, y
như mẹ mày... Cứ để bà ấy nuôi tao, biết đâu tao sẽ trẻ ra.
Ngoài đường
gió thổi nhẹ, tiết trời ảm đảm, ẩm ướt. Lũ chó, vừa nhìn thấy ông chủ liền quấn
lấy, âu yếm liếm liếm chân. Ông Baki-Haji lại loay hoay với mấy thùng ong và
nhìn lên trời: ông không dám mở các thùng ong ra - phải chờ đến ngày nắng ráo.
Không nói gì với con gái, ông lại đến chỗ cối xay nước, ngồi vào chỗ cũ và bắt
đầu cầu nguyện Thượng đế, chúc phúc cho cậu chủ tịch ủy ban đã quá cố. Lần này
ông cầu nguyện một cách chân thành, với tất cả ý thức trách nhiệm, không còn động
lòng trắc ẩn nữa.
- Ông
Baki, ông Baki! - Đột nhiên ông nghe thấy giọng nói khàn khàn của bà Haza. -
Ông Baki, chạy đi, chạy đi!
Ông
Baki-Haji vẫn ngồi yên, rời mắt khỏi cuốn kinh Koran và nhìn thấy bà Haza đang
chạy tới, chiếc khăn trùm tuột khỏi đầu, mái tóc dày bạc phếch xõa trên mặt và
trên đôi vai gầy.
- Bà hét
cái gì thế? Chuyện gì vậy? - Ông linh mục lầu bầu.
- Họ đang
tới... đông lắm, - bà Haza vừa thở vừa đáp.
- Ai tới?
- Ông già hỏi lại, giọng có vẻ lo sợ.
- Tôi
không biết, tôi không phân biệt được... nhưng nhiều lắm, chắc chắn không mang lại
điều gì tốt lành đâu... Khoảng hai mươi kỵ sĩ, có cả xe ngựa nữa.
- Thôi, bà
đừng nói nữa, - ông Baki-Haji ngắt lời bà Haza. - Bà đi ngay đi. Không được làm
gì cả, chỉ im lặng quan sát xung quanh thôi.
- Tôi chạy
vào làng.
- Không chạy
đi đâu hết. Ở lại đây, chỉ cần tránh ra một bên.
Ông già vội
vàng đứng lên, định chạy đi, nhưng chỉ giây sau, ông phẩy tay, nhổ toẹt một
bãi, rồi lại ngồi xuống chiếc ghế nhỏ, chỉ khác, bây giờ ông quay lưng về phía
những người đang đến. Sau này, nhớ lại chuyện đó, ông hiểu ra rằng, ông đã phạm
một sai lầm không thể tha thứ: đối với kẻ thù, và nói chung, đối với mọi nỗi hiểm
nguy, cần phải đối mặt trực tiếp.
Tiếng vó
ngựa dồn dập, hung hãn, tiếng cành cây gãy răng rắc, mấy con chim ác là màu
đen-trắng giật mình bay lên, đập cánh ầm ĩ, bay đi các hướng. Một con giun đất
to tướng chậm chạp bò trên mặt đất còn mới, ngay dưới chân ông linh mục.
Một nỗi lo
sợ kinh hoàng choán ngợp tâm trí ông Baki-Haji: chân tay ông bất chợt run lên,
những quầng sáng cầu vồng như hiện lên, chập chờn trước mắt.
Các kỵ sĩ
dừng ngựa ngay sau lưng ông. Ai đó phi nhanh quá, nghe tiếng hàm thiếc rít lên.
Mùi mồ hôi ngựa nồng nặc.
- Ông linh
mục Arachaev Baki-Haji? - Một giọng cứng rắn, đầy uy quyền bằng tiếng Nga vang
sau lưng. - Yêu cầu ông đứng lên.
Ông già vẫn
ngồi yên, thậm chí nếu có muốn đứng dậy ông cũng không thể, cả nguời ông như bị
tê liệt.
Một người
náo đó nhanh nhẹn nhảy xuống, bước lại từ phía sau lưng, huých đầu gối vào cái
lưng còng của ông một cái rất đau. Ông lão ngã về phía trước, hai tay xoãi ra,
đập mặt vào cuốn kinh Koran vừa rơi xuống. Ông chậm chạp đứng lên, lau chùi đất
cát dính trên cuốn kinh. Cuối cùng, sau khi bỏ cuốn kinh nhỏ sờn rách vào trong
áo, ông đứng thẳng dậy, hít một hơi dài, liếc nhìn mọi người. Tất cả khoảng hai
chục, đúng như bà Haza nói, người Nga và chủ yếu là người Chechnya, một số đi
ngựa, số đi bộ cũng đã tới, đứng vây quanh ông.
Ông già nhận
ra ngay hai người trong số họ: Salman Tutushev, một người cùng thôn là con trai
lão Haron Tutushev và trưởng công an huyện Shali Damsi Shitaev, một con người
có quá khứ trộm cướp mà không chỉ một lần ông Baki-Haji đã phải can thiệp để
bào chữa cho những hành vi tàn bạo của anh ta.
Bắt gặp
ánh mắt của ông linh mục, Damsi lúng túng cụp mắt xuống, còn Salman thì ngược lại,
nhìn ông xấc xược, khiêu khích theo kiểu bồng bột của tuổi trẻ.
- Đất ở
đây mới được đào lên, - với một sự hăng hái và tận tụy quá mức, con trai lão
Haron kêu to bằng một thứ tiếng Nga trọ trẹ, lấy cán roi ngựa chọc chọc vào chỗ
đất mềm.
- Thấy rồi,
thấy rồi. Thậm chí còn chưa kịp xóa dấu vết nữa, - người Nga có cấp bậc cao nhất
càu nhàu. - Mang xẻng lại đây, đào đi, nhanh lên.
Hai người
vội chạy vào sân nhà bà Haza lấy xẻng. Một sự im lặng bao trùm. Mọi người đều tỏ
ra vội vàng, tranh thủ hút thuốc, ngựa được dắt sang một bên.
- Khá lắm,
Salman Tutushev! - Trưởng đoàn công tác nói to bằng một giọng trầm, - Đúng là một
công an bẩm sinh! Phát hiện ra tội ác ngay từ dấu vết còn mới tinh... Tôi nghĩ,
cậu ấy xứng đáng được giao phụ trách Ủy ban cách mạng địa phương.
Không giấu
nổi sự sung sướng, khuôn mặt trẻ trung của Salman đỏ bừng lên, cặp mắt ươn ướt
cung cúc theo sát từng cử động của người chỉ huy, đôi môi dày giống y hệt cha,
phồng ra mãn nguyện.
Lát sau, mọi
dụng cụ cần thiết lấy từ cối xay nước được mang tới, thậm chí có cả cuốc, nạng
gảy rơm và cào cỏ nữa. Người chỉ huy ngạo mạn vung tay ra lệnh, mọi người lao
vào đào. Lớp đất trên cùng mềm xốp, rất dễ đào, tiếp đến là lớp đất thịt, chặt.
- Chỗ này
chưa đào, - một người đang đào, thốt lên.
- Chưa đào
là thế nào? Anh nói gì thế? - Salman vặc lại.
Anh ta lấy
hết sức ấn mạnh vào chiếc xẻng của mình, cán xẻng gãy làm đôi, phát ra một tiếng
khô khốc.
Cho đến
lúc ấy, ông Baki-Haji vẫn đứng như trời trồng, từ từ ngẩng đầu lên, đổi chân
này sang chân kia, khóe miệng thoáng một nụ cười yếu ớt. Ông chợt hiểu ra, cậu
em trai vốn nông nổi từ nhỏ đã cứu mạng ông.
Sau khi
đào thêm một lớp đất màu vàng, dính chặt với lớp đất thịt, mọi người đều hiểu,
có đào nữa ở đây cũng vô ích.
- Anh
Shitaev, - người chỉ huy quay về phía Damsi Shitaev. - Anh hãy hỏi ông già kia
làm gì ở đây với cuốn kinh Koran?
Damsi dịch
lại, mặc dù không cần dịch ông Baki-Haji vẫn hiểu tất cả. Không ngước mắt lên,
ông linh mục đáp bằng tiếng Chechnya.
- Ông ấy bảo,
đây là tục lệ cổ xưa: mỗi khi mùa xuân đến, trước vụ cày ải, cần phải đào một
miếng đất hoang lên để cầu nguyện Thượng đế cho mùa màng bội thu.
- Hừ, -
người chỉ huy nhăn mặt, lấy thuốc ra hút, - ông bảo, đó là tục lệ Hồi giáo à?
- Không, -
Damsi dịch lại, - ông ấy bảo, đó là tục lệ đa thần giáo, chẳng qua là thời gian
gần đây, phải có cả kinh Koran cho chắc ăn.
Không nói
thêm gì nữa, các kỵ sĩ bỏ hết mọi thứ lại rồi phóng đi.
Bà Haza nhảy
từ trong bụi ra, rên rỉ:
- Thượng đế
đã cứu ông! Ôi, Thượng đế! Ông hãy cầu nguyện Thượng đế đi! - Bà già quỳ thụp
xuống trước mặt ông lão, lầm rầm.
Một lát
sau, ông Kosum và Basnak cưỡi hai con ngựa đầm đìa mồ hôi, chẳng có yên, phóng
tới, tiếp ngay sau là Tsanka. Mọi người vặn vẹo chuyện gì đã xảy ra chẳng có
chuyện gì hết.
Tin lành đồn
xa, tin dữ đồn xa, mọi người trong dòng họ Arachaev bỏ hết công việc đồng áng,
quay về làng.
Trong số
mười hai người được ông Baki-Haji mời đến vào tối hôm trước để bàn bạc công việc,
chỉ có một người có mặt - đó là ông già gàn dở Bovka từ làng Elistanzhi. Giờ
đây, sau những gì vừa xảy ra, sự có mặt của ông ta lại càng thêm khó xử. Ông
già đề xuất toàn những chuyện không tưởng, kể cả việc công bố cuộc chiến tranh
thần thánh đối với toàn thể dân chúng để chống lại những kẻ phản trắc. Cuối
cùng, khi chỉ còn lại hai người với nhau, ông ta mới tiết lộ, có một người dân
tộc Armenia từ Paris đến, và chuyển lời của Tapa Tsermoev, rằng chẳng bao lâu nữa
họ sẽ nhận được sự cứu viện từ châu Âu, và những người Bolsevich cùng với tất cả
những người ủng hộ họ sẽ bị tiêu diệt.
- Ông đã lần
nào nhìn thấy Tsermoev chưa? - Ông linh mục cắt ngang, hỏi.
- Chưa.
- Vậy tại
sao, cái ông Tsermoev ấy, ở mãi tận Paris lại nhớ đến ông? - Ông Baki-Haji vặn
lại.
- Làm sao
tôi biết được... Có thể, ở đấy người ta biết tôi. - Ông Bovka đáp, cũng không
kém phần ngạc nhiên.
- Chỉ có
những con chó điên ở làng ông là biết ông thôi, còn Tsermoev chẳng hơi đâu mà bận
tâm đến ông và đến tất cả chúng ta. Ông hiểu chưa? Đó là sự khiêu khích, còn
ông là thằng ngốc.
Chiều tối,
một cuộc họp diễn ra trong phòng khách nhà ông Baki-Haji. Không khí sôi động
chưa từng có: đám thanh niên cương quyết đòi tuyên bố sự thù địch công khai đối
với những kẻ hèn hạ trong gia đình Haron Tutushev, chỉ có một mình ông linh mục
là cố tìm mọi cách giải thích để làm dịu lòng hăng hái của họ lại. Cuộc tranh
cãi với đám thanh niên làm ông linh mục nổi khùng lên. Cuối cùng, không chịu được
nữa, ông bực tức hét lên bằng một giọng chói tai:
- Tất cả
im đi, lũ gàn dở!
Mọi người
hiểu ngay, chỉ cần thêm một lời nữa, ông lão sẽ bị đột quỵ.
Đám đàn bà
lo âu đứng sau cánh cửa nghe lỏm, liền đẩy bà Hadizhat - vợ ông ông Baki-Haji
vào phòng khách. Bà Hadizhat là người cao tuổi nhất, cùng với vị thế và tính
cách của mình, có khả năng tham gia vào các cuộc tranh luận của đàn ông.
- Bình
tĩnh lại đi, bình tĩnh lại đi, ông ơi! Làm gì mà hét toáng lên khắp làng thế! Mọi
người xung quanh đang ngồi chờ xem chúng ta có làm điều gì sơ suất hay không.
Còn các anh, giỏi thật đấy! Dám cãi lại người già! Ở đâu ra cái kiểu ấy thế? Sự
thù địch không bao giờ mang lại điều gì tốt đẹp... Dù ông lão nhà tôi có điên
đi nữa thì trong trường hợp này ông ấy vẫn đúng.
- Thôi được
rồi, được rồi, bà ra đi, bà khôn ngoan lắm, mụ yêu tinh ạ, - ông Baki-Haji nói
bằng một giọng đã bình tĩnh hơn, nhẹ nhàng lấy cây gậy chống đẩy vào đôi chân
to mập của bà vợ, như kiểu người ta xua con ngỗng cái đầu đàn gàn dở ra khỏi
phòng.
Lo sợ cuộc
tranh cãi của hai ông bà già có thể sẽ biến thành cuộc cãi vã tiếp theo về các
vụ phiêu lưu tình ái của của ông Baki-Haji thời trai trẻ, nên tất cả đám thanh
niên đều cảm thấy xấu hổ, im lặng cúi đầu xuống, khoái trá mỉm cười vì biết trước
kết quả của cuộc tranh cãi.
Tạo hóa đã
khéo sắp đặt sự đối đầu trong mối quan hệ giữa hai người: bà vợ ông Baki-Haji
cao hơn ông hẳn một cái đầu. Không ai biết và cũng không ai có thể hiểu tại sao
bà lại đồng ý lấy một người đàn ông nhỏ thó như thế. Càng có tuổi, ông linh mục
lại càng quắt queo, lưng còng xuống. Còn bà vợ thì ngược lại, sau khi đẻ xong đứa
con gái thứ ba thì phát phì ra, phát triển theo chiều ngang, ở bà, tất cả mọi
thứ đều to, mập, thậm chí đôi tai cũng vểnh ra, bóng nhẫy.
Thời còn
trẻ, ông Baki, khi đó chưa được gọi là Haji, là một tay chơi cũng khá bạt mạng:
ông đã gây nên bao nỗi đau cho vợ và những người thân. Những cuộc phiêu lưu
tình ái lộ liễu, thường xuyên của ông đượm màu sắc lãng mạn và luôn dẫn đến những
vụ scandal. Sau chuyến hành hương đến thánh địa Mecca, ông linh mục buộc phải
tu tỉnh lại, chỉ còn những tiếng thở dài tiếc nuối và những ánh mắt lộ liễu dõi
theo đàn bà là để lộ ra những ước vọng thầm kín của ông.
Bà
Hadizhat bất lực nén chặt nỗi đau và sự ghen tuông của mình trong im lặng, tận
dụng sự ủng hộ của các cô con gái đã trưởng thành và mọi cơ hội thuận tiện để
chế nhạo ông chồng, hạ thấp uy tín của ông với tư cách là linh mục và là người
trưởng họ đáng kính, phơi bày hết mọi tội lỗi của ông trước bàn dân thiên hạ.
Ông Baki-Haji, dĩ nhiên là rất tức giận, quát tháo ầm ĩ, nhưng không ai biết được
rằng, khi bị nhắc lại những chuyện đó, trong thâm tâm ông lại cảm thấy thích
thú.
Tức giận
thời trai trẻ đã qua của mình còn hơn là tức giận bà vợ bẳn tính, ông Baki-Haji
vẫn khua nắm đấm và cây gậy lên, la hét đến khản tiếng, lao cả người vào tấm
thân to lớn, đồ sộ của bà vợ, và bị cái bụng đàn hồi của vợ đẩy bật ra như một
quả bóng. Trước đó, chưa bao giờ phải dùng đến chân tay, ông nhận ngay ra tính
chất khôi hài của tình huống, và cũng như mọi người có mặt, ông lại cảm thấy
thích thú vì vụ scandal.
Thật ra,
có một ngoại lệ, đó là khoảng hai mươi năm trước, khi lần đầu tiên bà Hadizhat
đưa ông chồng vào danh sách các tình nhân của bà Haza. Lúc đó ông Baki-Haji gần
như phát điên lên, lao vào bà vợ đấm đá túi bụi, và rất có thể, ông sẽ giết chết
bà nếu như Aldum nghe tiếng la hét mà không kịp tới. Cậu em trai dùng đôi tay
to khỏe kéo ông linh mục bế ra sân. Mọi người có mặt đều chứng kiến sự tức giận
điên cuồng trong cặp mắt đỏ ngầu, đôi môi mím chặt sùi cả bọt mép của người anh
cả trong dòng họ Arachaev. Rất lâu sau vụ đó, tên bà Haza và cô con gái Kesyrt
không bao giờ được nhắc tới khi có mặt ông Baki-Haji.
Thông thường,
trong những vụ tranh cãi như thế này, không chỉ họ hàng mà cả hàng xóm cũng tò
mò đến xem. Kết thúc các vụ scandal, bà Hadizhat thường đánh mất sự tự chủ, vừa
lấy chổi quét tung mọi rác rưởi ra khỏi nhà, vừa càm ràm những câu vô nghĩa,
còn ông Baki-Haji thì ngược lại, vừa giả vờ bực tức, vừa nháy mắt với những người
đến xem, vừa nói là đàn bà vẫn còn chết mê chết mệt ông, và ông sẽ còn lấy thêm
không chỉ một vợ nữa, chẳng qua là ông không có thời gian thôi...
Rất đáng
tiếc đối với những người có mặt là lần này không xảy ra scandal. Từ phòng ngoài
người ta báo có anh công an Bekhan Timishev, bạn của Basnak tới. Mọi người
trong phòng khách liền biến ngay, chỉ còn lại hai anh em nhà Arachaev, người em
họ Basnak và anh công an. Trong khi họ còn đang trao đổi với nhau mấy câu xã
giao về sức khỏe, công việc, thì khay trà và mật ong được mang vào. Một sự im lặng
kéo dài. Căn cứ vào vẻ mặt lo lắng của Bekhan, mọi người hiểu anh ta đến đây
không chỉ để chơi.
- Tôi đến
theo lệnh của trưởng công an Damsi Shitaev, - cuối cùng vị khách đành phải phá
vỡ sự im lặng, rồi nhìn vào khay trà, nói nhỏ: - Không được động vào người của
gia đình Tutushev. Nhân đây, xin thông báo, tất cả đàn ông trong gia đình đó đều
biến mất, có lẽ đến chỗ con trai ở thành phố Grozny. Chỉ có điều, trên đường trở
về, Hồng quân đã bắt ông Bovka ở làng Elistanzhi... Có một kẻ khiêu khích người
Armenia đóng giả lái buôn đang lởn vởn ở đây, anh ta là công an mật. Cũng không
được động vào anh ta, không được nói chuyện chính trị, chúng tôi sẽ làm rõ trắng
đen với anh ta. Còn ông Baki-Haji, ông cần phải biến đi một thời gian, tìm chỗ ẩn
náu ở đâu đó.
Sáng sớm
hôm sau, với sự hộ tống của Tsanka và hai con chó săn, ông Baki-Haji rời khỏi
làng. Tsanka vóc dáng cao ngồng, đưa hai nắm tay lên dụi đôi mắt vẫn còn ngái
ngủ, vẻ không hài lòng. Chiếc áo cherkeska được thừa hưởng từ người cha quá cố
vóc dáng cao to như móc lụng thụng trên cơ thể xương xẩu của cậu. Một tay cậu
xách gói thực phẩm nhỏ, tay kia giữ dây đeo khẩu súng trường năm viên.
Theo mỗi
bước chân, khẩu súng nặng như muốn tuột khỏi đôi vai ốm yếu của chàng trai, vì
vậy cậu cứ phải nghiêng nghiêng người để giữ thăng bằng. Mấy con chó tỏ ra vui
mừng vì đánh hơi được một cuộc dạo chơi dài trong rừng, hít hít từng gốc cây,
lúc biến mất sau tán rừng, lúc lại xuất hiện bất ngờ, thở hổn hển, tận tụy nhìn
vào mắt các ông chủ.
Thế giới
như bừng tỉnh sau một đêm yên bình. Sau lưng họ, từ phía làng vọng lại tiếng gà
gáy sáng, tiếng chó sủa đầy lo âu như nhắc nhở những người bộ hành sớm. Đâu đó,
ngay bên cạnh, lũ bồ câu rừng vỗ cánh loạt soạt, chim họa mi cũng cất tiếng hót
líu lo như muốn ganh đua trong các bụi phỉ tử rậm rạp dọc theo nguồn nước.
Bầu trời
sáng dần lên sau rặng núi. Các vì sao biến mất, chỉ còn lại vầng trăng lưỡi liềm
bợt bạt và ngôi sao Mai lấp lánh trên đỉnh núi xa xa. Không khí trong lành, mát
mẻ. Lớp băng giá nhẹ của buổi đêm phủ một lớp mỏng trên vô số các vũng nước.
Con đường rừng bị cày nát bởi những chiếc xe thổ mộ chạy ngoằn ngoèo về hướng
núi, hướng cối xay nước và nguồn nước.
Chẳng mấy
chốc đã nghe tiếng sủa ầm ĩ và khàn khàn của những con chó nhà bà Haza. Mấy con
chó săn của ông Baki-Haji quay đầu nhìn ông chủ, nép sau lưng ông chờ lệnh.
Bỏ dở việc
vắt sữa bò, lau vội đôi tay ướt vào vạt áo cũ, bà Haza từ nhà kho chạy ra. Trên
khuôn mặt thô kệch, nhằng nhịt vết nhăn của bà hiện rõ sự ngạc nhiên.
- Có chuyện
gì thế? - Thay cho lời chào, từ xa bà đã cất tiếng hỏi.
- Không, -
ông lão bình thản phẩy tay, thở nặng nhọc, ngồi phịch xuống chiếc ghế đẩu bằng
gỗ đã sạm đen vì thời gian. - Chỉ muốn đi săn thôi.
- Giờ này
mà săn bắn cái gì... - bà già không tin, lại gần, nhìn vào mắt Tsanka, hỏi: -
Có chuyện gì?
Chàng trai
nhún vai, hất đầu về phía ông lão.
- Bà hoạnh
họe cái gì thế! - Ông lão bực mình. - Chẳng lẽ tôi không được vào rừng của mình
hay sao?
- Thôi được
rồi, ông bình tĩnh lại đi. Ông uống trà chứ?
- Không.
Rất lâu
sau, mọi người không nói thêm gì nữa. Đâu đó bên cạnh, mấy con chó nhà bà Haza
vẫn còn sủa một cách không thân thiện với các đồng loại không mời mà đến, còn
con mèo lông xù, cụp đuôi lại, kêu meo meo, cào cào vào chân ông linh mục. Ông
Baki-Haji vuốt vuốt tai nó, mắt vẫn không nhìn bà Haza, hỏi:
- Kesyrt
có về không?
- Không, -
bà Haza buồn rầu đáp, - thậm chí tôi cũng không biết phải làm gì nữa... suốt
ngày đêm tôi không chợp mắt được... - Đột nhiên bà Haza nói bằng một giọng van
vỉ. - Ông Baki, hay là tôi đi tìm nó? Sao lại không nhỉ?
- Không được.
Bà sẽ làm gì ở đó? Đi đứng ra sao? Rồi chính bà sẽ quỵ ngay. - Ông linh mục
không đồng ý, rồi nói thêm, giọng nhỏ nhẹ: - Bà đừng lo. Nếu có tin xấu, đã lan
đến đây từ lâu rồi. Chắc là mải lo buôn bán... Ngẫm nghĩ một lát, ông tiếp:
- Sau một
ngày nữa, Tsanka sẽ quay lại đây, nếu Kesyrt vẫn chưa về, nó sẽ lấy xe của tôi
đi tìm con bé.
Sau khi
nghỉ ngơi, hai người tiếp tục đi về hướng thượng nguồn dòng nước. Tiếng nước chảy
ngầm dưới lòng đất nghe mỗi lúc một to hơn, rõ hơn. Con người, thậm chí ngay cả
thú vật cũng sợ, không dám đến tận đầu nguồn dòng nước. Từ thời xa xưa, người
dân địa phương quan niệm, điểm nước phun trào ra là một chốn rất linh thiêng, đến
gần nơi đó là việc rất đáng chê trách.
Hai người
đi vòng qua đoạn suối ngoằn ngoèo và dừng lại nghỉ lấy hơi ngay tại chỗ vách đá
dựng đứng trên bờ suối. Từ trên cao có thể thấy rõ cái miệng núi lửa rộng khoảng
hơn một arshin, nước từ trong đó phun ra rất mạnh thành một dòng trong suốt,
tràn đầy nhựa sống, tiếng nước chảy như sôi sùng sục.
- Sức mạnh
của Thượng đế thật là vĩ đại! - Ông Baki-Haji thán phục thốt lên. - Hàng trăm
năm qua, biết bao nhiêu nước đã phun ra từ dưới ngọn núi đá này. Không chỉ một
làng của ta, mà tất cả mọi sinh vật trong vùng đều sống nhờ mạch nước này. Ơn
Thượng đế, nếu mạch nước này không chảy nữa thì làng ta cũng không còn... Người
ta bảo, từ thời xa xưa, dân cư ở đây rất đông, họ tắm rửa và làm tất cả mọi
công việc của mình ngay tại dòng nước này. Nước trong nguồn có hạ xuống nhưng vẫn
tiếp tục chảy. Một lần, có chàng trai, đứng ngay chỗ này, nhổ nước bọt vào dòng
nước, ngay sáng hôm sau, dòng nước biến mất, mọi vật bắt đầu khô héo, những kẻ
vô ơn buộc phải dọn đi chỗ khác. Chỉ đến lúc ấy, mạch nước mới tuôn chảy lại...
Ta biết tên ông tổ thứ chín của mình, tất cả mọi người đều sống cả ở đây, trong
làng Duts-Khote.
- Thế tên
làng bắt nguồn từ đâu vậy?
- Chẳng lẽ
cháu không biết à? Cháu có nhìn thấy những đám cỏ dày mọc quanh đầu nguồn và trải
dài theo dòng chảy kia không? Cỏ ấy có tên là Duts-Iar. Người ta còn bảo, cỏ ấy
rất có ích, có thể chữa lành được tâm hồn con người. Cháu có nhớ, bà già
Bikazhu từng sống ở cối xay nước không?
- Cháu chỉ
nhớ mang máng thôi, - Tsanka đáp, - hình như đó là một bà già lưng còng, kỳ lạ
như một mụ phù thủy.
- Phải, phải,
đúng là bà ấy đấy, người ta bảo, bà ấy dùng nước sắc từ cỏ này có thể bỏ bùa được
bất cứ người nào. Rất nhiều phụ nữ đến gặp bà ấy để xin giúp đỡ. Điều kỳ lạ là
bà ấy không lấy của ai một xu. Bà ấy bảo, nếu con người làm điều xấu thì không
cách nào thoát khỏi sự trừng phạt.
- Nếu vậy
thì tại sao bà ấy lại làm thuốc? Chẳng phải bà ấy cũng làm điều xấu đó sao? -
Chàng trai ngạc nhiên hỏi.
- Chính ta
cũng hỏi bà ấy câu đó. Bà ấy đáp, vì có ai đó trong số các bậc sinh thành của
bà ấy đã làm điều xấu nên bây giờ bà ấy phải chuộc lại lỗi lầm cho họ ở đây,
trên trái đất này, do vậy bà ấy phải sống một mình, dị tật và làm đầy tớ cho
người khác.
- Còn bà
Haza lớn lên ở đây cùng với bà ấy?
- Không phải
ngay từ nhỏ, mà từ tám, chín tuổi gì đó.
- Thế bà
Haza có làm cái thuốc ấy không? - Tsanka dè dặt hỏi.
- Có lẽ bà
ấy cũng biết bí quyết. Nhưng ta không thấy bà ấy làm điều gì đại loại như vậy,
- ông già ngẫm nghĩ hồi lâu rồi thở dài, tiếp: - Người ta đồn, bà ấy thuộc dòng
dõi quý tộc. Trong thời gian nổ ra cuộc chiến tranh Kavkaz, mẹ bà ấy là một phụ
nữ đẹp từ Ossetia hay là từ Gruzia lưu lạc đến đây. Lúc nhỏ, bà Haza bị một căn
bệnh gì đó nên mới thành xấu xí như vậy, nhưng tấm lòng bà ấy rất trong sáng...
Ta nghĩ, số phận nặng nề không làm biến dạng sự cảm nhận thế giới của bà ấy.
- Thế còn
cô con gái Kesyrt? - Tsanka đột nhiên hỏi.
- Con gái
cái gì? - Ông già nhìn thẳng vào mắt đứa cháu, hỏi lại.
- Cô con
gái có biết bí mật của bà Bikazhu không?
- Ta không
biết, - ông Baki-Haji lạnh lùng đáp. - Đi thôi, đường còn dài lắm, đến tối mới
tới nơi.
Họ tiếp tục
đi theo con đường mòn nhỏ của thú rừng. Ông Baki-Haji đi trước, thỉnh thoảng dừng
lại, nặng nhọc thở, ngước mắt lên nhìn, hy vọng sẽ sớm leo được đến nơi.
- Cháu đã
bao giờ đến đây chưa? - Ông lão vừa thở dốc vừa hỏi.
- Chưa ạ,
- Tsanka thở nặng nhọc, đáp.
- Còn ta,
đã lớn lên trên những con đường mòn này, trước kia ta đi chăn dê, lặn lội mãi ở
đây. Chúng ta cũng bị mất cha sớm, vì vậy ta phải đi săn, có một dạo chỉ sống
nhờ vào việc đó. Trong khu rừng này, bao nhiêu là muông thú. Nhờ ơn Thượng đế,
ngày nay thợ săn cũng không nhiều lắm, nếu không thì họ đã bắn giết hết.
- Cháu
không nhớ là bác có đi săn, - Tsanka ngước nhìn lên ông bác.
- Sau khi
thành linh mục, ta phải bỏ... Nhưng ta rất thích công việc đó! Thật thú vị!
- Bác có
tiếc vì đã trở thành linh mục không?
- Ta không
biết, - ông Baki-Haji trầm ngâm. - Trong mọi trường hợp, cháu ạ, hãy nhớ: nếu
trong cuộc sống cháu nhận được cái gì đó, thì cháu sẽ phải mất đúng từng ấy. Đó
là quy luật của tự nhiên. Và vì vậy mà không thể biết, ta sẽ được gì và mất gì,
và như thế nào thì tốt hơn.
- Bác
không trả lời câu hỏi của cháu rồi. - Tsanka mỉm cười nhắc.
- Ta không
biết... Chỉ có điều, ta khuyên cháu không nên theo ta. Cháu cũng giống như cha
cháu, là người trực tính, còn linh mục, công việc không phải lúc nào cũng cao
quý và theo ý Thượng đế... Phải, phải, đúng thế đấy. Trong cuộc sống có rất nhiều
rác rưởi và linh mục thường phải dọn dẹp chúng, - ông lão lại nhìn lên trời. -
Cháu đã khi nào lên đến đỉnh vách núi kia chưa?
- Chưa ạ,
- Tsanka thờ ơ đáp.
- Sao lại
chưa? - Ông Baki-Haji ngạc nhiên. - Ở tuổi cháu, ta biết rõ từng ngóc ngách
quanh vùng... Thanh niên gì mà lạ thế? Không có khát vọng gì sao?
- Ở chỗ
chúng ta, - chàng trai lầu bầu, vẻ không hài lòng, - bác thừa biết, ngay từ bé
cháu đã phải cùng với cha đi cắt cỏ, cày bừa, chăn nuôi. Thời gian đâu mà lang
thang ngắm nghía nữa. Thậm chí ngủ, cha cháu cũng không cho.
- Phải, em
trai của ta là người rất yêu lao động, - ông bác ngắt lời cháu. - Một người rất
tuyệt, chẳng phải như chúng mày, một lũ lười biếng... Thôi được rồi, bây giờ, cầu
xin Thượng đế cho chúng ta leo lên đỉnh vách đá kia, cháu sẽ nhìn thấy khắp
vùng xung quanh như trong lòng bàn tay, xa hơn một chút là cái hang anh hùng
dân gian. Cháu đã vào trong đó lần nào chưa?
- Chưa ạ,
cháu chỉ nghe nói. Họ bảo, vào trong ấy nguy hiểm lắm, có con rồng sống ở đấy.
- Toàn
chuyện nhảm nhí, - ông Baki-Haji nói bằng một giọng ngang tàng kiểu trai tráng
rồi leo tiếp lên cao.
Họ phải rất
cố gắng, bám vào từng bụi cây và mỏm đá để leo lên vách đá. Ở đấy có một mặt phẳng
bằng đá không lớn lắm, hơi thoai thoải, đôi chỗ bám đầy rêu đã bị úa vàng sau
mùa đông.
- Ta rất
thích đứng ở đây ngắm nhìn phong cảnh thung lũng... Cháu nhìn kìa, đẹp quá! -
Ông Baki-Haji sau khi leo lên, hụt hơi nói, lấy tay che ánh nắng mặt trời đã
nhô lên trên dãy núi. - Hôm nay không khí thật trong lành, mát mẻ, mọi thứ đều
nhìn thấy rất rõ... Cháu biết không, Tsanka, thậm chí ngay cả vào những ngày u
ám, đứng đây ngắm nhìn cảnh vật xung quanh cũng rất thú vị.
Chàng trai
thán phục, nín thở nhìn xuống phía dưới. Phía sau mỏm đá nhô, không nhìn thấy
nguồn nước và cối xay, chỉ thấy những ngôi nhà sạm đen của làng DutsKhote, thô
kệch, nhỏ xíu, trông như đồ chơi.
Dưới ánh nắng
mặt trời mùa xuân rực rỡ, thế giới xung quanh như tươi tắn hơn và sinh động
hơn. Cánh rừng sẫm màu trở nên xanh hơn trong buổi bình minh. Dải bình nguyên
thoai thoải nằm giữa hai nhánh sông Vashandaroi trở nên sặc sỡ sắc màu trắng,
vàng, tím, cạnh đấy đàn bò sữa nhởn nhơ gặm cỏ, còn xa hơn một chút, đàn cừu
trông như một con bọ dừa khổng lồ màu trắng đang bò chậm chạp.
- Cháu
nhìn kìa, ở phía xa, trong thung lũng, sau rặng núi là huyện lỵ Shali, những
ngôi làng bên cạnh sau rặng núi không nhìn thấy được. - Ông linh mục đưa mắt
nhìn ra bốn phía. - Nhìn kìa, Tsanka, chỗ chúng ta có bao nhiêu cảnh đẹp, chẳng
khác gì thiên đường, vậy mà cuộc sống lại chẳng ra làm sao: lúc nào cũng đánh
nhau, lúc thì với những người từ nơi khác đến, lúc thì với chính mình... Phải,
mảnh đất này, ông cha ta đã bảo vệ, giữ gìn cho chúng ta, và chúng ta phải bảo
vệ nó cho con cháu và các thế hệ tương lai... Quả thật, thời buổi bây giờ đáng
sợ quá, những người vô thần không để cho chúng ta sống yên ổn... Nếu đất đai ở
đây cằn cỗi, có lẽ cũng chẳng ai động đến chúng ta làm gì.
Những viên
đá nhỏ lăn xuống phía dưới, phát ra tiếng vọng khô khốc. Cả hai bất giác nhìn
lên trên: ngay mỏm vách đá, có ba con linh dương núi trong tư thế tuyệt đẹp
đang kinh ngạc nhìn hai người. Cả ba con chưa kịp thay lông nên vẫn còn mang
trên mình bộ lông màu nâu xám, cặp sừng thẳng, dài, hơi cong ở ngọn, trông có vẻ
hơi to và không hài hòa lắm với thân hình cân đối của chúng.
Tsanka giật
mình, định lấy khẩu súng trên vai xuống, nhưng ông bác đã ra hiệu dừng lại. Tuy
nhiên những cử động nhẹ nhàng ấy cũng đủ làm những con linh dương biến mất
trong chớp mắt, chỉ để lại sau chân mình những viên đá nhỏ rơi rào rào.
Ông
Baki-Haji còn ngắm nhìn khá lâu ngôi làng của mình, nghĩa trang của dòng họ và
những dãy núi xa gần. Ông lấy tay lau cặp mắt đẫm nước và lẩm nhẩm hát một làn
điệu dân ca trữ tình.
- Có thể,
đây là lần cuối ta được thấy tất cả khung cảnh này. - Ông cúi đầu, khẽ nói, đứng
một lát nữa, rồi cuối cùng ra lệnh: - Đi thôi. Cẩn thận đấy.
Theo con
đường mòn nhỏ, họ lại đi lên cao. Cây cối xung quanh thưa thớt, chỉ có những bụi
cây nhỏ và đôi chỗ còn sót lại những đám cỏ dại từ năm ngoái đã khô héo. Tsanka
không nhìn xuống dưới nữa, cậu bị chóng mặt. Cậu sợ cái gì đó mà không dám nói
ra, trong bụng thầm nguyền rủa tất cả mọi thứ trên đời.
Đột nhiên
ông Baki-Haji bỗng biến mất. Tsanka đứng chết lặng một lúc, rồi gọi:
- Bác ơi!
- Kêu cái
gì thế, lên đây và chui vào đây, - một giọng nói khô khốc như từ trong ống vọng
ra.
Vui mừng
nhận ra giọng nói của ông bác, Tsanka nhanh nhẹn chạy lên trước, nhìn thấy một
cái hang tối om, cao khoảng nửa thân người ngay trên vách đá.
- Vào đây,
- từ trong bóng tối, ông linh mục ra lệnh.
Tsanka chần
chừ một lúc lâu cho đến khi cánh tay và hình dạng của ông bác hiện ra trong cửa
hang. Cố vượt qua nỗi sợ, chàng trai cúi người chui vào hang, toàn thân va đập
vào vách hang chật chội: đầu, chân tay và nhất là cây súng giờ đây đã trở nên nặng
hơn đối với cậu. Mạng nhện quấn đầy mặt và tay, gây cảm giác khó chịu. Xung
quanh tối om, ẩm ướt và lạnh lẽo.
- Bác ở
đâu? - Tsanka nói khẽ, tiếng vọng trong hang dội lại “au-au-au”.
Có cái gì đó
kêu lép bép, rồi như tiếng vỗ tay và một tiếng động khủng khiếp vang lên, một vật
gì đó đập vào đầu cậu rồi văng ra. Tsanka ngồi bịch xuống, đưa hai tay ôm đầu.
- Cháu làm
sao thế? - Giọng nói vui vẻ của ông Baki-Haji vang lên. - Dơi đấy. Chúng không
cắn đâu. Cháu nhìn xem, ở đây cũng không tối lắm.
Quả thật,
sau một lát định thần, Tsanka đã phân biệt được các hình bóng mờ mờ.
- Con người
đã từng sống trong cái hang này vào thời xa xưa. Người ta bảo, ở đây có rất nhiều
hình vẽ được chạm khắc lên tường. Một số vẫn còn lại đến giờ... Cháu lại đây,
nhìn thấy cái lỗ này không, ánh sáng được lấy qua đó, đồng thời nó còn là cái lỗ
thông khói. Ta không biết thiên nhiên đã tạo ra nó hay những cư dân sinh sống
trong hang này đã đục nó.
Tsanka thận
trọng bước lại gần ông Baki-Haji, nhìn lên trên và sững người, trên trần hang, ở
chỗ ánh sáng mờ mờ, cậu nhìn thấy vô số những con vật màu nâu xám khủng khiếp.
- Cái gì
thế?
- Đừng làm
ồn... Dơi đấy. Đi thôi, chúng ta phải ra khỏi đây nhanh lên.
Họ đi về
hướng ngược lại, mỗi lúc một sáng hơn, cuối cùng, sau khúc ngoặt, xuất hiện một
luồng sáng. Việc đi lại rất khó, chân bị trượt trên một thứ gì đó lép nhép.
- Cái gì
dưới chân thế? - Tsanka khó chịu hỏi.
- Phân dơi
đấy. Cẩn thận kẻo ngã.
Khác với lối
vào, lối ra rộng hơn, thoáng đãng hơn, và cũng như tất cả các hang động, đều bị
che lấp bởi mạng nhện và những bụi cây mận gai, sơn trà đầy gai góc.
Lấy hai
tay che mặt, bàn tay bị cào xước ứa máu, hai người lách ra ngoài, cố hít thật
nhiều không khí trong lành. Tsanka sững người kinh ngạc bởi sự tươi mát của buổi
sáng và cảnh vật xung quanh. Xa xa bên dưới, ngay dưới chân họ là một hẻm núi
sâu hoắm nằm giữa những mỏm đá, dòng sông sôi réo cuồn cuộn, kiên nhẫn đập vào
các mỏm đá nhọn hoắt, uốn lượn như con rắn, tạo nên những lớp sóng lô xô, rồi
biến mất giữa khe núi xa xa phủ kín bởi những cây sồi cổ thụ rậm rạp. Trên các
sườn dốc cạnh họ là những bụi cây và những cây rừng nhỏ. Đôi chỗ, có những tảng
đá lăn lớn, phủ đầy rêu màu xanh nâu, một lớp cỏ dại còn sót lại từ năm ngoài
đã úa vàng và rạp xuống do băng giá mùa đông, nhưng chẳng bao lâu nữa, những chồi
mới, nhọn như những mũi tên sẽ xuyên qua chúng, nhô lên.
- Chó của
chúng ta đâu rồi? - Tsanka hỏi.
- Cháu đừng
lo. Chúng không chịu chui vào hang đâu vì không khí nặng mùi. Chúng sẽ lùng sục
xung quanh, hoặc sẽ quay về nhà, hoặc sẽ tìm thấy chúng ta ở trong rừng, chúng
là chó săn mà. - Ông Baki-Haji cẩn thận xem xét khắp người, chùi đôi giày da mềm
xuống đất cứng. - Nói chung, đó không phải là hang động mà là một chốn lây bệnh,
gây nên nhiều tai họa cho con người.
- Thế tại
sao bác lại dẫn cháu vào đấy?
- Chúng ta
đi tắt được nửa ngày đường, nhân tiện chỉ cho cháu biết mọi ngóc ngách của quê
hương, những con đường mòn, hang động bí mật. Trong cuộc sống mọi việc đều có
thể xảy ra.
- Thế
chúng ta đang đi đâu hả bác? - Từ sáng đến giờ, đây là lần đầu tiên Tsanka đưa
ra câu hỏi mà cậu rất quan tâm.
- Đến làng
Nui-Tso. Dòng sông nhỏ này có tên là Lene, chúng ta đang đi theo nó lên thượng
nguồn, chiều chúng ta sẽ đến nơi. Nếu chúng ta không đi tắt qua hang mà đi đường
vòng, một ngày không kịp... Ta không thể đi nhanh được, tuổi tác đâu còn như
ngày xưa nữa.
- Thôi, đủ
rồi đấy, bác ạ! Cháu phải cắm đầu theo bác mà không kịp đây, - chàng trai động
viên ông già. - Thế còn tai họa mà cái hang này gây ra cho mọi người?
Ông
Baki-Haji nhìn quanh, cúi xuống nhổ một búi cỏ từ năm ngoái, cẩn thận trải lên
tảng đá rồi ngồi xuống.
- Đừng ngồi
trực tiếp lên đá, còn lạnh lắm, sẽ bị cảm đấy.
Chờ cho
Tsanka tự làm lấy cho mình một chỗ ngồi như vậy, ông linh mục mới bắt đầu câu
chuyện.
- Dạo ấy, ta cũng chỉ hơn tuổi cháu bây giờ một tí. Già làng là ông Movsar Ustaev. Bạn bè đến thăm ông ấy rồi rủ nhau đi săn. Họ mang ta theo vì ta là thiện xạ, ngoài ra chó săn của ta thuộc loại giỏi nhất trong vùng. Dạo ấy là mùa đông, đi trên sườn núi dốc như thế này rất vất vả. Chúng ta nhìn thấy dấu chân một con gấu lớn. Lần theo dấu chân nó, chúng ta đến chỗ cửa hang. Mọi người bắn hú họa vào trong. Chẳng có con thú nào cả, chỉ có hàng đàn dơi trú đông trong đó bay loạn xạ, kêu chí chóe. Khi đó, chúng ta cử hai người đi vòng sang bên, đón đầu ở cửa hang đối diện, còn ở đầu này chúng ta đốt một đống lửa to ngay cửa hang. Toàn bộ khói bốc ra vì củi ướt bị hút vào trong hang. Con gấu tỉnh dậy, gầm lên, điên cuồng lao ra cửa hang bên kia. Ở đấy, ông Movsar và một bạn săn đã chờ sẵn, nã cả loạt đạn vào người nó. Con gấu khổng lồ khôn ngoan, điên cuồng lao vào hai người: ông Movsar tránh được, còn người bạn săn không kịp trở tay, cả hai dính vào nhau rơi từ vách đá xuống hẻm núi. Mọi người chạy xuống thì chỉ tìm thấy người của mình, còn con gấu đã bỏ đi, để lại trên mặt tuyết những dấu chân dính đầy máu. Chẳng bao lâu sau, lũ chó săn đuổi kịp con gấu bị thương, đánh nhau với nó và quật nó ngã xuống, chúng ta kịp đến, kết liễu luôn. Đau buồn về những gì vừa xảy ra, chúng ta khiêng xác người đồng hương về làng, còn ông Movsar ở lại lột da con gấu, cắt một tảng thịt to mang về, số thịt còn lại ném cho chó ăn. Một tuần sau, những con chó săn của ta bỗng trở nên khác lạ, thậm chí dữ tợn. Ông Arts của cháu, tức là cha ta liền bắn hạ ngay lũ chó, nhưng một tháng sau ông Movsar đổ bệnh, ông ấy bị điên. Mọi người trói ông ấy vào gốc cây, gọi thầy lang, gọi cả bác sĩ người Nga ở Shali đến, thảy đều vô ích. Cuối cùng, ông ấy yếu dần, bị cảm lạnh do băng giá, rồi lại bị thương hàn và lặng lẽ qua đời, thật ra như vậy cũng tốt cho ông ấy và gia đình... Ngay cả việc tắm rửa thi thể cho ông ấy, người ta cũng sợ... Mọi câu chuyện thêu dệt, đơm đặt sau này cũng từ đó mà ra, nhưng ta nghĩ, ông bác sĩ người Nga đúng, ông ấy bảo, con gấu bị lây bệnh dại từ những con dơi, còn ông Movsar và lũ chó bị lây từ con gấu.
- Dạo ấy, ta cũng chỉ hơn tuổi cháu bây giờ một tí. Già làng là ông Movsar Ustaev. Bạn bè đến thăm ông ấy rồi rủ nhau đi săn. Họ mang ta theo vì ta là thiện xạ, ngoài ra chó săn của ta thuộc loại giỏi nhất trong vùng. Dạo ấy là mùa đông, đi trên sườn núi dốc như thế này rất vất vả. Chúng ta nhìn thấy dấu chân một con gấu lớn. Lần theo dấu chân nó, chúng ta đến chỗ cửa hang. Mọi người bắn hú họa vào trong. Chẳng có con thú nào cả, chỉ có hàng đàn dơi trú đông trong đó bay loạn xạ, kêu chí chóe. Khi đó, chúng ta cử hai người đi vòng sang bên, đón đầu ở cửa hang đối diện, còn ở đầu này chúng ta đốt một đống lửa to ngay cửa hang. Toàn bộ khói bốc ra vì củi ướt bị hút vào trong hang. Con gấu tỉnh dậy, gầm lên, điên cuồng lao ra cửa hang bên kia. Ở đấy, ông Movsar và một bạn săn đã chờ sẵn, nã cả loạt đạn vào người nó. Con gấu khổng lồ khôn ngoan, điên cuồng lao vào hai người: ông Movsar tránh được, còn người bạn săn không kịp trở tay, cả hai dính vào nhau rơi từ vách đá xuống hẻm núi. Mọi người chạy xuống thì chỉ tìm thấy người của mình, còn con gấu đã bỏ đi, để lại trên mặt tuyết những dấu chân dính đầy máu. Chẳng bao lâu sau, lũ chó săn đuổi kịp con gấu bị thương, đánh nhau với nó và quật nó ngã xuống, chúng ta kịp đến, kết liễu luôn. Đau buồn về những gì vừa xảy ra, chúng ta khiêng xác người đồng hương về làng, còn ông Movsar ở lại lột da con gấu, cắt một tảng thịt to mang về, số thịt còn lại ném cho chó ăn. Một tuần sau, những con chó săn của ta bỗng trở nên khác lạ, thậm chí dữ tợn. Ông Arts của cháu, tức là cha ta liền bắn hạ ngay lũ chó, nhưng một tháng sau ông Movsar đổ bệnh, ông ấy bị điên. Mọi người trói ông ấy vào gốc cây, gọi thầy lang, gọi cả bác sĩ người Nga ở Shali đến, thảy đều vô ích. Cuối cùng, ông ấy yếu dần, bị cảm lạnh do băng giá, rồi lại bị thương hàn và lặng lẽ qua đời, thật ra như vậy cũng tốt cho ông ấy và gia đình... Ngay cả việc tắm rửa thi thể cho ông ấy, người ta cũng sợ... Mọi câu chuyện thêu dệt, đơm đặt sau này cũng từ đó mà ra, nhưng ta nghĩ, ông bác sĩ người Nga đúng, ông ấy bảo, con gấu bị lây bệnh dại từ những con dơi, còn ông Movsar và lũ chó bị lây từ con gấu.
Ông
Baki-Haji còn chưa kịp kết thúc câu chuyện thì Tsanka đã bật dậy khạc nhổ liên
tục, hoảng sợ nhìn về phía cái hang, van vỉ:
- Bác ơi,
chúng ta đi khỏi đây nhanh lên.
- Cháu làm
sao thế, - ông linh mục mỉm cười nói. - Sau lần ấy, ta còn vào trong hang cả
ngàn lần, cháu thấy đấy, có sao đâu... Tuy nhiên, thật ra mà nói, tất cả chúng
ta đều là những kẻ dở dở ương ương.
Một con rắn
mối dài ngoằng màu xanh ló đầu ra khỏi bụi cây làm lay động tán lá còn sót lại
từ năm trước, thành thạo nhảy lên tảng đá bên cạnh, sưởi nắng, tuy nhiên, sau
khi phát hiện thấy có người, nó bực bội quay đầu rồi khéo léo chui vào khe đá.
- Còn một
câu chuyện buồn nữa liên quan đến cái hang này. Dạo ấy ta cũng còn trẻ. Trong
làng có một đôi trai gái yêu nhau, nhưng cha mẹ không chấp thuận cuộc hôn nhân
giữa họ. Chuyện như vậy cũng hay xảy ra ở các dân tộc khác, chẳng hạn như giữa
người giàu, người nghèo, còn ở ta thì do dòng họ không môn đăng hộ đối. Khi đó
đôi trai gái bỏ vào sống trong cái hang này. Rồi bất ngờ, vài tháng sau, chàng
trai đứng ở ngay chỗ này, ném người yêu xuống vực rồi hét lên một tiếng, nhảy
theo.
- Họ nhảy
xuống ngay tại chỗ này? - Tsanka hỏi lại.
- Phải,
đúng chỗ đó. - Ông linh mục chỉ tay.
Chàng
trai, một lần nữa lại chăm chú nhìn xuống vực, rồi cầm một viên đá không to lắm
ném xuống, ngạc nhiên lắc đầu.
- Phải, -
Cậu nói. - chuyện nào cũng buồn cả.
- Cũng có
chuyện vui. - Đột nhiên ông Baki-Haji mỉm cười bí hiểm, nói. - Chắc cháu đã
nghe rồi.
- Bác kể
đi, chuyện gì vậy.
- Hiện giờ
chúng ta đang đi dọc theo hẻm núi, sau vách núi này sẽ nhìn thấy tòa tháp cổ của
người Chechnya đã bị thời gian và chính con người phá hủy. Chỗ ấy gọi là
Tsakhy-ary. Vào thời xa xưa, có một người đàn ông rất giàu nhưng keo kiệt tên
là Tsakhy sống ở đây. Ông ta không có vợ con gia đình, nhưng có một đàn cừu rất
đông. Về già, ông Tsakhy không còn minh mẫn nữa, ông bán hết đàn cừu, dùng số
tiền đó mua vàng rồi đúc bức tượng con dê, kích thước bằng con dê thật. Nhiều
người bảo, họ đã tận mắt nhìn thấy tượng con dê, người khác lại bảo, trong tượng
dê có giấu vàng. Trước khi chết, ông lão đã chôn con dê vàng ở đâu đó, người ta
đồn, trong cái hang này. Vậy là từ dạo ấy đến nay, nhiều kẻ ngu ngốc đã đào
tung cái hang và khắp vùng xung quanh lên... Sườn núi bên này từng là một cánh
rừng dẻ gai rậm rạp như bên kia, nhưng những kẻ tìm dê đã đốn cả cánh rừng, đất
đá bị xói lở, chỉ còn lại những mỏm đá trơ trọi. Đó là tất cả những gì mà ông
Tsakhy giàu có đã để lại cho hậu thế.
- Vậy là
người ta vẫn chưa tìm thấy con dê? - Tsanka tò mò hỏi.
- Dĩ nhiên
là không.
Ông
Baki-Haji rên rẩm, khẽ vươn người đứng lên. Mặc dù đã định đi tiếp, nhưng không
hiểu sao Tsanka vẫn ngồi yên, rồi bất ngờ hỏi nữa:
- Thế những
người tìm vàng trong hang có bị mắc bệnh điên không?
-
Ha-ha-ha. - Ông già bật cười vui vẻ. - Trước khi đi tìm vàng thì họ đã điên rồi,
sau đó mới đến đây. Chẳng lẽ người bình thường lại tin vào những câu chuyện cổ
tích... - Rồi vừa bước đi, ông vừa quay đầu lại, nói tiếp. - Nhiều kẻ tìm vàng
đã đến đây, có cả người Armenia, người Digan, gây nên bao vụ ẩu đả, ta vẫn còn
nhớ... Đi thôi, mặt trời lên cao rồi.
- Nếu vậy
thì vàng có thể chôn giấu ở đâu? - Chàng trai không giấu nổi tò mò, tiếp tục gặng
hỏi.
- Vàng
nào?! Cháu nói cái gì thế, Tsanka! Tất cả đều chỉ là chuyện cổ tích... Mà nếu
như cháu có tìm được con dê ấy, thì cháu cũng không có được hạnh phúc vì nó
đâu. Tất cả những kẻ tìm dê kia đều không hiểu được một điều, rằng hạnh phúc
không tự nhiên xuất hiện mà phải được góp nhặt từng tí một, chỉ có như vậy thì
hạnh phúc mới lâu bền, còn tất cả chỉ là huyền thoại... Cháu biết không, chúng
ta có một câu thành ngữ: không nên thả mồi bắt bóng... Đi thôi, chúng ta ba hoa
nhiều quá rồi.
Họ đi theo
con đường mòn mấp mô sỏi đá, phủ đầy cỏ dại từ năm ngoái đã khô héo và những bụi
cây nhỏ, hướng về phía dưới theo tiếng nước chảy của dòng sông. Họ lội qua
sông, ướt đến đầu gối, rồi theo sườn núi lại đi lên, bám vào những mỏm đá và những
cành cây nhỏ.
Trời bắt đầu
nóng dần, mồ hôi đầm đìa trên mặt, bộ quần áo ngoài đè nặng lên người. Ông
Baki-Haji phải thường xuyên dừng lại, mệt mỏi ngồi xuống, nghỉ lấy hơi xong lại
đi tiếp.
Ở chân
núi, cây rừng hỗn tạp hơn: nào là sơn trà, hồng, phỉ tử, cao hơn một chút là
táo dại, lê dại, bồ đề, hoàn diệp liễu. Xa hơn nữa, lên gần tới đỉnh núi là những
cây tiêu huyền cao to, thân thẳng tắp, xòe bóng che kín thảm thực vật nhút nhát
bên dưới, nhưng vẫn để lọt những tia nắng mặt trời mùa xuân. Xung quanh, chim
chóc hót ríu ran, lũ muỗi mắt và bọ nhỏ chao lượn. Những chiếc lá rừng từ năm
ngoái đã héo nhưng vẫn còn nguyên hình dạng dính dưới gót giày của người đi đường
với hy vọng sẽ cùng đi với họ tới những miền đất xa xôi.
Lên tới đỉnh,
ông Baki-Haji đổ vật xuống mặt đất ẩm ướt, thở nặng nhọc, ho sặc sụa vì đờm kéo
lên cổ. Tsanka chống cằm vào khẩu súng đã làm khổ mình, ngắm nhìn phong cảnh.
Xung
quanh, một khoảng không gian thoáng đãng, hiện rõ những dãy núi trập trùng vô tận,
xen kẽ vô số vực sâu và thung lũng. Tất cả đều được che phủ bởi những cánh rừng
non dẻ gai và sồi. Trên những dãy đồi trọc sẫm màu là những đồng cỏ Alpes. Đâu
đó, bên các khe xói và lòng chảo thấp thoáng những rặng thông xanh rì không cao
lắm. Còn xa hơn nữa, trên các đỉnh núi nhọn không ai có thể đặt chân tới là lớp
băng tuyết lấp lóa dưới ánh mặt trời như đang bồng bềnh trên mặt đất.
Xa hơn về
phía đông, bên dưới là thung lũng, ở giữa có một cái hồ nước xanh biếc, hình dạng
méo mó bởi những lùm cây thưa thớt bên bờ.
- Đây là hồ
Nước mắt mẹ. - Ông già đứng lên nhìn cháu, nói. - Nước trong hồ là nước mặn.
Khi bầu trời xanh, nước hồ cũng xanh, còn khi trời u ám, nước cũng sẫm lại.
- Tại sao
hồ lại có tên như vậy? - Tsanka hỏi.
- Vào thời
xa xưa, kẻ thù đến vùng đất chúng ta. Để đuổi chúng đi, các vị tiên tổ tập hợp
lại trên núi Ertan-Kort, bàn tính rất lâu nhưng cuối cùng không đi đến sự thống
nhất nào, và họ quyết định mỗi người phải tự bảo vệ tổ ấm của mình. Cũng chính
vì vậy mà đỉnh núi ấy được gọi là Cái đầu ngu. Nhân đây ta cũng nói thêm, cái sự
cách biệt ấy của các dòng họ cho đến bây giờ vẫn còn tồn tại... Ở đấy, có một
gia đình trẻ, họ mới sinh đôi được hai con trai. Người cha đã đứng lên chống lại
kẻ thù để bảo vệ gia đình và hy sinh trong trận chiến không cân sức. Khi đó,
người mẹ phải giấu hai con thơ trong khe núi, mặc quần áo của chồng rồi lao vào
quân địch. Người mẹ của những đứa con thơ chiến đấu một cách tuyệt vọng, nhưng
kẻ thù cũng không thể giết được bà ấy. Cuối cùng, kiệt sức vì mất máu, người mẹ
gục ngã xuống đất. Bọn giặc xúm lại, ngạc nhiên nhìn thấy bộ ngực đồ sộ của bà
bị thanh gươm chém ngang, và dòng sữa mẹ tuôn ra theo hai ống tay áo. Kẻ thù
suy đoán, các con thơ của bà chắc được giấu ở đâu đó, chúng tìm ra và quyết định
nhấn chìm hai đứa bé trong vũng sữa của người mẹ. Kẻ địch ném hai đứa bé vào
trong dòng sữa, chắc mẩm chúng sẽ bị sặc sữa mà chết. Nhưng hai đứa con được tiếp
thêm nguồn sinh lực của mẹ, trong giây lát trở thành hai chàng tráng sĩ khổng lồ.
Họ lao vào giết hết kẻ thù và hy sinh anh dũng. Người mẹ chứng kiến tất cả mọi
việc, than khóc thảm thiết và cũng chết trong nỗi đau tột cùng... - Ông
Baki-Haji lấy cây gậy chỉ vào ngọn núi. - Kia là ngọn núi, hình mái đầu của người
mẹ khóc than, bởi vậy nó có tên là núi Đầu mẹ, còn những giọt nước mắt của người
mẹ đã tạo thành cái hồ, và nước ở đấy không bao giờ cạn, mặc dù ta không nhìn
thấy bất cứ dòng suối nào đổ vào hồ. Người ta bảo, cho đến tận bây giờ, người mẹ
vẫn còn khóc vì vẫn phải chứng kiến sự cách biệt giữa chúng ta... Cháu có hiểu
tại sao, trong các con sông Vashandaroi Thượng và Vashandaroi Hạ, nước sông lại
trắng không? Đó là sữa của người mẹ đấy, và chúng được gọi là sông Anh em. Dòng
chảy của chúng cũng khác hoàn toàn với những con sông khác ở Chechnya, không
theo hướng nam-bắc mà theo hướng đông-tây, như muốn liên kết tất cả các con
sông trong núi lại với nhau. Sau việc đó, những vấn đề về dân tộc lại được giải
quyết ở ngọn núi khác, núi Đầu hòa thuận. Còn kia là tháp Tsakhi... Cũng như mọi
cái tháp trên trái đất này, đang bị đổ nát...
Đến trưa,
khi mặt trời đứng bóng, hai người dừng chân nghỉ bên bìa rừng ven suối, dưới
bóng cây hoàn diệp liễu sum sê, thân trắng muốt. Họ trải ra phơi dưới nắng đôi
giày da mềm và vải quấn chân cũ sờn bằng vải thô tự dệt đã bị ướt sũng.
Vừa rửa
ráy dưới suối, ông Baki-Haji vừa hỏi:
- Cháu đã
cầu kinh sáng chưa?
Tsanka giả
bộ như không nghe thấy.
- Đúng là
đồ vô liêm sỉ. - Ông linh mục càm ràm. - Người khác, ta đã bắt phải cầu kinh,
làm cho họ phải xấu hổ, vậy mà với những kẻ ngu ngốc của mình ta đành phải bó
tay... Cháu có còn bé nữa đâu... Xuống rửa ráy đi.
Sau khi cầu
kinh xong, Tsanka nhảy vào trong bụi và mang ra mấy bụi hành gấu non. Hai người
ăn bánh mì ngô cùng với pho mát cừu và những lá hành gấu nhọn hoắt, rồi uống nước
suối.
Sau khi ăn
xong, Tsanka mệt mỏi ngả lưng xuống mặt đất ẩm, mắt díp lại, muốn ngủ. Xung
quanh chim chóc vẫn ríu rít bận rộn, trên đầu là tán lá hoàn diệp liễu từ năm
ngoái đã khô. Một con kiến nhỏ bò lên chân Tsanka nhột nhột, rồi cắn một cái rõ
đau. Không muốn ngồi dậy, chàng trai lấy chân kia gạt cái con côn trùng ngang
ngược kia đi. Ngay bên tai, một con muỗi bắt đầu vo ve. Nhắm mắt lại, Tsanka bỗng
nhớ đến Kesyrt: cặp mắt rạng rỡ, nụ cười với hai lúm đồng tiền trên đôi má hồng,
cơ thể cân đối, bước đi uyển chuyển. Tsanka muốn giấu những ý nghĩ vừa xuất hiện,
liền nằm sấp xuống, đầu gối lên hai tay khoanh lại. Cậu nhớ lại quá khứ và mơ mộng
về một cuộc gặp trong tương lai...
Ông
Baki-Haji ngồi thu lu ngay bên cạnh, nghĩ về điều gì đó vẻ rầu rĩ, miệng lẩm nhẩm,
vài lần uể oải xua xua mấy con ruồi bướng bỉnh.
- Cháu
nghĩ sao, Tsanka, với tuổi già như ta, lại phải bỏ trốn đi đâu đó? - Đột nhiên
ông lão thốt lên, nhưng vẫn không quay đầu về phía Tsanka. - Thời buổi thật khủng
khiếp! Ai có thể hình dung nổi, sự việc lại ra thế này? Chắc cháu nghĩ, ta sợ
chết... Dĩ nhiên, ai chẳng muốn sống. Có ai lại muốn nằm vào cái hố lạnh lẽo ấy...
Ta đã từng chôn cất bao nhiêu người và chưa bao giờ nghĩ, sẽ đến lúc người ta
chôn cất mình, thế mà bây giờ lại sợ. Thật xấu hổ khi phải thừa nhận, ta sợ.
Nhưng điều đáng sợ hơn là những kẻ đê tiện kia đã thiêu cháy em trai ta trong một
cái lò nào đó, không để lại một nấm mồ, một kỷ vật để người thân tưởng nhớ...
Cái bệnh dịch ấy lan ra từ đâu, ta cũng không biết...
Trên nhánh
cây hoàn diệp liễu um tùm, rủ ngay trên đầu ông Baki-Haji, có con chim sẻ núi
bé xíu màu nâu xám. Không thèm để ý đến người đi đường, nó bận rộn ngúc ngoắc
cái đầu và ngoe nguẩy cái đuôi dài.
“Chíp-chíp-chíp...”,
con chim đực hót bằng một giọng lảnh lót, lo âu.
“Chéc-chéc-chéc...”,
từ đâu đó, con chim cái đáp lại.
Ông già ngẩng
đầu lên, tìm kiếm con chim khá lâu, cuối cùng ông nhìn thấy cái bụng trắng hồng
của nó. Con chim sẻ núi hát lên lần nữa bài hát lảnh lót của mình rồi bay vút
ra bãi cỏ, nép mình trong bụi cây rậm rạp nở đầy hoa rực rỡ.
Ông linh mục
lại đắm chìm vào những suy tư đau buồn của mình, ông cứ ngồi mãi như thế, gác cằm
vào giữa hai đầu gối nhô cao, mắt he hé, thiu thiu ngủ. Đột nhiên, sau lưng
ông, có cái gì đó động đậy, tiếng lá khô lạo xạo. Ông Baki-Haji uể oải hé mắt
ra - ngay trước mắt ông, một con chuột chù lông xám đen, đang sục chiếc mũi dài
như cái vòi xuống đất, kéo theo cái đuôi dài lông nhọn.
- Đi đâu
thế, đồ mọi rợ hôi thối! - Ông lão bật ra, với tay lấy cây gậy.
Con thú rừng
nhỏ bé không thèm chớp mắt, nhấc cái mõm lên khỏi mặt đất, xoay đôi tai gớm ghiếc
sang hướng khác, tức giận nhe hàm răng thưa thớt và nhọn hoắt màu xám đỏ ra, từ
trong họng phát ra âm thanh “khè-khè”, rồi nhanh nhẹn chuồn mất, để lại sau
lưng một mùi hôi nồng nặc.
Ông già uể
oải đứng dậy, vươn người:
- Đi thôi,
Tsanka, đường còn dài lắm.
... Khi trời
tối hẳn họ mới đến được làng Nui-Tso. Trong khoảng một giờ cuối cùng, ông
Baki-Haji gần như lê lết, nghỉ liên tục, mặt tái nhợt, vậy mà ông vẫn phải luôn
miệng động viên thằng cháu.
Hai người
được đón tiếp như những vị khách quý. Mọi người trong ngôi làng không lớn lắm đều
tập trung lại. Ngay lập tức một con cừu đen bị cắt tiết, tiếng đàn phong cầm nổi
lên, số thanh niên ít ỏi tụ tập lại, buổi liên hoan bắt đầu. Tsanka lặng lẽ
chui vào căn phòng được bố trí cho hai bác cháu, quyết định nằm nghỉ một lát. Mọi
người muốn gọi cậu dậy, nhưng thấy cậu ngủ say nên để yên.
Sáng hôm
sau, ông bác đánh thức Tsanka dậy.
- Tsanka,
Tsanka, dậy thôi. Đã đến giờ cầu kinh sáng rồi. Hôm qua cháu đã bỏ buổi kinh...
Dậy đi! - Ông lão khẽ chạm vào vai cậu, dịu dàng nói bằng một giọng chan chứa
tình yêu thương.
Toàn thân
Tsanka ngứa ngáy vì những vết rệp cắn.
Bước ra đường,
Tsanka vô cùng ngạc nhiên: ngay trong rừng, giữa những cây dẻ gai cổ thụ cao to
là những căn nhà xiêu vẹo, xấu xí, xây cất lộn xộn, cách xa nhau trên các sườn
đồi.
- Ở đây, cứ
mỗi bước chân có một mạch nước và từng nhà được xây bên từng mạch nước ấy. Nếu
đốn rừng để làm nhà thì các mạch nước cũng biến mất. Người ta bảo vệ thiên
nhiên như vậy đấy, không phải như ở ta. - Ông Baki-Haji nói với đứa cháu. - Họ
khác chúng ta, họ bị tách biệt hoàn toàn khỏi thế giới bên ngoài. Hạnh phúc và
bất hạnh của họ cũng nằm ở đấy cả. Thật ra thì đám thanh niên, chỉ cần đôi lần
xuống đồng bằng, nếm thử mùi cuộc sống hiện đại là không quay về nữa. Chính vì
vậy mà cuộc sống ở đây cứ chết dần chết mòn, người trẻ ít lắm.
Sau khi cầu
kinh sáng, họ đi đánh cá. Người bạn của ông linh mục cũng là một ông già như vậy,
chỉ có điều hoạt bát hơn. Ông bạn ngồi xổm bên cái thác nước nhỏ ở dưới chân
núi với cái túi nhỏ hình lưỡi xẻng.
Con cá hồi
mình thon, lấp lánh màu ánh bạc lao lên khỏi mặt nước, định băng qua thác. Ông
già chỉ chờ có vậy, liền giơ cái túi vải của mình ra. Họ chỉ bắt đúng sáu con
cá nhỏ.
- Mỗi người
hai con. - Ông linh mục đứng sau lưng người đánh cá giải thích về hành động của
ông ta. - Theo luật tục địa phương, việc bắt cá chỉ được tiến hành cách nhật,
theo thứ tự các gia đình, và mỗi nhân khẩu chỉ được bắt một con cá. Đôi khi đàn
cá biến mất. Đây là cách để họ bảo vệ đàn cá. Đối với chúng ta là khách, có ngoại
lệ, được bắt hai con.
Suốt cả
ngày, ông Baki-Haji và người cháu, theo lời mời, đi hết nhà này đến nhà khác.
Tsanka vô cùng ngạc nhiên bởi sự đa dạng và phong phú về các món ăn của người
miền núi.
- Cháu thấy
đấy, thực đơn của họ rất đa dạng. - Ông bác thì thầm vào tai cháu. - Sản vật từ
rừng rất nhiều, thậm chí người ta còn chế biến cả nấm nữa. Trong khi chúng ta, ở
vùng thấp hơn, thế mà mãi đến thời kỳ nổ ra cuộc chiến Kavkaz, vợ con mới làm
quen với cuộc sống dã chiến, mới học được cách nấu ăn nhanh.
- Thế ở
đây không có chiến tranh à? - Tsanka ngạc nhiên.
- Chiến
tranh nào, thậm chí đường sá lên đây cũng chẳng ra sao. Xe thổ mộ cũng chẳng
vào được cái chốn thâm sơn cùng cốc này... Dân ở đây mới theo đạo Hồi chưa lâu.
Ta là một trong số những người đầu tiên đến truyền đạo cho họ... Mặc dù vậy, một
nửa trong số họ vẫn theo đa thần giáo, bí mật thờ cúng đủ các thần thánh.
Đến chiều,
nhân dịp có khách quý, người ta tổ chức một buổi lễ: Nhảy múa rất lâu, uống bia
và rượu nặng. Tsanka rất ngạc nhiên khi thấy ông Baki-Haji, mặt mày đỏ bừng,
thường xuyên vào nhảy. Tuy nhiên, anh chàng trẻ tuổi của dòng họ Arachaev lại
có một mối quan tâm khác - cứ cách một điệu nhảy, với những tràng cười vui vẻ
và tiếng la hét tán đồng, người ta lại dẫn vào cho Tsanka một cô bạn nhảy cao
ngồng mà chẳng thèm hỏi cậu có đồng ý hay không. Cô gái, như hầu hết người dân ở
đây, da trắng, tóc hung, mắt xanh. Trong lúc nhảy và lúc nghỉ giải lao, Tsanka
bí mật ngắm nhìn cái cổ cao, bộ ngực lép kẹp của cô gái và so sánh với Kesyrt,
cậu cảm thấy chán ngay lập tức, chỉ muốn nhanh chóng trở về nhà.
Lúc nghỉ
giải lao giữa hai điệu nhảy, Tsanka đến chỗ ông bác.
- Bác ơi.
- Cậu hỏi ông linh mục đang trong cơn hưng phấn. - Sao tất cả mọi người ở đây đều
tóc hung, da trắng vậy?
- Vì họ
mang trong người dòng máu Chechnya chính thống, khác với những người ở dưới đồng
bằng đã bị lai tạp với các dân tộc khác, chính vì vậy mà họ giữ được chiều cao,
màu da... Họ không bị thoái hóa cũng là do người trong họ không được lấy
nhau... Thôi, vào nhảy đi! Nhìn kia, cô gái xinh đẹp thế! Chà, giá mà ta còn ở
tuổi cháu!
... Sáng
hôm sau, ông Baki-Haji tiễn người cháu của mình quay về.
Ngày hôm ấy
u ám, ẩm ướt và lặng gió. Cảnh vật như chết lặng trong màn sương.
- Cẩn thận,
kẻo bị lạc. - Ông bác nhắc đi nhắc lại hàng chục lần với người cháu. - Còn khẩu
súng ngắn ở nhà, giấu cho kĩ, không được để ai nhìn thấy. Con ngựa cái là của
cháu, nếu nó đẻ con, cũng là của cháu. Bác cũng tặng cháu con ngựa tía già, bác
chẳng biết làm gì với nó cả. Sau hai, ba tuần nữa, cháu mang tin đến đây cho
bác... Như bác đã nhờ cháu, nếu Kesyrt không về, cháu hãy cố đi tìm con bé...
Chỉ có điều, hãy nhớ, phải trả lại khẩu súng ngắn cho bác, hiểu chưa?
Tsanka
phát mệt vì những lời căn dặn, nhưng ông bác đưa tiễn cậu vẫn còn tiếp tục dặn:
- Cẩn thận
đấy, cháu đừng đi qua hang. Cháu còn trẻ, đi đường vòng, đến chiều vẫn về tới
nhà. Hãy cẩn trọng.
Ông bác ôm
chặt đứa cháu cao ngồng vào lòng, đập đập trán vào ngực cậu, cứ ôm mãi không bỏ
ra, sau đó ông lặng lẽ chùi nước mắt, lùi lại, đập tay lên vai cậu:
- Cầu xin
Thượng đế phù hộ cho cháu! Cầu cho cháu thượng lộ bình an!
Tsanka khuất
dần trong màn sương mờ, nhưng ông lão còn đứng mãi, lẩm nhẩm cầu nguyện cho
cháu.
Sương mù
tan dần, trước mặt kẻ bộ hành hiện ra cánh rừng dẻ gai non trên sườn đồi.
Tsanka ngạc nhiên dừng lại. Chưa đến hai ngày, mà cánh rừng trở nên xanh mướt.
Nhưng không phải điều đó làm Tsanka ngạc nhiên mà là những gì hiện ra dưới chân
núi, một cây mận đơn độc nở hoa trắng muốt nổi bật lên trong cánh rừng tạp màu
xanh, chẳng khác gì một cô dâu xinh đẹp, yêu kiều, lộng lẫy, thoáng chút u
hoài. “Đó là Kesyrt, - Tsanka thầm nghĩ, - Kesyrt cũng như vậy, cô đơn và quyến
rũ! Mình yêu Kesyrt, mình phải luôn ở bên cô ấy... Chúng mình sẽ luôn bên nhau,
mình sẽ mang lại hạnh phúc cho Kesyrt!”
Tsanka bị
lạc trong rừng. Vòng qua cái hang, cậu đi mãi về hướng đông, đến tận làng
Elistanzhy, nửa đêm mới lê về tới nhà. Chỉ có một mong ước duy nhất đã giúp
Tsanka có thể đi suốt cả ngày, không ăn, không nghỉ: đó là đi tìm Kesyrt.
Bà Tabark
hai đêm liền không ngủ được, chờ đón con trai với những câu cằn nhằn và những
giọt nước mắt vắn dài, luôn miệng càm ràm ông anh chồng ngớ ngẩn.
Sáng hôm
sau, dưới ánh mắt khó chịu của bà vợ và con gái ông Baki-Haji, Tsanka dẫn từ
trong chuồng ngựa của nhà họ ra con ngựa tía già và con ngựa cái bụng đã to. Cậu
dẫn chúng xuống nguồn nước, tắm rửa, nhân tiện hỏi thăm bà Haza, biết Kesyrt vẫn
chưa về. Cậu chuẩn bị lên đường.
Sau khi biết
dự định của con trai, bà Tabark phát hoảng, vội chạy đến nhà ông em chồng
Kosum. Cả hai cùng vặn vẹo Tsanka, muốn biết mục đích của chuyến đi. Tsanka nói
dối không chút do dự, tuyệt nhiên không nhắc đến tên Kesyrt. Đã vậy, sáng hôm
sau, trước lúc lên đường, mọi người còn đặt cậu em trai Basil lên ngồi bên cạnh
Tsanka.
Vừa ra khỏi
làng, Tsanka cho cậu em xuống, hứa sẽ mua cho nó rất nhiều kẹo caramen và dặn
nó về nói lại với mẹ, có thể cậu sẽ đi vài ngày.
Vào buổi
sáng hôm ấy, trong lòng Tsanka chất chứa bao nhiêu tình yêu tha thiết cùng với
lòng quả cảm và cả sự ghen tuông nữa. Cậu hưng phấn tột độ, dẫu không biết điều
gì đang chờ đón mình ở phía trước? Rồi Kesyrt sẽ phản ứng ra sao? Cậu có tìm được
Kesyrt không? Chỉ có Thượng đế mới biết, một phụ nữ đơn thân như cô ấy làm gì ở
đấy, trên mảnh đất xa lạ.
* * *
Cuộc sống
của Kesyrt bỗng nhiên bị bẻ gãy. Cô không gặp may, có thể thấy rõ điều đó ngay
từ lúc mới sinh. Kesyrt từng sống trong tình yêu thương và no đủ, chờ đợi đứa
con được sinh ra, vậy mà chỉ trong tích tắc, tất cả bỗng sụp đổ. Chỉ còn lại những
hồi ức nặng nề và một nỗi buồn.
Sau cái chết
của người chồng yêu dấu, Kesyrt gần như phát điên, nằm liệt giường, mê sảng,
khóc lóc. Vào những phút hiếm hoi khi tỉnh lại, cô lặng lẽ cười với chính mình,
cười như điên, mắng mỏ bà Haza, rồi bỗng nhiên đột ngột hỏi: “Mẹ ơi, chẳng lẽ
đây là mơ? Nói cho con biết đi!”
Chỉ mãi
hai tháng sau, Kesyrt mới bước ra ngoài đi dạo, xuống nguồn nước, ngồi lên cái
chỗ yêu thích và lặng lẽ khóc, lẩm nhẩm với chính mình, hai tay vục mạnh xuống
dòng nước.
Không biết
mọi việc rồi sẽ kết thúc ra sao, song chỉ có một nỗi đau khác đã cứu được cô. Nỗi
đau trong lòng bà Haza đã đánh quỵ bà hoàn toàn. Bà mất hết thần sắc, mặt mũi
xám ngắt, phờ phạc, không ăn uống gì được, thỉnh thoảng mới nhấp vài ngụm nước.
Đến lúc đó, chỉ có Kesyrt mới có thể tác động được. Ý nghĩ tự vẫn để đoàn tụ với
người yêu ở thế giới bên kia bay khỏi đầu Kesyrt tự lúc nào. Chỉ còn lại duy nhất
những ý nghĩ về người mẹ là đã cứu cô thoát khỏi những hành động điên rồ.
Bệnh tình
của người mẹ bắt Kesyrt phải tỉnh lại, bắt cô phải xuống làng, tiếp xúc với mọi
người.
Người dân
trong làng Duts-Khote rất thông cảm với nỗi đau của Kesyrt. Cả làng đều xuống
Shali để đưa tang chồng cô, ít ra là để chia sẻ với cô và mẹ cô.
Giờ đây,
khi nỗi bất hạnh mới lại ụp xuống ngôi nhà khốn khổ của họ, mọi người lại xúm lại
giúp đỡ: người mời thầy lang, người mang thuốc tới, có người chỉ đơn giản biếu
ít tiền hay chút quà gì đó. Như mọi khi, ông Baki-Haji lại thể hiện mối quan
tâm đặc biệt hơn.
Và có lẽ,
trong cả làng Duts-Khote, chỉ có một người là vui thầm trong bụng, đó là bà vợ
ông Baki-Haji.
- Cuối
cùng thì con mẹ phù thủy ấy cũng chết. - Bà Hadizhat nói, cốt để ông chồng nghe
thấy. - Chẳng biết một số người có chịu đựng nổi không?
Trước đó,
một vụ scandal gần như đã nổ ra. Sau đám tang chồng, khi Kesyrt được đưa về nhà
thì cả làng đổ ra đường, lặng lẽ thể hiện sự cảm thông với cô, chỉ có bà vợ ông
linh mục là mặt mày tươi rói.
- Ôi, Thượng
đế công minh! - Bà Hadizhat kêu lên. - Mọi người hãy nhìn kia, nhìn kia, hừ,
con gái quý ông, được rước đi, bây giờ lại được chở về... Mọi việc lại y như nó
phải vậy.
- Bà câm mồm
đi, đồ vô liêm sỉ. - Một bà hàng xóm hét vào mặt bà Hadizhat. - Bà không thấy xấu
hổ à?
- Tôi làm
gì mà phải xấu hổ? Tôi có cướp giật, trai gái với ai đó như một số người đâu...
Vừa lúc ấy
ông Kosum bước tới, vung tay lên. Ông không thể đánh chị dâu trưởng, nhưng ông
đã giận dữ lôi xềnh xệch người đàn bà mập ú vào trong sân, chửi bà là đồ súc
sinh tởm lợm...
Mọi người
rất ngạc nhiên khi thấy bà Haza bình phục, đứng lên, đi lại quanh cơ ngơi của mình,
còn Kesyrt, mặc dù chưa hồi phục hoàn toàn, vẫn bị người ta bắt làm vợ. Cô trở
thành vợ hai của một người đàn ông giàu có ở làng bên.
Bà Haza,
ông Baki-Haji và tất cả mọi người trong làng, bên ngoài đều làm ra vẻ không hài
lòng, nhưng trong bụng đều rất mừng vì Kesyrt lại có một tổ ấm, hơn nữa lại là
một chốn giàu sang, tử tế. Trong ngôi nhà mới, Kesyrt vẫn chưa hồi phục sau nỗi
bất hạnh, không phải động chân động tay làm gì cả, suốt ngày chỉ ngủ rồi thơ thẩn
trong sân. Nhưng buổi tối thì thật là sóng gió tởm lợm. Chồng cô là người đàn
ông cũng chưa đến mức già lắm, khỏe mạnh và hơi mập. Người đàn ông mạnh mẽ đó
đã gây cho Kesyrt không chỉ nỗi đau thể xác mà cả tinh thần khi ông ta cố cưỡng
bức cô. Lúc nào cũng vặn vẹo về người chồng cũ non choẹt của cô, rằng họ quan hệ
với nhau ra sao, cô có cảm thấy sung sướng với anh ta không.
Hằng đêm,
sau khi đã thỏa mãn dục vọng, người chồng mới của Kesyrt nằm vật ra, thở hổn hển
và ngay lập tức chìm vào giấc ngủ, vừa ngáy vừa phả ra một mùi hôi nồng nặc.
Kesyrt nghĩ,
sau tuần trăng mật, chồng cô sẽ dịu lại, tuy nhiên, sự thể hoàn toàn ngược lại.
Nỗi thèm khát của ông ta càng mãnh liệt và trụy lạc hơn, bắt vợ phải đáp ứng và
chiều chuộng mọi sự đòi hỏi của mình.
Kesyrt
không thể chịu đựng nổi tất cả những điều đó và quyết định bỏ ông ta, đó là một
việc trái ngược với phong tục tập quán người miền núi. Nửa đêm, trong khi ông
chồng vẫn còn đang ngáy, Kesyrt rời khỏi giường và bỏ đi luôn.
Dân chúng
đánh giá việc này mỗi người một ý, song tất cả phụ nữ đều thống nhất gọi cô là
con ngốc.
Kesyrt bị
dằn vặt một thời gian khá lâu, tình cảnh vô công rồi nghề, cùng với những ý
nghĩ cay đắng cứ giày vò cô mãi, cho đến một lần cô cùng đi với mẹ xuống chợ
Makhketa để bán con bò sữa và con trâu cái.
Kesyrt ngắm
nhìn chợ và vô cùng ngạc nhiên.
Vào thời
đó, chợ Makhketa hoạt động khá sầm uất. Chợ nằm ngay cạnh làng, trên khoảnh đất
rộng bên sông Bass trong hẻm núi, thu hút tất cả người dân trong khu vực. Dân
miền núi mang đến chợ các sản vật như bơ, pho mát, gia cầm và thịt, còn từ vùng
bình nguyên, dân Chechnya và dân Cozak thì mang bột, gạo và lúa đại mạch đến. Từ
thành phố Grozny người ta chở muối và dầu hỏa lên, còn đường thì thậm chí đắt
hơn cả mật ong. Từ Dagestan người ta mang đến những tấm thảm tuyệt đẹp, dụng cụ
bếp núc bằng kim loại và dao găm. Dân Digan buôn bán các mặt hàng bằng sắt, dân
Armenia và Do Thái thì trưng ra các mặt hàng mỹ nghệ bằng vàng và bạc. Còn ở chỗ
bãi sông, tách hẳn sang một bên là chợ gia súc, bán cả lừa, ngựa. Vào mọi thời
kỳ ở Chechnya, lúc nào trong chợ cũng có bán vũ khí. Mặt hàng sang trọng nhất ở
đây là hàng dệt. Mọi biến động quan trọng trong chợ đều diễn ra quanh khu hàng
dệt. Vải rất đắt, mua cả một tấm vải được coi là hào phóng, vì nhiều người
không có khả năng nên người ta thường dùng cách trao đổi. Tiền Sa hoàng được sử
dụng rộng rãi hơn, còn tiền của chính quyền Xô viết dùng rất ít vì người ta còn
chưa tin tưởng. Đơn vị đo lường chính được lấy tương đương một cân thịt thực phẩm
chính của người dân.
Suốt một
ngày, Kesyrt lang thang khắp các sạp hàng, phải chật vật lắm mới đảo hết lượt.
Chiều tối, lê về được đến nhà, hai chân mỏi nhừ, đau nhức, Kesyrt nằm vật xuống
phản và ngạc nhiên nhận ra, trong suốt thời gian lang thang trong cái chợ bẩn
thỉu, chật chội và ồn ào kia, cô không một lần nghĩ về nỗi đau của mình, ở đó
cô cảm thấy tâm hồn thanh thản và nhẹ nhõm. Còn ở nhà, những ý nghĩ nặng nề về
cuộc đời lại đè nặng trong lòng.
Chiều hôm
sau, Kesyrt nhớ lại cảnh chen chúc chợ búa với một cảm giác thanh thản nhẹ
nhõm, và không hiểu sao, cô lại rất muốn đến đấy, giữa dòng người, giữa tiếng ồn
ào và bụi bặm, giữa những câu tranh cãi và những lời tán tụng, giữa những đứa
trẻ chân đất lem luốc và những nhân vật tai to mặt lớn giàu sang, giữa những tiếng
hí của đám lừa và tiếng sủa của lũ chó hoang ngay bên chân. Hóa ra trong cái
đám đông xa lạ và dửng dưng với nỗi đau của cô, nỗi buồn và nỗi cô đơn của cô
như biến đi đâu mất, tất cả mọi người chỉ bận tâm đến công việc và nỗi lo toan
của chính mình. Ngoài chợ, tất cả mọi người, không ai nghĩ đến việc sẽ chết như
thế nào, mà chỉ nghĩ đến việc sẽ sống ra sao, người ta không có thời gian cho nỗi
đau của chính mình và nỗi đau của người khác. Cần phải mua rẻ, bán đắt, thế
thôi.
Ngày hôm
sau, Kesyrt lại đến chợ, và cô ngạc nhiên nhận thấy, khi cô hỏi giá, thậm chí
ngay cả với những mặt hàng ế ẩm nhất, người ta cũng không sốt sắng trả lời. Cô
hiểu, ở đây, mảnh khăn tang không làm người ta bận tâm: chợ búa gần gũi với với
những lo toan ở hạ giới hơn là trên thiên giới.
Ngày hôm
sau, Kesyrt cởi bỏ tấm khăn tang ra, tắm rửa sạch sẽ rồi chải lại như ngày xưa
mái tóc dày đen nhánh với những lọn tóc xoăn, gài lên một chiếc nơ nhỏ màu xanh
lục, mặc chiếc áo váy thêu hoa văn bị bỏ quên lâu ngày... Cô gái như lột xác.
Bà Haza nhìn con gái ứa nước mắt. Vào những ngày tang lễ bà cố tỏ ra cương nghị
để sưởi ấm trái tim tan nát của con gái, vậy mà bây giờ, bà không cầm lòng nổi,
ngồi so vai bên bậu cửa, ép lên ngực hai bàn tay thô kệch do cuộc sống lao động
nặng nhọc, bà lắc lắc đầu, nước mắt ứa ra trên đôi gò má nhăn nheo, hốc hác. Đó
là những giọt nước mắt vui sướng và hy vọng đầu tiên - con gái đã bắt đầu quan
tâm đến bản thân, có nghĩa là tâm hồn nó đã hồi sinh. Mà trái tim của nó thì
còn trẻ lắm...
Chỉ cần
hai tuần khảo sát khắp chợ là Kesyrt đã nắm bắt được công việc. Thời gian đầu,
cô giúp việc buôn bán cho một bà già cùng làng, sau đó cô làm ăn riêng, bắt đầu
có thu nhập, kiếm được những đồng tiền do chính mình làm ra.
Chưa thể
nói Kesyrt là một nhà buôn thực thụ và biết cách buôn bán, cũng chưa thể nói là
cô rất yêu công việc này và cảm thấy hài lòng với nó. Tuy nhiên, cô hiểu, chỉ
có ở đây, giữa chốn ô tạp, thô lỗ và lừa lọc này, cô mới có thể cùng lúc vừa
quên đi và vừa kiếm sống. Không còn cách nào khác, và cô chấp nhận cuộc sống chợ
búa này không phải là từ một cuộc sống tốt đẹp.
Công bằng
mà nói, cuộc sống của Kesyrt đang ngày càng trở nên tốt đẹp hơn. So với nhiều
người cùng buôn bán những mặt hàng như cô, thì người ta thích mua ở chỗ cô hơn.
Cô bắt đầu có bạn hàng, phần lớn là những người khá giả, họ thích được một phụ
nữ trẻ trung, xinh đẹp phục vụ, bởi lẽ khách hàng giàu có không nhìn vào giá cả
mà nhìn vào sự hấp dẫn của người bán hàng.
Nỗi lo
toan thường nhật đã dần xoa dịu nỗi đau của Kesyrt, cô bắt đầu để ý đến việc
chăm sóc bản thân, ăn mặc cũng đẹp hơn. Sức khỏe cũng hồi phục dần, trở nên
tươi tắn hơn, đôi má ửng hồng trở lại trên khuôn mặt màu bánh mật với hai lúm đồng
tiền, đôi môi he hé thắm ra. Chi tiết quan trọng nhất là cặp mắt thì đã hồi
sinh, lấp lánh. Thoạt đầu Kesyrt chỉ muốn đi tìm niềm vui, và giờ đây, cô đã
vui vẻ thật sự. Dĩ nhiên, đó là một con đường đầy gian truân, nặng nhọc, thậm
chí bẽ bàng, nhưng Kesyrt đã làm với cả tấm lòng và một niềm đam mê. Cô đã hồi
sinh trở lại, cô muốn sống, muốn kiếm tìm hạnh phúc và tạo dựng số phận.
Những người
đàn ông trẻ trung và không còn trẻ nữa bắt đầu xúm quanh sạp hàng của Kesyrt
như đàn ong bên bông hoa. Cô không xua đuổi ai, cũng không níu kéo ai, tuy
nhiên, trong lòng, cô vẫn đang tìm một chỗ dựa, vẫn hy vọng về niềm hạnh phúc của
mình.
Suốt thời
gian qua, Kesyrt chỉ quan hệ với các bà già từ làng Duts-Khote và các làng bên
cạnh, không bao giờ nhận lời đi chơi hoặc tham dự các cuộc vui với các phụ nữ
khác. Tiếng đồn cô là một phụ nữ đoan trang ngày càng được khẳng định. Cô cố giữ
gìn tiếng tốt ấy.
Các bà già
chơi với Kesyrt cũng cố tìm cho cô một vị hôn phu, cũng muốn làm bà mối. Tuy
nhiên, tự nơi sâu kín trong lòng, Kesyrt chưa thấy ai hợp với mình, chưa chấp
nhận ai, dù rất khao khát tình yêu, những cử chỉ âu yếm và một người chồng.
Mối quan hệ
hợp tác làm ăn của Kesyrt với các bà ngày càng hiệu quả. Các bà, biết rõ khả
năng của mình, cố mặc cả đến cùng để mua thật rẻ, thậm chí không chịu đặt tiền
cọc, còn Kesyrt bán rất lời. Công việc phát triển đến mức, cả chợ Makhketa đều
phụ thuộc vào hoạt động buôn bán của họ, và họ quyết định mua tất cả các mặt
hàng giá rẻ ở chợ, chủ yếu là lương thực, thực phẩm rồi đưa xuống bán ở thành
phố Grozny. Trên đường về, họ chở lên núi đủ các thứ đồ dùng công nghiệp cùng với
muối và dầu hỏa.
Việc buôn
bán thuận lợi đến mức, có lần về nhà, Kesyrt bảo với mẹ, cô sắp mua nhà ở
Grozny và họ sẽ chuyển đến sống ở đấy.
- Con làm
sao thế, điên rồi à! - Bà Haza tức giận. - Mẹ sẽ không bao giờ rời khỏi đây. Cả
cuộc đời mẹ là ở đây, và mẹ sẽ chết ở đây. Mẹ không chịu được thành phố.
- Ôi, mẹ
ơi, mẹ làm sao thế? - Cô con gái mỉm cười. - Trong cái hang này thì có gì cơ chứ?
Cả đời khốn khổ ở đây. Chẳng lẽ đây là cuộc sống hay sao, chỉ toàn bất hạnh.
- Dẫu có
thế nào thì đây cũng là cuộc sống của mẹ. Mẹ không có cuộc sống nào khác, đến
già cũng không có và mẹ cũng không mong... Còn con, hãy bỏ chợ đi, không phải
việc của con đâu. Con cần phải lấy chồng.
- Chuyển
vào thành phố rồi thì tha hồ chọn hôn phu, thậm chí có thể tìm được cho mẹ nữa.
- Mẹ không
đùa đâu. Trong lúc còn sống, mẹ sẽ không đi đâu cả, mà mẹ cũng không cho con
đi. Cứ lang thang ngoài chợ, con sẽ giống ai?
- Giống
ai, mẹ nói đi?
Bà Haza đột
ngột im lặng. Ngay sau đó, Kesyrt nhận ra sự vô lễ trong câu hỏi của mình. Cả
ngày hôm ấy cô cố tìm mọi cách để làm vui lòng người mẹ câm lặng và u buồn.
Sáng hôm sau, Kesyrt dịu dàng ôm hôn người thân duy nhất trên đời của mình với
một nỗi đau trĩu nặng trong tim, vừa khóc vừa quay lại cái chợ hôi thối kia để
kiếm sống.
Mặc dù
Kesyrt nhào ra chợ như đến với nguồn sống và cứu cánh duy nhất, nhưng sự vùng vẫy
ấy phải băng qua nỗi bế tắc, nỗi đau, nỗi cô đơn và sự nghèo đói. Cuộc sống ở
chợ là cuộc sống của những kẻ lãng du dưới bầu trời rộng mở, mùa hè - nóng bức
và bụi bặm, mùa đông - giá lạnh và gió lùa, là mưa xối xả và nắng chang chang.
Đó là cuộc sống mà mỗi ngày phải vác trên vai một vật nặng, là chặng đường hơn
bảy mươi cây số từ Makhketa đến Grozny, qua núi qua đèo, qua con sông rộng
Argun, qua vùng đồng không mông quạnh lúc nào cũng chực sẵn các toán cướp và đồng
bọn của chúng, với vô số các trạm kiểm soát của công an sẵn sàng tống tiền và
xúc phạm.
Ngoài ra,
bất cứ một thằng đàn ông nào cũng muốn, không chỉ tán tỉnh mà còn muốn ngủ với
Kesyrt nữa. Quả thật, Kesyrt là một người đẹp, đang ở độ tuổi sung mãn nhất, thời
kỳ mà sự quyến rũ nữ tính đang chín muồi, có sức hấp dẫn và mê hoặc. Rất ít người
đàn ông nào lại không để mắt đến cô, thậm chí đàn bà cùng muốn nhìn ngắm rồi
ganh ghét.
Tóm lại, mẩu
bánh mì kiếm được cũng chẳng dễ dàng gì. Mọi nỗi khó khăn không lường trước có
thể xuất hiện bất cứ lúc nào và gần như hàng ngày.
Vào cái
ngày khi ông Baki-Haji và Tsanka đi đến làng Nui-Tso, thì Kesyrt cùng với bạn
hàng của mình lên đường đến thành phố Grozny.
Họ thuê
chiếc xe tải ngựa kéo cùng với người đánh xe, rồi chất hàng lên xe. Họ chở vào
thành phố nào là sữa dê, bơ, kem chua, pho mát cừu và pho mát tươi từ sữa bò,
thịt cừu hun khói, rồi một bao đậu trắng, một bao đậu đỏ, một bao hạt hồ đào, bốn
bao bột ngô, một thùng mật ong, táo và lê dại từ năm ngoái, cùng với ba mươi
con gà mái, năm con gà tây to và một con ngỗng cổ dài ngu ngốc không hài lòng với
những gì đang xảy ra với mình. Tất cả lũ gia cầm đều bị trói chân đặt trên đống
hàng. Còn chính những người đi buôn thì đi bộ bên cạnh chiếc xe, vác trên vai
hàng trăm quả trứng.
Đường từ
Makhketa đến Grozny phải qua huyện lỵ Shali, sau đó băng qua con sông lớn
Argun, từ đó đến thành phố chẳng còn bao xa.
Vào thời ấy,
sông Argun có hai cây cầu: một cầu gần làng Atagy, cầu kia cạnh làng Ustrada.
Muốn đi qua cầu, phải vòng thêm mười kilomet, hơn nữa phải qua đồn công an, phải
nộp lệ phí. Bởi vậy mà dân chúng ra vào thành phố thường đi tắt, băng qua chỗ bến
cạn trên sông Argun nằm giữa hai làng Belgata và Chechen-aul.
Quá trưa
ngày hôm ấy, họ đã tới chỗ bến cạn trên sông Argun. Mặt trời mùa xuân mà nóng
như rang, thiêu đốt người bộ hành.
Từ xa họ
đã nghe thấy tiếng nước chảy. Người đánh xe, một ông lão rụng hết răng, bộ râu
quai nón hoa râm lưa thưa, ngồi ngất ngưởng trên đống hàng hóa, là người đầu
tiên nhìn thấy mặt sông rộng mênh mông. Ông không nói gì cả, chỉ uể oải chỉ cái
roi về phía dòng sông Argun, lắc đầu vẻ không hài lòng, rồi nhổ một bãi nước bọt
xuống chân con ngựa già ướt đẫm mồ hôi.
Đoàn xe nhỏ
đi theo sườn dốc xuống bờ sông, mọi người chửi thầm trong bụng rồi sau đó chửi
thành lời dòng sông bất trị và số phận xui xẻo. Ở đây đã có một số xe ngựa chất
đầy hàng.
Đám đàn bà
mệt mỏi vội quẳng giỏ xách xuống, chạy ngay vào trong bụi, sau đó lần lượt xuống
sông rửa mặt mũi, tay chân trong làn nước đục ngầu, giá lạnh. Chỉ cần nhìn thấy
vẻ hung dữ và tiếng gầm réo của dòng sông cũng đủ làm người ta lạnh toát sống
lưng.
Ngày hôm ấy
nóng nực, oi bức. Dãy núi phía xa cùng với đường chân trời trở nên mờ mờ ảo ảo
sau lớp sương mù.
Khác với
vùng núi, ở vùng bình nguyên này, cảnh vật đều đã thức dậy từ lâu, xanh mướt,
trẻ trung và sạch sẽ tinh khôi. Chỗ bến cạn rộng rãi bên sông Argun mọc đầy những
cây thấp và bụi cây rậm rạp, tiếng chim hót rộn rã như trong một bữa tiệc cưới,
cố át đi tiếng gầm réo của dòng sông.
Mọi người
nghỉ ăn trưa, toàn đồ khô như mọi khi. Kesyrt ra sông xách một xô nước nhỏ, chẳng
cần chờ lắng, mọi người cùng uống xô nước đục và lạnh ngắt.
Chỉ cần ngồi
xuống là những tiếng cười đùa, la hét của phụ nữ bắt đầu vang lên.
Mấy người
đàn ông từ đoàn xe khác mò tới.
- Chào các
bà! Chúc ngon miệng! - Họ đồng thanh cất tiếng.
- Vậy các
anh đang sống khỏe mạnh và hạnh phúc chứ? - Bà lớn tuổi nhất đáp thay mọi người.
- Mời ngồi xuống đây, cùng ăn.
Khi đàn
ông xuất hiện, tất cả đàn bà đều tỏ ra lễ phép.
- Cám ơn,
cám ơn. Các bà cứ ăn đi, chúng tôi vừa ăn xong.
Bữa ăn lại
tiếp tục dưới ánh mắt của đám đàn ông.
Lúc đó lại
có thêm một đoàn xe ngựa chở đầy củi tấp vào bến cạn. Người đàn ông gân guốc,
vai u thịt bắp tên là Batyk ở làng Belgata nhảy từ trên xe xuống. Batyk nổi tiếng
khắp vùng vì lối sống phóng đãng, lúc nào trên miệng cũng vắt vẻo điếu thuốc
rê, mùi thuốc nồng nặc kéo dài cả dặm. Người ta đồn, Batyk dù đang độ tuổi sung
sức, nhưng đầu óc rỗng tuếch và bẩn thỉu nữa. Thỉnh thoảng anh ta cũng kiếm đủ
tiền để mua thuốc lá và rượu vodka. Vợ Batyk năm nào cũng đẻ, tuy nhiên chính
anh ta cũng không biết chính xác mình có bao nhiêu đứa con và cũng chẳng quan
tâm đến chuyện đó.
Kể từ khi
Batyk nhìn thấy Kesyrt, tâm trí của anh ta như phát điên lên, lúc nào cũng nghĩ
về cô. Anh ta tìm đủ mọi lý do để đến gần, trò chuyện, bông đùa, và tận dụng mọi
cơ hội để đụng chạm vào cơ thể vô cùng quyến rũ của Kesyrt.
Cảm nhận
được sự quan tâm bất thường của Batyk đối với mình, Kesyrt luôn tìm cách né
tránh con người suồng sã, bẩn thỉu, với đủ loại bọ rệp bám đầy trên người và
râu tóc, chỉ gây cho cô cảm giác buồn nôn.
- Salam
alleikum. - Batyk hét lên, chìa tay ra với đám đàn ông.
-
Vo-alleikum. - Những người kia đáp lại.
- Chúc
ngon miệng. - Batyk nói với đám phụ nữ nhưng mắt chỉ nhìn vào mỗi Kesyrt.
- Cầu xin Thượng
đế phù hộ cho anh. - Đám phụ nữ đáp lại. - Ngồi xuống đây, ăn trưa với chúng
tôi.
- Cám ơn,
cám ơn. - Anh ta nói to bằng một giọng suồng sã.
Đôi mắt
nâu nheo nheo của Batyk như lóe lên dưới ánh nắng.
- Không đủ
đàn ông cho từng này các bà, - Batyk tiếp tục. - Lang thang như dân Digan vô chủ,
phải lấy chồng đi thôi.
- Này,
Batyk, anh lấy tôi đi. - Bà già nhất trong đám vừa nhai vừa nói.
- Bà già rồi,
ai thèm lấy? Loại bà già bẳn tính như bà, ở nhà tôi cũng có một mụ.
- Chính
anh mới là cái gốc cây già mục rỗng. - Tôi có trẻ hơn gấp ba lần cũng không
thèm lấy anh. - Bà già, cố giấu nỗi bực tức, tiếp tục với tiếng cười giễu cợt.
- Thôi, bà
đừng càu nhàu nữa. - Batyk hạ giọng xuống. - Tốt nhất là bà hãy khuyên cô
Kesyrt lấy tôi đi. Người đàn ông như tôi xứng đôi lắm, sức khỏe dồi dào nữa...
Tôi sẽ bế cô ấy trên tay, chẳng phải bận tâm lo nghĩ gì cả. Nếu cứ lang thang với
các bà, già đi lúc nào cũng không biết.
Kesyrt
càng cúi đầu thấp xuống, vết đỏ lan đến tận cổ, có cái gì đó như đang chẹn
ngang họng.
- Này, - Đột
nhiên một người đàn ông chen vào, nhếch miệng cười mỉa. - Nếu anh bơi qua sông
hai lượt qua lại, cô Kesyrt sẽ là của anh.
Mọi người
cười ồ lên.
- Các anh
cười cái gì, tưởng tôi không bơi được à? - Batyk hăng lên. - Tôi có thể đánh cược
với bất cứ ai. Chỉ có điều khi đó Kesyrt sẽ là của tôi.
- Chẳng việc
gì phải mang tôi ra để mặc cả. - Kesyrt bật lên.
- Im đi, đừng
làm ồn, - Các bà thì thầm trấn an cô. - đùa một chút cũng không sao.
- Sao mọi
người im lặng thế? - Batyk nóng nảy hét lên.
Anh ta chống
đôi tay vạm vỡ vào hông, vươn cao cái cổ bò mộng lên, mạch máu trên mũi và trên
mặt lúc nào cũng đỏ ửng vì rượu giờ lại càng đỏ hơn. Batyk liếc nhìn mọi người
xung quanh bằng ánh mắt ngây dại.
- Này
Batyk, tôi sẽ giữ lời đánh cược với anh. - Đột nhiên bà già bị xúc phạm lúc nãy
lên tiếng. - Nếu anh bơi qua sông Argun rồi quay về cùng với giỏ trứng của
Kesyrt, cô ấy sẽ là của anh.
- Bà sẽ chịu
trách nhiệm? - Batyk xích lại gần bà.
- Có mọi
người làm chứng ở đây, tôi hứa.
- Mọi người
làm sao thế, điên cả rồi à? - Kesyrt hét lên. - Lảm nhảm cái gì vậy?
- Cứ yên
tâm, không có gì đâu. - Các bà trấn an cô.
- Cái giỏ
của cô Kesyrt đâu? - Với sự ngang bướng như con bò đực, Batyk rống lên.
- Đây. Cầm
lấy.
Batyk bất
ngờ nhảy tới chỗ cái giỏ, cặp dưới nách như đồ chơi rồi chạy ra sông.
- Đứng lại,
thằng khùng, nước lạnh lắm, mày sẽ bị ướp lạnh và sẽ chẳng cần cho ai nữa đâu.
- Đám đàn ông cười hô hố, hét lên.
- Bỏ cái
giỏ của tôi xuống. Bỏ xuống! - Kesyrt gọi với theo.
- Anh ta
đã được ướp rượu rồi, không sao đâu. - Các bà cười thích thú.
Trên đôi
chân vòng kiềng to khỏe và ngắn ngủn, Batyk tự đắc đi xuống sông, nhẹ nhàng hất
chiếc giỏ lên giữa hai bờ vai rộng và thận trọng lội xuống nước. Dựa vào tấm
lưng co rúm lại có thể thấy rõ nước lạnh trong sông đang hành hạ anh ta. Dòng
chảy rất mạnh như muốn đốn ngang chân, Batyk cố đứng vững trên lớp cuội sỏi
trơn tuột. Đột nhiên, dưới sức nặng của cả cơ thể đè xuống, một viên đá dưới
chân bật ra, Batyk bị mất thăng bằng, ngã nhào xuống nước. Dòng nước cuồn cuộn
thích thú tóm lấy kẻ can đảm, cuốn anh ta một hai vòng rồi ném ra giữa dòng.
Batyk còn
cố giữ lấy chiếc giỏ trứng, nhưng nó đã vuột ra và biến thành chiếc giỏ không
chỉ trong chớp mắt, trôi xa về phía dưới.
Chàng hiệp
sĩ như bừng tỉnh, la hét ầm ĩ, chân tay đập loạn xạ. Do cử động quá mạnh, đột
nhiên Batyk cảm thấy bộ quần áo bằng vải bị rách toạc và bắt đầu tuột khỏi cơ
thể, buộc anh ta một tay phải lo giữ quần, tay kia chèo chống trong làn nước lạnh
như băng. Sau một hồi vật lộn không có kết quả, các con sóng trùm lên người
Batyk, kéo anh ta xuống đáy sông, đập đầu gối vào một tảng đá lớn làm anh ta bị
sặc nước. Batyk giơ tay vùng vẫy ngoi lên và nhìn thấy ngay trước mặt chỉ mỗi
chiếc quần của mình đang nhấp nhô trên làn nước và trôi xuống dưới. Quên hết mọi
chuyện trên đời, Batyk lao theo chiếc quần, suýt nữa thì tóm được nó, nhưng nó
đã biến mất.
Nhìn thấy
chuyện chẳng lành, đám đàn ông chạy dọc theo bờ sông để tìm kẻ bất hạnh, tranh
cãi ầm ĩ, nhưng chẳng người nào dám lội xuống sông. Chạy khoảng năm trăm mét, họ
tìm thấy vị hôn phu hẩm hiu, cả người tím ngắt, run cầm cập, đang ngồi xổm, cố
kéo chiếc áo sơ mi dài che cái mông trắng hếu.
Hai ngày
sau, Batyk xuất hiện trong chợ Grozny, say khướt. Mọi người đều biết chuyện vừa
xảy ra, giơ tay chỉ chỏ, xì xào và cười toáng lên.
Ý nghĩ về
sự trả thù tàn bạo dần hình thành trong tâm hồn xấu xa của Batyk. Anh ta tập hợp
quanh mình những kẻ bụi đời, móc túi, rồi xúi giục, bày vẽ và hướng dẫn chúng.
Buổi chiều,
sau khi đám phụ nữ bán xong hàng hóa, đang kiểm lại số tiền thì không biết từ
đâu một tên du đãng nhảy ra, giật ngay gói tiền trên tay Kesyrt rồi ném cho đồng
bọn và biến ngay trong đám đông.
Người ta
tóm ngay được tên trộm thứ nhất, nện cho một trận, véo cho gần đứt tai, nó đành
phải kể hết ra: mọi chuyện là do Batyk bày vẽ.
Sáng hôm
sau, người ta lôi cổ tên khốn lúc nào cũng say xỉn ra, vừa đe dọa vừa thuyết phục,
nhưng đều vô ích: Batyk chối phắt. Khi đó, mọi người liền tổ chức một tòa án
tôn giáo theo kinh Koran ngay tại chợ. Mọi việc cũng kết thúc nhanh chóng: kẻ
phóng đãng không thèm chớp mắt, đặt tay lên cuốn kinh Koran, thề là không liên
quan đến vụ việc. Còn thằng bé, do trong độ tuổi vị thành niên và ngốc nghếch,
nên những lời khai và lời thề của nó trên cuốn kinh Koran không có giá trị.
Mọi việc kết
thúc như vậy. Các bà bạn hàng của Kesyrt chửi bới ầm ĩ và kết tội Kesyrt là người
có lỗi trong mọi chuyện. Cô con gái đáng thương của bà Haza cố tỏ ra vững vàng
trước mặt mọi người, nhưng đến tối thì không sao ngủ được, cứ khóc lóc, dằn vặt
mãi.
Kesyrt ngồi
trong chợ, không biết phải làm gì, thì đột nhiên ánh mắt đờ đẫn của cô bắt gặp
dáng hình cao gầy như cây sào của chàng trai nhà Arachaev.
- Tsanka,
Tsanka! - Kesyrt kêu lên rồi băng qua đám người lao về phía chàng trai.
Hai người
ôm chặt lấy nhau như bà con ruột thịt, nhìn nhau chằm chặp trước những ánh mắt
tò mò của dân chúng xung quanh.
- Anh làm
gì ở đây thế? Mẹ tôi thế nào? Anh có gặp mẹ tôi không? - Kesyrt dồn dập hỏi.
- Mọi việc
vẫn tốt. - Tsanka đáp, bất chợt mỉm cười và đỏ bừng mặt.
Vẫn tiếp tục
hỏi, không kịp để cho Tsanka trả lời đến nơi đến chốn, Kesyrt kéo Tsanka đến
bãi cỏ bên cạnh, tránh xa đám đông trong chợ. Họ ngồi dưới bóng râm tán cây
xanh mướt. Cả hai không giấu nổi niềm vui được gặp nhau. Tsanka cố tỏ ra là người
đã trưởng thành, rút trong túi ra gói thuốc, vụng về quấn hút, rít một hơi dài
rồi ho sặc sụa.
- Nhìn
xem, anh đã lớn rồi đấy, thậm chí học đòi hút thuốc nữa. - Cô con gái bà Haza
đùa. - Vứt cái của nợ ấy đi. Tôi không chịu nổi cái mùi đó, hơn nữa, cái trò ấy
cũng không hợp với anh đâu.
Định làm
cô gái ngạc nhiên hơn, Tsanka sờ tay vào cạp quần, cố để rơi khẩu súng ngắn ra,
và cậu đã thành công.
- Ôi, cái
gì thế? - Kesyrt hét lên.
Tsanka, vẫn
ngậm điếu thuốc bên mép, nghiêng người cố làm ra vẻ bình thản cầm khẩu súng ở
dưới đất ẩm lên rồi nhét vào chỗ cũ.
- Anh mang
theo cái ấy làm gì? - Kesyrt vẫn không khỏi ngạc nhiên. - Anh còn bé mà.
- Cô bé
thì có. - Tsanka làm ra vẻ quan trọng.
Họ nói
chuyện với nhau rất lâu, cười luôn miệng, nhắc lại đủ chuyện, từ chuyện hồi bé
cùng tắm với nhau trong suối, cho đến cuộc khiêu vũ trong lễ hội mùa đông dẫn đến
ẩu đả. Chỉ có một chuyện cả hai đều không nhắc tới: đó là chuyện Tsanka nhìn trộm
Kesyrt tắm ban đêm. Hai người đều né chuyện này vì ngượng, nhưng thực ra nó đã
nằm ngay trên đầu lưỡi.
Cuối cùng,
Kesyrt kể về những nỗi bất hạnh của mình, về người chồng đầu tiên Salakh, cô
khóc sướt mướt, phải lấy chiếc khăn trùm đầu lau nước mắt.
Buổi chiều,
sau khi đã đưa ngựa cùng với xe kéo vào bãi, Kesyrt dẫn Tsanka đến nghỉ đêm tại
ngôi nhà gỗ mà họ đã thuê. Trong căn phòng nhỏ tối om, tám người đàn bà nằm
ngay dưới sàn nhà đầy rệp, lót lưng bằng những chiếc chăn mỏng dã chiến.
Tsanka được
xếp nằm trên tấm ván lót cỏ khô đặt dưới cái chái nhỏ che thùng nước. Cậu không
thể nằm lọt trên tấm ván ngắn ẩm mốc, nồng nặc mùi sữa chua, chân thòi ra, đành
phải nằm nghiêng và co người lại.
Cho đến tận
sáng Tsanka không sao chợp mắt được: chỗ nằm không thoải mái, rệp cắn khắp người,
lũ chuột cống béo múp ngoe nguẩy những cái đuôi dài ngoằng, ngang nhiên sục sạo
giữa các xô chậu, còn đằng sau cánh cửa là các bà, vừa ngáy vừa lảm nhảm trong
mơ, và Kesyrt cũng nằm ở đấy.
Tsanka trằn
trọc cả đêm, toàn nghĩ về Kesyrt, thương cho cô, mơ mộng sẽ tận tâm phục vụ cô
suốt đời, bảo vệ cô, yêu thương cô, chăm sóc cô, cưới hỏi cô, rồi hai người sẽ
sinh một đàn con, cùng sống trong hòa thuận và hạnh phúc suốt đời. Còn cái thằng
khốn nạn Batyk, sáng mai cậu sẽ tóm cổ hắn, nện cho hắn một trận, bắt hắn phải
trả lại toàn bộ số tiền, thậm chí phải xin lỗi Kesyrt nữa. Nếu đồ cặn bã ấy
không nghe, có thể cậu sẽ bắn chết hắn như bắn con chó hoang mà không ai thèm bận
tâm.
Với những
ý nghĩ ấy, Tsanka thiếp đi lúc trời gần sáng, trong giấc mơ cậu đánh cho tên khốn
một trận ra trò, đến nỗi hắn phải van xin tha thứ, nhưng Tsanka không nương tay
- kẻ nào xúc phạm Kesyrt, kẻ ấy phải bị trừng phạt đích đáng để làm gương cho
những người khác. Trong giấc mơ, chàng trai đánh nhau hăng tới mức rơi từ trên
tấm phản ngắn xuống đống xô chậu đựng nước bên dưới làm tất cả đổ nhào. Người đầu
tiên chạy tới cứu Tsanka chính là Kesyrt. Sau khi hiểu rõ sự tình, cô bật cười
lảnh lót, còn Tsanka thì chửi toáng lên, bỏ ra sân. Vẫn còn bị ám ảnh bởi những
cảm xúc trong mơ, cậu tức giận nhổ toẹt lên người con chó lông lá bù xù đang nằm
trên bậc tam cấp.
Đến sáng,
mọi người phải xếp hàng lần lượt vào cái nhà vệ sinh hoang phế hôi thối nồng nặc.
Hầu như chẳng kịp rửa ráy, cầu nguyện và ăn sáng, các bà phụ nữ với sự chán
ghét đối với tất cả mọi thứ trên đời, lại theo thói quen rồng rắn ra chợ.
Kesyrt và Tsanka cũng đi theo sau họ. Như hôm qua, chàng trai cố đòi Kesyrt phải
chỉ cho cậu tên khốn Batyk để cậu thanh toán với hắn. Hôm qua, Kesyrt chỉ cười
mỉa và trêu chọc cậu, nhưng hôm nay, sự hung hăng của Tsanka không chỉ làm cho
Kesyrt mà cả những người xung quanh phải phát ngán.
- Thôi đi.
- Cô bực bội nói. - Hắn sẽ bẻ vụn tất cả xương sườn của anh.
Bị chạm
lòng tự ái, Tsanka cau mặt không thèm nói gì nữa, suốt chặng đường chỉ cắn môi
và nắm chặt hai nắm đấm.
Không như
những ngày trước, hôm đó là một ngày u ám. Chiều qua, những đám mây đen đã vần
vụ ở phía đông, đến đêm thì phủ kín bầu trời, mang theo cơn mưa nhỏ và giá lạnh
chán ngắt.
Sự thay đổi
đột ngột của thời tiết làm cho cảnh vật như đơ ra, chết lặng dưới những cơn gió
bấc. Các chồi lá non trên cây như mềm ra, những chùm hoa anh đào trắng tinh
khôi rụng đầy dưới đất như một tấm thảm, che kín những chồi cỏ non đang nhú
lên. Khắp nơi toàn vũng nước, đất nhão dính bết dưới chân. Đâu đó một con quạ
rúc lên ảo não. Không thèm để ý đến người đi đường, lũ chó đực hối hả bám theo
một con chó cái lông lá bù xù. Ngay từ sáng sớm, hàng đoàn xe ngựa chất đầy
hàng hóa từ tất cả mọi ngóc ngách của Chechnya đổ về chợ, đôi chỗ làm tắc đường.
Lũ ngựa hí inh ỏi, dân chúng la hét, bên đường một đứa bé chân đất, mặt mày
nhem nhuốc đang một mình gào khóc thảm thiết vì quá hoảng sợ. Bên dưới chiếc áo
rách rưới hở ngực nhìn thấy cả cái bụng lép kẹp bẩn thỉu với cái rốn lồi cứ chạy
lên chạy xuống theo mỗi tiếng gào.
- Tránh
ra, tránh ra. - Người đàn ông to lớn râu ria xồm xoàm ngồi trên xe hét lên.
- Đi đâu
thế? Mù à? - Những người khác vặc lại.
- Chạy lại
đây, lại đây, nhanh lên. Tôi đã xí chỗ ở đây rồi. - Một giọng nữ the thé.
- Dắt con
lừa đi, đồ đần độn đáng thương ạ!
- Chính mày mới là con lừa, cả cha mày cũng là đồ lừa.
- Chính mày mới là con lừa, cả cha mày cũng là đồ lừa.
- Mày nói
cái gì thế, thằng khốn kia? Thử nhắc lại xem nào!
- Thôi đứng
làm ồn nữa. Cứ đứng đấy mà cãi nhau, chỗ tốt người ta chiếm hết rồi.
- Tổ tiên
chúng ta có đạo luật rất đúng, trước bữa trưa không cho những kẻ loắt choắt vào
chợ để khỏi phải cãi nhau.
- Anh bảo
ai loắt chắt, còn anh như cây sào chọc cứt ấy.
- Tất cả
phải đi kiểm tra vệ sinh dịch tễ. - Một người đàn bà Nga mặc chiếc áo choàng trắng
nhàu nhĩ, bên ngoài choàng áo bông dài, hét lên bằng một giọng choe chóe.
Đứng ở một
chỗ cao bên cạnh, người công an phụ trách chợ, dáng vẻ quan trọng đang cẩn thận
tính toán khoản thu nhập hôm nay của mình và phân vân không biết phải trích cho
lãnh đạo bao nhiêu. Cuối cùng anh ta quyết định: hôm nay xấu ngày, việc buôn
bán không sôi động, tức là thu nhập ít, mà cũng chẳng ai muốn phơi mặt giữa thời
tiết thế này, khác gì cực hình để thêm bớt một xị nữa. Dĩ nhiên, mọi thứ đều
không mất tiền, nhưng cũng phải vòi vĩnh, năn nỉ mới có. Điều quan trọng là
lương tâm cảm thấy trong sạch, phân chia cho công bằng như mọi khi.
Ngay cổng
vào chợ, đoàn người dồn cục lại, đôi chân như bị dính chặt trong bùn đất nhão
nhoét, trơn trượt nhưng không thể ngã được vì bị dòng người nêm chặt, không có
chỗ để ngã.
Sợ đánh mất
khẩu súng ngắn, Tsanka, một tay giữ chặt khẩu súng, tay kia ép sát vào mạng sườn
gầy giơ xương, hững hờ trôi theo dòng người. Đúng lúc ấy, không hiểu vô tình
hay chủ ý, một cô bạn hàng của Kesyrt đứng cạnh Tsanka, lấy cùi chỏ thúc mạnh
vào mạng sườn chàng trai. Tsanka nhìn xuống.
- Anh có
muốn tìm thằng khốn Batyk không? - Đột nhiên cô gái rít lên như một kẻ phản loạn.
Tsanka
không nói gì cả, cậu cố suy nghĩ.
- Sáng nào
hắn cũng ở chỗ quán bia. Nhìn sang phải đi. Có thấy cái nhà mái đỏ không? Tôi bị
người ta che khuất không thấy... Hắn ở đấy với đám bạn nhậu. Phải nện cho hắn một
trận ra trò trong khi hắn còn chưa uống hết số tiền cướp được. Anh là một thanh
niên can đảm và mạnh mẽ, anh có thể dễ dàng xử lý hắn... Chỉ thương cho Kesyrt.
Thằng khốn cứ bám theo, muốn chiếm đoạt cô ấy, lạy chúa, nếu không bị trừng trị,
không biết hắn còn nghĩ ra những trò đê tiện gì nữa. Kesyrt trẻ trung, xinh đẹp,
nhưng không có ai bảo vệ. Thật đáng thương, chết mất thôi...
Tsanka
không đáp gì cả, cậu vẫn đi theo đám đông về phía cổng chợ, ngoái đầu nhìn ngôi
nhà mái đỏ. Sau đó, Tsanka cố tìm Kesyrt trong đoàn người, cô gái bị tách ra ở
đâu đó phía trước, chỗ đám đông quần áo sặc sỡ.
Một tình cảm
nào đó không rõ ràng bắt đầu hiện lên trong óc Tsanka. Bàn tay bất giác luồn
vào trong bụng, chạm vào khẩu súng ngắn bằng thép, tạo cho Tsanka cảm giác quyết
tâm và tin tưởng. Cậu hiểu, mình phải bảo vệ Kesyrt, phục hồi sự công bằng và
trừng trị kẻ khốn nạn. Với những ý nghĩ đó, máu trong cơ thể trẻ trung của cậu
chảy rần rật, cặp mắt sáng lên, đảo bốn phía.
Tsanka
dùng hai khuỷu tay gạt mọi người ra để lấy lối đi giữa các hàng quán trong chợ.
Cậu lại đưa mắt quan sát tìm kiếm Kesyrt trong đám đông đang hối hả, tất bật
chuẩn bị cho việc mua bán. Cậu đẩy mọi người ra, tiến về phía ngôi nhà mái đỏ xấu
xí, tường gạch lở lói, nằm tách hẳn khỏi khu chợ.
Một cảm
giác kiêu hãnh và thương hại đối với tất cả các tiểu thương bỗng xuất hiện
trong đầu Tsanka. “Một đám người thật nhỏ bé. - Cậu thầm nghĩ. - Chẳng lẽ cái
đám đông xấu xí kia, đang buôn bán mọi thứ trên đời, kể cả thân xác của chính
mình, lại có khả năng tự bảo vệ, chưa nói đến việc bảo vệ một phụ nữ không quen
biết nào đó? Còn mình thì có thể, mình phải làm, đó là việc của mình... Dẫu có
thế nào, mình cũng sẽ bắn gục con lợn hôi thối ấy... Người ta sẽ phải cám ơn
mình vì điều đó”.
- Tsanka,
Tsanka, anh đi đâu thế? - Bất ngờ Tsanka nghe thấy giọng nói dễ thương của
Kesyrt.
Chàng trai
dừng lại, quay đầu. Kesyrt hét qua các quầy hàng:
- Đứng lại!
Chờ tôi với!
Cô gái
nhanh nhẹn nhảy qua đống vải vóc quần áo, để lại trên đấy những vết bẩn nhỏ.
- Mày chen
đi đâu thế, con mọi kia. - Bà bán vải hét lên.
- Kêu cái
gì? Có sao đâu. - Cũng bằng một giọng như vậy, Kesyrt đáp lại.
Bà bán vải
tiếp tục chửi bới nữ vận động viên nhảy xa trẻ tuổi.
- Sao bà ấy
làm ầm ĩ lên thế, bà ấy muốn gì hả? - Tsanka ngạc nhiên, định bước lại chỗ bà
bán vải đang cằn nhằn.
- Thôi đi.
- Kesyrt dịu dàng nói, nhẹ nhàng kéo chàng trai đi về hướng khác. - Nếu cứ phải
xử lý từng chuyện vặt vãnh như vậy, thì đây không còn là chợ nữa mà là một cuộc
chửi bới tập thể... Đi thôi.
Kesyrt lôi
Tsanka ra khỏi đám đông, đứng trước mặt cậu, hỏi:
- Anh định
đi đâu đấy?
Tsanka ngắc
ngứ, không biết nói sao, đồng thời lại muốn cho Kesyrt biết, cậu đang đi đâu và
sẽ làm gì.
- Tôi đi
xem ngựa. - Cuối cùng cậu nói dối.
- Xem ngựa
không đi hướng này mà hướng kia... Sao mặt anh trắng bệch ra thế, có chuyện gì
vậy? - Kesyrt nhìn thẳng vào mắt Tsanka.
- Có gì
đâu. Thế có chuyện gì à?
- Anh đang
giấu tôi điều gì đó. Nhìn mặt là biết ngay. - Kesyrt vẫn không chịu.
Đúng lúc ấy,
có một người đi ngang qua, thô bạo thúc cái bao nặng vào lưng Kesyrt, cô loạng
choạng đổ cả người vào bộ ngực lép kẹp của Tsanka. Chàng trai bất giác nắm lấy
đôi tay mềm mại của cô gái, cố giữ cô lại, ngay sau đó họ rời nhau. Tuy nhiên
Tsanka đã cảm nhận được sự đàn hồi của bộ ngực Kesyrt, sự quyến rũ của cơ thể,
hơi thở đứt quãng và sự gần gũi của cặp môi mềm. Tsanka có cảm giác, hình như
Kesyrt ôm cậu chặt hơn và lâu hơn mức cần thiết một chút.
Kesyrt ngước
mắt nhìn thẳng vào đôi mắt thơ ngây màu xanh da trời của Tsanka đã trở nên sẫm
hơn do tiết trời u ám. Có cảm giác như cô đọc được mọi ý nghĩ và tình cảm của cậu.
Cô gái mỉm cười để lộ ra hàm răng nhỏ đều, trắng như tuyết, chút lợi màu hồng hồng.
Khuôn mặt cô gái cũng ửng đỏ, có cảm giác cái màu đỏ ấy như loang ra từ hai lúm
đồng tiền nhỏ trên cặp má màu bánh mật và từ nụ cười đầy quyến rũ kia.
Sự đụng chạm
vào cơ thể Kesyrt làm Tsanka run lên, máu chảy rần rật, đánh thức những khát vọng
đã làm cậu mê mẩn bấy lâu nay.
- Nào, ta
đi thôi, tôi sẽ chỉ đường cho anh. - Cô gái nói, nụ cười vẫn trên môi.
Tsanka còn
đứng lại trong giây lát, không biết phải nói gì, ý nghĩ lúc nãy của cậu hoàn
toàn khác, cuối cùng cậu vội bật ra:
- Không,
không, Kesyrt. Tôi có việc... Tôi sẽ quay lại ngay. Tôi sẽ tìm cô ở đâu?
- Tôi sẽ ở
chỗ các hàng vải. - Kesyrt mỉm cười.
- Cô mua vải
làm gì? - Tsanka hỏi cho có chuyện.
- Làm gì
là thế nào? May áo váy. Tôi muốn lấy chồng. - Kesyrt mỉm cười giễu cợt, dịu
dàng đáp, cặp mắt đen làm ra vẻ điệu đàng, nhướn lên, kéo theo hàng mi dày.
Tsanka thở
dài, nóng nảy quay mặt đi.
- Tôi sẽ
quay lại ngay. - Cậu bật ra, cố thoát khỏi sự cám dỗ, tay thọc vào trong túi.
Lúc này chợ
đã trật tự và yên tĩnh hơn. Người bán ngồi kín tất cả các chỗ trống, nôn nóng
chờ đợi khách hàng, tất bật sắp xếp hàng hóa, nhẩm tính giá cả, hy vọng về những
khoản lợi nhuận, liếc mắt theo dõi sạp hàng bên cạnh với một sự ganh ghét và những
cái cười nhếch mép. Mọi người đều cố tô điểm cho món hàng của mình: lau chùi những
quả táo, phủi bụi trên các bao bột, đánh bóng các đôi giày, cọ rửa lớp phân bám
trên vú con bò sữa, ứa nước mắt hôn vào môi con ngựa, con vật duy nhất nuôi sống
gia đình nhưng vì túng bấn nên đành phải chia tay với nó.
Tsanka rời
khỏi khu chợ, vẻ bất cần đời. Lòng quyết tâm trừng trị kẻ xúc phạm Kesyrt càng
lúc càng trở nên mãnh liệt. Dù vẫn chưa biết phải làm gì, song có một điều
Tsanka biết chắc, đó là phải hành động quyết liệt cho đến thắng lợi cuối cùng.
Cậu tin chắc sẽ bắt tên khốn phải trả lại số tiền và xin lỗi. Cậu sẽ cho mọi
người thấy, cậu có khả năng thế nào! Mọi người phải biết thanh niên làng
DutsKhote là những người thế nào! Thằng khốn say xỉn kia phải quỳ xuống van xin
cậu tha tội!
Cái cảm
giác xuất hiện sau sự đụng chạm với Kesyrt đã biến thành lòng quyết tâm và căm
thù. Một tay Tsanka nắm chặt báng súng, tay kia run rẩy bóp chặt lại thành quả
đấm. Sự nôn nóng cần phải hành động, cần phải đánh ai đó đang hành hạ cậu. Nhiệt
huyết của tuổi trẻ như tràn hết ra ngoài.
Trong lúc
đó, trời quang, mưa tạnh, chim chóc khắp nơi hót ríu ran. Lũ chim sẻ láo xược
sà ngay xuống chân nhặt thóc rơi, nhanh nhẹn chao qua chao lại, kêu chiếp chiếp
inh ỏi. Một con lừa lẻ loi bị buộc vào hàng rào, ngỏng cổ lên hí dài. Ngay cổng
chợ, những người hành khất, ăn xin và người Digan tụ tập lại thành một hàng
dài. Họ không đánh chửi, tranh giành, chỗ của họ từ lâu đã được phân định trước.
Họ chẳng thèm để mắt đến anh chàng cao kều nhà Arachaev đầu óc đang để ở đâu
đó.
Ra khỏi chợ,
Tsanka quan sát kĩ lưỡng bốn phía, tìm con đường ngắn nhất để đến ngôi nhà mái
đỏ. Sau khi đã quan sát, cậu thấy cần phải đi vòng qua cả một dãy phố.
Tsanka đi
ngay, chẳng thèm để ý đến người xung quanh, bước cả vào các vũng nước. Cuối
cùng cậu rẽ vào con đường hẹp, hai bên là dãy hàng rào thấp bằng cây đan lại với
nhau. Cậu cứ đi, mắt lơ đãng nhìn các vườn rau san sát được chăm sóc cẩn thận,
tươi tốt.
Đột nhiên,
một tiếng kêu chói tai của con mèo làm Tsanka chú ý.
Từ nhỏ,
không hiểu tại sao cậu lại có một sự quan tâm lạ lùng đến giống mèo. Tsanka dừng
lại, nhìn qua hàng rào. Một người đàn bà Nga đã có tuổi, khuôn mặt khả ái đang
ngồi trên hàng hiên bằng gỗ mộc không có mái che của ngôi nhà nhỏ, sạch sẽ. Người
đàn bà đổ những hạt đỗ to màu đỏ-trắng lên tấm vải đay, vừa trộn đều chúng lên
vừa tìm kiếm cái gì đó.
Cạnh bà, một
con mèo cái tam thể nằm ngay mép hiên, ngửa cái bụng trắng lông xù lên, há cái
mõm nhỏ màu hồng hồng ra, lật qua lật lại. Cách nó khoảng hai mét một con mèo đực
màu hung to lớn đang đứng trong một tư thế dọa nạt, phần thân sau và chiếc đuôi
giật giật liên tục, miệng gào ầm ĩ. Cách đó một đoạn, một con mèo đực khác lông
xám ngồi trên hai chân sau, đầu gục xuống, ủ rũ.
Con mèo
cái vẫn cứ lăn qua lăn lại, thay đổi tư thế, cọ cọ cái cổ xuống sàn gỗ hàng
hiên đã bị mòn vẹt vì thời gian và thời tiết. Có lẽ gào mãi đã mệt, con mèo đực
màu hung không gào nữa, chậm rãi nhìn quanh và khi nhìn thấy con mèo xám nó liền
bất ngờ lao về hướng đó. Con kia, như tên bắn, nhảy dựng lên, biến ngay dưới đống
củi.
Khi đó con
mèo cái liền ngồi dậy rời khỏi hàng hiên, lượn qua lượn lại, dịu dàng kêu meo
meo. Thấy con mèo hung tiến lại gần, con mèo cái lại nhảy lên hiên, đến gần người
đàn bà, vểnh đuôi lên, cọ cọ vào chân người đàn bà.
- Đi đi. -
Người đàn bà ngọ ngoạy chân, nhẹ nhàng nói, đồng thời ngẩng đầu lên và nhìn thấy
chàng trai đang nhìn vào sân nhà mình.
Tsanka xấu
hổ cụp mắt xuống, bước tiếp, tuy nhiên mọi động tác của cậu đã đánh mất sự
nhanh nhẹn và tinh thần hăng hái. Đôi vai gầy của cậu càng sệ xuống, hai cánh
tay buông thõng dọc theo cái thân cao ngồng. Do bùn nhão ngấm vào đôi giày da mềm
mòn vẹt, nên mỗi bước chân cậu lại phát ra tiếng oạp oạp. Cậu cẩn thận né tránh
các vũng nước, vô tình kéo dài con đường của mình.
Không hiểu
tại sao lòng quyết tâm và nỗi căm giận của cậu bỗng biến đâu mất. Một cảm giác
khó chịu kỳ lạ choán ngợp trong lòng. Cảnh tượng với những con mèo gợi Tsanka
nhớ đến cuộc tình tay ba: Kesyrt - Batyk - và cậu. Có một cái gì đó rất giống
nhau, thấp kém và thú tính. Cậu muốn phân tích hành động của mình, đánh giá
tình hình thực tế, nhưng không thể. Chính cậu cũng không biết mình muốn gì nữa,
và mọi việc có đúng đắn hay không.
Tsanka dừng
lại nơi góc phố để hút thuốc và suy ngẫm, cậu quay đầu lại và nhìn thấy người
đàn bà bước ra đường quan sát rồi đi theo cậu.
Tsanka vội
rẽ vào trong góc và nhìn thấy ngay trước mặt một cái sân rộng và một nhà kho bỏ
hoang, bẩn thỉu. Có lẽ nơi đây từng có một cuộc sống sôi động. Chạy dọc tòa nhà
lớn giống như nhà chứa máy bay bằng gạch đỏ đã bị đổ nát có một hàng chữ gì đó.
Một nhánh đường sắt bỏ hoang chạy thẳng vào tòa nhà. Khắp nơi vương vãi đầy mảnh
kính vỡ, đồ cũ và rác rưởi. Một đàn bồ câu mái đậu trên mái nhà đã hư hỏng, còn
những con bồ câu đực chao lượn xung quanh như trong các vũ điệu, gù gù inh ỏi vẻ
tức giận. Đột nhiên, không hiểu tại sao, những con bồ câu mái bỗng tỏ ra sợ
hãi, đồng loạt vụt bay lên, lượn một vòng gấp khúc trên chợ, rồi theo hình rẻ
quạt, biến mất sau cánh rừng bạch dương thành những chấm nhỏ.
Ở cuối
sân, có vài nhóm người, dáng vẻ phờ phạc như thiếu ngủ, ăn mặc lôi thôi, nhếch
nhác. Vừa nhìn thấy họ, Tsanka đã hoàn toàn đánh mất lòng tự tin, cậu không biết
phải làm gì, xử sự ra sao, kể cả mục đích của chuyến đi nữa.
Tsanka cứ
đứng mãi ở đó, nhìn về phía những kẻ nát rượu. Không hiểu sao, cậu có cảm giác
những người kia đều giống nhau. Dù sao đi nữa, đối với chàng trai nhà Arachaev,
tất cả bọn họ chỉ là một.
Vừa lúc ấy,
một tên trong số các bợm nhậu tách khỏi nhóm, đốt điếu thuốc cuốn rồi tiến về
hướng Tsanka. Chờ anh ta đến gần, Tsanka ra hiệu dừng lại và hỏi bằng tiếng
Chechnya:
- Anh có
biết, ai trong số họ là Batyk không?
Không hiểu
tại sao, Tsanka lại muốn nghe anh ta đáp, không có Batyk ở đây.
Nhưng thay
vì được nghe câu trả lời đó, cậu lại nghe một câu tiếng Nga lạ hoắc. Tsanka
không biết tiếng Nga, và chính điều đó đã cứu cậu. Tsanka định rẽ ngang rồi bỏ
đi, nhưng ai đó đã hét lên bằng tiếng Chechnya:
- Này,
chàng trai đáng kính kia, cậu muốn gặp ai?
Tsanka
quay đầu lại và nhìn thấy kẻ đang gọi mình là một người đàn ông trung niên gân
guốc, khỏe mạnh, bộ râu quai nón rễ tre màu đen lâu ngày chưa cạo, cặp mắt sẫm
màu, lông mày rậm, xếch, ánh mắt lườm lườm sắc như dao.
- Tôi cần
gặp Batyk. - Tsanka lí nhí đáp, chính bản thân cậu cũng cảm thấy giọng mình vừa
nhỏ vừa thảm hại.
- Lại đây.
Tôi là Batyk, cậu muốn gì? Chắc Islam bảo cậu đến phải không? - Người đàn ông lực
lưỡng suồng sã nói.
- Anh là
Batyk? - Tsanka hỏi lại, giọng càng yếu hơn.
Trong hình
dung của cậu, Batyk là một tên bợm rượu hom hem, nhưng không ngờ đứng trước mặt
cậu là một người đàn ông rắn chắc, khỏe mạnh trong độ tuổi sung mãn.
- Vậy anh
là Batyk? - Tsanka hỏi lại lần nữa.
- Phải,
tôi đây. Cậu muốn gì? Ai bảo cậu tới? - Người đàn ông vạm vỡ tiến lại gần, phả
vào mặt cậu mùi rượu nồng nặc.
- Tôi,
tôi, - Tsanka ngắc ngứ mãi mới bật ra được. - Tôi có việc muốn nói với anh.
- Nói đi.
- Batyk không chút khách sáo đáp, lấy trong túi ra bao thuốc lá loại đắt tiền,
ngạo mạn châm hút.
Tsanka phải
cố ghìm lại để không xin một điếu.
- Tôi có một
việc. - Tsanka lại ấp úng, hai tay bất giác run lên, cảm thấy giọng nói the thé
của mình sao mà thảm hại. - Việc là thế này... - Cậu lắp bắp, rồi lại dừng vì
quá bối rối, mãi mới thốt ra được. - Chúng ta có thể ra chỗ khác nói chuyện được
không?
Batyk rít
một hơi thuốc dài, nheo nheo cặp mắt sắc quan sát Tsanka từ đầu đến chân, phun
một đụm khói khét lẹt vào mặt Tsanka, đáp:
- Nào thì
đi, nếu cậu muốn vậy.
Họ đi
ngang qua sân, ngoặt vào góc tòa nhà để máy bay đã bị đổ nát. Batyk bước tự
tin, vững vàng trên đôi chân vòng kiềng to khỏe và ngắn của mình, còn Tsanka
cao ngồng lết theo sau. Chiếc quần rộng thùng thình của cậu thừa hưởng từ ông bố,
treo lất phất trên đôi chân gầy như hai cây sào.
Sau tòa
nhà, có một cái hố to tướng, có lẽ trước đây được xây vì một mục đích nào đó,
giờ biến thành hố rác. Toàn bộ rác từ chợ được quẳng vào cái bể nhân tạo này.
Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc. Những con nhặng xanh mập ú lười biếng bay lượn
trên đống rác, một con chuột cống to tướng nhìn thấy có người đến, chậm chạp
chui vào đống giẻ rách, kéo theo cái đuôi to gớm ghiếc. Ở đầu kia của hố rác,
có một cái nhà vệ sinh tạm bợ bằng ván, xiêu vẹo. Những người do không thể chịu
đựng hơn được nữa, phải bịt mũi, nhón chân vòng qua vô số đống phân mới vào được.
Cuối cùng,
Batyk đột ngột đứng lại, quay đầu về phía cậu.
- Nào, nói
đi. - Anh ta xẵng giọng, cặp mắt sắc nhìn thẳng vào mắt Tsanka.
- Tôi,
tôi... - Tsanka luống cuống hoàn toàn.
Cậu sẵn
sàng nhảy vào cái bể rác tởm lợm kia, cậu cảm thấy mình đã xử sự một cách vụng
về và hèn nhát.
- Cậu làm
sao thế? Nào, nói đi! - Batyk thô bạo hét to và vung tay lên. - Cậu muốn gì?
- Tôi,
tôi... - Tsanka ấp úng. - Tôi, vì chuyện của Kesyrt...
- Kesyrt
nào? - Batyk lạnh lùng cắt ngang, lông mày nhướn lên, mắt nheo lại, giận dữ.
- Cô
Kesyrt ở làng Duts-Khote. - Chàng trai lắp bắp.
- Này, cậu
đã làm tôi phát ngán lên vì cái con điếm ấy rồi đấy. - Batyk tức tối gầm lên,
áp sát vào người Tsanka, phả vào mặt cậu hơi rượu nồng nặc. - Vậy thì cậu cần
gì, cậu muốn gì? Tôi đã thề trên cuốn kinh Koran rồi, cậu còn muốn gì nữa?
- Anh hãy
bình tĩnh lại và nghe tôi nói đã! - Tsanka lùi lại một bước, dường như đã sẵn
sàng bỏ qua mọi chuyện.
- Tôi đang
bình tĩnh đây. - Batyk thở vào mặt Tsanka.
- Anh biết
không, Kesyrt là một cô gái rất đáng thương. Cô ấy chỉ có một mình, một phụ nữ
bất hạnh...
- Thôi đủ
rồi... Cậu muốn gì?
- Giúp cô ấy.
Tôi không nói anh ăn cắp, tôi chỉ muốn xem xét... - Tsanka nói bằng một giọng
như nài nỉ.
- Cái gì?
- Batyk lại sấn tới. - Xem xét cái gì? Biến đi cho khuất mắt!
Batyk càng
áp sát Tsanka hơn, và anh ta chỉ lấy khuỷu tay khỏe như vâm hẩy nhẹ một cái
cũng đủ hất Tsanka văng sang một bên, rồi bước qua, ném mẩu thuốc đang hút dở
vào hố rác, không thèm quay đầu lại, đe:
- Mày mà
còn xuất hiện trước mặt tao một lần nữa, thì cả mày và cái con Kesyrt của mày sẽ
biết tay tao.
Ngay lập tức
máu nóng bốc lên đầu Tsanka, giờ đây cậu cũng run lên bần bật vì tức giận.
- Đứng lại,
đứng lại, đồ đê tiện! - Tsanka hét lên, vừa đuổi theo kẻ xúc phạm vừa rút khẩu
súng ngắn ra. - Ngay bây giờ, chính tao sẽ cho mày, cho mẹ mày và cả dòng họ thối
tha của mày biết tay tao!
Batyk vụt
quay đầu lại và nhìn thấy khẩu súng ngắn đang chĩa ngay vào ngực mình. Cặp mắt
Tsanka cháy lên như mắt người điên.
- Mày nhắc
lại những gì mày vừa nói xem nào! Đồ khốn nạn! - Tsanka giận dữ hét lên. - Tao
sẽ bắn mày, tiêu diệt mày như con lợn!
Tsanka lấy
hết sức đẩy mạnh nòng súng vào ngực Batyk, hoàn toàn mất hết lý trí, liền bóp
cò, nhưng tiếng nổ không vang lên.
Tsanka cảm
thấy có một cái gì đó cứng như gọng kìm bằng thép bóp chặt tay cậu, bẻ ngoặt
sang bên và khẩu súng treo lủng lẳng trên đầu những ngón tay bất lực văng ngay
vào hố rác. Tiếp sau đó là một cú đánh rất mạnh khiến cậu bay vào tường. Cố gượng
dậy, Tsanka đứng lên, lao vào bóng hình chập chờn của đối thủ, và ngay lúc ấy mắt
cậu tóe đom đóm. Cú đánh thứ hai mạnh đến nỗi cậu bị ngất luôn.
Như trong
một giấc mơ, Tsanka nghe thấy tiếng kêu gào, khóc lóc của phụ nữ, tiếng người
la hét ầm ĩ, rồi sau đó, những người đàn ông đỡ cậu lên xe. Kesyrt ngồi phía
trước, mặt tái nhợt, thở hổn hển, quay lại nhìn vào mặt cậu, tay cố giữ chiếc
áo váy bị rách toạc trước ngực.
Mãi hai tiếng
sau, hai con người bị nhừ đòn, bị lăng nhục, quần áo bẩn thỉu, rách te tua mới
rời khỏi cái thành phố nhớp nhúa và xa lạ đối với họ với một cảm giác buồn bực.
Kesyrt ngồi phía trước, điều khiển con nghẽo già, còn Tsanka ngồi phía sau, dựa
lưng vào thành xe, bất lực bỏ thõng đôi chân dài ra ngoài xe. Cậu không có cảm
giác gì về khuôn mặt sưng vù của mình, cậu chỉ hận mình và cả thế giới này. Cậu
cảm thấy bị xúc phạm và xấu hổ trước mặt Kesyrt và những người thân.
Trời lặng
gió, oi bức và nóng nực, chẳng giống chút nào với thời tiết mùa xuân. Trên trời
chỉ có một làn sương trắng mỏng manh, nhìn xuyên qua có thể thấy mặt trời tít
trên cao bị khúc xạ đang chiếu sáng rực rỡ. Vào những ngày thời tiết như thế
này, cặp mắt thường có cảm giác nặng nề, hay phải nheo lại và chảy nước mắt hơn
những ngày nắng gắt.
Có thể
chính vì vậy, hay vì hậu quả của vụ việc xảy ra lúc sáng mà cả hai đều chảy nước
mắt. Cả hai đều sợ nhìn vào mắt nhau và nói chuyện với nhau.
- Này, cô
gái. - Một chiếc xe ngựa đi ngược chiều, bất chợt hét lên với họ. - Quay lại
đi, nhanh lên.
- Có chuyện
gì thế? - Kesyrt như choàng tỉnh khỏi cơn mê, hỏi lại.
- Quân đội
đang trưng thu ngựa đấy.
- Trưng
thu là thế nào? - Kesyrt ngạc nhiên.
- Thế đấy,
thu hết... Muốn là làm... Thật đáng nguyền rủa.
Chiếc xe
ngựa ngược chiều phóng như điên về hướng thành phố. Kesyrt dừng ngựa lại giữa
vũng nước lớn, làm chân của Tsanka nhúng hẳn vào nước. Cậu chẳng thèm nhấc chân
lên, thậm chí còn cảm thấy thích thú trong làn nước lạnh nữa.
- Chúng ta
làm gì bây giờ, Tsanka? - Kesyrt không quay đầu lại, hỏi.
Chàng trai
im lặng.
- Anh điếc
rồi à? Chúng ta làm gì bây giờ? Anh có nghe người ta nói không?
- Tôi chẳng
biết. Cô muốn làm gì thì làm. - Tsanka lí nhí thốt lên.
Kesyrt quất
vào lưng ngựa, nó uể oải lội qua vũng nước, để lại những gợn sóng lăn tăn rồi
biến mất khi đập vào bờ, chỉ còn lại chút hơi thở đang lụi dần.
Phía trước
mặt là một trạm gác tăng cường. Con đường, mọi ngày rất đông người qua lại, giờ
vắng ngắt. Quân đội và công an đang chặn một chiếc xe ngựa vào thành phố. Trên
xe có một người đàn ông Chechnya trung niên, tóc hung, người đàn bà, chắc là vợ
và một đứa bé, có lẽ là cháu. Một cuộc tranh cãi rất gay gắt: họ tìm thấy vũ
khí dưới các bao bột ngô, và bây giờ tất cả những thứ đó bị trưng thu cùng với
con ngựa và chiếc xe. Người đàn ông chửi bới ầm ĩ, chửi cả các anh công an người
Chechnya đã làm theo sự độc đoán của các quân nhân đứng bên cạnh.
- Hãy nói
bằng tiếng Nga! - Một người đàn ông rắn chắc, mặt đỏ gay, chắc là người chỉ
huy, mặc chiếc áo da dù thời tiết rất nóng, tỏ ra hài lòng với những gì đang diễn
ra. Sau anh ta một chút, một người lính khác, vóc dáng to lớn, râu ria rậm rạp,
đội chiếc mũ lông cừu để lòi ra trước cái trán thấp đầy vết nhăn một nhúm tóc
quăn màu đen, hai bàn tay to bè đặt lên chuôi gươm.
Đúng lúc ấy
thì xe của Tsanka và Kesyrt cũng vừa đến.
- Ngựa của
ai đây? - Một trong số các anh công an hỏi bằng tiếng Chechnya.
- Của nông
trang. - Kesyrt nhảy xuống xe, mạnh bạo đáp.
- Anh chị
từ đâu tới?
- Từ
Shali.
- Làm gì ở
thành phố?
- Chúng
tôi chở lúa đến kho.
- Giấy tờ
đâu?
- Giấy tờ
nào?
- Giấy tờ
về con ngựa, về việc nộp lúa. - Người công an nhìn chằm chặp vào gáy và mặt
Kesyrt, hỏi.
- Lãnh đạo
giữ.
- Thế lãnh
đạo đâu? - Người thanh niên Chechnya vẫn không chịu.
- Tôi
không biết, chắc còn ở lại kho lúa.
Trong lúc ấy,
một anh công an khác đến gần Tsanka.
- Có vũ
khí không? - Anh ta hỏi thẳng.
Chàng trai
giật mình, ngước mắt lên.
- Ha, ha,
ha, ai làm cậu ra thế này?
- Không phải
việc của anh! - Tsanka rít lên.
- Cậu nói
cái gì? - Người công an nhăn mặt, tiến sát lại Tsanka.
Kesyrt vội
chạy tới, đứng chắn giữa hai người.
- Để anh ấy
yên. Anh làm gì thế? - Cô hỏi, giọng cầu khẩn..
- Ngựa của
họ già rồi. - Người công an thứ ba vạch môi con ngựa ra xem rồi nói. - Đằng nào
thì họ cũng không nhận con ngựa này đâu, chúng ta sẽ phải vất vả vì nó, như hôm
qua với con ngựa cái lông xám ấy.
- Phải,
chân sau cũng không đứng vững nữa, hết thời rồi. Có thể trước kia nó đã từng bắt
nhiều ngựa cái phải quỳ gối. - Người công an tiếp tục, nháy mắt với các đồng
nghiệp và nhìn cô gái với nụ cười châm biếm, thèm khát.
Kesyrt bỏ
ngoài tai tất cả những gì anh ta nói, chỉ vuốt nhẹ lên tay Tsanka để kìm cậu lại.
Trong lúc
đó thì vụ lộn xộn và những tiếng chửi rủa ở bên kia đường càng dữ dội hơn. Người
đàn ông Chechnya, chủ chiếc xe chửi bằng tiếng Chechnya và bằng một thứ tiếng
Nga rất khó nghe. Ngựa của ông bị người ta tóm dây cương lôi sang một bên, ông
điên cuồng chống cự, vừa la hét vừa đẩy vào hông một anh công an Chechnya. Bà vợ
già bám sau lưng ông, vừa năn nỉ vừa cố kéo ông ra, còn đứa bé, trong cơn hoảng
loạn gào khóc inh ỏi. Tất cả mọi cặp mắt đều đổ dồn vào cảnh tượng đó. Tình
hình đã trở nên căng thẳng tột độ. Người đàn ông Chechnya không còn đủ tỉnh táo
nữa, bằng một động tác dứt khoát, ông quay ngoắt lại, đẩy vào ngực vợ mình.
Tsanka nhận thấy, trong cơn giận dữ điên cuồng, cặp mắt màu sáng của ông mở to,
vằn vện những tia máu đỏ, hai cánh mũi to phình ra, nước bọt trào hai bên mép.
Chiếc mũ văng ra, để lộ cái đầu hói với mái tóc màu hung đã điểm bạc. Từ phía
sau, ông bực tức dùng hai tay nắm vào vai người công an đang cầm dây cương con
tuấn mã của ông, giật ra sau, mạnh đến mức chiếc áo cổ đứng rách toạc theo đường
chỉ, rồi quật người công an ngã xuống đất.
Các công
an khác xúm lại đấm vào ông. Một cuộc ẩu đả tuyệt vọng diễn ra. Người đàn ông
Chechnya không chịu khuất phục, ông đứng dựa lưng vào con ngựa, kịch liệt đánh
trả những người tấn công. Ngay lúc ấy, một người lính vòng ra sau con ngựa, lấy
báng súng dộng một cú từ trên xuống vào gáy ông. Người đàn ông khuỵu xuống, tay
chân xoãi ra, mấy người công an lao vào, nhưng ngay lập tức nhảy ra ngay. Một
trong số các công an người Chechnya, khuôn mặt trắng bệch, hai tay ôm bụng, lảo
đảo lùi lại rồi ngã vật ra. Người đàn ông tóc hung với con dao găm trong tay
như chết lặng đi trong tư thế thách thức. Một giọt máu đỏ thẫm chạy từ lưỡi dao
đến mũi dao rồi miễn cưỡng chậm rãi rớt xuống đất. Các công an lại hét lên và
lao vào người đàn ông, rồi họ lại bật ra bởi các đường khua của lưỡi dao. Khi
đó, người đàn ông vóc dáng to lớn, râu ria rậm rạp từ từ bước tới, nhanh nhẹn
vung tay lên. Tsanka thầm nghĩ, có lẽ anh ta sẽ quất bằng roi ngựa, nhưng chỉ
tích tắc sau, cậu thấy, cái đầu cùng với cánh tay cầm con dao găm và nửa thân
trên của người đàn ông đổ gục xuống chân, chẳng khác gì người ta dùng liềm phạt
ngang thân cây ngô, ngay sau đó phần dưới cơ thể cũng sụn xuống bên cái đầu.
Cái cơ thể ấy còn co giật, giãy giụa một lát nữa và phun ra khắp mặt đất xung
quanh những tia máu đỏ thẫm.
Vợ của người
chết lao vào ôm xác chồng, rồi với khuôn mặt méo xệch vì giận dữ, bà lao tới,
túm chặt vào bộ râu của kẻ vừa giết chồng bà. Người kia, chẳng cần nghĩ ngợi
lâu, đấm một cú vào đầu bà. Một tiếng súng, rồi hai, ba tiếng súng vang lên.
Hoảng sợ
vì loạt súng, con ngựa của Tsanka lồng lên, lao về phía trước, gạt ngã người
công an đang đứng sững. Tsanka ngồi trên xe, chút nữa cũng bị văng xuống đất,
may mà trong cơn hoảng loạn cậu kịp bám vào tay nắm, sau đó cậu nhoài người về
phía trước định nắm sợi dây cương buộc vào càng xe, nhưng ngay lúc ấy cậu sực
nhớ đến Kesyrt. Trên chiếc xe đang lao như điên, Tsanka hốt hoảng quay đầu lại
và nhìn thấy Kesyrt hai tay ôm mặt, ngã quỳ xuống. Cậu nhảy khỏi xe, chạy lại
chỗ cô gái, nói gì đó rồi dìu cô rời khỏi trạm kiểm soát đi về hướng chiếc xe
ngựa đang xa dần. Kesyrt không thể đi nổi, nỗi kinh hoàng vừa trải đã đánh gục
cô, làm cô buồn nôn. Tsanka đành nắm lấy tay Kesyrt, kéo cô cắm đầu chạy, bỏ lại
sau lưng tiếng gào thét thuyệt vọng của người đàn bà và tiếng khóc của đứa bé.
Chạy được
khoảng năm mươi mét, Tsanka mệt đứt hơi, chân như muốn khuỵu xuống, cả hai ngã
vật ra. Nhưng rồi Tsanka lại nhanh chóng bật dậy, không dám nhìn lại phía sau,
đỡ Kesyrt đứng dậy rồi kéo cô chạy thật xa cái thành phố khủng khiếp đó.
Một lát
sau họ nhìn thấy con ngựa của mình. Nó kéo chiếc xe chạy sâu vào ruộng lúa mì.
Để Kesyrt lại bên đường, Tsanka giẵm lên những chồi lúa non, chạy lại chỗ chiếc
xe, để lại sau lưng mình những dấu chân nhoe nhoét. Con ngựa già nhận ra chủ,
ngẩng đầu lên lắc lắc vẻ không hài lòng, rồi lại tiếc rẻ cúi xuống gặm những chồi
lúa non.
Tsanka leo
lên xe, tháo dây cương ra, con ngựa đã làm tuột dây, thõng xuống hai bên sườn,
kéo lê dọc đường. Ngay lúc ấy, một người cưỡi ngựa băng qua cánh đồng, phi như
điên tới, từ xa đã vung roi lên, hét:
- Đồ chó đẻ,
mày làm gì thế hả? Giẵm nát ruộng lúa mì của tao rồi. Tao sẽ cho mày một trận,
tao sẽ bắn chết mày. Đồ khốn nạn vô dụng! - Người cưỡi ngựa vừa la hét vừa tiến
lại gần Tsanka.
Mặc dù giọng
nói vẫn còn sang sảng, nhưng hóa ra đó là một ông già thấp bé, nhanh nhẹn và lắm
lời.
- Mày
không biết đây là ruộng lúa mì của nông trang à? Bây giờ người ta sẽ tống mày
vào tù chết rục xương. - Ông già bảo vệ tiếp tục la hét.
- Thôi,
ông đừng la hét nữa. - Tsanka bình tĩnh nói. - Ở trạm kiểm soát người ta vừa giết
người, rồi nổ súng, con ngựa của cháu sợ quá vùng chạy vào đây.
- Bắn, bắn
cái gì? Nếu như mỗi lần bắn chết một người mà ruộng lúa bị giẵm nát thế này thì
có nước chết đói.
Hai người
cùng đi ra khỏi ruộng lúa. Sau những gì vừa nghe, Tsanka không muốn nói thêm gì
nữa.
- Bây giờ,
cậu mà để đội áp tải của quân đội nhìn thấy, thì cậu cũng toi đời. - Ông già
lên tiếng, rồi sau một lát im lặng lại hỏi. - Thế họ bắn ai?
- Tôi
không biết. Một người đàn ông đã có tuổi, vợ và một đứa bé... Họ muốn lấy ngựa,
súng, bột, lấy hết. Ông ấy chống lại... Tóm lại, người ta chém ông ấy đứt đôi.
- Ôi, ôi,
ôi! Đúng là lũ súc sinh! Mà cái đám Bolsevich ấy từ đâu ra thế không biết nữa?..
Cầu xin Thượng đế ban phước cho người chết! Thảo nào, hôm nay tôi thấy đường sá
vắng tanh. Người ta nhạo báng dân lành. Nhưng cũng không sao... Thế cháu con
nhà ai, ở đâu? - Ông già hạ giọng xuống.
- Cháu ở
làng Duts-Khote.
- Xa nhỉ...
Thế con ai, có thể bác cũng biết đấy.
- Cha cháu
là Aldum, bị bắn chết rồi, còn bác cháu là Baki-Haji. Cháu là người nhà
Arachaev.
- À, bác
biết, bác biết... Cháu là người của một dòng họ danh giá. Cháu không thể làm hại
ai. Vậy mà cháu thấy đấy, bao chuyện thối tha nhơ nhuốc đã xảy ra. Chỉ trong
vòng một tiếng, những kẻ ly khai biến ngay thành sếp, thành những nhân vật quan
trọng béo múp. Ngay trong nội bộ người Nga cũng vậy... Họ chỉ biết phá hủy và bắn
giết... Nhưng không sao, chuyện này không thể cứ kéo dài mãi, sẽ sớm kết thúc
thôi. Đến mùa hè, các nước Anh, Pháp, Đức, kể cả Nhật nữa sẽ giúp chúng ta. Mọi
thứ đã được chuẩn bị đâu vào đấy, họ chỉ chờ cơ hội thuận tiện. Ta sẽ là người
đầu tiên thanh toán với họ. Cầu Thượng đế cho ta sống đến ngày đó!
Lát sau, họ
băng qua con mương, ra đến đường đất.
- Thế cô
gái kia đi với cậu à?
- Vâng ạ.
- Tsanka đáp.
- Cậu bị
cái này ở trạm kiểm soát à? - Ông lão chỉ vào những vết bầm tím trên mặt cậu, hỏi
bằng một giọng thông cảm.
- Không,
trước đó một thời gian... Chuyện riêng.
- À, chuyện
riêng. Tuổi trẻ, những chuyện riêng thế này thường xảy ra lắm. - Ông lão bảo vệ
mỉm cười. - Thế ở trong núi chỗ các cháu có nông trang không?
- Hiện tại
thì không. Còn đang chuẩn bị.
- Thật khốn
nạn, khổ sở! Họ tịch thu hết, chẳng bao lâu nữa cả vợ con cũng bị thu luôn. Một
lũ vô lại đáng nguyền rủa! Thôi các cháu đi đi, đi đi, trong khi binh lính còn
chưa nhìn thấy. Đến trạm kiểm soát phải hết sức cẩn thận. Tốt nhất là lót tay
ngay, họ không dễ cho qua đâu.
Hai người
đi tiếp, không vội vàng. Con đường vẫn vắng hoe như cũ. Bây giờ đến lượt Tsanka
điều khiển ngựa, Kesyrt ngồi phía sau, chiếc khăn choàng tuột khỏi vai, để lộ
mái tóc đen, dày. Cô vẫn còn sụt sịt khe khẽ, lấy chiếc khăn tay lau nước mắt.
- Tsanka,
Tsanka. - Đột nhiên Kesyrt nói với chàng trai. - Tôi chỉ còn lại ba rúp với ít
xu lẻ. Nếu cần, đến trạm kiểm soát anh đưa cho người ta. Đừng có dây dưa với họ.
Tôi xin anh.
Tsanka
quay đầu lại, thận trọng cầm số tiền, cẩn thận nhét vào túi. Lát sau, cậu nói
như với chính mình:
- Chỉ tiếc
khẩu súng. Tôi biết ăn nói thế nào với bác tôi?
- Thôi anh
im đi. May mà nó bị mất. Nếu ở trạm kiểm soát họ phát hiện anh có súng, chúng
ta sẽ xoay xở ra sao... Trong cái rủi có cái may.
Trạm kiểm
soát trên sông Argun vắng hoe. Chỉ có vài anh công an đang ngồi dưới bóng râm của
cây dương cao, cành lá sum sê, càu nhàu vì thời tiết oi bức và đường sá ít người
qua lại.
Cuộc mặc cả
diễn ra nhanh chóng. Chẳng cần nghĩ ngợi, Tsanka dúi vào tay người công an tờ một
rúp nhàu nát, người kia liếc qua, vẻ không hài lòng, lắc đầu.
- Chúng
tôi chẳng còn gì cả. Các anh thấy đấy, chỉ có xe không.
- Thôi được
rồi, đi đi. Chú mày gặp may đấy vì quân đội quay về doanh trại ăn trưa rồi. Hãy
cẩn thận, thời gian tới đừng đi đâu nữa, họ đang phát rồ lên. Ngựa sẽ bị tịch
thu hết, không cho ai đi đâu cả.
Rời khỏi
trạm kiểm soát, Tsanka quất cho con ngựa già đầm đìa mồ hôi chạy nhanh hơn, chỉ
khi đến gần Mesker-Iurt cậu mới thở phào nhẹ nhõm, quay lại nhìn Kesyrt. Ánh mắt
họ gặp nhau trong giây lát, lần đầu tiên trong suốt chặng đường họ mỉm cười, rồi
sau đó, cứ như theo một mệnh lệnh, cả hai chẳng nói một lời, cùng bật cười to,
vui vẻ và nhẹ nhõm đến mức nước mắt trào cả lên mi.
- Tiền ơi
là tiền! Công việc ơi là công việc! - Tsanka bật lên giữa tràng cười.
- Đấy, cuộc
sống của tôi là thế đấy! Vậy mà người khác cứ nghĩ, chỉ ngồi mát ăn bát vàng.
- Thôi, chẳng
phải ganh tị nữa.
- Này,
Tsanka, rẽ vào làng mua cái gì ăn tạm đi. Tôi đói đến chết rồi đây. - Giọng của
Kesyrt đã trở nên thoải mái và tự nhiên hơn.
- Với cái
bộ dạng này tôi sẽ không vào chợ đâu.
- Đàn ông
trang điểm bằng các vết thâm mà... Thôi được, tôi sẽ tự đi.
Quá trưa họ
mới nghỉ lại cạnh con suối, dưới bóng cây táo dại, giữa hai làng Mesker-Iurt và
Germentsuk. Tsanka tháo ngựa, dẫn đi uống nước, sau đó nới hết dây cương ra, buộc
vào vành bánh xe. Con ngựa mệt mỏi thở phì phì, lắc lắc đầu, nặng nề và chậm chạp
nằm xuống đất, cố hết sức lật qua lật lại.
- Con ngựa
Bakin này già rồi. - Kesyrt buồn rầu nói.
- Giờ nó
là của tôi, bác tôi đã tặng nó cho tôi.
- Cái ông
bác của anh thật là keo kiệt. Lẽ ra phải tặng anh cái gì đáng giá hơn mới phải
chứ.
- Người được
tặng ngựa không đếm răng ngựa. - Tsanka lên giọng đáp lại. - Nếu cô muốn biết thì
bác tôi còn tặng tôi con ngựa cái lông tía nữa, nó sắp đẻ rồi.
- Anh hãy
cẩn thận, sao bỗng dưng ông bác của anh hào phóng thế. - Kesyrt nói, không biết
là châm chọc hay thật tình.
- Tất cả
chỉ là chuyện vặt. Khẩu súng mới quan trọng, tôi không biết phải nói sao với
bác ấy. - Tsanka lo lắng nói, rồi cởi chiếc áo bẩn ra.
Sau vụ
đánh nhau lúc sáng, quần áo của Tsanka lấm lem, các vết bùn khô nẻ, rớt từng mảng,
để lại trên vải những vết bẩn. Tsanka nhúng vào nước, gột những vết bẩn đó,
nhưng kết quả lại càng tệ hại hơn. Cậu ném chiếc áo xuống, bực bội nhận ra
Kesyrt đang quan sát mình. Cô gái bật cười sảng khoái, gọi cậu là con lợn sữa,
rồi vẫn tiếp tục cười và đi vào trong bụi cây.
Ai có thể
biết được, vào lúc ấy những tình cảm gì đang xáo trộn trong tâm hồn non trẻ của
Tsanka! Cậu cảm thấy vô cùng dễ chịu trong cái thế giới của người phụ nữ trẻ
trung, xinh đẹp kia! Đã bao nhiêu lần cậu mơ ước và mong muốn điều đó! Cô ấy
xinh đẹp như thế, can đảm như thế mà lại bất hạnh đến thế! Nụ cười của cô ấy,
tiếng cười của cô ấy mới kỳ diệu làm sao! Tình cảm của Tsanka dành cho Kesyrt
là tình yêu trìu mến và sự phục tùng ngoan ngoãn. Cậu muốn sống bên cô suốt đời,
mãi mãi.
Vào giây
phút ấy, Tsanka đi đến một quyết định dứt khoát, rằng họ sẽ mãi bên nhau. Những
gì xảy ra hôm nay, chính là sự thử thách của Thượng đế. Họ đã đứng vững, đã vượt
qua và đã hỗ trợ cho nhau.
Dĩ nhiên,
Tsanka đã bị đánh, khẩu súng ngắn đã bị lấy mất, nhưng điều đó sẽ không bao giờ
lặp lại nữa. Cậu có thể ngăn chặn được mọi tai họa nơi chợ búa, mọi nỗi thống
khổ và cô đơn để bảo vệ người mình yêu dấu. Cậu có thể đảm bảo cuộc sống cho cô
ấy và bản thân mình. Họ sẽ sinh nhiều con. Nhưng liệu bà con họ hàng có hài
lòng với quyết định của cậu không? Dĩ nhiên là không rồi, nhất là mẹ và bà vợ
bác Baki-Haji với các con của bác. Họ sẽ chửi bới nhưng rồi sẽ bình tâm lại. Nếu
không thì cậu sẽ không thể... Trong trường hợp xấu nhất thì cậu và Kesyrt sẽ
vào thành phố, cậu sẽ tìm được việc làm ở đấy... Dĩ nhiên, đó là một thành phố
xa lạ và khó chịu, nhưng mọi người vẫn sống đấy thôi, cậu và Kesyrt cũng sống
được. Rồi khi bà con họ hàng đã bình tâm trở lại thì hai người sẽ quay về
Duts-Khote.
Tsanka còn
mơ mộng và suy ngẫm nhiều chuyện nữa, thế mà Kesyrt vẫn chưa trở ra. Cậu bắt đầu
cảm thấy lo lắng. Cuối cùng, không thể chịu đựng hơn được nữa, cậu gọi to:
- Kesyrt!
- Kêu cái
gì thế? - Cậu nghe thấy giọng người yêu dấu ngay bên cạnh.
Kesyrt ra
khỏi bụi cây, tay cầm một bó rau tầm ma non xanh mướt. Cô bước xuống suối,
nhúng bó rau xuống dòng nước chảy xiết rồi quay lại chỗ Tsanka.
- Anh trải
khăn ăn ra, rồi lấy muối trong cái tay nải kia.
Tsanka vụng
về loay hoay mãi mới xong.
- Ôi, anh
hậu đậu quá. - Kesyrt mỉm cười - Ôi, anh hậu đậu quá. - Kesyrt mỉm cười nói, cố
giúp cậu một tay.
Sau khi đã
rắc muối lên bó tầm ma, Kesyrt bắt đầu vò kĩ, biến chúng thành một thứ màu xanh
đậm. Khi mọi việc xong xuôi, cô dùng hai ngón tay nhón một cọng tầm ma lên.
- Anh ăn
thử đi. - Kesyrt vừa nói vừa đưa cọng rau vào miệng Tsanka. - Thế nào?
Tsanka chỉ
còn biết gật đầu.
- Nữa nhé?
- Kesyrt cười, hỏi.
Cậu lại gật.
Kesyrt lại
bỏ vào cái miệng há to của Tsanka một nhúm rau nữa, môi cậu chạm vào những ngón
tay của cô gái, cậu nhẹ nhàng ngậm chúng lại, còn kịp đưa lưỡi ra chạm khẽ vào
ngón tay.
- Anh có
thể cắn đứt tay tôi đấy. - Cô gái đỏng đảnh nói.
Trong trạng
thái cảm xúc căng thẳng như vậy, Tsanka chẳng còn tâm trí đâu mà nghĩ đến chuyện
ăn uống. Kesyrt, rõ ràng là nhận ra điều đó, nên cô chỉ im lặng mỉm cười.
- Tôi cứ
nghĩ, anh vẫn còn trẻ con, hóa ra anh cũng đã trưởng thành rồi. - Đột nhiên,
Kesyrt nhìn thẳng vào cặp mắt màu xanh xám mở to như bị phủ một lớp sương mù do
quá xúc động của Tsanka và nói bằng một giọng nghiêm túc.
Bữa ăn rất
đạm bạc. Ngoài món rau tầm ma ra, còn có bánh bột ngô dẹt và pho mát cừu vừa
mua. Nước uống sau bữa ăn là thứ nước nhờ nhờ lấy từ suối lên.
- Anh mặc
áo vào đi. - Đột nhiên Kesyrt nói.
- Để làm
gì? - Tsanka ngạc nhiên.
- Tôi xin
anh, mặc vào đi. - Cô nhắc lại. - Lỡ có ai nhìn thấy thì sao.
- Ở đây
thì có ai nhìn thấy chúng ta?
- Dù sao
thì anh cũng mặc vào đi. Anh đâu còn bé nữa.
Tsanka
không thèm đứng dậy, với tay lấy cái áo, chậm rãi mặc vào người.
- Anh ăn
đi, ăn đi. - Kesyrt đẩy bánh bột ngô và mẩu pho mát phết bơ về phía Tsanka.
Họ ăn chậm
chạp, uể oải, luôn nhường nhau những miếng ngon nhất. Rõ ràng là cả hai, không
ai nghĩ đến chuyện ăn uống.
- Cô bị rộp
tay vì lá tầm ma. - Tsanka vừa nói vừa chạm khẽ vào những ngón tay rồi đưa dần
lên khuỷu tay cô gái.
Không đột
ngột và cũng không nói năng gì, nhưng Kesyrt cương quyết đẩy tay cậu ra, liếc về
phía cậu một cái sắc như dao, song có một điều gì đó hết sức thầm kín thoáng
qua nơi khóe môi cô.
Sau bữa
ăn, Kesyrt gói ghém tất cả vào tay nải.
- Anh thắng
ngựa đi, tôi nằm nghỉ một lát, tôi mệt quá. - Kesyrt phân công.
Tsanka thắng
ngựa rất lâu. Con ngựa già chống cự, không muốn tròng đầu vào cái vòng cổ, giận
dữ phun phì phì, dọa mấy cũng không sợ, nhưng rồi cuối cùng nó cũng đành phải
chịu thua chàng trai.
Sau công
việc nặng nhọc đó, Tsanka hít một hơi dài, rón rén trên đầu ngón chân đến gần
chỗ Kesyrt đang nằm, nhẹ nhàng ngồi xuống, bất giác ngậm vào miệng một cọng cỏ
khô từ năm ngoái, ngắm nhìn cô gái.
Kesyrt, nằm
ngửa, một tay đặt xuống dưới đầu, hai hàng mi dày khép chặt, đôi má bầu bĩnh ửng
hồng. Những giọt mồ hôi nhỏ xíu lấm tấm trên mũi và trên trán.
Nếu không
có sự chuyển động của bộ ngực, không thể biết được cô gái còn thở hay không.
Tsanka đưa
mắt quan sát toàn bộ cơ thể cân đối của cô gái đến mấy lần mà không biết chán.
Một sức mạnh
vô hình như đẩy Tsanka về phía Kesyrt, phải cố gắng lắm cậu mới kìm lại được. Cậu
cảm thấy vô cùng khổ sở, phải cố vượt qua chính mình, nắm chặt hai tay lại rồi
xuống suối rửa mặt.
Băng qua
những cái đập nhỏ, dòng nước suối vẩn đục vui vẻ kêu róc rách rồi xuôi xuống dưới.
Một con ếch to hoảng sợ vì sự xuất hiện của chàng trai, vội vàng nhảy từ bụi
cây mộc tặc sum sê, biến mất trong làn nước rồi lại xuất hiện ở bờ bên kia với
đôi mắt lồi ra rất ngạc nhiên. Nhìn thấy Tsanka nghiêng người xuống nước, nó
kêu một tiếng “oạp” ngắn ngủi rồi lại xuôi theo dòng nước về phía dưới, lặn mất
tăm.
Đâu đó bên
cạnh, trên bãi cỏ, có một con sơn ca núi chao lượn trong không khí, cất lên giọng
ngân trong trẻo. Còn lũ chim sáo thì hót líu lo trong cánh rừng rậm ven suối.
Lũ chim sẻ, con này nối đuôi con kia nhảy nhót trong những bụi cây rậm, luôn miệng
ríu rít đón chào mùa xuân.
Một con kiến
màu hung bò theo những chiếc lá nhẵn thín treo lơ lửng trên mặt trước, bỗng sảy
chân rơi xuống dòng nước đang chảy chầm chậm bên dưới, cố vùng vẫy leo lên bờ.
Cùng lúc ấy, từ trong bụi cây, một thợ săn là con nhện nước có tua bất ngờ lao
ra, túm ngay lấy con mồi rồi lặn xuống nước và mất hút ở chỗ xoáy nước nhỏ.
Từ phía
sau, Kesyrt khẽ khàng nhón chân tiến lại gần, đôi chân trần lướt nhẹ trên thảm
cỏ non. Cô khẽ đẩy vào lưng Tsanka, bật cười lảnh lót, rồi ngồi xuống bên cạnh,
ngay sát mép nước, bắt đầu rửa mặt mũi chân tay, vừa té nước vào chàng trai vừa
cười thích thú.
- Tsanka,
anh có nhớ tôi đã tắm cho anh ở trong nguồn nước không?
Chàng trai
im lặng, đỏ mặt.
- Khi ấy,
anh tỏ ra táo tợn lắm. - Kesyrt vừa cười vừa nói, rồi cô đứng dậy, lấy ống tay
áo lau nước trên khuôn mặt xinh đẹp và nói bằng một giọng buồn buồn. - Thời ấy
sao mà đẹp thế! Tôi hạnh phúc thế!
- Thôi đi,
Kesyrt, cô còn cả tương lai ở phía trước.
- Không,
cuộc đời tôi bị phá hỏng rồi, tuổi xuân của tôi đã trôi qua. Tôi giống như những
bông hoa táo. Những bông còn lại trên cành sẽ tiếp tục sống, rồi kết trái, rồi
có hạt và cứ luân hồi mãi. Còn tôi, là một trong số những bông hoa đã nở, nhưng
chỉ sau một cơn mưa đầu mùa, rụng xuống đất, mất cả màu sắc và sự sống.
- Thôi đi,
đừng nói nhảm nữa.
- Được rồi,
ta đi thôi, Tsanka. - Cả hai lên chỗ chiếc xe, và khi đã ngồi vào xe, Kesyrt chợt
hỏi. - Anh có nhớ bà già Bikazhu ở cối xay nước không?
- Tôi
không nhớ lắm, nhưng có nghe kể nhiều về bà ấy. Vừa rồi, khi đi ngang qua động,
bác Baki-Haji có kể cho tôi nghe về bà ấy. Người ta đồn, đó là một bà già rất kỳ
lạ, có khi là phù thủy nữa.
- Không
đúng đâu. Tất cả đều là chuyện nhảm nhí, đơm đặt của người đời. - Kesyrt cắt
ngang. - Chẳng qua là bà ấy sống một mình, một cuộc sống nô lệ vất vả, bà ấy chứng
kiến và biết nhiều chuyện, và khác với những người đàn bà ngồi lê đôi mách của
chúng ta, bà ấy là một người thông minh... Tất nhiên bà ấy có thể tiên đoán được
mọi việc... Người ta đồn, bà ấy nói, sẽ đến lúc kẻ đầy tớ biến thành quý ông,
còn những người chân chính sẽ thành đầy tớ. Còn chuyện liên quan đến tôi, trước
khi chết bà ấy nói với mẹ tôi, rằng tôi là đứa con gái sinh ra không có cha và
sẽ bất hạnh.
- Cô là đồ
ngu, Kesyrt ạ, và cái bà Bikazhu của cô cũng ngu nốt. Cầu xin Thượng đế ban phước
lành cho những người đã khuất, kể cả bà Bikazhu của cô nữa, nếu cô muốn. -
Tsanka bực bội nói. - Đi thôi, muộn rồi, mặt trời sắp lặn rồi.
Cả hai im
lặng rất lâu, mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng của mình. Đột nhiên, Tsanka quay
lại nói:
- Kesyrt,
lấy tôi làm chồng đi.
Tsanka chờ
nghe một tiếng cười nhạo của Kesyrt, nhưng ngược lại, cô gái càng tỏ ra buồn
hơn.
- Ôi,
Tsanka, Tsanka. Nếu như anh có thể làm chồng tôi, anh đã không ngỏ lời. Mà ai
có thể chấp nhận điều đó? Tôi lớn hơn anh đến năm, sáu tuổi, đã hai đời chồng,
lại là đứa con ngoài giá thú nữa.
- Thôi cô
im đi, đủ rồi đấy. - Tsanka cắt ngang, tức giận quất cho con ngựa một roi.
Cả hai lại
im lặng. Họ đến làng Germentsuk, chỉ còn cách Shali một đoạn nữa.
- Kesyrt,
chúng ta làm lễ cưới đi. Tôi yêu cô, tôi cần cô. - Đột nhiên, như không thể kìm
nổi, Tsanka quay lại phía Kesyrt, bật ra.
- Anh nghĩ
tôi không thể lấy được ai nữa hay sao? - Kesyrt đáp lại, thoáng chút giễu cợt.
- Có cả những người trẻ, người giàu, có địa vị xứng đáng. Tôi chỉ nhắc lại cho
anh nhớ, tôi không muốn lấy chồng nữa. Tôi không yêu ai và sẽ không bao giờ yêu
ai nữa.
- Có phải
cô muốn nói, tôi không xứng với cô?
- Chuyện
này không liên quan gì đến anh. Chúng ta như anh em, hay ít ra là những người bạn
tốt.
- Tôi
không muốn làm anh em của cô, lại càng không muốn làm bạn. Tôi chỉ muốn là chồng
Kesyrt thôi.
- Tsanka,
anh còn trẻ lắm để nói những chuyện như thế này. Thôi đi, anh bạn thân mến ạ. -
Kesyrt mỉm cười giễu cợt, ngừng một lát, cô tiếp. - Anh ngồi xa ra, mọi người
xung quanh đang nhìn chúng ta đấy, mà ở đây ai cũng biết tôi.
Nói đến
đó, hai người đã tới Shali lúc nào không hay.
- Anh sẽ
nghỉ lại nhà ai? - Kesyrt hỏi.
- Với bộ dạng
thế này, đến nhà ai được? - Tsanka đáp.
- Đúng thế.
Nếu vậy anh sẽ làm gì?
- Chẳng
làm gì cả, tôi sẽ ngủ ở ngoài làng. Còn cô?
- Tôi đến
nhà người quen. Chúng ta hẹn sáng mai sẽ gặp nhau ở đâu?
Suy nghĩ
giây lát, Tsanka đáp:
- Bộ dạng
của cô cũng chẳng đẹp đẽ gì. Áo váy rách tả tơi phải lấy kim băng gài lại, cũng
bẩn thỉu khác gì tôi.
- Phải, phải...
Nhưng tôi biết làm sao bây giờ, chẳng lẽ ngủ ngoài trời với anh?
- Tôi
không biết, cô muốn làm gì thì làm. - Tsanka làm ra vẻ dửng dưng, mặc dù trong
lòng như đang sôi lên sùng sục.
- Thế ngủ
với anh trong núi có nguy hiểm không? Hừ, mới chỉ có mấy ngày mà anh đã trưởng
thành lên nhiều rồi đấy. - Kesyrt nói bằng một giọng ngoa ngoắt. Tôi chỉ lo phải
để anh ngủ một mình thôi. Nhỡ anh lại gây ra chuyện gì đó hay là có chuyện gì
đó xảy ra với anh.
- Cô muốn
làm gì tùy cô. - Tsanka lẩm bẩm, cố che giấu ánh mắt lộ liễu của mìnhđi.
- Thôi được
rồi, đi thôi. - Sau một lát nghĩ ngợi, Kesyrt đáp. - Chỉ có điều, đừng làm trò
gì ngu ngốc nghe chưa, anh đang quá xúc động đấy. Anh yêu nhầm người rồi, nhưng
mọi chuyện sẽ qua nhanh thôi.
Đối với
Tsanka, đoạn đường đến Shali tưởng như dài bất tận. Cậu liên tục thúc con ngựa
già, không ngoảnh đầu lại phía sau, không hé răng nói một lời. Kesyrt hiểu rõ
điều gì đang xảy ra với Tsanka và cô cười thầm trong bụng. Nhưng cô cảm thấy có
điều gì đó không đúng như nó phải thế, và cô, hình như cũng đã xử sự không
đúng. Hai người đều chuyển động về cùng một hướng, cùng bị thôi thúc bởi niềm
đam mê và những ước vọng, nhưng không cùng chung một mục đích khám phá và khát
khao dục vọng. Cả hai chỉ muốn tin vào những quy tắc đạo đức thuần túy, cao cả
và thánh thiện, mặc dù về bản chất, đó cũng chỉ là những nhu cầu và niềm đam mê
bình dị về tình cảm và sinh lý của con người. Tuy nhiên, họ lại muốn gọi chúng
bằng một cái tên khác và không dám nghĩ về chúng, sợ người này sẽ đoán ra những
ý nghĩ thấp kém của người kia, và cho rằng đó là điều đáng xấu hổ. Họ đã được
giáo dục như vậy.
Có thể,
như thế là đúng chăng...
Mặt trời
chậm chạp hạ xuống sau đường chân trời khi họ rời khỏi huyện lỵ Shali. Ở đây, tại
rìa một ngôi làng lớn là trái tim của Chechnya, vùng bình nguyên trù phú của
Chechnya cũng kết thúc và bắt đầu vùng núi Chechnya với dãy núi Alpes quanh năm
đóng băng màu xanh thẫm.
Sông Bass
chảy ra từ hẻm núi san sát những cây dẻ gai. Họ còn đi khá lâu theo con đường
đá thoai thoải. Sau đó Tsanka đột ngột rẽ trái và chiếc xe sệ ngay vào một cái
rãnh nhỏ. Những cành cây ven đường đập vào mặt, Kesyrt tỏ ra bực tức, còn
Tsanka lại bật cười vui vẻ. Chiếc xe chạy khoảng mười, mười lăm mét nữa trên
con đường mấp mô lổm nhổm cuội sỏi, rồi khung cảnh lại bừng sáng lên và họ đang
ở giữa một thung lũng thoáng đãng và thơ mộng bên sông.
Trời chiều,
làn gió lạnh đông-bắc hanh khô nổi lên. Bầu trời xanh trong veo. Mặt trời đã lặn
sau rặng núi, nhưng vẫn chưa khuất hẳn, không gian vẫn còn sáng.
Trong hẻm
núi, không khí ẩm ướt, nước sông lạnh.
Họ nghỉ
đêm dưới tán lá trăn lòa xòa. Tsanka tháo ngựa, dẫn đi uống nước. Dọc đường, cậu
dừng lại bên một trong vô số các vũng nước tách biệt khỏi dòng chảy chính của
con sông. Có thể thấy, vào đầu xuân, khi tuyết tan, nước sông ngập tràn bờ, còn
bây giờ nó lại trở về với dòng chảy quen thuộc của mình, tách khỏi các vũng
nông, dưới đáy phủ đầy bùn đất. Trong một cái vũng như thế, Tsanka nhìn thấy
con cá gần bằng bàn tay.
Sau khi
cho ngựa uống nước xong, Tsanka buộc chúng vào xe, mở tay nải đồ ăn ra, bẻ vài
miếng bánh mì ngô rồi chạy lại chỗ vũng nước.
- Anh làm
gì thế? - Kesyrt ngạc nhiên.
- Ở đấy có
cá.
- Anh định
bắt nó?
- Phải. -
Tsanka vừa đi vừa đáp.
- Cứ bắt
đi, bắt đi. - Kesyrt bật cười.
Tsanka chạy
đến chỗ vũng nước, ném mẩu bánh mì vào đó. Ngay lập tức bốn con cá to bơi lại,
rồi mấy con cá con cũng lao vào miếng bánh mì cứng ngắc, đẩy nó lên mặt nước,
xé nát ra.
- Kesyrt,
Kesyrt, lại đây, nhanh lên, mang cả cái khăn bàn nữa, trong tay nải ấy. -
Tsanka háo hức hét lên.
Cô gái
không tin vào chuyện đánh bắt cá, cười nhạo chàng trai.
Tuy nhiên,
Tsanka đã làm cô vui lây và bị cuốn vào công việc. Họ cầm bốn góc tấm khăn bàn,
lội xuống nước, nhưng chỉ mới thò chân xuống, lũ cá đã biến mất. Hai người đánh
cá khuấy đục vũng nước lên, hăng hái đưa tấm khăn bàn xuống sát đáy cái vũng
không lớn lắm, mặt và lưng đẫm mồ hôi, trượt chân trên những viên cuội, ngã
nhào, va đầu vào nhau, khổ sở mãi mới bắt được hai con cá hồi khá to và vài con
cá nhỏ. Cá nhỏ, họ ném xuống sông, còn cá hồi, như một chiến lợi phẩm đáng giá,
họ mang về xe.
Sau khi
đánh cá, Kesyrt nâng váy lên, gần như để lộ ra cặp đùi cân đối, lội qua sông,
vào trong bụi cây ở bờ bên kia. Tsanka ngồi lại nhổ ít cỏ non cho con ngựa.
Kesyrt nhổ
những bụi hành gấu đã già, bỏ đầy trong vạt váy. Cô quay lại, mỉm cười vì biết
Tsanka đang mê mẩn ngắm nhìn đôi chân trần của mình và cảm thấy một niềm thích
thú hoàn toàn nữ tính.
Trong hẻm
núi có rất nhiều cành khô, thậm chí cả một cây khô trôi từ trên núi xuống. Họ
kiếm củi, đốt một đống lửa và ăn tối khi trời đã tối hẳn. Món cá hồi nướng trên
than hồng hóa ra rất ngon và béo. Mớ hành gấu không có gì để nấu, đành phải ăn
sống, cay xé họng và cả tận trong ruột nữa.
Cả hai đều
im lặng như đang chờ đợi một điều gì đó sẽ xảy ra trong đêm nay. Tsanka, linh cảm
về một điều mới lạ, không bình thường nên cậu cảm thấy sợ hãi, thậm chí run lên
vì hồi hộp.
- Lẽ ra
tôi nên nghỉ đêm ở làng. - Đột nhiên Kesyrt nói.
- Tại sao?
Có chuyện gì à? - Tsanka khẽ hỏi.
Để trả lời,
cô gái chỉ nhún vai.
- Tôi đúng
là một con ngốc, con ngốc hư hỏng. - Kesyrt lại bất ngờ thốt lên, giọng chỉ vừa
đủ nghe. - Lúc nào cũng làm trước rồi mới nghĩ sau.
- Cô nói
gì vậy, thôi đi. - Tsanka dịu dàng nói, vuốt vuốt tay Kesyrt, định làm cô bình
tâm lại.
- Bỏ tay
ra. - Cô gái xẵng giọng hét lên. - Anh không được phép. Hiểu chưa?
Tsanka vội
rụt tay lại như chạm vào lửa.
- Tôi ngu
quá, ngu quá. - Kesyrt lại tiếp tục bằng một giọng như lúc nãy. - Chẳng bao giờ
chịu suy nghĩ... Thôi cũng chẳng sao, rồi sẽ đến lúc tôi sẽ khôn ngoan hơn.
- Tôi
không hiểu, cô nói gì thế? - Tsanka ngạc nhiên.
- Khi nào
lớn lên anh sẽ hiểu. - Kesyrt cay nghiệt cắt ngang. - Dù sao đi nữa tôi cũng là
người có lỗi trong mọi chuyện... Trong mọi trường hợp... tôi là con ngốc!
Kesyrt ôm
chặt hai đầu gối, gác cằm lên.
Một chiếc
lá trăn non lượn xuống, xoay vòng như trong điệu nhảy kỳ lạ rồi đáp xuống chiếc
khăn bàn.
- Cô nhìn
xem, chiếc lá dính không này. - Tsanka ngạc nhiên kẹp chiếc lá giữa hai ngón
tay rồi ném ra ngoài.
- Phải,
dính lắm. - Kesyrt ngoảnh mặt đi, trầm ngâm đáp. - Có thể thấy rõ, nó muốn cái
gì đó bị dính vào, nhưng chẳng có cái gì dính cả, nên nó lại bám theo, tận dụng
mọi cơ hội, và lại nghi ngờ, rồi quẳng đi vì không kham nổi.
- Cô đúng
là một con ngốc, Kesyrt ạ. - Tsanka bực mình bác bỏ mọi lập luận của Kesyrt. -
Cô vừa ngốc, vừa không bình thường nữa.
- Cám ơn
anh! Tôi rất mừng là anh đã hiểu đúng. - Kesyrt quay lại phía Tsanka, đáp lại bằng
một giọng như cũ, trong cặp mắt phản chiếu ánh lửa đang tàn dần bỗng lóe lên một
tia lửa đỏ cay nghiệt.
Tsanka đứng
lên, bỏ vào đống lửa một bó cành nhỏ. Đống lửa tỏa khói mù mịt, nổ lách tách,
xì hơi nước ra, sau đó mới bùng lên, rọi sáng hai khuôn mặt bằng một màu vàng-đỏ.
Tiếng ếch
kêu ộp oạp một cách vô vọng lan dọc theo sông, còn từ bờ bên kia vọng lại tiếng
tru như tiếng trẻ con khóc của lũ chó núi. Đâu đó ngay bên cạnh, một con sếu
đêm kêu rất to “kvau... vau...”. Trên sườn núi, lấp lóa giữa những tán lá nhỏ
mùa xuân, mặt trăng tròn vành vạnh hiện ra, tỏa sáng rực rỡ. Trong màn đêm tĩnh
lặng có thể nghe rõ tiếng nước chảy róc rách qua các mỏm đá như tiếng thì thầm
của phụ nữ. Do sức nóng của đống lửa, các viên đá nứt ra kèm theo tiếng nổ.
- Tôi đi
nhổ cho con ngựa ít cỏ nữa. - Tsanka nói rồi biến mất trong bóng đêm.
Kesyrt ngồi
lại một mình khá lâu bên đống lửa trong trạng thái đờ đẫn hoàn toàn, vẩn vơ
nghĩ về bản thân, nhớ lại chuyện đã qua, thêm một lần nữa lại dằn vặt đau khổ.
Đột nhiên trong bụi cây bên cạnh có cái gì đó sột soạt, cô chột dạ nhìn quanh
và thấy bốn đốm lửa đỏ trong bóng đêm
- Tsanka,
Tsanka! - Kesyrt bật dậy. - Tsanka, anh ở đâu?
Từ hẻm
núi, một tiếng vọng khô khốc dội lại “ia-ia... ia-ia”.
- Tsanka!
- Cô gái tuyệt vọng hét lên, trong màn đêm tiếng vọng lảnh lói lan xa khắp
thung lũng. Kesyrt toát mồ hôi lạnh. Không biết làm gì hơn, cô hoảng hốt chạy
quanh đống lửa. Một viên đá nữa lại nứt ra với tiếng nổ khá to. Kesyrt giật
mình ngã bệt xuống, vội vàng bật dậy, sợ hãi chạy đến chỗ con ngựa, một tay nắm
lấy bờm nó, miệng la hớt hải:
- Tsanka!
- Có chuyện
gì thế, tôi chạy về đây! - Giọng nói thân thuộc vang lên.
Từ trong
bóng tối, hình dạng Tsanka hiện dần ra, cậu vừa chạy vừa thở, tay cầm bó cỏ
tươi.
- Kesyrt,
có chuyện gì thế? - Tsanka hỏi, ném bó cỏ xuống trước đầu con ngựa, rồi nhẹ
nhàng, thận trọng nắm lấy khuỷu tay Kesyrt.
Kesyrt
không gạt tay cậu ra như lúc nãy, mà ngược lại, đưa một tay nắm lấy tay áo cậu.
- Tsanka,
anh ở đâu thế? Tôi sợ quá... Ở đằng kia có tiếng động... Có mấy con mắt đỏ lóe
lên, nhiều lắm... Tôi sợ.
- Đừng sợ,
Kesyrt ạ. - Tsanka thì thào bằng một giọng rất dịu dàng và khẽ kéo Kesyrt lại gần.
Kesyrt
hoàn toàn bị khuất phục, nép hẳn vào người Tsanka, ngực thở dồn dập, hai tay ôm
chặt vào mấy cái rẻ xương sườn của cậu. Tsanka vụng về ôm vai Kesyrt, nghiêng đầu
xuống, hít thở mùi hương tỏa ra từ cổ, từ tóc cô. Cậu hạnh phúc vô cùng! Một niềm
khoái lạc tràn ngập tâm trí cậu!
Nhưng tất
cả chỉ diễn ra trong giây lát. Hít một hơi dài, Kesyrt thoát ra khỏi vòng tay
Tsanka và đi về chỗ đống lửa.
- Chúng ta
phải chuẩn bị chỗ ngủ thôi, tôi mệt lắm rồi, hai mắt cứ díp lại.
- Cô trải
tấm thảm lông cừu xuống sàn xe rồi ngủ ở đấy, lấy chiếc áo lông ngắn của mình
mà đắp. Còn tôi sẽ nằm bên đống lửa, đắp chiếc áo choàng của bác tôi. Tôi còn
phải giặt quần áo nữa.
- Giặt cái
gì? - Kesyrt ngạc nhiên.
- Nhưng
tôi không thể về làng trong bộ dạng thế này được, lại còn những vết thâm tím
trên mặt nữa. Dân chúng sẽ nói sao?
- Phải. -
Kesyrt trầm ngâm nói. - Nhưng đến sáng làm sao khô?
- Tôi sẽ
hơ gần đống lửa, sẽ khô thôi.
Kesyrt im
lặng bước lại chỗ chiếc xe sửa soạn chỗ nằm, sau đó cô đột ngột nói:
- Ném quần
áo của anh lại đây, tôi giặt cho.
- Không cần
đâu. Cô ngủ đi.
- Anh hãy
làm như tôi bảo.
Họ còn
tranh cãi đôi câu nữa, cuối cùng Kesyrt thắng.
Tsanka đi
ra sau bụi rậm, cởi quần dài và áo sơ mi ra, trần truồng. Cậu không mặc quần
lót vì cậu không có. Một cảm giác xao động kỳ lạ và một sự chờ đợi hồi hộp lan
khắp cơ thể, hai bàn tay run bần bật, túa mồ hôi lạnh. Tsanka choàng lên cơ thể
trần truồng của mình chiếc áo choàng nặng trịch, cũ mèm rồi bước ra khỏi lùm
cây.
- Ôi,
trông anh như con ma ấy. - Kesyrt bật cười khe khẽ, rồi cô lấy mớ quần áo từ
trên cánh tay Tsanka thò ra khỏi chiếc áo choàng rộng thùng thình, nói thêm.
Anh đã trở nên lực lưỡng hơn trong chiếc áo ấy đấy. Khủng khiếp thật.
Kesyrt đã
bước đi, nhưng rồi cô dừng lại, nói:
- Tsanka,
tôi không dám đi một mình đâu.
Tsanka lặng
lẽ bước theo.
Vầng trăng
tròn treo cao trên đỉnh núi, rải ánh vàng xuống khắp thung lũng.
- Anh nhìn
kìa, ở đây đẹp quá, trăng sáng quá. - Kesyrt vui vẻ thốt lên. - Thế mà chúng ta
lại ở đấy, trong bóng tối, dưới bóng cây... Nhìn kìa, sao đầy trời, còn mặt
trăng nữa.
Kesyrt nhảy
chân sáo rồi lượn vài vòng, gợi cho Tsanka nhớ lại những điệu nhảy quyến rũ,
quen thuộc.
- Đã lâu rồi
tôi không khiêu vũ!
Tsanka vừa
chạy vừa vấp, một tay giữ chặt chiếc áo khoác, cố đuổi theo Kesyrt, chạy quanh
cô như người bạn nhảy.
Chàng trai
lắc đầu như con ngựa gõ móng quanh Kesyrt trẻ trung... Họ còn xoay tròn trong
điệu nhảy khá lâu nữa cho đến khi mệt nhoài, rồi bật cười thích thú, bước xuống
sông.
Ánh trăng
phản chiếu lấp lóa trên mặt nước, có cảm giác như mặt trăng đang tắm trong
sông. Trên cái nền tối của núi rừng, những viên đá trắng nổi bật lên như đang
phát ra một luồng sáng vàng-xanh. Tiếng nước chảy róc rách vui vẻ. Không khí
trong lành, tươi tắn và se lạnh.
Đến sát bờ
sông, Kesyrt cởi đôi giày da mềm và bỏ chiếc khăn trùm đầu ra, buộc túm mái tóc
dày lại.
- Mái tóc
của cô vẫn như xưa. - Tsanka như nói với chính mình.
- Thế những
cái khác không còn như xưa nữa hay sao? - Kesyrt liếc xéo Tsanka một cái, bật
cười, đỏng đảnh nói.
- Tôi
không thấy, tôi không biết. - Tsanka nghiêm túc đáp.
- Thôi đi,
anh hiểu chứ? - Kesyrt lạnh lùng nói, rồi kéo cao vạt váy lên, lội xuống sông,
nước chỉ mấp mé mắt cá chân. - Ôi, lạnh quá. - Cô hét lên. - Đưa quần áo cho
tôi.
Vừa lẩm nhẩm
hát bài gì đó, Kesyrt vừa bắt tay vào việc.
Kesyrt giặt
rất nhanh và thành thạo, rồi đưa mớ quần áo ra chỗ nước chảy xiết giũ thật kĩ.
Tsanka
nhìn rất rõ mọi cử động của Kesyrt. Những cảm xúc lâu ngày bị giấu kín cùng với
những khát vọng choán ngợp tâm trí cậu. Cậu không thể suy nghĩ, không thể nhận
thức được điều gì. Niềm đam mê không kìm giữ nổi như nuốt sống cậu, chế ngự cậu,
làm cậu bừng tỉnh, đòi phải được đáp ứng. Mối tình đầu tiên, người phụ nữ đầu
tiên, đêm đầu tiên! Quá nhiều điều bất ngờ, quá nhiều niềm khát vọng, và cũng
quá nhiều nỗi khổ đau.
Kesyrt vẫn
ở dưới nước và lẩm nhẩm hát. Sau đó cô đứng thẳng người lên, vòng tay ra sau
lưng, vừa cười vừa hét lên vui vẻ:
- Đưa tay
đây.
Tsanka bối
rối tiến lại mép nước, thò cánh tay lạnh như băng ra khỏi chiếc áo choàng, giúp
Kesyrt lên bờ.
Kesyrt vẫn
cười, mái tóc xổ ra bồng bềnh trên vai và trên lưng như một rẻ quạt.
- Đây, anh
vắt đi, tay anh khỏe hơn, tôi mệt rồi. - Kesyrt nói nhanh, thở dồn dập.
Trong trạng
thái hoàn toàn đờ đẫn, Tsanka phanh chiếc áo choàng và chìa tay ra, để lộ tấm
thân trần như bức tượng. Kesyrt chỉ kịp thốt lên “Ôi” rồi vội lấy tay che miệng.
Bộ quần áo ướt rơi xuống tảng đá. Trong khoảnh khắc cả hai cứ đứng lặng như thế.
Đôi mắt Kesyrt mở to, lấp lánh ánh trăng.
Không thể
kìm được bản thân, Tsanka vội nhào về phía Kesyrt, nhưng gặp ngay sự chống trả
kịch liệt với hai cái tát nảy lửa.
Sau khi
thoát khỏi sự đòi hỏi của chàng trai, Kesyrt cầm đôi giày và chiếc khăn choàng
của mình lên, vừa đi về phía đống lửa vừa ném lại phía sau:
- Anh
không phải là đàn ông!
Kesyrt nằm
co ro trên xe khóc nức nở, cô cứ nằm mãi mà không ngủ được. Trong thâm tâm, cô
tự trách mình, cô ý thức rất rõ, tất cả là lỗi ở cô. Trong lòng cô, nỗi khát
khao tình dục cũng không hề kém chàng trai, và theo bản năng, cô đã dẫn dắt mọi
việc để mong thỏa mãn được điều đó. Thế nhưng vào giây phút cuối cùng, cái tính
ngang ngạnh, hay nói cho đúng hơn là cái tính thô lỗ của cô cùng với sự thiếu
kinh nghiệm của chàng trai đã ngăn cô lại trước một tội lỗi nặng nề... Kesyrt cứ
trách móc, kết tội mình mãi rồi thiếp đi lúc nào không hay với những ý nghĩ u
buồn.
Tsanka ngồi
bên bờ sông, trái tim tan nát, trống rỗng, cảm thấy ghê tởm với chính bản thân,
với Kesyrt và với tất cả thế giới.
Sau khi đã
bị lạnh cóng hoàn toàn, Tsanka mới đứng dậy, khoác chiếc áo choàng lên người,
nhặt bộ quần áo ướt lên. Như một tên trộm, cậu nhìn lên mặt trăng, bước lại gần
đống lửa dưới tán cây trăn. Cậu cứ loay hoay bên đống lửa đã tàn như một cái
máy, như trong một cơn mơ, cố nhen cho đống lửa cháy lại, rồi treo bộ quần áo
lên. Cậu vừa làm vừa tự nguyền rủa mình, không tìm lại được sự thanh thản trong
lòng vì quá xấu hổ, không biết phải chuộc lại lỗi lầm hay quay ngược thời gian
bằng cách nào.
Cậu cứ ngồi
bên đống lửa, thêm củi vào. Ngẫm nghĩ.
- U-guuk.
- Một tiếng kêu rất to vang lên ngay bên cạnh.
Tsanka giật
mình, hoảng sợ.
- U-guuk.
- Một tiếng nữa từ xa vọng lại, hình như là từ rặng núi đối diện.
Vài tiếng
kêu nữa như vậy lại vang lên, lan khắp hẻm núi với sự quyến rũ ma quái rất đặc
biệt.
Rồi một tiếng
động nữa rất lạ, và Tsanka từ từ nhận ra một con chim cú to đang xòe rộng đôi
cánh bay qua sông.
Tất cả núi
rừng đều như lặng đi trước bản nhạc ma quái của lũ chim cú, những con ếch nhát
gan cũng không ộp oạp nữa.
Tsanka cứ
ngồi nhìn mãi vào những lưỡi lửa nhảy nhót như bị ma ám. Những cảm xúc về tình
yêu, về sự dịu dàng, gần gũi, quan tâm lẫn nhau, trước đây cậu chưa từng biết,
giờ đang choán ngợp tâm trí. Một con người thân yêu đang ngủ bên cậu. Cậu muốn
hy sinh cho người ấy, luôn ở bên người ấy, bế người ấy trên tay, là nô lệ, là
chủ nhân, là người bảo vệ và người nuôi dưỡng cho người ấy... Họ sẽ sống bên
nhau, mãi mãi... Cậu sẽ yêu cô ấy mãnh liệt hơn người chồng đầu tiên của cô ấy.
Cậu sẽ chứng minh cho cô ấy thấy, cậu xứng đáng hơn người kia. Dĩ nhiên, kỷ niệm
về người chồng cũ là thiêng liêng, và cậu sẽ không bao giờ nhắc đến chuyện đó,
nhưng cậu sẽ làm tất cả để cô ấy hạnh phúc... Phải, họ sẽ chuyển đến sống ở
Grozny, hay xa nữa, miễn là với cô ấy... Đó là điều mong ước tuyệt vời nhất!
“Trong trắng, mạnh mẽ, đẹp đẽ và kiêu hãnh... Mình muốn ở bên cô ấy, mình muốn
phục vụ cô ấy... Mình sẽ trao cho cô ấy những tình cảm dịu dàng, ấm áp, và chỉ
có cô ấy mới xứng đáng với điều đó. Mình sẽ hạnh phúc nếu được ở bên cô ấy...
Ôi, cô ấy đáng yêu làm sao! Cô ấy đã phải chịu bao nỗi khổ đau và cay đắng!..
Cô ấy xứng đáng với những điều tốt đẹp nhất! Thượng đế đã ban cô ấy cho mình,
và ban mình cho cô ấy để xóa đi những nỗi đau của cô ấy... Ôi, bầu trời đầy
sao, ôi lạy thánh Alah, hãy cho con sức lực để yêu cô ấy một cách xứng đáng,
xin hãy gắn kết chúng con lại!... Con rất yêu cô ấy! Con đau khổ vô cùng và
cũng hạnh phúc vô cùng!..”
Khi trời vừa
rạng, bầu trời mùa xuân trong veo chỉ vừa mới sáng lên một chút thì cánh rừng
đã bừng thức dậy. Khắp nơi, chim chóc hót ríu ran, tạo nên một bản nhạc vô cùng
quyến rũ.
Kesyrt thức
dậy. Ngồi lên. Má đỏ hồng, mắt lấp lánh, mái tóc bồng bềnh xõa trên vai. Cô
nhìn quanh. Tsanka nằm nghiêng, vẫn ngủ bên đống lửa, con ngựa già lắc lắc đầu
vẻ không hài lòng, nhìn cô dò hỏi. Tay nải thức ăn lấp ló trong bụi cây cách đó
không xa, trông xơ xác và thủng lỗ chỗ.
Kesyrt bước
xuống xe, đứng nhìn rất lâu khuôn mặt tái nhợt của Tsanka, lắng nghe hơi thở đều
đặn của cậu qua cái miệng he hé. Sau đó cô nhẹ nhàng đắp lên người cậu chiếc áo
khoác lông ngắn của mình rồi đi xuống sông.
Cô lội cả
hai chân xuống dòng nước lạnh, gột rửa cẩn thận những vết bẩn trên quần áo, rửa
ráy rất lâu, rồi lên bờ, tết tóc, cầu nguyện, sau đó ngồi xuống tảng đá lớn, chống
cằm lên lòng bàn tay, buồn rầu nhìn ra sông.
Dòng nước
trong vắt, chảy ra từ các khe núi, băng qua các mỏm đá, xuôi về phía đồng bằng
mênh mông. Lũ cá nhỏ đuổi theo nhau, bơi ngược dòng, đến tận ngọn nguồn của
dòng sông, đến tận làng Duts-Khote, đến cối xay nước, đến chỗ mẹ Haza.
“Mẹ ơi, mẹ
yêu quý ơi, - Kesyrt thầm nghĩ, - người thân yêu duy nhất của con ơi, mẹ sống một
mình ra sao? Mẹ yêu quý! Con muốn về nhà... Nhưng nhà nào? Chiếc cối xay của
người ta lại là ngôi nhà của mình. Con biết làm gì đây? Con phải sống thế nào?
Con bất hạnh quá, mẹ ơi!”
Nhớ đến
người chồng quá cố của mình, Kesyrt bật khóc cay đắng, và lần đầu tiên trong đời,
cô nhận ra rằng, tuổi niên thiếu và tuổi trẻ của cô đã trôi qua, và tất cả những
gì thân yêu, hạnh phúc, vô tư cũng trôi qua. Mọi chuyện đã kết thúc, cuộc sống
phía trước thì u ám như của mẹ, cuộc sống của một người đàn bà độc thân...
Đến trưa,
sau khi đã vượt qua bao nhiêu đèo dốc, họ mới đến làng Makhketa. Tsanka muốn dừng
chân phía sau làng, cho con ngựa nghỉ một lát, nhưng Kesyrt bảo cô sẽ đi bộ trước,
cô muốn sớm về gặp mẹ.
Họ lại đi
tiếp, khi lên dốc Tsanka xuống xe, đi bộ bên cạnh, liếc nhìn Kesyrt. Bất chấp mọi
nỗ lực của Tsanka muốn cô mở miệng, nhưng Kesyrt chỉ im lặng, vẻ mặt buồn bã, đầu
óc phiêu diêu về điều gì đó.
Những cánh
rừng trong núi cao tỏa ra một mùi hương trẻ trung của màu xanh. Những cây lê,
táo và anh đào dại đang nở hoa, không khí tràn ngập mùi hương làm say đắm lòng
người. Vài cây mộc qua hiếm hoi và không cao lắm bung ra những cành non sum sê
màu trắng-vàng. Dọc hai bên đường là thảm cỏ màu sắc tươi thắm đến lóa mắt.
- Cô biết
không, Kesyrt, chẳng bao lâu nữa tôi sẽ trở nên giàu có, nói cho đúng hơn là
tôi với cô. - Đột nhiên, Tsanka hào hứng thốt lên. - Mà không phải chỉ có chúng
ta, tất cả những người thân yêu của chúng ta... Rồi cô sẽ thấy.
Kesyrt vẫn
im lặng như trước.
- Cô không
tin à. - Chàng trai vẫn không chịu. - Tôi biết chỗ giấu on dê vàng. Con dê bằng
vàng ròng, to bằng dê thật. Tôi đã suy nghĩ rất lâu rồi, tôi đã đến đấy và biết
chắc cái kho nằm ở đâu.
Tsanka còn
nói nữa, nhưng Kesyrt chỉ cười, cười một cách thích thú, thoải mái như cô vẫn
cười, để lộ ra khuôn mặt xinh đẹp.
- Cô cười
cái gì, cô không tin à? - Tsanka tự ái.
- Ý anh muốn
nói đến con dê của ông Tsakhy chứ gì? - Kesyrt vừa nói vừa cười chảy cả nước mắt.
- Phải. Cô
cũng nghe nói về chuyện đó à?
- Tôi đã
nghe câu chuyện cổ tích đó rồi, còn cái viễn cảnh giàu sang của tất cả dòng họ
thì tôi sẽ kể cho anh nghe một câu chuyện có thật. Chuyện xảy ra ở Shali vào thời
Sa hoàng. Khi đó mọi người như phát điên lên vì dầu mỏ. Cứ mỗi khoảnh đất, nếu
phát hiện có cái chất lỏng màu đen ấy là người nước ngoài và cả người Chechnya
nữa, có thể trả một đống tiền. Vậy là có một gia đình đông con, tên là Mushuev
quyết định đào cái nhà vệ sinh mới xây của mình lên. Tôi biết họ rất rõ vì họ sống
gần chỗ chúng tôi. Trong nhà ấy có đến bảy, tám người lớn, nên chỉ trong một
ngày họ dễ dàng đào xong cái hố to tướng. Gia đình ấy nổi tiếng khắp vùng vì
tính tham lam và đầu óc ngu si tứ chi phát triển. Thế là người hàng xóm quyết định
trêu chọc họ. Đến đêm, người hàng xóm bèn đổ một ít dầu mỏ vào cái hố. Sáng hôm
sau, thấy có dầu, nhà Mushuev lại đào tiếp. Đến tối người hàng xóm lại đổ nữa.
Hôm sau, nhà Mushuev không đào nữa và bắt đầu xây lên đó một công trình kiên cố,
thậm chí còn to hơn ngôi nhà đang ở nữa để che những cặp mắt tò mò đối với tài
sản của mình. Buổi chiều, người con trai cả của gia đình ra giữa chợ, hào phóng
tuyên bố: Chẳng bao lâu nữa, không chỉ có gia đình chúng tôi mà tất cả bà con
dòng họ chúng tôi sẽ trở nên giàu có, thậm chí bạn của bạn chúng tôi cũng sẽ
chìm ngập trong sự giàu sang.
Tsanka mím
môi lại, vẻ không hài lòng.
- Rồi mọi
chuyện kết thúc ra sao? - Lát sau cậu hỏi.
- Kết thúc
khi người hàng xóm định đổ tiếp dầu vào hố, nhưng ông không biết người ta đã bố
trí canh gác cẩn mật bên cái nhà xí dát vàng ấy. Bị tóm, định cười xòa, nhưng cả
ông lẫn chai dầu mỏ bị ném xuống hố. Cho đến giờ, cái công trình và cái hố ấy vẫn
còn ở nhà Mushuev. Họ vẫn còn tin vào câu chuyện cổ tích của mình. Còn anh, đừng
tin vào những chuyện nhảm nhí ấy. Hạnh phúc không thể đi tìm mà phải tạo dựng
nên... Anh còn trẻ và còn ngốc lắm.
- Chính cô
ngốc thì có. - Tsanka vặc lại.
- Thật sự
thì tôi có nghe mẹ kể, bà Bikazhu quá cố biết chỗ giấu con dê vàng, và cũng
chính vì điều đó mà cuộc sống của bà ấy mới như vậy. Họ đồn, trước khi chết bà ấy
muốn tiết lộ điều bí mật, sau đó lại thôi... Cái số vàng đáng nguyền rủa ấy chỉ
mang lại nỗi bất hạnh... Ít nhất là mọi người đều nói vậy. Bao nhiêu người đã bỏ
mạng và phát điên lên cũng vì cái con dê vàng ấy. Anh cũng biết rồi còn gì nữa?
- Kesyrt nghiêm túc kết thúc câu chuyện rồi nhảy xuống xe.
- Cô làm
gì thế? - Tsanka ngạc nhiên.
- Tôi đi tắt,
nhanh hơn, và cũng không muốn xuất hiện trước dân làng trong bộ dạng thế này.
- Tôi sẽ
đưa cô đi.
- Không cần
đâu. Cũng xin cám ơn anh... Tạm biệt, Tsanka.
Khi Kesyrt
đã đi xa, Tsanka vội chạy theo, dừng cô lại, nhìn thẳng vào mắt cô và nói lời
xin lỗi.
- Tôi đã
quên hết rồi, và anh cũng quên đi. - Kesyrt gượng cười nói, rồi bước tiếp.
- Kesyrt,
Kesyrt. - Tsanka hét lên vừa đủ nghe. - Tối mai tôi sẽ đến. Đúng chỗ ấy. Cô hãy
ra đấy. Chúng ta cần phải nói chuyện.
Cô gái
không quay lại và cũng không trả lời, khuất dần sau cánh rừng rậm. Lũ chim sáo
tranh nhau khoe giọng, hót vang khắp rừng. Một con sóc chuyền từ cành này sang
cành kia. Bên rìa làng, một con bò sữa đang rống lên. Con ngựa, vừa đói vừa mệt,
mồ hôi ướt đẫm đang cố kéo chiếc xe tấp vào lề đường, vội vàng gặm những bụi cỏ
non dù trong miệng vẫn còn hàm thiếc.
Về đến
nhà, mọi người vặn vẹo Tsanka khá lâu, muốn biết tại sao lại có những vết bầm
tím trên mặt. Mẹ và em gái khóc rưng rức. Cậu phải nói dối, rồi nhầm lẫn lung
tung, cuối cùng im luôn. Cậu em trai thông báo một tin vui, con ngựa cái đẻ con
ngựa đực. Tsanka mừng rỡ chạy vào nhà kho, chơi với chú ngựa ô chân dài, hôn
lên cái vệt trắng bên mắt phải của nó. Con ngựa cái buộc bên cạnh có vẻ ghen tức,
bực bội hí lên, gõ móng lộp cộp.
Buổi chiều,
sau khi đã ăn ngấu nghiến, no nê, Tsanka lăn ra ngủ. Sáng sớm, cùng với người
thân cậu đi gieo bắp. Buổi tối, cậu lẻn ra khỏi nhà không để ai biết và ngồi chờ
Kesyrt bên nguồn nước cho đến tận sáng. Kesyrt không đến.
Đêm hôm
sau, mọi việc lặp lại y như vậy.
Trưa hôm
sau, khi mọi người đang nghỉ, Tsanka chạy đến cối xay nước.
Kesyrt
đang dọn dẹp, quét vôi lại căn nhà. Cô đưa tất cả dụng cụ gia đình trong nhà ra
sân. Tsanka rất ngạc nhiên khi thấy căn nhà nhỏ bé kia lại chứa được cả đống đồ
đạc như vậy.
- Ồ, rất
hay là anh đã đến. - Kesyrt vui vẻ thốt lên. - Anh giúp tôi khiêng mấy tấm phản
ra.
Tsanka vừa
giúp Kesyrt vừa thỏa sức ngắm nhìn cô, ánh mắt không giấu nổi sự thích thú.
Còn
Kesyrt, phong phanh trong chiếc áo váy hoa mỏng, khuôn mặt đỏ hồng, đẫm mồ hôi
vì công việc, làm như không nhận ra ánh mắt chăm chú của Tsanka.
Cuối cùng,
chọn cơ hội thuận tiện khi bà Haza đi ra, Tsanka tiến sát lại người yêu, nói nhỏ:
- Hai đêm
liền tôi chờ cô ở nguồn nước.
- Thế anh
không có việc gì làm à? - Kesyrt bật cười hỏi lại.
- Tôi có
việc với cô. Rất quan trọng... Tôi cần nói chuyện với cô.
Đột nhiên,
nét mặt Kesyrt tỏ ra rất nghiêm túc, mắt nheo nheo, môi mím lại để lộ ra những
vết nhăn nhỏ:
- Này
chàng trai, anh có biết khi người đàn ông đang yêu và muốn nói chuyện nghiêm
túc với người yêu thì anh ta sẽ đến vào ban ngày, nếu chỉ để giải trí thì đến
vào ban đêm. Hiểu chưa? Còn bây giờ thì biến đi.
- Cô làm
sao thế, điên à? Tôi có nói về chuyện ấy đâu.
- Tôi biết
anh định nói chuyện gì. Thôi đi đi. Và đừng có bao giờ vác mặt đến đây nữa.
- Tôi có
việc muốn nói với cô... Tôi muốn nói chuyện.
- Còn tôi
thì không. Anh đã nói đủ rồi đấy. Đi đi. Tôi không muốn nhìn thấy anh nữa. Anh
làm tôi khó chịu lắm... Anh chỉ muốn lợi dụng tôi. Anh cũng chỉ là đồ đê tiện
như bọn họ.
Tsanka định
phản đối, cậu quỳ thụp xuống, ứa nước mắt, nhưng vừa lúc ấy bà Haza bước ra, cậu
chỉ còn biết gục đầu, bỏ đi, chẳng thèm nói lời chia tay, khuôn mặt xám ngoét.
Suốt cả đêm đó, Tsanka ngồi trong rừng, gặm nhấm nỗi đau.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét