Cuộc Chiến Đi Qua
Tác giả: Kanta Ibragimov
Người dịch: Đào Minh Hiệp
Nhà xuất bản Văn Học 2017
Phần Ba (tiếp)
* * *
Hóa ra người làng Duts-Khote vẫn còn gặp
may. Ở làng Khaibakh bên cạnh trên núi cao, để đỡ vất vả, các sĩ quan đã dồn tất
cả dân làng vào thánh đường Hồi giáo cũ và thiêu sống tất cả mọi người...
* * *
Gia đình Arachaev đi theo một hàng ngang.
Hai đứa con sinh đôi Dakany và Kutany của Tsanka dắt tay thằng em Gelany, thằng
con út Deny thì được bà nội Tabark bế, còn Dikhant thì vác trên vai bao bột
ngô. Sau một trăm mét đầu tiên Dikhant ngã dúi dụi, bao bột văng xuống tuyết,
tuột dây đổ ra. Dikhant vừa cố vét số bột rơi vãi vừa chửi bới, nguyền rủa tất
cả mọi thứ trên đời. Bước được chục bước nữa, chị lại ngã vập mặt xuống tuyết,
rồi cứ nằm như thế khóc rống lên vì kiệt sức và bất lực. Mấy đứa con lớn cố
giúp mẹ. Một nửa bao bột được chúng lấy ra nhét vào tất cả các túi của chúng và
của bà Tabark. Họ lại đi tiếp. Mọi người đều đi giày da mềm, chúng bị ướt sũng
trong tuyết, trương phồng lên, trơn tuột, không ôm chặt vào chân nữa, biến
thành một khối băng lạnh buốt, không thể giúp đôi chân chống đỡ nổi với giá lạnh.
Hai đứa bé Gelany và Deny đái ra quần nên lại càng bị lạnh. Chẳng những thế, bọn
trẻ đều rất đói, chúng không hiểu có chuyện gì đang xảy ra, năn nỉ đòi ăn, đòi
uống và đòi về nhà.
- Deny, cháu yêu của bà ơi, cố chờ một lát
nữa, - bà nội ứa nước mắt dỗ dành. - Bà biết làm gì cho cháu bây giờ? Làm gì? Tốt
hơn là hôm qua bà chết đi để khỏi phải nhìn thấy cảnh này. Nín đi cháu, cố chịu
đựng, rồi sẽ qua thôi, cha cháu sẽ về, mọi việc rồi sẽ tốt đẹp. Nào ngủ đi,
cháu yêu của bà.
Sau cây số đầu tiên của chặng đường, Kutany
ngã xuống tuyết, nhưng con bé không khóc, khuôn mặt trắng bệch, lạnh lùng.
- Cứ để con ở lại đây, để lại, con không đi
được nữa, con không thể. Chân con bị đóng băng xung quanh. Đau lắm. Cứ bỏ con lại.
Người đàn ông đi phía sau đứng lại, dùng
tay đập vỡ đôi giày da mềm đã đóng băng cứng ngắc của con bé ra, đỡ nó lên.
- Cố lên, con gái yêu ơi, cố đi đi... Cố chịu
đựng một chút nữa.
... Mãi đến chiều họ mới tới Makhketa. Ngôi
làng không còn người ở trông ảm đạm, cô đơn và hoang vắng khủng khiếp. Cái điểm
dân cư bị bỏ hoang trông như một nấm mồ đáng sợ.
Theo đề nghị của đại úy Averin, chiều hôm ấy
toàn bộ binh lính và những người di cư đặc biệt đều được cho ăn chung từ một bếp
ăn. Ai muốn ăn thêm cũng được đáp ứng. Hai nhân viên y tế cố gắng giúp đỡ những
người bị nạn.
- Dikhant này, - bà Tabark nói với con dâu.
- Trong những con người này đều có phần tốt đẹp và xấu xa. Dân tộc gì mà kỳ lạ
thế không biết?
Ngay trong đêm ấy, mọi người được chở đến
thành phố Grozny bằng xe tải. Thêm một ngày một đêm nữa họ phải sống ngoài trời,
trong sân một điểm buôn bán gì đó. Tuyết rơi, gió lạnh. Họ được ăn một bữa cơm
nóng nữa và hai lần được cấp nước uống nóng. Mấy đứa con của Dikhant không khóc
nữa vì chẳng còn sức đâu mà khóc, tất cả đều bị sốt cao, bệnh nặng.
Đêm 26 rạng sáng ngày 27, họ được đưa ra
ga. Qua các ô cửa sổ và khe cửa, người dân thành phố không bị xếp vào hạng thổ
phỉ nhìn theo đoàn diễu hành đang lê bước. Phản ứng của họ khác nhau, nhưng đa
phần đều ủng hộ quyết định sáng suốt của Đảng.
Khuya hôm ấy, trong bóng đêm dày dặc, tất cả
dân làng Duts-Khote được nhanh chóng đưa lên ba toa tàu hàng vốn để chở gia
súc. Mọi việc được tiến hành rất vội vã cùng với những cú đá, đập, chửi tục và
sỉ nhục của binh lính. Khi cánh cửa toa sập lại đánh rầm, chốt bên ngoài gài chặt,
trong bóng tối bỗng vang lên tiếng la của Dikhant:
- Dakany, Kutany, các con ở đâu?
- Ở đây, - hai anh em sinh đôi lí nhí đáp lại.
- Còn Gelany?
- Chúng con không biết.
- Sao lại không biết? Gelany đâu? Ge-la-ny!
- Dikhant hét thảm thiết, lao về phía cửa toa, đập thình thình bằng cả tay và đầu.
Mọi người cố trấn an Dikhant, gọi các chiến
sĩ, yêu cầu mở cửa toa ra. Bên ngoài không có ai cả. Sau nửa đêm, ba toa tàu của
họ được nối vào đoàn tàu rồi chậm chạp lăn bánh.
- Ge-la-ny! - Dikhant vẫn tiếp tục kêu gào
bằng một giọng đã khản đặc, đập rầm rầm vào cửa toa và ngất lịm đi.
Đoàn tàu tăng dần tốc độ. Tất cả đều trở
nên vô ích. Đứa con trai đã bị thất lạc.
Sang ngày hôm sau, thằng con út Deny bị lên
cơn sốt, lúc thì nóng hầm hập, lúc thì lạnh run cầm cập, mê sảng. Vào những
giây phút hiếm hoi khi tỉnh lại, thằng bé rầu rĩ van xin:
- Mẹ ơi, con muốn uống nước... Nước, mẹ
ơi... Mẹ, sao mẹ không cho con uống nước?
Trong toa tàu không có nước. Tàu chạy liên
tục không dừng. Tất cả mọi người trong toa cùng kêu la, yêu cầu dừng tàu lại,
nhưng thảy đều vô ích. Mãi đến chiều, tàu mới dừng lại đâu đó giữa thảo nguyên.
Cửa toa mở ra. Đàn ông vội chạy ra giếng. Họ đổ thứ nước thum thủm vào cái miệng
nhỏ của Deny, nhưng thằng bé đã bắt đầu nôn ọe. Đến đêm thì Deny lịm đi trên
tay Dikhant. Người mẹ bất hạnh cố ôm chặt đứa con vào ngực mình, cầu xin Thượng
đế nhân từ, nhưng cảm thấy cơ thể của nó mỗi lúc một lạnh hơn, nặng hơn, như tảng
đá trên tay. Mặc dù vậy, người mẹ vẫn cứ ôm chặt con trong tay, không dám bỏ
ra, lặng lẽ khóc và ru khe khẽ.
- Ngủ đi con, ngủ đi, con yêu. Mọi việc rồi
sẽ tốt đẹp. Con sẽ bình phục, rồi chúng ta sẽ về nhà. Cha con đang đợi chúng ta
ở nhà. Cha yêu con lắm. Cha đang chiến đấu ngoài mặt trận để chúng ta được sống
hạnh phúc, tự do. Ngủ đi, con yêu.
Sáng mai mẹ sẽ lấy sữa nóng cho con, chúng
ta sẽ vui chơi, sáng mai anh Gelany sẽ về... Con có yêu anh Gelany không? Đúng
rồi, anh ấy là anh trai con mà... Các con sẽ lớn lên, khỏe mạnh, cường tráng,
cưới các cô gái xinh đẹp, đám cưới rất to, mẹ sẽ ngồi bên các con, mãn nguyện,
hạnh phúc... Ôi, khi nào thì điều đó sẽ đến? Khi nào các con sẽ trưởng
thành?... Còn bây giờ, hãy ngủ đi, con yêu, ngủ đi, mặt trời bé con của mẹ...
Sáng mai, anh Gelany sẽ về...
Ngày hôm sau, mấy người đàn ông phải khó khăn
lắm mới duỗi được hai cánh tay như hóa đá của Dikhant ra, người mẹ chống cự quyết
liệt, khóc thảm thiết, khuôn mặt biến dạng, méo mó, đen sạm và vô hồn đến mức
không thể nhận ra.
Mọi người vùi Deny bé bỏng dưới lớp đất
cát, ngay bên đường tàu. Đây là cái xác đầu tiên, nhưng còn lâu mới là cái xác
cuối cùng.
Trong ba tuần đi trên tàu, biết bao điều
đau khổ, sỉ nhục và mất mát đã diễn ra. Người ta không có chỗ nào để đi vệ
sinh, để tắm rửa và ngủ nghê. Không có gì để ăn, uống... Ba tuần lễ, hai mươi mốt
ngày trong cái toa tàu chở gia súc. Nhiều người đã không chịu đựng nổi... Sau
này người ta không thể chôn cất ai nữa. Chỉ đơn giản là tại các điểm dừng, những
người lính đến ném những cái xác ra ngoài như ném bao cát... Mọi việc đã diễn
ra như thế... với trẻ con, người già và phụ nữ...
Nhưng cũng có ngoại lệ.
Vì sự chậm trễ trên đường nên dân làng
Duts-Khote đã không theo kịp tiến độ chung của chiến dịch chuyên chở dân di cư
đặc biệt (chuyên chở chứ không phải là di chuyển - đúng như trong bản báo cáo tổng
kết của Bộ Chỉ huy quân sự nước cộng hòa). Ba toa tàu chật cứng người đành phải
nối vào với đoàn tàu dành cho giới tinh hoa của xã hội. Đoàn tàu này chở các
cán bộ lãnh đạo là người thuộc các dân tộc thiểu số Vainakh đi Sibir. Các toa đều
là toa cupe, được trang bị đầy đủ mọi thứ cần thiết. Tuy nhiên, ở đây cũng có sự
phân cấp: cán bộ cao cấp của nước cộng hòa - họ chỉ có năm người - và gia đình
được đi trong một toa riêng, gường nằm, sang trọng. Họ cũng lo lắng, cũng cảm
thấy thiếu thốn một chút tiện nghi gì đó, e ngại chặng đường dài và tương lai mờ
mịt. Khi đoàn tàu chuyển bánh, mọi người cảm thấy yên tâm hơn một chút: phụ nữ
và trẻ con được ăn no, ngủ kĩ, còn năm vị lãnh đạo tập trung trong một cupe
riêng, uống vodka với đồ nhậu rất ngon. Riêng bí thư thứ hai Magomedaliev
Akhmed Iakubovich thì uống rượu cognac.
- Các anh biết không, - ông Magomedaliev
nói, vẻ lo âu. - Bác sĩ dặn tôi chỉ được uống cognac thôi, loại tốt ấy. Nếu
không sẽ bị loét dạ dày, thậm chí tăng huyết áp nữa. Mà không uống cũng không
được, công việc của chúng ta đòi hỏi phải như vậy, lúc nào thần kinh cũng căng
thẳng. Sức ép quá nặng...
- Đúng thế... Chúng ta đã lao động, làm việc
vất vả, - các bạn đường tán thành.
Sau khi uống vài ly ngà ngà, cảm thấy nóng
nực, họ cởi áo vét, cà vạt ra, bắt đầu đùa cợt vui vẻ. Họ hút thuốc thơm, nói với
nhau toàn bằng tiếng Nga, thậm chí còn tuân thủ nghiêm nhặt các quy tắc xã giao
trong quan hệ công tác, người nói chủ yếu là lãnh đạo, tùy theo cấp bậc, những
người khác hòa theo, thường đưa ra những câu, đại loại “Trước kia anh đã từng đề
cập đến”, “Anh nói đúng quá!”, “Một quyết định sáng suốt”, “Chuyện đã rõ”.
Cuối cùng, họ đề cập đến vấn đề nhạy cảm nhất
- về việc trục xuất.
Nhưng cả ở đây, lời quan trọng nhất vẫn thuộc
về bí thư thứ hai của Đảng bộ.
- Các đồng chí biết không, - ông
Magomedaliev lo ngại nói, - nỗi bất hạnh của giới trí thức chúng ta, và nói
chung là của tất cả những người có học trong nước cộng hòa là ở chỗ, nhân dân
chúng ta còn dốt nát, tăm tối và ngang bướng. Chính vì thế mà nhìn tổng thể,
quyết định trục xuất là đúng đắn. Các anh hãy nhìn quanh: trộm cắp, cướp giật,
trốn tránh nghĩa vụ quân sự, không muốn làm việc, mà nếu có làm việc thì chỉ
làm hại... Đồng chí Stalin biết làm thế nào bây giờ? Có thể hiểu được đồng chí ấy.
Dĩ nhiên, có một số vấn đề thái quá, nhưng vì chiến tranh nên không có thời
gian. Tôi nghĩ, rồi người ta sẽ báo cáo để đồng chí Stalin cho phép các đảng
viên trung thực được trở về. Bí thư thứ nhất tiết lộ cho tôi biết, có thể chúng
ta sẽ không đi hết chặng đường, và sẽ được trở về Tổ quốc với một lời xin lỗi.
Nói chính xác hơn, Tổ quốc của chúng ta là Liên bang Xô viết, nên dẫu có được
điều đi đâu thì chúng ta vẫn sẽ làm việc hết mình vì lợi ích nhân dân. Thời
gian đầu, tôi được dự kiến sẽ làm chủ tịch ủy ban thành phố ở Kyrgyzstan. Dĩ
nhiên, vị trí đó chưa tương xứng với tôi, nhưng chỉ trong thời gian đầu. Ngay cả
“đồng chí thứ nhất” của chúng ta, Andrei Phedorovich cũng đã từng làm việc ở đó
mấy năm, anh ấy bảo, phải vất vả với cái đám man di ấy lắm, vừa đần độn, vừa u
mê, anh ấy bảo thế... Nhưng không sao, chúng ta sẽ giải quyết được với cái đám
bạo loạn ấy. Như người ta vẫn thường nói, chúng ta thế nào cũng xong, chỗ nào cần
củng cố chính quyền Xô viết là có mặt. Nào, hãy uống mừng đồng chí Stalin!
Mọi người đứng lên, uống cạn một cốc đầy rồi
lại ngồi xuống ăn tiếp.
- Tôi nghĩ, đồng chí Stalin không nắm được
toàn cảnh về những gì đang diễn ra, không bao giờ đồng chí ấy cho phép đụng đến
các đảng viên.
- Phải, dĩ nhiên rồi.
- Không có gì phải bàn cãi.
- Người ta sẽ báo cáo, và mọi việc sẽ được
điều chỉnh.
- Không còn nghi ngờ gì nữa.
Những bữa ăn no nê và những lời chúc tụng
đao to búa lớn đêm nào cũng diễn ra.
Một tuần sau, ông Magomedaliev than phiền với
các bạn đường:
- Các anh có hình dung được không, tôi thật
không gặp may. Hóa ra ba cái toa được nối thêm vào là chở người làng
Duts-Khote. Chồng của con gái tôi cũng gốc gác ở đấy. Suốt đời tôi đã phải cõng
cái thằng con rể và bà con họ hàng của nó trên vai. Chẳng lẽ như vậy còn ít lắm
hay sao mà họ còn bám theo tôi đến tận đây. Thật kinh khủng. Cần phải chia sẻ với
họ miếng ăn cuối cùng mình có. Tôi đã phải bán rẻ cho họ mấy ổ bánh mì, trong
khi chúng ta còn phải đi rất lâu nữa... Chỉ huy trưởng Gorbatyuk là người có lỗi
trong mọi việc. Anh ta hứa với tôi là không để bất cứ cái mặt mo nào lởn vởn
quanh đây, thế mà... Đồ khốn kiếp... Tôi đã giúp cho hắn bao nhiêu việc. Thậm
chí tôi còn sang tên căn hộ bốn phòng của em vợ tôi cho hắn. Thôi được rồi,
cũng chẳng có gì phải ân hận cả, đằng nào thì họ cũng không cần đến căn hộ ấy nữa.
Nhưng ngoài căn hộ ra, tôi còn giúp cho hắn bao nhiêu việc. Đúng là đồ uống máu
người. Không sao, tôi sẽ báo cáo đến đúng địa chỉ cần thiết. Phải biết giữ lời
chứ. Còn cái đám dân làng Duts-Khote thì đúng là một lũ mọi rợ. Họ nhìn tôi, cứ
như tôi là người có lỗi trong mọi nỗi bất hạnh của họ vậy. Không biết sống cho
ra người, không biết phục tùng, không biết đè nén cái thói kiêu hãnh của mình
xuống, và hậu quả là thế đấy. Trong cuộc sống phải biết nhượng bộ ở những chỗ
phải cúi đầu, thậm chí phải khom lưng. Nếu biết quẳng đi cái tính ngang bướng
và cái thói kiêu ngạo hàng ngàn đời nay thì đã chẳng có chuyện gì xảy ra, bây
giờ thì hết kiêu ngạo nhé... Thôi được rồi, sao toàn nói chuyện xui xẻo thế
này. Nào, chúng ta uống đi. Rót đầy vào, đầy vào! Kẹo sôcôla của tôi đâu rồi?
Các anh ăn trứng cá đi, ăn đi. Tôi còn một hộp đầy. Trong toa ấm áp tôi sợ nó hỏng
mất. Cần phải nói để người lính đốt lò giảm bớt than trong lò đi. Nóng quá ngủ
cũng mệt, rất ngột ngạt. Nhưng mở cửa sổ thì không dám, cái bọn chết đói ấy có
thể leo vào khi tàu đang chạy. - Ông Magomedaliev bật cười chỉ tay về phía các
toa cuối đoàn tàu. Nào, chúng ta hãy uống vì đồng chí Stalin và vì những người
phụ nữ đẹp.
- Hoan hô!
- Một lời nâng cốc tuyệt vời!
- Anh nói hay quá. Rất thời sự.
- Ha, ha, ha, - những tiếng cười tràn ngập
trong cupe...
Hai ngày sau, đoàn tàu như thường lệ dừng lại
mấy giờ liền ở đâu đó trong vùng hoang mạc Kazakhstan. Buổi sáng giá lạnh nhưng
có nắng, gió giật từng cơn. Ông Magomedaliev không dám bước ra khỏi toa để đi dạo,
sợ chạm trán với “đám chết đói Duts-Khote”. Ông mặc áo may ô đứng trước gương,
lấy chiếc kéo nhỏ và dao cạo sửa lại hàng ria mép nhỏ, thỉnh thoảng lại xoay
người, nghiêm khắc ngắm nhìn cái bụng, lắc lắc đầu vẻ không hài lòng, huýt sáo
một giai điệu vui nhộn gì đó. Trên chiếc bàn nhỏ bên cạnh, tẩu thuốc đang tỏa
khói. Ông cầm lên, đưa vào miệng, xoay người nhìn nghiêng, rồi nhìn chính diện.
“Đúng, như thế tốt hơn, khuôn mặt trông có vẻ trí tuệ hơn, - ông thầm nghĩ. -
Chẳng phải ngẫu nhiên mà đồng chí Stalin và bí thư thứ nhất Andrei Phedorovich
hút tẩu thuốc nhiều hơn là các loại thuốc khác. Diện mạo khác hẳn. Tại sao trước
đây mình không nghĩ ra nhỉ?”. Rồi ông lười biếng đưa mắt ra cửa sổ, đột nhiên
ánh mắt ông biến đổi hẳn, lóe lên sự tham lam và thèm khát cố hữu. Ông thèm thuồng
liếm đôi môi dày, đưa nắm tay lên lau miệng, cặp mắt như dán chặt vào người phụ
nữ cao ráo vừa đi ngang qua với hai đứa bé. Chính là Dikhant. Lần đầu tiên kể từ
khi thằng Gelany bị thất lạc và thằng Deny bị chết, người ta đưa Dikhant ra
ngoài trời, sợ chị sẽ phát điên nếu cứ ngồi mãi trong toa.
Ông Magomedaliev nhìn ngắm rất lâu khuôn mặt
người phụ nữ, sau đó quên mất sự thận trọng, chạy sang cupe bên cạnh tiếp tục
quan sát. Ông kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi bộ ba kia quay lại để tiếp tục nhìn
ngắm họ.
Lát sau, khi Dikhant đã vào toa của mình,
ánh mắt thẫn thờ nhìn vào một điểm vô định nào đó, người hàng xóm cùng làng và
cùng toa của gia đình Arachaev bước lại gần.
- Chị Dikhant này, - người đàn ông nói bằng
một giọng tin tưởng, vui vẻ, - ông bố vợ của Zukaev Kurto đề nghị đổi đôi hoa
tai của chị lấy hai mươi ổ bánh mì.
Những cái miệng đói khát của mọi người liền
há ra.
Dikhant thản nhiên tháo đôi hoa tai, nhìn
nó với ánh mắt trìu mến, trong bóng tối nhờ nhờ của toa tàu, những màu sắc khác
nhau như những tia lửa lóe lên từ những viên đá quý.
- Đây là vật kỷ niệm cuối cùng của cha
tôi... Cầm lấy, - Dikhant thì thào rồi quay mặt đi.
Mười phút sau, nhóm người đi đổi hàng do
ông hàng xóm dẫn đầu quay lại.
- Chị Dikhant ạ, - ông ngập ngừng nói. -
Cái con lợn ấy bảo là ông ta đã nhầm, và để an ủi vì tình nghĩa bà con, ông ta
chỉ có thể đổi lấy năm ổ bánh mì thôi... Chúng ta phải làm gì bây giờ?
- Ông ấy không nhầm đâu... Từ lâu, đôi hoa
tai này chỉ mang lại những điều bi thảm... Cho không cũng được, cho ông ấy chết
nghẹn đi.
Buổi chiều, năm ổ bánh mì đen được chia đều
thành sáu mươi bảy phần bằng nhau. Dikhant chia phần của mình cho con trai và
con gái.
Đoàn tàu lại tiếp tục chậm chạp lăn bánh
sau khi đã đánh thức sự tĩnh lặng của hoang mạc bằng một hồi còi dài chói
tai... Cuộc sống vẫn tiếp tục...
Hai ngày sau, đến lượt bà Tabark phải đổi
con dao găm gia truyền cán bạc của mình để lấy bốn ổ bánh mì đen khô cứng đã
lên mốc... Họ đi trên vùng hoang mạc Kyzylkum trơ trọi đã bị đóng băng, gió thổi
lồng lộng...
Gia đình Arachaev bị đưa xuống ga Chyly thuộc
tỉnh Kzyl-Orda. Họ được đưa vào sống trong cái nhà kho tường đất, nơi trước đây
dùng để nhốt gia súc. Vài ngày sau, con bé Kutany cùng với đám bạn gái của mình
tìm được trong thảo nguyên một loại rễ cỏ giống như hành gấu. Đói quá, chúng ăn
ngấu nghiến, bị ngộ độc, trương bụng lên, toàn thân tím ngắt rồi qua đời.
Mùa hè, Dikhant cùng với đứa con trai còn lại
duy nhất là Dakany đi mót lúa. Ở đây việc này bị cấm. Họ bị những người bảo vệ
Cozak cưỡi ngựa phát hiện, đuổi khắp cánh đồng, dùng roi quất không thương tiếc,
bất kể là phụ nữ, trẻ con. Hai mẹ con bỏ chạy về phía con kênh tưới tiêu rộng,
đầy nước, nhảy xuống. Dakany bơi qua được, còn mẹ bị chết đuối. Mãi hai ngày
sau, xác Dikhant mới được tìm thấy ở chỗ âu thuyền phía dưới, rồi được chôn cất
luôn ở đấy. Chỉ còn lại bà lão Tabark ốm đau bệnh tật và đứa cháu nội Dakany.
Mùa đông năm 1944-1945 là một mùa đông khắc
nghiệt, nặng nề và đói khổ nhất. Bà Tabark dường như đã bị đánh quỵ hoàn toàn,
bệnh tật và tuổi già càng ngày càng ép chặt bà xuống chỗ nằm lạnh lẽo được đắp
bằng đất. Các loại dịch bệnh thương hàn, hoại huyết và thổ tả đang lây lan
trong đám dân di cư đặc biệt. Vào tháng Chạp, một cơn bão tuyết nổi lên, kéo
dài suốt cả tuần, không ai có thể ra ngoài. Trong gian nhà kho của gia đình
Arachaev, nước trong xô bị đông cứng thành đá, đồ ăn chẳng có gì. Lúc đó,
Dakany sực nhớ, từ dạo mùa hè cậu nhìn thấy trong bức tường nhà bằng đất nhồi
rơm có nhiều hạt lúa mì. Lần mò trong bóng tối, Dakany bò dọc theo tường, kiểm
tra từng centimet, dùng chiếc dao nhỏ cạy từng hạt lúa quý giá bỏ vào ca. Tất cả
được sáu hạt!
Trong túp lều bên cạnh là một gia đình lớn
cùng làng với họ. Giữa cơn bão tuyết, Dakany chạy sang nhà họ và vô cùng ngạc
nhiên thấy cửa chính và hai cửa sổ bị đóng ván kín mít. Cậu đành phải quay về
mà không xin được gì cả. Trên đường về Dakany sực nhớ, hình như có tiếng ai la
hét. “Chắc là gió”, - cậu thầm nghĩ.
Ngay trong chiều hôm đó, Dakany chạy đến
làng của người Cozak, xông bừa vào ngôi nhà đầu tiên bắt gặp. Gia đình người
Cozak đang ngồi quây quần quanh chiếc chảo lớn ăn uống. Chẳng nói chẳng rằng,
Dakany chộp ngay ổ bánh mì tròn to nằm trên chiếc khăn và một tảng thịt lớn rồi
bỏ chạy. Không có một người lớn nào - cả chủ nhà hay ai khác đứng dậy và thốt
ra một lời.
Sáng hôm sau, như được hồi sinh sau bữa ăn
no, bà Tabark và Dakany đi sang nhà hàng xóm xem có chuyện gì, họ nghĩ, chắc
gia đình hàng xóm đã chuyển đến ngôi nhà khác ấm áp hơn. Hai bà cháu phá cửa ra
và vô cùng kinh hãi: trên sàn là bốn đứa trẻ chỉ còn da bọc xương, co quắp với
nhau; đứa con gái lớn nhất vẫn còn thoi thóp thở, nhưng đến chiều thì cũng chết.
Vì bế tắc và đói khát, đôi vợ chồng trẻ đã bỏ lại những đứa con của mình, lấy
ván đóng chặt cửa đi và cửa sổ lại, rồi bỏ chạy giữa tiếng bão tuyết gầm rú...
Sau đó, đôi vợ chồng trẻ ấy còn đẻ thêm năm
đứa con nữa, và sống sung túc ở Grozny, chẳng cảm thấy xấu hổ, lương tâm cũng
chẳng cắn rứt, ít ra là bề ngoài... Chuyện là như vậy...
... Khi cơn bão tuyết trôi qua, công an đến
và bắt đi cậu bé Arachaev Dakany mười lăm tuổi. Từ đó cũng không thấy quay lại
nữa. Chỉ còn lại một mình bà Tabark.
* * *
Cuộc sống của Arachaev Tsanka ở Alma-Ata trở
nên không sao chịu đựng nổi. Nỗi lo lắng thường xuyên về số phận của gia đình,
nỗi buồn nhớ con cái và mẹ già đã gặm nát tâm hồn, hủy hoại ý thức, nghị lực và
tinh thần của anh. Đêm đêm, Tsanka không sao ngủ được, trằn trọc mãi trên giường
cho đến sáng. Vào những giây phút hiếm hoi giữa cơn mơ, Tsanka gặp toàn ác mộng.
Và không hiểu tại sao, Tsanka lại hay nhìn thấy khuôn mặt đau đớn, đầm đìa nước
mắt của đứa con út Deny. Anh tỉnh giấc, cả người toát mồ hôi lạnh, hai tay ôm đầu
hoảng sợ, không biết phải làm gì. Nỗi tuyệt vọng như bóp nát tâm hồn Tsanka,
làm anh hoảng loạn, không có được một phút giây yên bình.
Cùng với nỗi đau khổ trong tâm hồn lại còn
những tác nhân kích thích từ bên ngoài. Chỉ sau một tuần từ khi họ được đưa đến
Alma-Ata, trong một buổi giải lao ở phân xưởng cán thép, tất cả những người
Chechnya và Ingushetia được triệu tập họp. Và trước mặt tất cả mọi người, một
thiếu tá từ bộ chỉ huy quân sự tỉnh đã lớn tiếng lăng mạ các cựu chiến binh.
- Các anh chỉ là một lũ ăn cướp, tội phạm!
- Thiếu tá hét to. - Khi các anh vừa đến đây là nổ ra các vụ cướp giật: hôm qua
một cửa hàng vừa bị cướp, hôm kia nhà một kĩ sư bị đột nhập và cướp sạch. Các
anh nghĩ chúng tôi không biết ai đã gây ra những vụ đó hả? Chính các anh. Các
anh, ngoài mặt trận là những tên đào ngũ và phản bội.
- Chính anh mới là kẻ phản quốc và là đồ
chó cái hậu phương, - những người Vainakh hét lên.
- Cái gì? - Thiếu tá hét lại. - Ai nói đấy?
Câm mồm!
- Cút đi cho khuất mắt... - Mọi người hét
thẳng vào mặt anh ta.
- Tiên sư các anh... Tôi sẽ cho tất cả các
anh biết tay... - Thiếu tá văng tục.
Từ trong đám đông, một người Ingushetia là
Dzhabrail Lyanov lao ra, chỉ bằng một cú đấm đã hạ gục thiếu tá. Mọi việc trở
nên hỗn loạn. Lyanov và hai người nữa bị bắt. Rất may là họ được thả ngay trong
ngày, và mọi người rất ngạc nhiên khi đúng một tuần sau Lyanov được chỉ định
làm bếp trưởng nhà ăn tập thể của nhà máy.
Thật ra, sau vụ đó cuộc sống cũng chẳng trở
nên tốt đẹp hơn. Cái từ “người Chechnya” cũng đồng nghĩa với từ “đồ phản bội”.
Dân chúng chưa bao giờ nhìn thấy người Chechnya và người Ingushetia, nhưng họ
đã bị nhồi nhét vào đầu: đó là kẻ thù của nhân dân, những kẻ có hại, thậm chí
ăn thịt người nữa. Các phương tiện truyền thông đại chúng, theo yêu cầu từ trên
cao đã làm một công việc bẩn thỉu.
Đi một mình trong phố rất nguy hiểm - rất
có thể bị đánh và bị giết. Một lần, Tsanka bị ba thằng choai choai bắt được,
chúng đánh anh bằng roi có gắn chì. Sau trận đó, suốt một tuần liền Tsanka phải
đi làm với những vết thâm tím trên mặt và khắp người. Nhờ công an can thiệp chỉ
vô ích, có khi lại càng nguy hiểm.
Vào ngày 23 tháng Hai, là ngày thành lập
Quân đội Liên Xô, và cũng là ngày kỷ niệm sự kiện trục xuất người Chechnya và
người Ingushetia, đã nổ ra một vụ ẩu đả thực sự. Đám thanh niên vây kín các khu
ký túc xá, đập vỡ cửa kính, khiêu khích người Vainakh ra đường, lao vào các
phòng, chửi bới, xúc phạm.
Tất cả những người Chechnya và Ingushetia tập
trung ở tầng một, các cựu binh phải lao vào trận ẩu đả vì không chịu nổi sự xúc
phạm.
- Trật tự! - Người lớn tuổi nhất và cũng có
cấp hàm cao nhất trong quân đội là Tsanka hét lên. - Bọn chúng rất đông và mang
theo vũ khí. Nếu hôm nay chúng ta bị khuất phục, thì trong tương lai chúng sẽ
không nương tay, chúng sẽ giẫm đạp chúng ta dưới gót chân. Chúng ta là các cựu
chiến binh. Hãy nghe theo lệnh của tôi. Tất cả mọi người hãy về phòng và lấy
thanh giường ra, sau hai phút tập trung ở đây.
Năm phút sau, Tsanka lại ra lệnh:
- Chúng ta phòng thủ theo hàng ngang, tám
người một, như số người trong mỗi phòng. Đó là một tiểu đội. Chúng ta sẽ ra khỏi
nhà theo từng tiểu đội, nắm tay nhau. Đừng chạy lung tung mà phải luôn ở bên
nhau... Nào, tiến lên! Xung phong!
Mọi việc kết thúc trong vòng năm phút. Những
kẻ bao vây ký túc xá tháo chạy tán loạn một cách nhục nhã, bỏ lại sau lưng những
vũng máu và hàng chục tên bị nhừ đòn. Dù sao đi nữa thì kinh nghiệm chiến trận
cũng đã giúp được cho họ... Chỉ có điều, sau đó công an lại đến, lại kết tội những
người Vainakh. Lần này, Tsanka bị bắt. Nhưng chỉ một giờ sau, anh được thả.
Chiều hôm sau, theo một mạng lưới thông tin
vô hình của những người Chechnya, Tsanka được biết, tất cả dân làng Duts-Khote
đã được đưa đến ga Chyly thuộc tỉnh Kzyl-Orda.
Ngay đêm hôm ấy, Tsanka ra ga, nghiên cứu
kĩ trên bản đồ, vị trí cũng như chặng đường đi đến ga Chyly. Phần còn lại của
đêm Tsanka cứ trăn trở mãi với ý nghĩ: tiền bạc không có, giấy tờ tùy thân cũng
không. Sáng hôm sau, Tsanka quyết định mạo hiểm, vào phòng giám đốc phân xưởng
- Basov Alfreda Mikhailovich. Theo tác phong quân đội, Tsanka trình bày ngắn gọn
lý do chuyến viếng thăm và ngượng nghịu xin vay tiền. Giám đốc phân xưởng, đứng
quay lưng về phía Tsanka, bập bập điếu thuốc, nhìn mãi ra cửa sổ ngẫm nghĩ. Cuối
cùng, ông quay lại, nhìn thẳng vào mặt Tsanka:
- Sau bữa trưa tiền mới có, còn ngoài ra
tôi không biết gì hết. - Ông lạnh lùng nói. - Và tên của tôi không được xuất hiện
ở bất cứ đâu. Đồng ý chứ?
- Vâng ạ. Cám ơn anh.
Buổi chiều, Tsanka lên tàu. Bên trong chiếc
áo ca-pốt là bộ quân phục được chải sạch sẽ, trên ngực áo hàng dãy huân huy
chương, bốn phù hiệu thương binh, trên cầu vai là quân hàm đại úy quân đội Liên
Xô, tuy nhiên giấy chứng nhận không còn nữa.
Hai ngày đêm liền Tsanka phải chuyển tàu mấy
lần mới đến được ga cần đến. Chẳng có ai hỏi Tsanka giấy tờ, chẳng những thế
các đội tuần tra quân sự đều đứng nghiêm chào: họ không thể không nhận ra người
cựu chiến binh từng trải.
Sáng sớm ngày 28 tháng Hai năm 1945,
Arachaev Tsanka bước xuống ga Chyly. Lát sau, con tàu lại tiếp tục lăn bánh sau
khi rúc một hồi còi dài mệt mỏi. Tsanka còn lại một mình trên sân ga vắng vẻ và
bẩn thỉu. Trời lạnh, gió lộng. Trái tim lo âu đập thình thịch, cổ họng đắng
nghét vì thuốc lá, còn cái bụng rỗng thì réo sùng sục. Thu mình lại trước cơn
gió, Tsanka vội vàng bước vào nhà ga tồi tàn, có cảm giác trong nhà còn lạnh
hơn ngoài trời. Khắp nơi, chỗ nào cũng đầy rác, bẩn thỉu, bốc mùi phân chuột và
bụi bặm văn phòng. Trong góc xa có treo tấm biển “Căngtin”, một người phụ nữ mập
mạp trong chiếc áo choàng nhàu nhĩ, bẩn thỉu đang thiu thiu sau cái quầy sứt sẹo
sơn màu xanh lục.
Tsanka bước lại, khẽ gõ ngón tay lên mặt quầy.
Người bán hàng lười biếng hé mắt ra.
- Có trà không? - Tsanka bối rối hỏi.
- Có, - người phụ nữ nặng nhọc, miễn cưỡng
đứng dậy. - Gì nữa?
- Không ạ, chỉ trà không đường thôi.
Tsanka chậm rãi uống cốc trà quá tệ, rồi
vét những đồng xu cuối cùng mua bao diêm, bước ra khỏi nhà ga, quấn một điếu
thuốc lá sợi, châm hút. Tsanka không biết phải hỏi ai. Xung quanh không có người.
Đột nhiên, từ xa xuất hiện hai bóng người trong màn sương sớm, đó là hai phụ nữ
trẻ. Họ nắm tay nhau, lặng lẽ bước vội vàng. Quần áo trên người họ cũ rách đến
mức Tsanka cũng cảm thấy ái ngại. Khi họ đến gần, qua nét mặt, Tsanka nhận ra
đó là những người đồng hương.
- Xin chờ một chút, - Tsanka nói bằng tiếng
Chechnya.
- Ôi, anh là người Chechnya?
- Vâng ạ, xin chào.
- Chào anh, - cả hai cô gái cùng mỉm cười,
đáp lại.
- Các cô quê ở đâu?
- Chúng tôi ở Shali.
- Thế người làng Duts-Khote có sống ở đây
không? - Tsanka hồi hộp hỏi.
- Có, họ sống trong nông trang. Cách đây
khoảng mười cây số. Anh tìm gặp ai?
- Gia đình Arachaev.
- Chúng tôi không biết họ... Nhưng ở đấy phần
lớn là người làng Duts-Khote. Anh là quân nhân à?
- Phải.
- Cấp bậc gì?
- Đại úy.
- Có huân huy chương không?
- Có, nhưng để làm gì?
- Này, đồng hương ơi, anh có thể giúp chúng
tôi một việc được không? Chỉ mười phút thôi.
- Tôi sẽ giúp, nhưng chuyện gì vậy?
- Chỗ chúng tôi có ông đội trưởng, loại người
rác rưởi, nhưng lúc nào cũng chê trách chúng tôi là dân Chechnya không ra mặt
trận chiến đấu. Xin anh hãy đi với chúng tôi, để cho hắn thấy.
- Nào, đi thì đi. - Tsanka bỗng cảm thấy
hưng phấn.
Vừa đi họ vừa nói chuyện.
- Ở đây mọi người sống ra sao?
- Sống cái gì, - các cô gái đáp, - chỉ có
đói khổ thôi. Không ai nhận vào làm. Họ bảo, tất cả chúng ta chỉ là một lũ ăn
cướp và ăn cắp. Nhiều người mắc bệnh, chôn không kịp, chưa kể trên đường đi chết
bao nhiêu. Họ đối xử với chúng ta thật khủng khiếp... Ở đây, mỗi bước chân đều
bị nhòm ngó, sỉ nhục. Đấy, tôi vừa mới xin được việc, đội trưởng đã gọi tôi là
đồ phản bội, kẻ phản quốc, thậm chí ngay cả trên bảng chấm công, ngay trước tên
tôi cũng bị ghi là kẻ đào ngũ.
Lát sau họ bước vào một gian phòng lớn, mờ
mờ tối, giống như xưởng sửa chữa. Trong phòng lộng gió, lũ chim sẻ đậu dưới mái
nhà kêu chiếp chiếp, trong phòng nồng nặc mùi dầu và mùi phân bón. Họ đi qua một
đống than, đống máy móc hư hỏng, bước vào căn phòng nhỏ, sáng sủa, ấm áp. Sau
chiếc bàn lớn chất đầy giấy tờ biểu bảng, gạt tàn thuốc lá, ly cốc là một người
đàn ông to mập trạc tuổi Tsanka, trên chiếc ghế dài bên cạnh có mấy người nữa,
cả đàn ông đàn bà.
- Lại đến muộn nữa hả, đồ chó cái. - Người
ngồi sau bàn lên tiếng, sau đó nhìn thấy sau lưng các cô gái còn có một quân
nhân cao lớn nữa, anh ta thu người lại, nhìn vẻ chờ đợi.
- Chúng tôi không phải là chó cái, đội trưởng
ạ, mà chính anh mới là đồ chó, - một trong số hai cô Chechnya đáp lại bằng tiếng
Nga trọ trẹ. - Còn đây là đồng hương của chúng tôi, quân nhân, anh hùng... Anh
hãy cho họ xem các huân chương của mình đi. - Cô gái quay về phía Tsanka.
Tsanka ngập ngừng không biết phải xử sự ra
sao. Vừa nghe từ “chó cái” Tsanka đã muốn nện cho cái thằng khốn nạn kia một trận,
nhưng mặt khác, anh cũng muốn khoe cái bộ ngực gắn đầy huân huy chương của
mình.
- Nào, anh cởi khuy áo ca-pốt ra cho họ thấy
đi, - các cô gái đề nghị.
Tsanka nhún vai, tỏ ra bực bội, ngượng
ngùng, rất lấy làm tiếc phải rơi vào hoàn cảnh như thế này.
- Anh ta lấy đâu ra huân chương? - Đội trưởng
tỏ ra can đảm. - Người Chechnya không có ai ra trận, tất cả đều là bọn phản quốc.
- Anh nói cái gì? - Tsanka lao về phía đội
trưởng, máu dồn hết lên mặt, hai tay run bần bật. - Này nhìn đi, nhìn đi! - Vừa
nói Tsanka vừa lạnh lùng cởi áo ca-pốt ra ném xuống sàn, ưỡn ngực sát mũi đội
trưởng. Anh ta vội đứng dậy, đưa những ngón tay bẩn thỉu chạm vào chiếc huân
chương Chiến công, phả vào mặt người cựu binh mùi rượu lậu nồng nặc.
- Thế anh có giấy chứng nhận đeo những thứ
này không? - Đội trưởng hỏi bằng một giọng xỏ xiên.
- Anh dám động vào đây hả? - Tsanka tức giận
định túm ngực kẻ thô lỗ, nhưng đúng lúc ấy hai cô gái đồng hương vội túm tay
anh, kéo ra sau.
- Anh đừng dây vào với hắn. Cái con lợn ấy
không đáng để anh bẩn tay. Đi thôi. - Họ nói to với Tsanka bằng tiếng Chechnya.
- Đủ rồi. Cám ơn anh. Anh đi đi.
Hai mươi phút sau, Tsanka bước trên con đường
dẫn đến nông trang vắng vẻ, gập ghềnh, bị đóng băng. Vụ rắc rối ngu ngốc đã nằm
lại phía sau, giờ đây Tsanka chỉ còn nghĩ đến gia đình, đến cuộc gặp vui mừng sắp
tới, về những nụ cười của các con. Trong túi của Tsanka vẫn còn bốn chiếc kẹo rẻ
tiền mà anh mua cho các con ở ga Alma-Ata. Tsanka lại nắn nắn một lần nữa rồi mỉm
cười, sải bước nhanh hơn. Chẳng mấy chốc anh nhìn thấy một người đang đi ngược
lại.
- Tsanka. - Người đàn ông bỗng kêu to, hai
tay vung lên thích thú. - Tsanka, có phải cậu đấy không?
Chỉ cần qua giọng nói, Tsanka cũng nhận ra
người đồng hương cùng làng là Shovkhal Yasuev. Người đồng hương già đi nhiều, gầy
sọm, quắt queo, da dẻ nhăn nheo. Hai người ôm nhau rất lâu, rất mừng vì cuộc gặp
mặt. Đột nhiên vẻ mặt Shovkhal trở nên u buồn:
- Tsanka, cậu thứ lỗi, cậu cũng biết đấy,
chẳng có dịp nào, vì cậu ở ngoài mặt trận. Tôi xin thành thật chia buồn.
Tsanka cũng cảm thấy buồn bã.
- Phải, tôi đã đánh mất người em trai.
Basil hy sinh ngay trước mắt tôi.
- Đúng, gia đình cậu gặp nhiều bất hạnh
quá.
Tsanka sững người, thậm chí lùi lại.
- Anh nói gì thế? - Tsanka lo lắng hỏi.
- Chẳng lẽ cậu không biết gì sao? -
Shovkhal tỏ ra lúng túng, cụp mắt xuống, thì thào.
- Không... Anh nói đi, - Tsanka nóng nảy
lay lay người đồng hương, miệng há ra vì sợ hãi, hai gò má nhô lên. - Anh nói
đi-i-i, - hai bàn tay to tướng của Tsanka đập lên vai người đồng hương, lắc mạnh
trong cơn giận dữ.
- Hãy can đảm lên, Tsanka ạ... Tất cả các
gia đình ở đây cũng đều có nỗi đau.
- Anh nói nhanh lên, đừng hành hạ tôi nữa.
Shovkhal vắn tắt kể cho Tsanka nghe về những
người đã mất trong gia đình. Những lời của Shovkhal làm cho Tsanka gần như mất
hết mọi cảm giác, đôi chân khuỵu xuống, ngã vật ra, đầu đập vào mặt đất đóng
băng, hai bàn tay cào cấu vào đất.
- Tại sao? Tại sao tôi phải chịu bao nỗi bất
hạnh như vậy? - Tsanka rên rỉ.
Shovkhal cúi xuống:
- Tsanka, cậu hãy cố chịu đựng. Mọi người đều
có nỗi đau cả. Mẹ cậu đang đợi! Đứng dậy đi! Mẹ cậu yếu lắm rồi... Thượng đế đã
gửi cậu đến để chia tay với bà ấy... Nhanh lên.
Nửa tiếng sau hai kẻ di cư đặc biệt đã có mặt
trong một khu dân cư nhỏ. Shovkhal đi trước, Tsanka cố lê trên đôi chân, đi
sau. Cái chết của những người thân như một vết thương đâm trúng trái tim, có cảm
giác như nó đập nhanh hơn, máu chạy rần rật hai bên thái dương, một cục đá to,
bỏng rát chẹn ngay cổ họng, vai và ngực như bị ép chặt. Tsanka không khóc được
nữa, làn gió lạnh buốt đã lau khô mặt, đôi môi nứt nẻ, hai gò má vằn vện những
tia máu. Tsanka không còn có cảm giác gì nữa, không cảm nhận, không nhìn thấy
gì, chỉ đơn giản bước như máy, không nghĩ ngợi, không ý thức, chỉ muốn nằm xuống
mặt đất lạnh, và cứ nằm mãi như thế, chờ đón một sự tĩnh lặng vĩnh hằng và siêu
thoát.
Từ lâu Tsanka đã hiểu, cuộc sống là sự tiếp
nối luân phiên giữa mất mát và những nỗi khổ đau bất tận.
Tsanka nhớ đến trận đánh ở ngoại ô Moskva,
khi cái chết đã cận kề, hầu như không thể tránh khỏi, đến cơn lũ quét ở Kolyma,
trong tai như vang lên tiếng gầm rú khủng khiếp mỗi lúc một to dần.
Tiếng gầm rú ấy cứ to mãi lên: biến thành
binh đoàn xe tăng Đức, sau đó là những cơn sóng lạnh giá khổng lồ ở Oimiakon.
Nhưng, có chuyện gì thế nhỉ? Tại sao Tsanka
không còn cảm thấy sợ hãi như trước kia, trái tim không còn đập điên cuồng,
không còn hốt hoảng sợ hãi để giành giật sự sống và sự tồn tại của chính bản
thân. Ngược lại, Tsanka cảm thấy niềm vui của sự kết thúc, sự chấm dứt của mọi
nỗi bất hạnh, đớn đau. Hạnh phúc làm sao - nhờ một sức mạnh vô hình nào đó,
trong khoảnh khắc anh được rũ bỏ tất cả và biết chắc chẳng còn gì để mất nữa.
Không còn gì... Nói chung là không còn gì... Dường như anh chưa từng tồn tại
trên cõi đời này... Hóa ra, anh không là cái gì, chỉ là một kẻ bạc nhược, một kẻ
tiểu nhân, cũng không bằng con sâu cái kiến bị giẫm nát dưới gót ủng nhà binh,
một sinh vật phù vân, yếu đuối, quặt quẹo, hoàn toàn không thể tự bảo vệ... Còn
sức mạnh - đó là Thời gian và Thiên nhiên với các hiện tượng hung hãn vô cùng tận,
cùng với vẻ đẹp huyền ảo và quyến rũ của mình...
- Ya! Ya! Ya! - Một con lừa gần đó hí lên.
Tiếng kêu của con lừa làm Tsanka như bừng tỉnh,
đưa mắt nhìn quanh.
- Gia đình anh sống ở đây à? - Tsanka ngạc
nhiên.
- Phải, tồn tại để cố mà sống sót, -
Shovkhal nhăn mặt cười khẩy. - Còn kia là nhà bà Tabark.
Tsanka đứng lặng trong giây phút, rồi không
thể chịu được nữa:
- Nhưng đây là chuồng gà mà.
- Cũng chẳng cần hơn.
Họ bước đến túp lều ọp ẹp, nhỏ bé, tường bằng
đất nhồi rơm đã bị tuyết lấp gần nửa. Cửa vào được che bằng cánh cửa xe tải bằng
kim loại đã bị gãy. Mặt trong cánh cửa được che bằng tấm da bò chưa thuộc. Bên
hông là ô cửa sổ nhỏ tối om được che bằng tấm giẻ dính đầy dầu mỡ. Trên mái nhà
nằm ngang nhô lên chiếc ống khói làm bằng ống xả máy kéo đã han gỉ.
Tsanka sợ sệt đẩy cái vật che cửa sang bên,
khom người lách vào. Trong bóng tối, anh không nhìn thấy gì cả, chỉ có mùi phân
chuồng, mùi khói và mùi đất xộc ngay vào mũi.
- Ai đấy? - Tsanka nghe thấy giọng nói khàn
khàn của mẹ.
- Mẹ ơi! - Tsanka hét lên rồi lao về phía
cái bóng trong góc.
- Tsanka! Tsanka! - Người mẹ nấc lên, ôm chặt
đứa con trai vào lòng, - Con đấy à? Con đấy à... Tsanka! Con đã về, Thượng đế
đã gửi con về để đưa mẹ đi, - bà Tabark nức nở, càng ôm chặt đầu của Tsanka. -
Tsanka, con hãy tha lỗi cho mẹ, mẹ đã không giữ được những đứa cháu của dòng họ
Arachaev. Mẹ không thể... Con hãy tha lỗi cho mẹ... Mẹ là người bất hạnh...
Chúng ta phải làm gì bây giờ đây? Thật kinh khủng, con ơi. Một sự sỉ nhục như
thế này, chưa ai từng chứng kiến. Đúng là cơn ác mộng... Tại sao mẹ phải chịu
những điều đó, tại sao Thượng đế không mang mẹ đi mà lại bắt đi những đứa trẻ
ngay trước mặt mẹ... Tsanka... Mẹ rất mừng là cuối cùng mẹ đã được nhìn thấy
con... Con hãy mở cửa sổ ra để mẹ được nhìn rõ con... Nào, để mẹ hôn con.
- Ôi, mẹ ơi... mẹ
ơi... - Tsanka khóc nức lên.
... Mọi người đổ xô đến để được nhìn tận mặt
người đồng hương cùng làng đã trực tiếp chiến đấu ngoài mặt trận.
- Tsanka nói sao?
- Chúng ta có được trở về quê không?
- Nghe nói đến mùa xuân chúng ta sẽ quay về
Kavkaz.
- Tsanka là sĩ quan à! Giỏi thật!
- Có thể người ta sẽ bố trí công việc cho cậu
ấy ở đây cũng nên?
- Cậu ấy có thuốc lá không?
Buổi tối, khi chỉ còn lại một mình, Tsanka
đốt một đống lửa từ những cành cây dại. Trong phòng sáng hơn và ấm áp hơn. Dưới
ánh sáng ngọn lửa Tsanka mới có dịp nhìn kĩ căn phòng. Hóa ra trong phòng khá sạch
sẽ, ngăn nắp, tường quét vôi trắng, sàn nhà bằng đất sét nện phẳng phiu, nóc
nhà lợp bằng lau sậy bị tuyết phủ dày nên ở giữa đã võng xuống và có thể sụp xuống
bất cứ lúc nào. Trong góc có chiếc bếp lò đốt bằng củi làm theo kiểu Chechnya,
còn ở giữa phòng có một vách ngăn bằng gạch đất sét không nung cao khoảng một
arshin, khoảng không gian giữa tường nhà và vách ngăn được lót rơm, đó là chỗ
ngủ. Bà Tabark nằm ở đó, còn bên cạnh là cậu con trai với vẻ mặt u ám.
- Ôi, Tsanka, - bà mẹ lào phào bằng cái miệng
đã rụng hết răng. - Con không biết chuyện gì đã xảy ra ở đây đâu. Chúng ta còn
gặp may đấy, trong khi nhiều người cho đến giờ vẫn phải sống dưới hầm. Nhà
chúng ta vốn là chuồng nhốt lừa, nhưng chúng ta đã cố gắng dọn dẹp sạch sẽ, chỉ
có điều mẹ không còn sức nữa. Dân ở đây kỳ lạ lắm con ạ. Trời tối, không ai dám
ra đường, mọi thứ trong sân phải mang hết vào nhà. Còn buổi sáng thì đổ xô đến
đồn công an khai báo, mất một con bò thì khai là ba... Người mình, suốt ngày
đêm chạy ngược chạy xuôi như chó sói để không bị chết đói, để cố mà sống sót, hễ
có chuyện gì xảy ra liền bị chính quyền xử lý ngay... Thằng bé Dakany nhà ta
cũng bị bắt chỉ vì một chuyện vặt vãnh... Không biết bây giờ cháu ở đâu, cháu
ơi?!
Tsanka nhìn mẹ mà vẫn không sao bình tâm lại
được. Mẹ đã già đến mức không thể nhận ra. Má hõm sâu, hai gò má và xương hàm
nhô ra, cặp mắt sâu hoắm, bạc phếch, mờ đục, đôi môi xám xịt nứt nẻ, phồng rộp,
làn da nhăn nheo, vàng bệch. Và điều đáng sợ nhất là đôi tay: khô kệch, xương xẩu
và lạnh ngắt với những mạch máu to phồng.
Buổi tối, Tsanka nằm chung với mẹ trên ổ
rơm. Tsanka nằm, mắt mở thao láo, không còn sức lực để suy nghĩ điều gì nữa. Bà
Tabark nhóp nhép cái miệng móm, mút đến viên kẹo thứ ba, món quà của con trai.
Hai mẹ con nói chuyện đến khuya về tất cả mọi việc. Gần sáng, bà Tabark mệt
quá, trước khi thiếp đi còn dặn con:
- Tsanka, mẹ muốn trăng trối với con đôi điều.
Thứ nhất: không được tuyệt vọng mà phải đấu tranh vì cuộc sống. Con là niềm hy
vọng cuối cùng của dòng họ Arachaev, không được để nó bị tuyệt tự. Hãy cố đi
tìm Dakany và Gelany. Mẹ có cảm giác chúng vẫn còn sống... Con còn trẻ, hãy
sinh thêm con nữa, nhất định phải như vậy. Thứ hai: không bao giờ được quên quê
hương, bằng mọi cách hãy cố gắng trở về Duts-Khote, giữ gìn tiếng nói, tập quán
dân tộc và danh dự của dòng họ... Thứ ba, đây là việc riêng: mẹ cũng sẽ không
có mộ. Nếu con quay về nhà, hãy dựng bia cho mẹ và cho Dikhant, Kutany, Deny ở
nghĩa trang Gazavata và một tấm bia nữa cho cả dân tộc phải chịu nhiều đau khổ
của chúng ta... Còn một việc nữa, bác con, ông Baki-Haji là người trông coi
nghĩa trang cổ của làng. Con về nhà, hãy tự nhận cái trách nhiệm nặng nề đó. Và
hãy nhớ, nếu nhà vệ sinh là bộ mặt văn hóa của gia đình, thì nghĩa trang là bộ
mặt văn hóa của dân tộc. So sánh như vậy quả là thô thiển, nhưng thực chất đúng
như thế... Cuộc sống là vậy.
... Sáng hôm sau, công an đến nhà. Họ lôi người
con trai còn đang ngái ngủ ra khỏi vòng tay người mẹ, tròng khóa số tám vào,
không thèm bận tâm đến những giọt nước mắt và những lời van xin, chửi rủa của
bà Tabark, dẫn người con trai ra ga Chyly, đến đồn công an. Tsanka bị giữ hai
ngày đêm ở phòng giam để xác định danh tính. Khi thả ra, anh còn bị xúc phạm, bị
gọi là đồ mạo danh, kẻ đào ngũ, họ cấp cho anh một cái giấy gì đó, yêu cầu phải
đến chỗ này chỗ nọ đăng ký, rồi năm ngày một lần phải đến công an trình diện,
chẳng khác gì như hồi Tsanka vừa ở Kolyma về. Tuy nhiên, điều xúc phạm nhất là
một trung sĩ công an, tướng mạo trông rất bệ rạc đã giật cầu vai và tất cả huân
huy chương của Tsanka ra. Phải khó khăn lắm Tsanka mới kìm lại được vì anh chỉ
nghĩ đến một điều duy nhất là mau chóng về với mẹ.
Tsanka chạy một mạch trên suốt chặng đường
đến nông trang, thở đứt hơi, ngã lên ngã xuống mấy lần rồi đứng dậy chạy tiếp,
cảm giác như có điều gì đó chẳng lành... Trái tim đau nhói của Tsanka đã không
nhầm... Tsanka đã trở thành kẻ mồ côi hoàn toàn.
Ba ngày liền, Tsanka nằm bẹp trong lều,
không bước chân ra ngoài, mặc cho nỗi đau hành hạ. Ba ngày liền, những người đồng
hương ghé lại, đốt lò lên, chia sẻ với anh số đồ ăn ít ỏi của mình. Ngày thứ
tư, họ không đến nữa. Ngày thứ năm, Tsanka ra ga để trình diện và cũng để cho
khuây khỏa, tìm hiểu mọi việc xung quanh, sẽ làm gì tiếp theo.
Dân chúng đang tụ tập bên đồn công an khu vực,
tất cả đều là người Nga: hai người đàn ông, bốn người đàn bà. Những người đàn
ông hút thuốc lá sợi phả khói mù mịt, mùi thuốc lá tự trồng khét lẹt xộc ngay
vào mũi Tsanka. Mấy ngày qua Tsanka không hút thuốc. Phải khó khăn lắm anh mới
vượt qua được sự ngượng ngùng để xin điếu thuốc. Đúng lúc ấy, một chuẩn úy công
an to mập, hai má căng tròn người dân tộc Cozak bước lại. Vừa mở ổ khóa móc ở cửa,
anh ta vừa liếc qua đám đông và dừng lại nơi Tsanka, hỏi:
- Anh là ai?
- Đại úy Arachaev.
- Hừ, - chuẩn úy cười khẩy. - “Đại úy” à...
Chỗ chúng tôi có cả đại tá nữa, nhưng về vườn rồi.
Người công an bước vào phòng, bật đèn lên.
Qua cửa sổ có thể nhìn thấy anh ta chậm rãi cởi áo ngoài ra, ngắm nghía rất lâu
trước gương, chải tóc, sau đó tiến gần lại bóng hình mình trong gương, nặn trứng
cá rồi nhổ lông mũi.
- Nào, các quý bà, - cuối cùng anh ta gọi.
- Đặt ấm nước nhanh lên, lau chùi dọn dẹp phòng cho cẩn thận. - Nói xong anh ta
bước ra ngoài. - Tôi sẽ quay lại ngay. Chờ đấy.
Nửa tiếng sau, cái thủ tục đăng ký rườm rà
mới kết thúc. Tsanka làm xong đầu tiên, không biết làm gì nữa, ra đứng ở giữa
đường. Cái đói cùng với cơn đau trong dạ dày và trong khắp cơ thể không để cho
anh được yên.
Tsanka nhìn quanh, khắp nơi chỗ nào cũng bẩn
thỉu, nghèo nàn và đói khổ. Làn gió lạnh giá thổi từng cơn, ném vào mặt những hạt
cát sắc nhọn, rát rạt. Đoàn tàu hơi nước ì ạch chạy ngang qua. Hai đứa thiếu
niên choai choai mặt mày lem luốc, co ro đút tay vào túi quần, băng qua đường
và biến mất sau chỗ ngoặt. Một chiếc xe tải nhẹ, cũ nát, ọc ạch chạy ngang qua.
Vừa lúc ấy, một người đàn ông từ trong đồn công an bước ra.
- Thế nào, cựu binh, hút thuốc chứ. - Ông
ta nói với Tsanka.
- Nếu anh mời tôi.
- Chiến đấu ở đâu?
- Khắp nơi, - Tsanka vui vẻ đáp lại.
- Anh nói tên anh là gì nhỉ, đại úy?
- Arachaev Tsanka.
- Rất hân hạnh, - người đàn ông chìa tay
ra. - Tôi là Voloshin, Petr Ivanovich.
Hai người vừa hút thuốc vừa đi dọc theo con
phố.
- Anh có bà con ở đây à? - Voloshin hỏi.
- Giờ tôi chỉ còn một mình thôi. - Tsanka
buồn bã nhếch mép.
- Có chỗ ở không?
- Có thể nói là không.
- Còn công việc?
- Cũng không.
- Nếu vậy thì đi với tôi. Tôi sẽ giúp anh
có được việc làm ở chỗ tôi. Công việc không khó, song độc hại, nhưng việc khác
không có. Còn chỗ ở, trước mắt sống tạm với tôi. Chỗ ở, nói chung cũng không tốt
lắm, nhưng hơn nhà tù. Anh đã bao giờ ở tù chưa?
- Hừ, - Tsanka phẩy tay. - Sau hai mươi lăm
tuổi, cuộc sống đối với tôi có khác gì nhà tù.
Tsanka cùng làm với Voloshin ở xí nghiệp
thuộc da nằm ở rìa làng. Mỗi ngày mười hai tiếng, nghỉ chủ nhật. Suốt ngày phải
tiếp xúc với axit sunfuric, mỡ động vật và muối.
Bầu không khí độc hại buộc Tsanka phải nhớ
đến buồng phổi và cái phế quản ốm yếu của mình, anh cảm thấy lợm giọng, ho rũ
rượi, nôn mửa. Cùng với sự suy nhược của cơ thể, Tsanka dửng dưng với tất cả mọi
chuyện.
Sau hai tuần, họ nhận được khoản tạm ứng
kha khá. Tối thứ bảy họ tổ chức giải trí: uống vodka với bánh mì đen và đồ hộp
có chất béo tổng hợp. Tsanka hào phóng mua thêm gói thuốc lá núi bốc mùi khét lẹt
nhưng không rẻ chút nào. Sau chai thứ nhất, Voloshin kể cho Tsanka nghe về cuộc
đời mình.
- Chính tôi là người đã tham gia thành lập
nên chính quyền này, đấu tranh để bảo vệ nó. Từ năm mười bảy tuổi tôi đã tham
gia cuộc nội chiến, sau đó mười lăm năm liên tục tôi chiến đấu ở vùng Trung Á với
bọn phản động, phục vụ cho đến cấp bậc đại tá, thế mà đến năm 1938 tôi lại bị
xét xử với tội danh là gián điệp nước ngoài. Cho đến trước năm ngoái tôi còn bị
giam ở Ukhta, xây dựng tuyến đường sắt, còn bây giờ, số phận may mắn hơn chút
ít, tôi được đưa đến vùng đất ấm áp này, nằm trong số di dân tự do. Ở đây mùa
hè nóng bức, còn mùa đông thì bão tuyết, đó là tất cả mọi sự ưu ái... Gia đình
tôi, vợ và con trai hiện đang sống ở Alma-Ata. - Nói đến đây ông Voloshin ứa nước
mắt. - Tôi không được phép về thăm họ, người ta không cho phép tôi rời khỏi
đây. Chúng tôi sống như vậy đấy.
- Thời hạn của anh còn dài không? - Tsanka
cắt ngang.
- Tôi bị xử tổng cộng hai mươi năm, cậu cứ
tính đi.
- Thế còn các phụ nữ Nga, họ làm gì ở đây?
- Cũng như tôi thôi.
- Họ cũng bị xét xử?
- Phải.
- Thế họ làm những công việc gì?
- Hai người là cô giáo, một người là bác
sĩ, còn vợ anh Ylya, người cùng làm với mình ấy, nguyên là một cán bộ Đảng cao
cấp.
- Đó là người nào?
- Người lớn tuổi nhất ấy.
Sau một chai, Tsanka đã ngà ngà, trở nên
thoải mái hơn.
- Anh Petr này, - Tsanka kêu lên, - Hay là
mình đến chỗ các chị em đi. Chúng ta đều có chung số phận nên phải sinh hoạt
chung trong một nhóm.
- Không được đâu, Tsanka ạ, - ông Voloshin
buồn rầu đáp. - Ở đấy, công an và quân đội thường xuyên ghé thăm, ép buộc, xúc
phạm họ, muốn làm gì thì làm... Thật tội nghiệp, họ khóc suốt, có lần họ chạy đến
chỗ tôi trốn... Mà tôi thì làm sao bảo vệ họ được? Lo cho mình còn chưa xong...
Lần cuối cùng, khi nhìn thấy họ ở đây, người ta đe tôi, nếu tôi còn đến gần họ,
số phận tôi cũng sẽ như vậy.
- Chẳng lẽ trong đất nước này, ngay cả người
Nga cũng phải sống khổ sở thế hay sao?
- Số phận người Nga tồi tệ hơn cả. Các anh
còn có thể nói, bị người dân tộc khác hay bị kẻ phản bội nhạo báng, ít ra đó
cũng là niềm an ủi về mặt tinh thần. Còn chúng tôi lại bị chính người mình xúc
phạm, đánh đập không thương tiếc, đối xử như nô lệ.
Sau đó hai người còn nói chuyện cho đến
sáng về chiến tranh, ca ngợi quân đội, tự hào về nó, nhẹ nhàng phê phán Stalin
và chạy đi mua thêm rượu vodka.
Đến cuối tháng Ba, đích thân người công an
khu vực hớt hải chạy đến xí nghiệp thuộc da.
- Đồng chí Arachaev, đồng chí đại úy, - anh
ta vừa đưa tay lên mũ chào, vừa niềm nở nói, - thiếu tá Evdokimov mời đồng chí
đến ban quân quản ạ.
Tại ban quân quản, đích thân thiếu tá chỉ
huy trưởng ra đón Tsanka, bắt tay rất chặt theo kiểu đàn ông.
- Xin lỗi đồng chí đại úy, thật không ngờ đồng
chí lại là một cựu binh có nhiều công lao đến vậy. Mãi đến hôm nay chúng tôi mới
nhận được hồ sơ của đồng chí. Tổ quốc rất tự hào về đồng chí. Hóa ra chúng ta
là bạn cùng chiến hào. Tôi mới xuất viện tháng trước. Trước đó, cũng như đồng
chí, từ năm bốn mốt tôi đã là một chiến sĩ bộ binh lặn lội trong chiến hào.
Thiếu tá vừa nói vừa lấy từ trong tủ sắt ra
một chiếc phong bì.
- Đây, quân hàm và huân huy chương của đồng
chí đây. Bây giờ tôi không khuyên đồng chí đeo ngay đâu, vài ngày nữa đồng chí
sẽ được cấp một bộ quân phục mới, khi đó hãy đeo lên. Còn bây giờ, chúng ta hãy
nâng ly vì những người bạn cùng chiến hào, nào, cùng đứng uống.
Cuộc trò chuyện về chiến tranh bắt đầu, rồi
họ ngồi xuống lúc nào không hay, uống thêm vài lượt nữa, cùng hút thuốc, cuộc
trò chuyện càng lúc càng sôi nổi. Hóa ra, họ chiến đấu sát bên nhau mà không biết.
Ở ngoại ô Kuchinovka cả hai cùng bị rơi vào vòng vây. Chẳng mấy chốc họ chuyển
sang xưng hô với nhau bằng “cậu - tớ”, hóa ra hai người có nhiều điểm chung và
nhiều kỷ niệm chung, đến mức chủ nhà quên hết mọi chuyện trên đời: họ như được
sống lại những ngày đã qua, đánh giá lại mọi tình huống, hoàn cảnh, uống rất
nhiều, nhắm rất ít.
- Chuẩn úy, - thiếu tá gọi người công an
khu vực. - Cậu chạy đến cửa hàng... Mẹ kiếp, khi nào thì mới có món cơm rang trộn
thịt? Các anh có biết là tôi gặp bạn chiến đấu cùng chiến hào không, thế mà bọn
chúng... đồ chó cái, đồ chuột cống hậu phương!
Một phút sau, bằng một giọng đã nhừa nhựa,
thiếu tá thì thầm vào tai Tsanka:
- Cậu biết không, ở đây tất cả đều là chuyện
nhảm nhí, lãnh đạo cũng vậy. Cậu phải là Thượng đế, là chúa tể, còn nếu là kẻ
dưới quyền thì cậu chỉ là một tên đầy tớ hèn mạt, - sau đó, bằng một giọng bình
thường, thiếu tá lại nói: - Nói thật, nhìn chung trong nước Nga của chúng ta, mọi
thứ, ít hay nhiều đều bị che đậy.
Trong ngày hôm đó, lần đầu tiên sau nhiều
năm, Tsanka mới được đánh chén một bữa no nê. Trên bàn, một chảo đầy cơm rang
trộn thịt béo ngậy với những miếng thịt cừu to. Ngay lập tức Tsanka nhớ đến mẹ,
mẹ đã mất với cái bụng đói, cái miệng móm đầy nhớt dãi, mút chùn chụt mấy viên
kẹo thảm hại. Tsanka kể cho thiếu tá nghe về hai đứa con bị thất lạc của mình.
Thiếu tá Evdokimov rưng rưng nước mắt, với tư cách là bạn chiến đấu hứa sẽ giúp
tìm kiếm. Họ lại uống tiếp, cười nói, ôm hôn thắm thiết, kết nghĩa anh em, muốn
trở lại mặt trận đánh nhau với bọn phát xít, bắt sống Hitler. Đến nửa đêm,
Tsanka mới ra về, say mèm, tay ôm gói giấy báo món cơm rang trộn thịt mang về
cho ông Voloshin, còn trong túi quần là một chai vodka và nửa bao thuốc lá -
món quà của bạn chiến đấu sau bữa cơm chiều thịnh soạn. Về nhà, Tsanka đánh thức
ông Voloshin dậy, hai người uống tiếp đến sáng, còn phải chạy đi mua thêm rượu
nữa. Ngày hôm sau, cả hai không đi làm vì không dậy nổi. Còn sau một ngày nữa,
Tsanka lại mò đến ban quân quản.
- À, Tsanka, vào đi, - thiếu tá phấn khởi
hét lên. - Hôm qua cậu ở đâu? Chúng ta đã thỏa thuận gặp nhau mà. Nào, đưa cho
mình các dữ liệu về con trai. Mình sẽ gửi công văn đi Moskva, Alma-Ata, Grozny.
Cứ yên tâm, mình sẽ làm mọi việc theo đường chính thức, qua Bộ Tư lệnh quân quản.
Thiếu tá Evdokimov lại lấy ra hai chiếc cốc,
rót một trăm gam.
- Ở đây không thể không uống. Nào, uống mừng
Chiến thắng!
Sau đó là cốc thứ hai, rồi cốc thứ ba. Đến
lúc đó, Tsanka mới dám nói:
- Này, đồng chí thiếu tá, tôi có thể quay về
Alma-Ata được không?
- Sao, bạn bè ở đấy à?
- Ồ không, chẳng qua là ở đây tôi cảm thấy
rất nặng nề, công việc không phù hợp.
- Nói thật, mình không thể cho cậu đi đâu,
còn vì tình bạn thì có thể nghiên cứu. Nhưng cậu sẽ làm gì ở đó? Nếu vì công việc
thì khỏi lo. Những người có học như cậu, chỉ cần chạy hai vòng là có việc ngay.
Cậu biết không, hiện nay đất nước vẫn đang trong tình trạng thời chiến nên tớ
là ông chủ ở đây. Người làm thì không có, cũng chẳng có ai để trò chuyện, nhâm
nhi, thật khủng khiếp. Nói tóm lại, rót tiếp đi... Hừm, ngon thật, cái thứ rượu
dân tộc này... Nào đưa mình quả dưa chuột... Cậu nghe này, mình sẽ bổ nhiệm cậu
làm phó giám đốc xí nghiệp thủy lợi. Cậu có biết đó là cái gì không? Ở đây nước
là tất cả, là bánh mì, lúa gạo, thịt cá, rau dưa, nói đơn giản là cuộc sống.
Ngành thủy lợi là cơ quan giàu có nhất, dĩ nhiên là sau ngành quân sự. Mình sẽ
bổ nhiệm cậu làm phó. Ở đấy có một lãnh đạo, hay như người ta vẫn gọi là người
phụ trách, Sarenbaev, một thằng ngố vô học. Chẳng qua phải giữ hắn lại vì hắn
là người Cozak, để làm vì thôi. Thằng cha ấy, không những không biết viết, mà
tiếng Nga cũng chỉ lõm bõm. Chỉ cần sau một tháng là cậu nắm toàn quyền. Nếu có
khó khăn gì mình sẽ giúp. Ở đây tất cả đều phụ thuộc vào nước, trong khi mình
phải chịu trách nhiệm về mọi chỉ tiêu kế hoạch. Tóm lại, mọi việc coi như xong,
đây là một quyết định đúng đắn. Và điều quan trọng là cậu có thể giúp được bà
con đồng hương của mình... Còn một điều quan trọng nữa, cậu là đảng viên, là cựu
binh. Nào rót nữa đi!
Quyết định cuối cùng thuộc về Tsanka. Ba
ngày sau, công việc của Tsanka đã được ban thường vụ đảng bộ chuẩn y. Ở đó,
Tsanka trở nên nổi bật trong bộ áo cổ đứng, ngực đeo đầy huân huy chương. Trong
giây lát, mọi nỗi bất hạnh, khổ đau, buồn thảm vừa qua dường như đã bị quên hết.
Tsanka được phân căn hộ công vụ với đầy đủ tiện nghi và xe con. Nói ngắn gọn,
anh trở thành người lãnh đạo quan trọng nhất trong khu vực.
Chưa đầy một tháng sau, mọi công việc của
ngành thủy lợi đều nằm trong tay Tsanka. Anh làm việc tự giác, nhiệt tình, có ý
thức trách nhiệm. Tuy nhiên, vẫn có một chữ “nhưng” - với bàn tay điều khiển của
trưởng ban quân quản Evdokimov, cơ quan của Tsanka được người ta gọi bóng gió
là “xí nghiệp thủy lợi Chechnya”, dịch ra có nghĩa là “Chechnya điều hành”. Và
quả đúng như vậy, trong văn phòng suốt ngày vang lên tiếng Chechnya.
Mặc dù Tsanka không nhận các đồng hương vào
cơ quan làm việc, không thể, nhưng anh giúp họ bằng mọi cách, từ tiền bạc cho đến
vật liệu xây dựng.
gười năng nổ nhất trong liên minh này là
ông Voloshin. Những người di cư đặc biệt được vào làm ở trạm y tế, nhà trẻ,
phòng tài vụ. Thoạt đầu, bên công an cũng có ý kiến phản đối, nhưng Evdokimov,
sau khi hiểu rõ Voloshin đã ủng hộ mọi quyết định của Tsanka.
Chẳng bao lâu sau, Tsanka được mời đến dự
các cuộc hội nghị, giới truyền thông cũng bắt đầu nhắc đến tên Tsanka. Dần dần,
Sarenbaev chỉ còn đóng vai trò là lãnh đạo danh dự, còn người điều hành chính
là Tsanka.
Ngày lễ Chiến thắng được tổ chức rất hoành
tráng. Evdokimov và Tsanka mặc lễ phục, ngực đeo đầy huân huy chương, vui chơi
thoải mái suốt cả một tuần. Trong những ngày này, dân Chechnya còn được hưởng
niềm hạnh phúc đặc biệt: có tin đồn, nhân kỷ niệm ngày chiến tranh kết thúc, họ
sẽ được trở về quê hương.
Vào đầu tháng Sáu năm 1945, thiếu tá
Evdokimov đến thẳng xí nghiệp thủy lợi.
- Tsanka này, - Evdokimov vui vẻ hét lên. -
Tôi đã nói mà, tôi sẽ tìm được con trai cho cậu, tìm được rồi. Hiện nó đang sống
ở tỉnh Dzhambulsk.
- Tôi có thể đến gặp nó không? - Tsanka năn
nỉ.
- Đi đi. Tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Chỉ có điều: đi rồi quay về.
Một ngày sau, trưởng ban quân quản trực tiếp
ra ga tiễn bạn.
- Số tiền này là của mình tặng con trai cậu,
- Evdokimov nói. - Mình tin, con trai cậu là một người xứng đáng.
Cuộc gặp mặt với con trai ở trại cải tạo trẻ
em chỉ kéo dài ba mươi phút. Dakany đã lớn, cao to như những người trong dòng họ
Arachaev, râu ria lún phún.
Người cha nhìn ngắm đứa con và như quên hết
mọi nỗi bất hạnh, không giấu nổi những giọt nước mắt sung sướng.
Khi Tsanka quay về Chyly, Evdokimov đưa cho
Tsanka xem bức công văn đề nghị cho phép Dakany được chuyển về sinh sống tự do ở
tỉnh Kzyl-Orda.
- Đừng thất vọng, anh bạn ạ, mọi việc rồi sẽ
tốt đẹp. - Trưởng ban quân quản vui vẻ nói. - Tạm gác công việc lại, đi câu một
chuyến.
Mỗi lần đi câu họ đều rủ thêm Voloshin.
Evdokimov và Tsanka câu không giỏi, và họ
cũng chẳng có thời gian, chỉ kịp rót rượu ra rồi nâng cốc chúc mừng quân đội,
Chiến thắng và Tổ quốc.
Tsanka không chịu nâng cốc chúc mừng sức khỏe
Stalin, khi đó liền nổ ra một vụ tranh cãi nhỏ, nhưng chỉ kéo dài đến lần nâng
cốc tiếp theo.
Thông thường, sau một, hai chai, các cựu
binh bắt đầu trở nên sôi nổi, và khi đó Mikhei - lái xe của trưởng ban quân quản
liền phóng vào làng để đón các chị em. Sau đó sẽ có khiêu vũ, hát hò, rồi những
tiếng la hét và đủ trò khác nữa.
Mặc dù thích vui vẻ nhưng Tsanka không bao
giờ bỏ bê công việc, thậm chí ngay sau cuộc vui chơi kéo dài, sáng hôm sau đúng
bảy giờ Tsanka vẫn có mặt tại nơi làm việc.
Tsanka tôn trọng giám đốc Sarenbaev, mọi việc
đều được mang ra bàn bạc và thông tin đầy đủ với ông. Tsanka biết, Sarenbaev là
người không được học hành đến nơi đến chốn, không am hiểu các hoạt động sản xuất
và tổ chức, nhưng bù lại, ông là người nhân hậu và khôn ngoan.
Điều quan trọng nhất, Sarenbaev có nhiều mối
quan hệ với thủ đô liên quan đến công việc của tỉnh Kzyl-Orda, chẳng qua là ông
không biết tận dụng các mối quan hệ ấy.
Tsanka nhanh chóng nắm bắt được những khả
năng của Sarenbaev, thường cùng đi với ông lên tỉnh xin xỏ những quyết định
quan trọng và có lợi cho cơ quan.
Vào đầu năm 1947, xí nghiệp thủy lợi được mở
rộng, và cùng với nó là một khu làng dành riêng cho những người di cư đặc biệt,
cả người Nga và người Chechnya. Những ngôi nhà ngói mới xây được cấp cho giám đốc
Sarenbaev và một số nhân vật quan trọng người Cozak.
Khi cuộc sống của Tsanka bắt đầu ổn định
thì có tin cậu con trai Dakany bị đưa đến trại cải tạo dành cho người lớn ở tỉnh
Chelyabinsk, và ngay trong ngày đầu tiên ở đấy Dakany đã gây ra một vụ ẩu đả bằng
dao. Sau vụ đó, Dakany bị tăng thời hạn cải tạo và bị đưa đi xa hơn về phương bắc,
mãi tận vùng Vorkuta.
Tsanka đau khổ vô cùng. Rồi thêm một tin
không vui khác nữa: người bạn tâm huyết, thiếu tá Evdokimov bị điều đi Viễn
Đông.
Ban lãnh đạo của tỉnh gần như bị thay đổi hết.
Vai trò của quân đội bị giảm xuống, cán bộ đảng và công an lại bắt đầu nắm giữ
quyền hành.
Lãnh đạo mới của tỉnh quyết định, những người
di cư đặc biệt Chechnya không được nắm giữ chức vụ lãnh đạo trong các cơ quan
quan trọng. Tsanka bị bãi chức nhưng xét đến những công lao trước đây, được bổ
nhiệm làm trưởng ban cung ứng.
Một tháng sau, Sarenbaev cũng bị bãi chức
và người lãnh đạo mới của xí nghiệp thủy lợi là Hasanbaev.
Ngay lập tức Hasanbaev cho thôi việc tất cả
các di dân đặc biệt, kể cả người Nga và người Chechnya. Sau đó ông ta yêu cầu họ
phải trả lại các căn hộ và nhà công vụ. Yêu cầu này quả là khủng khiếp. Không
ai muốn rời bỏ nơi mình đang sinh sống, nhất là họ lại không có chỗ ở nào khác.
Công an đã hai lần đến yêu cầu Tsanka phải trả nhà, tuy nhiên Tsanka vẫn còn cố
cầm cự bằng cách xin được giấy chứng nhận của ban chấp hành hội Cựu chiến binh
và Thương binh chiến tranh, đồng thời nhờ công đoàn và tòa án can thiệp, nhưng
đều vô ích.
Hạn cuối cùng là ngày mùng một tháng Sáu
năm 1948, tất cả di dân đặc biệt của xí nghiệp thủy lợi phải trả nhà. Trước thời
hạn đó mười ngày, một sự kiện đặc biệt nghiêm trọng đối với toàn bộ khu vực đã
xảy ra: trong vùng hoang mạc, người ta tìm thấy chiếc xe công vụ của Hasanbaev,
nhưng người lái xe và cả vị lãnh đạo mới của xí nghiệp thủy lợi thì không thấy
đâu cả. Sau này cũng không tìm ra.
Những người Chechnya bị nghi là nguyên nhân
của vụ việc. Tsanka bị rầy rà nhiều nhất, nhưng vì không có bằng chứng nên mọi
chuyện cũng dần dần lắng xuống.
Sau sự kiện này, lãnh đạo mới của xí nghiệp
được bổ nhiệm - cũng là một người Cozak, nguyên là phó của lãnh đạo cũ
Sarenbaev. Ông này không làm căng chuyện nhà ở nữa, chẳng những thế còn sử dụng
lại Voloshin, riêng Tsanka thì được bố trí vào một vị trí dễ chịu nhất - trưởng
ban an toàn lao động.
... Mùa thu năm 1948, Tsanka nhận được thư
của con trai, trong đó Dakany thông báo, người ta đề nghị với cậu thay vì bị tù
giam thì phục vụ năm năm trong quân đội, và Dakany đã chấp nhận lời đề nghị.
Một tháng sau, lại có thư mới, Dakany cho
biết cậu đang phục vụ ở vùng Khabarovsk và mọi việc đều rất tốt đẹp. Từ đơn vị,
Dakany thường xuyên viết thư về cho cha, nhưng đột nhiên không có thư nữa.
Tsanka lo lắng thực sự, mỗi tuần anh viết cho con hai, ba bức, rồi gửi điện nữa,
nhưng không có hồi âm.
Đến tháng Sáu năm 1949, Tsanka được mời lên
phòng quân vụ, tại đây anh được được trao giấy chứng nhận và thông báo một tin
khủng khiếp: con trai Arachaev Dakany đã hy sinh trong khi thực hiện nhiệm vụ của
nhà nước Xô viết.
Sau này Tsanka được biết, Dakany hy sinh tại
Bắc Triều Tiên.
Trái tim của Tsanka lại bị đánh gục bởi cái
tin đó, rồi một thời gian sau, hai lá phổi yếu ớt cũng trở chứng. Tsanka phải nằm
bẹp, không thể gượng dậy được. Rất có thể anh sẽ chết trong hoàn cảnh đó, nhưng
những người đồng hương đã giúp, họ thay phiên nhau chăm sóc anh, suốt ngày đêm
không rời nửa bước. Riêng ông Voloshin thì hai lần chạy lên tỉnh lỵ Kzyl-Orda để
mua thuốc, rồi vợ ông ở Alma-Ata cũng gửi qua đường bưu điện nhiều loại thuốc
quý... Tuy nhiên cũng chẳng giúp được gì.
Đến tháng Chín người ta phát hiện Tsanka bị
lao phổi và đưa anh vào bệnh viện huyện. Bệnh tình cũng chẳng khá lên được, khi
đó với sự giúp đỡ lần nữa của ông Voloshin, Tsanka được đưa vào phòng cách ly của
trạm y tế xí nghiệp và Klavdya Prokophievna Timoshenko, một bác sĩ giàu kinh
nghiệm là dân di cư đặc biệt được giao trực tiếp theo dõi và điều trị cho
Tsanka.
Tháng Tư năm 1950, Tsanka được ra khỏi trạm
y tế, còn vào tháng Sáu, đúng một năm sau cái chết của con trai, anh quay trở lại
làm việc. Vào thời gian này, trong đầu Tsanka bắt đầu xuất hiện một ý định
hoang tưởng - trở về quê hương, về miền Kavkaz, về làng Duts-Khote. Tsanka quyết
định, trước khi chết phải thực hiện cho bằng được lời trăng trối của mẹ - dựng
bia cho tất cả những người trong dòng họ Arachaev đã qua đời trong nghĩa trang
Gazavata quê hương... Thế là xong, còn sau đó... cuộc sống chẳng còn ý nghĩa gì
nữa...
* *
*
Ý định trở về quê hương ngày càng choán ngợp tâm trí Tsanka, dần dần
làm thay đổi sự tồn tại của anh lúc nào không hay, bắt anh quay trở về với cuộc
sống. Ý nghĩ ấy cứ bám riết lấy Tsanka suốt ngày đêm. Tsanka xin được một tờ bản
đồ địa lý Liên Xô của một cô giáo quen và bắt đầu tính toán chặng đường ngắn nhất.
Hằng đêm, trong lúc nghiên cứu kĩ lưỡng tờ
bản đồ, Tsanka lại nhớ đến cái buồng xép của nhà vật lý Bushman, nơi họ đã vạch
ra kế hoạch bỏ trốn khỏi nơi lưu đày. Và giờ đây, sau hàng chục năm, không hiểu
sao, Tsanka lại cho rằng cái thời ấy lại còn tốt hơn nhiều so với bây giờ.
Hóa ra, dạo còn ở Kolyma, Tsanka là người hạnh
phúc, lúc ấy anh đang sống và khát khao sống, anh có mẹ, có vợ con và họ hàng.
Còn bây giờ, Tsanka chỉ còn lại một mình. Khi đó, chỉ có một mình Tsanka phải
chịu đau khổ, nhưng anh còn có cơ hội quay trở về quê hương, dẫu có phải ngồi
tù cho đến hết hạn. Còn bây giờ, Tsanka chẳng biết về đâu, và điều quan trọng
là về với ai... Tsanka chỉ còn lại một mình!
Chỉ còn lại một niềm hy vọng duy nhất: ở
đâu đó, đứa con trai thất lạc của anh vẫn còn sống.
Tsanka không đánh mất niềm hy vọng, liên tục
gửi thư đến các cấp chính quyền trong cả nước, nhưng tin vào điều đó quả là
không dễ dàng.
Đôi khi Tsanka có cảm giác, thằng Gelany
đang đứng chờ anh ở chính cái chỗ nó bị lạc trên ga tàu lửa ở Grozny. Ý nghĩ ấy
ngày đêm cứ giày vò, khiến Tsanka kiệt sức đến mức anh bắt đầu nằm mơ thấy con
trai, thấy thằng bé đứng giữa hai thanh ray, khóc nức nở, kêu gọi cha, còn sau
lưng nó là một đoàn tàu vừa hú còi inh ỏi, vừa phun lên những đụn khói trắng,
lao đến với một tốc độ kinh hoàng cùng với tiếng bánh xe đập trên nền đường rầm
rập. Đấy, đoàn tàu sắp lao vào người thằng bé không được ai bảo vệ, còn nó, bất
lực, yếu đuối và cô độc giơ tay lên, cố gào to tên cha, gọi cha đến cứu nó
thoát khỏi nỗi khổ đau kinh hoàng. Đôi mắt của thằng bé như ai oán, cầu khẩn và
trách móc. Tsanka cố chạy lại giúp nó, la hét ầm ĩ, anh như bị hụt hơi trong
cơn điên loạn, đôi chân nặng nề không chịu nghe theo, trở nên chậm chạp, yếu ớt
một cách phản phúc, và Tsanka đã không kịp, không kịp cứu nó... Thật khủng khiếp!...
Tsanka bật dậy, cả người đẫm mồ hôi lạnh,
không hiểu mình đang ở đâu và có chuyện gì xảy ra. Anh cứ ngồi mãi trên giường,
run bần bật, nóng hầm hập, tai lùng bùng. Đúng lúc này, ngoài cửa sổ có một
đoàn tàu tốc hành chạy ngang qua, rúc lên một hòi còi dài...
Thật đáng thương, Gelany! Con còn sống
không, con yêu?
Tại sao ta lại phải chịu những nỗi khổ đau
này? Tại sao? Tại sao khi ấy ta không bị chết trôi cùng với Bushman ở Kolyma? Tại
sao? Tsanka ngẫm nghĩ, cứ tưởng là chỉ có mình gặp may, nhưng hóa ra chỉ có
mình phải hứng chịu tất cả mọi sự trừng phạt này...
Thế còn trong những trận đánh ở ngoại ô
Moskva? Rõ ràng cái chết là điều không thể tránh khỏi, máy bay, xe tăng, súng
máy, súng lục bắn trực diện. Rồi còn những vòng xích xe tăng nghiến xuống mặt đất.
Sau đó quân phát xít tràn lên cánh đồng, bắn chết luôn những người bị thương, bắn
vào cả những người đã chết, thế mà chỉ chừa lại mỗi mình Tsanka, à còn hai người
nữa, có lẽ họ cũng là những kẻ sống sót bất hạnh như anh. Nhưng sống để làm gì
cơ chứ? Tại sao? Chắc là để hành hạ mình, để cái chết trên trận tiền mới chính
là hạnh phúc...
Cuộc sống quả là đỏng đảnh và rắc rối! Những
gì được coi là may mắn và hạnh phúc bỗng trở thành cơn ác mộng và gánh nặng. Mọi
việc trên đời thật kỳ lạ. Không phải vô ích mà Thượng đế đã tạo nên quả đất
hình cầu, tất cả đều tròn, tất cả, từ những ngôi sao cho đến bầu trời, mặt
trăng, mặt trời, cho đến các giọt nước và các phân tử. Và tất cả đều lăn đi đâu
đó, không có cái gì đứng lại, và một điều không thể tránh khỏi - ai đó hôm nay
đang đứng ở trên thì cùng với thời gian sẽ phải lùi xuống dưới... Làm sao có thể
tìm ra cái trục lắc ấy, làm sao có thể dừng lại cái quả cầu đang quay với thời
gian kia?! Tại sao lực ma sát lại không tác động lên nó, không làm cho nó phải
dừng lại?! Chẳng phải động cơ vĩnh cửu không tồn tại đó sao, còn năng lượng,
cùng với thời gian, sớm hay muộn cũng sẽ phải suy giảm, hiện tượng entropy của
môi trường cũng là điều không tránh khỏi... Trong khi câu trả lời hóa ra lại rất
đơn giản - vấn đề là lúc nào cũng có những kẻ đang ở dưới lại muốn ngoi lên
trên, còn một số kẻ đứng ở trên vì quá yếu ớt lại bị văng xuống dưới... Tại sao
vậy? Phép biện chứng cho thấy, đó là sự chọn lọc tự nhiên hay là cuộc đấu tranh
sinh tồn? Không. Đó là sự đối đầu vĩnh viễn giữa cái tốt và cái xấu... Đó là cuộc
sống... Không bao giờ có cái tốt vĩnh viễn và cái xấu vĩnh viễn. Cùng với thời
gian, cái này sẽ tranh chấp với cái kia... Một sự sắp xếp lại, một sự nhận thức
mới, một sự thay đổi của thời đại và vòng đời... Thế còn con người?... Con người
chỉ vĩ đại trong ý thức của mình! Không hơn không kém. Trong cả cuộc đời, con
người không chỉ một lần đã hiểu ra, nó là sinh vật yếu đuối nhất, bất lực nhất
và kém thích nghi nhất. Sự vĩ đại và sự sáng tạo của con người chẳng qua chỉ là
tự dối mình và sự chiếm đoạt từ hiện thực. Cuộc sống trên mặt đất rất khắc nghiệt
và tàn nhẫn!
... Chẳng bao lâu sau, ý tưởng mạo hiểm trở
về quê hương đã chế ngự toàn bộ tâm trí Tsanka. Anh không còn phân vân về chuyện
có nên đi hay không nữa. Quyết định đã dứt khoát và lý do thì quá nhiều. Giờ
đây, sau cái chết của con trai Dakany, mọi ý nghĩ của Tsanka đều hướng về đứa
con trai giữa Gelany. Tsanka tin chắc nó vẫn còn sống ở đâu đó gần khu vực nhà
ga Grozny. Lý do này đứng đầu trong kế hoạch, còn quan trọng hơn cả việc dựng
bia cho người thân. “Việc đầu tiên là phải
nghĩ đến người sống, sau đó mới đến người chết”, - Tsanka tự an ủi mình. Xếp
thứ ba là nỗi buồn nhớ, khát khao muốn được ngắm nhìn lại mảnh đất quê hương
thân yêu, muốn được đặt chân lên đó, uống nước từ nguồn nước mạch và hít thở bầu
không khí miền núi quê hương. Cuối cùng, còn một lý do nữa, lý do thứ tư. Tự bản
thân Tsanka cũng không dám thú nhận với chính mình nên không dám xếp nó lên vị
trí thứ hai, nhưng rất có thể, cùng với thời gian nó sẽ thành lý do quan trọng
nhất. Đó chính là sức hút của những thỏi vàng giấu dưới chuồng gà... Những thỏi
vàng của nhà vật lý Bushman.
Sau hai tuần cân nhắc kĩ lưỡng, Tsanka tìm
ra hai phương án để về quê. Anh gọi chúng là phương án bắc và phương án nam.
Phương án bắc đòi hỏi phải có nhiều tiền nhưng ít mạo hiểm, còn phương án nam
thì ngược lại. Giờ đây, mọi vấn đề chỉ tập trung vào hai việc: tiền và giấy tờ
tùy thân. Sau khi tiếp xúc với ba đối tượng hình sự, Tsanka hiểu, giấy tờ có thể
làm được, nhưng phải có tiền. Trong khi đó, tiền lại không có. Tiền lương hàng
tháng của trưởng ban an toàn lao động chỉ đủ sống qua ngày. Tuy nhiên Tsanka
không tuyệt vọng: anh có rất nhiều vàng, anh rất giàu có. Chỉ cần đến được kho
báu.
Bao nhiêu năm qua, không một lần Tsanka
nghĩ đến số vàng ấy, nhưng bây giờ anh lại nhớ. Những cuộc trò chuyện thường
xuyên với Voloshin, hồi ức về những lý lẽ của nhà vật lý Bushman đã đưa Tsanka
đến kết luận, anh không thể sống được trong đất nước này. Tsanka suy nghĩ rất
lâu và cuối cùng quyết định, nếu tìm được con trai, anh sẽ đào số vàng lên và
ra nước ngoài cùng với con. Có thể sau này Tsanka sẽ trở về, nhưng chỉ về vùng
đất Kavkaz và nếu như ở đó không còn những người Bolsevich.
Tất cả những ý nghĩ đó hành hạ khổ sở
Tsanka, không cho anh có được phút giây yên tĩnh. Thời gian trôi đi, song biện
pháp để kiếm ra tiền vẫn không tìm ra.
Hằng đêm, bao nhiêu phương án trộm cướp
khác nhau nảy sinh trong đầu Tsanka, thậm chí cả việc cướp nhà băng hay một việc
gì đó đại loại như vậy. Vấn đề đi xa đến mức Tsanka bất giác để ý đến cái mặt
tiền thảm hại của quỹ tiết kiệm địa phương, thậm chí đã vẽ ra trong đầu phương
án thực hiện vụ cướp. Tsanka tìm hiểu và biết rõ những ai đang sống trong căn hộ
bên trên, còn ở bên dưới có hầm ngầm hay không, khi nào thì người thủ quỹ có mặt
và mọi chi tiết khác.
Đột nhiên Tsanka bắt gặp mình với ý nghĩ,
anh đang cố tìm cách biện hộ cho kế hoạch của mình: một khi chính quyền đã đối
xử với anh tàn nhẫn đến như vậy, thì anh cũng có quyền đối xử lại như thế... Mục
đích cuối cùng là phải kiếm ra tiền. Nhà nước không vì thế mà nghèo đi được,
còn anh phải giải quyết những khó khăn của mình, phải biến ý tưởng của mình
thành hiện thực. Thật ra, có thể có những nạn nhân vô tội... nhưng chính Tsanka
cũng đã mất mát quá nhiều... Con trai anh đang đợi anh ở nhà ga Grozny, và để cứu
nó, thậm chí chỉ đơn giản là để gặp nó, Tsanka sẵn sàng làm tất cả.
Có đến hai mươi lần, Tsanka vào quỹ tiết kiệm,
xem xét kĩ lưỡng mọi ngóc ngách. Cuối cùng, anh làm quen với người phụ trách quỹ,
một phụ nữ góa chồng người Cozak, không còn trẻ và cũng chẳng đẹp. Tsanka không
thể đến nhà chị ta được chị có con lớn, nên phải mời chị đến nhà mình. Đóng giả
là một người si tình, Tsanka buộc lòng phải ngủ với chị ta. Bạn bè của Tsanka không
sao hiểu nổi, còn ông Voloshin thì ngạc nhiên phẩy tay. Những người đồng hương
Chechnya thoạt đầu còn cười, sau đó họ bắt đầu trách: xung quanh còn bao nhiêu
phụ nữ Chechnya góa chồng, thế mà anh ta lại chạy theo con mẹ già khác dân tộc.
Nhưng kỳ lạ nhất là mối quan hệ với nữ bác sĩ Klavdya Prokophievna. Một lần,
vào buổi tối, chị ghé lại nhà Tsanka và tự ái nói với anh:
- Phải, các anh đã nhạo báng chúng tôi, lợi
dụng chúng tôi trong mọi công việc, kể cả việc nhận chúng tôi vào làm ở xí nghiệp
thủy lợi. Việc ấy diễn ra lâu rồi, và chúng tôi không có lỗi. Nhưng chẳng lẽ
chúng tôi không xứng đáng để các anh quan tâm và tôn trọng hay sao? Chẳng lẽ
chúng tôi kém cỏi hơn cái con mẹ già quái thai ấy? Tại sao anh lại hắt hủi
chúng tôi? Không ghé thăm, mà cũng chẳng quan tâm? Chính vì anh mà ông Voloshin
cũng xa lánh chúng tôi. Khắp vùng chỉ có hai, ba người đàn ông tử tế, còn những
người khác, toàn một lũ dở hơi. Anh tìm thấy điều gì thú vị ở người đàn bà ấy,
hay anh là đồ trai bao?
Tsanka không biết trai bao là gì. Ngay tối
hôm ấy anh chạy đến hỏi ông Voloshin. Ông kia, với phong cách trí thức của
mình, nghiêm túc giảng giải cho Tsanka rõ, nhưng khi thấy Tsanka cười ông cũng
không kìm nổi bật cười theo.
- Cậu được gọi là trai bao! Cậu là trai
bao! Không ai có thể nghi ngờ gì nữa khi thấy cậu lởn vởn quanh bà giữ tiền.
Tuy nhiên, điều đó cũng chẳng làm Tsanka bận
tâm, anh vẫn tiếp tục con đường đã chọn để đi tới mục đích. Suốt cả mùa thu,
trên cơ sở những thông tin thu thập được, Tsanka xây dựng xong kế hoạch chi tiết
đánh cướp quỹ tiết kiệm. Anh dự tính hết mọi chi tiết nhỏ nhặt nhất, mọi tình
huống, trở ngại khác nhau và những biện pháp khắc phục. Ý tưởng đó chế ngự toàn
bộ tâm trí, đến mức Tsanka quên hết mọi chuyện khác trên đời.
Tuy nhiên, điều đó cũng chẳng làm Tsanka bận
tâm, anh vẫn tiếp tục con đường đã chọn để đi tới mục đích. Suốt cả mùa thu,
trên cơ sở những thông tin thu thập được, Tsanka xây dựng xong kế hoạch chi tiết
đánh cướp quỹ tiết kiệm. Anh dự tính hết mọi chi tiết nhỏ nhặt nhất, mọi tình
huống, trở ngại khác nhau và những biện pháp khắc phục. Ý tưởng đó chế ngự toàn
bộ tâm trí, đến mức Tsanka quên hết mọi chuyện khác trên đời.
Hóa ra, cuộc phiêu lưu này, nỗi hiểm nguy
này và vụ đánh cướp đơn giản này cũng chỉ là một trò chơi thực sự. Đó cũng là một
trận đánh, một cuộc giao chiến, cũng có niềm hăng say và nỗi sợ hãi, cũng khát
khao chiến thắng chẳng khác gì trong những trận đánh ở ngoại ô Moskva, Voronezh
hay Kiev. Và ở đây, tất cả cũng được mang ra đặt cược, kể cả mạng sống con người.
Tsanka tiến dần đến các bước của kế hoạch đánh cướp quỹ tiết kiệm một cách lạnh
lùng, trơ tráo, với sự đam mê rõ rệt và một khát vọng cháy bỏng. Đột nhiên có
những giây phút Tsanka không nhớ đến mục đích của vụ đánh cướp nữa. Chuyện tiền
bạc bỗng vô tình chuyển xuống hàng thứ yếu. Niềm đam mê chế ngự hoàn toàn,
Tsanka chỉ muốn thực hiện cho bằng được. Giờ đây, Tsanka muốn khẳng định dứt
khoát, tại sao anh lại phải phiêu lưu, mạo hiểm, lao vào nỗi nguy hiểm rành
rành đó? Chỉ đơn giản là anh muốn ném ra một lời thách thức với tất cả mọi người,
và để chứng minh, trước hết cho chính bản thân mình, sau đó là công khai cho cả
xã hội thấy, rằng cũng có những chàng trai dũng cảm, liều lĩnh, chín chắn, có
thể vượt qua được nhà tù khổ sai Kolyma, sự đè nén của chủ nghĩa Bolsevich, lao
vào dưới gầm xe tăng Đức, và khi cần thiết, có thể đánh cướp cả nhà băng nữa.
Vào đầu tháng Chạp, kế hoạch đã được hoàn
thiện đến từng chi tiết nhỏ nhặt nhất. Tsanka cướp nhà băng là để kiếm một số
tiền lớn. Anh biết, vào cuối tháng Chạp, một khoản tiền lớn sẽ được chuyển vào
quỹ tiết kiệm để thanh quyết toán, chi thưởng và các khoản chi cuối năm khác. Mọi
việc đã được chuẩn bị đâu vào đấy, kể cả trang bị vũ khí nữa. Về vũ khí cầm
tay, Tsanka đã chuẩn bị dao găm, khẩu súng trường cưa nòng, dây thừng, chất nổ,
mặt nạ. Toàn bộ số vũ khí này là để dự phòng trong trường hợp phương án chính bị
đổ vỡ. Còn phương án chính thì rất đơn giản. Nó được tính toán chính xác đến từng
giây, và điều quan trọng là lợi dụng sự cẩu thả và thiếu trách nhiệm của các
nhân viên quỹ tiết kiệm.
Vấn đề cuối cùng. Cần phải tìm được hai người
đồng sự thực hiện công việc. Vấn đề là ở chỗ, chính Tsanka sẽ không trực tiếp
tham gia vào vụ đánh cướp. Anh, với tư cách là người trong cuộc, có trách nhiệm
tạo nên trong văn phòng quỹ một không khí lãng mạn, mất cảnh giác vì chuyện yêu
đương để đánh lạc hướng, còn hai người kia sẽ nhanh chóng bí mật thực hiện phi
vụ. Trong trường hợp phương án chính bị đổ vỡ, các loại vũ khí cầm tay mới được
đưa vào sử dụng, khi đó sẽ có bắn giết, máu me, thậm chí có cả nạn nhân nữa.
Việc chọn lựa hai đồng sự hóa ra không đơn
giản chút nào. Một mặt, có nhiều đồng hương rất đáng tin cậy trong bất cứ vụ việc
nào, nhưng mặt khác, những người Chechnya không quen với mệnh lệnh, tính toán
và những tình huống tế nhị. Tsanka lập một danh sách dài những người có triển vọng
rồi loại dần ra bằng phương pháp phân tích lịch sử quá khứ, đồng thời xem xét đến
yếu tố lý lịch gia phả của từng người. Cần phải có những người đáng tin cậy, có
gốc gác đàng hoàng, không đầu hàng, không phản bội. Cuối cùng việc chọn lựa
cũng xong. Vấn đề còn lại là trao đổi, bàn bạc với họ, đầu tiên là với từng người,
nếu đồng ý, dĩ nhiên là như vậy, sẽ đưa ra thảo luận chung.
Tất cả... toàn bộ dự thảo kế hoạch đã hoàn
tất. Theo quan điểm của Tsanka, kế hoạch rất hoàn hảo. Tsanka cẩn thận đọc lại
một lần nữa những tờ giấy chi chít chữ, rồi đặt một dấu chấm hết to tướng. Đẩy
mạnh chiếc ghế gỗ ra, Tsanka đứng lên, hài lòng ngáp một cái, rồi vươn vai. Sau
đó anh vào bếp, đứng bên cửa sổ hút thuốc. Buổi sáng thứ bảy ảm đạm. Ngoài sân
có hai đứa bé đang dùng cái bẫy lồng để bắt chim bồ câu, chúng ném bánh mì vào
bẫy rồi ngồi đợi. Không hiểu tại sao Tsanka lại để ý đến cảnh ấy. Anh rót trà,
châm điếu thuốc thứ hai. Ba con chim bồ câu (không hiểu sao lại đúng ba con) lởn
vởn quanh cái lồng: chúng rất muốn ăn bánh mì nhưng cảm thấy có điều gì đó
không bình thường. Cuối cùng cái đói đã chiến thắng - một con bồ câu rụt rè
chui vào lồng, mổ miếng mồi, con thứ hai nổi máu tham, vào theo, ngay lập tức sợi
dây bật lên và hai con bồ câu đã nằm gọn trong lồng. Những con chim tội nghiệp
tuyệt vọng đập cánh loạn xạ, lao vào lưới sắt, bật ra, rồi lại lao vào. Mấy đứa
trẻ chạy lại, thành thạo tóm gọn hai con bồ câu, lập tức lấy cục gạch đập vào đầu
chim rồi biến mất sau khe cổng. Một sự im lặng bao trùm, không có điều gì xảy
ra cả, chỉ có hai vệt máu còn lại trên mặt đất.
Tsanka đã nhiều lần chứng kiến cảnh ấy,
chính anh dạo còn bé cũng “tiêu khiển” bằng cái trò này, còn sau đó nhiều lần
dùng bẫy để bẫy thú rừng. Không hiểu tại sao chính cái cảnh này lại đè nặng
trong lòng Tsanka, có cái gì đó xáo động báo hiệu điềm chẳng lành, làm hỏng mất
tâm trạng hưng phấn của Tsanka. “Tại sao
chỉ có hai trong số ba con bồ câu sập bẫy? Tại sao lại có đúng ba con bồ câu
bay tới? Có thể ta đã chuẩn bị sẵn nỗi bất hạnh cho các đồng hương của mình? Có
thể tất cả chỉ là sự ngông cuồng và ảo tưởng của mình chăng?” - Tsanka thầm
nghĩ. Anh xem lại bản kế hoạch của mình, lật giở từng trang và phát hiện ra ở
trong đó có rất nhiều chi tiết nguy hiểm, thậm chí ấu trĩ nữa. “Không được, phương án chính không ổn, phải
bắn, phải gây nổ” - Tsanka tính toán. Suốt cả ngày anh đi đi lại lại, phờ
phạc và lo âu. Đến tối, Tsanka uống hết một chai vodka và mặc cả quần áo lăn ra
ngủ.
Đêm ấy, Tsanka lại mơ thấy đứa con trai
trên ga tàu hỏa. Chỉ có điều, bây giờ, đoàn tàu không lao đến từ hướng đối diện
mà lao từ phía sau lưng Tsanka. Anh lại bị hành hạ cả đêm trong cơn ác mộng, tỉnh
dậy người đẫm mồ hôi, nhìn thấy qua cửa sổ đoàn tàu tốc hành đêm lao vùn vụt về
hướng Moskva, tiếng bánh sắt đập vào đường ray rầm rập cùng với một hồi còi dài
vĩnh biệt. Tsanka ngồi mãi trên giường, đầu óc mụ mị, không thể phân biệt nổi
đâu là ác mộng, đâu là hiện thực. Sau đó anh còn hút thuốc rất lâu, cổ họng đắng
nghét và khô khốc vì chai rượu đêm qua.
Gần sáng, Tsanka nằm xuống thiếp đi và lại
nằm mơ - nhưng lần này là một giấc mơ vui vẻ, cảm động. Mẹ anh đứng đó, trẻ
trung, xinh đẹp và dịu hiền trong bộ quần áo trắng toát, mẹ không nói gì cả, chỉ
lắc đầu vẻ không hài lòng. Sau lưng mẹ có rất nhiều đàn ông, cũng mặc đồ trắng,
đứng thành hàng, cầu nguyện, đứng trước họ một bước chân là bác Baki-Haji với
tư cách là trưởng họ, ngay sau ông là cha Tsanka - ông Aldum to cao, chú Kosum,
rồi Basil, Esky... với vẻ mặt nghiêm nghị, trách móc.
... Tiếng gõ cửa bỗng vang lên. Tsanka bật
dậy, vội vàng vơ những tờ giấy nhét xuống gầm giường, bước ra mở cửa. Một người
đồng hương, sau khi chào, liền hỏi:
- Anh cho gọi tôi hả?
- Tôi gọi? - Tsanka ngắc ngứ, - À, chẳng
qua tôi nghĩ, có lẽ chúng ta cùng cầu nguyện sẽ tốt hơn... Hàng ngày.
- Chúng tôi đã cầu nguyện rồi, còn anh, vẫn
bay mùi rượu, - vị khách nhăn mặt.
- Tôi à? - Tsanka mỉm cười xuề xòa, - Thôi
được rồi... hôm nay là chủ nhật, lần sau chúng ta sẽ cùng đi dạo, hơn nữa
Shovkhal cũng sắp về rồi, từ ngày mai chúng ta sẽ bắt đầu một cuộc sống mới.
- Nếu vậy thì được. Còn cuộc sống, cũng như
mọi ngày, bao giờ cũng mới. Tôi chạy đến cửa hàng chứ?
Khi vị khách đi rồi, Tsanka ngồi lên giường,
ngẫm nghĩ “Không, không thể như thế được,
nếu vụ việc đổ bể, con trai sẽ phải chờ đợi mình rất lâu nữa, mà rất có thể sẽ
không chờ được... Rồi cha mẹ và các con, nếu còn sống họ sẽ nghĩ sao? Rằng
Tsanka là một tên cướp thực sự, là kẻ giết người, là tên trộm?... Không, mình
chưa bao giờ là một kẻ như vậy, bây giờ lại càng không. Chẳng qua là mình sống
cạnh những người xấu, chút nữa thì cũng trở thành người xấu...”. Tsanka
chui xuống gầm giường vôi vàng lấy tập giấy ra, xé vụn rồi bước ra ngoài. Ra đến
rìa làng, Tsanka ném những mẩu giấy lên trời. Một cơn gió mạnh cuốn chúng bay về
phía hoang mạc, và cùng với chúng là tất cả những ý nghĩ nhảm nhí của những
ngày tháng qua. Tsanka hít một hơi dài, thở phào nhẹ nhõm, thu mình lại, bước vội
về nhà...
Năm mới 1951 được mọi người đón tiếp trong
căn hộ hai phòng rộng rãi của Tsanka.
- Chúc mừng đứa con lầm lạc trở về! - Bác
sĩ Klavdya Prokophievna đề nghị nâng cốc.
- Phải, - ông Voloshin mỉm cười. - Tí nữa
thì đã trở thành trai bao rồi.
Họ vui chơi thoải mái hai ngày liền với rất
nhiều rượu vodka, cơm rang trộn thịt, bánh mì đen, còn tráng miệng có trà xanh
đích thực và thuốc lá điếu do nhà máy sản xuất.
Suốt cả tháng Giêng và tháng Hai, Tsanka cứ
phải suy tính mãi về việc sẽ vay tiền của ai. Những người đồng hương Chechnya đều
trong hoàn cảnh giật gấu vá vai, còn những người Nga di cư đặc biệt cũng không
hơn gì. Có thể liều mạng hỏi vay tiền của “nhân tình” cũ, nhưng lòng tự trọng
không cho phép. Tình cờ một lần ở ngoài chợ, Tsanka gặp vợ của nguyên lãnh đạo
xí nghiệp thủy lợi Sarenbaev. Chị rất vui khi gặp lại Tsanka, mời anh đến nhà
chơi, chị bảo nếu không nhờ Tsanka, chắc đến giờ gia đình chị vẫn phải sống
trong căn hộ hai phòng với tất cả lũ con cháu, còn bây giờ họ đang sống trong
căn nhà ngói rộng rãi, ngôi nhà của mình.
- Đến chơi nhé, anh bạn... Chồng tôi vẫn nhắc
đến anh luôn, anh ấy bảo, nếu không có mối quan hệ với anh, chắc ông ấy vẫn
nghĩ không hay về những người Chechnya.
Tsanka do dự suốt một tuần, cuối cùng anh
quyết định đến gặp người lãnh đạo cũ. Tsanka không úp mở đề cập ngay chuyện vay
tiền, nói rõ mục đích vay, không giấu giếm điều gì ngoài chuyện kho vàng. Ông
Sarenbaev chẳng cần vặn vẹo, cũng chẳng đặt điều kiện gì, vui vẻ đưa tiền cho
Tsanka như một người bạn chân thành, rồi ông còn đãi Tsanka một cuộc nhậu đến
khuya với các món sơn hào hải vị phương Đông.
Đúng một tuần sau, Tsanka có mặt ở tỉnh lị
Kzyl-Orda, gặp một đối tượng hình sự rất có uy tín là người Hy Lạp, anh ta hứa
sẽ làm các giấy tờ tùy thân rất đáng tin cậy. Để đề phòng sự cố, Tsanka mang
theo cả ông bạn đồng hương Shovkhal.
- Thế người này là ai? - Người Hy Lạp chỉ
tay vào người đi cùng với Tsanka, hỏi.
- Một người tin cậy của tôi. - Tsanka
nghiêm túc đáp.
- Sao, chẳng lẽ trong số những người
Chechnya, cũng có người đáng tin cậy à? - Đối tượng hình sự cười khẩy. - Các
anh, vẻ ngoài càng thảm hại bao nhiêu thì tính cách càng gai góc bấy nhiêu... Một
dân tộc lạ lùng, “chẳng thể hiểu nổi”.
... Ngày ba mươi tháng Tư, sau khi đã trình
diện ở đồn công an (người Chechnya mỗi tháng phải trình diện một lần), Arachaev
Tsanka lên đường về quê, về vùng đất Kavkaz và ngôi làng Duts-Khote. Tsanka mặc
bộ lễ phục quân đội, tay xách chiếc va li nhỏ mượn của ông Voloshin, trong đó
có mấy bộ đồ lót và bộ thường phục. Chỉ có vài người Chechnya và ông Voloshin
biết về chuyến đi của Tsanka.
Tuyến đường Tsanka chọn là Kzyl-Orda -
Sverdlovsk - Minvody - Grozny. Tsanka ra đi công khai, chẳng phải trốn tránh gì
cả, thậm chí đôi lần còn tỏ vẻ khiêu khích nữa mặc dù biết rõ nếu bị bắt giữ, rất
có thể bị xử hai mươi năm tù. Tại ga Sverdlovsk, đội tuần tra quân sự hỏi anh
“đi đâu” - Tsanka ngạo mạn đáp: đi Moskva dự lễ duyệt binh ngày Chiến thắng. Hiệu
quả của câu nói thật mầu nhiệm.
Ngày mùng bảy tháng Năm, Tsanka bước xuống
sân ga Grozny. Tất cả vẫn như xưa, như mười hai năm trước khi người bạn Kurto
Zukaev tiễn Tsanka đến thành phố Rostov-trên sông Đông. Tsanka lang thang ba, bốn
giờ liền quanh khu vực nhà ga với hy vọng sẽ nhìn thấy con trai, rồi anh hỏi
công an, người quét dọn, người qua đường. Biết rõ tất cả những việc đó là không
thực tế mà chỉ là ảo mộng, là sản phẩm của trí tưởng tượng bệnh hoạn, nhưng
Tsanka vẫn cứ tin, vẫn cứ tự lừa dối và trấn an mình. Tất cả chỉ vô ích. Không
có ai chờ đợi Tsanka cả, nhất lại là con trai...
Buổi chiều Tsanka đi xe buýt đến Shali. Vừa
bước ra khỏi xe, Tsanka đã sững người vì kinh ngạc: khắp nơi chỉ là một sự hỗn
loạn. Bụi bặm, rác rưởi, bẩn thỉu, hôi thối. Ngay giữa trung tâm thành phố, mấy
con lợn nái cùng với đàn lợn con chạy tứ tung. Nơi trước kia là nhà hàng và nhà
ăn tập thể thì nay là nơi tụ tập của đám nghiện ngập say xỉn. Họ uống vodka, rượu
vang và bia ngay ngoài đường, ngồi ngay trên mặt đất hay đứng bên các bậu cửa sổ.
Một vài nơi có những người đàn ông nằm quay lơ trên mặt đất. Trong nhà ăn, tiếng
chửi rủa, tiếng la hét vang lên ầm ĩ, hình như có một vụ ẩu đả. Từ phía sân vận
động vọng lại một bài dân ca Nga. Trên quảng trường Lenin, trên các băng ghế
đá, các cô gái má đỏ mọng ngồi cắn hạt hướng dương, làm vẻ mặt đứng đắn, thỉnh
thoảng sau một vài lời đối đáp ngô nghê, cả đám lại cười rú lên một cách giả tạo.
Đám thanh niên choai choai, chủ yếu là người Dagestan và Armenia táo tợn lượn
qua lượn lại quanh những chiếc ghế đá đó. Trên nóc tòa nhà huyện ủy có giăng
câu khẩu hiệu “Vững bước tiến lên trên con đường đã chọn!”, còn sang bên trái một
chút, trên nóc tòa nhà ủy ban là câu khẩu hiệu “Con đường của chúng ta là chủ
nghĩa cộng sản!”. Trong nhà Văn hóa, dàn nhạc hơi chơi điệu hành khúc chiến thắng.
Đang giữa mùa xuân. Tiết trời nóng nực, lặng gió, khung cảnh vô ưu và lễ hội.
Sau khi đã nhìn ngắm chán chê niềm hân hoan
của dân chúng, Tsanka vội đi lên hướng núi, về phía ngôi làng thân yêu. Đi
ngang qua ngôi nhà mà ngày xưa mình đã ở khi làm chủ tịch ủy ban, Tsanka dừng lại,
tò mò nhìn vào sân. Ngôi nhà đã trở nên xập xệ, cửa kính nhiều chỗ bị vỡ, cửa
ra vào chỉ còn treo lủng lẳng trên một bản lề. Trong sân đầy rác, đủ thứ đồ cũ
nằm lăn lóc. Rặng cây ăn quả Tsanka tự tay trồng thuở nào giờ chết khô, có thể
là do lũ súc vật, chắc là dê đã gặm hết vỏ cây. Quanh nhà, lũ trẻ con dân tộc
Avar cởi trần la hét inh ỏi. Từ sân nhà bên cạnh vang lên tiếng nhạc vui vẻ, tiếng
người ồn ào: bên đó đang có một đám cưới dân dã của người Armenia.
Mãi đến chiều tối Tsanka mới ra khỏi Shali
đi về hướng sông Bass, dừng lại bên gốc cây trăn, nơi trước đây anh và Kesyrt
đã nghỉ đêm lại. Cây cổ thụ tán lá xum xuê giờ đã già cỗi, nghiêng sang một
bên, thân cây đôi chỗ mục thối, một số cành nhánh đã khô héo. “Có lẽ mình cũng
như nó” - với một nỗi buồn xốn xang, Tsanka nhìn lên tán cây, thầm nghĩ. Xung
quanh vương vãi đầy mảnh thủy tinh, vỏ đồ hộp, vỏ chai. Tsanka cố tìm một chỗ sạch
sẽ, mệt mỏi ngồi xuống, trái tim đau nhói, lồng ngực như bị bóp nghẹt, tâm hồn
tê buốt. Một nỗi buồn đau không sao chịu đựng nổi đè nặng tâm trí. Cuộc sống
bên những người thân nơi miền quê yêu dấu đã vĩnh viễn lùi vào dĩ vãng và không
bao giờ quay trở lại, cũng như giấc mơ rực rỡ ánh hào quang đã tan biến trong
buổi hoàng hôn ảm đạm của chủ nghĩa Bolsevich...
Khi trời tối hẳn Tsanka xuống sông tắm rửa,
thay bộ quần áo dân sự. Anh cầu nguyện rất lâu, cầu xin Thượng đế cho dân tộc của
mình được trở về quê hương, về miền đất phì nhiêu này.
Mãi đến nửa đêm Tsanka mới lần đến được
ngôi nhà hẻo lánh của người gác rừng. Ngôi nhà ảm đạm, ọp ẹp bị bỏ hoang. Tất cả
khung cảnh đó rất phù hợp với tâm trạng và tình cảm của kẻ lãng du. Nửa đêm còn
lại và cả ngày hôm sau Tsanka nghỉ tại đây, nằm trên tấm phản đóng một lớp bụi
dày, xung quanh mạng nhện giăng nhằng nhịt... Con tim buốt nhói, hai chân mỏi
nhừ, cả người đau ê ẩm.
Đến chiều, khi tim đã bớt đau và cảm thấy dễ
thở hơn, Tsanka lại đi tiếp - qua rừng, qua núi, qua đèo, qua khe. Gần sáng thì
tới Duts-Khote. Tsanka đi vòng sang hướng bắc, men theo khe núi dọc sông
Vashandaroi, vòng qua làng đến nguồn nước quê hương. Anh vục nước lên lòng bàn
tay, thích thú vui đùa với dòng nước như đứa trẻ, uống không biết chán dòng nước
ngọt ngào. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm Tsanka mới có được cảm giác nhẹ nhõm
trong lồng ngực.
Sau khi đã vui chơi với nguồn nước, Tsanka
vội vã đi lên cao, về hướng thượng nguồn. Bây giờ Tsanka phân vân giữa hai lựa
chọn: đi lên nghĩa trang rồi về nhà, lấy vàng, hay ngược lại.
Cuối cùng anh quyết định phải lên nghĩa
trang viếng mộ người thân trước.
Tsanka đi rất lâu dọc theo nguồn nước. Nước
trong nguồn chảy róc rách, vui vẻ, thích thú vì được gặp lại người thân. Tâm trạng
của Tsanka cũng trở nên khá hơn, máu chảy rần rật trong cơ thể và hai bên thái
dương. Lát sau Tsanka đã ra đến con đường mòn dẫn lên nghĩa trang bị cỏ mọc che
lấp. Anh phải vất vả lội trong dám cỏ dại leo lên theo triền dốc, bị vấp ngã mấy
lần nhưng nôn nóng đứng dậy bước tiếp.
Đêm không trăng, không sao, ấm áp. Một làn
hơi mát lạnh từ đỉnh núi phả xuống.
Từ phía thung lũng đầm lầy Vashandaroi bên
dưới vọng lại tiếng ếch kêu ộp oạp. Từ sườn dốc bên kia, tít trong rừng vọng lại
tiếng rúc hốt hoảng của con cú mèo. Trên đầu, thỉnh thoảng lũ dơi chao qua chao
lại.
Từ phía thung lũng đầm lầy Vashandaroi bên
dưới vọng lại tiếng ếch kêu ộp oạp. Từ sườn dốc bên kia, tít trong rừng vọng lại
tiếng rúc hốt hoảng của con cú mèo. Trên đầu, thỉnh thoảng lũ dơi chao qua chao
lại. Đi được nửa đường, Tsanka dừng lại thở dốc vì mệt. Anh nhìn quanh, bốn
phía tối om, tít phía xa hiện lên hình bóng đen đen của những ngôi nhà trong
làng Duts-Khote, những ngôi nhà bị bỏ hoang không có sự sống, thậm chí còn mang
điềm dữ nữa. “Không biết có ai sống ở đó không nhỉ?” - Tsanka vừa nghĩ vừa bước
tiếp.
Đến nghĩa trang, Tsanka rất ngạc nhiên:
không thấy hàng rào, cũng chẳng còn cổng, chỉ còn lại những cọc rào đổ xiêu vẹo.
Trái tim như chết lặng, Tsanka bước vào khuôn viên nghĩa trang và bắt đầu đọc bản
kinh cầu hồn cho người chết. Sau đó anh chậm rãi bước lên. Thật khủng khiếp!
Xung quanh cỏ dại và bụi cây mọc kín, hầu như không còn thấy các tấm bia đâu nữa.
Thay vì các bia mộ bằng đá giờ đây chỉ thấy những cái hố sâu hoắm. Trong nỗi sợ
kinh hoàng, Tsanka bật lùi lại, muốn kêu lên và bỏ chạy, nhưng không thể, anh
quá sợ. Đúng là một cơn ác mộng. Đột nhiên Tsanka vấp phải cái gì đó, ngã xuống,
run rẩy, nặng nhọc đứng dậy rồi cắm đầu lao xuống nguồn nước. Tsanka vục đầu rất
lâu xuống làn nước mát lạnh, không thể hiểu nổi điều gì cả, phải khó khăn lắm mới
trấn tĩnh lại được.
Đằng đông, đường chân trời đã bắt đầu hừng
lên, những ngôi sao bợt bạt không còn vẻ huyền bí nữa. Đâu đó, một con gà trống
cô đơn cất tiếng gáy. Tsanka tỉnh lại, ngẫm nghĩ một hồi rồi vội chạy về phía
nhà mình ở khu trại. Ngôi nhà hoang vắng, dãy hàng rào mục nát, xiêu vẹo, mái
nhà không còn. Tường nhà bằng đất nhồi rơm sụn xuống, một nửa đã bị đổ nát vì
mưa, tuyết, hay gió. Tsanka chạy ra chỗ chuồng gà, chuồng gà không còn, chỉ còn
lại cây dương vẫn đứng nguyên chỗ cũ, cao vút, trơ trọi vì thời gian, còn bên cạnh,
nơi trước kia là chuồng gà bây giờ là một cái hố to tướng, dây leo, cây mâm xôi
và ngưu bàng phủ kín.
- Không thể như thế được!... Không! -
Tsanka điên cuồng thét lên.
Tsanka chạy quanh, tìm một thứ gì đó có thể
đào bới. Anh chộp vội cái cọc bằng gỗ keo đã mục bên hàng rào, bắt đầu đào đất
trong hố, hất lên. Khi thanh gỗ bị gãy, Tsanka lấy con dao nhíp ra đào tiếp, mỗi
lúc một sâu xuống, mấy ngón tay tóe máu, đất đá găm vào dưới móng tay buốt
nhói. Tsanka đổ mồ hôi, mệt lử, thở hổn hển nhưng vẫn cắm cổ đào. Sau đó anh
leo lên miệng hố, lùi ra một đoạn, bắt đầu nhìn ngắm, xác định hướng nam, hướng
tây, ước lượng khoảng hai mươi xagien tính từ gốc cây dương.
- Thật kinh khủng! - Tsanka ôm đầu giận dữ
hét lên. - Đồ chó đểu, đồ khốn nạn, đồ ăn trộm!
Tsanka lại leo xuống hố, ngồi xổm, trong
cơn tức giận và tuyệt vọng điên cuồng, anh dùng tay và dao vội vàng đào tiếp xuống
lớp đất sét vàng bệch, ẩm ướt. Tsanka hiểu ra, mọi việc đều vô ích, có ai đó đã
đào bới chỗ này trước anh, nhưng anh vẫn không thể dừng lại, cơn phẫn nộ đã chế
ngự cơ thể, nỗi căm giận đã che mờ lý trí.
- Salam
alleikum, chàng trai Nohcho, - đột nhiên một giọng già nua, thô kệch vang
lên.
Tsanka cứng đờ người như bị tê liệt, chỉ có
cặp mắt hoảng sợ hướng dần lên - một bóng đen cao gầy, đơn độc như mang điềm dữ
treo ngay trên đầu. Trời đã hửng sáng, những tia nắng mặt trời đầu tiên đã hắt
xuống thế gian. Tsanka nắm chặt con dao trong tay, từ từ ngẩng đầu lên: ngay
trên đầu anh là một ông già, bộ râu quai nón bạc phơ, khuôn mặt tròn, tầm vóc vừa
phải, vẻ ngoài còn săn chắc, khỏe mạnh, vịn lên cây gậy chống.
- Vo-alleikum
salam, - Tsanka bối rối đáp lại.
- Cậu đào bới cái gì ở đây thế? - Ông lão hỏi.
Tsanka đứng thẳng lên, quay người về phía
ông già, nhìn thẳng vào mắt ông vẻ khó chịu và không mấy thân thiện, cộc cằn
đáp:
- Tôi đang ở trên đất nhà mình, đào bới gì
cũng được, còn ông làm gì ở đây?
- Ôi, chàng trai Nohcho, chàng trai Nohcho
ơi, - ông lão vuốt vuốt bộ râu quai nón vẻ không hài lòng, chua chát nói: - người
ta đã đánh các anh, tiêu diệt các anh không biết bao nhiêu lần, cuối cùng trục
xuất các anh đi, vậy mà cái thói kiêu ngạo, bướng bỉnh của các anh vẫn không biến
mất. Các anh vốn như thế nào thì bây giờ vẫn vậy...
- Thôi ông đừng lên giọng đạo đức nữa! -
Tsanka cắt ngang, - Ông đang làm gì trên đất của tôi? - Một nỗi căm giận như
đang sôi lên trong lòng Tsanka, và không chỉ vì ông già nhiễu sự mà là vì sự thất
bại đang bám theo anh.
- Tôi sống ở đây, trong làng Duts-Khote.
- Chúng tôi là những người Chechnya, đã,
đang và sẽ còn tiếp tục sống mãi ở đây, còn ông chỉ sống tạm thôi.
- Về việc đó thì anh đúng, chàng trai ạ, -
ông già cười khẩy.
Tsanka leo lên miệng hố và nhận ra cả người
mình lấm lem bùn đất, tức giận văng tục. Tsanka không biết làm gì nữa. Người ta
đã ăn cướp của anh, khoắng sạch sành sanh, biến anh thành một kẻ bần cùng.
Tsanka muốn hét to lên, khóc rống lên, nhảy chồm lên vì căm giận, đã thế lại
thêm cái ông già này xuất hiện. Nếu ông ấy còn trẻ, chắc anh đã lao vào, đấm
vào mặt ông ta cho hả giận hay là bị ông ta đấm, giờ đây thì đằng nào cũng vậy
thôi. Nhưng như thế này...
- Ông là người Avar à? - Tsanka hỏi ông lão
bằng một giọng khinh bỉ.
- Không, tôi là người Andya.
- Từ Botlikh đến?
- Phải.
- Thế ông đến đây làm gì?
- Con cái chúng tôi bị đưa đến đây, cả tôi
nữa, cũng không được để yên... Vùng đất của các anh trù phú lắm, chẳng như chỗ
chúng tôi toàn đá và gió, chính vì thế mà chúng tôi quyết định ở lại đây lập
nghiệp.
- Các ông ở lại chỉ vô ích thôi, sớm hay muộn
chúng tôi sẽ trở về.
- Tôi biết, và tôi không bao giờ nghi ngờ
điều đó. Các anh đúng là những kẻ ngu ngốc và ngang ngạnh, không gì có thể ngăn
cản được các anh. - Ông già há to miệng cười thoải mái. - Chỉ có điều bọn trẻ
không hiểu được điều đó. Thế còn chỗ này là cái gì. Kho báu của anh à? - Ông
lão hỏi bằng một giọng nghiêm túc.
Tsanka im lặng, không nói gì cả, làm như
đang ngó nghiêng đâu đó.
- Người ta bảo, kho báu ở đây giàu lắm, có
đến mười, hai mươi cân vàng, - ông già tiếp tục. - Nếu đây là đất của anh, có
nghĩa là kho báu của anh... Hay thật, làm sao mà anh kiếm được nhiều vàng thế?
- Thôi đừng vặn vẹo nữa, ông già ạ, tôi
đang điên lên đây, - Tsanka hậm hực nói.
- Phải, tôi hiểu anh... Anh biết không, ở
đây đã xảy ra một vụ rắc rối đấy! Sau khi các anh bị đưa đi, suốt một tháng liền
công an và quân đội lùng sục ở đây. Họ chở đi không biết bao nhiêu là của cải.
Trước kia bao giờ các anh cũng sống sung túc hơn các dân tộc khác do biết cách
làm ăn, đất đai lại phì nhiêu. Vậy là họ đã tháo dỡ, vơ vét, chở đi hàng xe tải,
rồi sau đó xuất hiện những người khác, tôi không biết họ làm gì... nhưng mang
theo cả dụng cụ, máy móc... Họ lùng sục khắp nơi, không bỏ sót một chỗ nào, thậm
chí cả trên cánh đồng mênh mông trơ trọi. Vậy là họ đã tìm ra cái kho báu này.
Thoạt đầu chỉ có ba người, đều là quân nhân. Họ đào cái hố ngay tại đây, nhưng
họ không thể chia nhau số tài sản đào được, thế là bắn nhau. Hai người chết
ngay, rơi xuống hố này, còn người thứ ba thì bị thương. Sau đó các sĩ quan và
binh lính chạy tới, khuân kho báu về trụ sở Xô viết thôn, bộ chỉ huy của họ
đóng ở đấy mà. Ngày hôm sau, công an đến xem xét kho báu, chắc có người thông
báo hoặc bằng cách nào đó, tôi không biết rõ. Và thế là một vụ đụng độ nổ ra!
Thật khủng khiếp! Chính tôi đã tận mắt chứng kiến... Thật ra tôi không nhìn thấy,
chỉ nghe nói thôi... Tất cả chúng tôi phải trốn biệt, tìm chỗ mà trốn. Ở đây đã
diễn ra một cuộc bắn nhau đẫm máu thực sự: súng tiểu liên, lựu đạn nổ vang trời.
Bên quân đội giết hết công an, người ta đồn, ngay trong đêm ấy sáu người trong
số họ mang hết vàng chạy vào trong núi. Hai người bị bắn chết ngay trên đèo,
còn bốn người kia cũng bị bắn chết trong cuộc đọ súng ở gần Ytum-Kale. Rồi thế
nào, anh có biết không? Cuối cùng toàn bộ số vàng ấy cũng biến mất, chẳng ai
tìm ra. Có lẽ những người bỏ trốn đã chôn chúng ở đâu đó. Sau này, người ta lại
tổ chức tìm kiếm nữa, cả một đội quân lớn lùng sục khắp núi non, bờ bụi, nhưng
cũng chẳng thấy gì. Sau đó, cái đám gàn dở ngu ngốc của chúng tôi cũng phát rồ
lên vì số vàng ấy, bỏ hết công việc vào rừng tìm vàng, cũng muốn trở nên giàu
có trong chớp mắt, nhưng chuyện ấy không bao giờ có.
Ông lão đưa nắm tay lên chùi cặp mắt đẫm nước
rồi nói tiếp:
- Tên anh là gì, chàng trai?
- Tsanka, Arachaev Tsanka.
- Anh có họ hàng gì với ông Baki-Haji
không?
- Tôi là cháu ruột.
- Ông bác của anh là một người tốt, cầu
Chúa phù hộ cho ông ấy!... Còn về chuyện kho vàng, chúng độc địa lắm. Bao nhiêu
người đã chết vì chúng!
- Thế là còn ít đấy, - Tsanka cay độc nói.
- Anh nói gì vậy? - Ông già không nghe rõ.
- Tôi bảo, chết thế là còn ít, tốt hơn tất
cả bọn họ bắn lẫn nhau, chết hết luôn.
- Ê, ê, không nên nói vậy, con trai ạ... Rõ
ràng là có một lời nguyền nào đó đã ám vào số vàng ấy... Này, anh nghe đây,
Tsanka, liệu có phải số vàng ấy là của ông Tsakhy không, người ta đồn ông ấy có
con dê vàng mà?
- Không phải đâu, - Tsanka lạnh lùng đáp, rồi
sau một lát ngẫm nghĩ, anh nói thêm: - Cái lời nguyền về số vàng ấy không chỉ lấy
đi sinh mạng của một ngàn người đâu. Và cái vụ bắn nhau giữa quân đội và công
an không đơn giản như vậy. Ha, ha, ha! - Đột nhiên Tsanka bật cười to. - Thế
nào, ông Bushman, ông giỏi lắm, thật đáng đời. Lẽ ra tôi cũng phải như thế, như
tất cả mọi người. Ha, ha, ha!
- Anh nói gì thế?
- Ông lão ngạc nhiên.
- À, vậy thôi, ông không hiểu đâu.
- Làm sao mà những người già như chúng tôi
hiểu được các anh, các anh còn trẻ, thông minh... - Ông già tự ái nói. - Này,
anh biết không, lát nữa mọi người sẽ tới trang trại, họ sẽ nhìn thấy anh, tốt
hơn là anh nên tránh đi. Người ta không thích các anh đâu.
- Thế ở đây vẫn còn người Chechnya à? -
Tsanka ngạc nhiên hỏi lại.
- Cũng có. Hiện giờ ở đây có một băng nhóm
người miền núi đang hoạt động, họ không để cho các cấp lãnh đạo được yên. Họ giết
chóc, cướp bóc, trả thù tất cả... Một số cuộc vây ráp đã diễn ra, một vài người
bị bắt, bị giết, nhưng họ vẫn tồn tại.
- Thôi được rồi, tôi đi xuống nguồn nước tắm
rửa.
- Nào, chúng ta cùng đi, tôi rất thích nguồn
nước ấy, có cái gì đó bí hiểm, ma thuật... Nước rất ngon, uống mãi không
chán... Anh biết không, Tsanka, tôi bị sỏi trong thận và nhiều chỗ khác nữa. Chạy
chữa đủ thầy, chẳng kết quả gì cả, cứ hết rồi lại có, vậy mà từ khi chúng tôi đến
đây, uống nước từ nguồn nước này, mọi thứ bệnh tật đều biến mất. Nhẹ cả người.
Hụ, hụ, - ông lão ho xong lại nói tiếp: - Có một điều rất đáng buồn, lũ cá hồi
trong suối biến mất, ba năm nay không thấy chúng xuất hiện.
- Biến mất là thế nào? - Tsanka ngạc nhiên.
- Tôi không biết... Có lẽ là do các trang
trại. Đằng kia là trại lợn, - ông lão lấy cây gậy chỉ về phía chân núi, - từ chỗ
ấy mọi thứ phân rác bẩn thỉu chảy xuống dưới, cái lũ súc vật ấy làm bẩn tất cả
mọi thứ. Rất may là bây giờ gió thổi từ trong núi ra, còn khi gió từ đồng bằng
thổi lên, bay mùi hôi thối không thở nổi.
Hai người im lặng đi trong vài phút. Buổi
sáng mặt trời chiếu sáng rực rỡ, không khí trong lành. Những giọt sương đọng lại
từ đêm lấp lóa ánh mặt trời. Xung quanh chim họa mi hót ríu ran, chim én chao
lượn trên trời cao, xa xa trên đỉnh núi một con đại bàng đơn độc kiêu hãnh bay
liệng.
- Vùng đất của chúng tôi rất đẹp! - Tsanka
thốt lên.
- Đúng vậy, - ông lão tán thành. - Còn ở đấy
các anh sống ra sao? Mà anh sống ở đâu?
- Nơi đó là hoang mạc, - Tsanka buồn rầu
đáp. - Bây giờ cũng tạm ổn, thời gian đầu khổ lắm. Cả nửa làng chết vì đói rét
và bệnh tật... Này, ông, - đột nhiên Tsanka hỏi: - Những tấm bia mộ đâu mất cả?
- Ôi, con trai ơi! Đừng hỏi nữa! Những gì xảy
ra ở đây đúng là một cơn ác mộng, một sự nhạo báng thánh thần! Anh không thể tưởng
tượng nổi đâu. Những kẻ vô thần Bolsevich ấy dỡ tất cả bia mộ lên để lót đường
đến trại chăn nuôi lợn.
- Không thể như thế được! - Tsanka hét lên.
- Có thể, có thể lắm, Tsanka ạ. Nếu như họ
có thể trục xuất cả một dân tộc còn sống ra khỏi quê hương thì đào bới mấy nấm
mộ có nghĩa lý gì. Họ không chỉ đào bia mộ, mà còn có thể đào cả tâm hồn chúng
ta lên nữa đấy. Rồi anh sẽ thấy, con cháu của chúng ta sẽ chẳng còn biết cầu
nguyện, không còn tin vào Thượng đế, không tôn trọng người lớn nữa, chúng uống
rượu, hút thuốc công khai, chỉ thiếu điều phun khói vào mặt nữa thôi. Ôi, thật
là sa đọa! Không thể kể hết được, phải tận mắt chứng kiến cơ. Thay vì Thượng đế,
lũ trẻ ấy tin vào Lenin, Stalin, vào chủ nghĩa gì đó, vào tương lai xán lạn. Thật
bất hạnh, bất hạnh cho dân tộc, làm sao có thể xây dựng được điều gì tốt đẹp?!
Tất cả các nông trang, các Xô viết đầy rẫy chuyện gian lận, trộm cắp, dối trá,
vu khống, lừa đảo! Còn những gì xưa cũ đã được bồi đắp hàng thế kỷ hóa ra là tà
đạo, còn chúng tôi, những người già chỉ là một lũ lạc hậu, cổ hủ. Ngay cả việc
cầu nguyện trong ngôi nhà của mình cũng sợ. Thật là tai họa! Ồ, chúng ta đi đâu
thế này?
Mải nói chuyện họ đã đến nguồn nước lúc nào
không hay, đúng cái nơi trước kia từng là cối xay nước của bà Haza. Hai người
bước xuống nước. Tsanka nhớ lại tất cả: tuổi thơ hạnh phúc và vô tư lự, tuổi trẻ
và mối tình đầu với Kesyrt, những cuộc hẹn hò ban đêm... Trái tim đau nhói...
Tsanka cởi giày ra, lội xuống nước, bụm tay lại vục nước lên, khoan khoái uống
rồi rửa ráy mặt mũi chân tay, gột những vệt bùn đất bám trên quần áo.
Sau đó cả hai ngồi bên bờ nguồn nước, bỏ
thõng chân xuống, ngắm nhìn dòng nước chảy cuồn cuộn. Khắp nơi chim hót líu lo,
côn trùng kêu rả rích. Cây cối giữa mùa xuân đang độ sung sức, sắc màu rực rỡ.
Mùi hoa keo và hoa dẻ ngào ngạt, hoa mộc qua bung ra thành chùm to, trắng nõn,
hoa sơn trà tỏa hương nồng nàn. Những nhánh cây mâm xôi vươn lòa xòa trên mặt
nước, đùa nghịch với dòng nước chảy xiết.
- Ở đây tuyệt thật, - Tsanka khẽ thốt lên.
- Phải, quê hương của các bạn đẹp như cổ
tích, - ông lão gật đầu tán thưởng.
- Này, ông hãy nói thật cho tôi biết, dân tộc
của ông có thích thú khi dân tộc chúng tôi bị trục xuất không?
- Biết nói với anh thế nào nhỉ... Có thể là
thích thật. Bởi lẽ chúng tôi được đưa đến một vùng đất đã được khai phá, có sẵn
nhà cửa, chuồng, trại, đất đai phì nhiêu! Còn mong muốn gì nữa? Nhưng tất cả chỉ
là một sự lừa phỉnh. Những giọt nước mắt và những lời nguyền của cha mẹ các anh
không thể dễ dàng bỏ qua. Mà sớm hay muộn các anh cũng sẽ trở về.
- Cầu mong Thượng đế cứu giúp! - Tsanka thở
dài, im lặng giây lát, rồi hỏi tiếp: - Nhưng ông hãy nói thật, nếu ở đây mà
không có chúng tôi, mọi việc có trở nên tốt đẹp hơn không?
- He, he, he, - ông lão cười khẩy. - Anh
quá biết rồi con gì, con trai ạ, không ai có thể hình dung nổi vùng đất Kavkaz
này mà lại không có dân tộc các anh. Những người Chechnya các anh giống như lũ
sói, là các vệ sinh viên của núi rừng. Sống với các anh quả là khó khăn, vất vả,
nhưng không có các anh lại càng tồi tệ.
Những lời nói của ông lão làm Tsanka bật cười
thoải mái rất lâu.
- Mà ông nói tiếng Chechnya cũng giỏi đấy.
- Phải, chúng tôi là những người Andya cổ
xưa, tất cả đều biết tiếng Chechnya... Chúng tôi và những người Darg, người
Kumyk và nhiều dân tộc khác nữa đều biết tiếng Chechnya, nó là ngôn ngữ giao tiếp
chung cho nhiều dân tộc. Còn các anh, những người Chechnya, thì chẳng biết tiếng
của chúng tôi mà chỉ biết tiếng Nga thôi. Anh có biết tại sao lại như vậy
không?
- Tại sao ạ? - Tsanka hỏi lại.
- Tại vì ở đây, người Chechnya chiếm ưu thế
hơn, nên các dân tộc khác phải nghe theo, phải học tiếng Chechnya, còn các anh
lại coi thường chúng tôi, các anh chỉ coi trọng quyền lực, nên các anh phải học
tiếng Nga. Anh thấy đấy, tất cả những người Dagestan nói tiếng Nga đều ngọng,
còn các anh nói lưu loát hơn. Nhưng chính người Nga thì chẳng bao giờ đi học
ngôn ngữ của các nước lệ thuộc mà mình đã chinh phục. Thay vào đó họ đổ xô đi học
tiếng Anh, tiếng Đức. Nói ngắn gọn, dân tộc nào mạnh hơn thì ngôn ngữ của họ được
nhiều người học và đó là ngôn ngữ sống. Còn khi ngôn ngữ chết thì dân tộc cũng
không còn.
- Như vậy thì theo ông, cuối cùng tất cả
chúng ta đều sẽ nói bằng tiếng Nga? - Tsanka lo lắng hỏi.
- Phải... rất có thể lắm. Mặc dù đối với
tôi, đó là một điều rất đáng buồn, nhưng không tránh khỏi. Rồi cậu sẽ thấy, con
cháu của tôi sẽ nói tiếng Nga tốt hơn tiếng dân tộc mình... Tôi nghĩ, chẳng bao
lâu nữa, trên toàn thế giới sẽ chỉ còn lại ba, bốn ngôn ngữ, điều đó phụ thuộc
vào tiềm lực của mỗi dân tộc. Còn sau đó, sẽ chỉ còn lại một ngôn ngữ duy nhất
như nó đã từng tồn tại ở ngọn nguồn của loài người. Anh thấy đấy, Adam và Eva
ngày xưa chỉ nói bằng một ngôn ngữ, nhưng sau đó, cùng với sự phát triển của
dân số, các ngôn ngữ khác bắt đầu xuất hiện.
- Tại sao chúng lại xuất hiện? Tại sao loài
người lại phải nói bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau?
- Tôi nghĩ, tất cả đều bắt nguồn từ sự dối
trá. Con người bắt đầu nói những điều không đúng sự thật, tiếng nói bị chia
tách ra, và cứ thế tách ra mãi, biến đổi, nhân rộng. Ngôn ngữ càng dùng để nói
dối, thì lại càng được sử dụng nhiều hơn, có nghĩa là họ lại càng chiếm được
nhiều đất đai hơn.
- Như vậy theo ông, tức là người Andya thật
thà hơn người Chechnya, còn người Chechnya thật thà hơn người Nga?
- Đúng vậy, dân tộc càng nhỏ thì ngôn ngữ
càng trong sáng, ở đấy, mọi cái nhìn, suy nghĩ, hành động của họ đều hồn nhiên
và tự nhiên hơn. Có thể nói, dân tộc đó ngu dốt và ít học, nhưng thực tế, dân tộc
đó thật thà, trong sáng như pha lê, họ tin vào tiếng nói và những gì mình nói.
- Nếu vậy tại sao các dân tộc ít người ngày
càng biến dần khỏi mặt đất, chết dần chết mòn? Tại sao Thượng đế lại không giữ
họ lại trên trái đất này?
- Trái đất này đầy tội lỗi, và rất có thể
trong các thế giới khác, Thượng đế cũng mang đi cả những người tốt và những người
xấu.
- Hóa ra là dân tộc càng hùng mạnh, càng có
nhiều đất đai và của cải thì dân tộc đó lại càng giả dối.
- Phải, tất cả mọi của cải, đất đai, thuộc
địa đều có được nhờ vũ lực, lừa dối và lòng tham.
- Nhưng tôi không muốn tiếng nói của chúng
tôi, dân tộc chúng tôi biến mất khỏi mặt đất, - Tsanka xúc động thốt lên.
- Tôi cũng không muốn, - ông lão đáp, -
nhưng đó là điều không tránh khỏi. Nhưng dân tộc không biến mất đâu, nó chỉ bị
đồng hóa thành một hình thái mới.
- Không bao giờ có điều đó! - Tsanka hét
lên.
- Cầu xin Thượng đế cứu giúp! Tôi chỉ biết
một điều, lúc còn trẻ, người ta nói với tôi sẽ có những con chim sắt biết bay,
tôi không tin, con người có thể nói chuyện với nhau cách xa hàng trăm cây số,
tôi cũng không tin, con người có thể nhìn thấy mọi thứ đằng sau dãy núi, tôi
cũng không tin. Vậy mà giờ đây, tất cả đã thành hiện thực.
- Đó chẳng qua chỉ là sự tiến bộ của khoa học
kĩ thuật.
- Đúng thế, và nó sẽ làm biến đổi nhận thức,
nếp sống, văn hóa, và trước hết là tiếng nói.
- Tôi không tin, - Tsanka lại bướng bỉnh
cãi. - Thôi được rồi, cứ cho là như vậy đi... mặc dù đó là điều không thể xảy
ra. Thế còn tôn giáo thì sao?
- Với tôn giáo cũng như vậy. Anh thấy đấy,
hiện giờ có bao nhiêu tôn giáo? Chỉ tính riêng đạo Hồi thôi, đã có nhiêu trào
lưu, chỉ trong một làng đã có bao nhiêu giáo phái. Tại sao lại như vậy? Tại vì
con người đã tùy tiện làm sai lệch theo ý mình những lời răn của Thượng đế.
- Không phải con người mà là các linh mục,
các cha đạo, tóm lại là giới tăng lữ.
- Không phải tất cả, chỉ một số thôi, - ông
lão giơ ngón tay lên với nhiều hàm ý. - Nhưng con người rất tỉnh táo, họ phủ nhận
các giáo phái lừa dối đó.
- Thế còn đa thần giáo?
- Anh biết không, Tsanka, loài người cần phải
trải qua tất cả các hình thức tồn tại trên mặt đất này để đi tới chân lý. Sự tiến
bộ của khoa học kĩ thuật đưa con người đến gần Thượng đế, đặt con người lên con
đường đúng đắn thật sự. Nhưng trong sự tiến hóa của mình con người không bao giờ
có thể tiếp cận được với Thượng đế, có một giới hạn mà nếu vượt qua loài người
sẽ bị diệt vong.
- Còn sau đó?
- Lại Adam và Eva... có lẽ thế.
- Thế còn chủ nghĩa cộng sản?
- Đấy cũng là một giai đoạn phát triển.
Loài người cần phải đi từ thời kỳ đa thần giáo cho đến vô thần để đến với chân
lý, đến với niềm tin vào một vị thần. Không nên cho rằng, có một tôn giáo nào đấy,
một người riêng biệt được chọn lọc nào đấy gần với Thượng đế hơn. Có lẽ anh nói
đúng, các cơ sở đào tạo xã hội như nhà thờ Thiên Chúa giáo, giáo đường đạo Hồi,
giáo đường Do Thái và các tôn giáo khác không phải lúc nào cũng đi đúng hướng đến
chân lý. Trong niềm tin vào Đấng tối cao duy nhất, không thể có sự cạnh tranh,
hay ganh đua. Niềm tin không thể nằm trên đầu môi chót lưỡi, lại càng không thể
qua bộ quần áo, mà nằm ngay trong chính trái tim.
- Thế chủ nghĩa cộng sản có biến mất không?
- Có, trong nỗi đau của nhân loại, - ông
lão bình thản đáp.
- Vậy là, nếu chỉ có một ngôn ngữ thì cũng
chỉ có một tôn giáo? - Tsanka vẫn không chịu.
- Đúng thế, con trai ạ, một Thượng đế, một
tôn giáo, một ngôn ngữ mà chúng tac ó thể giao tiếp với Thượng đế... Khi đó,
trên thế giới này sẽ chỉ còn sự đồng thuận, hòa bình và một thiên đường trên
trái đất.
- Không đúng. - Tsanka bật dậy trong cơn
hưng phấn, - Chính ông cũng thấy, thế giới đa dạng và phức tạp đến thế nào! Thượng
đế đã tạo ra nó như vậy! Và nó rất tuyệt!
- Nhưng anh hãy nhìn quanh mà xem, mọi người
xâu xé lẫn nhau, kẻ mạnh đè nén người yếu, một cuộc đấu tranh khủng khiếp đang
diễn ra.
- Phải, đấu tranh để phát triển.
- Đúng, trong đấu tranh, loài người trải
qua mọi thời kỳ phát triển để đi đến một sự thống nhất trong tất cả mọi việc.
- Khi đó sẽ không còn đấu tranh và chiến
tranh nữa?
- Đúng thế. Để làm gì nữa vì cả thế giới đã
trở nên giàu có. Chỉ cần giảm bớt lòng ham muốn của chúng ta xuống. Chúng ta cần
gì những đồ pha lê, thảm len, ô tô sang trọng nữa?
- He, he, he, - Tsanka cười nhạo. - Không cần
là thế nào? Không đâu, thưa ông, ông sai rồi. Khi dân tộc chúng ta bị kẻ thù
bên ngoài tấn công, chúng ta đoàn kết lại. Nhưng khi sự xâm lược từ bên ngoài
không còn nữa, chúng ta lại đánh lẫn nhau. Có nghĩa là không có đấu tranh, thì
không có sự thống nhất, mà không thống nhất thì không thể đấu tranh.
- Tsanka yêu quý ơi, đó là triết học rồi,
đó là quy luật xã hội...
- Ồ không, ông ơi, đó là quy luật tự nhiên,
- Tsanka ngắt lời ông lão. - Nếu nói thật, trong quan điểm của ông có cái đúng,
nhưng có một điều tôi không thể chấp nhận, đó là dân tộc của chúng tôi, đã từng
tồn tại, đang tồn tại và sẽ tồn tại!
- Cầu xin Thượng đế phù hộ!
- Ông thấy đấy, thế giới này rất đa dạng!
Và nó sẽ mãi mãi như thế. Nếu đến một lúc nào đó, như ông nói, tất cả đều biến
thành một hình mẫu duy nhất thì thế giới sẽ không tồn tại nữa. Chỉ có sự đa dạng
về quan điểm, về cái nhìn, về tư duy mới có thể dẫn đến sự cân bằng tự nhiên,
thiên bẩm. - Tsanka hăng hái nói. - Ông nhìn xem, khi dân tộc chúng tôi vừa bị
xua đuổi đi thì ngay lập tức cá hồi trong suối biến mất, còn sau mười năm nữa sẽ
còn nhiều thứ khác cũng sẽ biến mất, trong đó có cả dân tộc Andya của ông...
- Đúng như thế, mỗi ngày trên trái đất đều
có một cái gì đó biến mất, và chúng ta đi đến một sự hợp nhất trong tất cả mọi
lĩnh vực.
- Nhưng sẽ có cái gì đó mới mẻ được sinh
ra, - Tsanka thốt lên.
- Những cái mới mẻ đó là trong lĩnh vực
khoa học kĩ thuật chứ không phải trong thiên nhiên. Thiên nhiên đang tàn lụi đi
dưới sự thống trị của con người, còn con người chạy đua trong sự kiếm tìm của cải
khổng lồ, và những của cải ấy chỉ có thể kiếm được bằng cách vắt kiệt tài
nguyên thiên nhiên và môi trường sống, và nó không bao giờ có điểm dừng.
- Nói ngắn gọn, - Tsanka phẩy tay, - có thể
thấy rõ ông là người có học và có đọc, nhưng tôi lại có những mối quan tâm
khác, trần thế hơn. Thôi, tôi đi đây.
- Thế anh đi -?
- Vào núi. Tôi cũng cần phải suy nghĩ cho
thật thấu đáo mọi việc. Tôi cũng đã nếm trải nhiều điều bất hạnh. Tôi cần phải
suy nghĩ về những điều thiết thực chứ không phải những chuyện vĩnh cửu. Nhưng
dù sao tôi cũng cám ơn ông. Ông đã giúp tôi tạm quên đi những ý nghĩ u buồn. Vậy
là ông bảo, tất cả chúng ta rồi sẽ chết hết? Dĩ nhiên rồi, trước chúng ta đã có
bao nhiêu người chết. Chỉ mong sao thế hệ trẻ không phải chứng kiến nỗi đau,
còn mọi chuyện khác đều rất hợp lý nhưng cũng chẳng có gì quan trọng.
- Anh nói đúng, phải chứng kiến nỗi đau của
những người trẻ, nhất là sự mất mát con cái, quả là không thể chịu đựng nổi. Có
lẽ anh cũng không xa lạ với điều đó?
- Tôi đã mất tất cả, con lớn, con nhỏ, giờ
chỉ còn lại một mình trong dòng họ. Thật ra, còn một đứa con trai nữa, nhưng
không biết số phận nó ra sao. Nói chung, tôi chẳng tin vào bất cứ điều tốt đẹp
nào.
- Đừng nói vậy, đừng nói vậy, con trai ạ.
Thượng đế chúc phúc cho tất cả những người đã mất, và tất cả chúng ta rồi cũng
sẽ chết, bởi vậy mà người ta bảo, tốt hơn là hãy nhanh chóng rời xa mặt đất đầy
tội lỗi này.
- Ha, ha, ha, - Tsanka bật cười. - Vậy có
nghĩa ông không thuộc tầng lớp được ưu ái nhất?
- Biết làm sao được, - ông lão khẽ mỉm cười
rồi vung tay. - Phải có ai đó gánh chịu nỗi bất hạnh. Mà nói chung, mọi việc
trong cuộc đời này đều chỉ là tương đối thôi. Tôi cũng mệt rồi, anh bạn trẻ ạ,
tôi về đây.
Ông lão thở khò khè đứng dậy, phủi quần áo,
rồi chậm rãi quay người đi về phía làng.
- Này ông, - Tsanka gọi. - Tên ông là gì?
Ông lão người Andya dừng lại, xoay người.
- Ta là Andy-Haji từ Botlikh.
- Vậy ông là Haji? Thảo nào mà ông am hiểu
thế, - Tsanka tiến lại gần ông lão.
- Ta đã thực hiện chuyến hành hương Haji đến
thánh địa còn trước cả ông bác Baki-Haji của anh.
Tsanka bước đến sát ông lão, giơ một ngón
tay lên như để nhắc nhở:
- Xin ông hãy tha lỗi cho tôi, bây giờ có
thể gọi ông là Andy-Haji từ Duts-Khote, - Tsanka lạnh lùng nói. - Nhưng với tất
cả sự kính trọng của mình, tôi vẫn phải nói ra một sự thật không thể lay chuyển:
ông đã vào nhầm nhà rồi. Đây là nhà của chúng tôi, làng của chúng tôi, các ông
cần phải nhớ điều đó... - Ánh mắt Tsanka toát lên sự kiên định. - Và chúng tôi
nhất định sẽ trở về. Nhất định!
Sau khi nghe những lời đó, ông lão thu người
lại, nhũn ra, cả người tựa hẳn lên cây gậy, cúi đầu xuống, không nhìn vào
Tsanka nữa.
- Anh nói đúng, anh bạn Chechnya ạ... - Ông
lão khẽ nói. - Anh biết không, tôi cũng cảm thấy rất đau lòng khi bước vào nhà
người khác, khi biết rõ trên đầu mình treo lơ lửng một lời nguyền và những giọt
nước mắt của chủ nhà. Chẳng qua là tôi không thể bỏ mặc con cháu... Ngay ngày
hôm nay tôi sẽ ra đi... Tại sao đến lúc cuối đời tôi lại phải gánh chịu nỗi đau
này? Hãy tha lỗi cho ta, con trai ạ... Vĩnh biệt.
- Xin ông cũng tha thứ cho tôi... Tạm biệt
ông, ông Andy-Haji từ Botlikh.
Tsanka vội vàng chạy lên trên theo sườn dốc,
về phía ngọn nguồn dòng nước, vòng qua chỗ thác nước đang réo ầm ầm rồi đi vào
núi, chật vật men theo con đường mòn mà ngày xưa anh đã từng đi với ông
Baki-Haji. Những hồi ức cay đắng về một đoạn đời hạnh phúc đã qua lại hiện lên
choán ngợp tâm trí. Tsanka chạy lên cao, vào sâu trong núi, về phía những trảng
cỏ sạch sẽ của dãy Alpes để khỏi phải nhìn thấy, khỏi phải nhớ lại tất cả những
cơn ác mộng này.
Phải khó khăn lắm Tsanka mới leo lên tới
cái mỏm đá có thể ngắm nhìn toàn cảnh. Trái tim như chết lặng đi, các mạch máu
sau gáy và hai bên thái dương đập dồn dập, Tsanka thở hổn hển, mệt mỏi ngồi xuống
thảm cỏ non mơn mởn, nhìn quanh. Thế giới này, miền đất quê hương này đẹp như
tranh vẽ! Những dãy núi! Bức tranh sơn thủy vùng núi trải rộng mênh mông và
muôn màu muôn vẻ thấm đẫm mùi hương của các loại hoa xuân. Chim chóc tíu tít,
líu lo, một làn gió trong lành từ vùng đồng bằng thổi tới, trên đỉnh ngọn núi
Ertan-Lam những đám mây trắng như tuyết đang nhẹ trôi... Nhưng khi chiêm ngưỡng
những cảnh đẹp đó, Phải khó khăn lắm Tsanka mới leo lên tới cái mỏm đá có thể
ngắm nhìn toàn cảnh. Trái tim như chết lặng đi, các mạch máu sau gáy và hai bên
thái dương đập dồn dập, Tsanka thở hổn hển, mệt mỏi ngồi xuống thảm cỏ non mơn
mởn, nhìn quanh. Thế giới này, miền đất quê hương này đẹp như tranh vẽ! Những
dãy núi! Bức tranh sơn thủy vùng núi trải rộng mênh mông và muôn màu muôn vẻ thấm
đẫm mùi hương của các loại hoa xuân. Chim chóc tíu tít, líu lo, một làn gió
trong lành từ vùng đồng bằng thổi tới, trên đỉnh ngọn núi Ertan-Lam những đám
mây trắng như tuyết đang nhẹ trôi... Nhưng khi chiêm ngưỡng những cảnh đẹp đó,
Tsanka vẫn không có được cái cảm giác sung sướng và hạnh phúc vì trong đó không
còn toát lên niềm vui sống và sự yên bình. Tsanka nhìn mãi khu nghĩa trang đã bị
đào bới đến biến dạng, nhìn trại chăn nuôi lợn khổng lồ ở thung lũng
Vashandaroi, con đường ngoằn ngoèo dẫn lên trại được lót bằng những tấm đá bia
mộ, những ngôi nhà nhỏ bé như đồ chơi bị bỏ hoang trong làng Duts-Khote.
Sau đó Tsanka nhìn thấy một chiếc máy kéo
bánh xích thô kệch đang phun khói đen nhẻm và điên cuồng rên rỉ, cày xới trên
cánh đồng quê hương - có thể thấy rõ nó muốn làm đảo lộn tất cả mọi thứ trên mảnh
đất này, và nó đã làm được điều đó. Những cánh đồng đất đen được cày đi xới lại
mỗi lúc một rộng hơn, còn thung lũng núi Vashandaroi với vô vàn loài hoa cỏ rực
rỡ sắc màu càng lúc càng bị thu hẹp lại.
Xung quanh một chiếc máy kéo nằm bất động
có bảy người cắp cặp, bút máy gài trên túi áo, phù hiệu gắn trên ve áo đang xúm
lại. Họ chăm chú xem xét qua những cặp kính dày, nhắc nhở, chỉ dẫn điều này điều
nọ, hướng cho chiếc máy kéo chạy theo tuyến cần thiết để không bỏ sót trên cánh
đồng mùa xuân một cọng cỏ đang ra hoa nào, để lũ ong bướm không còn chỗ để hút
mật hoa thơm ngát.
Tsanka cảm thấy một nỗi tức giận, căm ghét,
thù địch và bất lực đối với những kẻ đã giày xéo, làm hỏng cuộc đời và số phận
của anh. Trong cơn giận dữ, Tsanka nắm chặt hai tay lại, nhổm người lên rồi lấy
hết sức nhổ một bãi nước bọt.
- Các người thật đáng nguyền rủa! - Tsanka
hét lên.
Tiếng vọng của núi đồi dội lại âm âm: “Nguyền
rủa, nguyền rủa”.
Tsanka còn đứng rất lâu, tuyệt vọng nhìn mảnh
đất quê hương rồi chợt nghĩ: “Thế là xong, mình đã trở thành một người Abrek,
mình sẽ trả thù, sẽ không để cho họ được sống yên ổn. Mình sẽ trả thù cho cha mẹ,
con cái, bà con họ hàng và cho mảnh đất này. Mình sẽ đấu tranh cho đến hơi thở
cuối cùng, sẽ không khoan nhượng đối với những kẻ vô thần kia, sẽ không để cho
họ có được một cuộc sống yên bình trên mảnh đất thiên đường của quê hương,
không để cho họ cày xới đất đai của mình nữa”.
Với những ý nghĩ đó, Tsanka đi lên theo con
đường mòn bên vách núi phủ đầy cỏ dại về phía hang động. Anh giơ tay gạt tấm mạng
nhện dính bết vào tay rất khó chịu rồi chui vào cửa hang nhỏ. Phải mất một lúc
lâu Tsanka mới định hướng được trong cái hang tối nhờ nhờ. Cuối cùng anh nhìn
thấy một luồng sáng yếu ớt và tiếp tục tiến về phía trước. Dưới chân dính nhem
nhép, bốc mùi nồng nặc. Tsanka bị trượt chân, mất thăng bằng, chạm tay vào con
vật gì đó rất khó chịu, tay kia đánh rơi chiếc va li xuống nền đá phát ra tiếng
động khô khốc. Trong hang bắt đầu diễn ra một cảnh tượng không thể hình dung nổi:
những tiếng động, tiếng kêu chí chóe lạ lùng, cùng với tiếng đập cánh loạn xạ,
tất cả bỗng quay cuồng, đảo lộn. Vài lần những con thú biết bay đập vào người
Tsanka rất mạnh, anh hoảng sợ ngồi xổm xuống, giơ hai tay ôm đầu.
Lát sau mọi thứ như dịu lại và bắt đầu một
sự im lặng đáng sợ. Khi đó Tsanka mới thận trọng đứng dậy nhìn quanh. Trên khắp
trần hang, những con dơi đáng sợ treo lơ lửng với những tư thế khác nhau rất kỳ
quặc. Tsanka bất giác mỉm cười, thậm chí còn huýt sáo nữa. Có một điều gì đó rất
gần gũi giữa anh và những con vật hoang dã này, giờ đây anh sẽ bắt đầu một cuộc
sống giống như chúng: ban đêm bắn giết, cướp bóc, còn ban ngày thì nghỉ ngơi,
có thể ngay trong cái hang này cũng nên. “Thật ra, mùi hôi thối ở đây quả là
không chịu nổi. Nhưng không sao, mình sẽ quen dần, sẽ đốt lửa lên, dọn dẹp chút
ít, - Tsanka vừa thầm nghĩ vừa quan sát cái vòm trần bám đầy các sinh vật hoang
dã. - Mình không sợ bị lây bệnh dại, mình đã phát điên, đã trở thành một kẻ
không bình thường từ lâu rồi còn gì nữa”.
Tsanka tìm chiếc va li, bàn tay chạm vào một
thứ dịch sền sệt, tởm lợm, bất giác tay kia phải bịt mũi, tiến dần về phía lối
ra ở hướng đối diện.
Ở phía bên kia sườn núi là một thế giới
khác hẳn. Tuyệt đẹp! Ở đây không có những kẻ xâm chiếm! Không khí, hoa lá và tiếng
chim hót ở đây cũng thân thương hơn, vui tươi hơn, nhộn nhịp hơn. Bầu trời màu
thiên thanh cao thăm thẳm. Không khí tràn ngập mùi hương nồng nàn. Cánh rừng
đang trổ hoa, xào xạc những tán lá vui mừng chào đón người thân. Xa xa, dòng
sông nhỏ Lene màu nước như sữa chảy ra từ khe núi sâu cheo leo trông như một dải
lụa mềm. Ở sườn núi đối diện, trong cái lòng chảo thơ mộng, hồ nước mắt mẹ hiện
lên lấp lóa. Không hiểu sao Tsanka lại có cảm giác, hồ nước trở nên rộng hơn và
nước cũng đầy hơn. “Phải, anh nghĩ. - Bao nhiêu nước mắt cay đắng của mẹ đã
tuôn chảy trong những năm gần đây”.
Tsanka nhổ một búi cỏ non, lót xuống dưới
chỗ ngồi, ngắm nhìn quang cảnh quê hương bao la, anh cảm thấy đau đớn vì không
còn những người thân yêu bên cạnh, trái tim nhức nhối vì những bất hạnh đã trải,
vì cuộc sống không bao giờ trở lại nữa, và vì sự cô đơn. Sau đó, Tsanka ngáp
hai cái rõ dài, ngả người ra, cặp mắt bất giác khép dần lại và chìm vào một giấc
ngủ sâu.
... Chỉ bằng khóe mắt, Tsanka nhìn thấy một
con rắn nhỏ và dài bò ra từ trong hang, nó lè cái lưỡi đầy nọc độc của mình ra,
bình thản bò về phía Tsanka, khéo léo trườn qua tay, bò lên ngực, nhìn vào mặt
anh vẻ xấc xược, rồi nằm khoanh tròn lại và từ từ biến thành con người.
Cùng với sự lớn dần của nó, Tsanka cảm thấy
sức nặng của nó đang đè lên ngực mình, làm anh cảm thấy khó thở, lại thêm cái
mùi kinh tởm như mùi xác chết, mùi hang động. Cái con vật ấy cứ nhìn chằm chằm
vào mặt Tsanka một cách ghê sợ bằng đôi mắt lồi của mình sau cặp kính phóng đại...
Ôi, lạy Thánh! Chính là ông Andrei
Moiseevich Bushman!
- Phải,
tôi đây, - người mới đến mỉm cười ranh mãnh. - Công việc thế nào, Tsanka? Tôi
thấy, có vẻ tồi tệ lắm phải không. Đầu đã hói, tóc đã bạc, cậu đã già.
- Giá mà ông phải
trải qua những gì tôi đã trải, không biết ông sẽ ra sao.
- Chẳng lẽ còn có nơi nào tệ hơn cả Kolyma
à?
- Hừ, Kolyma chỉ là chuyện nhỏ, ở đấy ông
chỉ khổ đau một mình, còn bây giờ nỗi đau của tôi mới thật khủng khiếp, tôi đã
mất cả gia đình.
- Tôi biết, tôi biết, Tsanka, không phải tất
cả, trên mặt đất này nỗi đau phải trả bằng nỗi đau, hạnh phúc phải trả bằng hạnh
phúc.
- Ông nói thế nghĩa là sao?
- Là thế này. Hóa ra, con người trên mặt đất
cứ tưởng tượng ra những giá trị không có thật, suốt đời cứ tìm kiếm mà không nhận
ra những điều quý giá hiển nhiên và có thể đạt được sờ sờ ngay trước mũi mình,
nhưng bản chất con người là ngu muội, tham lam và báng bổ.
- Thôi ông im đi, Andrei Moiseevich ạ, ngày
hôm nay tôi đã chán ngấy những bài luân lý rồi. Tôi đã mất hết con cái, chỉ còn
lại một mình.
- Tôi biết, tôi biết, Tsanka yêu quý ạ, -
ông Bushman vẫn mỉm cười như cũ, - Đừng đau khổ quá, Thượng đế cho ta những đứa
con, rồi ngài lại lấy đi. Đến một lúc nào đó, có thể cậu lại được gặp chúng nếu
như cậu xử sự đúng đắn.
- Chẳng lẽ tôi xử sự tệ lắm hay sao? -
Tsanka bực tức.
- Tôi không biết vì tôi không phải là Thượng
đế để có thể phán xét cậu, nhưng tôi biết một điều, cậu phải kiên nhẫn chịu đựng...
- Còn phải chịu đựng đến bao giờ nữa? -
Tsanka tức giận hét lên.
- Cứ bình tĩnh, Tsanka, không lâu nữa đâu,
cho đến cuối đời. Ha, ha, ha, - ông Bushman bật cười.
- Cuộc sống đáng nguyền rủa này đến bao giờ
mới chấm dứt?
- Thế đấy, Tsanka ạ, - ông Bushman bỗng tỏ
ra lăng xăng, trở nên nghiêm nghị, vẻ không hài lòng. - Không nên nói như vậy.
Tuyệt đối không nên. Với những câu như vậy, Thượng đế có thể trừng phạt chúng
ta đấy.
- Hừ, tôi và ông thì có liên quan gì? - Bây
giờ đến lượt Tsanka cười khẩy.
- Không liên quan là thế nào? Từ lâu rồi, số
phận đã liên kết hai chúng ta lại, kể từ ngày chúng ta cùng đi trên con đường
Verkhoyansk... Cậu nhớ lần chúng ta ngủ chung trong tấm da ngựa không? Kể từ
ngày ấy, tâm hồn chúng ta đã hợp lại làm một. Chẳng qua là cậu không nhận ra đó
thôi vì cậu là một người vô tình, còn tôi thì nhận ra ngay và đã chịu đựng tất
cả, lúc nào tôi cũng lo lắng cho cậu, luôn ở bên cậu.
- Luôn ở bên tôi, bằng cách nào? - Tsanka hỏi
lại bằng một giọng giễu cợt.
- Bằng nhiều cách khác nhau, - nhà vật lý bắt
đầu đếm trên ngón tay.
- Thế ông cảm thấy như thế nào khi tôi chiến
đấu ở ngoại ô Moskva? Chắc là nóng lắm phải không?
- Khoan đã, khoan đã, Tsanka, đừng nhầm lẫn
như vậy. Ở nơi người ta đánh nhau, giết nhau, Thượng đế không quan tâm, chỉ có
quỷ Sa-tăng trong hình hài con người đánh nhau vì những của cải và đất đai hư ảo.
- Theo ông, tôi, em trai Basil của tôi và tất
cả Hồng quân, đều là quỷ Sa-tăng cả hay sao?
- Ồ không, các cậu chỉ là những tên đầy tớ
bắt buộc của quỷ Sa-tăng. Chúng tôi không được phép vào đó. Ở đó chỉ có quỷ dữ
thôi.
- Vậy ông là thiên thần? Hay ông nấp sau
lưng Thượng đế?
- Thôi đi, Tsanka, cậu nhạo báng cái gì thế?
Không xấu hổ à? - Ông Bushman phẩy tay. - Tôi không ngờ cậu lại ra thế này.
- Vậy còn ông, Andrei Moiseevich, ông bắt đầu
tin vào Thượng đế từ khi nào vậy? - Tsanka càng nhạo báng hơn.
- Từ khi cậu bỏ mặc tôi chết đuối. - Nhà vật
lý đáp lại cũng bằng cái giọng của Tsanka.
- Không đúng! - Tsanka cau mày, nhăn mặt,
hét lên. - Không đúng! Dối trá! Tốt hơn là khi ấy tôi cũng bị nước cuốn trôi
cùng với ông để khỏi phải chịu bao nỗi khổ đau như thế này.
- Thôi được rồi, tôi xin lỗi, Tsanka yêu
quý. - Ông Bushman lại mỉm cười. - Khi ấy chỉ còn mình cậu sống sót, cậu đã gặp
may. Đừng quên đó là nhờ có tôi. Vậy là chỉ mình cậu sống sót trong số tất cả mọi
người, và bây giờ cậu phải chịu đau khổ thay cho tất cả mọi người. Tôi đã nói với
cậu rồi, cuộc sống không bao giờ đơn giản: mất cái này thì sẽ tìm được cái
khác, và ngược lại.
- Tôi không cần một cuộc sống như thế,
không cần! Ông cút đi cho rồi, đồ khốn nạn! - Tsanka tức giận thét lên, cả người
run bần bật.
Ông Bushman vẫn ngồi lì trên bộ ngực phập
phồng vì giận dữ của Tsanka, giống như đang cưỡi trên lưng con ngựa hoang, túm
chặt vai người đối thoại, đôi mắt hấp háy, hốt hoảng, chỉ sợ đánh rơi mất cặp
kính.
- Cậu hãy bình tĩnh, bình tĩnh lại, đồ thần
kinh ạ. - Ông Bushman vội nói. - Cậu lảm nhảm cái gì thế? Vì những câu như thế,
cậu có biết phải trả giá thế nào không? Thậm chí cậu cũng không hình dung nổi
đâu!
- Cái gì? Đối với tôi, trong cuộc đời này
còn cái gì tệ hại hơn nữa? - Tsanka hét lên, sùi cả bọt mép. - Nào, còn cái gì
nữa, ông nói đi?
- Cậu hãy bình tĩnh, rồi tôi sẽ nói, - ông
Bushman lắc đầu, nói bằng một giọng vỗ về.
Tsanka không nói gì nữa và cũng không lồng
lộn lên nữa, chỉ thở hổn hển, hàm dưới nhô ra, mắt dán chặt vào cặp kính của
nhà vật lý.
- Nào, ông nói đi, nói đi. Đối với tôi, còn
gì tệ hại hơn nữa: hành hạ, tra tấn, giết chết... - Tsanka lại hỏi ông Bushman
bằng một giọng như ngạt thở nhưng đã điềm tĩnh hơn. - Còn gì nữa? Tất cả những
gì có thể xảy đến với tôi, tôi đều đã trải. Tất cả. Nào, ông tính đi: hai nhà
tù, bị nhạo báng, nhục mạ, đánh đập, hai cuộc chiến tranh, còn trẻ đã mất cha,
mất con, rồi sau đó...
- Thôi cậu im đi! - Ông Bushman hét lên. -
Im đi. Tôi bảo cậu im đi!
- Tại sao ông lại bắt tôi phải im? Ông là
gì đối với tôi? Ông có quan tâm đến tôi không? Ông đã ở đâu khi tôi mất con,
khi em trai bị nghiến nát dưới vành xích xe tăng? Ông ở đâu?
- Nếu ngay bây giờ cậu không nhớ ra thì cả
hai chúng ta sẽ còn đau khổ nữa.
- Tôi chẳng thể nào đau hơn được nữa, ông
hiểu chứ? Ha, ha, ha, - Tsanka bật cười cay độc.
- Cậu điên rồi! Im đi! - Ông Bushman bắt đầu
chẹn vào cổ Tsanka.
Tsanka trẻ hơn và lúc nào cũng tự cho mình
khỏe hơn nhà vật lý lọm khọm, anh cố đẩy ông ra nhưng không được, chân tay và cả
cơ thể như bị tê liệt không chịu nghe theo, cứ như là của người khác vậy.
Tsanka thở khò khè, những ngón tay xương xẩu, nhỏ bé của ông Bushman càng ép mạnh
vào cổ anh, không cho anh thở, ép chặt anh xuống đất. Toàn bộ sức lực như đã rời
bỏ Tsanka, ý thức mất dần. Tsanka lấy hết sức còn lại vung tay lên, và đúng lúc
ấy, ông Bushman bỏ tay ra khỏi cổ anh và bật lên một tràng cười cay độc:
- He, he, he, thế nào Tsanka, bạn quý của
tôi, cậu chống cự à, cậu chưa muốn chết à, vẫn còn muốn đấu tranh vì sự sống, vẫn
còn yêu mến cái cuộc sống “đáng ghét” này hả? Tại sao cậu lại phải cố hết sức
vùng vẫy thế?
Tsanka không sao thở nổi, nhưng một làn
không khí vùng núi trong lành, ngọt ngào bắt đầu ùa vào buồng phổi. Anh cố hít
thật sâu vài lần, nhưng vẫn không hít được, và tỉnh lại.
- Thôi ông cút đi, đồ ngốc ạ! - Trong cơn tức
giận, Tsanka hét lên.
- Tôi đi đây, đi đây, cứ yên tâm, tôi chỉ
ngồi lại với cậu một lát nữa thôi. Khi nào chúng ta gặp lại nhỉ?
- Tốt nhất là không bao giờ gặp nữa, - Tsanka
khó chịu bật ra.
- Nào, anh bạn thân mến, tôi nghĩ, chúng ta
là bạn bè, nhưng hóa ra cậu là một kẻ tính khí thất thường, - ông Bushman làm
ra vẻ không hài lòng.
- Làm sao tôi có thể làm vừa lòng ông cơ chứ,
tôi có được lợi lộc gì từ ông đâu?
- Không là thế nào? - Ông Bushman vung tay,
cặp kính bật lên trán. - Thế ai đã cứu cậu ở Oimiakon?
- Chẳng lẽ đó là cứu à? Chỉ toàn đau khổ!
- Tsanka, đừng quá quắt như vậy, bản thân
cuộc sống là sự đau khổ. Con người sinh ra trong nỗi đau và chết đi cũng trong
nỗi đau, còn khi sống trên mặt đất này thì lúc nào cũng phải lo âu.
- Nhưng tất cả những cái đó để làm gì? -
Tsanka thốt lên.
- Để biết tất cả và rồi sẽ quên tất cả.
Trên mặt đất tội lỗi này, gieo gì thì gặt nấy.
- Hừ, - Tsanka cười khẩy. - Thú vị thật, thế
bây giờ ông gặt gì ở trên đó?
- Hiện giờ tôi còn đang lơ lửng trong không
gian, chưa ở trên kia, mà cũng không ở đây.
- Thế là thế nào? - Tsanka nghiêm túc hỏi.
- Thì cũng như mối quan hệ giữa tôi và cậu,
như bây giờ, nhờ lòng tốt của cậu nên tôi mới bơi được đến đây nhưng không bao
giờ bơi tới nơi được, tôi chờ cậu.
- Thế còn sau đó?
- Chẳng có gì cả. Nếu cậu là con người thì
cả hai chúng ta sẽ cùng bay lên trời, còn nếu cậu cứ tiếp tục báng bổ thánh thần
như bây giờ, thì chúng ta sẽ mãi mãi đau khổ... Khi đó, may ra Verkhoyansk là
thiên đường.
- Ông giải thích xem nào. - Tsanka há hốc
miệng, không hiểu gì cả.
- Bí mật đấy, hiểu chưa?... Tôi hình dung
thế này. Ai là con người thì sẽ bay đến các vì sao sáng, còn ở đó có cái gì,
tôi không biết, nhưng những người xấu thì không thể đến đấy được. Nếu ai không
phải là con người, kẻ đó sẽ biến thành các hạt vi mô và nằm lại trong lòng trái
đất nóng bỏng.
- Thế hiện giờ ông đang ở gần mặt đất hay
các vì sao? - Tsanka lo lắng hỏi.
Ông Bushman cụp mắt xuống.
- Ở đây không thể nói dối được, - nhà vật
lý buồn rầu đáp, - mà đúng ra cũng không nên nói dối ở bất cứ đâu... Nếu nói thật,
tôi đang ở gần mặt đất hơn, và cậu cũng như tôi. Vậy hãy cố gắng lên.
- Thế còn những người thân của tôi?
- Tôi không biết, nhưng tất cả trẻ em đều
bay khỏi mặt đất tội lỗi này, đúng thế đấy.
- Vậy là tôi và ông đều gặp may, đồ quỷ sứ ạ.
- Tsanka nóng nảy nói. - Vì ông mà tôi sẽ không bao giờ được gặp các con tôi nữa,
đúng không?
- Sao lại vì tôi? - Ông Bushman giãy nảy. -
Cậu biết gì mà nói? Nếu không có tôi thì cả hai chúng ta đã nằm sâu trong lòng
đất rồi.
- Thôi ông im đi. - Tsanka cắt ngang. - Ông
thấy đấy, ngay cả vàng của ông cũng bị người ta lấy mất.
- Cầu xin Thượng đế phù hộ, - ông Bushman mỉm
cười, - chẳng lẽ số vàng ấy sẽ mang lại điều tốt lành hay sao? Cậu nhớ lại đi,
bao nhiêu nước mắt và lời nguyền đã ám vào số vàng ấy. Từ cát bụi chúng lại trở
về với cát bụi. Nếu ai đó vẫn còn bị những ánh kim đó cám dỗ, vẫn còn giữ
chúng, thì kẻ đó sẽ đánh mất sự định hướng trong cuộc sống. Đó chỉ là những giá
trị ảo, chỉ là ảo ảnh. Bao nhiêu máu đã đổ ra, bao nhiêu sinh mạng con người đã
mất đi. Thật khủng khiếp!
- Hừ, - Tsanka cười gằn. - Sao bây giờ ông
ca bài ca khác hẳn?
- Nếu cậu nhìn thấy những gì tôi thấy thì cậu
cũng sẽ nói như vậy.
- Hừ, ông thì biết cái gì, nhìn thấy gì? Chỉ
có tôi mới phải chịu mọi nỗi thống khổ không thể hình dung nổi trên trái đất
này, chẳng có mấy người khổ sở hơn tôi.
- Thôi đi, Tsanka, thôi đi, đừng báng bổ thế,
tôi xin cậu đấy. Đừng hại cả hai ta. Đừng khoét sâu nỗi đau nữa. Cậu còn chưa
biết đến những nỗi đau kinh khủng hơn nhiều.
- Còn cái gì kinh khủng hơn nữa? Ông nói
đi! - Tsanka tức giận hét lên.
- Tôi sẽ nói, tôi sẽ nói, - ông Bushman vội
nói. - Cậu hãy nghe đây và đừng ngắt lời tôi. Chẳng hạn như nguồn nước của các
cậu bị cạn khô.
- Cái gì? - Tsanka thét lên. - Đó là điều
vô nghĩa không thể có được. Khi đó cuộc sống ở đây sẽ kết thúc.
- Đấy mới chỉ là khúc dạo đầu thôi, - một
nét mỉa mai cay độc thoáng hiện trên khuôn mặt ông Bushman.
- Thôi ông đừng nói nữa, - Tsanka run bắn
lên vì tức giận. - Không có nguồn nước, sẽ không có làng, không có cuộc sống ở
Duts-Khote.
- Đúng thế, anh bạn yêu quý ạ, nhưng còn
lâu mới đến điều kinh khủng nhất, - nhà vật lý thích thú cố tình nhạo báng. - Nếu
dân tộc của cậu không bao giờ trở về quê hương nữa?!
- A, a, a, - Tsanka rên rỉ. - Ông im đi, im
đi! Không được nói thế! Không thể như thế được!
- Có thể lắm, thậm chí còn tệ hơn nữa cơ.
- Thôi ông im đi! Đừng nói những điều gở nữa.
Tôi sẽ làm tất cả theo ý ông, nào ông nói đi!
- Đấy, như thế có phải tốt hơn không, - ông
Bushman hài lòng mỉm cười. - Những người Chechnya các anh chỉ nghĩ đến gia
đình, dòng họ, đến những điều nhỏ bé, còn chẳng mấy ai nghĩ đến việc chung.
Chính vì thế nên cứ bị đập vào đầu.
- Đó là điều mà ông muốn nói với tôi đấy hả?
- Không đâu. Cậu hãy nghe cho rõ và hãy nhớ
cho kĩ. Nếu cậu muốn nhìn thấy người thân của mình, tiện thể cứu giúp tôi, cậu
cần phải gột rửa tâm hồn khỏi tất cả những điều dối trá, trả thù, căm giận, hèn
hạ, độc ác và đam mê.
- Ha, - Tsanka cười khẩy, - đó là tất cả những
gì ông muốn khuyên bảo tôi? Những điều đó, ngay từ bé cha tôi đã dạy rồi, rồi đến
ông bác Baki-Haji lại đọc cho tôi nghe một lần nữa từ kinh Koran. Bài ấy, tôi
đã nghe từ lâu.
- Nghe rồi nhưng quên rồi, - ông Bushman lạnh
lùng cắt ngang. - Cậu hãy nhớ, không được đi quá xa, kẻ nào muốn trả thù, kẻ đó
sẽ trở thành người Arbek.
- Nhưng đó mới chỉ trong ý nghĩ.
- Phải, “ý nghĩ”. Nhưng cậu cũng biết, ý
nghĩ xấu xa sẽ dẫn đến những hành động xấu xa, thậm chí còn tệ hơn nữa.
- Vậy tôi phải làm gì, chẳng lẽ cứ bình thản
trố mắt nhìn tất cả sự nhạo báng đó?
- Không nên thản nhiên đứng nhìn, cần phải
đấu tranh, nhưng không phải bằng những hành động thổ phỉ của người Arbek và trả
nợ máu. Cả dân tộc cần phải đoàn kết và thống nhất hành động một cách khôn
ngoan. Không có cách nào khác đâu. Cậu đừng lo, không cần phải trả thù những kẻ
vô thần ấy, họ chỉ là những kẻ thảm hại, họ gieo cái ác thì sẽ thu được vụ mùa
tương xứng. Ôi, một vụ mùa cay đắng và khủng khiếp làm sao!
Hai người không nói gì nữa, chỉ im lặng
nhìn vào mắt nhau, nhớ về những gì đã trải ở Kolyma và nghĩ về điều gì đó. Cuối
cùng, Tsanka phá vỡ sự im lặng:
- Thế bây giờ ông có làm gì không, hay là
chỉ rong chơi?
- Ôi, anh bạn ơi, tôi sung sướng lắm. Giờ
đây tôi lại tiếp tục nghiên cứu môn vật lý yêu thích của mình. Cậu biết tôi đã
rút ra kết luận gì không: thế giới là vô tận cả chiều sâu lẫn chiều cao, cũng
như tâm hồn con người, từ thấp hèn cho đến cao thượng.
Cả hai lại im lặng.
- Ông đã thay đổi rất nhiều trong tâm hồn đấy,
- cuối cùng Tsanka thốt lên.
- Tôi cũng đã chứng kiến rất nhiều, - ông
Bushman lại mỉm cười như trẻ con. - Tôi rất buồn nhớ cậu, rất tốt là hôm nay
chúng ta được gặp nhau.
- Tôi cũng vậy, Andrei Moiseevich ạ. Xin lỗi,
có lúc tôi ăn nói lỗ mãng.
- Bây giờ chúng ta đã là những người đồng
điệu về tâm hồn. Cậu hãy cẩn thận, hãy kiên nhẫn.
- Tôi còn phải kiên nhẫn bao lâu nữa?
- Tôi đã nói rồi, cho đến cuối cuộc đời, -
ông Bushman mỉm cười.
- Thế khi nào thì đến cuối cuộc đời?
- Việc ấy tôi không biết. Thôi, tạm biệt cậu,
Tsanka, thời gian của tôi đã hết rồi. Tôi yêu cậu và tôi buồn nhớ cậu. Tôi sẽ
chờ cậu.
Ông Bushman lại bất ngờ biến thành con rắn,
trườn khỏi ngực Tsanka và bò vào trong hang. Tsanka tỉnh dậy, mở mắt ra và nhìn
rõ một con rắn dài ngoằng đang bò đi.
- A, a, a! - Tsanka hoảng sợ thét lên, vội
vàng bật dậy, lao xuống theo triền dốc, vấp vào rễ cây, ngã lộn nhào xuống dưới,
làm đầu gối, khuỷu tay và cằm bị xây xát, rướm máu.
Tsanka tỉnh lại, sợ hãi quay về chỗ cũ lấy
chiếc va li.
Tsanka sống vài ngày ở quê nhà. Mới vào
xuân mà những cánh rừng quê hương cũng rất hào phóng, dồi dào sản vật. Chỉ bằng
những cái bẫy tự tạo, Tsanka cũng bẫy được thỏ và gà gô, anh thích thú được ăn
lại các thứ rau quả rừng từ lâu đã quên lãng, nào là hành gấu già, lá tầm ma
mơn mởn, rễ cây ngưu bàng ngòn ngọt, dâu tằm và dâu tây đầu mùa. Còn vào những
buổi chiều đẹp trời thơ mộng trong núi, Tsanka thích thú uống trà núi ướp lá bạc
hà thơm ngát với mật ong rừng nguyên chất.
Năm ngày liền, Tsanka đi thăm lại những nơi
chốn xưa, nhưng đến ngày thứ sáu, một nỗi buồn bắt đầu len lỏi trong lòng.
Tsanka hiểu ra rằng, anh không có việc gì làm trên mảnh đất quê hương của mình
nữa khi anh chỉ còn lại một mình và xung quanh không có những người cùng dân tộc
mà bên cạnh họ anh có thể cảm nhận được sự tự do, bình đẳng, chân thành và hạnh
phúc.
Tsanka suy nghĩ mãi, cảm thấy hoang mang, tự
dằn vặt bản thân rất lâu, cuối cùng anh đành phải quyết định quay trở lại cái
vùng đất hoang mạc xa lạ toàn cát kia. Trước khi ra đi, Tsanka muốn dựng lại
các tấm bia mộ bằng gỗ cho những người thân của mình. Nhưng nhớ đến lời căn dặn
của ông Bushman, vào một đêm Tsanka bí mật dựng một tấm bia cao to bằng gỗ sồi
già, trên có khắc hàng chữ: “Chúng tôi sẽ trở về!”.
... Cuối tháng Năm, Tsanka về đến Chyly. Người
Chechnya từ những nơi rất xa biết tin Tsanka về quê liền đổ xô đến gặp anh để hỏi
thăm tin tức về quê hương, về đất đai, cảnh vật, thời tiết và cả mặt trời nữa
trên vùng đất tổ tiên... Đã là năm thứ tám kể từ khi họ bị xua đuổi khỏi quê
hương.
* * *
Tháng Ba năm 1953, Stalin qua đời. Đất nước
vĩ đại tổ chức quốc tang.
Chỉ riêng những người di cư đặc biệt là vui
mừng không nói lên lời.
Trong ngôi làng nhỏ Kzyl-Tu, những người
Chechnya tổ chức một lễ hội lớn. Người di cư đặc biệt là người gốc Đức và Nga không
dám tham gia vào cuộc vui, họ e sợ đứng nhìn và rất ngạc nhiên vì sự ngông cuồng
của những người Kavkaz. Chỉ có ông Voloshin, sau khi đã uống ngà ngà liền vào
khiêu vũ, lại còn nhảy hăng hơn những người khác, nói cười thoải mái.
Chiều tối, từ trung tâm huyện lỵ Chyly một
đơn vị công an đặc biệt đến làng, nổ súng chỉ thiên để giải tán đám đông và bắt
đi vài người, trong đó có ông Voloshin. Sáng hôm sau, tất cả được thả ra. Trong
sân đồn công an, ông Voloshin chạm trán với trưởng công an huyện, thiếu tá
Svechkin, cũng là một cựu binh.
- Này, công dân Voloshin, chẳng lẽ anh
không thấy xấu hổ à! - Thiếu tá nói to theo kiểu nhà binh. - Bọn họ là dân ngoại
bang, là kẻ thù dân tộc, còn anh là một quân nhân chuyên nghiệp, một đại tá.
Sao anh lại hành động như vậy?! Người cha của nhân dân, một con người vĩ đại,
có thể nói là linh hồn và trái tim của đất nước qua đời. Thế mà anh?
Ông Voloshin đứng lại, quay về phía thiếu
tá công an, bước tới vài bước, khuôn mặt của ông, sau một đêm ở phòng biệt giam
trở nên xám ngắt, với những quầng thâm quanh mắt, hai gò má nổi u lên.
- Thiếu tá này, - ông Voloshin cười khẩy,
đáp lại. - Từ bao lâu rồi, tôi đâu còn là đại tá nữa, mười lăm năm qua tôi là
tù nhân Xô viết. Còn Stalin là kẻ thù của tôi. Cha tôi đã bị giết, anh tôi cũng
bị giết, còn tôi, vì sự phục vụ trung thành của mình thì bị kết tội là gián điệp
nước ngoài. Cả cuộc đời tôi đã bị hủy hoại. Thật đáng nguyền rủa.
- Bắt hắn ngay! - Svechkin la to. - Tống
vào xà lim.
Đêm ấy, ông Voloshin bị đánh rất đau, bị
giam vào xà lim cá nhân suốt ba ngày liền không mở cửa. Một tuần sau ông mới được
thả ra: ban đêm, các chiến sĩ công an khiêng ông dở sống dở chết về nhà, bỏ lên
giường. Sáng hôm sau, nữ bác sĩ Klavdya Prokophievna và Tsanka đưa ông vào bệnh
viện.
Sau đợt đại xá năm 1953, ông Voloshin được
vợ đến đón đưa về thành phố Alma-Ata. Tại đây vào năm 1954 trong một căn nhà gỗ
ở ngoại ô thành phố, đại tá Voloshin trút hơi thở cuối cùng, chưa kịp bình phục
sau những trận đòn và những lời xúc phạm ở đồn công an.
* * *
Vào đầu những năm năm mươi, cuộc sống của
người Chechnya và Ingushetia có những thay đổi. Điều quan trọng nhất, là người
dân địa phương đã hiểu ra rằng, những người Kavkaz hoàn toàn không phải là những
tên cướp, không phải là bọn tội phạm hình sự mà chỉ là những con người bất hạnh,
đau khổ vì sự trấn áp của những người Bolsevich.
Sau năm, sáu năm sống ở Kazakhstan và ở
Trung Á, người Vainakh đã hoàn toàn thích nghi với hoàn cảnh và điều kiện sống ở
đây, tích cực tham gia vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp, thương nghiệp và
xây dựng. Các cơ quan lãnh đạo địa phương thường xuyên nhận được các văn bản chỉ
đạo, không cho những người Kavkaz và dân di cư đặc biệt gốc Đức được nắm giữ
các cương vị lãnh đạo trong các cơ quan bảo vệ luật pháp, trong các ngành đường
sắt, thủy lợi, thương nghiệp và xây dựng. Nhưng những công việc khác ở quanh
khu vực nhà ga Chyly hoang vắng thì không có.
Vậy là những người Chechnya và những người
bị lưu đày khác đành phải thể hiện cho chính quyền và người dân địa phương biết
họ có những khả năng gì.
Chẳng bao lâu sau, ở vùng phụ cận nhà ga
Chyly, trên địa bàn của xí nghiệp thủy lợi và nông trang Kzyl-Tu mọc lên các
khu dân cư lớn của người Chechnya và người gốc Đức.
Những ngôi nhà chắc chắn và tươm tất của
các khu cư dân mới lại càng tương phản với những ngôi nhà xiêu vẹo, ọp ẹp của
dân địa phương.
Trong cuộc đấu tranh sinh tồn, tính cẩn thận
và cầu kỳ của người Đức, sự tháo vát của người Chechnya, cùng với sự cần cù và
khả năng sống đã chiếm ưu thế. Dù muốn hay không, họ vẫn được nhận vào làm việc
với tư cách là những người có chuyên môn giỏi, và nhìn chung là những người có
trách nhiệm và khắt khe trong công việc.
Sau khi Stalin qua đời, tức là vào mùa hè
năm 1953, người Chechnya và Ingushetia thậm chí còn được vào học trong các trường
trung học và cao học ở nước cộng hòa Kazakhstan và Kyrgyzstan.
Sự thay đổi trong bộ máy lãnh đạo trung
ương ở Moskva ngay lập tức kéo theo những thay đổi ở địa phương. Ở Kazakhstan,
các cán bộ đảng lâu năm từng bị gạt ra khỏi các cơ quan lãnh đạo những năm gần
đây đã trở lại nắm quyền. Ông Sarenbaev lại được bổ nhiệm làm lãnh đạo xí nghiệp
thủy lợi huyện Chyly, và Arachaev Tsanka lại được bổ nhiệm làm trợ lý đồng thời
là cấp phó phụ trách chuyên môn.
Cuộc sống của Tsanka lại có những thay đổi.
Công việc căng thẳng hàng ngày làm anh mệt lử và chiếm hết toàn bộ thời gian,
không cho anh có lúc nào nghĩ đến những nỗi đau và mất mát không gì bù đắp nổi
của mình nữa.
Ông Sarenbaev đã có tuổi, hoàn toàn tin cậy
giao phó công việc cho Tsanka. Vì tuổi tác và nếp sống ít vận động nên ông
không thích đến dự vô số các cuộc hội họp, hội nghị, hội thảo, nên Tsanka phải
thường xuyên có mặt tại các cơ quan lãnh đạo của tỉnh, thậm chí của nước cộng
hòa nữa. Tsanka rất thích đến thủ đô Alma-Ata. Sau những năm tháng chiến tranh,
cuộc sống tại thủ đô của nước cộng hòa đã trở nên sôi động, đa dạng và hào
nhoáng.
Mỗi lần đến Alma-Ata, Tsanka đều nghỉ ở nhà
ông Basov Alfred Mikhailovich, giám đốc phân xưởng cũ của anh. Ông Basov và bà
vợ Alla Nikolaevna đã bị mất đứa con trai độc nhất trong cuộc chiến tranh Vệ quốc.
Ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên với Tsanka, đôi vợ chồng đã có tuổi nhận thấy vẻ
ngoài và tính cách của Tsanka có nét gì đó giống với đứa con trai đã hi sinh của
họ. Vợ chồng ông Basov rất gắn bó với Tsanka, họ nghĩ, có lẽ số phận đã gửi
chàng thanh niên Kavkaz cô độc đến để bù đắp cho đứa con trai đã mất của họ.
Họ tin vào câu chuyện cổ tích ngọt ngào mà
họ nghĩ ra và lấy nó để an ủi chính bản thân mình. Trong thời gian này, ông
Basov đang là trưởng ban xây dựng cơ bản của thành ủy. Ông khuyên Tsanka nên rời
bỏ vùng đất hoang mạc chuyển về thủ đô. Ông hứa sẽ giúp Tsanka vào làm trong
ngành thủy lợi ở Alma-Ata và sẽ được ông, người bạn cũ rất có ảnh hưởng đứng ra
bảo trợ.
Tuy nhiên khi trở về Chyly, giờ đây đã trở
thành quê hương thứ hai của mình, gặp gỡ với những người đồng hương thân yêu,
Tsanka hiểu ra rằng anh không thể bỏ họ, và nếu không có sự giúp đỡ và hỗ trợ của
anh, họ sẽ lại gặp khó khăn. Bây giờ, Tsanka là người được tôn trọng và có uy
tín nhất trong huyện. Hàng ngày, không chỉ có người Chechnya, mà cả người Đức,
người Hy Lạp, người Tatar ở Krym và người Triều Tiên đều đến xin anh giúp đỡ, bảo
vệ, hỗ trợ, hay chỉ đơn giản là để trò chuyện.
Một lần, vào cuối tháng Chạp, Tsanka đến
Alma-Ata để tham dự một cuộc hội nghị thường niên của ngành thủy lợi trong toàn
nước cộng hòa. Vào giờ nghỉ, Tsanka đi dạo trong phòng giải lao của nhà Văn
hóa, nơi thường diễn ra các cuộc họp, tình cờ đọc được thông báo - ngày 26
tháng Chạp, tức là sau một ngày nữa, vào lúc 18 giờ sẽ có buổi dạ hội văn hóa
Chechnya-Ingushetia nhân dịp Năm mới 1954.
Chẳng cần nghĩ ngợi lâu, Tsanka chạy đến
phòng hành chính nhà Văn hóa xin giấy mời.
Trong bữa cơm chiều, Tsanka vui vẻ kể cho
ông bà Basov nghe về buổi dạ hội. bà vợ ông Basov đón nhận tin này không kém phần
thích thú so với Tsanka.
- Ồ, tuyệt quá, rất thú vị. - Bà Alla
Nikolaevna hưởng ứng. - Sẽ có rất nhiều đồng hương, cả phụ nữ nữa, cậu sẽ chọn
cho mình một cô vợ chưa cưới. Còn chúng tôi sẽ mua cho cậu một bộ vét mới, giày
mới, đúng theo thông lệ.
Ngày hôm sau, ngay từ sáng sớm, bà Alla
Nikolaevna và Tsanka ra cửa hàng nhưng chẳng tìm được cái gì phù hợp. Đến trưa
bà Alla gọi cho chồng ở nơi làm việc.
- Anh Alfred, - bà Alla lo lắng nói. -
Chúng em đã chạy khắp các cửa hàng, nhưng chỉ toàn đồ vớ vẩn. Anh hãy gọi điện
ngay cho giám đốc của hàng bách hóa trung tâm, nói cho ông ấy biết nhu cầu của
mình. Sao? Có gì bất tiện đâu! Cả đời, cán bộ thành ủy chỉ nhờ giám đốc cửa
hàng một việc, chẳng lẽ không được sao. Thậm chí bà ấy còn cho đó là một vinh hạnh
đấy. Anh nói gì thế, em có đề nghị cho em đâu! Anh khiêm tốn quá đấy. Em xin
anh, gọi điện đi, nếu không em sẽ tự gọi. Chúng em đang ở nhà, chờ điện thoại.
Được rồi... Cám ơn anh.
Chiều hôm sau, Tsanka ăn diện bảnh bao đứng
trên các bậc tam cấp bằng đá hoa cương nhà Văn hóa trước giờ khai mạc buổi dạ hội
cả tiếng đồng hồ, đốt hết điếu này đến điếu khác bao thuốc lá thủ đô đắt tiền.
Trong bộ trang phục đó, với cà vạt và đôi giày đế cao đánh xi bóng loáng,
Tsanka cảm thấy không được tự nhiên cho lắm, thậm chí còn gò bó nữa. Dân chúng
bắt đầu nườm nượp kéo đến. Khắp nơi chỗ nào cũng vang lên tiếng người Vainakh:
mọi người trò truyện ồn ào, vui mừng vì có dịp gặp nhau, cười rổn rảng.
- Anh Arachaev! Đồng chí đại úy! - Đột
nhiên Tsanka nghe tiếng gọi.
Tsanka quay người lại, ngay bên cạnh là bạn
chiến đấu cùng trung đoàn Bakarov Dalkhad.
Hai người bạn cựu binh ôm hôn nhau thắm thiết
theo kiểu đàn ông, vỗ vai nhau bồm bộp và cùng bước vào. Trong khu tiền sảnh
sáng rực, Bakarov mới có dịp nhìn kĩ người chỉ huy cũ của mình, kinh ngạc thốt
lên:
- Này, Tsanka, giờ trông cậu bảnh chọe lắm,
đang trên lưng ngựa đấy! Ôi, bộ áo vét!
Tsanka kênh kiệu hếch mặt lên, ngắm nhìn
mình trong tấm gương ở xa, nhưng không dám thú nhận với cả chính mình vì bộ
trang phục này mà anh phải mắc nợ.
- Thôi được rồi, - Tsanka đập vào vai
Bakarov. - Ta đi kiếm cái gì đó, cần phải kỷ niệm cuộc gặp này chứ.
Nửa giờ trước khi khai mạc dạ hội, hai người
bạn đứng trong căng-tin uống vodka, nhấm nháp bánh mì với dưa chuột muối.
Tsanka nhận thấy những ánh mắt thán phục của các đồng hương đang dõi về phía
mình, trong lòng rất thích thú nhưng bề ngoài vẫn tỏ ra bình thản.
Khi đôi bạn nói về người thân, họ hàng,
ngay lập tức Tsanka cụt hứng, vẻ mặt trở nên u buồn, chẳng còn bận tâm đến bộ
trang phục nữa.
Số phận của Bakarov cũng chẳng hơn gì.
Hóa ra Bakarov cũng không tìm được người
thân, hiện giờ vẫn sống một mình ở ký túc xá.
- Thủ trưởng biết không, - Bakarov than phiền,
- mình lấy vợ đã ba năm nay, con trai hai tuổi, đang chờ đứa thứ hai, thế mà
hai vợ chồng vẫn phải sống ở hai ký túc xá khác nhau, thậm chí ở hai đầu thành
phố nữa.
- Sao lại thế được? - Tsanka bật cười. - Thế
con của ai? Làm cách nào mà hai người có chúng?
- Chính mình cũng không biết nữa... Thế đấy,
- Bakarov cũng bật cười vẻ có lỗi, rồi nói tiếp bằng giọng nghiêm túc: - Mình
đã hỏi thăm mọi người về cậu, họ bảo cậu rất thân với gia đình ông Basov, chỉ cần
cậu nói với ông ấy nửa lời là mình sẽ được cấp một phòng riêng. Mọi người đều
được cả. Mình cũng đã chiến đấu, bị thương không chỉ một lần, huân huy chương
cũng có. Cậu biết đấy! Bao nhiêu lần chúng ta cùng đi giữa làn đạn, cái chết
ngu ngốc đã sờ đến gáy nhưng lại không mang mình đi để bây giờ phải khổ sở thế
này. Ta uống một cốc nữa chứ...
- Nào, - Tsanka hào phóng rút những đồng tiền
vừa đi vay ra. - Còn ông Basov thì cậu cứ yên tâm, một con người tuyệt vời.
- Nghe nói ông ấy rất quý người Chechnya,
nhận cậu là con mà, - Bakarov hy vọng nhìn vào mặt người chỉ huy cũ.
- Đúng vậy, - Tsanka uống cạn cốc, nhăn mặt,
rồi làm ra vẻ quan trọng hỏi: - Vợ cậu tên gì?... Vậy thế này, ngay hôm nay cậu
cứ nói với cô vợ Ayant của mình, chẳng bao lâu nữa các cậu sẽ có một phòng
riêng, hiểu chưa, trung sĩ?
- Báo cáo đại úy, hiểu ạ. - Bakarov rất mừng.
Vào hội trường, hai người bạn chiến đấu ngồi
ngay hàng ghế đầu, vì đã uống kha khá nên mặt đỏ gay, ánh mắt vui vẻ. Hai người
im lặng nhìn quanh, tìm người quen trong số các đồng hương. Không khí trang trọng
và lễ hội. Mọi người chờ đợi một điều gì đó mới mẻ, tươi sáng, vượt lên sự mong
đợi bình thường.
Tsanka có cảm giác, ngay bây giờ một nhà
lãnh đạo Đảng cao cấp sẽ bước ra sân khấu và tuyên bố, tất cả những người
Vainakh có thể trở về quê hương, rằng Stalin và ban lãnh đạo của ông đã phạm những
sai lầm vô nhân đạo nghiêm trọng, và vì vậy xin lỗi toàn thể nhân dân Liên Xô
và thực sự chia buồn với những người vô tội đã bị thiệt mạng...
Với những ý nghĩ đó, Tsanka cảm thấy như có
vật đè nặng trong ngực. “Dù sao thì những người Bolsevich không phải là vô vọng,
họ đã trở nên nhân đạo, có lòng trắc ẩn và nhân ái”.
Đúng lúc ấy, hồi chuông thứ ba vang lên,
đèn trong khán phòng tắt hết, đèn pha trên sân khấu rực lên, và trong luồng ánh
sáng của nó, xuất hiện một người đàn ông đã có tuổi, khỏe mạnh, bộ vét đuôi tôm
sang trọng bằng vải len, đôi giày đánh véc ni bóng loáng, cà vạt đỏ với huân
chương Lenin trên ve áo.
- Ồ, đó là ông Magomedaliev! - Tsanka bất
giác thốt lên.
Trong lúc người đàn ông quan trọng bước ra
sân khấu và chỉnh lại micro, thì một giọng nữ rất đẹp thông báo qua hệ thống
phóng thanh rất to:
- Kính thưa các đồng chí, chúng tôi xin giới
thiệu đồng chí Chủ tịch ban chấp hành hội đồng hương Chechnya và Ingushetia của
nước cộng hòa Kazakhstan và vùng Trung Á, nhà hoạt động nghệ thuật công huân nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Kyrgyzstan, công dân danh dự thành phố
Alma-Ata, huân chương Lenin, đồng chí Magomedaliev Akhmed Iakubovich.
Tiếng vỗ tay kéo dài, những lời hoan hô phấn
khởi vang lên. Tsanka cũng vỗ tay thật lòng.
- Thưa các đồng chí! - Diễn giả bắt đầu bằng
tiếng Chechnya sau đó chuyển sang tiếng Nga: - Vì hôm nay trong khán phòng có
nhiều người thuộc nhiều dân tộc khác nhau, cho phép tôi được nói bằng ngôn ngữ
dễ hiểu với tất cả mọi người, ngôn ngữ của Lenin và của chủ nghĩa cộng sản.
Lại những tràng vỗ tay tán thưởng vang lên.
Diễn giả giơ tay lên để mọi người trật tự, khán giả im lặng ngay.
- Các đồng chí, những người đồng hương! Nhờ
có sự nỗ lực hết mình của Đảng chúng ta và của Ban chấp hành Trung ương, hôm
nay chúng ta mới có dịp được gặp nhau ở đây...
Một vài chỗ trong khán phòng bắt đầu vang
lên tiếng huýt sáo, tiếng la ó và tiếng chửi thề những người Bolsevich. Ông
Magomedaliev hơi có vẻ lúng túng. Đèn trong khán phòng sáng lên, một số người
Nga và người Vainakh đứng ở lối đi đang cố xác định những người la ó.
- Các đồng chí, - diễn giả tiếp tục: -
Chúng ta cần phải cám ơn Tổ quốc và Đảng vì tất cả mọi việc...
Tsanka không còn nghe thấy gì nữa, anh chỉ
nhìn thấy cái cơ thể béo phì của ông bố vợ anh bạn Kurto, cái bụng phệ lộ ra khỏi
hai vạt áo vét dài và cái cằm sệ mỡ che lấp cả cái nút thắt cà vạt. Ông
Magomedaliev nói rất dài, hùng hồn và hoa mỹ. Ai đó lại huýt sáo, rồi thêm những
người khác, thậm chí người ta bắt đầu công khai la ó:
- Cút đi cho rồi, đồ con lợn!
- Ông không phải là người Chechnya!
- Cút khỏi sân khấu!
- Đồ xu nịnh Moskva!
Một ông già râu tóc bạc trắng ngồi ở hàng
ghế đầu đứng dậy, khua cây nạng chống lên.
- Im đi, câm mồm đi! - Ông lão hét lên bằng
một giọng the thé.
Ông Magomedaliev cố tình ngừng lại trong
giây lát, chỉnh lại giọng đã bắt đầu khàn khàn, và vẫn như lúc đầu, lại nói tiếp
và kết thúc bài diễn văn của mình bằng một giọng hùng hồn, tin tưởng và cứng rắn.
Ngay sau đó, người dẫn chương trình - một
người đàn ông Nga còn trẻ bước ra sân khấu. Anh ta hoạt bát, lạnh lùng kể hai
câu chuyện tiếu lâm dí dỏm khiến cả hội trường cười nắc nẻ, bầu không khí dịu
xuống.
Tiết mục múa mở đầu cho chương trình ca múa
nhạc. Tất cả mọi người trong khán phòng đều đứng dậy vỗ tay chào mừng các nghệ
sĩ. Còn khi dàn hợp ca của thiếu nhi Vainakh hát một bài về quê hương thì cả hội
trường không ai cầm nổi nước mắt vì cảm động và buồn nhớ quê hương.
Sau đó đến tiết mục khiêu vũ của vũ công trẻ
tài năng Makhmud Esambaev, tiết mục của các ca sĩ Valid Dagaev, Maryam
Aidamirova, Sultan Magomaev, rồi đến tiết mục độc tấu phong cầm của nghệ sĩ Umar
Dimaev được cả nước cộng hòa mến mộ, rồi các nhà thơ, nhà văn cũng lên sân khấu.
Vào cuối phần một của chương trình, ông
Magomedaliev lại bước ra sân khấu.
- Các bạn đồng hương, - ông nói to. - Còn
bây giờ, lần đầu tiên nữ ca sĩ tài năng Madlena Iskhodzhaeva sẽ ra mắt các bạn!
Nào, hãy chào đón người đep!
Khán phòng như sôi lên. Một cô gái trẻ, vóc
dáng cân đối, tóc hung, cổ áo rộng trông rất gợi cảm, đi giày cao gót bước ra
sân khấu.
- Ôi, tuyệt quá! - Bakarov nói nhỏ vào tai
Tsanka.
Tsanka không nói gì cả chỉ mê mẩn ngắm nhìn
vóc dáng tuyệt mỹ của người đẹp. Cảm xúc đột ngột dâng trào nên Tsanka cũng mấy
lần bất giác chồm cả người lên.
Thật ra, Madlena hát không hay lắm, thậm
chí hai lần bị vấp, nhưng khán giả vẫn nhiệt tình ủng hộ cô, thậm chí cuồng nhiệt
nữa. Nói chung tiết mục nào cũng được chào đón như vậy.
Giờ giải lao, hai người bạn chiến đấu lại
mò đến căng-tin. Sau cốc tiếp theo, Bakarov thì thầm vào tai Tsanka:
- Nếu mình mà còn tự do như cậu, lại có
dáng vẻ bảnh bao như cậu, nhất định mình sẽ làm quen với cô gái đó. Thủ trưởng
này, cậu có nhớ các tiểu thư đã chạy theo cậu cho tận giới tuyến mặt trận
không?
Tsanka lại càng bốc lên, những cảm xúc lâu
ngày bị quên lãng giờ như đang trỗi dậy choán ngợp tâm trí.
- Cậu thử tìm hiểu xem, cô ấy là ai và có
thể làm quen bằng cách nào. Có khi ngay hôm nay chúng ta sẽ tiếp cận người đẹp.
- Tsanka hăng hái đáp.
- Thưa đồng chí đại úy, đây là mệnh lệnh ạ?
- Phải, - Tsanka nghiêm túc đáp.
- Ồ, chẳng lẽ mình không phải là lính trinh
sát hay sao? - Bakarov thốt lên. - Có nhiệm vụ nào ngoài mặt trận mà mình không
hoàn thành đâu! Còn việc này, chuyện vớ vẩn!... Thưa đồng chí đại úy, cho phép
hành động ạ! Mệnh lệnh sẽ được thực hiện, - Bakarov giơ tay chào rồi bước đi,
nhưng rồi quay lại bảo: - Này, cậu gọi thêm một cốc nữa đi.
Khi Bakarov quay về thì mọi người đang lục
tục trở lại khán phòng sau hồi chuông tiếp theo.
- Thủ trưởng này, - chàng trung sĩ phấn khởi
nói. - Nhiệm vụ cậu giao đã được hoàn thành xuất sắc, nhưng suýt nữa thì đổ bể.
Mình mò vào hành lang sau sân khấu, cánh cửa thứ ba, bên phải, có ghi hàng chữ
“Phòng hóa trang” và số “6”. Bây giờ cô ấy chỉ có một mình. Mình đã nói chuyện
với cô ấy, kể về cậu, tán dương đủ chuyện, chủ yếu là sự thật. Nói tóm lại, cậu
đi đi... À, khoan đã, uống thêm chút nữa chứ. Mà cô ấy, nhìn gần lại càng đẹp!
Thôi, Thượng đế sẽ phù hộ cho cậu! Đừng rối trí đấy, dù sao thì cậu cũng là chỉ
huy tác chiến, chúng ta đã từng đè bẹp quân Đức như ruồi... Tiến lên, thủ trưởng!
Tsanka bị một ông già thấp bé chặn lại sau
cánh gà, nhưng sau khi quan sát vị khách từ đầu đến chân, nhìn thấy ánh mắt
cương quyết, và điều quan trọng là bộ vét đắt tiền, ông đành phải im lặng nhường
đường. Tsanka mạnh bạo bước đến phòng số sáu, gõ cửa ba lần, và không chờ câu
trả lời liền mở cửa ra.
Madlena ngồi trước gương, ngạc nhiên quay
người lại.
- Chào cô. Cho phép tôi vào chứ, - Tsanka
đã hơi ngà ngà, nói rành rọt bằng tiếng Nga theo kiểu nhà binh.
Cô gái liếc nhanh nhìn vị khách vẻ soi mói,
ánh mắt dừng lại nơi đôi giày rất mốt.
- Vâng, mời anh vào, - cô gái dè dặt đáp
cũng bằng tiếng Nga, sau đó nói thêm bằng tiếng Chechnya: - Anh là người
Chechnya? Chúc buổi dạ hội của các anh thành công tốt đẹp. - Madlena tỏ ra bối
rối, hai má đỏ ửng như các cô bé làm vị khách rất thích thú.
Cô gái đứng dậy, và trong căn phòng nhỏ,
hai người đứng gần nhau đến mức Tsanka cảm nhận được mùi hương tỏa ra từ cơ thể
cô, nhìn rõ đôi mắt to màu hạt dẻ sáng, đôi môi mọng, mịn màng có vẻ đỏng đảnh
và chiếc mũi nhỏ hơi hếch. Ánh mắt Tsanka lướt qua chiếc cổ cao, cân đối, bộ ngực
trắng nõn nửa kín nửa hở. Cô gái lại càng bối rối trước ánh mắt lộ liễu của
Tsanka, liền đưa bàn tay thon đẹp kéo chỗ xẻ của chiếc váy lại bằng một động
tác rất điệu nghệ. Cả hai cùng đứng im như vậy trong vài giây. Tsanka không biết
phải bắt đầu câu chuyện như thế nào. Đột nhiên cánh cửa bật ra và ông
Magomedaliev lao vào phòng hóa trang như một cơn lốc.
- Ôi, con hồ ly tinh bé nhỏ của tôi, con
chim én của tôi, em đúng là một tài năng, - từ ngoài cửa ông Magomedaliev đã liến
thoắng bằng một giọng vuốt ve, chả chớt. Nhưng khi nhìn thấy trong phòng còn có
một người đàn ông, ông ta sựng lại, quan sát kẻ lạ mặt ăn diện bảnh bao và thốt
lên: - Ôi!
Sau khi đã đánh giá đúng giá trị của bộ
vét, ông Magomedaliev làm ra vẻ nghiêm túc, ưỡn thẳng người, chìa tay ra:
- Tôi là Magomedaliev, Akhmed Iakubovich.
- Tôi là Arachaev Tsanka Aldumovich, -
Tsanka nắm bàn tay béo múp, đáp lại.
- Hình như tôi đã gặp anh ở đâu rồi thì phải,
- ông Magomedaliev nói bằng tiếngNga. - Có phải anh làm ở Công đoàn không?
- Không ạ, tôi là đồng hương cùng làng với
con rể Kurto của ông, tôi đã đến nhà ông vài lần.
- À, à, à, - ông Magomedaliev đấm vào trán
mình mấy cái, - tôi nhớ rồi, nhớ rồi... Đúng rồi, anh hùng cuộc chiến Phần Lan.
Thế anh có tham gia Cuộc chiến tranh Vệ quốc không?
- Từ ngày đầu tiên cho đến tháng Sáu năm bốn
bốn.
- Cấp bậc gì?
- Đại úy ạ.
Ông Magomedaliev gật gật đầu vẻ am tường rồi
nhìn kĩ Tsanka một lần nữa, và cũng như Madlena, ánh mắt của ông cũng dừng lại
nơi đôi giày.
- Hiện giờ anh sống ở đâu? - Ông
Magomedaliev ngước đôi mắt màu đen, ươn ướt của mình lên, hỏi.
- Ở Chyly, tỉnh Kzyl-Orda ạ.
- Làm nghề gì?
- Phó giám đốc xí nghiệp thủy lợi ạ.
- Hiểu rồi, hiểu rồi, - ông Magomedaliev gật
đầu. - Ở đây nước là tất cả, là tài sản.
Một khoảng im lặng lúng túng. Tsanka nhìn
thẳng vào khuôn mặt bóng nhẫy, béo tốt của ông Magomedaliev, mái tóc chải chuốt
cẩn thận và bộ ria mép đen được xén tỉa kĩ lưỡng.
- Hiện giờ Kurto ở đâu ạ? - Tsanka phá vỡ sự
im lặng.
- Ôi, anh bạn tôi, thậm chí tôi cũng không
biết nữa, không biết, - ông Magomedaliev vung tay, vẻ băn khoăn. - Nó cũng ra
trận, rồi sau đó, cái thằng ngổ ngáo ấy, anh cũng biết đấy... - Ông
Magomedaliev cố nở một nụ cười rồi đột ngột chuyển đề tài: - Anh có nghe
Madlena hát chứ? Thật mê ly! Mà đây là lần ra mắt đầu tiên đấy! Chính tôi đã
phát hiện ra tài năng thiên phú của cô ấy. - Ông quay về phía cô gái: - Tuyệt lắm!
Chuẩn bị đi, mười phút nữa lại đến tiết mục của em đấy... - Rồi ông quay về
phía Tsanka: - Rất vui được gặp anh. Hẹn gặp lại.
Sau khi ông Magomedaliev đi ra, Madlena với
khuôn mặt rạng ngời hỏi Tsanka bằng tiếng Nga:
- Có đúng là anh thích giọng hát của tôi chứ?
- Rất thích! - Tsanka thốt lên.
- Tôi hồi hộp quá! Buổi biểu diễn đầu tiên
mà. Thế khi ở quê nhà, anh làm gì?
- Chủ tịch ủy ban huyện Shali, - Tsanka đáp
theo kiểu nhà binh.
- Ôi, ôi, ôi! - Madlena thốt lên. - Mời anh
ngồi. Thế anh quen ông Magomedaliev lâu chưa?
- Lâu rồi, - Tsanka ngồi xuống, đáp.
Madlena cũng ngồi xuống, ngắm nhìn mình
trong gương vẻ dò xét, lấy tay nhẹ nhàng vén ra sau tai chùm tóc xoăn màu hung
sáng, khẽ kéo cái vai áo rộng vào một chút trong khi chính Tsanka lại nhìn chằm
chằm vào đấy. Cái cảm giác ngây ngất từ lâu đã bị lãng quên choán ngợp tâm trí
Tsanka. Mọi ý nghĩ của anh trở nên lãng đãng, nhưng câu hỏi của cô gái đột ngột
vang lên, kéo anh về với thực tại:
- Anh có biết về nỗi bất hạnh của ông
Magomedaliev không?
- Không, thế có chuyện gì vậy?
- Một năm trước, có thể là hai năm, tôi
không biết chính xác, cả gia đình ông ấy ở thành phố Phrunze bị chết cháy: vợ,
con gái, còn trước đó, mấy đứa cháu ngoại cũng chết vì bệnh. Đúng là một tai họa
khủng khiếp.
- Họ chết cháy như thế nào?
- Ông ấy bảo, do những người Chechnya gây
ra. Họ đã cướp đi tất cả, làm cho ông ấy thành một kẻ bần cùng. Nói chung, đó
là những kẻ bất trị.
- Thế con trai ông ấy ở đâu?
- Người ta nói, đang sống ở Phrunze. Tôi mới
gặp anh ta chưa lâu, một kẻ nghiện ngập, anh ta đến xin tiền bố... Nhưng có
đúng là anh thích nghe tôi hát chứ? - Đôi mắt Madlena nheo nheo, lúng liếng.
- Rất thích, - Tsanka nở một nụ cười.
Họ còn trao đổi với nhau dăm câu nữa,
Tsanka cố lấy được địa chỉ của cô gái, xin được tiễn cô về nhà sau buổi diễn.
- Tôi không biết nữa, - cô gái đỏng đảnh
nói, - lúc nào mẹ tôi cũng đưa tôi về. Hơn nữa, tôi đi giày mềm, tôi vẫn được
chở bằng xe ô tô.
- Tôi sẽ lấy xe, - Tsanka nói bừa.
Sau buổi dạ hội, Tsanka và bạn chiến đấu
Bakarov đứng chờ Madlena bên lối đi dành cho nhân viên nhà Văn hóa. Ngoài đường
trời khá lạnh, gió thổi, tuyết rơi không dày nhưng rát rạt. Quảng trường trước
cửa nhà Văn hóa vắng dần, dân chúng đã về hết, chỉ còn lại một chiếc xe con đứng
đơn độc ngay bên đường, máy vẫn nổ.
- Họ còn làm gì mà lâu thế nhỉ? - Bakarov bực
mình. - Tôi đã tỉnh như sáo rồi.
- Hay là chúng ta vào tìm? - Tsanka đề xuất,
cả người co ro, bộ trang phục bảnh bao chẳng phù hợp chút nào với sự đỏng đảnh
của thời tiết, mặt mày xám ngắt vì lạnh.
- Không, cứ đứng đây thôi. - Bakarov cương
quyết phản bác. - Chúng ta cần phải trụ đến cùng, ngoài mặt trận, chúng ta còn
đứng vững trong nước băng giá cho đến tận sáng để tóm “lưỡi”, ở đây ăn nhằm gì?
Cuối cùng cánh cửa dành cho nhân viên phục
vụ cũng mở ra, một bộ ba vui vẻ xuất hiện: hai người phụ nữ trang phục diêm
dúa, cười nói rổn rảng và ông Magomedaliev. Tsanka bước về phía họ, cố tình để
họ nhận ra mình. Vừa nhận ra anh, Madlena làm ra vẻ rất ngạc nhiên, kéo cao cổ
áo khoác lông thỏ lên để che mặt và cũng bước về phía Tsanka.
- Anh vẫn còn ở đây à? - Cô hỏi bằng một giọng
uốn éo. - Chúng tôi sẽ cùng về bằng xe ô tô. Tạm biệt anh. - Cô quay đi, nhưng
rồi lại bước thêm một bước về phía Tsanka: - Đây là mẹ tôi. Anh có lạnh không?
- Cô phẩy tay rồi lại đỏng đảnh, làm ra vẻ sợ sệt chạy về phía mẹ.
Ông Magomedaliev cầm tay hai người phụ nữ,
lịch sự đưa họ qua quảng trường đến chỗ chiếc xe ô tô. Hai người phụ nữ đi giày
cao gót bị trượt chân liên tục, la hét ầm ĩ vì sợ ngã, nhưng người đàn ông khỏe
mạnh đã giúp họ đứng vững và cũng bật cười thích thú, vừa đi vừa kể cho họ nghe
chuyện gì đó. Đến chỗ chiếc xe, ông lịch thiệp mở cửa sau, đưa hai người phụ nữ
vào.
- Seriozha, chạy đến nhà hàng trên đại lộ
Lenin, - đó là những lời cuối mà Tsanka và Bakarov đang đứng đờ người ra nghe
được.
Khuya hôm ấy, trong phòng ăn của gia đình
nhà Basov, Tsanka thích thú kể lại cặn kẽ tất cả mọi việc diễn ra ở buổi dạ hội,
nhưng không đá động gì đến các chi tiết bên quầy căng-tin, riêng đối với cô
Madlena thì Tsanka tỏ ra vô cùng ngưỡng mộ. Ông Basov, như thường ngày không
thích uống trà khuya nên đi ngủ trước, nhưng khi vị khách vừa kết thúc câu chuyện,
bà Alla Nikolaevna liền nhổm lên:
- Cậu cứ yên tâm, - bà Alla hăng hái nói, -
đó là số phận, quả là không phí công trang phục cho cậu. Sáng mai cậu sẽ đến gặp
cô ấy bằng xe công vụ của ông Alfred Mikhailovich. Tsanka này, cậu phải rèn sắt
khi còn nóng! Xe của thành ủy, bất cứ người đàn bà nào, kể cả hoa hậu số một,
cũng không cưỡng lại được.
Ngày hôm sau, bằng xe công vụ của ông
Basov, Tsanka phải tìm mãi mới ra cái địa chỉ nhà cô Madlena ghi vội trên tờ giấy
mời dự dạ hội. Hóa ra đó là một con phố mới nằm ở ngoại ô thành phố Alma-Ata.
Madlena sống trong khu nhà tập thể ọp ẹp bằng gỗ dành riêng cho phụ nữ được xây
từ thời trước cách mạng. Tsanka phải lần mò rất lâu trong hành lang dài, tối
om, bốc mùi nồng nặc mới tìm ra được đúng căn phòng. Anh rụt rè gõ cửa, không
nghe tiếng trả lời, gõ tiếp bằng nắm đấm. Cuối cùng nghe tiếng loạt soạt ở ổ
khóa và cánh cửa ọp ẹp rít lên một tiếng chói tai, mở ra. Madlena hiện ra trong
bộ áo váy trong nhà với đứa bé trên tay. Cô gái bị sốc khi nhìn thấy vị khách.
- Ôi, anh đấy à? - Madlena yếu ớt lắp bắp,
và khi vừa nhìn thấy cánh cửa phòng đối diện hé mở cùng với cặp mắt tò mò của
bà hàng xóm, cô vội nói: - Anh vào đi.
Tsanka cúi người bước vào trong phòng, chìa
cho cô chủ nhà bó hoa đắt tiền và hộp kẹo thủ đô của bà Alla Nikolaevna mua
cho.
- Tặng cô, và xin chào. - Tsanka ngượng
ngùng nói.
- Cám ơn anh. Mời anh ngồi, - Madlena ấp
úng, tỏ ra bối rối thực sự.
Tsanka ngồi xuống chiếc ghế đẩu, nhìn
quanh. Căn phòng nhỏ bé, u ám, với ô cửa sổ bé tí, tấm kính mờ đục. Tường nhà bằng
ván, sơn trắng, ghép nối nhiều chỗ và trét lại bằng nhựa cây. Hai sợi dây phơi
căng dọc theo căn phòng, trên một sợi phơi đầy quần áo cũ trẻ con. Trong góc
phòng có chiếc lò sưởi điện và mấy chiếc xô to, hai chiếc giường sắt kê dọc tường,
ở giữa là chiếc bàn.
- Con ai đấy? - Tsanka phá vỡ sự im lặng.
- Con em. - Cô gái mệt mỏi đáp.
- Vậy cô có chồng?
- Không ạ, em đã ly dị rồi.
- Thế con bé bao nhiêu tuổi?
- Gần được ba tuổi.
- Hai mẹ con sống một mình à?
- Không ạ, với mẹ, mẹ em sắp về rồi.
Lại một khoảng im lặng. Tsanka nhìn kĩ
Madlena và không thể rời mắt. Trong bộ áo váy trong nhà, cô gái nhìn rất trẻ và
lại càng quyến rũ hơn, khuôn mặt không trang điểm trông tươi tắn và trong sáng,
mái tóc dày màu sáng buông xõa trên bờ vai gầy.
- Anh uống trà
không? - Cô gái hỏi.
- Không, cám ơn cô. - Tsanka bối rối đáp.
Cả hai đều cảm thấy gò bó, lúng túng, một
lúc lâu không ai nói gì cả. Tsanka hiểu, mình cần phải đi, nhưng anh không thể
nhấc chân. Một tình cảm trìu mến không thể diễn tả đối với Madlena như tấm mạng
nhện nhằng nhịt trói chặt anh vào với cô gái.
- Anh có thể bế hộ con bé để tôi chạy ra lấy
nước được không? - Đột nhiên cô gái nói.
- Dĩ nhiên rồi, tôi bế được. - Vị khách vui
mừng thốt lên.
Nhưng khi Madlena vừa bước ra khỏi phòng,
con bé liền khóc thét lên. Tsanka bế nó đi đi lại lại trong phòng, cố dỗ dành,
tìm mọi cách làm cho nó sao lãng. Tsanka bế lại gần cửa sổ, lấy tay chỉ cho nó
thấy con chim sẻ đang đói và lạnh đậu trên bệ cửa. Đột nhiên, Tsanka nhìn thấy
một chiếc xe con dừng lại nơi góc nhà, chính là chiếc xe hôm qua đỗ ở nhà Văn
hóa, từ trong xe một người phụ nữ vội vàng bước ra, chính là mẹ của Madlena.
Người đầu tiên quay vào phòng là cô con
gái, hai tay xách hai xô nước đầy, sau đó là bà mẹ.
- Mẹ đi đâu thế? - Madlena to tiếng với mẹ.
- Con hét cái gì thế? - Người đàn bà phản
công ngay. - Mẹ đã bảo rồi, mẹ đến nhà hát, bị giữ lại do công việc. Ôi mẹ mệt
quá đi mất. À, chào anh. - Cuối cùng bà quay về phía Tsanka. - Chúng tôi muốn
chuyển đi, còn hiện giờ khổ sở thế này đây. Mọi chuyện chẳng đơn giản chút nào.
Có phải anh là người mà con gái tôi nhắc đến không? - Bà chuyển sang nói bằng
tiếng Nga: - Anh là phó giám đốc xí nghiệp thủy lợi?
- Vâng ạ, - Tsanka ngượng nghịu đáp.
- Đây là mẹ tôi, tên là Mylana, - Madlena
giới thiệu mẹ mình với Tsanka bằng một giọng khó chịu.
- Rất hân hạnh. Thôi, tôi đi đây. Xin mọi
người thứ lỗi vì sự đường đột ạ.
- Không sao, không sao, anh cứ đến chơi.
Chúng tôi rất mến khách, - bà mẹ đáp. - Ồ, lẽ ra anh nên ở lại dùng trà. Ôi hoa
đẹp quá, lại còn kẹo nữa.
- Cám ơn, cám ơn. Tạm biệt. - Tsanka vừa đi
giật lùi ra cửa vừa nói, khi ra đến hành lang anh nói thêm: - Madlena, tôi gặp
riêng cô một phút.
Ngoài hành lang, Tsanka hẹn gặp Madlena vào
buổi chiều. Thoạt đầu Madlena còn phân vân, lắc đầu vẻ không hài lòng, nhưng
khi nghe Tsanka nói lẽ ra ngày hôm nay anh phải trở về nhà, cô liền đồng ý, rồi
làm như vô tình bảo đây là trường hợp rất đặc biệt, rằng cô không bao giờ hò hẹn
với những người đàn ông không quen biết. Cô còn nói, nhiều chàng trai đang tán
tỉnh cô, không để yên cho cô tập luyện. Tsanka tin ngay tất cả những lời đó.
Anh rời ngôi nhà u ám và hôi thối ấy với nụ cười trên môi của một chàng trai lần
đầu si tình.
Ngồi vào xe ô tô, Tsanka còn liếc nhìn khu
nhà tập thể một lần nữa - từ tất cả các ô cửa sổ, những cái đầu phụ nữ đang
nhìn về phía chiếc xe với ánh mắt tò mò, thậm chí ghen tức.
Buổi chiều hai người đi dạo trong thành phố
giá lạnh. Madlena kể về số phận không may mắn của mình, về tuổi trẻ đã bị hủy
hoại trong cuộc hôn nhân, về sự tàn nhẫn và thói trăng hoa của người chồng.
Tsanka thất vọng bảo, không phải tất cả đàn ông đều như vậy, vẫn có những người
chung thủy, tận tụy và xứng đáng. Gần cuối cuộc gặp họ rẽ vào cửa hàng, Tsanka
mua cho Madlena đủ thứ bánh kẹo.
- Anh hào phóng và chu đáo quá. - Madlena
nói lúc chia tay. - Với ai anh cũng đối xử thế này hay chỉ với em thôi?
- Chỉ với em thôi! - Tsanka thành thật đáp,
con tim như chết lịm.
... Đêm hôm ấy, Tsanka nằm trên tầng ba,
toa giường nằm cupe, trong luồng ánh sáng mờ mờ, cặp mắt sáng lên, miệng mỉm cười
trong sự hưng phấn và đam mê như thời trai trẻ. Nỗi khát khao mãnh liệt như thức
tỉnh cùng với tình cảm thương mến đối với cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Tsanka
như bị bỏ bùa, si mê đắm đuối và cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Lát sau, cùng với
tiếng ngáy của người bên cạnh và sự lạnh lẽo, bẩn thỉu của chăn nệm, những ý
nghĩ u ám bắt đầu len vào trong đầu Tsanka - những khoản nợ nần chồng chất và
hai ngày quá thời hạn không có lý do chính đáng của chuyến công tác. Tất cả những
điều đó cũng làm ảnh hưởng đến tâm trạng vui vẻ của Tsanka. Anh cố xua đuổi
chúng đi để chìm vào giấc ngủ trong tiếng gõ đều đều của bánh xe trên đường
ray.
Quá nửa đêm, Tsanka tỉnh dậy. Đoàn tàu đang
dừng ở ga nào đó, người ta thông báo chờ tránh tàu. Ngoài trời, một cơn bão tuyết
đang hoành hành, trong toa lạnh lẽo, ngột ngạt, bốc mùi cá muối và đủ thứ mùi
khó chịu khác. Ở tầng dưới, người đàn ông vẫn bình thản ngáy, sau tấm vách ngăn
nghe loáng thoáng tiếng phụ nữ thì thầm to nhỏ, từ cuối toa vọng lại tiếng chửi
tục của người phụ trách toa say xỉn. Tsanka nhìn ra cửa sổ: trên sân ga một người
đàn ông trong chiếc áo bành tô dài đang dắt đứa con nhỏ, bước vội. Tsanka chợt
nhớ đến con trai Gelany bị thất lạc của mình, rồi nhớ đến những đứa khác, máu
như dồn hết lên đầu, trái tim đau nhói vì nỗi buồn tê tái, Tsanka quay mặt về
phía vách ngăn lạnh lẽo, nhớp nhúa, nghẹn ngào khóc nấc lên... Đoàn tàu rùng
mình, lại tiếp tục lăn bánh...
Ở cái nơi hẻo lánh như Chyly, Tsanka không
dám khoe bộ trang phục hiếm hoi, đắt tiền của mình. Trước năm mới, thông qua một
người quen là bác sĩ người Triều Tiên cũng là dân di cư đặc biệt, Tsanka bán lại
bộ vét cho một tay chơi địa phương với cái giá gấp ba lần giá gốc. Ngay trong
buổi chiều cuối năm đó, qua đường bưu điện, Tsanka gửi trả lại số tiền nợ cho
gia đình ông Basov, đồng thời gửi điện chúc mừng năm mới cho vợ chồng ông và
cho cô Madlena.
Tất cả những ngày nghỉ Tsanka đều ở cơ quan
- anh trực lãnh đạo xí nghiệp thủy lợi, đồng thời viết báo cáo tổng kết năm và
kế hoạch năm sau. Buổi tối, các đồng hương đến chơi và cùng đón năm mới với anh
ngay trong văn phòng cơ quan.
Ngày mùng bốn tháng Giêng, đúng tám giờ
sáng, trong cuộc họp đầu năm, Tsanka trình bày báo cáo tổng kết năm qua và kế
hoạch chi tiết của năm tới. Ông Sarenbaev ngồi đầu bàn chủ tọa gật đầu lia lịa
tán thành, thỉnh thoảng lại ngáy khò khè theo kiểu người già. Những năm gần
đây, công việc càng nhiều, nhưng nhờ sự điều hành hiệu quả của “xí nghiệp thủy
lợi Chyly” mà hai nông trang trồng lúa vốn làm ăn thua lỗ, cùng với một xí nghiệp
thủy sản, hai nhà trẻ, một trường nội trú và một trường trung cấp kĩ thuật đã tự
cân đối được kinh phí. Còn đối với Tsanka, thời gian nghỉ ngơi của anh chỉ còn
là những giấc ngủ tranh thủ ngắn ngủi.
Mặc dù vậy, Tsanka vẫn tìm được thời gian để
viết những bức thư cảm động và lãng mạn cho Madlena. Thời gian đầu, các sáng
tác của anh còn khô khan và dè dặt, sau đó nhờ sự đáp lại của người yêu nên
Tsanka đã mở toang lòng mình, các bức thư gần như trở thành các tác phẩm thi
ca, thậm chí thành lời bài hát nữa, nói ngắn gọn, Tsanka đã nông nổi phơi bày hết
ruột gan.
Cứ sau ba thư của Tsanka thì Madlena đáp lại
một bức. Xét đến yếu tố dường như ngày nào Tsanka cũng viết thư, có thể mạnh dạn
nói rằng, cô gái cũng đáp lại thường xuyên, và có thể nói thêm, sự đáp lại cũng
rất đồng điệu. Thật ra, những bức thư của Madlena ít lãng mạn hơn, chủ yếu mang
yếu tố trao đổi thông tin. Trong mỗi bức thư đều có những câu hỏi dạng khai báo
- từ diện tích nhà ở cho đến thu nhập cá nhân, giày dép, chứng hói đầu “đáng lo
ngại”, rồi quan điểm đối với văn học nghệ thuật, đối với những con người dành
trọn cả cuộc đời duy nhất của mình cho công việc lao động “khổ sai” này.
Nói ngắn gọn, mọi việc tiến triển tốt đẹp,
nhưng đột nhiên Madlena bỗng cắt ngang: “Madlena
không thể viết hết ra đây, nhưng nếu anh Tsanka không đến ngay, thì Madlena
không thể chịu đựng nổi một cuộc chia ly dài như thế được”. Cuối thư lại có
chữ PS rất xa lạ đối với Tsanka và những dòng sau đây: “Xin đừng cười nhạo trên sự yếu đuối và thẳng thắn của em. Phải, em
ngây thơ và cả tin. Trong đời, em đã phải chịu bao đau khổ vì điều đó, nhưng em
không thể sống khác được. Em chân thành tin tưởng anh và... Anh ùa vào cuộc đời
em như cơn lốc, em không còn sức... Hãy thương hại em, chẳng lẽ em không đáng
được hưởng một niềm hạnh phúc phụ nữ nhỏ bé hay sao? Nếu tất cả những gì anh viết
không xuất phát từ trái tim trong sáng thì đó là nỗi bất hạnh của em, có thể là
cái chết nữa. Em không thể chịu đựng nổi điều đó. Em hy vọng, anh là một người
đàn ông cao thượng và hiện đại”. Trong đó, câu cuối được gạch đít rất đậm.
Tuy nhiên, bức thư chưa chấm hết ở đây. Bên
dưới, bằng một nét chữ nhỏ li ti, có một đoạn viết thêm: “Con gái em đã bị những người thân của chồng cũ bắt đi rồi, giờ đây em
chỉ còn lại một mình, như anh”. Rồi còn tiếp: “Em tranh thủ viết lúc đang tập hát. Xin lỗi vì nét chữ. Dàn nhạc đang đợi.
Rất vất vả. Người ta mời em đi lưu diễn ở Moskva và Leningrad, nhưng em chưa vội
nhận lời, em chờ lời khuyên của anh”. Sau đó là ngày tháng, địa điểm là
“phòng tập trung tâm, nhạc viện Alma-Ata” và một chữ ký bay bướm, cầu kỳ.
Tsanka đọc đi đọc lại bức thư cả chục lần,
lúc đi nằm vẫn còn rất cảm động. Sau đó anh bật dậy, đọc lại bức thông điệp nhạy
cảm ấy một lần nữa, đi đi lại lại rất lâu trong phòng, không sao ngủ được.
“Không, không, - Tsanka nghĩ, - mình cần phải đối xử với cô ấy một cách cao thượng
và hiện đại... Ôi, lạy thánh, nhưng “hiện đại” là thế nào nhỉ? Phải hiểu thế
nào cho đúng? Có thể mình là người không hiện đại chăng? Dĩ nhiên rồi, mình lớn
tuổi hơn nhiều so với cô ấy, mình sống ở vùng hoang mạc. Không sao, không sao,
mình sẽ xứng đáng với niềm hy vọng của cô ấy, mình sẽ cứu cô ấy. Cô ấy thật bất
hạnh! Thậm chí con gái cũng bị cướp đi mất.
Đúng rồi, cô ấy từng nói, chồng cũ của cô ấy
là một kẻ bệ rạc. Có thể những người thân của anh ta cũng vậy... Thế còn mẹ cô ấy?...
Một mụ đàn bà ngu ngốc và... Ồ không, không được nghĩ về mẹ Madlena như thế. Mặc
dù... Nói thật, bà mẹ chẳng giống chút nào với cô con gái. Bà Mylana trông thật
khó chịu và đáng ghét. Môi mỏng, cằm ngắn, nếp nhăn cố hữu giữa hai mắt... Nói
chung, trông bà ấy rất u ám và tối tăm. Ơn trời, cô con gái không giống mẹ!
Madlena là một công trình tạo hóa kiều diễm! Một tài năng thiên bẩm! Dĩ nhiên rồi,
cô ấy có năng khiếu thực sự, tài năng ấy cần phải được phát triển. Cô ấy thông
minh, tài giỏi! Thế mà gốc gác chỉ là một cô gái miền núi, một di dân đặc biệt,
với những buổi tập ở nhạc viện trung tâm, với dàn nhạc, sau đó là các chuyến
lưu diễn ở Moskva, Leningrad, có khi lại còn ra nước ngoài nữa. Dĩ nhiên rồi, với
hình thức, tài năng và chí hướng ấy, rất có thể lắm! Mình phải giúp cô ấy. Mình
sẽ cưới cô ấy. Ôi, thật khủng khiếp! Vợ mình là một ca sĩ trẻ tài năng, xinh đẹp!
Mình sẽ đi khắp thế giới cùng với cô ấy trong các chuyến lưu diễn... Thế còn xí
nghiệp thủy lợi? Mặc xác nó, suốt ngày cứ phải chúi mũi vào công việc mà chẳng
ai biết đến. Không, mình sẽ chuyển đến Alma-Ata, sau đó có thể sẽ chuyển đến sống
ở Moskva cùng với Madlena... Ôi, hạnh phúc quá đi mất!”.
Với những ý nghĩ đó, Tsanka lên giường nằm,
cứ lật qua lật lại, trằn trọc mãi mà không ngủ được.
Sáng tinh mơ, khi trời còn tối, trong cơn
bão tuyết tháng Hai, Tsanka chạy đến nơi làm việc. Do mất ngủ nên đầu đau nhức,
cơ thể mệt mỏi rã rời, công việc trở nên nặng nhọc. Sau bữa trưa, Tsanka vào
phòng ông Sarenbaev, rồi không dám nhìn thẳng vào mắt ông, anh bảo, anh cần phải
đi Alma-Ata để xin cấp bổ sung kinh phí và phê duyệt kế hoạch năm.
Người lãnh đạo khôn ngoan dường như cũng
đoán ra điều gì đó không bình thường, tuy nhiên ông không gây khó dễ cho
Tsanka, cho phép anh đi công tác năm ngày kể cả đi về. Lúc chia tay, ông Sarenbaev,
như một người cha lo ngại hỏi:
- Sao trông tướng mạo cậu không được khỏe, ốm
đau gì à?
- Dạ, không ạ, mọi việc vẫn bình thường, -
Tsanka đáp, nhưng đầu óc chỉ nghĩ đến cuộc gặp với người yêu dấu.
Đến Alma-Ata, Tsanka gọi taxi phóng thẳng từ
nhà ga đến nhà Madlena. Trên đường đi anh dừng lại mua hoa và kẹo. Đứng trước cửa
phòng Madlena, Tsanka nhìn thấy bức điện khẩn của anh gửi cho cô báo tin anh sẽ
đến gài trong khe cửa. Linh cảm có điều gì đó chẳng lành, Tsanka gõ cửa phòng
bên cạnh.
- Hai hôm trước, ba người bên ấy đã lên chiếc
ô tô màu đen đi rồi.
- Ba người là ai? - Tsanka ngạc nhiên.
- Còn ai nữa, mẹ, con gái và cháu gái.
- Thế đứa cháu vẫn ở với họ à?
- Chứ còn ở đâu nữa?
Tsanka còn quay lại đây hai ngày nữa, nhưng
bức điện tín của anh vẫn không có người nhận.
Nổi điên lên với cả thế giới, nhưng Tsanka
đành phải quay về.
Một tuần sau, anh nhận được thư của
Madlena. Hóa ra cô ấy đi lưu diễn ở Phrunze. Mẹ cô phải hộ tống cô “không rời nửa
bước”. Về đứa con gái, không hề có một lời nào.
Đến lượt mình, Tsanka gửi một lá thư khô
khan, lạnh lùng, bóng gió chuyện không trung thực về đứa con gái.
Chẳng bao lâu sau, có ngay trả lời. Bức thư
dài, đau xót và kết tội Tsanka. “Em không
nghĩ là anh lại không vui mừng khi con gái em trở lại. - Cô viết, - Nó là người thân duy nhất của em. Mẹ con em
đã giành lại con gái từ tay những kẻ man rợ đó với sự giúp đỡ của công an và
ông Magomedaliev”. Rồi cô viết tiếp: “Em
tin tưởng anh như thế, sẵn sàng chấp nhận tất cả, thậm chí bỏ cả sân khấu, còn
anh, hóa ra cũng như những người đàn ông Chechnya khác - ích kỷ, cổ hủ. Các anh
chỉ nhìn thấy ở người phụ nữ một con nô tỳ, nhưng em không muốn thế. Em mong ước
sự bình đẳng, một cuộc sống hạnh phúc, thậm chí xán lạn. Em đã tin anh, đã hồn
nhiên cởi mở tấm lòng mình với sự ngây thơ thiếu nữ. Em muốn tô thắm cuộc sống
của anh và của em. Cả hai chúng ta đã phải chịu bao bất hạnh, khổ đau trong cuộc
đời này, vậy mà anh lại xúc phạm em một cách tàn nhẫn, đã nhổ bọt vào tâm hồn
em... Nhưng dù có thế nào, em vẫn cám ơn anh. Anh là người đàn ông cuối cùng mà
em đặt trọn niềm tin. Tất cả. Trong cuộc đời em sẽ không có một người đàn ông
nào khác. Chẳng thà sống một mình còn hơn. Anh không thể hình dung nổi em đau
khổ thế nào khi đọc thư anh. Sau đó, em đổ bệnh ba ngày liền, không ăn uống gì
được. Vì than khóc nhiều quá mà cổ họng em bị đau. Giờ đây em không biết phải
làm gì nữa. Rất có thể phải quay về làm công nhân trong nhà máy. Dù sao thì
cũng cần phải chăm sóc mẹ đang bị bệnh và đứa con nhỏ. Em chưa nói gì với họ cả,
vẫn giấu kín mọi chuyện trong lòng, nhưng hình như mẹ và con gái cũng cảm nhận
được nỗi đau và sự xúc phạm mà em phải gánh chịu, họ cũng rất khổ tâm... Nếu
nói một cách trung thực, em đã quen với những hành động đê tiện và dối lừa của
những người đàn ông Chechnya. Tất cả các anh đều là những kẻ quê mùa vô học, đối
với em, anh cũng là một người như vậy. Em chỉ mong chúng ta sẽ có được sự đồng
cảm mãi mãi. Nhưng, ôi thôi!...
Tsanka,
xin anh tha lỗi vì sự gay gắt và lỗ mãng, nhưng em không thể hành động khác...
Vấn đề là ở chỗ, vì khủng hoảng tinh thần và than khóc nhiều quá mà em đã bị mất
giọng, không thể lấy lại được biên độ và âm sắc cần thiết. Không có sự tham gia
của em, chương trình ca nhạc phải hủy bỏ. Giờ đây, chuyến lưu diễn của cả tập
thể ban nhạc đang được xem xét, cân nhắc. Chỉ đạo nghệ thuật và giám đốc nhạc
viện quốc gia rất lo. Các bác sĩ đang chăm sóc cho em, thậm chí cả trưởng ban
văn hóa Ban chấp hành Trung ương Đảng nước cộng hòa Kazakhstan cũng đến đây. Mọi
người đều rất lo lắng, nhưng em không thể nói cho họ biết về nỗi đau của mình,
rằng em chẳng còn tâm trí đâu mà hát nữa. Mọi việc thế là hết! Cuộc sống chẳng
còn ý nghĩa gì nữa. Ba người phụ nữ cô độc, bất hạnh và cùng quẫn đã từng tin
tưởng anh, giờ đây đành phải nói lời cuối “Vĩnh biệt”! Cám ơn anh vì tất cả!”. Sau đó là ngày tháng, và lại cái chữ ký bay bướm, và lại lời tái
bút PS khó hiểu bằng một nét chữ nhỏ xíu: “Con
gái cứ hỏi em, tại sao cái bác cao cao, tốt bụng và có kẹo, không đến nữa. Nó
yêu quý anh đến mức ngay cả khi mắng nó, nó bảo sẽ mách anh. Có lần nó còn hỏi
“Có phải cha con không?”. Em biết nói với nó thế nào đây?... Đau quá”.
Cuối cùng thì bức thư ấy cũng làm Tsanka phải
mủi lòng. “Quả thật, mình đúng là một kẻ thô lỗ, vô học, cục cằn, - Tsanka tuyệt
vọng nghĩ. - Tại sao mình lại có thể xúc phạm những người phụ nữ cô độc, đáng
thương như vậy chứ? Đúng là mình đã xử sự không đúng với tư cách một đấng trượng
phu. Không tìm hiểu kĩ vấn đề, đã vội vàng xúc phạm một cô gái trẻ, tứ cố vô
thân. Mà cô ấy thông minh thật, một cô gái lý tưởng, tuyệt vời, còn mình là thằng
ngu, là gốc cây mục. Một niềm hạnh phúc như thế, một cô gái xinh đẹp và thơ
ngây, tin tưởng mình như thế, chân thành như thế, có thể nói đã tỏ tình trước với
mình, thế mà mình, đúng là đồ súc sinh... đồ ngốc. Ngoài cái xí nghiệp thủy lợi
ra, mình chẳng còn biết gì nữa...”.
Tuy nhiên, điều làm Tsanka ngạc nhiên hơn cả
là trong bức thư ấy có vô số những từ ngữ của giới trí thức cao cấp. Hôm sau,
Tsanka đến thư viện huyện (cũng vì chuyện này mà trong vùng lan truyền bao
nhiêu chuyện ngồi lê đôi mách, tuy nhiên phần lớn mọi người đều thông cảm và ủng
hộ lòng nhiệt tình và cảm hứng sáng tạo của anh chàng phó giám đốc xí nghiệp).
Tsanka chúi mũi vào các tập từ điển dày cộp trong phòng đọc. Mọi thứ đều rõ, chỉ
có hai chữ PS là Tsanka không hiểu. Đành phải đến gặp hiệu trưởng trường trung
học - người uyên bác nhất trong cả vùng. Sau đó, Tsanka cũng muốn trả lời
Madlena bằng một giọng văn uyên bác như vậy. Lại mất cả buổi chiều ngồi trong
thư viện, cố nhồi nhét vào bức thư cả mớ từ ngữ xin lỗi và hạ mình, khoa trương
và bay bướm. Về nhà, đọc lại bức thư lần nữa, Tsanka suýt ứa nước mắt vì những
câu van xin thống thiết. Khi bình tâm trở lại, Tsanka cảm thấy trong lòng nhẹ
nhõm như đã được tha thứ. Tsanka ý thức rất rõ, mình phải có trách nhiệm đối với
số phận của cô gái bất hạnh. Anh lại hình dung ra vẻ đẹp của cô và hiểu rõ, anh
đã yêu cô say đắm như bị bỏ bùa mê... Thật sung sướng!
Nhưng sáng hôm sau, đọc lại những lời lẽ thống
thiết viết hôm qua, Tsanka không chịu nổi phải xé vụn ra và ném vào sọt rác...
Nền văn học đã phải hứng chịu những tổn thất
không bù đắp nổi. Sự thật đúng như vậy! Đã có bao nhiêu sáng tạo độc đáo, chân
thành từng bị nước, gió, lửa và sọt rác cuốn đi mất?! Còn khi đó Tsanka chỉ sợ
lá thư sẽ bị ai đó không phải là người yêu của mình đọc. Họ sẽ cười nhạo vào
cái sự ngu ngốc và yếu đuối của anh mà không hiểu nổi sự xúc động chân thành của
anh, và họ sẽ nhổ toẹt vào tâm hồn anh. Tsanka quyết định phải tâm sự trực tiếp
với Madlena, nếu cần, anh sẽ quỳ xuống xin lỗi. Tsanka muốn gặp Madlena, nghe
cô nói và nói cho cô nghe.
Tsanka lại đến năn nỉ giám đốc Sarenbaev
xin nghỉ phép hai tuần, thậm chí không lương cũng được.
- Cậu làm sao thế, si tình hả? - Ông
Sarenbaev bực mình. - Lại đến Alma-Ata? Chắc là cậu đã gặp một con chó cái nào ở
đấy chứ gì. Ở đây có bao nhiêu phụ nữ chưa chồng, lại là đồng hương của cậu,
tha hồ chọn, thế mà cậu, đúng là đồ tâm thần!
Nhưng Tsanka vẫn khăng khăng bướng bỉnh như
con bò đực. Anh chỉ nhìn thấy trước mắt mình một sáng tạo thiên nhiên tuyệt vời
- khuôn mặt và cơ thể xinh đẹp của Madlena. Chẳng lẽ lão già ba hoa Sarenbaev
này có thể tìm ra ở đây một cô gái thông minh và xinh đẹp như thế?... Ôi, cô ấy
hát mới hay làm sao!
- Thôi được rồi, tôi cho cậu một tuần đi
công tác, chỉ có điều hàng ngày phải có mặt ở Tổng cục Thủy lợi, tôi sẽ trực tiếp
kiểm tra. - Ông Sarenbaev bực bội cằn nhằn, sau đó giao cho anh một số công việc,
đặt ra một số yêu cầu, cuối cùng ông hỏi: - Có tiền không?
- Có một ít ạ. - Tsanka dè dặt. - Tôi có thể
tạm ứng được không?
- Ôi, Tsanka, - ông Sarenbaev lắc đầu. -
Tôi thấy cậu không còn là cậu nữa... Những chuyến đi như thế này không mang lại
điều gì tốt đẹp đâu. Bọn con gái thủ đô chỉ là một lũ rác rưởi thôi.
- Nhưng tôi có đến với các cô gái đâu, -
Tsanka chống chế.
- Chẳng lẽ đến với đàn ông? - Ông Sarenbaev
cười khẩy. - Thôi được rồi, viết giấy tạm ứng đi, bao nhiêu cũng được, sau đó
phải nghĩ ra cách để có tiền thưởng.
- Cám ơn anh ạ. - Tsanka mỉm cười.
Ngay sau đó Tsanka gửi cho Madlena một bức
điện, rồi lên tàu ngay. Đoàn tàu chạy ì ạch, chậm chưa từng thấy, đỗ hàng giờ ở
các ga, mặc dù vậy vẫn đến đúng giờ. Tsanka lại lao thẳng ra ngoại ô Alma-Ata bằng
taxi. Anh phấn khởi, hăng hái chạy dọc theo hành lang khu nhà tập thể của người
yêu, ôm trên tay bó hoa đắt tiền, cùng với bánh ngọt và kẹo.
Madlena chỉ có một mình ở nhà. Mẹ và con
gái đi dạo. Tsanka quên mất toàn bộ bài diễn văn đã chuẩn bị trước, cứ ấp úng
mãi. Vẻ kênh kiệu và lạnh lùng của người yêu lại càng làm Tsanka hoảng sợ,
trong khi cô lại càng xinh đẹp hơn trước. Madlena mặc chiếc áo váy ngắn, giản dị,
ôm sát lấy cơ thể, mái tóc tết lại thành một bím dày và dài nằm trên bộ ngực
cao. Cô cứ nhìn ra cửa sổ, vẻ buồn bã.
- Madlena, xin em tha lỗi cho anh, - Tsanka
lao tới.
Cô hơi né sang một bên, mắt vẫn nhìn ra cửa
sổ như cũ.
- Tại sao? - Madlena lạnh lùng hỏi. - Hay
đó là do vận mạng, số kiếp của em. Có lẽ suốt đời em sẽ phải đau khổ trong cảnh
cô đơn.
- Không, xin em đừng nói thế, - Tsanka năn
nỉ.
- Không sao, em đã quen rồi... Giá như em
biết cách luồn lách, uốn éo, lừa dối như những người khác... Nhưng em... - cô
gái thở dài cay đắng, những giọt nước mắt to tướng ứa ra. - Em... em chỉ là một
con ngốc ngây thơ!
- Ồ, không, không! Madlena yêu quý, anh yêu
em. - Tsanka lại sán tới, nắm tay cô. - Xin em hãy làm vợ anh! Làm vợ anh!
- Em căm ghét tất cả, - cô gái run rẩy,
khuôn mặt nhăn lại, đau đớn. - Em không tin, không còn biết tin ai nữa!
- Hãy tin anh, tin anh, - Tsanka rên rỉ.
Tsanka nắm chặt bàn tay nhỏ nhắn của cô gái
trong tay mình, lẩm bẩm mấy câu nữa, Madlena im lặng, quay hông về phía Tsanka,
nhẹ nhàng rút tay ra và lùi hẳn vào trong góc.
- Thôi đi, em không thể chịu đựng nổi, - cô
thì thầm, thả lỏng tay ra.
Cuối cùng, Tsanka không thể chịu đựng hơn
được nữa, thở hổn hển trong cơn say đắm. Madlena hoảng sợ thật sự, cô không kêu
lên nhưng cố hết sức chống lại.
- Anh đi đi, đi đi, đồ trơ trẽn. - Cô tức
giận nói.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Tsanka bật ra, đứng
như trời trồng. Lại có tiếng gõ. Cả hai lặng đi.
- Madlena, con có ở trong đó không? - Tiếng
bà mẹ vang lên vẻ lo lắng.
Hai kẻ âm mưu trẻ tuổi nhìn thẳng vào mắt
nhau, rồi ánh mắt Madlena hướng về phía chiếc ghế đẩu.
- Con ra đây, ra đây. - Madlena nói to với
mẹ, lúc đi ngang qua Tsanka cô ném về phía anh một cái nhìn sắc lẻm, ranh mãnh,
nhếch mép nở một nụ cười tinh nghịch và thì thầm bằng một giọng của kẻ đồng
lõa: - Anh cứ yên tâm.
Hai ngày tiếp theo, Tsanka phải lo giải quyết
công việc của xí nghiệp, còn buổi tối thì cùng đến nhà hát, rạp chiếu phim với
Madlena. Trong khán phòng tối, Tsanka dịu dàng nắm bàn tay lạnh ngắt của
Madlena vuốt ve và cảm thấy thích thú như thời trai trẻ. Hết phim, Tsanka muốn
nắm tay người yêu nữa, nhưng cô cương quyết không cho.
- Anh là người Chechnya? - Cô quay mặt về
phía bóng tối. - Và em cũng là người Chechnya, em đề nghị anh phải tôn trọng
phong tục tập quán của chúng ta. Trong đời em, chỉ có những người chồng mới được
phép chạm vào người em.
- Ôi, - Tsanka ngạc nhiên. - Thế em có mấy
người chồng?
Ngay cả trong bóng tối cũng có thể thấy rõ
Madlena giật mình, cau có quay mặt đi.
- Bao nhiêu người? - Người yêu của Madlena
vẫn không chịu.
- Hai người, - cô xẵng giọng đáp. - Cả hai
lần em đều bị bắt làm vợ. - Rồi cô vội chuyển đề tài, tức giận nói: - Khi mới
cưới, tất cả các anh đều dịu dàng lắm, nhưng khi đã chán rồi, không chỉ cầm tay
mà đến gần vợ cũng không muốn nữa. Thế còn anh, lấy vợ mấy lần rồi?
- Anh có hai người vợ cùng lúc, - Tsanka
ngây thơ thú nhận, thậm chí còn cảm thấy oai nữa.
Madlena sững sờ, đứng lặng.
- Hai vợ là thế nào? Đó là thời trung cổ
man rợ. Làm sao họ có thể sống chung với anh được? Không bao giờ em có thể chịu
đựng nổi điều đó! Em không ngờ anh lại như vậy.
- Chẳng qua là mọi việc đã dẫn đến như vậy,
- Tsanka cảm thấy bức xúc không kém gì cô gái.
- Rồi thế nào, anh có đối xử công bằng với
họ không?
- Khác nhau, nhưng anh tôn trọng cả hai.
- Hiện giờ họ ở đâu?
- Chết hết rồi.
- Cũng đúng thôi, không thể khác được. Tất
cả đàn ông các anh đều giống nhau. Đơn giản là mọi rợ! Em không thể nào hiểu nổi.
Thậm chí em thấy sợ đi bên cạnh anh.
- Thôi đi, Madlena. Việc ấy thì có liên
quan gì.
- Anh thử hình dung, nếu em cùng lúc có hai
người chồng... Nặng nề lắm...
Ngày hôm sau, do bà Alla Nikolaevna nằng nặc
yêu cầu, Tsanka phải đưa Madlena đến nhà bà để làm quen. Vợ chồng ông bà Basov
chuẩn bị cho cuộc gặp với cô vợ chưa cưới của Tsanka rất chu đáo: hai vợ chồng
đều mặc lễ phục rất đẹp, chuẩn bị bữa ăn ngon và có quà cho đôi bạn trẻ. Tuy
nhiên buổi gặp mặt lại tẻ nhạt, ể oải, thậm chí gò bó nữa.
Sau đó, trong lúc Tsanka đưa Madlena về
nhà, cô dồn dập hỏi hết câu này đến câu khác:
- Có đúng là ông Basov ấy làm việc ở thành ủy
không? Căn hộ của họ sang trọng quá! Còn đồ gỗ nữa chứ! Họ yêu quý anh lắm hả...
Nhưng bà vợ Alla Nikolaevna thì chán ngắt, hình như bà ấy ganh tị với anh đấy.
Bà ấy nhìn anh mới ghê chứ! Anh có thấy họ sắp đặt đồ gỗ trong nhà không? Cứ
như trong nông trang ấy. Còn tấm thảm trên sàn nữa? Lẽ ra phải treo trên tường
mới đúng. Anh có thấy họ xếp những bộ đồ ăn ở tủ búp-phê không? Thật quái gở,
chẳng có thẩm mỹ gì cả. Ôi, giá như em có căn hộ như thế, em sẽ biến nó thành
viên kẹo ngọt lịm. Còn căn hộ hai buồng của anh ở Chyly thì sao? Có đầy đủ tiện
nghi không? Anh sống một mình hả?
Tsanka chỉ biết gật đầu.
- Nhưng Chyly cũng là thành phố chứ? -
Madlena tiếp tục vặn vẹo. - Ở đấy có nhà hát, có rạp chiếu bóng không? Còn nhạc
viện nữa? Ngôi làng à! Anh định sống mãi ở đấy sao!? Em nghĩ, một cán bộ như
ông Basov có thể giải quyết được mọi việc. Ý em muốn nói đến việc anh chuyển đến
sống ở Alma-Ata, việc làm, căn hộ và nhiều việc khác nữa... Hơn nữa, có thể thấy
rõ là họ rất yêu quý anh... Mà anh chinh phục họ bằng cách nào thế? Chắc là bằng
đôi mắt xanh của mình. Anh biết cách “sắp xếp” họ đấy. Ôi, cái bánh ga-tô mới
khủng khiếp chứ. Thật vô vị. Rồi em sẽ làm cho anh thấy! Nhưng đó cũng là điểm
yếu của em đấy...
* * *
Sáng hôm sau, trong lúc ăn sáng, bà Alla
Nikolaevna bỗng tỏ ra khắt khe và nghiêm nghị.
- Thôi, em cứ bình tĩnh, thôi đi, - ông chồng
vuốt vuốt lên tay bà vợ.
- Không, em không thể, - bà Alla Nikolaevna
không kìm được. - Em coi cậu ấy như con... Tsanka, ta không thể không nói được,
con bé ấy không hợp với cháu đâu, nó chỉ là con búp bê xinh đẹp thôi. Đúng, vẻ
ngoài xinh đẹp, nhưng trong đầu thì rỗng tuếch, nếu không muốn nói là tệ hơn.
- Thôi đi em, đừng nói thế. Cô ấy còn trẻ,
- ông Basov cố xoa dịu tình hình.
- Trẻ cái gì nữa? Nó đã ba mươi tuổi rồi.
Nó đã nếm đủ mùi đời. Theo bản năng của phụ nữ, ta linh cảm con bé không xứng với
cháu đâu, cháu cần một phụ nữ chín chắn chứ không phải cái con đỏm dáng, nhạt
nhẽo và đồng bóng ấy...
* * *
Tuy nhiên, Tsanka không chịu nghe lời bà
Basov, toàn bộ tâm hồn và thể xác của anh đang chìm đắm trong một thế giới
khác. Tối qua lúc đưa Madlena về, Tsanka không kìm được, ôm chặt Madlena vào
lòng và cố hôn cô. Cô gái chống cự một cách tuyệt vọng, nhưng Tsanka đã kịp cảm
nhận được cơ thể mềm mại, trẻ trung và cân đối, cùng hương vị quyến rũ từ làn
môi đỏ thắm của Madlena.
Chiều hôm ấy Tsanka phải về, Madlena cùng mẹ
và con gái ra ga tiễn anh. Nhìn họ, không hiểu sao Tsanka lại nhớ đến bà Alla
Nikolaevna và thầm nghĩ “đúng là bà già lẩm cẩm”.
Tsanka cảm thấy vui sướng, hân hoan và mãn
nguyện. Buổi chiều ấm áp, yên bình. Trên nóc nhà ga mấy con chim bồ câu kêu gù
gù, còn lũ chim sẻ thì la hét chí chóe. Bầu trời cao, xanh thẳm, không một gợn
mây, xa tít ở phía đông có vài đụn mây thưa thớt trong ráng chiều đỏ như lửa.
Không khí thoảng mùi bụi, mùi khói tàu hỏa và làn hơi ấm đầu mùa. Mùa xuân đã đến.
Đó là một cuộc sống mới, một thế hệ mới và những cảm xúc mới. Tsanka thò tay ra
cửa sổ vẫy vẫy những người đi tiễn. Hai bà cháu cũng giơ tay vẫy lại, chỉ có
Madlena là cúi đầu bối rối, ném về phía Tsanka ánh mắt buồn rầu, cố giấu những
giọt nước mắt.
“Thật là tuyệt! - Tsanka nghĩ không biết đến
lần thứ mấy. - Làm sao mình có thể sống thiếu cô ấy?”.
Đoàn tàu rúc một hòi còi dài, từ từ lăn
bánh.
* * *
... Vài ngày sau, Tsanka ngồi trong sân văn
phòng cùng với các đồng nghiệp hút thuốc. Đột nhiên có một con mèo không còn trẻ
nữa, lông lá bù xù, xơ xác vì đánh nhau, kêu khừ khừ một cách hung dữ, nhắm mắt
nhắm mũi đi ngang qua.
- Các cậu nhìn kìa, không còn sức mà lê nữa,
thế mà cũng lao vào đấy. - Một người nào đó nói đùa.
Tất cả cười ồ lên. Và Tsanka cũng cười.
* * *
Mùa xuân đến rất nhanh. Từ tháng Ba cho đến
tháng Bảy là những tháng bận rộn nhất trong xí nghiệp thủy lợi. Suốt ngày Tsanka
phải có mặt ở nơi làm việc, chẳng những thế, ông Sarenbaev lại bị viêm phổi phải
nằm viện, nên gánh nặng công việc của Tsanka tăng lên gấp đôi. Suốt ngày Tsanka
đi kiểm tra hệ thống kênh mương, cống, đập, ban đêm lại chúi mũi vào với đống
giấy tờ.
Việc thư từ với người yêu thưa dần - không
có thời gian và cũng chẳng còn sức. Trong một bức thư, Madlena sướt mướt năn nỉ
Tsanka chuyển đến thành phố Alma-Ata, cô viết, cô rất nhớ anh và không tin vào
sự chân thành trong những lời hứa hẹn của anh.
Tiếp theo bức thư đó là thư của Bakarov, bạn
chiến đấu cùng trung đoàn thông báo cho Tsanka biết, ông Basov đã giúp cho anh
và nhiều người Chechnya khác có được công việc mới và chỗ ở mới.
Cuối thư Bakarov còn viết thêm: “Mình nghe nói, cậu có ý định quan hệ nghiêm
túc với Madlena. Hãy cẩn thận, đừng dây vào, gia đình ấy có nhiều tai tiếng, xử
sự không tốt, tên của họ không phải Nga, cũng chẳng phải Chechnya hay Kavkaz,
chẳng ai biết là gì. Với tên tuổi và tư cách như thế... Tóm lại, hãy tránh xa họ
ra”.
Tim Tsanka như thắt lại khi đọc những thông
tin đó, nhưng chỉ giây sau, anh lại nghĩ: “Có lẽ đây là âm mưu của bà Alla
Nikolaevna”, và Tsanka lại thở phào nhẹ nhõm. Tuy nhiên, một con sâu nào đó bắt
đầu gặm nhấm trong tâm trí Tsanka.
Sau đó, không hiểu tại sao, Tsanka viết thư
cho Madlena thưa hơn và ngắn hơn, đó không phải là những bức thư nữa mà chỉ là
những câu trả lời lấy lệ. Cô ca sĩ trẻ cảm thấy bị xúc phạm liền phẫn nộ phản ứng
ngay.
Tsanka bình thản chịu đựng sức ép đó, thậm
chí không trả lời nữa. Khi đó một việc hết sức bất ngờ đã diễn ra Tsanka nhận
được bức điện ghi:
“Ngày
11 tháng Năm cả nhà đã lên tàu 191 đến nhà người thân ở Kzyl-Orda. Tàu sẽ đi
ngang qua ga Chyly. Toa số 9. Hãy ra đón. Madlena”.
Sáng hôm ấy, Tsanka chờ sẵn trên sân ga.
Tàu đến muộn. Tsanka đang vội vì anh được triệu tập đến Ủy ban vào lúc chín giờ
để báo cáo tình hình công việc. Cuối cùng tàu cũng đến, hai người phụ nữ xuống
tàu và làm cho cả nhà ga phải kinh ngạc vì những bộ trang phục theo mốt thủ đô
và đống hành lý của mình.
- Sao mọi người mang va li xuống làm gì? -
Tsanka ngạc nhiên. - Tàu chạy ngay bây giờ đấy.
- Chúng tôi quyết định ở lại thăm anh vài
ngày, dù sao thì anh cũng đã có lời mời chúng tôi. - Bà Mylana nhếch đôi mỏng mỉm
cười ngoa ngoắt.
- Nhưng mọi người đi Kzyl-Orda mà?
- Nếu anh không muốn đón khách thì chúng
tôi sẽ đi tiếp, - bà Mylana cau mặt.
- Ồ, không, không, tôi rất vui, - Tsanka
đáp với nụ cười méo xệch. - Thế còn cháu gái đâu?
- Người thân của cha nó lại bắt đi rồi, -
bà mẹ vẫn tiếp tục cuộc hội thoại. - Thật tội nghiệp cho Madlena, nó đau khổ lắm.
Anh thấy không, con bé gầy tọp đi. Còn anh, trông béo tốt đấy, chắc là ăn nhiều
lắm phải không. Thôi được rồi, ta đi đâu bây giờ? Chúng tôi mệt lắm rồi, tàu bẩn
quá, cứ chạy được cây số lại dừng.
Nhà một kẻ độc thân như Tsanka khá là bừa bộn,
mọi thứ đều bẩn thỉu và không được chăm chút. Anh không thể lường trước sự xuất
hiện của các vị khách.
- Mời vào, mời vào, - Tsanka đi trước, hai
tay xách hai va li to nói với hai người phụ nữ. Xin cứ tự nhiên. Đây là nhà bếp,
nhà vệ sinh. Tôi chưa kịp dọn dẹp, không có thời gian, công việc bận quá. Tôi để
tiền trên bàn đây, xin mời, ra chợ và cửa hàng mua thực phẩm gì đó, còn tôi phải
đến ủy ban ngay bây giờ... muộn rồi.
Madlena đưa Tsanka ra tới hành lang.
- Anh không về muộn chứ? - Cô vuốt nhẹ vào
tay Tsanka, buồn rầu hỏi, ánh mắt chứa chan tình yêu và lòng chung thủy.
- Anh cũng không biết nữa... Sợ đến chiều
cũng chưa xong... Em thông cảm. - Tsanka vừa bước ra vừa đáp, và cái cảm giác
yêu đương lại bắt đầu len lỏi vào cái đầu bộn bề công việc của Tsanka.
Tsanka chỉ về được vào lúc chín giờ đêm. Suốt
cả ngày công việc chẳng đâu vào đâu cả: bản báo cáo tại ủy ban bị đổ bể, rồi cuộc
tranh cãi ở phòng thống kê huyện, sau đó phải lôi vào văn phòng một người lái
máy kéo say rượu, sau bữa trưa là cuộc họp giao ban, quát mắng cấp dưới một trận.
Hết giờ làm việc Tsanka còn phải vào bệnh viện thăm ông giám đốc Sarenbaev.
Ngay cả ở đấy mà cô nhân viên trực văn phòng cũng tóm được Tsanka - hóa ra có một
đoàn thanh tra từ tỉnh xuống. Tsanka vội quay về văn phòng, bố trí khách sạn
cho các vị thanh tra, rồi phải nhậu với họ. Còn một số việc gấp nữa, nhưng
Tsanka bỏ hết, lao về nhà.
Căn hộ của Tsanka trở nên sạch bong, thoảng
mùi nước hoa, mùi thức ăn ngon và mùi đàn bà. Ba người ngồi rất lâu ở bếp, ăn tối.
Tsanka uống hai cốc vodka do bà Mylana rót, sau đó bắt đầu nói cà lăm.
- Thôi đủ rồi, mẹ ạ, đừng rót cho anh ấy nữa,
- Madlena lo lắng nói. - Anh ấy không nên uống nữa... Mà nói chung anh ấy có biết
uống đâu.
- Đúng, anh không phải là kẻ nghiện ngập. -
Tsanka đã líu lưỡi.
- Căn hộ này là của anh hay nhà công vụ? -
Bà mẹ nhìn lên trần, tỏ ý quan tâm.
- Nhà công vụ ạ.
- Không thể chuyển thành sở hữu cá nhân được
à?
- Mọi việc đều có thể-ể-ể-ạ.
- Thế sao anh không làm?
- Chẳng có-ó thời gian-an-an-ạ.
- Tôi nghĩ có thể đổi nó lấy căn hộ một
phòng, hay ít ra là một phòng trong khu tập thể ở Alma-Ata.
Tsanka không nói gì cả, anh mệt rã người và
say mèm, chỉ muốn ngủ.
- Dĩ nhiên rồi, - Madlena nói thay Tsanka.
- Anh còn giữ mối quan hệ tốt với ông Basov
chứ?
- Phải, - Tsanka gật đầu, - ông ấy là người
thân của cháu.
- Thế còn anh?
- Cũng thế.
- Thôi đi ngủ đi, sáng mai nói tiếp, - mẹ
Madlena dịu dàng ra lệnh.
Ngày hôm sau, mọi việc diễn ra cũng tương tự
như vậy. Sau một ngày nữa là thứ bảy, Tsanka tranh thủ về nhà ăn trưa. Vừa bước
vào nhà, bà Mylana lăng xăng chạy lại.
- Tôi đi dạo đây, tôi sẽ ghé vào chợ, có
chút việc ở bưu điện nữa. Đến chiều mới về. - Bà nói rồi đóng sập cửa lại sau
lưng.
Tsanka tắm táp rất lâu, sau đó vào bếp. Bàn
ăn bày biện rất thanh lịch đối với người Chyly, mùi vị thơm ngon, rất muốn ăn.
- Nào, chúng ta ăn thôi.
- Không, không, mẹ con em vừa ăn xong, anh
ngồi xuống ăn đi.
- Mẹ đi đâu thế? - Chủ nhà tỏ ra ngạc nhiên
vì sự vắng mặt của bà Mylana.
- Mẹ muốn đi dạo một lát, ghé chợ, cửa
hàng... À, nhân tiện, mẹ bảo anh là người đàn ông đứng đắn và tốt bụng... Nào
ngồi xuống đi, thức ăn nguội hết rồi.
Tsanka ngồi xuống bên chiếc bàn ăn nhỏ tự
đóng - món quà của ông Voloshin tặng anh, nhìn ngắm rất lâu những đĩa thức ăn
được đậy cẩn thận bằng những chiếc khăn ăn mà không biết bắt đầu từ món nào.
- Anh thử món salat đi, món em yêu thích đấy.
Em chế biến nó để dành riêng cho anh.
Tsanka đọc bài kinh truyền thống rồi bắt đầu
ăn. Thoạt đầu, Tsanka muốn tỏ ra mình cũng là một người trí thức nên dùng dao
và nĩa, nhưng sau đó, anh nhổ toẹt vào mọi nghi lễ mang tính hình thức và bắt đầu
ăn như hàng ngày.
Madlena vào gian bếp nhỏ và bắt đầu lau
chùi cửa sổ. Cô mặc chiếc áo váy ngắn, mỏng, màu sắc sặc sỡ, ôm gọn cơ thể,
nhưng không hiểu sao lại đi đôi giày cao gót. Đầu tiên cô dùng chiếc giẻ ướt thận
trọng lau các thanh đứng, sau đó vươn người lên lau thanh ngang bên trên để lộ
ra cặp đùi đẹp, cân đối, trắng như tuyết. Tsanka quên bẵng chuyện ăn uống, miệng
há hốc, chết lặng đi trong một tư thế rất buồn cười. Cuối cùng, Madlena đứng xuống,
xoay người lại, nghiêm khắc liếc xéo một cái, cúi xuống bệ cửa sổ. Sau đó cô lại
quay lưng về phía Tsanka, vươn người lên.
Niềm đam mê thời trai trẻ như trỗi dậy, máu
trong người sôi lên, tuy nhiên tuổi tác Tsanka không còn như xưa nữa. Phản xạ của
đạo lý thường tình đã phát huy tác dụng, mà cũng có thể chỉ đơn giản là vì tuổi
tác. Tsanka như bị phân thân. Trái tim trẻ trung với một sức mạnh điên cuồng
lôi anh về phía trước, về phía cửa sổ, phía ánh sáng và cô gái xinh đẹp, nhưng
cái đầu hói đã điểm sợi bạc thì quá hiểu, rõ ràng là cô muốn khêu gợi anh, chọc
tức anh.
Cuối cùng, sau khi đã trình diễn đủ mọi tư
thế có thể, Madlena sử dụng đến tư thế cuối cùng - ấn tượng nhất và cởi mở nhất:
cô đứng thẳng trên hai chân, cúi cả người xuống để lau chùi phía bên dưới giàn
lò sưởi hơi nước. Tuy nhiên, hành động khiêu khích trắng trợn đó lại phản tác dụng
- Tsanka cụp mắt xuống và bắt đầu cắm cổ ăn.
Madlena thở dài, đứng thẳng lên, ngạc nhiên
nhìn người đàn ông như đang chết đói, tỏ ra lo âu thực sự, khuôn mặt đỏ bừng...
Madlena đổ mồ hôi! Những sợi tóc xoăn dính bết vào hai bên thái dương, vào cái
trán ngắn, vào mũi và chiếc cằm nhọn đẫm mồ hôi. Nhưng cô gái vẫn bướng bỉnh
lau đi lau lại cái cửa sổ! Cô lại nhón chân vươn người lên, nhưng Tsanka chỉ cắm
đầu vào đĩa thức ăn. Madlena nhận ra điều đó bằng khóe mắt, cô xoay hẳn người lại
trong tư thế tự ái, vung tay lên.
- Anh giúp em với. - Cô thốt lên, - Anh
không thấy em phải vất vả thế nào à, em không vươn tới. - Cặp môi mọng ươn ướt
của cô đỏng đảnh chìa ra như mời mọc.
Tsanka ném về phía cô gái ánh mắt dò xét,
và như một thợ săn lão luyện, một trinh sát mặt trận giàu kinh nghiệm, anh hiểu,
anh không thể chịu đựng hơn được nữa, anh đã bại trận.
“Một sự chuẩn bị thâm hiểm, một cái bẫy đê
tiện”, - một giọng nói vang lên trong đầu Tsanka như nhắc nhở, nhưng sức mạnh của
khát vọng đã vẫy gọi Tsanka lao vào. Tsanka lặng lẽ đứng lên, bước đến sát
Madlena, nhìn xuống và chỉ thấy một cái rãnh sâu giữa bộ ngực căng tròn, trắng
hồng làm mê đắm lòng người. Lý trí câm lặng. Với sự cuồng nhiệt hung bạo,
Tsanka ôm chầm lấy người đẹp, bế lên, làm đổ cả bàn ghế, đi về phía phòng ngủ.
Madlena chống cự, kêu the thé, đấm vào lưng, vào vai Tsanka. Anh ném cô lên giường,
bắt đầu mò mẫm lung tung, cố hôn cô, niềm khát khao như vỡ òa ra.
- Thôi đi, thôi đi, dừng lại đi, không được.
- Cô gái tức giận chống lại, gạt bàn tay to lớn của anh, cố thoát ra.
Sức mạnh trong cuộc đọ sức không bằng nhau,
dần dần Madlena phải khuất phục - bộ ngực phơi ra, tuy nhiên Tsanka có cảm giác
như Madlena cố tình bày nó ra trước mặt mình, trước cái miệng đang thở hổn hển
của mình. Những cử chỉ hoàn toàn nữ tính, rất điệu nghệ, đã được cân nhắc, tập
luyện kĩ lưỡng đó đột nhiên làm Tsanka như tỉnh ra, lý trí trở lại. Tsanka lặng
đi, ánh mắt của anh dừng lại trong giây lát nơi cơ thể bất động, Tsanka vội đứng
dậy nhìn cái cơ thể nằm thượt trên giường bằng ánh mắt phán xét, thậm chí ghê sợ,
rồi quay lưng lại, đi ra cửa.
- Anh tưởng em dễ dàng lắm sao? Chính em
cũng muốn điều đó, em yêu anh, - Madlena thốt lên bằng một giọng van vỉ, tuyệt
vọng.
Tsanka không nghĩ ngợi thêm gì nữa, đột ngột
quay lại và lao lên giường...
Tiếng gõ cửa vang lên khi họ còn nằm trên
giường. Tsanka bật dậy như bị con gì đốt, vội vàng mặc quần áo, chạy ra cửa.
- Sao anh không mở cửa? - Ngoài hành lang
bà Mylana cằn nhằn.
Bà còn hỏi thêm câu gì đó nữa, nhưng Tsanka
đã ra đến cổng, anh hiểu, anh đã bị dính bẫy, mặc dù vậy anh vẫn bỏ chạy, chạy
trốn khỏi bản thân, khỏi sự ngu ngốc và ấu trĩ của mình...
Nhưng đã muộn...
Lúc chạy xa ngôi nhà, Tsanka bỗng nhớ lại
những con thú bất lực giãy giụa và khóc lóc tuyệt vọng trong những chiếc bẫy
anh gài. Giờ đây, đến lượt anh...
Làm gì bây giờ? Có thể như vậy lại tốt hơn
chăng? Mà có chuyện gì ghê gớm đâu? Madlena là một cô gái tuyệt vời, và bất hạnh
nữa. Dĩ nhiên rồi, cô ấy muốn kiếm một tấm chồng bằng bất cứ thủ đoạn nào. Biết
làm sao được? Mà cô ấy mới ngọt ngào, chu đáo và tế nhị làm sao...
Mình là thằng ngu hay mình gặp may! Tsanka
bất giác mỉm cười, thậm chí nhảy cẫng lên vì hài lòng. Theo thói quen, anh rẽ
vào văn phòng cơ quan, ngồi ngẫm nghĩ rất lâu, lật lật những tờ giấy một cách
vô thức, lúc lúc lại nhìn đồng hồ, chờ cho đến sáu giờ chiều. Thời gian này,
chiều thứ bảy nào các bạn đồng hương cũng đến tìm anh, họ cùng tắm hơi nước rất
lâu trong nhà tắm của xí nghiệp, vừa tắm vừa chuyện trò, buồn nhớ quê hương,
đoán non đoán già thời gian được trở về Kavkaz, kể cho nhau nghe những câu chuyện
lý thú, bi thảm, uống rất nhiều trà nóng, và không ít lần uống rượu nữa.
Khuya hôm ấy, Tsanka về nhà như một cậu bé
bị ăn đòn. Anh rụt rè gõ cửa chính căn hộ của mình. Madlena ra mở cửa.
- Sao anh về muộn thế? - Cô thì thầm lo lắng
hỏi. - Mẹ biết hết rồi, mẹ mắng em... khóc lóc. Cứ nằm mãi trên giường. Mẹ muốn
ra đi. Anh có đói không? Xuống bếp đi, - Madlena dịu dàng vuốt lưng Tsanka.
Với những bước chân loạng choạng của người
có tội, Tsanka nhón gót bước xuống nhà bếp. Trên bàn lại đầy đồ ăn. Tsanka rất
đói và say. Madlena ngồi đối diện chăm sóc cho anh, bản thân mình cũng ăn một chút.
Tsanka ăn rất nhiều, ngấu nghiến, thỉnh thoảng lại cố nhìn vào mắt cô gái để
xem chúng có biểu lộ điều gì không, nhưng không được - men rượu đã làm mờ mắt
anh. Khi đã no, một cảm giác rã rời lan khắp cơ thể, Tsanka ngáp một cái rõ dài
rồi khoan khoái vươn người, cảm thấy nhẹ nhõm và dễ chịu. Tsanka nhìn chằm chằm
vào mặt Madlena, đờ đẫn mỉm cười, nắm lấy tay cô. Madlena không chống cự mà ngược
lại, dịu dàng vuốt ve lòng bàn tay anh, nở một nụ cười quyến rũ, xấu hổ cụp mắt
xuống. Một sự ham muốn thể xác lại choán ngợp cơ thể. Tsanka kéo Madlena vào
lòng mình.
- Thôi đi anh, thôi đi, - Madlena mỉm cười,
thì thào, - có mẹ ở nhà... Anh làm gì thế? Ôi, không nên... Sao anh lại thế?
Ôi, anh tham lam quá!
Tsanka đã say, đứng bật dậy, đi vòng qua
bàn định ôm Madlena. Nhưng cô thô bạo đẩy Tsanka ra, khuôn mặt bỗng trở nên dữ
tợn. Quá bất ngờ, Tsanka ngã dúi vào bếp lò, đập vào cái chảo, phát ra một tiếng
động.
- Anh nghĩ tôi là con điếm à? - Madlena nói
to. - Sao anh dám làm vậy? - Rồi cô đột nhiên khóc òa lên, đập đầu xuống bàn. -
Tôi không ngờ anh lại như thế này...
Tsanka chết sững, tỉnh lại một chút. Đúng
lúc ấy có tiếng cọt kẹt trên giường, rồi tiếng bước chân.
- Anh Tsanka đấy à, - giọng nói đơn đớt, độc
địa của bà mẹ vang lên, bà không bước ra chỗ sáng đèn mà vẫn đứng trong bóng tối
của căn phòng, - Anh xử sự thật là nham hiểm. Thế mà tôi cứ nghĩ anh là một người
cao thượng, trung thực, là một người Chechnya đích thực! Tôi đã tin cậy giao
con gái tôi cho anh... Thế mà anh, một người trưởng thành, trông có vẻ đứng đắn,
vậy mà đột nhiên... Tim tôi đau quá. Anh không thấy xấu hổ sao? Chúng tôi phải
làm gì bây giờ? Làm sao chúng tôi có thể sống được với nỗi nhục này?
Bà Mylana bắt đầu khóc rấm rứt.
- Ôi, mẹ ơi, mẹ ơi, thôi đi mẹ, mẹ cứ yên
tâm. - Cô con gái chạy vào phòng, - Mẹ không nên lo lắng, mẹ nằm xuống đi, uống
thuốc đi. Anh Tsanka, mang nước lại đây, nhanh lên.
Tsanka rót nước, cảm thấy một nỗi thương
xót sâu sắc cùng với cảm giác tội lỗi và trách nhiệm, lao vào căn phòng tối, định
bật đèn lên.
- Đừng, đừng, đừng bật đèn. - Madlena ra lệnh.
- Đưa nước đây nhanh lên. Mẹ ơi, nước đây rồi, uống đi, từ từ thôi, thế, bây giờ
mẹ sẽ thấy dễ chịu hơn. Mẹ cứ yên tâm...
- Ôi, ôi, - bà Mylana vẫn nằm trên giường
rên rỉ, cô con gái cúi xuống người bà, còn Tsanka bối rối đứng phía sau chứng
kiến toàn bộ cảnh lộn xộn đó.
- Mẹ cứ yên tâm, mọi việc rồi sẽ tốt đẹp.
Chuyện đã thế rồi, - Madlena dịu dàng, âu yếm nói. - Nhưng anh ấy không có lỗi
đâu, mẹ đừng mắng anh ấy. Cả hai chúng con đều có lỗi. Chẳng qua là... biết nói
thế nào nhỉ?... Thôi, chẳng qua là con cũng yêu anh ấy. Con là người có lỗi
trong mọi việc! Con! - Madlena cũng khóc nấc lên.
Tsanka mụ mẫm cả người, chẳng hiểu gì cả,
chẳng biết phải làm gì nữa. Anh cảm thấy đau cả đầu khi chứng kiến tất cả những
gì vừa xảy ra. Trong bóng tối, Tsanka không nhìn thấy gì, chỉ nghe tiếng hai
người đàn bà khóc rấm rứt. Anh cũng cảm thấy khó chịu, khổ sở, muốn bỏ chạy đi
đâu đó. Hai người đàn bà này tự nhiên bỗng trở thành cái ách tròng vào cổ anh,
chiếm luôn căn hộ của anh, cả cái giường của anh, còn bây giờ thì đè lên người
anh. Tsanka muốn bỏ đi, lùi lại một bước, nhưng đột nhiên từ trong bóng tối, bà
Mylana đang nằm trên giường liền túm lấy tay anh.
- Những gì nó nói, có đúng như thế không? -
Bà Mylana tức giận thì thào. - Có đúng là hai người yêu nhau? Có đúng là vì
tình yêu và tự nguyện?
Tsanka không nói gì cả, cố giằng tay ra, bước
ra cửa.
- Tại sao anh không trả lời? - Madlena liền
túm nốt vào tay kia của Tsanka rồi quỳ thụp xuống chân anh. - Chẳng lẽ không
đúng như vậy sao? Chẳng lẽ anh lừa dối em? Chẳng lẽ em bị lừa? Tsanka! Anh yêu!
Tsanka giật mạnh tay và tuyệt vọng hiểu ra
rằng, có hai quả tạ to quá mức chịu đựng đang treo lủng lẳng trên hai tay anh.
Anh nặng nhọc thở hắt ra, rũ xuống, bất lực đầu hàng. Anh hiểu, anh đã bị sập bẫy,
bị xỏ mũi, và anh không còn đường lui nữa.
- Ôi, con gái ơi, đừng khóc nữa, - bà
Mylana vẫn tiếp tục rên rỉ. - Tsanka, con ơi, tại sao con lại độc ác với một cô
gái yếu đuối thế? Nó ngây thơ, cả tin như thế. Bao nhiêu chàng trai bám theo
nó, nhưng nó chỉ nhắc đến tên con. Ta phải làm gì bây giờ, Tsanka?
- Sao anh im lặng? - Cô con gái lại hét
lên, - Tsanka, anh đã nói với em bao nhiêu lời lẽ tốt đẹp! Còn em, đúng là con
ngốc, đã tin anh. Chính anh đã cầu xin tình yêu của em, gần như quỳ xuống cầu
hôn... Em đúng là một con ngốc! Em bất hạnh quá!
- Ôi, không, không được nói thế, con ơi. Cậu
ấy là một người đàn ông cao thượng, cậu ấy yêu con. Mẹ thấy rõ như vậy. Cậu ấy
sẽ cưới con, - trong cơn xúc động thực sự, bà mẹ thốt lên. - Anh sẽ cưới nó chứ?
Sao anh im lặng, Tsanka? - Bà giật mạnh tay chú rể.
- Vâng, - Tsanka hờ hững thở hắt ra, đầu óc
quay mòng mòng, mất hết ý thức, bất lực ngồi phệt xuống.
Hai người đàn bà giờ đây đã trở thành ruột
thịt của anh, dịu dàng ôm lấy anh.
... Sáng sớm, Tsanka tỉnh dậy, cổ họng đắng
nghét. Ngoài đường trời đã rạng.
Cạnh anh là cơ thể ấm áp của Madlena. Từ
phòng bên vọng lại tiếng ngáy đều đều...
Một đoàn tàu hàng chở nặng chạy ngang qua,
bánh sắt đập rầm rập xuống đường ray làm rung chuyển cả ngôi nhà. Chạy qua ga,
nó rú một hồi còi dài tiễn biệt...
Tsanka thận trọng xoay người, định ngồi dậy,
cô gái lầu bầu trong giấc mơ ngọt ngào, xoay người lại, nhẹ nhàng ép cả cái cơ
thể trẻ trung của mình vào người Tsanka, gác đầu lên tay anh, dịu dàng vuốt ve
anh.
“Giờ đây mình không còn độc thân nữa, -
Tsanka thầm nghĩ, hít thở mùi hương tỏa ra từ mái tóc dày của cô. - Mình đang hạnh
phúc”.
Sau đó, Tsanka sực nhớ, hôm nay là chủ nhật,
có thể vô tư tiếp tục nằm. Anh đắm đuối ôm chặt cô gái vào lòng... Họ chẳng ngại
ngần bà mẹ ngủ ở phòng bên.
Sáng thứ hai, Tsanka gọi kế toán và theo lệnh
chi, anh được nhận một khoản tiền lớn tạm ứng lương. Tsanka ăn trưa ở nhà. Bà mẹ
vợ tương lai hỏi Tsanka phòng đăng ký kết hôn của huyện nằm ở đâu, và ngay
trong ngày hôm đó, bà Mylana đã thỏa thuận xong với bà trưởng phòng hộ tịch, vậy
là chỉ sau một ngày, vì “lý do đặc biệt, tuổi không còn trẻ, các bên đều mong
muốn, đã có thời gian sống chung với nhau rất lâu”, một cuộc hôn nhân theo đúng
luật pháp đã được đăng ký chính thức.
Đúng một tuần, sau khi gia đình Madlena đến
Chyly, vào ngày 18 tháng Năm, cuộc hôn nhân của Tsanka với Madlena theo đúng
phong tục tập quán đạo Hồi đã được vị linh mục Hồi giáo địa phương là người
cùng làng với Tsanka làm lễ chúc phúc. Sau đó, đôi vợ chồng trẻ còn được bà mẹ
vợ Mylana chúc phúc một lần nữa, rồi nước mắt rưng rưng bà chia tay họ để trở về
Alma-Ata.
Đám cưới được tổ chức rất hoành tráng. Tất
cả đồng nghiệp, đồng hương, láng giềng của Tsanka đều trầm trồ trước vẻ đẹp kiều
diễm và sự hào phóng của cô dâu. Sau đám cưới, Tsanka như trẻ ra, vui vẻ và yêu
đời hơn, nhưng việc đó chỉ kéo dài được hai, ba tuần. Sau đó không hiểu sao,
Tsanka như bị đánh bại, trở nên ủ rũ, buồn bã, quỵ xuống dưới gánh nặng của cuộc
sống gia đình.
Hàng ngày, ngay từ sáng sớm Madlena đã rên
rỉ, đòi chuyển về Alma-Ata, cô bảo, cô muốn hát, muốn được xem phim, xem hát,
được đắm mình trong các sự kiện, tài năng bị thui chột, cô nhớ con gái, rồi hóa
ra Tsanka chỉ kiếm được ít tiền, không thể mua được cho cô áo váy mới, giày dép
mới.
Tuy nhiên, chuyện ấy chỉ diễn ra vào ban
ngày, còn ban đêm là thế giới, thậm chí là thiên đường của niềm hoan lạc vợ chồng.
Thời gian đầu, Tsanka cảm thấy thỏa mãn vì điều đó.
- Em được tạo nên chỉ để cho việc này, -
Tsanka bị cuốn theo sự nồng nhiệt của Madlena, thầm thì vào tai cô.
Madlena chỉ mỉm cười và càng cuồng nhiệt,
tham lam và sôi nổi hơn.
Trời gian trôi đi, Madlena trở nên hoàn
toàn phóng túng, xử sự sỗ sàng, thậm chí thô bỉ nữa.
Trong sự đam mê của Madlena không có chút
tình cảm nồng ấm - chỉ đơn giản là sự đam mê thể xác thấp kém.
Dần dần, sự buông tuồng ấy làm Tsanka cảm
thấy khó chịu, anh bắt đầu hình dung, vợ mình có được những kinh nghiệm phong
phú ấy bằng cách nào. Ngay lập tức, niềm đam mê của Tsanka trở nên nguội lạnh -
tuần trăng mật kết thúc.
Tuy nhiên Madlena càng ngày càng đòi hỏi
nhiều tiền hơn, hoàn toàn không quan tâm đến công việc nội trợ gia đình nữa. Suốt
cả ngày, cô lang lang ở khu dân cư, chẳng có công việc gì ngoài việc khoe
khoang những bộ áo váy. Chẳng bao lâu sau, những người đồng hương đã phải trách
anh:
- Sao vợ cậu cứ lang thang như tiểu thư
công tước người Nga vậy, nào mũ, nào túi xách. Chẳng lẽ cô ấy không có việc gì
làm ở nhà à?
Sau đó bà nhân viên bưu điện cho biết,
Madlena thường xuyên nhận thư từ “hòm thư lưu”, và gửi rất nhiều tiền đến
Alma-Ata. Tsanka nổi xung lên, nhưng anh cố kìm lại, cho đến khi công an khu vực
đến văn phòng tìm anh.
- Tôi xin lỗi, anh Tsanka Aldumovich, - người
công an nói, - nhưng trong thời điểm hiện nay, việc bóc lột sức lao động trẻ em
vị thành niên, nhất là ở nhà là vi phạm pháp luật.
- Tôi không hiểu anh nói gì, - Tsanka ngạc
nhiên.
- Vợ anh lợi dụng cô bé hàng xóm Gulnara
như một người hầu. Chẳng thà che giấu không để ai biết, đằng này lại công khai
mắng chửi, đánh đập cô bé trước sự chứng kiến của tất cả láng giềng xung
quanh... Không nên thế.
Một phút sau, Tsanka lao về nhà, nổi đóa
lên. Lúc ấy, Madlena đang chưng diện đi dạo.
Tsanka túm tay Madlena, lôi vào nhà nện cho
một trận. Cô vợ la hét ầm ĩ, vang khắp nhà, khắp sân:
- Cứu tôi với, cứu tôi với, người ta giết
tôi!
Tsanka đã ngồi vào xe, nhưng Madlena còn chạy
ra sân la hét ầm ĩ. Hàng xóm chỉ biết lắc đầu ngán ngẩm.
Ngay lúc ấy, những kẻ hiếu kỳ tụ tập ở cổng,
bình luận về sự kiện vừa diễn ra:
- Từ trước đến giờ, để luyện giọng cô ta chỉ
hát bên cửa sổ, giờ phải la lên.
- Con chó cái ấy cứ lởn vởn quanh đây để
khoe quần áo.
- Nó chỉ làm nhục đàn ông.
- Không biết cái con trơ tráo ấy từ đâu đến?
- Thậm chí cũng không biết đi đổ rác nữa,
nó nhận con bé làm người hầu.
- Còn bản thân suốt ngày lang thang ở khu
trung tâm, õng a õng ẹo trước mắt mọi người.
Sau vụ đó, cuộc sống vợ chồng như chấm dứt.
Tsanka để ý theo dõi chặt chẽ cô vợ. Madlena không thể chịu đựng nổi điều đó và
công khai bỏ về Alma-Ata.
Ngay trong chiều hôm ấy Tsanka gửi một bức
thư cho bạn chiến đấu cùng trung đoàn Bakarov Dalkhad, nhờ bạn chuyển cho nữ
công dân Madlena Iskhodzhaeva văn bản chính thức Iytar, đồng thời nhờ bạn thay mặt mình tiến hành các thủ tục nói
trên với sự chứng kiến của hai nhân chứng.
Mười ngày sau, Tsanka nhận được bức điện khẩn:
“Nhiệm vụ cậu giao đã được sốt sắng hoàn thành. Xin chúc mừng. Bakarov”.
Ngay sau đó, Tsanka nhận được một bức thư rất
xúc động của ông bà Basov: Hai vợ chồng tán thành hành động của Tsanka và mong
“Tsanka yêu quý không nên quá đau khổ”, nóng lòng chờ Tsanka đến chơi sớm.
* * *
Như mọi năm, trước thềm năm mới, ban lãnh đạo
xí nghiệp thủy lợi Chyly tổ chức một chuyến xe buýt đi Alma-Ata, chở đầy quà biếu
cho các quan chức ở thủ đô.
Vì tính chất quan trọng của công việc, nên
lần này đích thân Tsanka được giao phụ trách phái đoàn lo lót. Một đống quà được
dành riêng cho gia đình Basov và bạn chiến đấu Bakarov. Quà gồm có dưa bở, dưa
hấu tươi và sấy khô, thịt cừu, thịt bò đông lạnh, sấy khô, cá khô, mật ong, giò
nạc, đồ hộp.
Sáng ngày 27 tháng Chạp, họ có mặt ở
Alma-Ata. Suốt cả ngày, Tsanka phải vận chuyển hết số quà tặng sơn hào hải vị đến
nhà các quan chức, mãi đến chiều anh mới tới nhà Bakarov.
Người bạn chiến đấu không để Tsanka dễ dàng
đi ngay được, thiết đãi anh các món ăn dân tộc, rồi hai người lại ngồi nhớ đến
những ngày khói lửa chiến tranh, mong ước ngày trở về quê hương. Mãi đến nửa
đêm, hai người bạn chiến đấu sau khi đã uống kha khá mới đến được căn hộ của vợ
chồng ông bà Basov.
- Ôi, Tsanka, cháu đấy à! - Ngay từ ngoài cổng,
bà Alla Nikolaevna ôm hôn vị khách mong đợi từ lâu.
Trong hành lang, ông Basov bị đánh thức dậy
bởi hồi chuông khuya khoắt, tươi cười ra đón họ.
Hai người bạn cùng với tài xế phải hai lần
ra xe buýt mới khuân hết được số quà mừng năm mới cho ông bà Basov, nhét chật cứng
vào chiếc tủ lạnh mới mua.
- Làm gì mà nhiều thế? - Bà Alla Nikolaevna
thốt lên. - Chúng tôi ăn cả năm cũng không hết đâu.
- Cháu sẽ ăn giúp cho, - Tsanka đùa.
- Sao nhiều thế? - Ông chồng lo ngại. -
Hàng xóm láng giềng họ lại nghĩ các anh hối lộ.
- Họ muốn nghĩ gì mặc họ, - bà chủ cắt
ngang. - Các cửa hàng đều rỗng không, chẳng có hàng hóa gì cả, mà ông ấy là
lãnh đạo đấy, - vừa nói bà vừa hất đầu về phía ông chồng, vẻ không hài lòng. -
Ông ấy không dám gọi điện cho cái đám cơ hội. - Rồi bà lại mỉm cười, nghiêng
người về phía Tsanka hôn lên trán anh như một người mẹ. - Còn cháu, ở lại chơi
lâu không? Chúng ta buồn quá... cháu như con trai.
Đêm ấy họ ngủ sớm: Tsanka rất mệt và đau đầu
vì chặng đường dài.
Ngày hôm sau, Tsanka phải chấp nhận lời năn
nỉ của Bakarov, đến ngủ nhà bạn. Các bạn chiến đấu nghe tin, đổ xô đến gặp đồng
hương. Họ ngồi đến khuya. Khi khách đã về hết, Bakarov bỗng trở nên nghiêm nghị,
thậm chí lo lắng nói với Tsanka:
- Tsanka này, mình có một tin quan trọng
cho cậu, định nói từ hôm qua, nhưng chẳng có lúc nào cả. Vấn đề là Madlena đã
có mang.
- Có mang là thế nào? - Tsanka sửng sốt nhảy
dựng lên. - Của ai?
- Còn của ai nữa? - Bakarov nhoẻn miệng cười.
- Rõ ràng là của cậu. Trong chuyện này mình không rành lắm, nhưng vợ mình bảo,
chỉ sau một, hai tháng nữa là cô ấy sinh.
Tsanka không biết nói gì, cúi đầu, đốt liên
tục hai điếu thuốc lá, rồi lặng lẽ đi nằm. Sáng hôm sau, lúc ở trong bếp, cô vợ
Ayant hỏi Bakarov:
- Anh Tsanka không bệnh đấy chứ? Chỉ sau một
đêm mà mặt anh ấy sưng húp lên, xám ngoét.
- Anh không biết. Cả đêm cậu ấy cứ trằn trọc
không ngủ được. Tối qua anh đã thông báo cho cậu ấy biết về việc đó.
Đúng lúc ấy, Tsanka bước vào bếp.
- Này các bạn, nhanh lên một chút đi, -
Tsanka giục. - Mười giờ rồi, bà Alla Nikolaevna đang chờ chúng ta. Sẽ có rất
nhiều khách, mà bà ấy chưa kịp chuẩn bị gì cả. Ayant này, chúng mình chỉ làm cốc
trà rồi chạy thôi.
- Thế họ tổ chức lễ gì vậy? - Ayant hỏi.
- Kỷ niệm bốn mươi năm cuộc sống vợ chồng,
- Tsanka đáp. - Cần phải giúp họ. Ayant, cô đi với chúng tôi nhé.
- Cậu nói gì thế, Tsanka, - Bakarov vung
tay ngạc nhiên. - Cả Ayant, cả em gái và các bạn gái của cô ấy, chúng ta cùng
đi luôn. Cậu biết đấy, ông Basov đã giúp rất nhiều cho vợ chồng mình. Bất cứ việc
gì, dân Chechnya và Ingushetia cũng đều chạy đến chỗ ông ấy, còn ông ấy, rất
nhiệt tình, đủ chuyện, nào chỗ ở, đăng ký hộ khẩu, việc làm, thậm chí cả công
an, trường học. Tất cả đều chạy đến chỗ ông ấy. Cậu biết mọi người gọi ông ấy
là gì không? Bố Chechnya.
Trong bữa liên hoan vào buổi chiều tối,
Tsanka được bố trí ngồi ở đầu bàn cùng với vợ chồng ông bà Basov.
- Đây là con nuôi của chúng tôi, - bà Alla
Nikolaevna tự hào nói với hàng xóm.
Sau vài lần nâng cốc, không khí quanh bàn
tiệc trở nên sôi nổi, tiếng cười đùa và âm nhạc bắt đầu vang lên. Cả đêm hôm ấy
Tsanka bám theo một đồng nghiệp của ông Basov ở văn phòng thành ủy, một phụ nữ
tóc vàng không còn trẻ nữa. Đến khuya, Tsanka xin phép được đưa cô về.
Hôm sau trong lúc ăn sáng, bà Alla
Nikolaevna nói với Tsanka bằng giọng nghiêm khắc, vẻ không hài lòng:
- Tsanka này, các quý bà ở thành ủy phóng
túng lắm, chẳng có gia đình mà cũng không có đạo đức, không nên dây vào với họ.
Trông bề ngoài có vẻ kháu khỉnh và thông minh thật đấy, nhưng bên trong thì tàn
tạ lắm... Cháu phải cẩn thận.
- Đêm qua cháu ngủ ở nhà bạn Bakarov, -
Tsanka chống chế, - cháu cũng đã gọi điện thoại cho bác Alfred Mikhailovich,
nói chuyện với bác ấy và báo là sẽ ngủ lại nhà bạn.
- Đúng, đúng, - ông Basov không ngẩng mặt
lên khỏi cái đĩa, gật đầu lia lịa.
- Ông im đi, - bà vợ gõ thìa xuống bàn.
Cả hai người đều biết rõ, một khi bà Alla
Nikolaevna chuyển sang gọi chồng bằng “ông” thì vấn đề đã trở nên nghiêm trọng
và tốt nhất là không nên tranh cãi với bà.
- Thôi được rồi, - bà chủ nhà lần lượt nhìn
hai người đàn ông đã bị cảnh báo, nói tiếp: - Tsanka này, chiều nay cháu đến sớm
một tí, có việc quan trọng... Còn ông, ông cán bộ Đảng ạ, đừng có ngồi lì với
cái đám đàn bà tóc vàng của mình. Hôm nay có việc gia đình quan trọng cần phải
giải quyết.
- Hôm nay ở cơ quan chúng tôi có buổi liên
hoan mừng năm mới, - ông Basov năn nỉ.
- Thôi đủ rồi. - Bà chủ nhà lại gõ cái thìa
xuống bàn. - Suốt đời ông, lúc nào cũng liên hoan, tổng kết. Không phải là văn
phòng thành ủy nữa mà lễ hội vĩnh cửu...
Bài giáo huấn sẽ còn kéo dài nếu lúc ấy cô
Ayant và em gái không đến để giúp bà dọn dẹp sau bữa liên hoan hôm qua. Ông
Basov và Tsanka vội lặng lẽ đánh bài chuồn, lên xe công vụ đến thành ủy. Trong
phòng làm việc của ông Basov, họ uống cà phê với rượu cognac để tống tiễn cuộc
vui hôm qua và khoái chí nhớ lại sách lược ngoại giao ban sáng của bà Alla
Nikolaevna. Sau khi đã uống kha khá, hai người chuyển sang đề tài chính trị, về
tình hình thế giới và những định hướng mới từ Moskva. Sau khi ăn trưa ở nhà ăn
tập thể thành ủy, Tsanka chạy đến Tổng cục để giải quyết công việc.
Buổi chiều, ông Basov và Tsanka lại gặp
nhau trong phòng làm việc của ông ở thành ủy, không ngờ lại uống hết một chai
cognac nữa, rồi hai người lên xe đến nhà hàng “Ogonek” giải trí. Họ về nhà khá
muộn. Bà Alla Nikolaevna chưa ngủ, vừa nhìn thấy hai quý ông bám vào nhau lê
vào nhà, rồi phải vất vả lắm mới cởi được quần áo ngoài ra, bà hỏi bằng một giọng
nghiêm khắc:
- Cả hai người dự
buổi liên hoan đến tận giờ này cơ à?
- Ồ, không-ông-ông, chúng tôi mới gặp nhau ở
cổng-ổng-ổng, - cả hai ấp úng mãi mới mở được miệng.
- Thật chẳng ra làm sao cả, - bà vợ ông
Basov phẩy tay. - Hai người giống nhau y hệt... Cái gốc cây già này, càng già lại
càng đổ đốn ra. Không có liên hoan liên hoét gì ở thành ủy hết, tôi đã gọi điện
hỏi rồi.
- Không có là thế nào? - Ông Basov cắt
ngang, vung tay lên rồi đột nhiên đổ vật vào tường. - Đúng là đàn bà, thôi im
đi. - Ông hét lên trong cơn tức giận say mèm, - Bạn chiến đấu gặp nhau!
Bà Alla Nikolaevna quá biết là không nên
dây vào với ông chồng đã say, liền biến ngay vào buồng, nói vọng ra:
- Ông nói cái gì, bạn chiến đấu nào?
- Còn bạn chiến đấu nào nữa? - Ông chồng tức
giận, chọc chọc ngón tay vào ngực Tsanka - Thế ai đã cung cấp bom đạn, vũ khí
cho họ vào tháng Chạp năm bốn mốt? Tôi chứ còn ai nữa! Bà không nhớ, hàng tuần
liền, tôi chẳng có thời gian về nhà, cả ngày phải điều hành nhà máy. Con trai
tôi chắc hẳn cũng bắn bằng đạn do tôi sản xuất. - Ông Basov ứa nước mắt, lấy ống
tay áo chùi mặt rồi bất ngờ rống lên: - Nào, dọn bàn đi! Các cựu binh gặp nhau!
Bà tiếp đón khách thế đấy hả?... Tsanka, chúng ta uống gì bây giờ?
- Cái gì cũng uống. - Tsanka mạnh bạo đáp.
- Khá lắm, đại úy cận vệ! Đúng lắm, chúng
ta sẽ vui chơi cho đến sáng!
- Anh Alfred Mikhailovich, - bà vợ đặt hai
tay lên ngực và cắt ngang bằng một giọng mềm mỏng: - Có lẽ thôi anh ạ, sáng mai
chúng ta phải đến thăm bí thư thứ nhất nữa.
- Thì sao? - Ông cán bộ thành ủy vẫn khăng
khăng. - Mặc xác ông ấy! Dù có là bí thư thứ nhất thì ông ấy cũng chỉ là một thằng
ngốc. Cậu biết không, Tsanka, ông ta không ưa dân Chechnya và dân Do Thái chúng
ta đâu dù chính mình là người Cozak. Ông ta cứ phải khúm núm trước người Nga, kể
cả bà tạp vụ nữa. Tại sao thế? - Ông Basov giơ một ngón tay lên trời, lắc đầu hỏi.
- Tại vì hàng thế kỷ nay, người Nga đã... - Ông Basov lại làm vài điệu bộ bất
nhã nữa.
- Ôi, ôi, ôi, - bà Alla Nikolaevna thốt
lên. - Uống gì mà đổ đốn ra thế!
Rồi bà biến ngay, lát sau quay lại nói:
- Anh Alfred Mikhailovich, em đã chuẩn bị
món súp củ cải đỏ, mang lên cho anh nhé?
- Mang hết lên đây! - Ông chồng ra lệnh. -
Tsanka, đi thôi. Chúng ta sẽ vui vẻ cho đến sáng.
Thật ra cơn hăng máu không kéo dài lâu. Sau
hai ly nữa, hai kẻ lãng tử đành phải chui vào chăn.
Sáng hôm sau, vợ chồng ông Basov đến thăm
ông bí thư thứ nhất thành ủy, không quên mang theo những món quà quý, trong đó
có cả những thứ mà Tsanka đã chở lên.
Tsanka ở chơi nhà Bakarov cho đến chiều tối
rồi định đến nhà ông bà Basov, nhưng mãi sáng hôm sau mới tới được nhà họ.
Theo quy định, ngày cuối năm là ngày nghỉ,
vậy nên sang ngày mùng một tháng Giêng cả ông Basov và Tsanka đều mệt phờ, chẳng
những thế tối hôm ấy Tsanka phải lên tàu quay về Chyly.
Trưa hôm ấy, ba người cùng ăn trưa với
nhau. Hai người đàn ông ngồi rũ ra, mặt mày ủ dột.
- Tsanka này, chúng ta có việc cho cháu
đây. - Bà Alla Nikolaevna lại thâu tóm quyền lực vào tay mình. - Vấn đề rất
nghiêm trọng, ta và ông Alfred Mikhailovich đã định nói với cháu từ lâu. Vợ
cháu đã có mang.
- Cô ấy đâu còn là vợ của cháu nữa, -
Tsanka cắt ngang.
- Không là thế nào? - Bà Alla Nikolaevna bực
mình, - Cuộc hôn nhân của các cháu theo đúng luật.
- Nhưng đó là luật Xô viết, còn theo luật đạo
Hồi, chúng cháu đã ly dị từ lâu rồi.
- Đừng vội, đừng nóng, cháu ạ. Chuyện này
không đùa được đâu. Con cái là vấn đề rất hệ trọng. Ít ra thì ta và ông Alfred
Mikhailovich đều hiểu đó là cái gì. Đã trải qua...
- Thôi được rồi, được rồi, - ông Basov vuốt
vuốt tay vợ, rồi quay về phía Tsanka: - Cháu đừng vội, hãy suy nghĩ cho thấu
đáo, cân nhắc kĩ lưỡng. Ly dị là việc nhỏ, nhưng con cái là tất cả.
Tsanka hít một hơi dài, nhìn thẳng vào mắt
vợ chồng ông Basov.
- Cháu đã nghĩ kĩ rồi, ít ra là cả đêm qua
sau khi biết tin đó. Cô ấy sẽ không bao giờ bước vào nhà cháu nữa. Cháu và cô ấy
không bao giờ sống với nhau được, dù có đẻ ra cả tá con cũng vậy. Chấm hết.
Madlena là đồ vô lại. Đó là một sai lầm nghiêm trọng của cháu. Trong dòng họ
nhà cháu, không thể có những người phụ nữ như vậy, họ không có chỗ ở đấy. Còn đứa
con, chúng ta sẽ xem xét, thời gian sẽ chứng minh. Nhưng cháu chỉ biết một điều:
cháu không hề có ý định làm chồng cô ấy và phải khổ sở suốt đời vì cô ấy, kể cả
vì đứa con.
Một sự im lặng kéo dài, mọi người cố tỏ ra
đang chăm chú ăn. Cuối cùng ông Basov phá vỡ sự im lặng:
- Cháu nói đúng, Tsanka ạ, hoàn toàn đúng.
Mẹ con nhà Iskhodzhaeva là những người không biết xấu hổ, cần phải tránh xa họ
ra.
- Cháu biết, - Tsanka buồn rầu đáp, - họ đã
đến đây nhờ vả, lợi dụng lòng tốt của hai bác. Vợ chồng Bakarov và Ayant đã kể
cho cháu biết cả rồi, nhưng cháu không thể làm gì được... Hai bác hãy đuổi họ
xa ra.
- Cháu cần phải lấy vợ, - bà Alla
Nikolaevna thở dài, - cháu vẫn còn trẻ.
- Đúng, đúng, - ông Basov tán thành.
- Hay là cháu chuyển đến Alma-Ata sống với
chúng ta? Chúng ta sẽ giúp cháu xin nhà, tìm việc. - Bà Alla Nikolaevna hỏi.
- Cháu cám ơn hai bác, nhưng cháu không thể,
dù rất muốn. Chỉ đơn giản là các đồng hương đang nương tựa vào cháu. Trong số
những người Chechnya ở Chyly, chỉ có mình cháu là có chút chức quyền, và mọi
chuyện rắc rối cháu đều phải đứng ra giải quyết. Cháu cố gắng giúp họ trong mọi
việc, từ chỗ ở đến việc làm. Mà không chỉ có họ, cả các di dân đặc biệt khác nữa.
- Khá lắm, Tsanka! Cháu giỏi lắm, - ông
Basov nắm chặt tay lại.
- Ôi, Tsanka, cháu hãy cẩn thận đấy, và đừng
quên chúng ta, - bà Alla Nikolaevna rưng rưng.
Chiều hôm ấy, ông Basov, Tsanka và Bakarov
lại tiếp tục ăn mừng năm mới trong một nhà hàng cạnh ga. Họ ngồi dai đến mức
Tsanka phải cắm đầu cắm cổ chạy theo con tàu đã chuyển bánh.
* * *
Vào đầu tháng Hai năm 1955, Tsanka lại đến
Alma-Ata. Lần này Tsanka bị tòa án thành phố triệu tập để giải quyết vụ ly hôn.
Rất may cho Tsanka, bà Mylana đã có mặt tại phiên tòa để đại diện cho cô con
gái Madlena “vắng mặt vì lý do chính đáng”. Phiên tòa diễn ra ngắn gọn và chỉ
mang tính thủ tục. Trong cuộc gặp, mẹ vợ cũ và con rể cũ chỉ nói được với nhau
hai từ: xin chào và tạm biệt.
Vào giữa tháng Ba, Tsanka nhận được hai thư
cùng lúc - một của ông bà Basov, bức kia của Bakarov. Cả hai thư đều thông báo
cho Tsanka biết, cô Madlena sinh con trai. Tsanka bối rối thật sự, chạy tới chạy
lui, cả tuần khổ sở, day dứt, không biết phải làm gì, xử sự ra sao. Một mặt,
Tsanka muốn quay lại với cô vợ rất đáng ghét và đứa con, mặt khác cố không phản
ứng gì cả. Cuối cùng, sau nhiều đêm dằn vặt khổ sở, Tsanka viết cho Madlena một
bức thư, ám chỉ bóng gió về việc nối lại tình cảm hoặc là giao đứa con trai cho
anh nuôi.
Ngay lập tức có thư trả lời. Trong bức thư
ngắn ngủi, Madlena viết, Tsanka là “kẻ miền
núi mọi rợ và đểu cáng”, và yêu cầu anh “đừng
làm phiền họ bằng những bức thư vô học” nữa. Té ra là “Arachaev Tsanka đã làm hỏng cuộc đời và sự nghiệp nghệ sĩ của cô”,
còn đứa con trai, theo lời khuyên của “ông
Magomedaliev rất tận tâm” sẽ được đặt “một
cái tên rất thời thượng là Ruslan”. Cuối thư, sau hai chữ PS quen thuộc: “Nếu còn làm phiền nữa, chúng tôi sẽ yêu cầu
cơ quan chức năng can thiệp. Lẽ ra từ lâu anh phải bị tống vào tù như một kẻ
tham ô tài sản nhà nước và kẻ phá hoại. Tôi có đầy đủ bằng chứng mà anh đã giấu
ở nhà về những hành động trộm cắp và khai khống. Cho đến nay tôi vẫn im lặng,
nhưng bây giờ tôi phải nuôi ba người, do đó anh hãy nhanh chóng gửi tiền cho
tôi qua bưu điện trung tâm, đề tên tôi, trong hộp thư lưu”. Tiếp theo, bằng
một nét rất đậm, cô ghi rõ số tiền yêu cầu, bằng toàn bộ tiền lương của Tsanka
trong một năm.
Tsanka tức giận xé nát bức thư, phải cố gắng
lắm mới gạt ra khỏi tâm trí ý định đi Alma-Ata để thăm con.
Mãi sau này, Tsanka mới biết, trong thời
gian đó, ở thủ đô nước cộng hòa đã diễn ra một cuộc mặc cả quan trọng giữa hai
gia đình Basov và Iskhodzhaeva.
Kết quả là, thằng con Ruslan của Tsanka được
mang họ cha Arachaev, bù lại, theo quyết định của văn phòng thành ủy thành phố
Alma-Ata, “nữ ca sĩ xô lô tài năng của học viện âm nhạc quốc gia Kazakhstan,
Madlena Iskhodzhaeva được nhận căn hộ hai phòng với tổng diện tích 46 mét
vuông”.
Còn Arachaev Tsanka sẽ bị khấu trừ một phần
tư lương để cấp dưỡng cho con trai.
Tsanka quyết định dứt khoát phải lấy vợ, nhất
là khi mọi người xung quanh đều cố thuyết phục anh. Thứ bảy nào trong nhà tắm
hơi của xí nghiệp, mọi người cũng lôi đề tài này ra bàn luận. Cuối cùng, khi
Tsanka chấp thuận, ngay lập tức có cả một bản danh sách dài với mười hai ứng cử
viên - từ cô gái mười tám tuổi cho đến chị lỡ thì bốn mươi hai cái xuân xanh.
Tsanka không quen một người nào trong số họ, chỉ biết sơ sơ. Trong cuộc lựa chọn
vợ chưa cưới cho Tsanka, yếu tố quan trọng đầu tiên là cô gái thuộc dòng họ
nào, thứ hai là còn khả năng sinh đẻ, nhưng không nên quá trẻ. Sau khi bàn tính
không lâu, kết quả là họ chọn được một cô gái vàng ngọc nửa chừng xuân - cô
Gustan Movtaeva, một phụ nữ góa chồng ba mươi tuổi, người cùng làng, làm công
nhân trong xí nghiệp, mồ côi cả cha lẫn mẹ, là cháu gái của ông Movtaev Makush
quá cố, nguyên là bảo vệ trường tiểu học Duts-Khote.
Trong khi Tsanka còn chưa quyết định dứt
khoát thì tin đồn đã lan ra khắp vùng. Ngay trong ngày hôm ấy, các đồng hương
liền tổ chức một buổi xem mặt cô gái tại nhà Shovkhal Yasuev. “Đôi bạn trẻ” ngồi
đối diện nhau, cả hai đều tỏ ra rất bối rối. Gustan cúi người, gục hẳn đầu xuống.
Tsanka nhìn cô gái và chỉ thấy đôi má đỏ ửng trên khuôn mặt gầy, cổ, hai tai,
đôi bàn tay thô kệch, nứt nẻ vì lao động nặng nhọc đang run run vì hồi hộp. Cô
gái cố giấu đôi chân trong đôi giày cao su đã mòn vẹt vào dưới gầm ghế.
Chẳng ai thèm quan tâm đến ý kiến của
Gustan. Mọi người đều cho rằng, đây là niềm hạnh phúc to lớn đối với cô, và cô
chẳng còn sự lựa chọn nào khác. Nhưng Tsanka, không hiểu tại sao lại không kết
thúc vụ việc bằng cách ngỏ lời cưới cô. Thêm hai lần xem mặt nữa, nhưng Tsanka
vẫn chưa quyết định dứt khoát. Bao nhiêu đôi tai đang ngỏng lên chờ đợi ở phòng
bên làm Tsanka rất lúng túng.
Cũng trong thời gian này, Tsanka nghe người
ta đồn, mỗi lần đến chỗ xem mặt, Gustan đều từ chối mượn quần áo của người
khác.
- Ngày nào anh ấy cũng gặp tôi, biết rõ
hoàn cảnh của tôi, biết chỗ tôi ăn ở, quần áo ra sao. Tại sao tôi lại phải khoe
mẽ trong những bộ quần áo của người khác, sau đám cưới, tôi lại là tôi? Không!
Anh ấy biết rõ về tôi. - Cô gái nghèo nói.
Dĩ nhiên, Tsanka biết hết mọi chuyện. Anh
biết Gustan làm việc ở những nơi nặng nhọc và vất vả nhất, sống trong căn phòng
hai mươi bốn mét vuông trong khu nhà tập thể của xí nghiệp, mỗi tháng hai lần,
cô gái phải chia sẻ những đồng lương ít ỏi của mình cho em trai và gái đang sống
trong trại trẻ ở Kzyl-Orda.
Tsanka quyết định hành động theo một cách
khác, đơn giản hơn.
Một lần, như mọi ngày Tsanka thức dậy vào
lúc sáng sớm, nhìn ra cửa sổ và thoáng nghĩ: “Cần gì những người mai mối, những
cuộc xem mặt ngồi đực mặt ra trước hàng chục đôi tai và ánh mắt tò mò? Mình sẽ
làm đơn giản theo tình người”.
Giữa tháng Chín. Ba tháng hè nóng nực giữa
vùng hoang mạc Kyzylkum và Maiunkum đã trôi qua, cuối cùng từ vùng núi cao
Kapatau, một làn gió mát mang theo hơi thở của sự sống bắt đầu thổi xuống.
Tsanka có cảm giác, cùng với mùa thu đến gần thì lũ ruồi, muỗi quấy nhiễu cũng
giảm nhiều. Ở phía đông xa tít, suốt trong những tháng gần đây, lần đầu tiên
trên bầu trời xuất hiện những đám mây dày, vần vũ. Dưới tia nắng mặt trời, một
bên của đám mây nhuốm màu vàng, đỏ, bên kia chuyển dần sang màu tím.
Tsanka khoan khoái ngáp một cái, vươn người
rồi bước vào nhà tắm. Anh cạo râu rất kĩ, tắm rửa sạch sẽ, mặc bộ lễ phục quân
đội gắn hai huân chương chiến công rồi đến chỗ làm.
- Sao hôm nay cậu diện thế? - Ông giám đốc
hỏi.
Tsanka không nói gì cả chỉ đặt lên bàn ông
tờ giấy xin tạm ứng lương.
- Cậu cần nhiều tiền thế để làm gì? - Ông
Sarenbaev khó chịu, - Suốt đời chỉ sống trong nợ nần.
- Tôi lấy vợ, - Tsanka nở một nụ cười yếu ớt.
Ông giám đốc sững người, liếc xéo người phó
của mình trên đôi mắt kính dày, vẻ dò hỏi.
- Cậu nói thật đấy chứ?
- Vâng ạ. - Tsanka đáp rành rọt theo kiểu
nhà binh.
- Thế ai là vợ chưa cưới? - Ông lãnh đạo vẫn
chưa buông tha.
- Hiện tại thì “chưa”, nhưng tôi sẽ cầu hôn
một nữ công nhân của xí nghiệp, cô Gustan Movtaeva.
- Movtaeva à? - Ông Sarenbaev nhảy dựng
lên. - Quỷ tha ma bắt cậu đi cho rồi. Tôi nói cậu sẽ không tin đâu, mấy ngày
qua vợ tôi bảo, cô ấy xứng đôi vừa lứa với cậu nhất đấy. Khá lắm!
Giám đốc lại ngồi xuống, bóp nhàu tờ giấy
xin tạm ứng của Tsanka trong bàn tay hộ pháp của mình, nhấc ống nghe lên:
- Phòng tổ chức cán bộ hả? Viết lệnh chi
thưởng cho đồng chí Arachaev với mức thưởng bằng ba tháng lương do thành tích
đã phục vụ tốt vụ xuân hè, cộng thêm một tháng lương nữa từ nguồn dự phòng của
giám đốc để chuẩn bị cho đám cưới. - Rồi ông quay sang Tsanka: - Cậu khá lắm,
Tsanka! Đang sống độc thân, thế mà giờ mỗi năm cưới một vợ. Giỏi thật! Đám cưới
sẽ được tổ chức tại nhà ăn. Hiểu chưa?
- Ôi, sao lại thế ạ? Tôi đâu còn trẻ nữa.
- Chính vì không còn trẻ nên mới được thế.
Biết đâu, đây là lần cuối thì sao. - Ông Sarenbaev bật cười.
- Tôi còn nhờ anh một việc nữa ạ, - Tsanka
cúi người xuống. - Cho tôi mượn xe của anh một ngày, không cần lái xe.
- Cứ lấy đi, muốn làm gì thì làm.
Nửa giờ sau, Tsanka ngồi sau tay lái chiếc
“Pobeda” mới toanh, ghé vào đón anh bạn Shovkhal trong nông trang rồi chạy dọc
theo con kênh về hướng sa mạc, đến chỗ làm việc của cô gái đã chọn. Trong mùa
tưới tiêu, Gustan cùng với hai nữ công nhân khác phải làm những công việc nặng
nhọc và bẩn thỉu - dọn dẹp hệ thống kênh mương. Đây là những việc nặng ngoài trời,
dưới trời nắng như thiêu như đốt trong vùng sa mạc trơ trọi, oi bức.
Từ xa, mấy người phụ nữ nhìn thấy trên sa mạc
hoang vu chiếc xe con rất hiếm khi xuất hiện ở đây đang lao vùn vụt, kéo theo
sau lưng mình một đám bụi cát.
- Ôi, các cậu ơi, chẳng lẽ ông Sarenbaev
dám ra khỏi văn phòng à?
- Có gì đâu, thời tiết dễ chịu hơn rồi, có
thể dạo chơi ở sa mạc được.
Chiếc xe con thắng gấp, ném về phía trước một
đám bụi.
- Ôi, lạy thánh, anh Tsanka! - Các cô công nhân
thốt lên.
Hai người đàn ông đi về phía con kênh.
Shovkhal khệnh khạng đi trước, Tsanka bối rối nấp sau lưng.
- Chào các người đẹp! Chúng tôi đến giúp
đây!
- Cầu xin Thượng đế cho các anh sống lâu.
Sau màn chào hỏi theo thông lệ, Shovkhal bảo:
- Này các cô gái, nếu các cô không phản đối,
chúng tôi có chút việc riêng với Gustan.
- Hiểu rồi, - một cô bật cười. - Chúng tôi
phải lùi ra, hay đẩy Gustan đến gần?
- Tốt nhất là không nên động đến cô ấy. -
Shovkhal cũng đùa. - Nhìn kìa, cô ấy đã hóa đá rồi, trông như tượng đài ấy.
Gustan đang đứng trong làn nước đục đến đầu
gối, đầu cúi gục, tì cả người vào chiếc xẻng cán dài.
- Này các cô gái, tốt hơn là chúng ta đi ra
chỗ khác để cho đôi bạn trẻ được tự do.
- Shovkhal tinh nghịch nháy mắt.
Tsanka bước lại bờ kênh, ngồi xổm xuống trước
mặt Gustan, cố nhìn vào mặt cô. Ngày hôm qua, Tsanka đã chuẩn bị sẵn một bài diễn
văn, nhưng giờ đây nó bay đâu mất, không thể tập trung để nói năng mạch lạc được.
Cuối cùng, nhận ra toàn bộ sự khôi hài và gò bó của tình huống, chẳng cần rào
trước đón sau, Tsanka hỏi luôn:
- Gustan, cô có đồng ý lấy tôi làm chồng
không?
Cô gái lại càng cúi thấp đầu xuống và đột
nhiên khóc òa lên.
- Nhưng cô có đồng ý không? - Tsanka hỏi lại.
- Sao cậu lại xúc phạm người ta thế? -
Shovkhal chạy lại. - Cậu điếc à? Cô ấy gật đầu rồi còn gì nữa. Có nghĩa là đồng
ý.
Shovkhal nhanh nhẹn nhảy xuống nước, nắm lấy
tay Gustan, đọc bài kinh cầu nguyện ngắn theo thông lệ rồi la to:
- Bắt đầu từ hôm nay cô là con dâu của ông
Aldum, là người vợ chung thủy của Arachaev Tsanka. Thượng đế phù hộ cho hai người!
Amen!
- Amen! - Hai cô bạn gái của Gustan phụ họa
theo.
Shovkhal lấy chiếc xẻng trong tay Gustan
ra, ném lên bờ, rồi kéo Gustan về phía chiếc xe.
- Đi thôi, đi thôi. - Shovkhal hét lên.
- Ngay bây giờ à? - Cô dâu hỏi trong làn nước
mắt.
- Dĩ nhiên rồi, cô không thấy cậu ấy rất
nôn nóng hay sao. - Shovkhal nhoẻn miệng cười.
- Tôi không thể đi trong bộ dạng như thế
này được. - Lúc đến gần xe, Gustan cưỡng lại.
- Thôi cứ đi đi, chẳng lẽ chúng mình còn có
bộ dạng nào khác hay sao? - Các cô bạn gái nghiêm túc nói. - Làm việc ăn mặc thế
nào, thì đi chơi cũng có bộ ấy. Thượng đế sẽ cám ơn chúng ta về điều đó. Nhưng
không sao, khi nào trở về Kavkaz chúng ta sẽ có những bộ áo váy lễ hội.
- Nghĩ đúng lắm. - Shovkhal phấn khởi hét
lên. - Nào, quẳng hết xẻng đi, tất cả vào xe. Chúng ta sẽ vui chơi một chuyến.
Dù sao cũng là đám cưới.
Ngay lập tức cả hội phóng đến chỗ ông linh
mục Hồi giáo địa phương, tiến hành các nghi thức theo quy định. Sau đó, theo
phong tục cổ xưa của người miền núi, mọi người đưa Gustan đến nhà Shovkhal, nơi
cô dâu trẻ được những người phụ nữ họ hàng hướng dẫn làm quen với cuộc sống mới,
trong ngôi nhà mới. Ngay trong ngày, Tsanka mua cho Gustan mấy bộ áo váy lễ hội
và hai đôi giày.
Theo yêu cầu của Tsanka, đám cưới không tổ
chức ồn ào, mà lặng lẽ, yên bình như ngày thường.
Sau một tuần sống chung, Tsanka bảo vợ:
- Em hãy đi Kzyl-Orda, đưa em trai và em
gái về đây.
- Anh sẽ thấy chật chội và bất tiện, -
Gustan buồn rầu đáp.
- Anh cảm thấy bất tiện khi bọn trẻ phải sống
ở trại trẻ. Hãy làm như anh nói đi. Chúng ta có đủ chỗ cho tất cả...
Gần năm mới, như lệ thường, Tsanka lại đi
Alma-Ata để áp tải đống quà biếu thường niên.
Theo yêu cầu của bà Alla Nikolaevna, Tsanka
mang theo cô vợ trẻ. Trước năm mới hai ngày, Gustan và Ayant xúm tay vào dọn dẹp,
cọ rửa, sắp xếp lại căn hộ của ông bà Basov.
- Vợ thế mới là vợ chứ! Tuyệt lắm! - Bà
Alla Nikolaevna thán phục thốt lên.
- Nó chỉ xứng với những người như vậy thôi,
- ông Basov nói nhỏ vào tai vợ. - Cầu Chúa cho chúng nhanh có con. Em thử tìm
hiểu xem, có khi có rồi cũng nên?
... Mùa hè năm 1956, Gustan sinh con gái, đặt
tên là Damany.
Còn trước đó, trong cuộc sống của Tsanka đã
xảy ra một sự việc chẳng dễ chịu cho lắm. Một lần vào tháng Năm, Tsanka nhận được
giấy báo nhận bưu phẩm. Tại bưu cục, Tsanka nhận được một gói bưu phẩm to không
đề tên người gửi. Cứ nghĩ gói bưu phẩm liên quan đến công việc nên Tsanka mang
đến chỗ làm việc và mở ra.
Đập ngay vào mắt Tsanka là hai bức tranh áp
phích to, màu sắc sặc sỡ. Một tấm đề: “Đoàn ca múa nhạc Quốc gia các dân tộc
Kavkaz “Hương núi”. Trên đó có bức ảnh lớn chụp các nghệ sĩ đoàn ca múa nhạc,
giữa ảnh là ông Magomedaliev trong bộ vét trắng trông rất bệ vệ, đứng sát vào
người ông là Madlena mỉm cười rạng rỡ. Bên dưới chạy một hàng chữ đậm: “Chỉ đạo
nghệ thuật - nhà hoạt động văn hóa công huân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô
viết Kazakhstan và Kyrgyzstan, huân chương Lenin, Magomedaliev A.Ia.”.
Trên tấm áp phích kia là hình cô vợ cũ của
anh, với vẻ đẹp lộng lẫy, khuôn mặt nghiêm nghị, thậm chí hơi có vẻ kênh kiệu,
bên dưới là hàng chữ màu vàng: “Biểu diễn: nghệ sĩ công huân nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Xô viết Kyrgyzstan, Iskhodzhaeva Madlena”.
Tsanka vò nát cả hai tấm áp phích ném vào sọt
rác rồi về nhà.
Đêm hôm ấy, Tsanka cứ trằn trọc mãi không
sao ngủ được, thỉnh thoảng lại bị thức giấc. Đầu và tim buốt nhói. Gần sáng,
Tsanka thiếp đi, và đột nhiên trong cơn mơ anh nhìn thấy khuôn mặt buồn rầu của
người vợ đầu Dikhant.
Tsanka bật dậy, không nói gì với Gustan,
phóng đến văn phòng. Ông bảo vệ đang ngủ say vì trời còn rất sớm. Tsanka chạy
vào phòng, cúi xuống sọt rác, lôi những mẩu vụn của hai tấm áp phích ra, sắp xếp
lại chân dung của Madlena. Phải khó khăn lắm Tsanka mới phục hồi lại được và
anh gần như chết điếng: trên tai Madlena là đôi hoa tai có gắn những hạt kim
cương lớn của Dikhant.
- Đồ súc sinh! - Tsanka gào lên, đấm thình
thình xuống bàn. - Đồ vô lại!
Phút sau người quét dọn, một bà già người
Chechnya bước vào phòng.
- Tsanka, anh gọi gì thế? - Bà già hỏi. -
Tôi đến dọn rác đây.
- Đây, đây, rác đây, - Tsanka ném hình
Madlena vào sọt rác và kinh tởm nhổ một bãi nước bọt nữa lên trên.
Đến trưa, Tsanka về nhà, nói với vợ:
- Em hãy nghe anh nói đây. Hôm nay anh sẽ
đi Alma-Ata, anh muốn mang con trai về. Em có thể chăm sóc nó không?
- Tất nhiên rồi, em có thể, tất nhiên. -
Gustan xăng xái bên chồng. - Em biết, anh phải khổ tâm thế nào. Em biết, anh nhớ
nó. Anh hãy làm những gì cần thiết, em mãi mãi nghe theo anh.
Lát sau, Gustan nói thêm:
- Em sẽ đi với anh, một mình trên đường đi,
anh sẽ phải vất vả với nó.
- Đúng. Em chuẩn bị đi, chiều nay ta lên đường.
Nhưng ý tưởng ấy của Tsanka không thu được
kết quả gì cả. Madlena không có mặt ở Alma-Ata, ở nhà chỉ có bà Mylana và bà
già giúp việc người Chechnya. Bà Mylana thẳng thừng cự tuyệt lời đề nghị của
Tsanka, thậm chí còn không cho anh nhìn mặt thằng bé nữa.
- Nhưng tôi cũng có quyền đối với đứa bé chứ,
- không chịu nổi, cuối cùng Tsanka nói. - Ít ra cũng cho tôi chăm sóc nó một
tháng.
- Một giây cũng không được. - Bà mẹ vợ cũ đứng
chống nạnh thách thức. - Thứ nhất, chuyến đi đối với nó rất có hại, thứ hai, rất
có thể nó sẽ bị lây nhiễm cái thói man rợ miền núi và vô học của anh. Thằng bé
sẽ ở với chúng tôi cho đến năm mười tám tuổi, sau đó nó sẽ tự quyết định. Còn
anh, đừng vác mặt đến đây nữa. Nếu chúng tôi còn nhìn thấy anh, chúng tôi sẽ gọi
công an. Anh hiểu chưa? Tốt hơn là anh hãy gửi tiền chu cấp đầy đủ.
Tuy nhiên, tấn bi kịch gia đình đó đã bị át
đi bởi một sự kiện khác mang tầm vóc dân tộc, quan trọng hơn nhiều.
Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ hai
mươi, được tổ chức vào năm 1956 đã phê phán đường lối chính trị dân tộc của
Stalin và đặt vấn đề phải sửa chữa những sai lầm lịch sử đó. Vào năm 1957, một
sự kiện vô cùng trọng đại đã diễn ra trong đời sống những người Vainakh - nước
Cộng hòa tự trị xã hội chủ nghĩa Xô viết Chechnya-Ingushetia được phục hồi lại.
Sau mười ba năm khổ đau, mất mát, nhục nhã, cực khổ và hủy diệt, những người
Chechnya và Ingushetia mới được trở về quê hương xứ sở.
Tuy nhiên, chính quyền sở tại lại bắt đầu
gây ra muôn vàn trở ngại đối với những người ra đi để thu lợi cho mình. Một mặt,
chỉ có những người sống ở vùng đồng bằng mới được phép trở về quê hương, còn
dân miền núi Chechnya thì không được phép. Mặt khác, mỗi người Chechnya và
Ingushetia muốn trở về quê hương phải chi tiền cho công an và chính quyền địa
phương, tức là phải hối lộ một khoản tiền trị giá tương đương một nửa con cừu
cho mỗi nhân khẩu.
Sau khi về quê, người Chechnya và
Ingushetia lại phải đối mặt với sự chống đối quyết liệt của những người dân đã
đến lập nghiệp trên mảnh đất màu mỡ của họ.
Ngày nào cũng nổ ra những vụ ẩu đả, va chạm.
Người Vainakh phải bỏ ra một khoản tiền lớn để mua lại chính ngôi nhà của mình
mà họ đã bị đuổi ra, nếu bằng cách khác rất có thể họ sẽ bị tống vào tù hoặc bị
trừng phạt.
Đêm nào cũng xảy ra các vụ phá hoại nhà cửa
của người Chechnya, những vụ đánh hội đồng hay đâm chém.
Sáng hôm sau, công an tuyên bố, người
Chechnya có lỗi trong tất cả mọi việc, rằng họ đã gây nên tình trạng hỗn loạn
sau khi trở về Kavkaz.
Hai tháng liền, trong thành phố Grozny liên
tục diễn ra các cuộc mít tinh, biểu tình yêu cầu phải tống khứ những kẻ mọi rợ
và tội phạm về vùng sa mạc Kazakhstan.
Mặc dù vậy, người Vainakh vẫn trở về quê
hương, kiên trì đòi lại mảnh đất và mái ấm của cha ông để lại, kiên quyết chống
lại mọi hành động tấn công, khiêu khích và phản ứng của những người chủ mới xuất
hiện.
Mãi đến năm 1959,
gia đình Arachaev Tsanka mới có thể trở về quê. Vào thời gian này, Tsanka và
Gustan đã sinh thêm được một con trai, đặt tên là Gerzany.
* * *
Ngày 22 tháng Hai năm 1944, trong ngôi làng
miền núi Chechnya Duts-Khote, có hai trăm bốn mươi sáu nhân khẩu sinh sống,
ngoài ra còn có ba mươi hai người tham gia chiến đấu trong lực lượng quân đội
Xô viết. Tổng cộng, dân số của làng là hai trăm bảy mươi tám người.
Đến năm 1959, chỉ có một trăm năm mươi mốt
người sống sót trở về làng, trong đó có hai mươi bảy nhân khẩu sinh ra tại
Kazakhstan. Bức tranh tương tự như vậy cũng diễn ra ở tất cả các điểm dân cư
khác.
Bằng cách đó, hậu quả của sự diệt chủng là
dân số Chechnya và Ingushetia đã giảm xuống đúng một nửa. Đó là chưa tính đến mức
tăng dân số tự nhiên trong khoảng thời gian mười ba năm. Nếu đưa chỉ số trung
bình mức tăng dân số tự nhiên của người Chechnya và Ingushetia vào phép tính
thì kết quả là: cứ ba người Vainakh chỉ còn lại một người sống sót.
Các dân tộc khác bị trấn áp ở Liên Xô cũng
chung một số phận như vậy: đó là những người Balkar, Karachai, Kalmyk, Tatar ở
Krym, Hy Lạp, Triều Tiên, Đức.
Nhìn tổng thể, tất cả các dân tộc đều bị
thiệt hại, trong đó chính bản thân người Nga cũng không hơn gì các dân tộc
khác.
* * *
Sau khi trở về Duts-Khote, việc đầu tiên
Tsanka làm ngay là dựng lại các tấm bia mộ ở nghĩa trang Gazavata quê hương. Phải
mất hai tháng làm việc cật lực mới xong.
Sau đó người ta yêu cầu Tsanka phải nhanh
chóng tìm việc làm - anh được giới thiệu khá nhiều vị trí quan trọng: từ chủ tịch
ủy ban huyện Shali cho đến thứ trưởng ở Grozny.
Tsanka chọn một công việc yên bình nhất
theo quan điểm của mình, đó là làm giám đốc lâm trường huyện Vedeno.
Cũng như trước kia, Tsanka dành hết tâm huyết
cho công việc, hăng hái sắp xếp và tổ chức lại mọi công việc trong cơ quan. Mọi
việc vận hành trôi chảy, nhưng rồi bất ngờ Tsanka lại có việc va chạm với các
cơ quan luật pháp của chính quyền Xô viết.
Một lần vào tháng Hai năm 1960, có hai công
an viên vào phòng làm việc của Tsanka và yêu cầu anh đi cùng với họ đến thành
phố Grozny để lấy lời khai. Suốt cả chặng đường xuống thành phố, Tsanka cứ băn
khoăn khổ sở, không biết người ta triệu tập vì việc gì. Tsanka được dẫn đến tòa
nhà của Viện Kiểm sát nước cộng hòa, đưa vào căn phòng trống trải giống như
phòng giam. Lát sau có hai dự thẩm viên tới. Người có chức vụ và tuổi tác lớn
hơn tự giới thiệu:
- Tôi là Phó Tổng kiểm sát trưởng nước cộng
hòa tự trị, Ilin Vitaly Vasilevich. Mời anh ngồi lại đây.
Tsanka ngồi xuống chiếc ghế người đó chỉ, cố
giấu hai bàn tay run run một cách phản trắc vào giữa đầu gối.
- Vậy, công dân Arachaev đã đoán được vì
sao chúng tôi triệu tập anh đến đây rồi chứ?
- Không ạ, - Tsanka đáp ngay.
- Tốt lắm. Vậy anh hãy nhìn vào đây, - người
kiểm sát viên lục lọi khá lâu trong cặp rồi chìa ra trước mặt Tsanka một bức ảnh.
Vừa liếc vào bức ảnh, Tsanka hoảng hồn quay
mặt đi, cả người sởn gai ốc. Tuy nhiên sự tò mò bắt anh phải quay nhìn lại, thậm
chí cầm bức ảnh trên tay. Càng nhìn kĩ, Tsanka càng cảm thấy yên tâm và tự chủ
hơn, mặc dù bức ảnh trông thật đáng sợ. Trên tấm ra trắng tinh, đôi chỗ sẫm lại
vì máu, ông Magomedaliev nằm ngửa mặt lên trời.
Bên cái xác to béo màu da bánh mật, một
thân thể phụ nữ trần truồng với ba vết dao đâm sẫm đen. Khuôn mặt người phụ nữ
không thấy rõ vì nằm sấp, đầu bị khuất dưới nách người đàn ông, nhưng Tsanka nhận
ngay ra Madlena. Cơ thể của cô vẫn còn tuyệt mỹ.
- Anh có nhận ra ai trong bức ảnh không? -
Người kiểm sát viên kéo Tsanka trở về với thực tại.
- Có, ông Magomedaliev.
- Đúng rồi, đó là Chủ tịch Tổng liên đoàn
Lao động nước Cộng hòa tự trị xã hội chủ nghĩa Xô viết Chechnya-Ingushetia, đồng
chí Magomedaliev Akhmed Iakubovich. Một con người rất đáng kính và có uy tín.
Thế còn người phụ nữ?
- Tôi không biết - Tsanka quay mặt đi.
- Không biết là thế nào? Anh nhìn kĩ hơn
đi.
- Chẳng lẽ anh nghĩ, tôi có thể nhìn mông
mà xác định được người hay sao?
- Cũng có thể lắm, - kiểm sát viên bật cười.
- Thôi được rồi, để không mất thời gian, tôi nói luôn, đó là vợ cũ của anh,
Madlena Iskhodzhaeva, cũng là một người danh giá lắm. Chúng ta vào việc ngay
bây giờ. Lần cuối cùng anh gặp họ là khi nào?
Tsanka ngẫm nghĩ
giây lát. Nói dối chẳng ích gì, thậm chí có hại nữa.
- Tôi gặp ông Magomedaliev năm ngoái, trong
lễ kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười, còn cô Madlena Iskhodzhaeva thì vài ngày trước.
- Chính xác hơn là hai ngày trước khi cô ấy
bị giết... - Điều tra viên cắt ngang. - Hai người nói chuyện gì?
- Về đứa con trai. - Tsanka đáp.
- Cụ thể?
- Tôi đề nghị cô ấy giao con cho tôi nuôi.
- Anh đe dọa cô ấy?
- Không.
- Nhưng mẹ của người quá cố, bà Mylana
Iskhodzhaeva khai là anh dọa giết cô ấy. Những người láng giềng cũng khẳng định
điều đó... Anh nói sao về việc này?
- Không đúng. - Tsanka thản nhiên đáp.
- Thôi được rồi, thế còn cái này, anh nói
sao? - Vừa nói ông Ilin vừa đặt lên bàn con dao găm cán bạc gia bảo của dòng họ
Arachaev.
Tsanka cầm con dao lên, trìu mến vuốt ve,
thậm chí mỉm cười, chậm rãi nắm cán dao rút ra khỏi bao: trên lưỡi dao có một
dòng chữ dập nổi đã xỉn màu “Arachaev”.
- Anh nhận ra vũ khí này chứ?
- Vâng. Đây là con dao gia bảo của dòng họ
tôi.
- Nó cũng chính là vũ khí gây nên vụ giết
người, được tìm thấy dưới gầm giường. Vụ giết người xảy ra trong căn hộ của cô
Madlena Iskhodzhaeva. Cửa được mở bằng chìa khóa, tức là kẻ giết người có chìa
khóa. Trong ngày hôm đó, anh không có mặt ở nhà, cũng không ở chỗ làm việc,
chúng tôi đã kiểm tra rồi.
- Tôi đi săn, - Tsanka bình tĩnh đáp, vẫn tiếp
tục ngắm nghía con dao găm.
- Đó không phải là bằng chúng ngoại phạm. Tốt
hơn là anh hãy nói xem, làm cách nào mà con dao găm lại có mặt ở đó?
- Nó có mặt ở đó như thế nào thì tôi không
biết, nhưng tôi có thể kể cho ông nghe mẹ tôi đã đổi con dao đó cho ông
Magomedaliev để lấy bốn ổ bánh mì như thế nào.
Buổi thẩm vấn kéo dài ba giờ liền. Cuối
cùng ông Ilin nói:
- Công dân Arachaev Tsanka, một vụ giết người
nghiêm trọng đã xảy ra và anh là người duy nhất bị tình nghi, mọi bằng chứng đều
chống lại anh. Anh bị bắt.
- Cái gì? - Tsanka hét lên, bật dậy như bị
con gì cắn. - Vì cái gì? Tôi không giết ai cả! Tôi không giết...
Đội bảo vệ xuất hiện, ngay lập tức tròng
còng số tám vào tay và dẫn Tsanka đi. Việc thẩm vấn còn tiếp tục kéo dài trong
suốt hai tuần. Vẫn những câu hỏi ấy lặp đi lặp lại. Đã có nhiều kinh nghiệm
trong những việc như thế này, Tsanka quyết định phải đấu tranh đến cùng dù anh
biết người ta có thể lạnh lùng đổ hết tội lỗi cho anh. Tsanka bắt đầu phân tích
từng câu hỏi, rút ra những nhận định, từ đó nghĩ ra cách ứng phó và chiến thuật
mới. Mặc dù vậy, sang đến ngày thứ ba, thần kinh của Tsanka không chịu đựng nổi,
anh quyết định phó thác cho số phận. Tsanka hiểu, cuộc đấu tranh này là vô ích
và vô nghĩa, cũng giống như hồi năm 1935, anh đã bị kết án vì những tội lỗi mà
mình không hề gây ra. Giờ vẫn không có gì thay đổi cả, chỉ có bầu không khí trở
nên thông thoáng hơn đến mức khó chịu với cái vẻ ngoài lịch thiệp còn bên trong
thì bốc mùi. “Chẳng lẽ tất cả đang vận hành theo một quỹ đạo mới? - Tsanka nằm
trong phòng giam, gác đôi chân dài lên tường, ngẫm nghĩ. - Chẳng lẽ mình lại bỏ
mặc những đứa con nhỏ của mình cho sự may rủi của số phận. Tại sao số phận của
mình lại như vậy? Mình sống để làm gì?”.
Đúng một tuần sau, bằng sự linh cảm, Tsanka
nhận ra tình hình đã có sự thay đổi gì đó. Khả năng tiên đoán của một kẻ bị bắt
cho thấy, các nhân viên điều tra không quan tâm đến anh nữa. Như vậy, có hai khả
năng có thể xảy ra: hoặc là họ đã có đủ bằng chứng kết tội anh, hoặc là họ
không còn hy vọng gì ở anh nữa và đang tìm kẻ giết người thực sự.
Đột nhiên, vào cuối một buổi thẩm vấn, ông
Ilin tò mò hỏi:
- Công dân Arachaev, anh có hài lòng với điều
kiện phòng giam không?
- Phòng giam thì có nhưng trại giam thì
không, - Tsanka xẵng giọng.
Các cuộc làm việc với điều tra viên càng
ngày càng ít dần, sau đó, suốt cả tuần Tsanka không bị đụng đến nữa. Sau một
tháng kể từ ngày bị bắt, ông Ilin chìa tay ra:
- Xin lỗi đồng chí Arachaev, hóa ra kẻ giết
người không phải là đồng chí.
- Là ai vậy?
- Nói chung, trong khi còn đang điều tra
thì đây là điều bí mật, nhưng với anh, một nạn nhân vô tội, chúng tôi có thể
nói thật... Đó là con trai ông Magomedaliev.
- Sao lại thế được? - Tsanka sửng sốt.
- Thế đấy... - Ông Ilin châm thuốc hút, rồi
chìa bao thuốc cho Tsanka. - Trong cuộc thẩm vấn đầu tiên, qua sự phản ứng của
anh khi nhìn thấy bức ảnh, tôi đã hiểu ngay, anh không phải là kẻ giết người,
và chúng tôi bắt đầu tìm kiếm. Chỉ có một điều đã rõ, kẻ giết người gần gũi với
các nạn nhân... Sau hai lần thẩm vấn, cái thằng quái thai ấy thú nhận hết mọi tội
lỗi... Anh biết không, chỉ cần tiếp xúc với họ là tay mình cũng bị vấy bẩn! Tôi
nói thật đấy! - Ông Ilin nhăn mặt vẻ kinh tởm. Quả là kinh tởm!
- Nhưng tại sao hắn lại giết họ? - Tsanka hỏi.
- Hắn khai, muốn trả thù cho mẹ và em gái.
- Ông Ilin kéo một hơi thuốc dài. - Hắn khẳng định, chính ông Magomedaliev đã tự
giết vợ và con gái, sau đó đốt xác. Giờ đây không biết phải tin ai nữa. Nhưng
tôi nghĩ, cô Madlena đã chơi trò bắt cá hai tay, dẫn đến sự ghen tuông, cộng
thêm với sự xúc phạm cũ. Ngoài ra, bà mẹ trẻ ấy còn đóng vai trò kẻ khiêu
khích. Chính cô ta đã đưa chìa khóa phòng và tiết lộ thời gian cuộc gặp. Điều
đó đã được thực tế chứng minh. Bây giờ tôi có một câu hỏi đối với anh. Anh đã
biết gia đình ông Magomedaliev từ lâu rồi. Tại sao ông Magomedaliev lại giết vợ
và con gái?
- Tôi không biết, nhưng tôi nghĩ, có thể là
vì lòng tham, ông ấy không muốn chia sẻ tài sản với người thân.
- Vậy à-à, - ông Ilin chua chát cười mỉa. -
Tôi đã nghiên cứu kĩ hồ sơ của ông ấy, đúng là một con lợn bẩn thỉu, và chết
như một con lợn.
Họ còn trò chuyện với nhau khoảng chục phút
nữa, rồi ông công tố viên lại xin lỗi Tsanka một lần nữa và thả anh ra. Tuy
nhiên, Tsanka không đi ngay, anh do dự giây lát rồi cuối cùng thốt ra:
- Xin ông hãy cho tôi biết, bằng cách nào
đó, tôi có thể nhận lại con dao gia bảo được không?
Ông Ilin cúi đầu, thọc hai tay vào túi, ngẫm
nghĩ một lát rồi đáp:
- Về nguyên tắc thì không được, nhưng tôi sẽ
cố gắng để thay cho lời xin lỗi về những sai sót của tôi.
- Còn một câu hỏi nữa ạ, - Tsanka vẫn chưa
chịu về. - Liệu tôi đã có thể bị bỏ tù không?
- Trước kia anh đã từng bị bỏ tù rồi, - ông
Ilin cười khẩy.
- Chẳng lẽ đến giờ vẫn không có gì thay đổi
hay sao?
- Và sẽ không bao giờ thay đổi cả: Liên Xô
đã, đang và sẽ tồn tại... Anh tò mò quá đấy, công dân Arachaev ạ. - Ông ủy viên
công tố nở một nụ cười bí hiểm.
- Từ ba mươi năm trước, tôi đã hiểu hết mọi
chuyện, tôi chỉ chờ đợi một sự thay đổi. - Tsanka nghiêng người cúi chào. - Xin
lỗi cán bộ. Vĩnh biệt.
- Hẹn gặp lại.
- Ồ không, không nên ạ... Đối với tôi thế
là quá đủ rồi.
Chiều hôm ấy, Tsanka về đến nhà, vui mừng
ôm hôn các con. Ngày hôm sau anh lại quay vào thành phố, đòi lại đứa con trai
năm tuổi Ruslan từ bà Mylana và lần đầu tiên đưa nó về nhà mình, trong làng
Duts-Khote.
* * *
Vào năm 1962, Tsanka và Gustan sinh thêm một
con gái - Baikhat. Cũng trong năm ấy, ông Basov Alfred Mikhailovich qua đời vì
nhồi máu cơ tim. Tsanka quay lại Alma-Ata dự lễ tang, rồi sau một năm ông giúp
bà Alla Nikolaevna chuyển về sống ở thành phố nhỏ Fryazino, ngoại ô Moskva, nơi
cô em họ và các cháu đang sinh sống.
Sau đó, Tsanka không có dịp nào gặp lại bà
Basov nữa, bà qua đời vào năm 1967.
Còn vào năm 1964, Tsanka bất ngờ nhận được
thư từ người chỉ huy cũ của mình, đại tá Saversky.
Tranh thủ những dịp đi công tác, Tsanka ghé
thăm ông hai lần ở Vologodchina, một lần ông Saversky đến Kavkaz thăm ông.
Năm 1966, Tsanka nghỉ công việc ở lâm trường,
nhưng ông còn làm chủ tịch Xô viết thôn Duts-Khote ba năm nữa mới nghỉ hẳn,
thành người hưu trí.
Tuy nhiên, Tsanka không chịu ngồi yên. Ông
có năm, sáu con trâu, cũng từng ấy bò, bốn mươi con cừu, một con ngựa và một trại
ong lớn. Ngoài ra, trong trang trại rộng lớn của ông còn vô số gà, vịt và gà
tây.
Suốt năm Tsanka và Gustan làm việc không
ngơi tay, yêu thương, chăm sóc và ấp ủ niềm hy vọng vào các con.
Tuổi già, thời gian vùn vụt trôi qua lúc
nào không hay. Những sự kiện quan trọng trong cuộc sống của ông Tsanka không
còn nữa. Vừa từ Kazakhstan quay về, ông trở thành người trông coi chính nghĩa
trang Gazavata. Ngoài ra, nhờ uy tín và lòng kính trọng của mọi người, ông được
mời tham gia tất cả các công việc xã hội ở trong vùng. Những người đồng hương vẫn
còn nhớ đến sự quan tâm và giúp đỡ của ông trong những năm tháng khó khăn.
- Hồi ở Kazakhstan, nếu không có ông
Arachaev Tsanka, chúng ta đã rất khổ sở, chẳng có mấy người còn cơ hội quay về
làng. - Người làng Duts-Khote thường nói với nhau.
Mùa thu nào, nông trang và lâm trường cũng
mang đến nhà ông rất nhiều lúa, cỏ khô, thức ăn gia súc và củi. Ông Tsanka
không muốn nhận những khoản quà biếu ấy, nhưng ông cũng không muốn làm phật
lòng các đồng hương.
Vào thời gian này, cũng như trước đây,
chính quyền cũng không chịu ngồi khoanh tay. Mỗi năm họ đều đặt ra những luật lệ,
quy định mới. Nào là không được chăn nuôi nhiều ngựa ở nhà, hạn chế số lượng bò
sữa và cừu. Thật ra, gia cầm, ong và cây ăn quả họ không đụng tới nữa. Những
người Bolsevich cảm thấy bất lực và bắt đầu có những hành động nhạo báng ngay
chính bản thân mình. Các thế hệ tiếp theo của Liên bang Xô viết bắt đầu phát hiện
ra vô số kẽ hở trong các bộ luật khắt khe và dần dần đưa chúng đi vào nền nếp
trong đời sống xã hội và hoạt động sản xuất.
Trong khi đó, ông Tsanka biết tận dụng uy
tín của mình không chỉ trong cộng đồng dân cư mà còn trong bộ máy chính quyền.
Với tư cách một cựu chiến binh, ông có nhiều thuận lợi và ưu đãi. Khi tổ chức bất
cứ một cuộc vận động quyên góp nào, thì gia đình ông cũng được miễn.
Thật ra cũng có một việc tức cười đã xảy
ra. Để tiến hành thanh tra khu vực đồng bằng Vashandaroi, một đoàn công an từ
Grozny được điều động tới. Trên cánh đồng, họ bắt gặp chiếc xe ngựa của gia
đình ông Tsanka. Căn cứ sắc lệnh của Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô, họ
yêu cầu phải giao ngựa và dụng cụ đi kèm cho nhà nước. Một vụ cãi cọ nổ ra. Các
chiến sĩ công an bắt đầu văng tục. Cả hai bên đều chửi bới và đe dọa lẫn nhau.
Mọi việc kết thúc bằng cách, ông Tsanka cầm cây phạng rượt theo các công an
trên đồng. Ngày hôm sau, chủ tịch huyện và giám đốc công an huyện phải đến gặp
ông Tsanka xin lỗi.
Vào đầu những năm bảy mươi, chính xác hơn
là mùa thu năm 1973, có một thanh niên từ làng bên đến gặp ông Tsanka.
- Chào ông, - người thanh niên lên tiếng. -
Cháu đến Sverdlovsk chơi, tình cờ gặp một người đàn ông, ông ấy bảo, ông ấy lớn
lên ở trại trẻ, là người làng Duts-Khote, tên là Gennady, họ là Arachaev. Ông ấy
chỉ biết vài từ Chechnya thôi. Thật ra, trông bề ngoài ông ấy như người nghiện
rượu... Địa chỉ đây ạ.
- Gelany... - Ông Tsanka rên rỉ, đầu óc
quay cuồng, ngã ngay vào tay chàng trai.
Suốt đêm hôm ấy ông Tsanka cầu nguyện, khóc
lóc. Sáng sớm ông xuống huyện lỵ, gửi một bức điện khẩn rồi viết một bức thư với
lời lẽ lộn xộn, rối rắm. Sau hai ngày, không thể chịu đựng được, ông lại gửi tiếp
một bức điện nữa. Và chỉ sau hai mươi ngày chờ đợi khổ sở, ông mới nhận được
câu trả lời ngắn ngủi, khô khan. Không còn nghi ngờ gì nữa - người đó chính là
con trai Gelany của ông đã bị thất lạc vào năm 1944 vào thời gian bị trục xuất
đi Kazakhstan.
Ông Tsanka rất xúc động, vội vàng đi
Minvody, rồi từ đó bay đến Sverdlovsk. Trước đó ông đã gửi điện cho con trai, hẹn
gặp ở sân bay.
Không có ai chờ ông ở sân bay cả. Ông đành
gọi taxi chạy theo địa chỉ. Con trai ông sống ở ngoại ô thành phố rộng lớn,
trong tòa nhà năm tầng được xây từ thời Khrushov. Ông Tsanka vô cùng bối rối nhấn
chuông căn hộ. Cửa mở, trên ngưỡng cửa hiện ra một người đàn bà thấp, béo, đeo
cặp kính dày, trên mặt đầy mụn cóc.
- À, à, à, có phải chính ông đã gửi điện
liên tục cho chúng tôi không? - Người đàn bà hỏi, vẻ khó chịu. - Mời ông vào, mời
ông vào nhìn ngắm người con trai yêu quý của ông... Anh ta tiếp đón ông như thế
đấy.
Ông Tsanka cởi giày ra, bước vào hành lang
nhỏ, chật chội, ẩm ướt, nồng nặc mùi hầm cầu bốc ra từ phòng vệ sinh, bước qua
căn phòng được ngăn đôi bằng chiếc tủ lạnh đã gỉ sét. Từ trong góc, một đứa bé
có cặp mắt to đang nhìn ông.
- Ông vào đi, vào đi, - bà chủ nhà vồn vã.
- Vào mà ngắm nhìn cảnh hấp dẫn này.
Ông Tsanka lách người giữa bức tường và chiếc
tủ lạnh, bước vào một phòng nhỏ, trần thấp. Trên chiếc đi văng cũ nát, một người
đàn ông cao gầy đang nằm bẹp, ngáy khò khè, nặng nhọc.
- Ngày nào cũng thế đấy, - người đàn bà
vung tay.
Ông Tsanka bước lại gần, chăm chú nhìn vào
khuôn mặt.
- Gelany, - ông thì thào, đưa tay xoa lên
cái trán hói của con trai và ứa nước mắt. - Thật tội nghiệp, Gelany, con trai bất
hạnh của ta! Sao con lại ra nông nỗi này?
- Thôi được rồi, - người đàn bà lạnh lùng
nói. - Chưa cần phải làm lễ cầu hồn ở đây đâu. Con nghiện này sáng mai mới tỉnh,
còn lũ trẻ đang ngủ. Vậy tốt nhất là sáng mai ông đến nếu ông muốn nhìn thấy
anh ta tỉnh táo.
- Phải, phải, - ông Tsanka ấp úng. - Thế thằng
bé kia là con của anh chị à? Tên nó là gì?
- Artur.
- Tên hay quá! - Ông già xoa đầu đứa bé. -
Có quà từ Kavkaz cho cháu đây. Chị thông cảm... Sáng mai, mấy giờ tôi có thể đến?
- Trước tám giờ. Còn sau đó, anh ta sẽ lại
trong tình trạng như thế này... Thôi, tạm biệt ông.
Ông Tsanka bước ra khỏi cổng với những giọt
nước mắt cay đắng. Thời tiết ở Ural đang là mùa đông. Tuyết rơi, xoáy tròn
trong cơn lốc nhỏ. Cảnh vật xung quanh u ám, hoang vắng, chỉ có những đốm sáng
yếu ớt hắt ra từ những ô cửa sổ nhỏ của ngôi nhà năm tầng. Loay hoay mãi trong
những con ngõ nhỏ, cuối cùng ông Tsanka mới ra đến con đường lớn, và phải mất một
khoản tiền lớn mới gọi được taxi chạy đến khách sạn. Trong khách sạn không còn
phòng trống. Ông Tsanka đành phải chìa thẻ cựu chiến binh của mình ra.
- Cựu chiến binh à, thì sao nào? Hết chỗ rồi.
- Người quản lý khách sạn không thèm ngẩng đầu lên, nói. - Chẳng lẽ tôi xếp ông
nằm đè lên đầu người khác? Ở đây đang có hội nghị.
Mệt mỏi, phờ phạc, ông Tsanka ra khu tiền sảnh
lạnh lẽo ngồi xuống chiếc ghế bành. Gió lùa lồng lộng, sàn nhà bằng đá bốc hơi
lạnh, trên trần chiếc bóng đèn neon bị cháy nhấp nháy liên tục. Ông Tsanka thu
mình trong áo bành tô, cố chọn một tư thế tương đối thoải mái và thiếp đi. Một
cú đập mạnh vào vai làm ông bừng tỉnh.
- Ông định ngủ ở đây đấy à? - Một giọng nữ
khàn khàn rít lên. - Đứng dậy, nhanh lên. Ông tưởng đây là sân ga hay sao? Tôi
sẽ gọi công an ngay bây giờ. Biến ngay.
Ông Tsanka đành gọi taxi chạy ra ga. Ở đây
cũng chẳng có chỗ nào ngồi cả. Ông cứ đi đi lại lại mãi, cuối cùng tìm được một
chỗ phù hợp, ngồi phịch xuống và thiếp đi.
Ông không kịp có mặt trước tám giờ. Khi ông
đến được hành lang cầu thang quen thuộc thì vừa đúng tám rưỡi. Đích thân Gelany
ra mở cửa cho ông. Hai người không ôm hôn nhau, chỉ đơn giản nhìn thẳng vào mắt
nhau.
- Ông vào đi. - Chủ nhà nói. - Tôi phải đi
làm bây giờ, nhưng vì chuyện này, tôi sẽ bị muộn.
Hai người xuống gian bếp, uống trà, trò
chuyện khe khẽ.
- Này ông nghe đây. - Đột nhiên ánh mắt
Gelany lóe lên. - Nhân cuộc gặp, phải uống một chút chứ. Đưa tôi tờ mười rúp,
tôi chạy ù ra cửa hàng, ngay góc phố thôi, nhanh lắm.
Mười phút sau, chủ nhà quay lại, rót vodka
ra hai chiếc cốc, nốc một hơi cạn cốc.
- Sao ông không uống? Thôi được, tùy ông...
Rượu ngon lắm.
Gelany uống một cốc nữa, hút thuốc và bắt đầu
bốc lên. Ông Tsanka im lặng ngồi nghe, chỉ một lần cắt ngang câu chuyện của con
trai, người thân yêu ruột thịt mà giờ đây đã trở nên xa vời, thậm chí không thể
với tới được.
- Tôi bị lạc ở sân ga, - người con kể. -
Anh trai và chị gái nắm tay tôi, thế rồi đột nhiên một vụ lộn xộn nổ ra cùng với
tiếng la hét, khóc lóc, kêu gào. Tóm lại, tôi chỉ còn một mình, đoàn tàu chạy
đi mất... Người ta đưa thẳng tôi từ sân ga vào trại trẻ mồ côi ở gần ga. Ngày
nào tôi cũng chui qua hàng rào, chạy ra ga, hàng giờ liền đứng trên đường ray,
chờ cha, chờ mẹ đến đón, nhưng không có ai quay lại đón tôi cả.
- Con sống ở đấy bao nhiêu năm? - Ông già
ngắt lời con.
- Đến tận mùa đông năm năm mốt. - Người con
đáp.
Ông Tsanka gục đầu, khóc nấc lên.
- Ta chỉ về muộn một chút, một chút thôi, -
ông rên rỉ. - Chính ta đã bao lần nằm mơ thấy con đứng trên đường ray... Thật
khủng khiếp!
- Thôi được rồi, đừng rên rỉ nữa, nào uống
thêm một cốc nữa... Ôi, thật khốn nạn! Thế đấy... - Gelany lại châm thuốc. -
Sau đó người ta chuyển tôi đến Murmansk. Tôi học hết cấp hai ở đấy, rồi chuyển
sang trường trung cấp hàng hải. Bơi lội trên biển, sau đó phục vụ trong hạm đội
tàu ngầm. Có khi cả nửa năm không nổi lên khỏi mặt nước. Đến năm sáu ba, tàu
chúng tôi gặp sự cố ở đâu đó gần Cu Ba. May mà thoát chết. Có thể, tôi bị nhiễm
xạ từ dạo ấy, đầu cứ hói dần. Sau vụ đó, tôi được giải ngũ, chuyển đến sống ở
đây, về phòng quân vụ Sverdlovsk, được cấp căn hộ hai phòng. Tôi cưới vợ lần thứ
nhất, có một con gái, rồi chia tay. Căn hộ hai phòng phải đổi lấy căn hộ một
phòng giao cho mẹ con họ, còn tôi có một phòng trong khu tập thể. Sau đó tôi gặp
Oksana. Cô ấy có một con gái lớn. Ông nhìn thấy chưa? Nó học lớp bảy rồi. Chúng
tôi lấy nhau. Ở chỗ làm việc người ta lại cấp cho tôi một căn hộ, tức là căn hộ
này đây, tôi trả lại cho nhà nước căn phòng ở khu tập thể... Sinh được con trai
Artur. Ông thấy nó rồi hả? Thằng bé khá lắm! Nào, chúng ta uống thêm chút nữa...
Sao ông không uống? Sức khỏe à? Ông thông cảm, tôi phải đi làm. Ngồi lâu quá rồi...
Đến chiều chúng ta nói tiếp.
- Con có nhớ các anh chị, mẹ và bà nội
không? - Ông Tsanka đứng dậy hỏi.
- Mang máng thôi, - người con trai Gelany
mà bây giờ có tên là Gennady khinh mạn phẩy tay.
- Tất cả đều đã qua đời rồi.
- Vậy sao? Thật đáng tiếc. Ta đi thôi. Ông
cứ nghỉ ở đâu đó đến chiều, còn ở đây, đồ đạc lộn xộn lắm, đàn bà mà, một lũ chẳng
ra gì... Ông đi xem phim đi, phim ở đây hay lắm.
- Thằng Artur đâu? - Ra đến cổng ông Tsanka
hỏi.
- Nó đi nhà trẻ. Thằng bé khá lắm. Này ông,
quả là bất tiện, nhưng ông đưa tôi mười rúp nữa được không, tôi nhất định sẽ
thanh toán đầy đủ.
- Thế anh không có lương à?
- Con vợ ngu ngốc nhận hết lương của tôi.
Tôi chỉ còn lại mấy rúp tiền làm thêm. Hiện tại không phải thời vụ, hơi khó
khăn.
- Mười rúp không có, chỉ có tờ hai mươi lăm
rúp thôi, - ông Tsanka vừa nhìn vào ví vừa nói.
- Ồ, thế thì càng tốt, tôi sẽ mua thêm cái
gì đó, buổi chiều ta sẽ ngồi với nhau. Nào, đi thôi, tôi sẽ chỉ cho ông bến xe
buýt.
Bảy giờ tối, ông Tsanka nhấn chuông. Oksana
ra mở cửa, trông cô có vẻ niềm nở và vui vẻ hơn.
- Ông vào đi, vào đi. Chiều hôm qua ông vất
vả quá, tôi quả là có lỗi. Ở đây không có hoa quả, đắt lắm. Mật ong ngon quá!
Ông nuôi đấy à? Tuyệt quá... Mùa hè nhất định chúng tôi sẽ đến thăm ông. Ông
vào bếp đi, tôi đã nấu món súp củ cải đỏ cho ông rồi, cả thịt đông lạnh nữa. Thịt
lợn, béo và ngon lắm... Sao ạ? Ông không ăn thịt lợn à? - Oksana ngạc nhiên. -
Lạ thật. Thôi được, nếu vậy ông dùng trà... Ôi, chắc là ông bị cảm lạnh rồi,
ho, ngạt mũi... Có thể bị cúm cũng nên.
Ông Tsanka ngồi trong bếp uống trà, tiếng
chuông cửa vang lên.
- Lại uống nữa rồi, đồ con lợn. - Ông nghe
thấy tiếng Oksana, - Ông ấy đã tìm ra anh, thế mà...
- Thôi đi, đừng làm ồn. Hôm nay sinh nhật
thằng Vladyk, tôi mua chiếc bánh ngọt nhỏ, hai con cá trích, nhân tiện lấy một
chai.
- Lại vay tiền? Lại nợ nần?
- Không, ông ấy đưa đấy.
- Vào đi, ông ấy chờ anh trong bếp.
Gelany ăn rất nhiều súp, thịt đông lạnh,
sau đó chuyển sang món cá trích. Tất cả các món đều kèm theo vodka.
- Sao ông không ăn, không uống gì cả? -
Gelany hỏi ông Tsanka. - Vợ tôi nấu ăn ngon không chê được.
Ông Tsanka chỉ im lặng, chăm chú ngắm nhìn
người con trai. “Nó giống Basil quá”, - ông thầm nghĩ và con tim đau nhói vì những
gì tốt đẹp nhất, thân thương nhất đã vĩnh viễn mất rồi. Ông cảm thấy khó chịu
trong người, dạ dày nhói lên vì cái món cá trích, lá gan như ép vào mạng sườn,
cả người rã rời.
- Lại đây nào, - tiếng Oksana gọi chồng, và
ông Tsanka vô tình nghe được màn độc thoại của cô ta: - Say sưa thế là đủ rồi.
Tôi và con cần phải nghỉ ngơi... Tôi không to tiếng, tôi đang ở nhà mình...
Chính anh phải im đi thì có. Tôi đã ngán anh lắm rồi, ban ngày thì say sưa, ban
đêm thì ngáy. Chẳng được cái tích sự gì. Tôi đã nói rồi, đây không phải nhà trọ
mà cũng chẳng phải cái sân chung. Chẳng việc gì phải tha thêm chấy rận vào nhà,
rồi còn lây cảm cúm cho lũ trẻ nữa. Nào, thôi đi, hai người biến đi đâu thì biến
cho khuất mắt... Thế là đủ lắm rồi.
...
... Ngoài ga lại không còn chỗ nào ngồi. Cả
người ông Tsanka đau ê ẩm. Ông yếu ớt dựa vào tường, bất lực ngã vật xuống nền
đá rồi thiếp đi lúc nào không hay. Người công an đánh thức ông dậy, hỏi giấy tờ.
Ông Tsanka thò tay vào túi trong, cả chứng minh nhân dân lẫn cái ví không còn nữa,
chỉ còn mỗi cái thẻ cựu chiến binh. Trong phòng trực ban của công an, sau khi
viết tờ trình về vụ mất cắp, người ta thả ông ra, hứa sẽ tìm ra tên trộm và bảo
chính ông là người có lỗi.
Ông Tsanka lâm vào tình huống tuyệt vọng:
toàn thân đau như dần, nước mũi chảy ròng ròng, mệt mỏi rã rời. Ông không biết
phải làm gì nữa - không tiền bạc, giấy tờ trong một thành phố xa lạ. Vừa nhớ đến
con trai, ông Tsanka hoảng sợ xua ngay ý nghĩ đó đi. Ông lang thang vô định
trên sân ga và nỗi kinh hoàng mỗi lúc một choán ngợp tâm trí. Xung quanh, nhiều
người đi lại tất bật nhưng ông có cảm giác như đang đứng giữa hoang mạc
Kyzylkum hay là vùng băng tuyết vĩnh cửu Kolyma. Ông cứ vật vờ mãi như vậy cho
đến sáng, đột nhiên ông có cảm giác như nghe thấy một giọng nói quê hương. Ông
lao về phía hai người trẻ tuổi. Và đúng họ là người Chechnya thật. Ông Tsanka
trình bày ngắn gọn hoàn cảnh của mình (dĩ nhiên không nói gì đến người con
trai), hai người đồng hương ngay lập tức mua vé tàu về Grozny cho ông, còn cho
ông tiền đi đường nữa.
- Ông có cần chúng tôi giúp gì nữa không? -
Hai người trẻ tuổi sốt sắng nói. - Ông đừng ngại, cứ nói đi.
- Cám ơn các cháu, cám ơn. - Ông ứa nước mắt.
- Thượng đế sẽ phù hộ cho các cháu!
Sau chuyến đi, ông Tsanka nằm liệt suốt hai
tháng. Mọi người quanh vùng đến thăm ông, nhân tiện chúc mừng ông tìm được con
trai. Ông kể cho họ nghe toàn những điều hư cấu về Gelany, biến điều mong ước
thành hiện thực, sau đó trong lúc đọc kinh cầu nguyện, ông cầu xin Thượng đế
tha thứ cho những lời bịa đặt của ông và đưa con trai ông trở lại con đường tỉnh
táo. Còn hằng đêm, ông than vãn với vợ:
- Bà biết không, cái lũ hung ác ấy đã làm
cho nó u mê đến mức, nó chẳng nhớ, chẳng biết và cũng chẳng muốn biết cái gì cả.
Nó chỉ tin vào báo chí, radio và vợ nó thôi, những chuyện còn lại nó chẳng quan
tâm... Đúng là một sự giáo dục quái gở! Họ đã biến nó thành cái xác ướp!..
Thành một kẻ bất lực!.. Không còn tâm hồn. Thật đáng sợ!..
Dư vị cay đắng sau cuộc gặp với Gelany làm
ông Tsanka vô cùng đau đớn, nhưng dù có thế nào, ông vẫn rất mừng vì đã tìm được
con trai. “Hừ, - ông thầm nghĩ, chỉ cần tất cả những đứa khác còn sống, thì dù
chúng có sống ở đâu, thành người thế nào, sống ra sao cũng chẳng quan trọng”.
Hàng tuần ông
Tsanka đều gửi thư đến Sverdlovsk, còn hầu như tháng nào bà Gustan cũng gửi cho
Gelany gói bưu kiện với thịt mỡ cừu sấy khô, mật ong, hạt hồ đào.
Thời gian đầu,
Gelany còn thỉnh thoảng viết thư trả lời, lời lẽ trong thư khô khan, đơn điệu,
hờ hững. Sau đó, đột nhiên Gelany yêu cầu ông giúp đỡ. Khoản tiền khủng khiếp.
Ông Tsanka chẳng cần suy nghĩ liền gửi tiền cho con trai qua đường bưu điện.
Sau đó đã xảy ra một điều kỳ diệu: một bức thư rất cảm động từ vùng núi Ural gửi
đến, trong đó, lần đầu tiên Gelany gọi ông Tsanka bằng cha. Ông Tsanka giấu mọi
người, ngày nào cũng đọc đi đọc lại vài lần bức thư đó, và lần nào cũng khóc.
Chẳng bao lâu sau, Gelany bắt đầu viết anh muốn trở về quê hương thân yêu, và
mùa hè tới, nhất định anh sẽ bay về Kavkaz cùng với con trai. Ông Tsanka vui mừng
khôn xiết, kể cho mọi người nghe về niềm hạnh phúc của mình, nhưng bao giờ cũng
cường điệu hiện thực lên cùng với vẻ mặt rạng ngời. “Sau bao nhiêu năm mới tìm
lại được con trai, mà con trai như thế nào chứ, một sĩ quan hải quân trên tàu
ngầm! Không phải chuyện đùa! Trở thành một con người xứng đáng, không làm hổ
danh dòng họ”, - ông Tsanka thầm nghĩ và nói y như vậy với tất cả mọi người.
Ông Tsanka nghĩ ra câu chuyện cổ tích ấy
cho chính mình như để che đi một nỗi đau khác trong tâm hồn: thằng con trai
Ruslan với cô vợ Madlena lớn lên thành một đứa lêu lổng, bẳn tính và hay tự ái.
Bất chấp sự quan tâm chăm sóc và tình yêu thương của bà Gustan, Ruslan vẫn
không kính trọng, thậm chí còn căm ghét, gọi bà là dì ghẻ. Với các em gái, em
trai của mình nó cũng đối xử với một thái độ hằn học như vậy. Vì chuyện đó mà
tâm hồn già nua của ông Tsanka đau xót vô cùng, ông không biết phải làm gì với
nó.
Ngay từ nhỏ, Ruslan đã bị ảnh hưởng từ cách
sống nghệ sĩ phóng túng và kênh kiệu của mẹ. Thêm vào đó, nó lớn lên còi cọc,
không giống như những người trong dòng họ Arachaev. Đôi khi ông Tsanka nhìn nó
và chợt nghĩ, có thể thằng bé này không phải là con ông. Tuy nhiên ông giấu kín
ý nghĩ u ám ấy trong đầu, luôn tỏ ra quan tâm chăm sóc đặc biệt đối với đứa con
mồ côi mẹ. Bà Gustan cũng luôn rộng lượng để làm vừa lòng nó. Để lấy lòng đứa
con riêng của chồng lúc nào cũng khó chịu, bà Gustan giấu chồng cho nó tiền,
mua cho nó những bộ quần áo đắt tiền và mốt nhất. Ông chồng cũng hành động
tương tự vì nghĩ nó bị thiệt thòi.
Kết quả là Ruslan, vốn đã ích kỉ lại trở
nên ngang bướng và độc đoán. Nó nhạo báng tất cả, không coi ai ra gì, nhất là
bà dì ghẻ. Người duy nhất nó sợ là ông bố, nhưng ở đây cũng nảy sinh sự thái
quá đáng lo ngại. Ông Tsanka có linh cảm, một ngày không xa, khi đứa con vượt quá
giới hạn cho phép, nó sẽ gây nên tội ác. Mọi sự ảnh hưởng, cảm hóa Ruslan giờ
đây đã trở nên vô ích và đã quá muộn, lỗ sâu mọt đã ăn từ trong gốc.
Đặc biệt, những lúc ông Tsanka không có nhà
thì Ruslan lại càng ngỗ ngược. Khi đó nó mặc sức lộng hành, xúc phạm bà Gustan,
nhạo báng các em, la hét, đập phá bát đĩa, xáo tung mọi thứ trong nhà lên, tỏ
ra vô cùng thô bỉ. Chỉ khi ông bố xuất hiện mới làm cho nó cân bằng trở lại.
Tuy nhiên, ông Tsanka hiểu rằng, đến một ngày nào đó thằng Ruslan sẽ có thái độ
ngang ngược đối với tất cả mọi người.
Và ngày ấy đã đến. Ruslan bước sang tuổi mười
bảy, nó xử sự lỗ mãng ngay cả khi ông Tsanka ở nhà. Thật ra những cảnh ấy diễn
ra lúc ông Tsanka đang ở ngoài vườn, trong nhà kho hay trong phòng ngủ của
mình, nhưng ông vẫn nghe rõ những tiếng la hét, chửi bới của nó. Khi ông Tsanka
xuất hiện là Ruslan liền im ngay, giận dữ làu bàu bỏ đi. Một lần ông Tsanka
đang ngủ trưa thì nghe tiếng con trai gây sự. Ông tức giận bật dậy, nhìn ra cửa
sổ và lặng đi vì kinh ngạc, ông mỉm cười rồi không kìm nổi, bật lên cười ha hả.
Ông nhận ra thằng con trai Ruslan có vẻ ngoài giống y hệt ông bác Baki-Haji của
mình. Ruslan cũng có vóc dáng nhỏ bé như con nòng nọc, cũng thích khoa chân múa
tay, lúc tức giận cũng rít lên bằng một giọng the thé.
Từ nhỏ Ruslan mơ ước sẽ theo nghiệp mẹ, trở
thành diễn viên nổi tiếng. Hàng giờ liền nó ngồi trước gương, uốn éo, õng ẹo.
Khi cha không có nhà, nó lẩm nhẩm hát các trích đoạn nhạc kịch và tự hào về chất
giọng của mình lắm.
Sau khi Ruslan học xong phổ thông, ông
Tsanka đành phải chịu thua cái tính khí thất thường của nó và phải nghe theo sự
thuyết phục của bà Gustan, đưa Ruslan lên Moskva thi vào trường đại học sân khấu.
Thi xong, hai cha con liền vội vàng trở về Grozny ngay. May mà nhờ có uy tín của
ông Tsanka, kẻ nối dõi tông đường mới được nhận vào khoa Lịch sử trường Đại học
Tổng hợp quốc gia Chechnya-Ingushetia.
Nhưng kể từ ngày ấy, trong cuộc sống của
ông Tsanka lại liên tục xảy ra những điều khó chịu khác. Vấn đề là ở chỗ, thằng
Ruslan không sống trong ký túc xá như những sinh viên khác mà sống trong một
căn hộ riêng được thừa kế theo di chúc từ bà ngoại Mylana (căn hộ của Madlena
chuyển sang cho mẹ). Trong căn hộ sang trọng của mình, Ruslan tổ chức các cuộc
ăn nhậu, hút xách. Hàng tuần hai lần, ông Tsanka và bà Gustan phải lần lượt
thay nhau vào Grozny để kiểm tra mọi hành vi của chàng sinh viên trẻ. Nhưng mọi
việc đều trở nên vô ích. Học kỳ đầu tiên, Ruslan thi trượt. Ông Tsanka đành phải
đến trường, hạ mình năn nỉ xin cho thằng con. Sau đó, để giám sát chặt chẽ việc
học hành của nó, ông Tsanka phải đưa một người đàn ông là bà con trong làng đến
ở với Ruslan. Thằng con trai phản đối, khóc lóc, thậm chí đe dọa, nhưng ông bố
không thay đổi quyết định, chẳng những thế ông còn cho một sinh viên khác, cùng
làng Duts-Khote đến ở nữa. Mọi chuyện chơi bời trác táng chấm dứt. Tuy nhiên, bất
chấp mọi sự nỗ lực, vào mùa hè Ruslan lại thi rớt học kỳ thứ hai.
- Thôi, tôi sẽ không phải hạ mình vì nó nữa.
- Ông Tsanka tức giận nói.
- Ông không nên nói thế, không nên, - bà
Gustan năn nỉ. - Ông hãy vào thành phố lo cho nó đi. Nhỡ nó bị đuổi học, bị đưa
vào quân đội, mọi người sẽ nghĩ sao? Họ lại nghĩ tại tôi không yêu thương con
chồng. Ông hãy vì tôi mà giúp nó đi. Tôi xin ông. Tôi van ông!
Ông Tsanka lại phải đầu hàng, vào Grozny,
tìm mọi cách đưa thằng du đãng trẻ tuổi lên học năm thứ hai. Sau lần này,
Ruslan có vẻ đã thay đổi, trở nên lo lắng, u buồn và trầm tư. Cha mẹ cảm thấy
vui mừng vì dáng vẻ u buồn của thằng con, nhưng không được lâu. Ruslan không đi
học nữa, sau đó bỏ về Duts-Khote, nằm vật vờ cả ngày trong phòng mình. Qua bà
Gustan, ông Tsanka được biết, thằng con trai tính khí bất thường của mình cảm
thấy bị xúc phạm vì bị người yêu đá.
Ngày hôm sau, ông Tsanka lại vào Grozny, đến
trường tìm cô gái là ý trung nhân của con trai, và ông rất ngạc nhiên và hài
lòng.
Hóa ra thằng Ruslan phải lòng một cô gái
cùng khóa rất đáng yêu. Tuy nhiên lại có một chữ “nhưng”: cô gái cao hơn thằng
Ruslan một cái đầu. “Hừ, - ông Tsanka
cười khẩy, - trong chuyện này, nó lại
càng giống ông Baki-Haji, lại yêu một cô gái cao hơn mình”.
Buổi chiều, ông Tsanka về nhà kể cho vợ
nghe về những gì mình thấy, và vừa cười vừa nhắc đến ông bác của mình.
- Con bé kia cao hơn nó thì đã sao? - Bà
Gustan thốt lên. - Điều quan trọng là nó yêu con kia... Cầu xin Thượng đế đừng
để xảy ra chuyện gì không hay. Lấy vợ xong là nó sẽ tu tỉnh lại ngay... Đó là
điềm may cho chúng ta đấy... Chúng học chung với nhau, căn hộ có sẵn rồi, còn
chúng ta thì ủng hộ.
Suốt cả đêm, ông Tsanka cứ nghĩ mãi về chuyện
đó, và đến gần sáng thì ông phải thừa nhận là vợ ông nói đúng.
Suốt hai tuần liền, ông Tsanka vào thành phố,
thu thập đầy đủ mọi thông tin về gia đình cô bé. Sau đó ông chọn những vị cao
niên có uy tín nhất vùng đi cùng với mình hỏi vợ cho con trai. Trong lần tiếp
xúc đầu tiên, cha mẹ cô gái từ chối thẳng thừng, lấy lý do con gái không đồng
ý. Sau đó, các bà phụ nữ, với sự chỉ huy của bà Gustan cũng được đưa vào chiến
dịch. Họ tâng bốc chú rể tương lai lên tận mây xanh, khuyên mọi người không nên
quá bận tâm về vóc dáng, họ bảo, chẳng qua vì cô bé còn trẻ nên chưa hiểu,
Ruslan đã có nhà riêng ở Duts-Khote, có căn hộ sang trọng với đồ gỗ nhập khẩu đắt
tiền ở ngay trung tâm thành phố Grozny, rằng sau đám cưới, ông bố chú rể sẽ mua
ô tô cho đôi vợ chồng trẻ và đủ thứ khác nữa. Cuối cùng các bên đã chịu nghe
nhau. “Vóc dáng, đúng là không quan trọng”,
hai bên giải quyết xong mọi vấn đề và đi đến sự thống nhất.
Lần đầu tiên ông Tsanka tổ chức đám cưới
cho con mình khi bản thân đã ở vào cái tuổi xế bóng. Lâu rồi trong vùng núi này
chưa được chứng kiến một sự kiện nào to lớn, quy mô như thế. Khách khứa đông vô
kể, quà cáp cũng không tính xiết, còn cô dâu thì đẹp tuyệt trần. Ông Tsanka rất
hài lòng với sự lựa chọn của con trai, lúc nào cũng tươi cười trong những ngày
diễn ra lễ cưới, không giấu nổi niềm hân hoan của mình.
Vừa cưới xong, qua bà Gustan, Ruslan yêu cầu
ông Tsanka phải mua xe ô tô cho mình.
- Cái gì? - Sự hài lòng trên nét mặt ông
Tsanka vụt biến mất. - Cứ học đi đã!
- Nhưng ông đã hứa, - bà vợ không chịu.
- Bà cút đi cho rồi! - Ông chủ gia đình hét
toáng lên. - Không có xe cộ gì đâu! Cứ nói lại với nó như thế. Khi nào học
xong, sẽ tính. Còn bây giờ tôi cũng không có tiền để mua xe.
Sau này, khi đã bình tâm lại, ông Tsanka
nói với vợ:
- Chẳng lẽ có thể tin tưởng giao tay lái
cho cái thằng gàn dở mới nứt mắt ấy hay sao? Ngay tại khúc cua đầu tiên nó sẽ
đâm tan tành. Tôi không mua xe cho nó đâu, nó tự làm ra tiền mà mua. Mà chúng
ta cũng không có tiền. - Ông Tsanka kết luận và đặt dấu chấm hết cho vấn đề
này.
Tuy nhiên số phận lại diễn ra khác hẳn.
Đúng nửa năm sau cuộc nói chuyện đó, nhân dịp kỷ niệm ba mươi năm ngày Chiến thắng,
người cựu chiến binh Arachaev Tsanka được phân phối một chiếc xe con “Zhyguly”
với giá cung cấp. Ông bố không muốn giao xe cho Ruslan, nhưng trước đó ba
tháng, vợ Ruslan sinh con trai, và người ông hạnh phúc nghĩ rằng kẻ nối dõi
tông đường của mình đã trưởng thành và chín chắn. Ông Tsanka mềm lòng, giao
chìa khóa xe cho Ruslan và coi như đã phạm một sai lầm nghiêm trọng.
Ruslan gặp tai nạn thứ nhất, rồi tai nạn thứ
hai. Sau lần đó, ông già Tsanka thu lại chiếc xe, khóa chặt trong nhà kho. Tuy
nhiên đến mùa đông tuyết rơi, khi ông Tsanka và bà Gustan sang làng bên để dự
đám tang, Ruslan tìm thấy chìa khóa xe mà cha đã giấu kín rồi đánh xe vào thành
phố Grozny. Ngay trong đêm, một tin khủng khiếp lan tới làng Duts-Khote: Ruslan
và bốn người bạn của mình gặp tai nạn giao thông. Ba người chết ngay tại chỗ,
hai người bị thương nặng. Ruslan cầm lái, chết ngay. Tất cả đều trong tình trạng
say rượu.
Sau sự kiện này, ông Tsanka như bị đánh gục
hoàn toàn, nằm liệt giường trong nỗi đau. Có thể, ông sẽ nằm mãi như vậy mà
không gượng dậy nổi, nhưng có một lần vào giữa đêm, ông nghe thấy tiếng khóc thất
thanh của đứa cháu Vakha từ căn phòng xa vọng lại. Ông nhỏm dậy, đẩy vào hông vợ.
- Bà làm sao thế, mụ già ngu ngốc, chết rồi
hả? Bà không nghe thằng bé khóc à. Bế nó lại đây. Mẹ nó còn trẻ quá, thậm chí
cũng không thức dậy nữa.
Bà Gustan bế cháu lại, ông Tsanka đón đứa
bé cả người ướt đẫm vì nước mắt và nước đái, ứa nước mắt ôm nó vào lòng với một
tình yêu thương nhức nhối. Thằng bé còn khóc một lát nữa, rồi bắt đầu ngọ ngoạy
cái cơ thể nhỏ bé của mình, ép vào ngực ông già, đôi môi đói mút mút, rồi sau
khi đã mệt nó ngừng mút, thiếp đi, thở đều đều. Ai mà biết được, có bao điều
thân thương, quý giá và đáng yêu trong cái cơ thể nhỏ bé ấy. Ông Tsanka bế cái
của thừa tự vô giá đồng thời là tương lai của chính mình, đi đi lại lại trong
phòng và ru nó. “Không, không, ta không được đầu hàng, không được chết, ta
không có quyền, - ông thầm nghĩ. - Ta cần phải giúp thằng cháu này đứng vững
trên đôi chân. Ta phải dọn cho nó con đường để bước vào đời. Nó ấm áp và đáng
thương làm sao! Thật hạnh phúc! Nó là cháu đích tôn của ta, là tương lai của
ta! Giờ đây, ngoài ta ra, chẳng còn mấy ai quan tâm đến nó nữa. Ta cần phải sống
vì nó. Ta không được đầu hàng”. Với những ý nghĩ ấy, ông Tsanka cứ đi đi lại lại
mãi mãi trong phòng, vừa ru vừa nhìn ngắm, vỗ về thằng bé và hạnh phúc mỉm cười
với nó.
Sáng sớm, ông Tsanka thức dậy với tinh thần
hưng phấn, cầu nguyện sáng như thường lệ, nhưng giờ đây ông không cầu xin Thượng
đế sự an bình và một cái chết đột ngột không đau đớn nữa, mà ông cầu xin lòng
kiên nhẫn, sức khỏe và nghị lực để nuôi dưỡng đứa cháu. Sau đó, ông cạo râu sạch
sẽ, mặc bộ quần áo sạch, khoan khoái bước ra sân.
- Bà ơi, - ông gọi. - Sao lại chưa dọn tuyết?
Cho gia súc ăn chưa? Chúng ta sẽ không bán con nào cả, mà sẽ mua thêm đôi bò sữa
nữa. Gọi bọn trẻ dậy, rồi bà cũng thay quần áo đi, chúng ta sẽ vào thành phố,
mua cho cháu trai chiếc xe nôi và quần áo mới. Trong khi nó còn chưa đứng vững,
chúng ta cần phải sống. Bà hiểu chưa, mụ già?... Đừng bao giờ để trong nhà này
có nước mắt và đám tang nữa...
Sau khi mãn tang, người mẹ trẻ của thằng bé
Vakha để con lại nhà chồng và về với cha mẹ đẻ ở Grozny. Còn sau đó một tháng,
ông Tsanka và bà Gustan, sau khi đã cám ơn con dâu về tất cả mọi việc, đã đồng
ý cho con dâu tự do trong mọi quyết định. Chỉ có đứa cháu trai thì ông Tsanka
không muốn chia sẻ với ai cả.
- Nó sẽ chỉ sống với tôi, ở làng Duts-Khote
thôi, - ông Tsanka cương quyết nói với cha mẹ con dâu. - Tôi hiểu, mẹ vẫn là mẹ,
nhưng ở đây có ngoại lệ. Con gái của anh chị còn trẻ, hãy để nó có cơ hội tạo lập
cuộc sống mới.
Vào lúc tuổi già xế bóng, ông Tsanka cũng
muốn “tạo lập cuộc sống mới” cho chính mình. Ông theo dõi chặt chẽ sức khỏe của
mình, tuổi bảy mươi, ông hiểu, chưa phải là kết thúc cuộc đời, mà phải tiếp tục
nó. Từ mùa xuân cho đến giữa mùa hè, ông đi thu hoạch cỏ, trái cây và các loại
rễ cây thuốc, rồi phơi khô, sắc uống. Đối với một số công việc khác như cày bừa,
gặt hái, chặt cây, ông làm có mức độ. Ông thường vào núi đi săn, suốt cả mùa hè
tắm trong nguồn nước, nơi trước kia Kesyrt vẫn thường tắm.
Cho đến giờ ông vẫn còn yêu và buồn nhớ
Kesyrt. Đối với con cháu, ông cũng dạy dỗ chúng theo cách mới. Còn Vakha là niềm
vui, là toàn bộ ý nghĩa cuộc đời ông. Đứa cháu cũng không phụ lòng ông, nó lớn
lên khỏe mạnh, hiếu động, ngay từ bé đã giống những người trong dòng họ
Arachaev.
* * *
Mùa hè năm 1979, ước mong từ lâu của ông
Tsanka đã thành sự thật. Con trai Gelany gửi một bức điện nói sẽ cùng cháu
Artur về Kavkaz thăm ông. Thư nào, ông Tsanka cũng đều mong con về quê, con
trai hứa mãi, nhưng cứ vào phút cuối chuyến đi lại trục trặc. Lần này, nó sẽ về
và không chỉ một mình mà với cả đứa cháu nữa!
Ông Tsanka và con trai Gerzany ra ga Grozny
đón những người khách mong đợi từ lâu. Vừa nhìn thấy con trai, ông Tsanka không
cầm nước mắt, Gelany thay đổi nhiều quá: tóc rụng hết, lông mày cũng rụng hết,
cơ thể gầy tọp, đen sạm, còng xuống. Còn đứa cháu Artur thì ngược lại, làm ông
rất vui - lớn hẳn lên, khỏe mạnh.
Ngay trong chiều hôm ấy, ông Tsanka nói với
con trai:
- Có thể thấy rõ là con đang bệnh, hãy ở lại
đây, con chẳng có việc gì làm ở đấy nữa.
- Vâng ạ, - Gelany đáp. - Con sẽ ở đây đến
hết hè, rồi tính tiếp.
Sau vài ngày, khi đã ổn định và cảm thấy
thoải mái, Gelany mới nói cho cha biết nỗi đau của mình.
- Cha ạ, - Gelany nói bằng tiếng Nga. - Cuộc
sống của con đã kết thúc rồi... Con bị cho thôi việc, hưởng trợ cấp thương tật.
Bệnh của con nặng lắm, không thể chữa được. Ngoài ra con lại uống rất nhiều. Vợ
con tìm mọi cách cố thoát ra, năm ngoái cô ấy đưa con vào trại lao động cai -
Cha ạ, - Gelany nói bằng tiếng Nga. - Cuộc sống của con đã kết thúc rồi... Con
bị cho thôi việc, hưởng trợ cấp thương tật. Bệnh của con nặng lắm, không thể chữa
được. Ngoài ra con lại uống rất nhiều. Vợ con tìm mọi cách cố thoát ra, năm
ngoái cô ấy đưa con vào trại lao động cai nghiện. Con đã phải ngồi ở đấy tám
tháng, nhưng con không dám cho cha biết. Người hàng xóm đã chuyển thư của cha
cho con. Bây giờ cô ta lại muốn tống con vào nhà thương điên nữa... Còn chính
cô ta, cái con đĩ ấy thì quan hệ lung tung, thậm chí đưa cả đàn ông vào căn hộ
của con, rồi tự mình mua rượu cho chúng uống.
Càng nói, giọng của Gelany càng yếu dần, đầu
cúi gục, thờ khò khè nặng nhọc.
- Con không biết phải làm gì bây giờ, - người
con trai cay đắng nói. - Con không muốn giết cô ta, bản thân con đứng còn không
vững, còn cô ta thì chỉ muốn ném con ra khỏi căn hộ của con. Con bị bệnh, yếu lắm
rồi. Con biết làm gì bây giờ? Con thương con trai quá, lo cho nó quá. Bây giờ mới
tỉnh ngộ thì đã quá muộn.
Bây giờ đến lượt ông Tsanka khóc nức nở,
cay đắng cho số phận của con trai.
- Con cần gì, cứ nói đi? - Ông hỏi con. -
Con nhìn xem, ở đây có tất cả, đất đai, thiên nhiên, rừng núi... Cha còn đủ sức
nuôi con, các em con còn trẻ, đây là nhà của con. Hãy ở lại đây, cố mà bình phục
và hãy để cháu trai lại đây. Nếu con không muốn sống ở làng, chúng ta còn có một
căn hộ rộng rãi ở trung tâm Grozny. Nếu muốn, cha có thể thu xếp cho con một
công việc nhẹ nhàng. Hãy ở lại đây, cha xin con!
- Vâng ạ, vâng ạ, - con trai đưa tay lau nước
mắt trên mặt, bình tâm trở lại.
Hai tuần liền, Gelany tận hưởng bầu không
khí trong lành và thiên nhiên tươi đẹp của vùng đất quê hương. Sau đó, không chịu
đựng nổi, Gelany không nói với ai một lời nào, bỏ xuống thành phố. Hai ngày liền
mọi người đổ xô đi tìm khắp nơi nhưng không thấy, đến ngày thứ ba, Gelany tự về
bằng taxi.
- Cha ơi, cha trả tiền đi, - Gelany gọi
cha, cố lắm mới bò ra được khỏi xe.
Hình dạng của Gelany tả tơi, mắt thâm quầng,
bộ áo vét nhàu nhĩ, dính máu bẩn thỉu, vai áo bị rách. Bắt đầu từ hôm ấy,
Gelany nằm bẹp suốt một tháng trời. Bà Gustan cùng hai con gái Damany và
Baikhat suốt ngày đêm thay nhau túc trực bên người bệnh. Ông Tsanka vào Grozny,
đưa về các bác sĩ giỏi nhất nước cộng hòa. Nhưng tất cả, sau khi thăm bệnh đều
lắc đầu, xua tay - “Bệnh phóng xạ, chúng tôi bất lực”.
Mặc dù vậy, Gelany vẫn bình phục, chạy khắp
thung lũng Vashandaroi như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Mỗi sáng, như thời còn
bé, Gelany chạy xuống tắm ở nguồn nước rồi sưởi nắng, đến cuối mùa hè, da mặt
đã bắt đầu hồng lên một chút. Cùng với cha, Gelany đi cắt cỏ, chăn cừu, leo lên
trảng cỏ trên dãy Alpes. Anh không đụng đến rượu nữa, thậm chí gần như bỏ hẳn
thuốc lá.
Rất có thể Gelany sẽ ở lại Duts-Khote,
nhưng vào cuối tháng tám, có một bức thư. Cô vợ Oksana yêu cầu phải đưa con về,
cuối thư còn viết, cô rất buồn nhớ.
Gelany xin tiền cha đi đường và cùng với thằng
bé trở về Sverdlovsk. Thằng Artur không muốn đi, khóc lóc, thậm chí bỏ chạy ra
khỏi nhà. Trong mùa hè nó đã kịp kết bạn với lũ trẻ trong làng, học tiếng
Chechnya và lùng sục khắp nơi trong vùng. Còn đối với cậu em họ Vakha nhỏ bé,
nó yêu thương với tất cả tấm lòng, suốt ngày lúc nào hai đứa cũng bên nhau, đến
tối cùng ngủ chung trên một giường.
Trên sân ga, hai
cha con Tsanka và Gelany ôm chặt nhau, chia tay.
- Cha ạ, nếu có chuyện gì xảy ra, cha lo
cho cháu. - Người con trai khẽ nói với người cha già.
- Chính con phải chăm sóc cha đấy, - ông
Tsanka cố đùa.
Một tháng sau, Gelany thông báo, đã chia
tay với vợ, không uống rượu, hiện đang sống với bạn ở khu tập thể. Sau khi
chính thức ly dị xong, căn hộ sẽ được giao cho Oksana, bù lại, Artur sẽ ở với
Gelany. Và khi đó, Gelany sẽ vĩnh viễn về sống ở ngôi làng quê hương
Duts-Khote.
Tuy nhiên điều đó đã không xảy ra - vào
tháng Mười năm 1979, Gelany qua đời.
Vừa nhận được điện về cái chết của con
trai, ông Tsanka vội cử người nhà lên đường đến Sverdlovsk. Gelany được đưa về
chôn cất tại nghĩa trang Gazavata.
Ông Tsanka cố liên lạc với Artur, nhưng đứa
cháu không một lần hồi âm, chỉ mãi nửa năm sau, Oksana mới đáp lại: “Cái tính
đa cảm của ông không cần cho ai cả. - Chị ta viết. - Nếu ông yêu nó thì hãy gửi
tiền cho nó”. Người ông rất đau khổ vì những lời lẽ như vậy, ông vẫn tiếp tục
viết thư cho cháu, nhưng không nhận được thư trả lời.
* * *
Năm 1982, con trai Gerzany tốt nghiệp Trường
Đại học Dầu khí Grozny. Gerzany được điều đi Urengoi, khu dân cư nằm phía Tây
Sibir, tận vùng Bắc Cực. Bản thân Gerzany không muốn đến Bắc Cực, bà Gustan
cũng không muốn cậu con trai duy nhất đến những nơi xa lạ. Tuy nhiên ông Tsanka
cương quyết:
- Cứ đi khắp thế giới để cảm nhận được mùi
vị của mẩu bánh mì, để kiểm tra lại chính bản thân, còn hơn là cứ ru rú nấp sau
váy mẹ.
Hai năm đầu, Gerzany thường xuyên bay về
thăm nhà, nhưng đến năm thứ ba nó chỉ về vào dịp nghỉ phép, mùa hè.
- Thôi đủ rồi, - ông bố bực mình. - Vòng
quanh thế giới thế là được rồi, đã đến lúc phải quay về nhà.
- Không đâu, cha ạ. - Bây giờ đến lượt cậu
con trai khăng khăng bác lại. - Con có công việc ổn định, thu nhập cao. Sắp tới
con sẽ được cấp căn hộ, khi đó sẽ tính.
- Chẳng có gì phải tính ở đấy cả! - Ông
Tsanka bắt đầu hét lên. - Một đồng bạc kiếm được ở nhà còn quý hơn mười đồng
trên đất khách quê người.
- Nhưng con đã ký hợp đồng rồi, con không
thể phụ lòng tin của đồng nghiệp, ngoài ra con thích công việc đó... Có thể con
sẽ làm thêm một năm nữa rồi về.
- Lạ thật! - Ông Tsanka bực bội. - Ngày xưa
người ta phải thúc nòng súng vào lưng để đày chúng ta đi Sibir, còn bây giờ,
cái bọn hỉ mũi chưa sạch chúng mày lại cứ đổ xô đến đấy.
- Thời thế đã thay đổi rồi cha ạ. - Gerzany
mỉm cười.
Dù cha mẹ già có thuyết phục đến đâu cũng
vô ích, đứa con trai vẫn cứ muốn làm việc ở Bắc Cực. Khi đó ông Tsanka phải đưa
ra một điều kiện cứng rắn:
- Bà hãy nói với nó, - ông Tsanka bảo vợ -
Tôi sẽ cho nó đi nếu bây giờ nó chịu lấy vợ.
- Chính nó cũng muốn lấy. - Bà Gustan mỉm
cười.
- Có vợ chưa cưới rồi à? - Ông Tsanka tò
mò.
- Phải, nó đã gặp con bé Zukaeva Baluka.
- Cháu gái của anh trai Kurto?
- Phải.
- Ồ, thằng này giỏi thật! Chọn thế mới
đúng. Tôi cũng đã nhắm con bé này cho nó. - Ông già nheo nheo mắt vẻ hài lòng.
- Ông già rồi mà còn để mắt đến đám con gái
hả? - Bà Gustan lên giọng.
- Ồ, không, tôi chỉ dự phòng thế thôi, -
ông Tsanka đưa tay vuốt vuốt hàng ria mép đã điểm bạc. - Sau khi thằng con trai
đưa vợ lên phương Bắc, tôi sẽ lấy vợ khác, còn bà thành người giúp việc...
Nhưng tôi chỉ nghĩ đến mình bà thôi.
- Đồ trơ tráo, đi còn không vững mà vẫn
khua môi múa mép.
- Ai bảo bà nói trước. Rồi bà sẽ thấy,
trong đám cưới con trai, không có ai khiêu vũ giỏi hơn tôi đâu. Cái đám mẹ góa
sẽ bám lấy tôi cho mà xem... Cẩn thận đấy, mụ già ạ!
Ngay trong chiều hôm ấy, ông Tsanka đi hỏi
vợ cho con trai. Một thời gian sau, Gerzany cùng với cô vợ trẻ rời làng
Duts-Khote lên phương Bắc.
Một năm sau, ông già Tsanka viết cho con
trai:
“Khi nào con về phép, ghé lại thành phố
Sverdlovsk, đưa cháu Artur về đây. Cha đã thống nhất với họ rồi”.
Artur ở chơi Duts-Khote một tháng rưỡi. Suốt
thời gian ấy, lúc nào nó cũng quấn quýt bên thằng em họ Vakha. Cả ngày hai anh
em mất hút trong núi, bơi lội trong nguồn nước, giúp ông Tsanka chuẩn bị củi và
hạt giống cho vụ đông.
Cuối đợt phép, Gerzany đưa hai cháu vào thành
phố, mua cho chúng cả đống quần áo đủ dùng cho một năm.
Cuối tháng Tám, Gerzany cùng với Baluka và
Artur ra đi.
Hai tháng sau, có một bức điện gửi đến làng
Duts-Khote, thông báo ở khu dân cư Urengoi, một đứa cháu của dòng họ Arachaev vừa
chào đời. Các con đề nghị cha đặt tên cho cháu, ông nội đặt là Arzo.
Các con gái trong gia đình Arachaev lần lượt
đi lấy chồng. Trong nhà chỉ còn lại hai ông bà già và đứa cháu Vakha. Ông
Tsanka rất yêu cháu, còn thằng bé lớn lên khỏe mạnh, hiếu động và ngoan ngoãn
trong niềm vui mừng của hai người già.
Lần cuối cùng Artur trở về Duts-Khote là
vào năm 1986. Nó đã cao lớn, trưởng thành hẳn lên nhưng vẫn thích vào rừng với
Vakha. Ông Tsanka đề nghị nó ở lại nhưng nó phải chuẩn bị cho năm sau thi vào
trường đại học.
Artur thi rớt, phải nhập ngũ. Hết hạn nghĩa
vụ, nó vào học trường thiết giáp. Học xong được nhận quân hàm trung úy, phục vụ
ở vùng Viễn Đông, rồi lấy vợ ở đấy. Trong số những bức thư thưa thớt của mình,
Artur thông báo cho ông nội biết, cuộc sống của nó rất khó khăn, hai vợ chồng
phải sống trong doanh trại, lương không đủ chi tiêu. Ông Tsanka nhận được bức
thư cuối cùng của Artur vào năm 1993. Đứa cháu viết, hai vợ chồng vừa sinh con
gái, và rất biết ơn chú Gerzany đã giúp đỡ. Nó còn viết, nó sẽ được điều động đến
đơn vị khác, sẽ cho biết địa chỉ sau. Nhưng sau đó ông Tsanka không còn nhận được
một bức thư nào của Artur nữa.
Năm 1991, bà Gustan bệnh nặng phải nằm liệt,
Gerzany phải rời bỏ công việc lãnh đạo ở Urengoi để trở về Grozny.
Tháng Chạp năm đó bà Gustan qua đời.
Gerzany được bố trí làm lãnh đạo phân xưởng trong nhà máy chế biến khí ga ở
Grozny. Gerzany làm được hơn một năm sau đó nói với cha, anh chưa nhận được một
đồng lương nào và không thể nuôi gia đình. Gerzany chỉ còn một lối thoát duy nhất
là quay trở lại phương Bắc. Vào thời gian này, hai con trai và con gái của
Gerzany đã lớn.
Trước khi lên đường, ông Tsanka gọi con
trai lại nói:
- Gerzany, cha có một vài đề nghị đối với
con. Thứ nhất: hàng năm con phải về Duts-Khote cùng với các cháu, ít nhất là
hai tháng. Thứ hai: con phải hứa, sau khi cha chết, con không được bỏ ngôi nhà
thờ tự và đất đai của tổ tiên. Và thứ ba: hãy tìm kiếm Artur, giúp đỡ nó và
Vakha. Con hãy nhớ, giờ đây trách nhiệm của dòng họ Arachaev đang đặt trên vai
con! Đừng quên điều đó.
- Con sẽ không quên đâu, cha ạ. Cha cứ yên
tâm.
Năm 1993, Gerzany và cả gia đình lại chuyển
đến Urengoi ở Bắc Cực.
Cũng trong năm đó, Vakha học xong phổ thông
và thi đỗ vào trường Đại học Tổng hợp Chechnya.
* * *
Sau khi bà Gustan qua đời, ông Tsanka chỉ
còn lại một mình. Người thân duy nhất gần gũi với ông là đứa cháu Vakha. Ông
yêu quý nó nhất và rất tôn trọng nó. Thậm chí ông không dám thừa nhận với chính
mình, tình yêu thương của ông đối với con trai Gerzany và các con của nó ít hơn
nhiều so với thằng cháu Vakha. Vào lúc tuổi già xế bóng, ông Tsanka gắn bó với
Vakha bằng cả con tim.
- Nó là dòng máu
của dòng họ Arachaev, - ông Tsanka ngắm nhìn cháu và thầm nói với chính mình.
Càng có tuổi, ông Tsanka càng ít tham gia
vào các công việc. Tuổi tác không cho phép ông làm việc ngoài đồng hay trong rừng.
Công việc duy nhất ông còn có thể làm là chăm sóc nghĩa trang. Vào những ngày
dài, ông đến nghĩa trang hai lần, sáng và chiều, còn ngày đông, ông chỉ đến một
lần. Ngày nào ông cũng đi, bất kể thời tiết, ông không thể sống mà không làm điều
đó. Hôm nào trời nóng, ông ngồi hàng giờ bên nguồn nước, thích thú ngắm nhìn
dòng nước trong vắt tuôn chảy về hướng đồng bằng, nhớ về một thời trai trẻ đã
vĩnh viễn trôi qua, buồn nhớ, khóc lóc, có lúc lại bật cười thích thú.
Những năm gần đây, ông không quan tâm đến đời
sống xã hội và chính trị nữa. Có nhiều việc ông không hiểu, thậm chí còn thấy kỳ
lạ. Tuy nhiên, nhờ ông hàng xóm Dashaev Yazman, cũng là một ông già nhưng trẻ
hơn ông đến hai mươi tuổi, giúp ông thường xuyên nắm được mọi tin tức xảy ra
xung quanh.
Sau khi mãn tang bà Gustan, ông hàng xóm
Yazman nói với ông Tsanka:
- Một sự kiện trọng đại vừa diễn ra: Xô viết
tối cao nước cộng hòa tự trị của chúng ta vừa ra tuyên cáo “Về chủ quyền quốc
gia”.
- Tuyên cáo chẳng qua chỉ là những lời lẽ rỗng
tuếch, - ông Tsanka đáp. - Còn các Xô viết chẳng bao giờ mang lại điều gì tốt đẹp,
từ sắc lệnh về “đất đai”, “hòa bình”, cho đến cái “chủ quyền” của ông.
Một thời gian ngắn sau đó, ông Yazman nói:
- Ông nói đúng, Xô viết tối cao chỉ là những
người lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Chính quyền mới vừa được thành lập rồi,
chúng ta đã có tự do, độc lập, chúng ta đã làm cuộc cách mạng.
- Tự do thì rất tốt, - ông Tsanka đáp. -
Nhưng cách mạng thì bao giờ cũng đau khổ. Còn độc lập thì chúng ta rất cần.
Chúng ta đã từng mong ước điều đó. Cám ơn ông vì cái tin này.
Hai tháng sau, ông Yazman lại đâm bổ sang:
- Toàn bộ quân đội Nga đã rút khỏi nước cộng
hòa rồi. Nhân dân đã chiếm đoạt tất cả vũ khí của họ. Tôi và các con trai cũng
kiếm được mấy khẩu súng máy và súng ngắn.
- Ông cần súng ngắn
với súng máy để làm gì?
- Làm gì là thế nào? Ông cẩn thận đấy, bọn
trộm cướp lởn vởn khắp nơi.
- Thế công an đâu?
- Công an nào? Khắp nơi xảy ra vô số các vụ
trộm cướp, thật kinh khủng. Phải tự mình bảo vệ mình.
- Trời ơi, - ông Tsanka lắc đầu. - Có nghĩa
là khi chúng ta kiếm được tự do thì lại đánh mất sự bình yên và trật tự. Tất cả
đúng theo quy luật, tìm được bao nhiêu thì sẽ mất chừng ấy. Chỉ có điều, thật
khó hiểu, cái nào tốt hơn: cái đánh mất hay cái tìm được.
- Nhưng vũ khí thì chúng ta rất cần, - ông
Yazman vẫn khăng khăng theo ý mình. - Biết đâu bỗng dưng nước Nga, hay thậm chí
nước Mỹ tấn công chúng ta thì sao?
- Ôi, ông Yazman, đừng vội thế. Súng máy và
súng lục thì chỉ có các băng cướp sử dụng thôi, còn bây giờ người ta đánh nhau
bằng máy bay và tên lửa cơ.
Nửa năm sau, ông láng giềng lại chạy sang:
- Ông biết không, ông Tsanka, chẳng bao lâu
nữa chúng ta sẽ sống như các quý tộc Cô-oét. Hóa ra, đất đai của chúng ta rất
giàu.
- Đất đai thì giàu thật đấy, nhưng không có
lao động, không bắt được cá vàng lên khỏi hồ đâu.
- Chúng ta sẽ chăm chỉ làm việc cả ngày lẫn
đêm.
- Đúng rồi, ban ngày thì kéo nhau đi mít
tinh, còn ban đêm thì đi ăn cướp.
- Ông lẩm cẩm rồi, ông Tsanka ạ, ông mất
trí rồi. - Ông Yazman phẩy tay.
Hai tháng sau, ông Yazman lại chạy sang nhà
ông Tsanka:
- Ông Tsanka, ông Tsanka, ông không thể ngờ
được đâu, chúng ta hạnh phúc vô cùng, bây giờ chúng ta không phải đóng thuế nữa,
cũng không phải trả tiền điện, tiền nước, tiền khí đốt. Ông có tưởng tượng được
không, tất cả đều cấp miễn phí. Hạnh phúc quá, không phải đóng thuế! Thế mới là
tự do chứ!
- Khoan đã, ông Yazman, không phải đóng thuế
là thế nào? Không có tiền thuế thì không có nhà nước. Mà không có nhà nước thì
tự do sẽ biến thành vô chính phủ.
- Ông chẳng hiểu gì cả, ông Tsanka ạ.
- Có thể tôi không hiểu, - ông Tsanka chua
chát nói. - Nhưng có một điều ai cũng biết: không có cái gì cho không. Đó chẳng
qua chỉ là một sự lừa bịp. Ai đó đã ném cho ta cục xương, coi chừng mắc trong họng
đấy.
- Ông suy nghĩ cứ như là phe đối lập vậy.
- Thế “phe đối lập” là cái gì?
- Là những người chống đối nền tự do của
chúng ta.
- Có nghĩa tôi là người chống đối sự tự do
của chúng ta, còn ông là người ủng hộ tự do?
- Đúng thế.
- Thế ông nghe cái từ “phe đối lập” ấy ở
đâu thế?
- Trên ti vi chỉ nói mỗi chuyện ấy thôi.
- Hừ, giỏi thật! Hàng thế kỷ nay, họ không
thể đâm mũi dao vào lưng dân tộc chúng ta, khổ sở mãi, thế mà bây giờ, chỉ nhờ
cái thùng loa ấy mà họ muốn làm gì thì làm. Họ đã làm được cái điều đáng sợ nhất:
chia rẽ dân tộc.
Cuối năm 1993, ông Yazman lại chạy đến:
- Ông biết không, ông Tsanka, thật là kỳ diệu!
Tổng thống Nga đã làm y như chúng ta, giải tán quốc hội, rồi dùng xe tăng và đại
bác bắn thẳng vào mặt họ. Khá thật!
- Thật đáng tiếc là ở đó cũng có chiến
tranh, - ông Tsanka đau xót nói. - Thằng Gerzany hứa với tôi, mùa đông này sẽ
đưa tôi lên Moskva mổ mắt. Mắt tôi chẳng nhìn thấy gì nữa rồi.
- Mọi việc đã kết thúc, trật tự được thiết
lập hoàn toàn. - Ông Yazman bật cười.
Tháng Giêng năm 1994, ông Tsanka được mổ mắt
ở Moskva. Sau phẫu thuật, một giáo sư đã có tuổi kiểm tra mắt cho ông. Biết ông
Tsanka ở Grozny, giáo sư tò mò hỏi:
- Mọi người ở đấy sống thế nào?
- Một số thì sống rất sướng, còn đại đa số
thì khổ.
- Ở đây cũng vậy. - Giáo sư buồn bã thở
dài, - Hóa ra những câu khẩu hiệu, đại loại như “thị trường”, “dân chủ”, “tự
do” chỉ là tấm bình phong cho những hành động cướp bóc và làm giàu bất chính.
Trong lần kiểm tra
cuối cùng, ông Tsanka hỏi giáo sư:
- Ông là người có nhiều thông tin và khả năng
tư duy... Có tin đồn đang được thổi phồng lên, rằng sẽ nổ ra cuộc chiến tranh
giữa nước Nga và Chechnya. Ông nghĩ sao, liệu có chiến tranh không?
Giáo sư nặng nề thở dài:
- Đúng là “thổi phồng”, người ta đang cố
tình bơm lên, đang chuẩn bị dư luận xã hội cho việc đó... Còn chiến tranh, chắc
chắn sẽ nổ ra. Ở Nga có câu thành ngữ: Chiến tranh sẽ xóa bỏ tất cả. Mà cần phải
xóa bỏ rất nhiều tội lỗi. Ôi, nhiều lắm! Đây là biện pháp duy nhất để tồn tại,
biện pháp vô liêm sỉ nhất nhưng lại hiệu quả nhất. Ông biết không, khi đề cập đến
những vấn đề to lớn mà nói về tâm hồn, trí tuệ, nhân tính thì quả là ngu xuẩn,
thậm chí sỉ nhục nữa. - Giáo sư gỡ tấm gạc ra khỏi mắt ông Tsanka. - Bây giờ
ông sẽ nhìn thấy thế giới với toàn bộ sự đa dạng của nó như thời trai trẻ.
- Đúng vậy ạ, - ông Tsanka thốt lên với thị
lực được phục hồi. - Tôi nhìn rõ quá.
Từ bệnh viện đến khách sạn, ông Tsanka đi
taxi với Gerzany. Ông già thích thú ngắm nhìn Moskva đã đổi mới rất nhiều, với
những công trình xây dựng to lớn, kỳ vĩ.
- Thành phố to lớn và giàu có thật, - ông
nói.
Thích thú như trẻ con vì thị lực đã phục hồi,
suốt cả ngày ông Tsanka ngắm nhìn thành phố qua khung cửa sổ. Đột nhiên ông
nhìn thấy một chiếc xe tải đang tiến đến cửa hàng đối diện, bên dưới hàng chữ
“bánh mì” có vẽ chữ thập ngoặc phát xít to tướng.
- Nhìn kìa, Gerzany, - ông bố chỉ cho con
trai. - Như vậy có nghĩa là chủ nghĩa phát xít đang nuôi ai đó.
- Thôi đi cha. - Gerzany bật cười. - Chẳng
qua là bọn trẻ nó nghịch thôi.
- Không phải đâu, con ạ. - Ông Tsanka buồn
rầu nói. - Hiện thực không bị khúc xạ trong mắt con trẻ.
- Vậy cha nghĩ, bọn trẻ biết chủ nghĩa phát
xít là gì sao?
- Rất may là chúng không biết, - ông già
đáp. - Nhưng tại sao con lại cho đó là bọn trẻ vẽ nghịch. Ngay cả khi bọn trẻ vẽ,
thì chúng đã vô tình sao chép lại những gì mà người lớn đã gây ra. Bọn chúng,
thay vì vẽ những ngôi sao to Bolsevich thì lại đi vẽ chữ thập ngoặc của bọn
phát xít. Đó là biểu tượng, giống nhau.
- Thôi cha ạ, cha cứ bi kịch hóa mọi chuyện
lên. Cha nhìn xem, xung quanh tốt đẹp thế kia.
- Phải, rất tốt đẹp. Nhưng thế giới là sự
cân bằng của mọi quyền lợi và giá trị. Có nghĩa là ở đâu đó đang rất tồi tệ, chẳng
hạn như ở Grozny của chúng ta.
- Ở đấy sống khổ lắm hay sao, vậy cha hãy
chuyển đến sống với con cho đến khi giai đoạn khó khăn này trôi qua.
- Hừ, - ông Tsanka cười khẩy. - Giai đoạn
khó khăn nhất trong cuộc đời cha chính là khi sống xa quê hương. Còn ở
Duts-Khote, tất cả đều thân thuộc, dễ chịu đựng hơn, chẳng qua cũng như chịu đựng
những trò tinh nghịch của đứa trẻ ngỗ ngược thôi. Còn tất cả vẻ đẹp này chỉ là ảo
ảnh, sau một tuần là chán ngấy, con sẽ thấy xung quanh chỉ là một sa mạc khô cằn
sỏi đá và tàn nhẫn.
... Ngày hôm sau, ông Tsanka phải hạ cánh
xuống sân bay Makhachkala. Chechnya đang bị phong tỏa nên trong thành phố
Grozny, các chuyến bay và tàu hỏa bị đình lại. Mãi đến chiều ông mới về đến căn
hộ của mình ở Grozny, nơi thằng cháu Vakha phải có mặt để đón ông. Vakha vui mừng
chờ sẵn, chuẩn bữa chiều cho ông.
- Ông ơi, hôm nay
ông phải ở lại đây, - Vakha lo lắng nói. - Ngày mai cháu sẽ đưa ông về
Duts-Khote.
- Thế bây giờ? - Ông Tsanka ngạc nhiên.
- Không tiện ông ạ, - đứa cháu cười. -
Không có điện, không có ga, nước cũng không, sưởi ấm cũng không, điện thoại
cũng bị cắt... Mà bà con họ hàng nhà ta còn lại rất ít, tất cả những ai có điều
kiện đều chạy sang Nga rồi.
- Hừ, con đường để tiến tới độc lập quả là
gian truân, - ông già thở dài.
Hôm sau, ông Tsanka quyết định đến trường Đại
học Tổng hợp xem thằng cháu học hành ra sao. Một quang cảnh hỗn loạn bao trùm
lên khắp lâu đài khoa học: cửa kính bị vỡ, hành lang đầy rác, bụi bặm, bẩn thỉu,
từng đám thanh niên dáng vẻ bệ rạc, tụ tập trong các góc nhà, hút thuốc, chửi tục.
Một số còn mang theo cả tiểu liên và súng ngắn. Có thể thấy rõ, chúng cũng học
được điều đó. Ông Tsanka không nhận ra bất cứ một nét đặc trưng nào của cơ sở
đào tạo đại học ở trong và ngoài khuôn viên trường.
- Vakha, cháu sẽ không đến đây thêm một
ngày nào nữa. - Người ông rút ra kết luận. - Ở đây, cháu sẽ không học được điều
gì tốt đẹp, tất cả chỉ còn là sự suy đồi... Chúng ta về nhà thôi.
Về tới làng Duts-Khote, ông Tsanka gặp ông
Yazman.
- Ôi, ông Tsanka, ông còn về đây làm gì nữa?
Ở lại với thằng con không hơn à. Ông có biết điều gì đang diễn ra ở đây không!
Đã hai năm nay không có lương hưu, trường học vắng hoe, điện nước không, thu nhập
cũng không, mà cũng chẳng có chỗ nào để làm nữa...
- Khoan đã, khoan đã, ông Yazman, - ông
Tsanka cắt ngang. - Đừng có than thở nữa... Chúng ta cần phải kiên nhẫn. Con đường
đến tự do không dễ dàng đâu!
- Ông nói nghiêm túc đấy chứ? - Ông Yazman
ngạc nhiên.
- Thề có Thượng đế, rất nghiêm túc! - Ông
Tsanka nghiêm nghị đáp.
- Thế chúng ta phải làm gì bây giờ? - Ông
Yazman vung tay lên trời.
- Sống, làm việc, những công việc của mình,
kiên nhẫn chờ đợi, tất cả rồi sẽ đâu vào đấy. - Ông Tsanka sảng khoái đáp.
Ngay trong chiều hôm ấy, Vakha làm như vô
tình thốt lên:
- Trong thành phố Grozny người ta đang tập
hợp sinh viên để đưa đi du học ở Đại học Tổng hợp Ankara.
- Ôi, Vakha ơi, ông rất muốn đưa cháu đi học
ở bất cứ đâu, chỉ có điều ông không có tiền. Hiện giờ, mọi thứ đều phải trả tiền
cả, mà lại rất đắt nữa. Có thể chú Gerzany sẽ giúp cháu.
- Nhưng đây là đào tạo miễn phí. Cả ăn, ở đều
miễn phí, chỉ cần thi đỗ.
- Nếu vậy thì còn nói gì nữa, cháu thi đi.
- Nhưng cháu đi rồi ông chỉ còn lại một
mình.
- Cháu đừng lo cho ông! - Ông Tsanka hét
to. - Ông sẽ trụ được, sẽ xoay xở được. Miễn là cháu học thành tài rồi quay về.
- Cháu không thể làm như thế được, - Vakha
buồn rầu nói. - Ông chỉ có một mình, làm sao cháu có thể bỏ ông lại?
- Ta đang ở nhà cơ mà... còn bà con họ
hàng, người làng nữa. Ngày mai cháu đi với ta vào thành phố.
Cuối tháng Tám năm 1994, chàng trai Vakha
Arachaev cùng với một nhóm thanh niên lên đường sang Thổ Nhĩ Kỳ. Đến giữa tháng
Chín, từ trung tâm điện thoại ở Shali, ông Tsanka gọi điện đến Urengoi.
- Cha ơi, - từ đầu dây bên kia, con trai
Gerzany hét lên, - Thằng Vakha từ Ankara gọi điện cho con. Mọi việc chỗ nó đều ổn.
Con vẫn thường gọi điện cho nó. Cha ghi lại số điện thoại của nó đi. Gọi cho nó
vào buổi tối ấy.
- Thế con có tìm thấy thằng Artur không?
- Có ạ, nó đang phục vụ ở Blagoveshchensk,
vẫn ở vùng Viễn Đông. Nó bảo, nó có viết thư cho cha nhưng chắc là thư bị thất
lạc. Nó hứa, năm tới sẽ về thăm cha. Cha còn tiền không?
- Còn. Các cháu thế nào?
- Ổn cả ạ. Cha sống một mình có sao không?
Đến đây sống với con đi. Con về đón cha nhé.
- Không, đừng lo cho cha, lo cho các cháu ấy.
Thôi, tạm biệt con.
Ông Tsanka hỏi cô điện báo viên, giá cước
cuộc gọi đi Ankara khoảng bao nhiêu. Hóa ra rất đắt. Ông bước ra đường, đứng đếm
lại những đồng tiền cuối cùng của mình trong túi.
- Mà mình cần gì những tờ giấy này nhỉ? Ở
nhà có bột mì, thịt sấy khố, mật, có thể đủ sống đến tận mùa xuân, sau đó tính
tiếp. Tốt hơn là gọi điện nói chuyện với thằng cháu, có thể là lần cuối cũng
nên...
Ông Tsanka phải chờ đúng bốn tiếng thì cuộc
gọi mới kết nối được. Vào lúc nửa đêm, ông Tsanka bị đánh thức dậy rồi chỉ vào
buồng điện thoại.
- Ông ơi, ông đấy hả! Ông có khỏe không? -
Thằng Vakha hét toáng lên. - Cháu buồn lắm, cháu muốn về nhà. Cháu lo cho ông lắm.
Cháu rất lo cho ông, - ông Tsanka nhận ra đứa cháu đang khóc, rồi chính ông
cũng nấc lên, ép chặt ống nghe vào má. - Sao ông im lặng, ông ơi? Ông nói gì đi
chứ!...
- Vakha ơi, cháu đừng lo cho ông. Mọi việc
của ông đều tốt. - Ông Tsanka cố nén cái giọng đang run rẩy của mình lại, trả lời
cháu. - Cháu hãy cố gắng học tập, giữ gìn sức khỏe...
Cả hai ông cháu đột nhiên im bặt, ở hai đầu
dây hai người đều đang khóc.
- Vakha ơi, tạm biệt cháu. Thời gian của
ông hết rồi, - ông Tsanka cố lắm mới thốt lên nổi.
- Không, không, ông ơi, thời gian của ông
chưa hết đâu! - Tiếng đứa cháu hét lên trong ống nghe, vào đúng lúc ấy, tiếng
tít tít dồn dập vang lên.
... Đúng một tháng sau chiến tranh bùng nổ.
* * *
Ông Tsanka đang ngủ. Trong cơn mơ ông thấy
mình đang đánh nhau, lao vào trận tấn công. Đột nhiên một nòng pháo to tướng bỗng
xuất hiện ngay trước mặt ông. Một tiếng nổ đinh tai nhức óc vang lên. Ông già
đang ngủ bị hất văng vào tường, tỉnh ngủ, nhưng không hiểu mình đang ở đâu và
có chuyện gì xảy ra, chỉ nghe tiếng kính vỡ loảng xoảng và mùi bụi đất nhồi rơm
khét lẹt. Tiếp theo là một loạt tiếng nổ khác. Tất cả mọi vật bị rung lắc, đảo
lộn. Cuối cùng ông Tsanka nhận ra, ông đang ở trong nhà mình, còn ngôi làng quê
hương thì đang phải hứng chịu một trận pháo kích tiếp theo.
Bên ngoài cửa sổ bị vỡ kính, một cơn lốc lạnh
giá cuốn theo đám mây tuyết. Một vài bông tuyết lạnh ngắt đáp xuống khuôn mặt
phờ phạc của ông già, nhanh chóng đánh tan cơn buồn ngủ, làm ông tỉnh hẳn, đưa
ông trở về với thực tại đang bị tổn thất nặng nề.
Lại một tiếng nổ kinh hoàng nữa vang lên
ngoài sân. Một luồng sáng chói lòa trùm lên ô cửa sổ. Ông Tsanka nặng nhọc thở
khò khè, rên rỉ ngồi dậy, lần mò tìm chiếc kính trong bóng tối nhập nhoạng, mãi
một lúc lâu mới tròng được sợi dây cao su buộc gọng kính vào gáy. Sau đó ông vất
vả lần ra mở cửa.
Ngôi nhà bị xiêu vẹo sau tiếng nổ, mọi chi
tiết bị đều bị kẹt cứng. Phải khó khăn lắm ông Tsanka mới thoát được ra ngoài
sân. Làn hơi lạnh ban đêm phả ngay vào mặt, luồng sáng chói lòa của ngọn lửa đập
ngay vào mắt. Tất cả, nhà kho, mái che chuồng trại và đống cỏ khô đang cháy rừng
rực. Ngọn lửa vui vẻ nhảy nhót, thè những cái lưỡi đỏ rực ra, tham lam ngốn ngấu
tất cả những gì khô ráo của cơ ngơi nhà ông Tsanka mà quả đạn pháo đã làm hư hỏng.
Lại những tiếng nổ nữa, mặt đất lại rên rỉ rung lên. Rồi đột nhiên, tất cả như
chết lịm đi, trở nên tĩnh lặng, thanh bình, yên ắng. Chỉ có các thanh gỗ to lâu
năm trong các công trình là còn nổ lách tách trong ngọn lửa.
Không còn nghe thấy tiếng đạn pháo và những
tiếng động khác trong ngôi làng hoang dại chìm giữa bóng đêm. Một sự cô độc
không sao chịu đựng nổi bao trùm lên ngôi làng bỏ hoang.
Ông Tsanka sực nhớ đến cuộc điện thoại hôm
qua, nhớ đến đứa cháu, và ông cảm thấy đau nhói trong lồng ngực, cổ họng như bị
những ngón tay sắc nhọn cào cấu. “Không,
nó không được làm thế, - ông lão thầm nghĩ, - nó không phải thằng ngu mà quay về
nhà giữa lúc cuộc chiến tranh tàn bạo như thế này đang diễn ra. Không, đó sẽ là
một sai lầm”. Ông Tsanka cố xua đi những ý nghĩ khủng khiếp đó ra khỏi đầu,
ông muốn nghĩ đến chuyện khác, về quá khứ, về nguồn nước, nhưng những ý nghĩ nặng
nề, u ám ấy cứ bám riết lấy ông, không chịu buông tha. Ông không thể tìm được sự
yên bình cho bản thân, ông cảm thấy đau đớn và nặng nề kinh khủng.
Ông vào nhà, định nhóm lò lên, nhưng trong
nhà gió lùa lồng lộng, tuyết phủ trắng trên sàn gỗ ngay bên dưới cửa sổ bị vỡ
kính. Ông ngắm nhìn ngôi nhà ruột thịt giờ đây đã trở nên xa lạ, lạnh lẽo, cảm
thấy vô cùng đau đớn ngay trong chính ngôi nhà và ngôi làng của mình. Đột nhiên
ông nhớ tới nghĩa trang, không hiểu tại sau ông lại có cảm giác, ông sẽ cảm thấy
dễ chịu hơn, bình yên hơn bên những tấm bia mộ. Như bị cám dỗ bởi niềm hi vọng,
ông Tsanka liền bước ra, đi về phía nghĩa trang Gazavata trong màn đêm dày đặc.
Đến nguồn nước đã cạn khô, ông không dừng lại mà bước qua những nơi chốn đã bị
chối bỏ để tìm kiếm cho mình sự yên bình và quên lãng. Một cơn gió mạnh thổi thốc
vào ngực, buốt thấu xương, những bông tuyết giá lạnh như đâm vào da mặt. Cơn
bão tuyết dạo chơi lần cuối: nó tuyệt vọng thổi hun hút vào khe núi, thô bạo
vùi dập những tán cây cổ thụ, có lúc lặng đi trong giây lát, tưởng đã hết, lúc
lại điên cuồng cuốn lên, khuấy động thế giới xung quanh. Trời rất lạnh.
Con dốc cuối cùng
trước nghĩa trang là vất vả nhất. Ông Tsanka phải bò trên bốn chân. Không nhìn
rõ con đường mòn, ông bò hú họa. Từ đêm qua, những bông tuyết khô, lạnh ngắt đã
phủ một lớp mỏng trên mặt đất đóng băng. Tất cả trở nên xa lạ, trơn trượt, hiểm
trở và hoang vắng. Mặc dù vậy, ông Tsanka vẫn bướng bỉnh bò, bò mãi lên trên,
có cảm giác như thiên đường hạ giới đang chờ đợi ông ở đấy.
Khi trời hửng
sáng thì cơn bão tuyết cũng lặng, cảnh vật khắp nơi được phủ một màn tuyết trắng
tinh khôi. Tuy nhiên trời vẫn không sáng hẳn: những đám mây đen, nặng nề bay là
là sát mặt đất, dùng toàn bộ sức mạnh của mình đè xuống thung lũng núi.
Cuối cùng, ông
Tsanka cũng đến được nghĩa trang. Với sự tiếc nuối, ông hiểu ra rằng, ông đã
không tìm được sự bình an như mong muốn ở nơi này mà chỉ thêm một ý nghĩ cay đắng
nữa xuất hiện trong đầu: “Trong cái nghĩa
trang của dòng họ Arachaev hùng mạnh này chỉ chôn cất có một số người: bà nội,
người vợ đầu của ta và hai con trai. Còn những người thân yêu khác đều chết nơi
đất khách quê người, chết bất đắc kỳ tử và chết trong chiến tranh... Còn ta, sẽ
là may mắn nếu được vào đây. Ta sẽ chết ở nhà và có lẽ người ta sẽ mai táng ta ở
đây”. Ý nghĩ ấy như vỗ về, thậm chí còn mê hoặc ông nữa. Viễn cảnh tươi
sáng như đánh thức, đốt lên trong lòng ông niền hăng say của tuổi già. Ông quyết
định phải đào sẵn cho mình một cái huyệt.
Ông Tsanka lựa chọn
rất lâu vị trí đào mộ cho mình và cảm thấy hài lòng. Việc đó cuốn hút ông đến mức
ông không nhận thấy những đám mây đen nặng nề đã tan dần đi, để lộ ra một khoảng
trời xanh trong veo, thăm thẳm. Chỉ còn lại vài đám mây thưa thớt, tả tơi, vội
vàng trôi về phía đường chân trời xa tít. Thế giới trở nên sáng sủa, tươi tắn
và lấp lánh... Ông Tsanka bắt đầu hăng hái đào huyệt. Thật ra, sức khỏe còn lại
hơi ít, nên ông phải tiến hành công việc một cách chậm rãi, nặng nhọc, dù vậy
cái huyệt vẫn cứ sâu dần xuống.
Những âm thanh mỗi
lúc một to dần bắt ông Tsanka phải dừng tay. Ông lau chiếc kính đọng mồ hôi rồi
nhìn quanh. Máy bay trực thăng đang quần đảo trên làng Duts-Khote, hàng đoàn xe
thiết giáp đen chũi nối đuôi nhau tiến vào làng theo hai hướng khác nhau.
Ông Tsanka lo lắng
quan sát, đột nhiên ông nhìn thấy trên sườn núi phủ tuyết trắng, nơi có con đường
dẫn vào hang đá xuất hiện một bóng người. “Người
này hẳn phải rất thông thạo địa hình nơi đây, - ông lão rợn cả người. - Chẳng lẽ đấy là cháu ta? Không... Hay là phiến
quân? Phải, có lẽ vậy”. Người đó bắt đầu đi xuống theo con đường mòn phủ
tuyết, bị trượt chân ngã lộn nhào xuống khu vực nguồn nước đã cạn khô rồi biến
mất sau vách đá. Những gì còn lại, ông Tsanka không nhìn thấy nữa. Tuy nhiên,
trái tim ông thắt lại đau đớn, ngực như bị bóp nghẹt. “Không, không, người địa phương không thể ngã như vậy”, - ông
Tsanka tự trấn an mình.
Trong lúc đó, một
chiếc trực thăng treo ngay trên khu vực nguồn nước, chiếc kia lượn vòng trên
nghĩa trang. Và chỉ vài phút sau, ông Tsanka nhìn thấy một chiếc xe thiết giáp
đang chạy rất nhanh theo sườn núi về phía ông, để lại sau lưng những vệt bánh
xe sâu hoắm, đen thui. Đến cái dốc cuối cùng, chiếc xe bị trượt bánh cứ quay
mãi một chỗ chẳng khác gì con nghẽo già, cố hết sức bò lên rồi lại trượt xuống
không biết bao nhiêu lần để vượt qua cái dốc cuối cùng: nó gào rú ầm ĩ, phụt
khói đen sì, đột ngột lao lên một đoạn rồi lại bất lực trượt dài xuống. Làn
khói do chiếc xe phun ra làm đen cả một đoạn sườn dốc, mùi khói dầu và cao su
cháy tỏa ra nồng nặc. Cuối cùng nó đành bất lực nằm im. Từ trong xe, bảy người
lính trang bị vũ khí nhảy ra và chạy về phía nghĩa trang, bao vây ông Tsanka.
Sáu nòng súng tiểu liên và một nòng súng ngắn đều chĩa vào một mục tiêu.
- Giơ tay lên! -
Người sĩ quan ra lệnh. - Không nghe à, giơ tay lên. Bỏ xẻng xuống. Xuất trình
giấy tờ.
Ông lão làm theo
mệnh lệnh.
- Giấy tờ đâu? -
Người chỉ huy lại hét lên.
Khi những người
lính chạy đến nghĩa trang, ông Tsanka đã để ý đến một sĩ quan cao, to. Có cái
gì đó quen thuộc qua vóc dáng, bước đi, thậm chí cả cử chỉ nữa. Trong ý thức của
ông, người sĩ quan này gợi ông nhớ đến một người nào đó. Giờ đây, khi người sĩ
quan đứng trước mặt mình, ông Tsanka lại càng để ý quan sát, thậm chí còn lấy
kính ra lau nữa. Khuôn mặt ngăm ngăm, hơi dài, gò má cao, chiếc mũi to, thậm
chí rất to, hơi gồ, đôi mắt tròn màu xanh, lấp lánh, hàng lông mày giao nhau và
chiếc trán cao. “Chẳng lẽ đây là em trai
Basil của mình, ồ không, hay là chú Kosum”, - ông Tsanka ngạc nhiên ngẫm
nghĩ.
- Tôi hỏi, chứng
minh nhân dân của ông đâu? - Người chỉ huy lại thô bạo quát lên.
Anh ta còn hỏi
nhiều câu hỏi độc địa nữa, rồi lấy từ chiếc túi áo ngực to tướng ra chiếc máy bộ
đàm.
- Số một, số một,
tôi là số sáu... số một đâu, - bằng một giọng khác hẳn, anh ta hét vào máy.
- Tôi nghe đây, -
một giọng trầm, khô khan bật ra từ ống nghe.
- Tôi là số
sáu...
- Ai đấy? Làm sao
tôi nhớ được, ai trong số các anh là số sáu, số mười.
- Báo cáo đồng
chí đại tá, - người sĩ quan đứng thẳng lên. - Tôi là đại úy Kukhmisterov...
Kukh-mis-terov.
- Báo cáo đi.
- Ở nghĩa trang
phát hiện được một ông già, không có giấy tờ trong người, ông ấy khai, họ là
Arachaev...
- Họ gì? - Giọng
trầm trong ống nghe thô bạo cắt ngang.
- Arachaev ạ. Giống
như thượng úy chỉ huy trung đội ba, cũng có họ là Arachaev ạ.
- Ông ta làm gì ở
đấy?
- Ông ta bảo, đào
huyệt cho mình.
- Họ đã tự đào
huyệt chôn mình từ lâu rồi. Mang ông ta về đây. Dẫn về nhà, bắt xuất trình giấy
tờ, ít ra là sổ hộ khẩu, khai thác xem phiến quân trốn ở đâu.
- Báo cáo đại tá,
rõ ạ.
Từ phía sau, ông
Tsanka bị nòng súng tiểu liên thúc vào sườn đau điếng.
- Nhanh lên! - Bằng
một giọng khàn khàn, trung sĩ ra lệnh.
Mọi người chạy
theo triền dốc. Ông Tsanka không chạy kịp, mới được vài bước đôi chân yếu ớt của
ông đã loạng choạng, trượt ngã, đập mặt xuống tuyết. Những người lính thô bạo xốc
nách ông lôi đi, rồi ném ông như ném bao khoai tây lên sàn xe thiết giáp bằng
thép lạnh ngắt, bẩn thỉu. Ông Tsanka bị đập mạnh xuống sàn, cơn đau nhói ở vai
làm ông bật lên rên rỉ. Chiếc xe nổ máy, lăn bánh, nhảy chồm chồm trên những ổ
gà, lắc qua lắc lại, hất ông già lăn từ bên này sang bên kia giữa hai hàng ủng
lính.
Xe lao vùn vụt xuống
dưới. Trong thùng xe không khí ngột ngạt, nặng nề, trên trần hai bóng đèn nhỏ
trong lưới bảo vệ sáng lờ mờ. Ông Tsanka khó nhọc mở mắt ra và nhìn thấy ngay
trước mũi mình đôi ủng bảnh bao của đại úy, cao hơn một chút là khuôn mặt lạnh
lùng, cương quyết. Từ bên dưới, ông Tsanka vài lần liếc nhìn khuôn mặt đại úy,
rồi hỏi bằng một giọng thật to để át tiếng động cơ:
- Cậu có phải là
Kukhmisterov ở Leningrad không?
- Tôi là người
Piter, - đại úy đáp như máy rồi từ trên cao nhìn xuống ông Tsanka. - Còn ông, đừng
có “cậu tớ” với tôi, đồ dê đực, thổ phỉ quái thai ạ.
- Có phải bà cậu
là Eleonora Vitalevna Kukhmisterova không? - Ông già vẫn không chịu yên.
- Cái gì? - Người
sĩ quan la toáng lên, và chỉ đến lúc này ông Tsanka mới ngửi thấy mùi rượu nồng
nặc. - Làm sao ông biết? Các anh thấy chưa, - người sĩ quan quay sang phía các
đồng sự. - Chúng biết hết, chúng có đầy đủ thông tin. Tôi đã nói rồi, trong
hàng ngũ chúng ta có nội gián, có kẻ phản bội. Họ đã bán đứng tất cả chúng ta
cho bọn này...
- Bà Eleonora
Vitalevna còn sống chứ? - Bằng một giọng khàn đặc, ông già nằm dưới sàn cố ngắt
lời đại úy.
- Ông câm đi, đồ
súc sinh! - Đại úy Kukhmisterov lấy ủng đạp một cú thật mạnh lên người ông
Tsanka. - Bà ấy chết rồi, chết rồi! - Đại úy hét vào mặt ông. - Các anh thấy
chưa? Bọn chúng theo dõi mọi chuyện. Đồ thổ phỉ! Trung sĩ, đưa chai rượu cho
tôi. Không, ở đây không thể tỉnh táo được. Xung quanh toàn là sự phản bội, toàn
là kẻ thù. Các anh có hình dung được không? Những người Nga chúng tôi, sống ở
ngay trên nước Nga của mình mà cũng không yên. - Vừa nói đại úy vừa thành thạo
vặn nút chai và uống liền mấy ngụm, không cần nhấm nháp gì cả, chỉ nhăn mặt lại.
- Cái bọn rác rưởi này, cần phải tiêu diệt hết như lũ gián, còn ai không hài
lòng sẽ bị tống cổ ra khỏi nước Nga. Các anh biết không, bọn chúng tán hươu tán
vượn đủ thứ, nào là chủ nghĩa nhân đạo, nào là dân chủ, nhân tính. Chúng tôi đã
nếm tất cả các món ấy rồi, họ lột sạch chúng tôi và cả nước Nga nữa. - Đại úy uống
thêm hai ngụm nữa và lại nhăn mặt. - Đưa cái gì nhắm đây...
Đến rìa làng
Duts-Khote, chiếc xe thiết giáp dừng lại, ông Tsanka bị đẩy ra, bắt đứng lên.
- Nhà ông đâu? -
Đại úy hét to. - Đi thôi.
Khi ông Tsanka bị
dẫn đến chính ngôi nhà của mình, ông chết lịm đi vì kinh hoàng. Đứa cháu ruột
Vakha của ông bị trói ngay dưới gốc cây hồ đào to giữa bãi cỏ. Cả người nó lấm
lem bùn đất, quần áo rách nát, trên trán và dưới mắt bị trầy da, môi dưới bị
rách máu chảy ròng ròng. Tất cả răng trước bị gãy hết.
- Vakha, Vakha! -
Ông Tsanka gào lên thảm thiết, lao về phía cháu.
Ông già bị giữ lại.
Ông nhìn cháu chằm chằm, không nhìn thấy gì khác, không cảm nhận được điều gì
khác, ông chỉ nhận ra Vakha đã ngẩng mặt lên, thậm chí còn yếu ớt mỉm cười với
ông.
Người trung sĩ trẻ
tuổi báo cáo tình hình cho đại úy Kukhmisterov, đưa cho đại úy tấm hộ chiếu của
Bakha.
- Cái gì thế này,
cũng có họ là Arachaev à? - Đại úy ngạo mạn hỏi. - Giờ thì rõ cả rồi. Thảo nào
mà thượng úy Arachaev của chúng ta lúc nào cũng nhăn nhó, lại còn viết đơn xin
giải ngũ nữa. - Đại úy nói to với các quân nhân đứng xung quanh.
Kukhmisterov khệnh
khạng bước lại gần người bị trói, sợ bị bẩn quần áo nên thận trọng chỉ dùng
ngón trỏ chọc vào mũi Vakha, đẩy khuôn mặt bị đánh của cậu lên.
- Thế nào, đồ thổ
phỉ, - đại úy cười khẩy. - Mày đã giết bao nhiêu người của chúng tao rồi? Thượng
úy Artur Arachaev của chúng tao, tình cờ có phải là bà con họ hàng của mày
không? Mày làm gì ở Thổ Nhĩ Kỳ, đồ súc sinh? - Đại úy đấm hai cú rất mạnh vào
ngực chàng trai dòng họ Arachaev. Vakha càng đổ gục xuống, rên rỉ, còn người sĩ
quan lùi lại hai bước, giơ chân đá một cú như trời giáng vào giữa bẹn, sau đó,
như một võ sĩ karate, anh ta nhảy lên đá ủng vào mặt Vakha. Sau cú đá mạnh, đầu
của chàng trai ngoẹo qua ngoẹo lại, máu phun tung tóe, hắt cả lên mặt và lên áo
của đại úy. Kukhmisterov nhìn lên bộ trang phục của mình, vẻ kinh tởm.
- Phù, đồ súc
sinh, mày làm bẩn tao rồi, - đại úy cằn nhằn rồi chửi bới ầm ĩ. - Bây giờ mày
phải lấy lưỡi liếm hết chỗ này, đồ nhọ đít hèn mạt ạ. - Đại úy tiến lại sát
chàng trai.
- Dừng lại đi,
không được đánh nó nữa! - Ông Tsanka lấy hết chút sức lực cuối cùng giật ra khỏi
tay những người lính rồi chạy theo đại úy, túm vào cầu vai của anh ta, hét lên.
- Tôi xin anh, hãy vì vong linh của bà anh, bà Eleonora Vitalevna, đừng đánh nó
nữa, đừng làm nó bị tàn tật.
Đại úy gạt mạnh
tay ông Tsanka ra, quay về phía ông.
- Ông nói gì, hả
cái con dê già kia? - Đại úy đột ngột hét to, phả hơi rượu nồng nặc vào khuôn mặt
nhăn nheo, phờ phạc và ướt đẫm nước mắt của ông Tsanka. - Ông lảm nhảm cái gì,
đồ quỷ già?
- Xin anh đừng
đánh nó nữa. Tôi xin anh, tôi lạy anh. - Ông khổ sở khẽ nấc lên, những lời cuối
cùng khò khè, run run.
- Đồng chí đại
úy, đừng đụng vào họ nữa, không thể như vậy được. - Một người lính lên tiếng.
- Cút đi... - người
chỉ huy thô bạo chửi rủa. - Biến đi cho khuất mắt, đồ nhãi ranh.
Đại úy
Kukhmisterov lại quay về phía ông Tsanka, khinh bỉ dùng ba ngón tay túm vào cái
cằm nhọn nhô ra của ông lão.
- Thế nào, lão
già, ông đã sinh ra thằng thổ phỉ này nên bây giờ thương hại nó hả? - Anh ta
hít một hơi dài rồi phả mùi hôi vào mặt ông Tsanka.
- Phải, ta thương
nó, thương nó - ông già nặng nhọc thốt lên. - Còn anh, ta cũng sinh ra anh mà
không được Thượng đế chúc phúc, nên anh đã trở thành gánh nặng trên vai ta.
- Ông huyên
thuyên cái gì thế, con dê già ti tiện kia? - Đại úy Kukhmisterov hét lên rồi bất
ngờ giáng một cú rất mạnh vào quai hàm ông Tsanka, đầu ông đột ngột ngoẹo đi,
chiếc mũ lông cao văng sang một bên, còn hàm răng giả văng sang bên kia, chiếc
kính nhờ có sợi dây cao su bật lên trán chứ không văng đi mất, còn cả cơ thể
ông thì đổ vật xuống tuyết như khúc cây.
- Không-được-đụng-đến-ông-tôi...
- Đứa cháu đang bị trói lấy hết sức, yếu ớt gào lên, cậu còn muốn nói gì đó nữa,
nhưng một dòng máu đen, đặc sệt trào lên miệng làm cậu bị sặc.
Một phút sau, khi
cơn ho dịu đi, Vakha lại ngẩng khuôn mặt trắng bệch như người chết của mình
lên, với một sự khinh bỉ tột độ làm một cái gì đó như nhổ bọt về phía kẻ bạo
hành. Cậu không còn đủ sức để nói nữa.
- A, đồ súc sinh!
Mày còn nhổ bọt à!? - Đại úy như phát điên lên, quay ngoắt lại, lấy hết sức
bình sinh nhảy lên đá ủng vào thái dương chàng trai.
Đầu Vakha lại ngoẹo
sang một bên rồi gục xuống ngực: cả người rũ ra, trượt xuống, treo trên những sợi
dây thừng buộc rất chặt. Mắt trái của Vakha lòi ra khỏi tròng, lắc lư trên những
sợi gân, máu mũi, máu miệng trào ra.
- Thôi đi, dừng lại
ngay, tôi ra lệnh! - Một sĩ quan, khuôn mặt trắng bệch, người đẫm mồ hôi lao
vào sân, chạy thẳng đến chỗ Vakha treo trên dây như một xác chết. - Đây là em họ
tôi, cậu ấy là sinh viên, không phải thổ phỉ. - Người sĩ quan chạm tay vào người
Vakha và hoảng sợ nhảy lùi lại, thốt lên: - Cậu ấy chết rồi. Anh quay ngoắt lại,
khuôn mặt méo mó vì căm giận, hét to: - Lũ chó chết, chúng mày đã giết nó!
- Ha-ha-ha, - đại
úy Kukhmisterov bật cười hô hố. - Vậy là cậu đã tự vạch mặt mình, Arachaev
Artur Gennadevich, đồ hèn mạt Chechnya. Đấy, ai là kẻ đã phản bội chúng ta,
chính hắn, đồ nội gián, đồ phản bội.
- Chính anh đã giết
nó phải không, đồ đê tiện? - Thượng úy Artur Arachaev nắm chặt tay lại, khuôn mặt
méo đi.
- Phải, tôi đấy,
- đại úy đứng thẳng lên, vẻ khiêu khích, - Và cả cậu nữa, tôi cũng sẽ cho đo
ván ngay bây giờ, tại đây, cạnh thằng em của cậu.
- Đồ quái thai! -
Artur thét lên, lao về phía đại úy với hai nắm đấm. Kukhmisterov khôn khéo né
sang bên và giáng trả. Thượng úy ngã xuống tuyết, nhưng nhanh chóng bật dậy rồi
lại lao vào đại úy với một tiếng thét man rợ.
Hai người túm chặt vào nhau, đổ vật xuống đất,
vừa thở hồng hộc vừa chửi bới ầm ĩ, tuyệt vọng giáng vào nhau những cú đấm loạn
xạ.
Không ai trong số những người đứng xung
quanh vào can, tất cả đều chăm chú theo dõi cuộc đánh nhau giữa hai sĩ quan
trong cùng đơn vị với một sự say mê, thích thú và tò mò mà không cần phải che
giấu.
Cả hai lăn lộn khá lâu trên mặt tuyết bẩn
thỉu, không còn la hét, chửi bới nữa mà chỉ nặng nhọc thở hổn hển, mặt mũi và
hai tay dính đầy bùn đất.
Cuối cùng Artur đè lên người Kukhmisterov,
dang tay đấm rất mạnh từ trên xuống. Đại úy lấy hết sức đẩy được đối thủ ra.
Hai người lăn sang hai bên, rồi cùng nặng nhọc đứng dậy trong tư thế chờ đợi đối
thủ.
Cả hai đều kiệt sức, chỉ còn lại lòng căm
thù không đội trời chung và sự tức giận.
Họ đứng đối mặt nhau khá lâu, không kịp thở,
cuối cùng Kukhmisterov tỉnh lại trước, đứng thẳng dậy trong tư thế sẵn sàng
giao chiến, rồi bất ngờ nhảy lên như cơn lốc, định giáng một đòn chí tử bằng
chân đã được tập luyện thành thạo.
Tuy nhiên, đối thủ của anh ta không bị trói
chặt như Vakha, Artur nhảy sang bên và giơ cùi chỏ lên đỡ. Đại úy đá hụt, ngã vật
xuống đất, định bật dậy nhưng bị trượt chân, liền phải nhận ngay một đòn trời
giáng bằng ủng vào đầu, choáng váng, ngả nghiêng, mặc dù vậy vẫn còn đứng được
trên đôi chân.
Nhưng Artur không để đại úy giành thế chủ động
nữa, liền bắt đầu vung tay đấm liên tục vào mặt Kukhmisterov. Đại úy lùi lại chống
đỡ nhưng không trụ nổi trước sức tấn công quyết liệt, bị mất thăng bằng, bật ngửa
ra sau, trượt chân ngã vào đống tro cỏ khô bị cháy hôm qua.
Kukhmisterov run run rút khẩu súng ngắn từ
trong bao ra, bật chốt an toàn, không kịp nhắm bắn vào cái bóng thượng úy đang
chập chờn phía trước.
Trong cơn tức giận điên cuồng, Artur cũng
làm y như vậy, chỉ có điều cậu bắn trúng vào mục tiêu mà cậu còn nhìn thấy rõ.
Artur xả hết cả băng đạn vào người đồng sự giờ đây đã biến thành kẻ thù không đợi
trời chung.
Từ phía sau, hai tràng tiểu liên ngắn vang
lên, găm lỗ chỗ vào người khiến Artur đổ vật xuống đất. Artur còn giật giật lên
vài lần nữa rồi nằm im. Mọi người xung quanh đứng chết lặng.
Cuộc chiến tay đôi sống mái làm tất cả vô
cùng kinh hoàng. Một sự im lặng bao trùm, chỉ có mỗi ông lão Tsanka, sau khi đã
hoàn hồn mới rên rỉ đứng dậy, chệnh choạng bước vài bước vào giữa ba xác chết.
Ông đứng bất động một lát ở đó rồi đột
nhiên bật cười như điên.
- Những đứa cháu của ta đã quay về, - ông
Tsanka sửa lại đôi kính, nở một nụ cười mãn nguyện thốt lên. - Ta đã mong ước,
cầu nguyện điều đó, giờ đã thành hiện thực rồi, chúng đã trở về trong mái ấm tổ
tiên, chúng đã tìm được sự yên bình ở nơi này... Chúng đã sống trong đấu tranh,
đến lúc chết mới tìm được sự đoàn kết. Nói đến đây, nét mặt ông Tsanka bỗng trở
nên nghiêm nghị, thậm chí đáng sợ nữa. - Có lẽ tất cả chúng ta đều sinh ra từ một
ngọn nguồn, trở nên thù nghịch với nhau, rồi cuối cùng cũng quay về với ngọn
nguồn. Mong sao cái ngọn nguồn đó đừng khô cạn vì sự thù hận.
Cạnh đó, những người lính đứng tụm lại với
nhau.
- Ông già gần như phát điên lên rồi.
- Còn gì nữa, Kukhmisterov đã cho ông ấy nếm
mùi quả đấm Nga vào lúc cuối đời.
- Sinh ra bao nhiêu thổ phỉ trên khắp thế
giới.
- Nhưng chẳng lẽ thượng úy Arachaev của
chúng ta là gián điệp à?
- Dĩ nhiên rồi, cậu không nghe anh ta gọi
tên kia là em sao?
- Nhưng dù sao thì Kukhmisterov cũng là kẻ
chuyên chế, còn Arachaev là người của mình, thật vô ích khi mang người của mình
ra thí mạng.
- Kukhmisterov không phải là kẻ chuyên chế,
anh ta đánh nhau là để thanh lọc dòng máu Nga.
- Phải, bất cứ một cuộc đánh nhau nào đối với
chúng ta cũng đều đúng đắn.
- Cậu lảm nhảm cái gì thế? Chính bản thân
mình cũng bốc mùi châu Á, có khi là Do Thái cũng nên?
- Mày nói gì... - Tiếp theo là một câu chửi
rất tục.
Sự việc có thể lại dẫn đến cuộc ẩu đả tiếp
theo, nhưng đúng lúc ấy, đại tá lữ đoàn trưởng xuất hiện ngay cổng nhà ông
Tsanka - đó là một người đàn ông rắn chắc, mặt đỏ au với sự hộ tống của các sĩ
quan và cần vụ.
- Có chuyện gì xảy ra ở đây thế này... tiên
sư các anh! - Vừa lao vào, đại tá vừa hét to. Không ai đáp lại ông cả, tất cả đều
tránh ra và đứng nghiêm, chỉ trừ ông lão Tsanka. Đại tá nhìn quanh, tức giận lắc
đầu rồi quay về phía đoàn tùy tùng.
- Không, tôi không thể chịu đựng hơn được nữa,
- ông nhăn mặt nhổ toẹt một bãi, chửi thề, rồi bằng một giọng cương quyết và cứng
rắn hơn, ông tiếp: - Tôi sẵn sàng phục vụ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc chứ không phải
cho sự tan rã này... Thế là đủ rồi, ngày mai tôi sẽ nộp đơn từ chức.
Một người lính lâu năm huých vào người bên
cạnh, bằng một giọng rất trầm thì thào:
- Cứ như các nhà kinh điển: “muộn rồi, bố
ơi, muộn lắm rồi”.
- Đúng, - người bên cạnh cười khẩy tán
thành, - đến cuối chiến dịch mới tỉnh ngộ, làm ra vẻ nhân đạo lắm. Ông ấy không
hề từ chối danh hiệu Anh hùng phong tặng đột xuất, thế mà bây giờ lại muốn bôi
nhọ tất cả, còn chính mình sẽ cưỡi ngựa trắng trở về Moskva.
- Mọi việc sẽ đúng như thế.
- Trước nay vẫn thế.
Đại tá bước ra đường làng Duts-Khote.
- Đúng-úng-úng, - đại tá ngước nhìn lên bầu
trời xanh như đang nghĩ về điều gì đó, rồi nói tiếp: - Thiếu tá đâu? Điện ngay
về Bộ Tham mưu. Chiến dịch với quy mô lớn được thực hiện thắng lợi, toàn bộ lực
lượng phiến quân bị tiêu diệt, sào huyệt của chúng bị san bằng. Thiệt hại của
quân ta, chỉ có hai binh sĩ.
- Báo cáo đồng
chí đại tá, phải làm gì với người hi sinh?
- Như mọi khi, đưa vào nhà xác.
Những người lính
đặt hai sĩ quan hi sinh lên cáng, khiêng đi.
- Đừng mang nó
đi, hãy để nó lại. - Ông Tsanka kêu lên bằng một giọng già nua yếu ớt và định cản
họ lại. - Tôi sẽ chôn cất cho chúng, chúng là cháu tôi, vừa về nhà.
Mấy người lính đẩy
ông già ra, nhưng ông không chịu, họ đẩy lần nữa, cũng không kết quả, ông vẫn cứ
bám theo.
- Sao phải khách
khí với ông ta thế? - Một người nào đó hét lên. - Phải làm như đại úy Kukhmisterov
ấy, cho một đấm vào mặt.
Ông Tsanka lại một
lần nữa phải nằm bất tỉnh trên tuyết.
Từ sáng sớm cho đến
trưa là tiết trời mùa xuân. Mặt trời tháng Ba trên cao tỏa hơi ấm dễ chịu. Đến
trưa thì mọi thứ trở nên tồi tệ, tuyết bắt đầu tan ra, chỉ có trong bóng râm của
các ngôi nhà và hàng rào là còn lại những đám tuyết xốp, xẹp xuống, ngả sang
màu sẫm. Một đám khói mù dày đặc treo lơ lửng trên làng Duts-Khote. Xe tăng, xe
thiết giáp và các phương tiện kĩ thuật khác quần nát ngôi làng. Binh lính lùng
sục trong các nhà tìm kiếm phiến quân, mang đi nốt những vật dụng sinh hoạt cuối
cùng...
Đến chiều thì
làng Duts-Khote lại trở nên hoang vắng, cảnh vật càng u ám và buồn thảm. Một
làn khói trắng như sữa bò lên từ khe núi, các đỉnh núi nhạt nhòa trong màn
sương mờ. Sau khi mặt trời tắt hẳn, trời trở nên rất lạnh, một cơn gió giá buốt
thổi tới từ hướng tây bắc, mang theo những đám mây đen nặng trĩu. Một sự im lặng
nặng nề bao trùm lên khắp cảnh vật. Chỉ thỉnh thoảng, một con mèo hung lại thảm
thiết kêu meo meo trên ngọn cây keo. Từ sáng sớm, hoảng sợ vì tiếng động cơ xe
máy nó leo vọt lên cây và bây giờ không biết làm cách nào leo xuống.
Mãi đến khi trời
tối, ông Tsanka mới tỉnh lại, mở mắt ra, cả người ớn lạnh, đau ê ẩm, nhất là
cái đầu. Ông cứ nằm mãi như thế, nhìn lên bầu trời đang tối dần, đột nhiên nhớ
lại tất cả. Không thể tin vào những gì vừa xảy ra, ông ngồi dậy, đưa mắt nhìn
quanh và thấy ngay bên cạnh, cái xác tơi tả bị buộc vào gốc cây hồ đào trong một
tư thế không được tự nhiên.
- Vakha-a-a, -
ông Tsanka rên rỉ, định bật dậy nhưng do cử động đột ngột một cơn đau nhói lên
như xiên vào đầu, làm ông hoa mắt ngã vật xuống, lại bất tỉnh lần nữa.
Ông Tsanka nằm bất
tỉnh rất lâu. Trong lúc ông còn nằm thì trời tối hẳn. Từ đám mây đen, những
bông tuyết ẩm ướt rơi xuống, rất dày, như một tấm voan trắng che đi tất cả những
nỗi đau trần thế vừa diễn ra trong ngày - tất cả rác rưởi, máu me và sự đê tiện.
Được giải phóng khỏi những đám mây tuyết, bầu trời đôi chỗ bắt đầu hé ra, đâu
đó ở phía chân trời những ngôi sao nhỏ bắt đầu sáng lên.
Ý thức chậm chạp
trở về với ông Tsanka, mặc dù vẫn còn trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh, nhưng
ông đã bắt đầu cảm nhận được mọi thứ, chỉ có điều ông vẫn không thể cử động được.
Đột nhiên, không
biết là trong cơn mê hay trong thực tại, trên bầu trời hiện ra một cái bóng nhẹ
nhàng, huyền ảo. Cái bóng vô tư bay lượn vòng vèo về phía ông già, như trêu chọc,
quyến rũ, và đột nhiên ông Tsanka nhận ra đó là Bushman. Nhà vật lý tươi cười rạng
rỡ, cơ thể toát lên sự trẻ trung, tươi tắn, thậm chí còn tỏa mùi thơm nữa, chỉ
có điều cặp kính mà ông đã lấy từ một người chết ở Kolyma thì vẫn như cũ - gọng
nâu, dày cộp.
- Chào cậu,
Tsanka yêu quý! - Bushman thích thú thốt lên.
Ông Tsanka im lặng,
không muốn nói gì cả. Sự vui vẻ của vị khách lại càng làm ông tan nát cõi lòng.
Tuy nhiên ông vẫn cố chịu đựng, ông muốn tuân thủ cho đến cùng tinh thần hiếu
khách của người miền núi.
- Bạn không được
khỏe à, bạn yêu quý của tôi? Bao nhiêu năm rồi, chúng ta không gặp nhau. Chẳng
lẽ cậu không vui khi gặp tôi sao? - Nét mặt nhà vật lý chập chờn trong nụ cười
đáng yêu, để lộ ra hàng răng đều, trắng như tuyết.
Ông Tsanka rất ngạc
nhiên vì những gì nhìn thấy, thậm chí nhổm cả người lên.
- Ông Bushman,
ông có răng từ khi nào thế, đã bao giờ tôi thấy ông có răng đâu?
Nhà vật lý bật cười
thích thú.
- Chẳng bao lâu nữa
cậu cũng sẽ có. Chúng ta đã kiếm được phần tốt nhất của mình. Cậu không hề hà
tiện.
- Ông ba hoa cái
gì thế, con quỷ già?
- He he he,
Tsanka, cậu nhìn lại mình xem. Bây giờ cậu đã già, còn tôi, so với cậu, vẫn còn
trẻ lắm.
- Nếu ông phải trải
qua bao nỗi đau khổ như tôi, không biết ông sẽ ra sao, khi đó tôi rất muốn nhìn
ông.
- Tất cả chúng ta
đều đau khổ, - nhà vật lý lại tỏ ra nghiêm túc. - Chẳng qua là ở trên mặt đất,
hàng ngày con người tự làm khổ mình, hành hạ mình. Tại sao từ một đứa trẻ kháu
khỉnh, con người biến thành một ông già hom hem, tởm lợm? Chẳng phải tất cả đều
là vì những tội lỗi hàng ngày của mình hay sao. Phải, phải, sự già nua hiện lên
trên khuôn mặt chính là dấu vết của những hành động xấu xa, chủ yếu là từ những
ý nghĩ và ham muốn thấp hèn. Phải, điều tồi tệ nhất chính là những ý nghĩ tồi tệ,
vì ý nghĩ xuất hiện trước, hành động xuất hiện sau. Mặc dù không phải mọi ý
nghĩ xấu xa nào cũng trở thành hiện thực, nhưng một khi nó đã sinh ra từ trong
tư tưởng, thì đó đã là một lỗi lầm khủng khiếp rồi.
- Vậy là tất cả
những người già đều có tội?
- Không chỉ những
người già, bất cứ ai cũng đều có tội. Và cậu biết không, tất cả những điều đó rất
phức tạp. Một mặt, tội lỗi là sự tước đoạt từ chân lý của Thượng đế, mặt khác,
cùng với thời gian, Adam trong hình hài con người bắt đầu trở nên tò mò, quan
tâm và mơ tưởng đến những điều bí ẩn. Loài người đã đạt đến một sự tiến bộ phi
thường về trí tuệ, nhưng đồng thời lại bị suy thoái trong ý thức và tâm hồn. Cậu
nhìn xem, giá trị quan trọng nhất của con người là tiền. Tất cả mọi mâu thuẫn
cũng từ đó mà ra cả. Mà tiền là cái gì? Đó chính là cái mà chúng ta đã đạt được
ở Kolyma, và cuối cùng thì điều gì đã đến với chúng? Đấy, người ta bảo, ông này
ông nọ có số tiền nhiều đến mức ăn mười đời không hết. Với những đồng tiền hư ảo
ấy thì một đời cũng không có, mà nếu có thì cũng toàn là lũ quái thai thảm hại.
- Thôi ông đừng
ba hoa nhảm nhí nữa. - Ông Tsanka ngắt lời nhà vật lý. - Ông chỉ mang lại toàn
điều xấu. Cái “điềm gở” của ông đã thành hiện thực rồi đấy: nguồn nước cạn khô,
dân tộc của tôi phải bỏ chạy, còn tôi, trong một ngày mất hai đứa cháu. Cuộc
chiến tranh khốc liệt đang diễn ra.
- Thôi đi, thôi
đi, Tsanka, đừng vơ đũa cả nắm thế, - ông Bushman nhăn mặt vẻ không hài lòng. -
Đây chính là sản phẩm từ những ý nghĩ và hành động tội lỗi của những thế lực
hùng mạnh đang điều khiển các anh trên trái đất này. Chính các anh đã chọn ra
những người “lãnh đạo” ấy, gieo gì thì gặt nấy. Còn những gì liên quan đến cuộc
sống và cái chết, đó là ý muốn của Thượng đế, phải chấp nhận thôi và chúc phúc
cho những gì đã xảy ra.
- Ông lại lảm nhảm
về Thượng đế, trong khi lúc còn ở Kolyma ông là kẻ vô thần ngoan cố. - Ông
Tsanka tức giận lào phào bằng cái miệng không răng của mình.
- Chuyện ấy xưa rồi
- nhà vật lý bình thản nói. - Còn bây giờ, nhờ sự lao động cần cù của mình, tôi
đã biến đổi.
- Thế ông làm gì ở
đó, nhà vật lý nửa mùa? Chắc là vẫn tiếp tục bôi bẩn ra giấy?
- Ồ, ồ, Tsanka, cậu
không hiểu được đâu... - Ông Bushman lại định diễn thuyết.
- Phải, chúng tôi
là những kẻ tăm tối, vô học mà. - Ông Tsanka cay độc ngắt lời.
- Nhưng cậu không
hiểu biết về vật lý! - Ông Bushman không kìm được, hét toáng lên. - Mà hiện giờ
cũng chẳng có mấy người hiểu nó. Vật lý và khoa học tự nhiên nói chung là tất cả,
là toàn bộ cuộc sống! Còn những thứ liên quan đến nhân văn, chỉ là sự hoang tưởng,
là mưu toan tìm hiểu về những điều hư vô của loài người. Chẳng lẽ có thể nghiên
cứu, mô tả sự điên loạn của con người trong quá trình tìm kiếm sự giàu sang và
vinh quang. Dĩ nhiên là không rồi. Đó chẳng qua chỉ là sự rối loạn tinh thần của
loài người nói chung. Con người đánh mất định hướng. Đồng tiền làm thay đối vị
trí của cây kim la bàn trong đời sống, và con người, cùng với sự xuất hiện của
tiền tệ không đi đúng hướng nữa. Người đầu tiên nghĩ ra đồng tiền đúng là một
con quỷ vĩ đại. Vai trò quan trọng nhất của đồng tiền là tạo ra sự thù địch
vĩnh viễn giữa con người với nhau để sở hữu nó. Cậu không thể hình dung nổi, chỉ
vì cái tờ giấy vẽ hình con người mà chưa chắc đã xứng đáng nhất, người ta có thể
sẵn sàng làm mọi chuyện, mà phần lớn là những chuyện thấp kém nhất. Chẳng lẽ đó
không phải là sự thần thánh hóa con người, là chính sách ngu dân? - Ông Bushman
ngừng lời, ngẫm nghĩ một lát rồi phẩy tay. - Thôi, mặc xác chúng. Cũng may là ở
đây không có những chuyện ấy, ở đây chỉ có những giá trị đích thực. Tôi vừa mới
phát minh ra một điều, hóa ra, tôi chính là một thiên tài.
- Thế thiên tài
là cái gì? - Ông Tsanka quyết định nhạo báng nhà vật lý. Ông Bushman trở nên
nghiêm nghị, nhìn vào một điểm vô định nào đó, vẻ đăm chiêu rồi hếch cằm ra.
- Thiên tài chính
là người được Thượng đế ban cho cả hạnh phúc lẫn khổ đau, để người đó không bao
giờ có được một phút giây thanh thản.
- Hừ, thật tội
nghiệp, - ông Tsanka bật cười không chút ác ý. - Ngày xưa ông kiêu ngạo thế nào
thì bây giờ vẫn thế, chẳng thay đổi gì cả. Như tôi đây, ông thấy chưa, tôi đã
phải chịu bao đau khổ. Còn ông?
- Cậu im đi,
Tsanka, thôi đi. Tôi cũng đã phải chịu bao đau khổ cùng với cậu. Hai chúng ta
đã bị ràng buộc vào nhau vĩnh viễn. Còn nỗi đau trần thế chỉ là sự chuộc lại lỗi
lầm của tổ tiên. Nhiều lắm.
- Có thể, ông có
nhiều, nhưng tôi có gì đâu?
- Ôi, cậu đúng là
thiên thần, - ông Bushman vui vẻ nheo mắt mỉm cười. - Giờ đây, mọi việc đã kết
thúc, Tsanka ạ, chúng ta sắp hết đau khổ rồi, chỉ còn một chút nữa thôi là
chúng ta sẽ cùng bay về miền cực lạc.
- Tôi chỉ có một
miền cực lạc thôi, đó là Tổ quốc của tôi, núi rừng của tôi, ngoài ra tôi không
cần chốn cực lạc nào khác. Nếu ông không nhìn thấy gì thì hãy đổi cặp kính khác
đi, cảnh vật ở đây đẹp thế kia.
- Ôi, Tsanka, cậu
lại chạm vào nỗi đau của tôi rồi. Cặp kính này, tôi đã kiếm được một cách tội lỗi
nên không thể bỏ ra được. Nhưng chẳng còn lâu nữa đâu, chỉ một chút nữa thôi. Cậu
hãy bình tâm lại một lần cuối, phải chấp nhận theo ý Thượng đế và mọi việc rồi
sẽ tốt đẹp. - Nhà vật lý dịu dàng nói.
- “Tốt đẹp” là thế
nào? - Ông Tsanka hét lên. - Tôi đã mất tất cả! Tất cả! Làm sao tôi có thể bình
tâm lại được? Làm sao?... Ông cút đi cho khuất mắt! Đồ đáng nguyền rủa!
- U, u, u, - ông
Bushman tru lên, - cậu gần như đã tệ lắm rồi. Thôi, cố gắng chịu đựng, chỉ còn
một chút nữa thôi.
- Ông cút đi! -
Ông Tsanka lại gào lên.
- U, u, u, - ông
Bushman lại tru lên, đột ngột lượn vài vòng vui vẻ trong không khí rồi quay lại.
- Hẹn sớm gặp lại cậu, Tsanka yêu quý. - Ông Bushman phẩy tay rồi biến mất.
“Vậy là ta lại trở thành kẻ sống sót duy nhất”, - ông Tsanka nằm trên mặt tuyết bẩn thỉu, mắt mở, buồn rầu ngẫm
nghĩ. Ông vẫn còn thở và vẫn còn cảm nhận được mảnh đất quê hương đang phả lên
hơi lạnh ẩm ướt. Ông không muốn ngồi dậy, mà cũng không thể ngồi dậy, ông không
còn mong muốn gì nữa, đối với ông tất cả đã trở nên chán ngắt, cuộc sống cũng
làm ông chán ngán, hành hạ ông đến kiệt quệ. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời
ông cảm thấy một sự yên bình tuyệt đối, ông không còn cảm nhận được sức nặng của
cơ thể, không có một cơn đau nào làm ông phải bận tâm nữa, mọi thứ đều trở nên
vô nghĩa, xa lạ, dửng dưng, thậm chí cả chính cơ thể mình cũng vậy. Ông nghe thấy
nhịp đập yếu ớt, dồn dập của con tim, và ông còn nghe thấy hơi thở ngắt quãng của
mình, mỗi lúc một thưa dần. Ông Tsanka cảm thấy một sự thanh thản, ông chẳng
còn sức đâu mà suy nghĩ, mà sống, mà đau khổ nữa.
Một cơn gió mạnh
và lạnh ngắt nổi lên. Những hạt hơi nước lạnh như băng bám đầy trên mặt ông.
Tuyết bắt đầu rơi, vừa ẩm vừa dày. Ông Tsanka có cảm giác như nghe thấy tiếng
những bông tuyết chậm chạp đáp nhẹ xuống cái trán hói để trần của ông. Những
bông tuyết trên mặt tan ra thành những vệt nước nhỏ chảy theo những vết nhăn
sâu trên khuôn mặt già nua. Bằng đầu lưỡi, ông cảm nhận được vị ngọt của hơi ẩm.
Hơi ẩm lạnh giá mỗi lúc một thấm sâu vào cơ thể ông qua từng nhịp thở. Tuyết vẫn
rơi mỗi lúc một dày, và ông có cảm giác, chúng không rơi thành từng bông tuyết
riêng lẻ mà thành từng lớp dày, trắng toát, câm lặng phủ lên đầu ông. Xung
quanh vắng lặng, yên tĩnh. Sự im lặng ấy làm ông hài lòng, ông thanh thản chờ đợi
sự kết thúc.
Gió thổi từng cơn
mỗi lúc một mạnh hơn, trong trạng thái mê ngủ, từ xa vọng đến tai ông tiếng tru
quen thuộc.
- U, u, u, - những
con thú đói lại tru lên, giống như tiếng hét cuối cùng của ông Bushman.
- U, u, u, - những
tiếng vọng đáng sợ cứ lặp đi lặp lại, lan khắp khe núi.
Những tiếng tru lại
vang lên, nhưng bây giờ đã ở ngay bên cạnh. Ông Tsanka tỉnh lại.
“Đây là những con chó núi, có khi là lũ chó hoang nào
đấy, như vậy lại càng tệ hơn. Chúng sẽ ăn sống nuốt tươi cả ta lẫn cháu ta... Đối
với ta thì cứ ăn đi cho khỏe, còn thằng cháu yêu quý của ta, ôi, không...
không. Không thể như thế được. Ta cần phải chôn cất nó, ta cần phải gửi nó vào
lòng đất mẹ một cách xứng đáng. Đây sẽ là nỗi đau khổ cuối cùng của ta, đây là
công việc cuối cùng của ta trên mặt đất này... Ta phải làm...”.
Nỗi xúc động lại
trở về với ông và cùng với nó là tri giác. Ông lại nghe thấy tiếng tim đập dồn
dập, tiếng thở sâu khò khè của mình.
- Ôi, cầu xin Thượng
đế, hãy cho con sức lực, cho con sự kiên nhẫn và lòng dũng cảm. Xin hãy giúp
con. - Ông Tsanka vừa nằm vừa thì thầm.
Ông chống hai tay
xuống mặt đất đóng băng trơn trượt, nặng nhọc ngồi dậy. Giờ đây ông nghe thấy rất
rõ tiếng những con chó núi đang tru lên, gần đâu đây.
- Một số đã bỏ
đi, nhưng những con khác lại mò đến, - ông bực bội nhủ thầm.
Ông Tsanka chống
hai cánh tay dài, xương xẩu của mình xuống đất, cố lấy hết sức đứng dậy, bước lại
gần cây hồ đào bằng đôi chân tê dại. Từ cái xác đã lạnh cứng trong tư thế vặn vẹo
đáng sợ tỏa ra mùi tử khí lạnh lẽo và xa lạ. Ông Tsanka cố gắng bước lại gần
cái xác, chạm vào mớ tóc dày bết máu, và chỉ đến lúc ấy ông mới cảm nhận được
cái thân thể ruột thịt của mình.
- Vakha-a-a, -
ông rên rỉ lặng lẽ khóc.
Ông không thể
tháo được sợi dây buộc to đã bị đóng băng cứng ngắc, phải vào nhà lấy dao. Ở cửa,
ông va vào cái gì đó bằng sắt, nặng. Ông loay hoay tìm bao diêm, run rẩy châm
ngọn đèn dầu. Hóa ra ông va vào khẩu tiểu liên của ai đó bỏ quên hay vứt lại.
Ông nhìn quanh gian phòng giờ đây đã trở nên xa lạ. Trên tường không còn tấm thảm
cổ dệt bằng tay, khẩu súng săn hai nòng, chiếc hộp gỗ đựng cuốn kinh Koran và
con dao găm gia bảo cán bạc có khắc tên ông cố. Chiếc rương to bị lục tung lên,
lật sang một bên.
- Tất cả đã bị cướp
đi hết, bọn khốn nạn. - Ông Tsanka bật lên. - Quân đội của bọn trộm cắp và nghiện
ngập. Lũ vô thần đáng nguyền rủa!
Khi ông Tsanka cầm
cây đèn dầu và con dao làm bếp ra sân, đã có vài con thú lởn vởn quanh đó.
- Ôi, đồ súc sinh
khốn kiếp. - Ông Tsanka quát tháo bầy thú bằng một giọng khản đặc, đứt quãng.
Đến tối gió lại
càng mạnh lên. Những bông tuyết như đâm vào mặt rát rạt. Băng giá càng mạnh,
tuyết nhẹ hơn và quay cuồng trong cơn lốc xoáy. Ngọn lửa đèn chao qua chao lại,
nhấp nháy như muốn tắt dưới từng cơn gió, nhưng nó vẫn trụ vững, leo lét rọi
sáng một khoảnh sân nhỏ. Ông Tsanka cắt dây thừng, đặt cháu nằm xuống đất, quỳ
xuống trước mặt nó, khóc nức nở, lấy lòng bàn tay già nua chai sạn vuốt lên
khuôn mặt méo mó và không còn sự sống như muốn nhớ lại những hình ảnh thân
thương trong cuộc đời của đứa cháu yêu quý. Gió tuyết đã phần nào lau sạch vết
máu trên thân thể và mái tóc của thằng bé. Sau đó, ông Tsanka vừa khóc vừa đọc
kinh cầu hồn, chỉ đến lúc ấy ông mới cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm đôi chút.
- Thật ra mà nói,
nó là đứa cháu hạnh phúc của ta. - Ông Tsanka tự dối lòng. - Nó sẽ được ta chôn
cất tử tế... Thế là may đấy. Nó sẽ không phải nhìn thấy những vết nhơ trần thế
nữa. Chẳng phải người đời vẫn nói, Thượng đế thường gọi những người tốt đi trước.
Cầu xin Thượng đế cho cháu ta được lên thiên đàng... Nó còn đi đâu nữa? Trên
trái đất này, nó có làm điều gì xấu đâu? Chỉ có ta mới là lão già mang tội. Ôi,
còn điều gì mà ta chưa chứng kiến và chưa làm trên mặt đất này. Có lẽ vì tội lỗi
của ta mà mặt đất này không chịu đón nhận ta... Chẳng lẽ ở thế giới bên kia ta
sẽ không bao giờ được gặp cháu ta nữa? Mà có cái thế giới đó hay không? Ôi, ta
lẩm cẩm quá rồi, chính vì những ý nghĩ như thế này mà Thượng đế đã bắt ta phải
chịu bao thử thách trong cuộc đời... Có thể cháu ta sẽ đợi ta ở đấy cũng nên?
Nó sẽ chăm sóc ta... Nhưng dù sao thì ta cũng là một kẻ vô lại, một lão già ba
hoa, đã sống hết đời mà ý nghĩ vẫn u ám. Ngay cả đến lúc này vẫn chỉ nghĩ đến
những gì có lợi cho mình, so đo đong đếm, muốn “trải nệm rơm” cho mình ở thế giới
bên kia, vẫn muốn kiếm lợi trong cái chết của đứa cháu... Tại sao ta lại trở
thành một con người như thế nhỉ? Hay là tất cả mọi người đều thế?!
Tuyết phủ một lớp
dày trên mặt đất, trắng toát, sạch sẽ. Bầu trời tối đen, vô tận và thật đáng sợ.
Những con chó núi đánh hơi thấy mùi tử khí tru lên, một con chó hoang cũng tru
lên theo.
Ngay bên cạnh,
trên nền tuyết trắng, những bóng đen đáng sợ đang tiến lại gần, những cặp mắt
thú lóe lên, lạnh lẽo, chết chóc. Những con chó núi không tru lên nữa, chúng sợ
hãi cụp đuôi xuống, nép vào nhau, đi thành từng bầy tiến về phía ông lão.
- Không, đừng có
tưởng bở. Chúng mày nghĩ đã trở thành chủ nhân của ngôi làng này à. Không
đâu... Ta sẽ cho chúng mày thấy ngay bây giờ, ai là chủ nhân ở đây. Đồ súc
sinh! Cút đi ngay! - Ông Tsanka tức giận nhổ một bãi nước bọt về phía bầy thú.
Lũ chó núi sợ tiếng
la hét, vội tản ra, nhưng chỉ giây sau, một con thú lại hiện ra, theo nó là con
thứ hai, rồi con thứ ba.
- Không, ta vẫn
còn sống và ta sẽ cho chúng mày thấy ngay bây giờ... Đồ súc sinh! Lũ khốn kiếp!
Chúng mày nghĩ trong làng không còn người, không còn đàn ông, không còn chủ
nhân hả? Lũ súc sinh chúng mày định làm chủ ở đây à? Không đâu. Không phải như
thế đâu. Vẫn còn ta ở đây, ta vẫn còn sống. - Ông Tsanka vừa nói vừa đi vào
nhà, ông sực nhớ ra khẩu súng máy bị bỏ quên.
Khi ông lão quay
ra với khẩu tiểu liên trong tay, lũ chó núi đã tràn vào sân. Đôi tay già nua cứng
như gỗ của ông không thể bật được khóa an toàn, lại càng khó lên đạn. Khi đó,
ông Tsanka liền chống báng súng xuống đất, rồi dùng cả trọng lượng cơ thể của
mình đè lên cây súng, cảm nhận được cái nòng súng chết người ép vào da bụng lép
kẹp. Ông đè mạnh xuống một lần nữa. “Nó sẽ
nổ ngay bây giờ”, ông nghĩ. Một tiếng soạt khô khốc vang lên, khóa nòng đã
được kéo ra, nhưng không có tiếng nổ nào vang lên cả. “Nếu một người trẻ tuổi nào đó, như con mình chẳng hạn, làm như thế, hẳn
đã có một tràng đạn dài vang lên, thế mà mình, chẳng gặp may tí nào”, - ông
cay đắng cười khẩy.
Ông Tsanka nhấc
khẩu tiểu liên lên, hướng về phía bầy thú, không cần nhắm, bóp cò. Lại một tiếng
động khô khốc nữa vang lên, vẫn là sự tĩnh lặng, ông lại bóp nữa, vẫn vậy. Khi
đó ông vội tháo băng đạn ra, lấy mấy ngón tay thô ráp của mình kiểm tra. Không
có đạn. Một nỗi tuyệt vọng ập đến, sau đó là nỗi tức giận. Ông lấy hết sức lực
còn lại, hét lên, ném khẩu súng về phía lũ chó núi. Đường bay của khẩu súng
không dài và chẳng được tích sự gì: khẩu súng rơi vào một cái hố tuyết nông, xốp,
chẳng phát ra tiếng động nào.
Cuối cùng, người
ông kiệt sức bước về phía xác cháu, quỳ thụp xuống, gục đầu. Ông muốn đọc kinh
cầu nguyện, muốn cầu xin Thượng đế và tất cả các nhà tiên tri giúp đỡ và tha thứ.
Nhưng ông không thể làm được gì, ông chỉ ngồi lặng lẽ, chờ đợi thời khắc đáng
buồn của mình sẽ điểm. “Có lẽ, trong đời,
ta đã gây nên nhiều tội lỗi đến mức, vào những phút cuối của cuộc đời, số phận
vẫn còn bắt ta phải trải qua sự thử thách ghê gớm này... khi mà ta đã mất hết sức
mạnh, mất hết nghị lực... Có thể, dạo ở Kolyma ta đã từng ăn thịt chính những
con chó này, hay những con thú khác. Bây giờ chúng quay lại để ăn thịt ta và
cháu ta... Cái lão vật lý cận thị ấy nói đúng: cả ta và cả ông ấy sẽ không có mồ
mả gì sất, sau khi chết những người thân của ta sẽ không thể chúc phúc cho ta
được... Có lẽ trong ký ức của họ, ta đã sống không xứng đáng...”.
Ông Tsanka cứ ngồi
lặng lẽ như thế. Tuyết rơi thành từng nắm nhỏ trên mái đầu trần, đôi vai gầy và
tấm lưng còng của ông. Tuyết tan ra chảy xuống từ cái đầu hói, chảy vào cổ áo,
theo hai hàng xương sườn lép kẹp. Ông Tsanka không khóc nữa. Tiếng khóc cũng là
sự sống, là hành động đấu tranh cho sự sống, nhưng ông Tsanka không thể khóc được
nữa rồi, không thể làm được gì nữa, và cũng không còn mong muốn gì nữa. Ông chỉ
còn nghe thấy tiếng thở khò khè rất gần, tiếng hít hít và tiếng khịt khịt của
những con chó núi đói. Cái vòng tròn chết người đang thu nhỏ lại. Ngay cả thính
giác rất kém của ông cũng nghe thấy tiếng bước chân rất nhẹ của bầy thú. Ông có
cảm giác những con thú đó to kinh khủng. Ông biết, mình đã trở nên bất lực và
vô vọng. Thật đáng thương. Cuối cùng ông cảm nhận được mùi bọ rệp và rác rưởi đầm
lầy bốc ra từ người chúng.
- Không, không được,
khi đối mặt với kẻ thù không được quỳ, chúng sẽ giày xéo ta ngay. Phải đứng
lên... Đứng lên! Phải đứng lên đối mặt với chúng. Không được phó mặc thi thể của
cháu ta cho chúng. Không được, - vào giây phút cuối cùng, bản năng sống của ông
Tsanka bừng tỉnh.
Ông Tsanka vẫn
còn sống, vẫn còn thở, chẳng qua là ông không thể làm được gì. Ông cựa mình,
ngóc đầu dậy. Ánh mắt của ông đối diện ngay với những chấm sáng khiến ông chết
lặng đi. Những chấm sáng xấc xược, đói khát và khiêu khích. Ông Tsanka lấy hết
sức lực yếu ớt còn lại để đứng lên, chỉ đơn giản là đứng lên thôi. Đây là lần
cuối cùng ông chuẩn bị sẵn sàng bước vào cuộc đấu tranh, cuộc đấu tranh sinh tồn.
Nhận thấy có sự chuyển động, những con chó núi bối rối đề phòng và chuẩn bị sẵn
sàng cho cú nhảy quyết định. Một khoảng lặng ngắn ngủi, một khoảng lặng mà sau
đó lý trí bị che lấp, còn sự cuồng nhiệt, niềm đam mê, khát vọng bạo lực và cuộc
chiến sẽ bùng lên. Bao nhiêu lần trong đời, ông Tsanka đã phải đối mặt với những
thời khắc như thế, và bây giờ, trong trận quyết chiến này ông không còn sức lực
nữa... Đúng lúc ấy, những âm thanh đáng sợ vang lên: một, hai, ba và rất nhiều
nữa, từ những vũ khí khác nhau. Những đốm sáng trong mắt bầy thú dữ tắt ngay, bọn
chúng vội vàng biến mất. Ông Tsanka thậm chí cũng không biết lũ chó núi chạy về
hướng nào. Tất cả diễn ra bất ngờ và rất nhanh. Loạt đại bác vẫn kéo dài.
Ông Tsanka nghe
thấy đạn réo ngay trên đầu mình. Chúng bay về hướng núi và phát nổ phía sau
đèo. Quân đội Nga đang bắn phá ngôi làng tiếp theo.
- Chỉ có mình ta
là được lợi thôi, - ông Tsanka nhìn quanh, lẩm bẩm.
Vì quá hoảng sợ
và lo lắng, cổ họng ông khô khốc, ông liền dùng đôi tay run rẩy một cách phản
trắc bốc một nắm tuyết bỏ vào mồm, rồi tiếp tục bốc nữa, bỏ vào mồm, tấp lên mặt.
Ông bật khóc, ước mong và cầu xin Thượng đế cho ông một quả đại bác. Ông mừng
vì loạt đại bác dữ dội. Tuy nhiên, như lúc bắt đầu, loạt đại bác cũng đột ngột
chấm dứt. Cảnh vật lại trở nên tĩnh lặng, cô độc và đáng sợ. Ông Tsanka lại chỉ
còn một mình trong vùng núi hoang dã không một bóng người.
- Ôi, mọi người,
mọi người ơi! Hãy cứu tôi! Cứu tôi với! Ở đây có người Hồi giáo hay Cơ đốc giáo
nào không? Có ai ở đây không? Xin hãy giúp tôi! Giúp tôi!
Ngay cả tiếng vọng
cũng không đáp lại lời ông, giọng ông đã khản đặc, còn núi rừng bị tuyết phủ
dày, âm thanh dội lại rất yếu.
- Ta cần phải mai
táng cháu ta. Ta phải làm được điều đó. Ta sẽ mai táng nó trong cái huyệt của
ta. Hóa ra ta đã đào nó cho cháu, - ông Tsanka thốt lên.
Ý nghĩ ấy làm ông
bừng tỉnh. Giờ đây, ông bắt đầu nghĩ đến việc làm cách nào đưa được thi thể của
Vakha đến nghĩa trang. Nếu đưa xuống thung lũng thì đơn giản, kéo trên mặt tuyết
khá nhẹ nhàng, nhưng đến nghĩa trang là lên dốc. Phải làm thế nào? Không sao, cứ
làm rồi tính tiếp. Điều quan trọng là phải hành động, không nên chờ đợi.
Ông Tsanka cởi
chiếc áo bành tô dài đã cũ ra, trải ra đất và lật thi thể to lớn của đứa cháu
lên chiếc áo. Ý tưởng hóa ra không dễ thực hiện chút nào. Tuy nhiên, với sự phấn
khích, ông đã làm được điều mong muốn.
Chặng đường đến
nguồn nước không dễ dàng như ông Tsanka nghĩ. Lớp tuyết xốp, ẩm ướt không trơn
lẳm. Ông lão bị ngã liên tục vào những đụn tuyết nhỏ, phải nằm lại hay ngồi lại
một lúc mới có thể đi tiếp. Cái đầu trần và đôi chân ướt bị lạnh cóng, đôi tay
tê cứng, nhưng dẫu có thế nào ông vẫn cứ kéo cái xác của cháu, ngã lên ngã xuống,
thở hổn hển, rồi lại bước tiếp. Chỉ còn một đoạn ngắn nữa là đến nguồn nước,
trước mắt chỉ còn khúc ngoặt nhỏ, sau đó là xuống dốc.
Ông Tsanka gần
như đã kiệt sức. Chứng khó thở hành hạ ông. Không khí vào phổi không đủ, đầu
quay mòng mòng. Ông ngồi xuống vệ đường. Ngồi rất lâu. Cơn đau dữ dội như xé
nát lồng ngực, làm ông không thở được, không cử động được. Ông có cảm giác như
có một bàn tay khổng lồ của ai đó đang bóp nát lục phủ ngũ tạng của mình, khiến
cho cả cơ thể bị tê liệt. Phải khó khăn lắm ông mới nằm ngửa ra được, nhắm mắt
lại và cảm nhận được những bông tuyết nhỏ đang đáp xuống mặt mình. Ông thiếp
đi, mất hết ý thức.
Ông Tsanka không
biết mình đã nằm bất tỉnh như vậy bao lâu. Những tiếng rít quen thuộc làm ông tỉnh
lại, lần này là tiếng của những chiếc máy bay ném bom hạng nặng đang bay. Tiếng
động cơ máy bay càng lúc càng to. Ông Tsanka mở mắt ra. Tuyết đã ngừng rơi, những
đám mây đen cùng với tuyết đã trôi đi mất. Trên đỉnh núi, vầng trăng khuyết e
thẹn lấp ló, muôn vàn vì sao đang chiếu thẳng vào mắt ông. Không khí trong veo,
sạch sẽ và lạnh giá. Ông Tsanka ngạc nhiên vì thị giác sắc sảo của mình. Ông lại
nhìn lên những ngôi sao: nhiều vô kể, và tất cả, hóa ra đều rất khác nhau. Một
số vì sao sáng, to, vui vẻ, số khác lại nhỏ, mờ và xa tít.
Tiếng động cơ máy
bay càng to hơn. Ông Tsanka có cảm giác chúng bay ngay đến chỗ ông, ông đang chờ
chúng, nhưng những con chim sắt ăn đêm chỉ bay ngang qua. Chúng bay về phía sau
đèo, tiếng động cơ giảm đi ngay. Cùng lúc ấy, từ phía sau đèo những quầng sáng
chói lòa bùng lên, rồi bốn tiếng nổ kinh hoàng, cứ hai tiếng một dội tới, mặt đất
rung chuyển. Những chấn động mạnh lan vào khắp cơ thể ông. Sau khi ném bom xong
ngôi làng cuối cùng, những chiếc máy bay vòng lại và bay đi theo đúng tuyến bay
cũ.
Giờ đây ông
Tsanka nhìn thấy bốn con quái vật đang bay trên bầu trời đêm về hướng sao Bắc Cực.
Ông không nguyền rủa, chửi bới chúng như trước nữa, ông đang nghĩ đến điều quý
giá hơn.
- Nếu chúng ném
bom sườn núi bên kia, rất có thể nhờ những tiếng nổ đó mà nguồn nước của làng sẽ
được khơi thông, hồi sinh lại. Độc trị độc mà.
Rồi ông nhớ đến đứa
cháu, ông rên rỉ ngồi dậy.
- Không sao,
không sao đâu, Vakha ạ, - ông nói với cháu. - Cháu thấy đấy, thiên nhiên rất có
thiện cảm với cháu. Có thể, chính Thượng đế đang chờ đón cháu.
Ông Tsanka đưa mắt
nhìn khắp bốn phía. Quang cảnh đẹp như trong truyện cổ tích. Dưới ánh trăng màu
sắc của lớp tuyết trông càng huyền ảo, những đỉnh núi hùng vĩ nhô cao trên bầu
trời, các tán cây trên sườn núi phía bên kia nhẹ nhàng xào xạc, xa xa đồng bằng
Chechnya phủ tuyết trắng trải dài ngút tầm mắt.
- Vakha ạ, thật
lòng mà nói, cháu là người hạnh phúc. Cháu đã rời bỏ rác rưởi thật đúng lúc. Ta
sẽ mai táng cháu xứng đáng, linh hồn cháu sẽ bay đến ngôi sao đẹp nhất. Cháu đã
hy sinh để bảo vệ nghĩa trang Gazavata... Thượng đế sẽ phù hộ cho cháu!
Vừa nói ông
Tsanka vừa kéo chiếc áo bành tô, cái xác của đứa cháu trượt ra khỏi chiếc áo,
lăn vào người làm ông ngã xuống, trượt theo con dốc rơi vào lòng nguồn nước đã
cạn khô.
Ông Tsanka bị cái
xác của cháu đè ngang trên người, không làm cách nào thoát ra được. Chỉ sau một
hồi cố sức gỉãy giụa, ông Tsanka mới nhích ra được một chút. Bây giờ cái xác nằm
vắt ngang trên đùi. Ông chống hai tay xuống đất, cố ngồi dậy, nhưng cơn đau
quen thuộc ở ngực lại nhói lên, làm ông phải vội vàng co tay, nằm xuống lại.
Ông lại nhìn thấy bầu trời đầy sao, ý nghĩ của ông lại chập chờn trôi đi đâu
đó. Nhưng sự tĩnh lặng đã bị phá vỡ. Những tiếng động quen thuộc như đang dịu
dàng mơn trớn đôi tai ông.
- Ồ, tiếng nước
chảy, - ông Tsanka thì thào. - Tiếng nước chảy trong nguồn. Nguồn nước quê
hương!
Đúng lúc ấy, ông
Tsanka nhận ra một dòng nước âm ấm chạm vào đầu ông, chảy dọc theo sống lưng.
- Nguồn nước! Nguồn
nước đã hồi sinh! Vakha ơi, dậy đi! Nguồn nước của chúng ta đã tỉnh lại rồi. Cuộc
sống ở đây sẽ lại hồi sinh! Hồi sinh-inh-inth
Ông Tsanka lại chống
hai tay xuống, ngồi dậy, quay mặt về phía thượng nguồn. Dòng nước mong đợi mang
theo sự sống chảy băng qua lớp tuyết trắng đang tràn xuống. Mực nước mỗi lúc một
dâng cao, tiếng nước réo rì rào trong lòng con suối càng to hơn và sôi động
hơn. Những khối tuyết trắng đổ ụp xuống và biến mất ngay trước mắt ông, những đợt
sóng sẫm màu càng lúc càng tràn ra khoảng không gian rộng lớn hơn.
Tiếng nước chảy
rì rào trong lòng suối như bài hát ru của mẹ, vỗ về tâm hồn ông. Khuôn mặt với chiếc
miệng móm của ông Tsanka phảng phất nụ cười mãn nguyện. Đột nhiên, ông nhìn thấy
mẹ đang đứng trên bờ trẻ trung, xinh đẹp, má ửng hồng, mái tóc đen loăn xoăn, bồng
bềnh dưới chiếc khăn trùm cùng với đôi mắt to màu xanh da trời. Mẹ mỉm cười, lắc
đầu, càng lúc càng hát to hơn bài hát yêu thích của ông.
Nước dâng lên mỗi
lúc một cao, những âm thanh không gì có thể chế ngự được của dòng suối mỗi lúc
một to. Ông Tsanka có cảm giác nước lên rất nhanh. Sức nặng của cơ thể đứa cháu
đè lên đùi ông mỗi lúc một nhẹ. Ông hiểu, dòng nước đang nhẹ nhàng đưa hai ông
cháu trôi dần về phía dưới. Cuối cùng, dòng nước nâng hẳn cái xác không còn sự
sống lên và mang đi. Ông Tsanka dùng cả hai tay túm chặt lấy quần áo của cháu,
cố giữ nó lại. Tuy nhiên, dòng nước càng lúc càng mạnh hơn, càng dâng cao hơn,
ông đã có thể đứng dậy. Đôi chân yếu ớt của ông trượt trên lòng suối, nhưng ông
vẫn cố hết sức giữ cháu lại. Lại một đợt sóng nữa ập tới, cuốn họ đi xa hơn về
phía dưới. Hai chân ông Tsanka cố kẹp vào một tảng đá lăn, hai tay mỏi nhừ bất
lực, những ngón tay tê cứng. Lại một cơn sóng nhỏ nữa ập tới, mang hai ông cháu
trôi theo dòng chảy xuống phía dưới. Đến đây, tay ông chạm vào một cái rễ cây lớn,
ông túm một tay vào nó, còn tay kia run rẩy giữ chặt cháu. Cuộc đấu tranh không
kéo dài. Sức lực cúa ông già đã cạn kiệt từ lâu.
“Chẳng lẽ ta không thể chôn cất đứa cháu yêu quý của
mình một cách xứng đáng hay sao”, ông Tsanka vừa ngẫm
nghĩ vừa cố lấy chút sức lực cuối cùng ép cái xác của đứa cháu vào bờ.
Nhưng nguồn nước
quê hương cũng không chịu khuất phục. Sức mạnh của nó mỗi lúc một tăng lên, và
đẩy, nó đã hoàn toàn chế ngự được toàn bộ dòng chảy, nước trong nguồn không còn
gầm gừ sục sôi nữa, mà rì rào vui vẻ và vang đi rất xa, từ trước đến nay vẫn thế,
hàng thế kỷ nay vẫn thế.
Vượt qua nỗi sợ
hãi trong cơn vật lộn, ông Tsanka lại nghe rất rõ giai điệu quen thuộc. Ông mở
mắt ra và lại nhìn thấy mẹ, cạnh mẹ còn có rất nhiều người. Tất cả đều là bà
con họ hàng, đồng hương, quen thuộc. Đứng cạnh mẹ, trong chiếc áo cherkeska trắng
là cha, vóc dáng cao to, cân đối. Mọi người đều mỉm cười với ông, vui vẻ la hét
cái gì đó. Ông nghe thấy:
- Thả nó ra đi,
con trai. Thả ra đi. Thượng đế sẽ ban phước lành cho nó!
Tay ông Tsanka duỗi
ra, và dòng chảy cuồn cuộn mang ngay đứa cháu đi, còn ông, hai tay túm chặt vào
cái rễ cây, khoan khoái tận hưởng những âm thanh sống động của dòng suối. Nước
trong suối ấm và ngọt. Ông vục đầu xuống uống rồi ngụp cả người xuống. Đã lâu rồi
ông không có được cái cảm giác nhẹ nhõm như thế trong cơ thể. Ông cảm thấy hài
lòng, dễ chịu và bình an. Dòng chảy ào ạt mơn man cơ thể và chân tay ông, dịu Tay
ông Tsanka duỗi ra, và dòng chảy cuồn cuộn mang ngay đứa cháu đi, còn ông, hai
tay túm chặt vào cái rễ cây, khoan khoái tận hưởng những âm thanh sống động của
dòng suối. Nước trong suối ấm và ngọt. Ông vục đầu xuống uống rồi ngụp cả người
xuống. Đã lâu rồi ông không có được cái cảm giác nhẹ nhõm như thế trong cơ thể.
Ông cảm thấy hài lòng, dễ chịu và bình an. Dòng chảy ào ạt mơn man cơ thể và
chân tay ông, dịu dàng hắt nước lên mặt ông.
Cuối cùng, đôi
tay yếu ớt hoàn toàn bất lực, và như thời còn bé, ông Tsanka nhoài người vào
dòng chảy. Hóa ra, cho đến giờ, dòng suối vẫn không hề thay đổi, ông nhớ rất rõ
các khúc ngoặt, các vũng nước xoáy.
Tốc độ khủng khiếp.
Ông Tsanka lại cảm nhận
được niềm khoái lạc và sự cuồng nhiệt thầm kín của một thời thơ trẻ. Chỉ có dạo
ấy ông mới thấy sợ, còn bây giờ nỗi sợ không còn nữa. Khúc ngoặt cuối cùng đây
rồi, và cơ thể ông được đẩy ra vũng sông phẳng lặng.
Ông Tsanka bồng bềnh trên
mặt nước, mắt mở to, nhìn lên bầu trời xanh nhợt nhạt, cao thăm thẳm với những
ngôi sao đẹp đẽ, thưa thớt.
Trời đã rạng...
Dòng suối vẫn tiếp tục đổ vào sông lớn, hòa vào vùng nước lớn.
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét