Người Con Trai
Tác giả: Jo Nesbo
Người dịch: Thiên Nga
Nhà XB Hà Nội & Nhà Sách Nhã Nam - 2017
Phần Ba
21
Khi Martha đỗ chiếc golf mui trần đã mười
giờ sáng và mặt trời đã chiếu xuống đường Waldemar Thranes từ lâu. Cô xuống xe
rồi bước chân phơi phới đi ngang tiệm bánh ngọt đến lối vào nhà ăn Trung tâm
Ila. Cô để ý thấy vài đàn ông - thậm chí cả vài phụ nữ - liếc nhìn khi cô đi
qua. Chuyện đó không có gì là lạ, nhưng hôm nay dường như cô thu hút thêm sự
chú ý. Cô cho là do tâm trạng phấn chấn khác thường của mình, nhưng không nghĩ
ra được một lý do cụ thể nào. Cô đã tranh luận với mẹ chồng tương lai về ngày
cưới, với Grete - giám đốc ký túc xá - về việc sắp xếp bảng phân công, và với
Anders về hầu như mọi thứ. Có lẽ cô có tâm trạng vui vẻ vì hôm nay là ngày nghỉ
của cô, vì Anders đã đi cùng mẹ đến căn nhà gỗ nhỏ hai ngày cuối tuần, và vì cô
sẽ được hưởng cái nắng này trong hai ngày.
Khi bước vào nhà ăn, cô thấy mọi cái đầu
hoang tưởng đều nhìn lên. Tất cả trừ một. Cô mỉm cười, vẫy chào khi mọi người gọi
và bước đến chỗ hai cô gái sau quầy. Đưa một người chiếc chìa khóa.
- Các cô sẽ không sao đâu mà. Cứ làm cho
xong. Nhớ là các cô có hai người.
Cô gái gật, nhưng trông tái mét.
Martha rót cho mình tách cà phê. Cô đứng
xoay lưng về phòng. Cô biết mình vừa nói hơi to hơn cần thiết. Cô quay lại mỉm
cười như thể ngạc nhiên khi bắt gặp cái nhìn của anh. Đi lại bàn anh đang ngồi
một mình. Cô nâng tách lên môi, vừa uống vừa nói.
- Anh dậy sớm thế?
Anh nhướng một bên mày và cô nhận ra cái có
vẻ ngớ ngẩn trong câu mình nói - giờ đã hơn mười giờ.
- Hầu hết mọi người ở đây thường dậy trưa,
- cô vội nói thêm.
- Phải, đúng vậy, - anh mỉm cười.
- Nghe này, tôi chỉ muốn xin lỗi về chuyện
xảy ra hôm qua.
- Hôm qua?
- Phải. Thường thì Anders không như vậy,
nhưng đôi lúc... Gì đi nữa thì anh ấy cũng không có quyền nói với anh như vậy.
Gọi anh là thằng nghiện rồi... à, anh biết đấy.
Stig lắc đầu.
- Cô không cần xin lỗi, cô có làm gì sai
đâu. Bạn trai của cô cũng vậy, tôi là thằng nghiện mà.
- Còn tôi là kẻ chạy xe tệ hại. Điều đó
không có nghĩa tôi để mọi người nói vậy vào mặt tôi.
Anh cười. Cô thấy tiếng cười làm nét mặt
anh dịu đi, làm anh trông còn trẻ con hơn.
- Vậy mà cô vẫn chạy xe đấy thôi, tôi thấy
mà. - Anh hất hàm về cửa sổ. - Xe cô à?
- Phải, tôi biết nó là đồ bỏ đi, nhưng tôi
thích sự độc lập và tự do nó đem lại cho tôi. Anh không vậy sao?
- Tôi không biết, tôi chưa chạy xe bao giờ.
- Chưa bao giờ? Thật sao?
Anh nhún vai.
- Vậy thì đáng buồn thật, - cô nói.
- Đáng buồn?
- Không gì bằng chạy chiếc mui trần để mở
mui trong nắng.
- Ngay cả đối với một...
- Phải, ngay cả đối với một người nghiện, -
cô cười. - Chuyến đi tuyệt nhất anh từng có, tin tôi đi.
- Vậy thì tôi hy vọng lúc nào đó cô chở tôi
chạy một vòng.
- Tất nhiên rồi, - cô nói. - Ngay bây giờ
luôn thì sao?
Cô thấy chút ngạc nhiên trong cái nhìn của
anh. Cô đã bốc đồng thốt ra lời mời. Cô biết mấy người kia đang nhìn họ. Thì đã
sao? Cô có thể ngồi hàng giờ với mấy người kia nói về những vấn đề riêng của họ
mà không ai nghĩ gì; trái lại, đó còn là một phần trong công việc của cô. Còn
hôm nay là ngày nghỉ của cô nên cô được dùng thế nào tùy thích, không phải sao?
- Chắc rồi, - Stig đáp.
- Tôi chỉ có vài giờ, - Martha nói, nhận ra
giọng mình có chút nóng nảy. Sao chưa gì cô đã nghĩ lại?
- Miễn là tôi được thử một cái, - anh đáp.
- Lái. Trông có vẻ vui.
- Tôi biết một chỗ. Đi nào.
Khi họ đi, Martha cảm thấy mọi con mắt đều
dồn vào cô.
* * *
Stig chăm chú đến mức cô bật cười. Cúi người
tới nắm chặt vô lăng, anh chạy thật chậm, thành từng vòng rộng quanh bãi xe ở
Okern vốn luôn vắng hoe những ngày cuối tuần.
- Tốt rồi, - cô nói. - Giờ thử chạy theo
hình số tám đi.
Anh làm như cô nói và tăng tốc một chút,
nhưng khi vòng quay tăng, anh tự động nhấc chân lên.
- Hôm nọ cảnh sát có ghé, - Martha nói. - Họ
muốn biết chúng tôi có phát đôi giày thể thao mới nào không. Là vì vụ án mạng
Iversen, nếu anh đã nghe chuyện đó.
- Có, tôi có đọc, - anh nói.
Cô nhìn anh. Cô thích chuyện anh đọc. Hầu hết
người trong trung tâm không đọc chữ nào, không hấp thu tin tức, không biết ai
là thủ tướng hay ngày 11/9 là gì. Nhưng họ lại có thể cho ta biết thứ speed nào
ở đâu giá bao nhiêu chính xác đến từng xu, độ tinh khiết của heroin và phần
trăm hoạt chất trong bất kỳ dược phẩm mới nào.
- Nhân nói về Iversen, chẳng phải đó là tên
của cái ông có thể kiếm cho anh một việc làm sao?
- Phải. Tôi đã tới đó, nhưng giờ ông ta
không có gì.
- Ôi, tiếc quá.
- Phải, nhưng tôi sẽ không bỏ cuộc, tôi còn
nhiều tên nữa trong danh sách.
- Tuyệt! Vậy là anh có một danh sách?
- Phải, có.
- Sao ta không thử sang số đi?
Hai giờ sau họ đang phóng xuống Mosseveien.
Cô lái. Một bên là vịnh Oslo lấp lánh trong nắng. Anh tỏ ra là người học nhanh.
Sau vài lần tập sang số và côn có va vấp, khi họ làm được rồi thì như thể anh
đã lập trình cho óc nhớ động tác nào đã thực hiện rồi lặp lại, tự động. Sau ba
lần thử khởi động ngang dốc, anh đã làm được mà không dùng phanh tay. Và khi đã
hiểu cách áp dụng hình học trong việc đậu xe song song, anh làm thuần thục bằng
một sự khéo léo gần như chọc tức.
- Gì đấy?
- Depeche Mode, - anh nói. - Cô thích
không?
Cô lắng nghe bài hát, đoạn xướng âm hai phần
và nhịp điệu máy móc.
- Có chứ, - cô nói, mở lớn máy nghe CD. -
Nghe rất... Anh.
- Đúng. Cô còn nghe được gì nữa?
- Ừm. Phản không tưởng kiểu vui vẻ. Như thể
họ không xem nặng lắm sự trầm cảm của mình, nếu anh hiểu tôi muốn nói gì.
Anh cười:
- Tôi biết cô muốn nói gì mà.
Sau vài phút trên đường cao tốc, cô rẽ về
phía bán đảo Nesoddtangen.
Đường sá trở nên hẹp hơn, xe cộ thưa thớt
hơn. Cô tấp vào bên đường và dừng xe.
- Anh sẵn sàng làm thật chưa?
Anh gật.
- Rồi, tôi đã sẵn sàng làm thật.
Anh đáp bằng cảm xúc mãnh liệt khiến cô
nghi anh nói về điều gì khác chứ không chỉ là lái xe. Họ xuống xe và đổi chỗ
cho nhau. Cô nhìn anh ngồi sát vô lăng và nhìn thẳng phía trước, chăm chú. Anh
đạp côn và vào số. Anh đạp chân ga cẩn thận và dè dặt.
- Gương, - cô nói trong khi tự mình kiểm
hình ảnh trong gương chiếu hậu.
- Ổn cả, - anh nói.
- Đồng hồ.
Anh bấm đồng hồ, lẩm nhẩm hai chữ “sẵn
sàng” rồi nhẹ nhàng thả chân côn.
Họ từ từ chạy ra đường cái. Vòng quay hơi
quá cao.
- Phanh tay, - cô nói và nắm cần điều khiển
ở giữa họ để nhả ra. Cô cảm thấy bàn tay anh cũng đưa qua để nắm, nhưng chạm phải
tay cô thì rụt lại như thể bị bỏng.
- Cảm ơn, - anh nói.
Họ chạy suốt mười phút mà không nói gì. Họ
để một tài xế đang vội vượt mặt. Một xe móc chạy về phía họ. Cô nín thở. Cô biết
rằng trên đường hẹp, cô sẽ tự động phanh lại và chạy qua một bên dù biết có đủ
chỗ cho cả hai xe.
Nhưng Stig không bị nó dọa nạt. Và điều kỳ
lạ là cô tin tưởng anh sẽ có quyết định đúng. Hiểu biết bẩm sinh về ba chiều
trong não nam giới. Cô thấy hai bàn tay anh điềm nhiên tì trên tay lái. Và cô kết
luận anh thiếu chính cái nét mà cô có thừa: khuynh hướng hoài nghi chính phán
đoán của mình. Nhìn mấy sợi ven mịn, dày trên bàn tay anh cô biết là tim anh
đang bình thản bơm máu ra. Máu chạy đến mấy đầu ngón tay. Cô thấy hai bàn tay
anh bẻ nhanh tay lái, nhưng không sang phải quá mức, khi cái hối hả của xe moóc
xâm chiếm lấy xe họ.
- Chà! - Anh cười phấn chấn và nhìn cô. -
Cô có cảm thấy nó không?
- Có, - cô nói. - Tôi cảm thấy rồi.
Cô chỉ anh chạy tới mũi Nesodden, lên con
đường đầy sỏi rồi họ đậu xe sau một dãy nhà thấp có cửa sổ nhỏ xíu sau nhà còn
cửa sổ lớn nhìn ra biển.
- Những túp nhà nghỉ mát sửa sang lại từ thập
niên 1950, - Martha vừa đi trước xuống con đường mòn giữa bãi cỏ cao vừa giải
thích. - Tôi lớn lên trong một ngôi nhà như vậy. Còn đây là khu hứng nắng bí mật
của chúng tôi.
Họ lên đến một đỉnh lởm chởm đá. Biển nằm
bên dưới và họ nghe thấy tiếng hò reo vui vẻ của trẻ con đang nghịch nước tung
tóe. Cách đó một quãng ngắn là bến cảng có phà chạy tuyến ngắn về phía Bắc đến
Oslo, những hôm trời quang thì trông như chỉ cách vài trăm mét. Khoảng cách thực
là năm cây số nhưng hầu hết người làm việc ở thủ đô thích đi lại bằng phà hơn
là làm cuốc xe bốn mươi lăm cây số vòng quanh vịnh.
Cô ngồi xuống hít vào không khí mặn.
- Bố mẹ tôi cùng bạn bè thường gọi Nesodden
là “Berlin nhỏ”, - Martha nói. - Vì bao nhiêu là nghệ sĩ đã định cư tại đây. Sống
trong một chòi nhỏ có gió lùa thì rẻ hơn ở Oslo. Nếu nhiệt độ hạ quá thấp, dưới
điểm đóng băng, mọi người sẽ tụ tập trong nhà đỡ lạnh nhất. Là nhà chúng tôi. Họ
thường thức và uống rượu vang đến sáng vì không đủ nệm cho tất cả mọi người nằm.
Rồi tất cả sẽ có một bữa ăn sáng thật lớn với nhau.
- Nghe hay quá. - Stig ngồi xuống cạnh cô.
- Phải, đúng vậy. Người dân ở đây quan tâm
đến nhau.
- Thật bình dị.
- Chuyện đó thì tôi không biết. Có lúc họ
cũng cãi vã chuyện tiền nong, phê bình nghệ thuật của nhau hay ngủ với vợ chồng
của nhau. Nhưng chỗ này sống động, thú vị. Em gái tôi và tôi từng đinh ninh
mình đang sống ở Berlin cho đến ngày bố chỉ trên bản đồ cho tôi thấy Berlin thật
nằm ở đâu. Và giải thích khoảng cách đó rất dài, hơn cả ngàn cây số. Nhưng rồi
một ngày chúng tôi sẽ chạy xe đến đó. Bấy giờ chúng tôi sẽ thăm cổng
Brandenburg và Cung điện Charlottenburg và chị em tôi sẽ là công chúa sống
trong đó.
- Cô đã đến đó chưa?
- Đến Berlin thật ư? - Martha lắc đầu. - Bố
mẹ tôi không có nhiều tiền của. Họ cũng không sống lâu lắm. Bố mẹ mất ngày tôi
mười tám nên tôi phải chăm lo cho em gái. Nhưng tôi vẫn luôn mơ về Berlin. Đến
nỗi tôi không còn chắc nó có tồn tại thật không?
Stig chậm rãi gật, nhắm mắt nằm ngửa ra
trên cỏ.
Cô nhìn anh.
- Sao ta không nghe thêm vài bản nhạc anh
có nhỉ?
Anh hé một mắt. Nheo nheo.
- Depeche Mode hả? Đĩa CD để trong máy trên
xe rồi.
- Đưa tôi mượn điện thoại, - cô nói.
Anh đưa rồi cô bấm phím. Chẳng mấy chốc đã
có tiếng thở nhịp nhàng phát ra từ mấy loa nhỏ. Rồi một giọng đều đều đề nghị họ
làm một chuyến đi. Stig trông sửng sốt đến độ cô bật cười.
- Đó gọi là Spotify, - cô nói, để điện thoại
giữa hai người. - Ta có thể nghe nhạc trực tuyến trên web. Những thứ này đều mới
lạ với anh cả sao?
- Trong tù chúng tôi không được phép dùng
điện thoại di động, - anh nói, hăm hở cầm điện thoại lên.
- Trong tù?
- Phải, tôi từng ngồi từ.
- Anh đã buôn ma túy?
Stig che mắt cho khỏi nắng.
- Phải.
Cô gật. Rồi nhoẻn cười. Cô, hơn ai hết, đã
hình dung điều gì vậy? Rằng anh là người nghiện ma túy và là công dân tuân thủ
pháp luật? Anh đã làm cái anh phải làm, cũng như bao người khác.
Cô lấy điện thoại trên tay anh. Chỉ cho anh
chức năng GPS rằng nó có thể cho biết họ đang ở đâu trên bản đồ và cách để tính
tuyến đường ngắn nhất đến bất kỳ nơi nào trên thế giới. Cô dùng chức năng máy ảnh
chụp hình anh, bấm ghi âm, đưa lên bảo anh nói gì đó.
- Ngày hôm nay đẹp tuyệt, - anh nói.
Cô bấm dừng ghi âm rồi mở lại cho anh nghe.
- Giọng tôi đó sao? - Anh hỏi, ngạc nhiên
và rõ ràng bối rối.
Cô bấm dừng rồi mở lại. Giọng nghe nghẹt và
rè rè qua loa: “Giọng tôi đó sao?”
Thế là cô cười khi thấy vẻ mặt anh. Cô còn
cười ngặt nghẽo hơn khi anh giật điện thoại lại, tìm được phím ghi âm và nói giờ
đến lượt cô, giờ cô phải nói gì đó, không, cô phải hát.
- Không đâu! - cô phản đối. - Tôi thích được
anh chụp hình hơn.
Anh lắc đầu.
- Giọng hay hơn.
- Tại sao?
Anh làm động tác như thể vén tóc ra sau
tai. Cử chỉ đã thành thói quen của người để tóc dài lâu đến mức quên mất mình
đã cắt đi rồi, cô nghĩ.
- Người ta có thể thay đổi diện mạo. Nhưng
giọng thì vẫn vậy.
Anh nhìn ra biển và cô theo cái nhìn của
anh. Không thấy gì ngoài mặt biển lung linh, vài con mòng biển, mấy tảng đá và
cánh buồm xa xa.
- Một số giọng thì có đấy, - cô nói. Cô
đang nghĩ đến đứa bé. Tiếng thút thít trên bộ đàm. Cái đó thì không bao giờ
khác đi.
- Cô thích hát, - anh nói. - Nhưng không phải
trước mặt người khác.
- Điều gì khiến anh nói vậy?
- Vì cô thích nhạc. Nhưng khi tôi bảo cô
hát, trông cô cũng chết điếng như cô gái trong nhà ăn khi cô đưa chìa khóa cho
cô ấy.
Cô giật bắn. Anh đọc được ý nghĩ của cô
sao?
- Cô ấy sợ gì vậy?
- Không có gì, - Martha nói. - Cô ấy và người
còn lại phải cắt vụn và sắp xếp lại hồ sơ trên gác mái. Chẳng ai ưa lên đó. Vì
vậy nhân viên thay phiên nhau lên mỗi khi có việc cần làm trên đó.
- Gác mái có chuyện gì sao?
Martha nhìn theo một con mòng biển chờn vờn
giữa không trung, cao tít trên mặt biển, đôi cánh nó hơi tròng trành. Hẳn là
gió trên ấy mạnh hơn dưới đây nhiều.
- Anh tin có ma không? - Cô hỏi khẽ.
- Không.
- Tôi cũng không. - Cô ngả người chống trên
cùi chỏ để mình phải quay lại nếu muốn thấy anh. - Trung tâm Ila trông như từ
thế kỷ mười chín nhỉ? Nhưng thực ra nó được xây vào những năm 1920. Ban đầu nó
chỉ là một nhà trọ bình thường...
- Mấy chữ đúc bằng gang phía trước.
- Đúng, nó là từ thời ấy. Nhưng trong chiến
tranh người Đức đã biến nó thành trại tế bần cho các bà mẹ không kết hôn và con
họ. Những năm đó để lại nhiều câu chuyện bi thảm và chúng để lại vết tích trên
tường. Một phụ nữ đến trọ có một bé trai và cứ nhất quyết mình còn trinh - mấy
cô gái thời ấy thỉnh thoảng nói vậy khi thấy mình gặp rắc rối. Người đàn ông bị
mọi người gán tội đã có gia đình cho nên đương nhiên không chịu nhận là cha đứa
bé. Có hai lời đồn về anh ta. Một, anh ta là thành viên Kháng chiến. Hai, anh
ta là gián điệp của Đức trà trộn vào quân Kháng chiến và đó là lý do người Đức
đã cho cô này một chỗ ở trại tế bần và không bắt anh kia. Dù sao thì một sáng
người đó đã bị bắn chết trong tàu điện đông người giữa trung tâm Oslo. Chưa bao
giờ xác định được hung thủ là ai. Quân Kháng chiến quả quyết họ đã thanh trừng
một kẻ phản bội, người Đức thì khẳng định đã bắt được một thành viên Kháng chiến.
Để thuyết phục những ai nghi ngờ, người Đức đã treo xác lên đỉnh ngọn hải đăng
Kavringen.
Cô chỉ ra biển.
- Ban ngày thủy thủ đi ngang ngọn hải đăng
sẽ thấy cái xác quắt queo bị mòng biển mổ còn những ai đi ban đêm sẽ thấy cái
bóng khổng lồ đổ trên mặt biển. Cho đến một ngày cái xác bỗng nhiên biến mất. Một
số người nói quân Kháng chiến đem đi rồi. Nhưng từ hôm ấy người đàn bà đâm ra
loạn trí và cứ nói người chết ám mình. Rằng đêm đêm anh ta đến phòng cô, cúi xuống
bên cái cũi có đứa con của họ, và khi cô thét lên đuổi ra thì anh ta quay qua
cô với hai hố đen ở nơi từng là đôi mắt.
Stig nhướng một bên mày.
- Grete, giám đốc Trung tâm Ila, kể lại cho
tôi câu chuyện như vậy, - Martha nói. - Dù sao, truyền thuyết kể rằng đứa bé
không chịu nín, nhưng mỗi khi những người đàn bà ở mấy phòng khác than phiền và
bảo cô dỗ đứa bé, cô đáp rằng đứa bé khóc cho cả hai người họ và sẽ làm vậy mãi
mãi. - Martha dừng. Sắp tới chỗ cô thích nhất trong chuyện. - Người ta đồn rằng
cô này không biết cha đứa bé làm cho phe nào, nhưng để trả đũa anh ta vì không
nhận bổn phận làm cha nên cô đã đi báo với người Đức anh ta là thành viên Kháng
chiến và khai với Kháng chiến anh ta là gián điệp.
Một cơn gió lạnh bất thần khiến Martha rùng
mình nên cô ngồi thẳng dậy hai tay ôm đầu gối.
- Một buổi sáng người đàn bà không xuống ăn
sáng. Họ tìm thấy cô trên gác mái. Cô đã treo cổ từ xà ngang lớn trên mái. Ta vẫn
có thể thấy lờ mờ vết hằn trên gỗ chỗ có lẽ cô đã cột sợi dây thừng.
- Và giờ đây cô ta ám gác mái?
- Tôi không biết. Tôi chỉ biết là khó mà chỗ
đó. Tôi không tin có ma, nhưng dường như chẳng ai ở lâu trên gác mái được. Cứ
như ta có thể nhận thấy điềm rủi. Nhiều người bị nhức đầu, cảm thấy bị xô ra khỏi
phòng. Và thường họ là nhân viên mới hay nhà thầu được thuê lo việc bảo trì, những
người không biết câu chuyện. Và, không, không có a-mi-ăng dùng để cách âm hay
gì như vậy cả.
Cô nhìn kỹ anh, nhưng anh không tỏ vẻ nghi
ngờ hay cười nhếch mép mà cô phần nào tưởng sẽ thấy. Anh chỉ lắng nghe.
- Nhưng vậy vẫn chưa hết, - cô nói tiếp. -
Đứa bé...
- Phải, - anh nói.
- Phải? Anh đoán ra rồi?
- Nó không còn nữa.
Cô nhìn anh kinh ngạc.
- Làm sao anh biết?
Anh nhún vai.
- Cô bảo tôi đoán mà.
- Một số người cho là người mẹ đã giao nó
cho Kháng chiến ngay đêm cô ta treo cổ. Số khác thì nói cô ta giết chết đứa bé
đem chôn sau vườn để không ai lấy mất con ta. Dù sao... - Martha hít một hơi
sâu. - Không bao giờ tìm thấy nó. Và điều kỳ lạ là thỉnh thoảng chúng tôi nghe
có tiếng động trên bộ đàm, nhưng chúng tôi không thể nhận ra nó từ đâu. Nhưng
chúng tôi nghĩ đó là... - Cô thấy trông anh như đã đoán được cả chuyện đó. - Một
đứa bé khóc, - cô nói.
- Một đứa bé khóc, - anh lặp lại.
- Nhiều người, nhất là nhân viên mới, đâm
hoảng sợ khi nghe thấy, nhưng Grete bảo họ là đôi khi bộ đàm bắt tín hiệu từ
các thiết bị trông trẻ nhà hàng xóm.
- Nhưng cô không nghĩ vậy?
Martha ngập ngừng.
- Có lẽ bà ấy đúng.
- Nhưng?
Lại một cơn gió nữa. Mây đen đã xuất hiện ở
đằng Tây. Martha tiếc đã không mang theo áo choàng.
- Tôi làm việc tại Trung tâm Ila đã bảy năm
nay. Và khi anh nói là giọng không hề đổi...
- Thì sao?
- Tôi cam đoan đó vẫn chính là đứa bé ấy.
Stig gật. Anh không nói gì, không cố đưa ra
lời giải thích hay bình luận. Anh chỉ gật. Cô thích điều đó.
- Cô biết mấy đám mây đó nghĩa là gì không?
- cuối cùng anh hỏi và đứng lên.
- Là trời sắp mưa và đã đến lúc ta về nhà?
- Không, - anh nói. - Là ta phải ra bơi
ngay để còn hơ nắng cho kịp khô.
* * *
- Vô cảm, [nguyên văn tiếng Anh, compassion
fatigue, để chỉ tình trạng giảm dần lòng trắc ẩn, thường ở những người làm việc
trực tiếp với các nạn nhân bị tổn thương], - Martha nói. Cô nằm ngửa, nhìn trời;
trong miệng cô vẫn còn vị nước mặn và cô cảm nhận được những viên đá nóng rực
bên dưới người mình và hơi ấm thấm qua đồ lót ướt. - Nó nghĩa là tôi đã không
còn biết quan tâm. Trong lĩnh vực chăm sóc ở Na Uy điều đó khó chấp nhận đến mức
thậm chí chúng ta còn không có từ tiếng Na Uy cho nó.
Anh không đáp. Mà chuyện đó thì tốt thôi,
không hẳn cô đang nói với anh, anh chỉ là cái cớ để ý nghĩ thành lời.
- Tôi nghĩ đó là một cách tự bảo vệ mình, đứng
ngoài khi mọi chuyện trở nên quá sức. Cũng có thể cái giếng đã khô cạn, có lẽ
tôi đã hết sạch tình thương.
Cô ngẫm nghĩ.
- Không, điều đó không đúng. Tôi có nhiều...
chỉ là không...
Martha thấy một đám mây hình dáng như nước
Anh trôi qua bầu trời. Ngay trước khi đi qua đọt cây trên đầu cô, nó hóa thành
con voi ma mút. Lúc này, về nhiều mặt, đây giống như đang nằm trên trường kỷ của
bác sĩ trị liệu cho cô. Ông ta là một trong những người vẫn còn dùng trường kỷ.
- Anders là anh chàng can đảm nhất và đẹp
trai nhất trường, - cô nói với đám mây. - Đội trưởng đội bóng của trường. Vui
lòng đừng hỏi tôi anh ấy có phải là chủ tịch hội sinh viên không.
Cô chờ.
- Phải không?
- Phải.
Cả hai bật cười.
- Cô đã đem lòng yêu anh ta?
- Tha thiết. Tôi vẫn còn yêu. Tôi yêu anh ấy.
Anh ấy là một thanh niên tốt. Anh ấy còn nhiều thứ khác chứ không chỉ đẹp trai
và khỏe mạnh. Tôi may mắn có Anders. Còn anh thì sao?
- Còn tôi thì sao cái gì?
- Anh đã có mấy người bạn gái rồi?
- Không có ai cả.
- Không ai cả sao? - Cô chống người dậy
trên cùi chỏ. - Một anh chàng đẹp trai như anh, tôi không tin đâu.
Stig đã cởi sơ mi. Da anh xanh xao trong nắng
đến gần như làm cô chói mắt. Cô hơi ngạc nhiên khi để ý thấy anh không có dấu
kim tiêm mới. Cô đoán có lẽ là nơi bắp đùi hay bẹn.
- Thật sao? - cô nói.
- Tôi cũng từng hôn vài cô... - Anh đưa tay
vuốt lên mấy dấu cũ. - Nhưng đây là người yêu duy nhất của tôi...
Martha nhìn mấy dấu kim tiêm. Cô cũng muốn
vuốt lên đó. Làm cho chúng biến đi.
- Ngày đầu tôi phỏng vấn, anh nói anh bỏ rồi,
- cô nói. - Tôi sẽ không báo Grete đâu. Một thời gian nữa đã. Nhưng anh biết...
- ... là trung tâm chỉ dành cho người đang
dùng.
Cô gật.
- Anh có nghĩ mình đủ sức làm vậy không?
- Qua được kỳ thi lấy bằng lái?
Họ nhìn nhau cười.
- Hôm nay thì tôi sạch, - anh nói. - Mai lại
là ngày khác rồi.
Mây vẫn còn xa tít tắp, nhưng cô nghe thấy
tiếng đì đùng xa xa, một lời cảnh báo cho cái sắp đến. Và như thể mặt trời cũng
biết điều đó, nó tỏa sáng rực rỡ thêm chút nữa.
- Cho tôi mượn điện thoại anh đi, - cô nói.
Martha bấm ghi âm. Rồi cô hát bài bố cô vẫn
đàn ghita cho mẹ cô. Thường khi một trong những bữa tiệc bất tận mùa hè của họ
sắp tàn. Ông ngồi ở chính chỗ lúc này họ đang ngồi, cùng cây ghita móp méo, gảy
đàn khẽ đến mức chỉ vừa đủ nghe. Bài hát của Leonard Cohen nói rằng ông vẫn
luôn là người yêu của nàng, và sẽ cùng nàng phiêu du khắp chốn, theo nàng thật
mù quáng, rằng ông biết nàng tin tưởng ông vì tâm tưởng ông đã chạm vào tấm
thân tuyệt bích của nàng.
Cô hát giọng nhỏ, yếu ớt. Khi hát thì bao
giờ cô cũng vậy; nghe có vẻ yếu đuối hơn và dễ tổn thương hơn con người cô nhiều.
Đôi lúc cô tự hỏi phải chăng cô đúng là như vậy, và phải chăng cái giọng kia,
giọng rắn rỏi hơn cô dùng để bảo vệ mình, không phải là cô.
- Cảm ơn, - anh nói khi cô hát xong. - Hay
thật đấy.
Cô không thắc mắc sao chuyện đó làm cô bối
rối. Cô thắc mắc sao nó không khiến cô bối rối hơn.
- Đến lúc ta chạy xe về rồi. - Cô mỉm cười
trả điện thoại lại cho anh.
Lẽ ra cô phải biết cố hạ cái mui xe cũ kỹ,
mục nát xuống là chuốc lấy phiền toái nhưng cô muốn cảm nhận không khí trong
lành trên đường đi. Họ phải vật vã hơn mười lăm phút, hết vò đầu bứt tóc đến
dùng bạo lực, nhưng rồi cuối cùng họ cũng bỏ mui xuống được. Và cô biết mình sẽ
không bao giờ chống mui lên lại, nếu không có đồ phụ tùng và Anders giúp sức.
Khi cô vào xe, Stig đưa điện thoại cho cô xem. Anh đã nhập Berlin vào trong
GPS.
- Bố cô nói đúng, - anh nói. - Từ Berlin nhỏ
đến Berlin lớn là 1.030 km. Thời gian chạy xe dự kiến là mười hai giờ mười lăm
phút.
Cô lái. Cô chạy xe nhanh như thể họ có gì cấp
bách phải làm. Hay đang cố chạy trốn. Cô nhìn trong gương. Những đám mây trắng
cao ngất trên vịnh làm cô mường tượng ra một cô dâu. Một cô dâu bước quả quyết
và không dừng được về phía họ, với tấm khăn voan mưa tha thướt đằng sau.
Những hạt mưa nặng trĩu đầu tiên chạm xuống
người họ khi họ kẹt giữa xe cộ đông nghịt trên đường vành đai số 3 và cô nhận
ra ngay là họ đã thua cuộc.
- Chạy ra đây đi, - Stig nói, chỉ.
Cô làm theo, thế rồi bỗng đâu họ nhận ra
mình đã đến một khu dân cư.
- Rẽ phải ở đây này, - Stig nói.
Mưa rơi dày hơn.
- Ta ở đâu đây?
- Berg. Cô có thấy căn nhà màu vàng đó
không?
- Có.
- Tôi quen chủ nhà đó, nhà bỏ không. Dừng
bên ngoài nhà xe đằng kia đi để tôi mở cửa nhà xe.
Năm phút sau họ đã ngồi giữa một mớ dụng cụ
gỉ sét, lốp xe mòn và bàn ghế dùng ngoài vườn phủ mạng nhện, nhìn mưa trút xuống
bên ngoài cửa nhà xe mở.
- Trông không có vẻ gì là sẽ sớm tạnh, -
Martha nói. - Mà tôi nghĩ mui xe thì coi như tạch rồi.
- Tôi đồng ý, - Stig nói. - Một tách cà phê
nhé?
- Đâu?
- Trong nhà bếp. Tôi biết chìa khóa để đâu.
- Nhưng...
- Đây là nhà tôi.
Cô nhìn anh. Cô đã chạy xe không đủ nhanh.
Cô không về kịp. Dù là gì đi nữa thì cũng đã quá muộn.
- OK, - cô nói.
22
Simon chỉnh lại cái mặt nạ mỏng cho ngay rồi
nhìn kỹ cái xác. Nó gợi nhớ điều gì đó.
- Hội đồng sở hữu và quản lý chỗ này, -
Kari nói. - Họ cho các ban nhạc trẻ thuê phòng với giá gần như cho không để diễn
tập. Hát về kiếp kẻ cướp thì tốt hơn là chạy xe khắp phố làm kẻ cướp thật.
Simon nhớ ra đó là gì. Jack Nicholson đông
cứng đến chết trong Ngôi nhà ma. Ông đã đi xem phim đó một mình. Chuyện đó là
sau cô ấy. Và trước Else.
Có lẽ đó là tuyết. Người chết trông như nằm
trong đống tuyết. Một lớp mịn heroin phủ lên cái xác và gần như cả phòng. Quanh
miệng, mũi và mắt người chết bột đã tiếp xúc với hơi ẩm nên vón cục lại.
- Một ban nhạc đang tập dượt cuối hành lang
khi ra về thì phát hiện ra hắn, - Kari nói.
Cái xác được phát hiện tối qua, nhưng mãi đến
sáng nay khi Simon tới chỗ làm mới được thông báo là đã tìm thấy tổng cộng ba
người thiệt mạng. Và Kripos đang xử lý vụ này.
Nói cách khác, ủy viên đã yêu cầu Kripos hỗ
trợ - chẳng khác nào đưa vụ này cho họ - thậm chí cũng không hỏi ý Đội Điều tra
án mạng của ông trước. Có lẽ rốt cuộc kết quả cũng như nhau, nhưng dù là vậy đi
nữa.
- Tên hắn là Kalle Farrisen, - Kari nói.
Cô đọc to báo cáo sơ bộ. Simon đã gọi ủy
viên yêu cầu gần báo cáo cho họ. Và yêu cầu được tức thì tiếp cận hiện trường vụ
án. Suy cho cùng, đây vẫn là địa bàn của họ.
- Simon này, - ủy viên đã nói, - bất luận
thế nào, cứ xem qua, nhưng đừng dính vào. Anh và tôi già quá rồi không thi tè
được đâu.
- Anh thì có lẽ già quá rồi, - Simon đáp.
- Anh nghe tôi nói rồi đấy, Simon.
Đôi lúc Simon cũng ngẫm điều đó. Không có
gì phải nghi ngờ chuyện ai trong họ có nhiều tiềm năng nhất. Con đường đã rẽ
nhánh từ đâu vậy? Chuyện ai sẽ ngồi ghế nào đã được định đoạt từ khi nào vậy?
Ai sẽ ngồi ghế có lưng dựa cao trong văn phòng ủy viên còn ai sẽ ngồi ghế cọc cạch
trong Đội Điều tra án mạng, cánh bị chặt đi mất. Và kẻ giỏi nhất trong họ thì lại
phải ngồi trên ghế trong phòng làm việc với một viên đạn từ súng của mình xuyên
qua đầu.
- Mấy sợi dây đàn ghi ta quấn quanh đầu là
dây E và G và do Ernie Ball sản xuất. Sợi cáp hai giắc cắm là của Fender, -
Kari đọc.
- Còn cây quạt và lò sưởi?
- Gì cơ?
- Không có gì. Tiếp đi.
- Quạt bật. Kết luận sơ bộ của giám định
viên pháp y là Kalle Farrisen bị ngạt.
Simon xem xét kỹ cái gút sợi cáp có giắc cắm.
- Trông như Kalle buộc phải hít ma túy thổi
vào mặt. Cô đồng ý không?
- Vâng, - Kari nói. - Hắn xoay xở nín thở
được một lúc, nhưng rốt cuộc đành chịu thua. Mấy sợi dây đàn không cho hắn xoay
mặt đi chỗ khác. Nhưng hắn đã cố, vì vậy mà có mấy tổn thương do sợi dây đàn mảnh.
Cuối cùng heroin vào mũi, bụng và phổi, nó thấm vào dòng máu, hắn bắt đầu thấy
phê thuốc và tiếp tục thở. Nhưng lúc này đã yếu đi vì heroin kiềm chế hơi thở.
Và cuối cùng, hắn tắt thở.
- Một ca kinh điển chết vì quá liều, -
Simon nói. - Như chuyện xảy ra cho vài khách hàng của hắn. - Ông chỉ sợi cáp. -
Và người thắt gút này là người thuận tay trái.
- Ta không thể cứ gặp nhau kiểu này được.
Họ quay lại. Asmund Bjornstad đang đứng bên
cửa với nụ cười gượng gạo và hai người sau anh ta đang cầm băng ca.
- Giờ chúng tôi muốn đem xác đi, nên nếu
hai người đã xong...
- Chúng tôi đã xem hết những gì cần, -
Simon nói, khó nhọc đứng dậy. - Chúng tôi nhìn quanh một vòng thì có được
không?
- Tất nhiên, - điều tra viên bên Kripos
nói, vẫn cười nửa miệng, hào hiệp chỉ đường cho họ. Simon ngạc nhiên trợn tròn
mắt với Kari, đáp lại cô nhướng mày như để nói anh ta đã hoàn toàn đổi thái độ.
- Có nhân chứng nào không? - Trong thang
máy Simon hỏi và nhìn kính vỡ.
- Không, - Bjornstad nói. - Nhưng tay ghi
ta trong ban nhạc phát hiện cái xác nói lúc chiều có một gã ở đây. Hắn ta nhận
là đang chơi trong ban nhạc Tuổi trẻ Vô vọng, nhưng chúng tôi kiểm tra thì ban
đó không còn tồn tại nữa.
- Hắn trông thế nào?
- Nhân chứng nói gã này mặc áo có mũ trùm đầu.
Thời nay nhiều thanh niên mặc vậy lắm.
- Vậy là hắn còn trẻ?
- Nhân chứng nghĩ vậy. Đâu khoảng hai mươi
đến hai lăm.
- Áo màu gì?
Bjornstad lật sổ tay.
- Tôi tin là xám.
Cửa thang máy mở, họ thận trọng bước ra và
rướn người bước qua những băng và lá cờ nhỏ các cảnh sát điều tra hiện trường bố
trí. Trên tầng này có bốn người. Hai sống và hai đã chết. Simon gật đầu chào
nhanh với một người còn sống. Người đàn ông có chòm râu đỏ hoe rậm rì đang khom
cả người bên cái xác, tay cầm đèn pin cỡ bằng cây bút máy. Người chết có vết
thương lớn dưới một bên mắt. Một vòng máu đỏ thẫm trên khoảng sàn quanh đầu.
Bên trên là máu bắn tung tóe tạo thành hình thù như những giọt nước mắt. Có lần
Simon đã cố giải thích cho Else hiểu một hiện trường vụ án có thể đẹp ra sao.
Ông đã thử một lần và không bao giờ thử lại.
Một nạn nhân nữa to béo hơn nhiều nằm bên
ngưỡng cửa, phần thân trên nhô vào trong phòng.
Cái nhìn của Simon tự động lướt khắp mấy
vách tường rồi tìm thấy lỗ đạn trên một bức thường. Ông để ý thấy ô cửa sổ nhỏ
nơi cửa và tấm gương treo dưới trần nhà. Rồi ông lùi một bước vào thang máy,
giơ cánh tay phải lên nhắm. Đổi ý và giơ tay trái lên. Ông phải bước sang phải
một bước để góc khớp với đường đạn của một viên đạn đi qua đầu nạn nhân và - nếu
sọ đã không khiến viên đạn chệch hướng - vào lỗ đạn trong tường thạch cao. Ông
nhắm mắt. Gần đây ông cũng đã đứng một vị trí như vậy. Trên thềm ngoài nhà
Iversen. Dùng bàn tay phải mà nhắm. Ở đó ông cũng đã phải chỉnh vị trí để khớp
với góc. Bước một bước ra ngay bên ngoài lối đi lát đá phiến. Giẫm vào đất xốp.
Cũng là thứ đất mềm quanh bụi cây. Nhưng không thấy dấu giày trùng khớp trên
khoảng đất cạnh lối đi.
- Ta tiếp tục chuyến tham quan chứ, thưa
quý ông quý bà? - Bjornstad giữ cửa mở và chờ cho Kari với Simon bước qua xác
mà vào. - Hội đồng đã để cho cái mà họ tưởng là một nhóm quản lý và đặt chỗ cho
các ban nhạc thuê phòng này.
Simon nhìn vào két sắt trống trơn.
- Anh nghĩ chuyện gì đã xảy ra?
- Vụ xô xát có liên quan đến băng nhóm, -
Bjornstad nói. - Chúng tấn công xưởng vào giờ gần đóng cửa. Nạn nhân đầu bị bắn
khi đang nằm dưới sàn - chúng tôi đã tìm lại được viên đạn dưới ván sàn. Nạn
nhân thứ hai bị bắn khi nằm vắt ngang ngưỡng cửa - trên sàn cũng có một viên đạn.
Chúng buộc tên thứ ba mở két sắt. Chúng lấy tiền và ma túy, rồi giết hắn dưới lầu
để gửi lời nhắn cho bên cạnh tranh biết giờ đây ai là sếp.
- Tôi hiểu rồi, - Simon nói. - Còn mấy vỏ đạn?
Bjornstad cười nhanh.
- Tôi biết mà. Sherlock Holmes đã đánh hơi
thấy mối liên hệ với vụ án mạng Iversen.
- Không có vỏ đạn rỗng?
Asmund Bjornstad nhìn từ Simon qua Kari rồi
lại nhìn Simon. Thế rồi - với nụ cười hô biến của ảo thuật gia - anh ta lấy
trong túi áo khoác ra một túi nhựa. Anh ta cầm toòng teng trước mặt Simon. Túi
đựng hai vỏ đạn rỗng.
- Xin lỗi đã lật đổ giả thiết của ông, ông
bạn, - anh ta nói. - Vả lại, mấy lỗ đạn to trên người nạn nhân cho thấy đường
kính lớn hơn cái chúng tôi tìm thấy ở Agnete Iversen nhiều. Và thông tin này đã
kết thúc chuyến tham quan có hướng dẫn của các vị. Tôi hy vọng các vị thích.
- Tôi có ba câu hỏi thôi rồi chúng tôi sẽ
đi.
- Vậy thì bắt đầu đi, chánh thanh tra
Kefas.
- Anh tìm thấy mấy vỏ đạn rỗng ở đâu?
- Kế mấy cái xác.
- Vũ khí của nạn nhân đâu?
- Chúng không có vũ khí nào cả. Câu hỏi cuối
cùng?
- Ủy viên bảo anh nên có tinh thần hợp tác
và hướng dẫn chúng tôi tham quan?
Asmund Bjornstad cười.
- Thông qua sếp tôi ở Kripos, có lẽ vậy. Ta
luôn làm theo lời sếp bảo, đúng không?
- Phải, - Simon nói. - Nếu ta muốn thành
công thì đó là cái chúng ta làm. Cảm ơn vì chuyến tham quan.
Bjornstad ở lại trong phòng còn Kari đi
theo Simon. Cô dừng sau lưng ông khi Simon, thay vì đi thẳng vào thang máy, hỏi
mượn ông cảnh sát điều tra hiện trường có râu quai nón cây đèn pin rồi bước tới
lỗ đạn trên tường. Rọi đèn pin vào đó.
- Anh lấy viên đạn đi rồi hả, Nils?
- Chắc đó là lỗ cũ, chúng tôi không tìm thấy
viên đạn nào ở đấy, - Nils nói khi xem xét khoảng sàn nhà quanh cái xác bằng
kính lúp đơn sơ.
Simon ngồi xổm xuống, thấm ướt mấy đầu ngón
tay rồi quẹt lên khoảng sàn bên dưới lỗ đạn. Ông giơ mấy ngón tay lên cho Kari
xem. Cô thấy mấy hạt thạch cao li ti dính trên da ông.
- Cảm ơn đã cho dùng đèn pin, - Simon nói
và Nils nhìn lên, khẽ gật và cầm lấy đèn pin.
- Làm vậy là sao? - Kari hỏi khi cửa thang
máy đã khép lại trước mặt họ.
- Tôi cần một phút suy nghĩ rồi tôi sẽ cho
cô biết, - Simon nói.
Kari bực tức. Không phải vì cô nghi sếp
mình kín miệng, mà bởi cô không theo kịp ông. Không đủ sức theo kịp không phải
là chuyện cô quen. Cửa mở và cô bước ra. Cô quay lại nhìn Simon dò hỏi, ông vẫn
còn đứng trong thang máy.
- Cô làm ơn cho tôi mượn viên bi được
không? - ông hỏi.
Cô thở dài thò tay vào túi. Simon đặt viên
bi nhỏ màu vàng ngay giữa sàn thang máy. Mới đầu nó lăn chậm, rồi càng lúc càng
nhanh về phía trước thang máy và mất hút dưới khe hở giữa cửa trong và cửa
ngoài.
- Ối, - Simon nói. - Ta xuống tầng hầm tìm
đi.
- Nó đâu phải chỉ có một, - Kari nói. - Tôi
vẫn còn ở nhà.
- Tôi đâu có nói về viên bi.
Kari lại hấp tấp đi theo, vẫn sau ông hai
bước. Ít ra là vậy. Cô chợt có một ý nghĩ. Ý nghĩ về một việc làm khác cô đã có
thể chọn và ngay lúc này có thể đang làm. Lương cao hơn, độc lập hơn. Không có
những ông sếp gàn dở và những xác chết bốc mùi hôi thối. Nhưng rồi sẽ đến lúc
đó thôi; giờ thì vấn đề là trang bị cho mình lòng kiên nhẫn.
Họ tìm thấy cầu thang, hành lang tầng hầm
và cửa thang máy. Trái với mấy tầng trên đây là cửa kim loại đơn sơ có tấm kính
đốm. Ngang cửa có tấm bảng.
THANG MÁY SỬA CHỮA. TRÁNH XA.
Simon lắc lắc tay nắm. Đã khóa.
- Chạy lên lầu đến mấy phòng tập xem cô có tìm
được sợi dây cáp nào không, - Simon nói.
- Cáp loại...
- Gì cũng được, - ông nói và dựa vào tường.
Cô nhịn không phản đối và quay lại cầu
thang.
Hai phút sau cô quay lại cùng sợi cáp có
hai giắc cắm rồi nhìn Simon tháo phích cắm ra và xé phần nhựa quanh dây điện. Rồi
ông uốn sợi cáp thành hình chữ U và chuồi nó vào giữa cửa thang máy và khung
thang máy, chỗ ngang tầm tay nắm cửa. Họ nghe thấy một tiếng lách tách to, rồi
tia lửa bắn ra. Ông mở cửa.
- Chúa ơi, - Kari nói. - Ông học thứ đó ở
đâu vậy?
- Hồi còn bé tí tôi là siêu quậy mà, -
Simon nói, bẩy người xuống đáy đường thông thang máy thấp hơn sàn tầng hầm nửa
mét. Ông nhìn lên đường thông thang máy. - Nếu mà tôi không thành sĩ quan cảnh
sát...
- Chẳng phải chuyện này hơi mạo hiểm sao? -
Kari nói, cảm thấy chinh chích trên da đầu. - Thang máy tuột xuống thì sao?
Nhưng Simon đã bò lồm cồm và đưa hai tay
quét sàn bê tông.
- Ông có cần chút ánh sáng dưới đó không? -
cô hỏi, hy vọng ông không nghe thấy vẻ căng thẳng trong giọng cô.
- Lúc nào chả cần, - ông cười.
Kari buột miệng kêu lên khẽ khàng khi nghe
thấy một tiếng rầm nhỏ và thấy mấy sợi dây dày, dính dầu mỡ bắt đầu di chuyển.
Nhưng Simon đã lẹ làng đứng lên, ghì lòng bàn tay lên sàn tầng hầm và đu người
vào hành lang.
- Đi, - ông nói.
Cô gần như chạy theo ông lên cầu thang, qua
cửa thoát hiểm và băng qua khu vực rải sỏi.
- Chờ đã! - cô nói trước khi ông vào xe họ,
lúc này đang đậu giữa hai chiếc xe tải vô chủ. Simon dừng lại nhìn cô qua nóc
xe.
- Tôi biết, - ông nói.
- Ông biết gì?
- Là thật bực khi cộng sự của ta làm một
mình mà không cho ta biết đang có chuyện gì.
- Chính xác! Vậy khi nào thì ông...
- Nhưng tôi không phải cộng sự của cô, Kari
Adel, - Simon nói. - Tôi là sếp và người dìu dắt cô. Khi nào nó tới thì tới. Cô
hiểu không?
Cô nhìn ông. Thấy làn gió thổi phất phơ mái
tóc lưa thưa buồn cười trên da đầu bóng láng. Thấy tia rắn lạnh trong cái nhìn
của ông. Lúc khác nó luôn thân thiện.
- Hiểu, - cô nói.
- Cầm lấy cái này. - Ông xòe một tay ra ném
mấy cái gì đó qua nóc xe. Cô khum bàn tay chụp được cả hai. Cô nhìn. Một là
viên bi vàng. Cái kia là một vỏ đạn rỗng.
- Bằng cách đổi góc nhìn và vị trí ta có thể
phát hiện ra những thứ mới mẻ, - ông nói. - Ta có thể bù lại cho bất kỳ điểm mù
nào. Đi thôi.
Cô ngồi vào ghế bên, ông nổ máy và chạy qua
sỏi ra cổng. Cô vẫn im không nói gì. Chờ. Ông dừng nhìn hồi lâu và thật cẩn thận
cả hai bên rồi mới chạy ra đường, như mấy ông tài xế lớn tuổi, thận trọng quen
làm. Kari vẫn cho rằng đó là do mức testosterone thấp hơn. Nhưng giờ cô mới nhận
ra - gần như một hiểu biết sáng suốt mới mẻ - tính hợp lý được hình thành từ
kinh nghiệm.
- Ít nhất cũng có một viên bắn ra từ trong
thang máy, - ông nói và cho xe chạy vào sau một chiếc Volvo.
Cô vẫn không nói gì.
- Vậy cô phản đối điều gì?
- Nó không khớp với chứng cứ, - Kari nói. -
Chỉ có vỏn vẹn mấy viên đã giết chết nạn nhân và tìm được ngay dưới người
chúng. Khi bị bắn hẳn nạn nhân đã nằm trên sàn nhưng nếu bị bắn từ trong thang
máy thì điều đó không khớp với góc.
- Đúng, với lại, có vết thuốc súng cháy sém
trên da gã bị bắn vào đầu, và vết vải cháy nơi sơ mi quanh vết thương đạn gây
ra ở nạn nhân kia. Cái này gợi ra điều gì?
- Là chúng bị bắn ở cự ly gần khi đang nằm.
Điều đó khớp với mấy vỏ đạn rỗng tìm thấy bên cạnh chúng và lỗ đạn trên sàn.
- Đúng. Nhưng cô không thấy kỳ lạ khi hai
người ngã xuống sàn và rồi bị bắn?
- Có lẽ khi thấy súng chúng đâm sợ đến mức
hoảng loạn và vấp ngã. Hay chúng được lệnh nằm xuống trước khi bị hành quyết.
- Nghĩ khá đấy. Nhưng cô có nhận thấy gì
nơi vũng máu quanh cái xác gần thang máy nhất không?
- Là có rất nhiều máu?
- Phải. - Ông kéo dài giọng để cô biết vậy
vẫn chưa hết.
- Máu từ đầu nạn nhân tràn ra thành vũng, -
cô nói. - Điều đó nghĩa là sau khi bị bắn hắn không động đậy.
- Đúng, nhưng bên trên vũng máu, máu phun
thành tia. Như thể nó đã văng tung tóe. Nói cách khác, máu tràn ra lấp đi những
chỗ ban đầu máu phun ra từ đầu hắn. Và xét theo chiều dài và cự ly máu phun ra,
chắc hẳn khi bị bắn nạn nhân đã đứng thẳng. Đó là lý do Nils dùng kính lúp để
kiểm tra - ông ta không tìm được chứng cứ máu trùng khớp.
- Nhưng ông thì có?
- Phải, - Simon đáp. - Hung thủ bắn phát thứ
nhất từ bên trong thang máy. Viên đạn đi qua đầu nạn nhân và để lại cái lỗ cô
thấy trong tường. Trong khi vỏ đạn rơi xuống sàn thang máy...
- ... lăn theo sàn dốc, lọt xuống khe và xuống
ống thông thang máy?
- Ừ.
- Nhưng... viên đạn dưới ván sàn...
- Hung thủ bắn hắn lần nữa ở cự ly gần.
- Vết thương đi vào...
- Anh bạn của ta bên Kripos cho rằng hung
thủ đã dùng đạn có đường kính lớn hơn, nhưng nếu hiểu biết nhiều hơn về đạn đạo
học, anh ta đã nhận thấy rằng mấy vỏ đạn rỗng là từ đạn có đường kính nhỏ. Nên
vết thương đi vào lớn thật ra là hai vết thương nhỏ chồng lên nhau mà hung thủ
cố làm cho trông như một. Vì vậy mà hắn ta lấy đi viên đạn thứ nhất đã xoáy cái
lỗ trong tường.
- Vậy thì đó không phải lỗ đạn cũ như cảnh
sát điều tra hiện trường nghĩ, - Kari nói. - Vì vậy mà có bụi thạch cao còn mới
ngay dưới sàn.
Simon mỉm cười. Cô thấy ông hài lòng về cô.
Và cô ngạc nhiên khi thấy điều đó làm cô vui vẻ lên.
- Xem mô tả kiểu và số hiệu trên vỏ đạn đi.
Đó là kiểu đạn khác với cái ta tìm thấy ở tầng dưới. Điều đó nghĩa là phát súng
mà hung thủ bắn từ thang máy xuất phát từ một súng khác với cái sau đó hắn dùng
bắn nạn nhân. Tôi nghĩ đạn đạo học sẽ chứng minh được là chúng từ chính súng của
nạn nhân.
- Của chúng ư?
- Cái này đúng ra thuộc chuyên môn của cô,
Adel, nhưng tôi thấy khó mà tin có ba gã tay trơn trong một ổ ma túy. Hung thủ
lấy súng của chúng đi để ta không phát hiện được hắn đã dùng.
- Ông nói đúng.
- Tất nhiên vấn đề là, - Simon nói, chạy
nép vào sau một xe điện, - tại sao việc ta không tìm thấy viên đạn thứ nhất và
vỏ đạn rỗng lại quan trọng với hắn như vậy.
- Không phải đã hiển nhiên rồi sao? Dấu từ
kim hỏa sẽ cho ta số hiệu của súng và Phòng Đăng ký Vũ khí sẽ sớm dẫn ta tới...
- Sai. Xem phía sau vỏ đạn đi. Không có dấu.
Hắn dùng một súng xưa hơn.
- OK, - Kari nói, tự nhắc mình không bao giờ
dùng từ “hiển nhiên” nữa. - Vậy thì tôi không biết nó là gì. Nhưng tôi có linh
cảm mạnh mẽ là ông định cho tôi biết...
- Đúng, Adel. Vỏ đạn rỗng cô đang cầm cùng
kiểu với đạn dùng để bắn Agnete Iversen.
- Tôi hiểu rồi. Nhưng có phải ông muốn
nói...?
- Tôi tin hung thủ cố che đậy chuyện chính
hắn cũng đã sát hại Agnete Iversen, - Simon nói và dừng lại chờ đèn vàng đột ngột
đến mức ô tô sau ông bấm còi. - Lý do hắn nhặt vỏ đạn rỗng ở nhà Iversen không
phải như ban đầu tôi nghĩ là bởi nó có dấu từ kim hỏa. Đó là vì hắn đã lên kế
hoạch một vụ trừ khử thứ hai nên cố hết sức giảm thiểu rủi ro ta nối hai vụ với
nhau. Tôi dám chắc vỏ đạn rỗng ở nhà Iversen hung thủ đã lấy đi có cùng số hiệu
với cái cô đang có đây.
- Cùng kiểu đạn, nhưng đó là đạn rất thông
thường, đúng không?
- Đúng.
- Vậy điều gì khiến ông chắc chắn là có mối
liên hệ như vậy?
- Tôi không chắc, - Simon nói, nhìn chằm chằm
đèn giao thông như thể nó là bom hẹn giờ. - Nhưng chỉ có mười phần trăm dân số
thuận tay trái.
Cô gật. Cô thử tự lập luận. Chịu thua. Thở
dài.
- Cho qua, tôi lại chịu thua nữa rồi.
- Kalle Farrisen bị kẻ nào đó thuận tay
trái trói vào lò sưởi. Agnete Iversen bị kẻ nào đó thuận tay trái bắn.
- Tôi hiểu về cái đầu. Nhưng cái sau...
- Đáng lẽ tôi phải hiểu ra chuyện đó sớm
hơn nhiều. Góc từ cửa đến tường trong bếp. Nếu viên đạn giết chết Agnete
Iversen do hung thủ thuận tay phải bắn và từ chỗ ban đầu tôi tin, hắn đã đặt một
chân trên lối đi lát đá phiến nên sẽ có dấu một bên giày in trên đất mềm. Câu
trả lời là tất nhiên hắn đã đặt cả hai chân trên lối đi vì hắn bắn bằng tay
trái. Nghiệp vụ cảnh sát của tôi đúng là tệ thật.
- Để xem tôi đã hiểu đúng chuyện này chưa,
- Kari nói, hai tay chống cằm. - Có mối liên hệ giữa Agnete Iversen và ba nạn nhân
ở đây. Và hung thủ đã làm mọi cách cho chắc ta không phát hiện ra điều đó vì hắn
sợ chính nhờ mối liên hệ đó ta sẽ xác định được danh tính hắn.
- Tốt, sĩ quan Adel. Cô đã đổi góc nhìn và
vị trí, nên giờ cô thấy ra rồi.
Kari nghe thấy tiếng la ó giận dữ nên mở mắt
ra lại.
- Đèn xanh rồi kìa, - cô nói.
23
Trời không còn mưa lớn lắm nhưng Martha đã
kéo áo khoác lên che đầu nhìn Stig tìm chìa khóa mở tầng hầm. Tầng hầm, như nhà
xe, đầy những đồ vật cho thấy một lịch sử gia đình; ba lô, cọc dựng lều, một đôi
ủng đỏ mòn vẹt trông như đã dùng trong một môn thể thao nào đó, có lẽ là quyền
anh. Một cây búa tạ.
Một máy cắt cỏ điều khiển bằng tay đã được
thay bằng cái chạy bằng dầu trong nhà xe. Một tủ đông to hình chữ nhật. Những
ngăn kệ rộng có mấy chai nước ép và lọ mứt giăng kín mạng nhện, và một cây đinh
treo chiếc chìa khóa mà chữ đã mờ trên cái thẻ từng cho ta biết chìa khóa để
làm gì. Martha dừng lại bên hàng ván trượt tuyết, vài cái còn đóng bùn từ một
chuyến đi trượt tuyết dịp lễ Phục sinh. Một ván trượt tuyết, cái dài nhất và rộng
nhất, đã bị chẻ đôi.
Khi họ vào trong nhà, Martha nhận ra ngay
là đã nhiều năm rồi không ai sống ở đây. Có lẽ do cái mùi, bụi hay có thể là lớp
thời gian không thể nhìn thấy. Đến khi họ vào phòng khách thì giả thiết của cô
được khẳng định. Cô không thấy một đồ dùng nào được sản xuất trong thập kỷ qua.
- Để tôi pha cà phê, - Stig nói rồi đi vào
căn bếp ăn thông.
Martha nhìn mấy bức ảnh trên bệ lò sưởi.
Một bức ảnh cưới. Nét giống nhau, nhất là với
cô dâu, thật rõ rệt.
Một hình khác - có lẽ chụp vài năm sau đó -
cho thấy họ cùng với hai cặp nữa. Martha có cảm giác như cánh đàn ông mới là
cái gắn kết mấy cặp với nhau mà không phải cánh đàn bà. Ấy là vì những điểm
tương đồng nơi cánh đàn ông.
Dáng đứng hệt nhau, gần như làm dáng, nụ cười
tự tin, cách họ chiếm không gian, như ba người bạn - đều là những nhân vật chủ
chốt - thong thả vạch ra lãnh thổ của mỗi người. Ngang hàng, cô nghĩ.
Cô đi qua phòng bếp. Stig đang đứng xoay
lưng về phía cô, cúi tới tủ lạnh.
- Anh có tìm thấy cà phê gì không? - cô hỏi.
Anh quay lại, lẹ làng giật mẩu giấy nhớ
vàng nơi cửa tủ lạnh nhét vào túi quần.
- Có, - anh nói và mở tủ chén bên trên chậu
rửa. Anh đổ cà phê, cho nước vào bình pha cà phê và bật nút bằng những động tác
nhanh nhẹn, quen thuộc. Anh cởi áo khoác vắt trên lưng một cái ghế trong bếp.
Không phải ghế gần anh nhất, mà cái gần cửa sổ nhất. Ghế của anh.
- Anh từng sống ở đây, - Cô nói.
Anh gật.
- Anh trông giống mẹ thật.
Anh toét miệng cười.
- Mọi người từng nói vậy.
- Từng nói?
- Bố mẹ tôi không còn nữa.
- Anh có nhớ họ không?
Cô tức thì thấy được điều đó trên mặt anh.
Cái cách mà câu hỏi đơn giản, gần như bình thường này chạm trúng anh như miếng
bần nhét vào chỗ hở anh đã quên bịt kín. Anh chớp chớp và há miệng rồi ngậm lại,
như thể nỗi đau bất ngờ và thình lình đến mức anh không nói được nữa. Anh gật rồi
quay qua máy pha cà phê, chỉnh lại cái ấm như thể nó chưa ngay ngắn trên mặt lò
điện.
- Bố anh trong mấy tấm hình đó trông rất
gia trưởng.”
- Đúng là vậy.
- Theo kiểu tích cực?
Anh quay qua cô.
- Phải, theo kiểu tích cực. Ông quan tâm đến
mẹ con tôi.
Cô gật. Cô nghĩ về cha mẹ mình, ngược hẳn.
- Mà anh thì cần được quan tâm?
- Phải. - Anh nhoẻn cười. - Tôi cần được
quan tâm.
- Gì thế? Anh đang nghĩ về điều gì đó.
Anh nhún vai.
- Là gì vậy? - Cô hỏi lại.
- Ồ, tôi thấy cô nhìn tấm ván trượt tuyết
gãy.
- Nó thì sao?
Anh lơ đãng nhìn cà phê bắt đầu nhỏ tí tách
vào bình.
- Mỗi kỳ lễ Phục sinh chúng tôi vẫn lên
thăm ông trên Lesjaskog. Ở đó có một ngọn đồi trượt tuyết mà cha tôi giữ kỷ lục.
Trước đó ông tôi từng giữ kỷ lục. Tôi mười lăm tuổi và đã tập cả mùa đông để lập
kỷ lục mới. Có điều năm ấy lễ Phục sinh đến muộn, ôn hòa, và khi chúng tôi lên
nhà ông thì hầu như đã không còn tuyết ở chân đồi, nắng chói, cành cây và tảng
đá chìa ra lởm chởm. Dù vậy tôi vẫn phải thử.
Anh liếc nhanh về Martha, cô gật đầu khuyến
khích anh.
- Bố biết tôi muốn thử biết chừng nào,
nhưng ông can tôi, chuyện đó quá nguy hiểm. Nên tôi chỉ gật và thuyết phục được
một thằng bé ở trang trại bên cạnh làm chứng cho tôi và đo độ dài. Nó giúp tôi
rải thêm tuyết ở khu vực tôi định đáp xuống, thế rồi tôi chạy lên đỉnh đồi,
mang ván trượt mà bố tôi thừa hưởng từ ông nội, và xuất phát. Ngọn đồi trơn
không thể tin được, nhưng tôi xuất phát tốt. Thực sự thì quá tốt. Tôi cứ bay,
tôi cảm thấy như con đại bàng, tôi chẳng cần biết gì nữa cả vì nó đây rồi,
chính là nó, không gì có thể lớn lao hơn chuyện này. - Martha thấy mắt anh sáng
lên. - Tôi đáp xuống, xa hơn chỗ chúng tôi đã rải tuyết xấp xỉ bốn mét. Ván trượt
tuyết cắm vào bùn đặc và một tảng đá sắc nhọn chẻ đôi ván trượt bên phải như cắt
dọc trái chuối.
- Rồi chuyện gì xảy ra với anh?
- Tôi nhào xuống tuyết. Tôi cày một đường
xuống bùn tuyết rồi bay qua luôn.
Martha kinh hãi để tay lên xương đòn.
- Trời đất. Anh có bị thương không?
- Bầm tím. Tôi ướt sũng. Nhưng không bị gãy
gì. Mà dù có bị, có lẽ tôi cũng không nhận ra vì tôi chỉ nghĩ đến một chuyện, bố
sẽ nói sao? Tôi đã làm điều ông cấm. Tôi còn làm hỏng ván trượt tuyết của ông.
- Thế rồi bố anh nói sao?
- Ông không nói gì nhiều, ông chỉ hỏi tôi
nghĩ hình phạt thích đáng sẽ là gì.
- Rồi anh nói sao?
- Tôi nói ông cứ cấm túc tôi ba ngày. Nhưng
ông nói vì đang lễ Phục sinh, hai ngày là đủ. Khi bố mất rồi, mẹ kể là khi tôi
bị cấm túc, ông bảo thằng bé ở trang trại chỉ cho xem chỗ tôi đáp xuống và bắt
nó kể đi kể lại ông nghe câu chuyện. Và rằng lần nào ông cũng cười cho đến khi
khóc. Nhưng mẹ bắt bố hứa không nói tôi nghe, rằng điều đó chỉ khuyến khích tôi
làm thêm những chuyện điên rồ. Nên thay vì vậy ông đem cây ván trượt tuyết hỏng
về nhà lấy cớ là muốn sửa lại. Nhưng mẹ tôi nói đó chỉ là một cái cớ ngớ ngẩn,
rằng cái ván trượt gãy đôi là kỷ vật quý giá nhất của ông.
- Tôi xem lại được chứ?
Anh rót cà phê ra cho cả hai rồi họ cầm
tách xuống tầng hầm. Cô ngồi trên tủ đông nhìn anh khi anh cho cô xem ván trượt
tuyết. Một ván trượt tuyết trắng, nặng do Splitkein sản xuất có sáu rãnh ở mặt
dưới. Rồi cô nghĩ hôm nay thật kỳ lạ. Nắng và mưa rào. Biển chói lòa và tầng hầm
tối lạnh. Một người lạ mà cô cảm thấy như quen cả đời rồi. Rất xa xăm. Thật gần
gũi. Rất đúng. Rất sai...
- Vậy anh có đúng về cú nhảy không? - Cô hỏi.
- Có đúng là không còn gì lớn lao hơn không?
Anh nghiêng đầu đăm chiêu.
- Lần đầu tôi chích. Cái đó lớn lao hơn.
Cô đánh nhẹ gót giày vào tủ đông. Có lẽ cái
lạnh từ đó mà ra. Rồi cô chợt nhận ra có lẽ tủ đông vẫn đang cắm điện - một đốm
đèn đỏ sáng trưng giữa tay cầm và lỗ khóa tủ đông. Điều này có vẻ lạ bởi mọi thứ
khác trong nhà đều cho thấy nó bị bỏ hoang từ lâu.
- À, ít ra anh cũng đã lập kỷ lục mới, - cô
nói.
Anh lắc đầu mỉm cười.
- Chứ không à?
- Một cú nhảy sẽ không được tính nếu ta
ngã, Martha, - anh nói và nhấp một ngụm cà phê.
Và cô nghĩ dù đó không phải lần đầu cô nghe
anh gọi tên cô, có cảm giác như đó là lần đầu cô nghe thấy một ai đó gọi mình.
- Vậy nên anh phải tiếp tục nhảy. Vì con
trai so sánh mình với bố còn con gái thì với mẹ.
- Cô nghe vậy sao?
- Cậu con trai nào cũng tin một ngày kia họ
sẽ thành như bố, anh không nghĩ vậy sao? Vì vậy mà họ thật vỡ mộng khi những yếu
kém của bố bộc lộ; họ thấy thất bại của mình, những đại bại của chính mình
trong tương lai, đang chờ họ. Và đôi khi cú sốc tàn khốc đến mức khiến họ bỏ cuộc
khi còn chưa bắt đầu.
- Với cô thì có vậy không?
Martha nhún vai.
- Đúng ra mẹ tôi đã không ở lại làm vợ bố
tôi. Nhưng mẹ chọn cách thích ứng. Có lần tôi đã trách mẹ khi chúng tôi tranh
cãi về chuyện gì đó mẹ không muốn tôi làm, tôi thậm chí còn không nhớ là gì.
Tôi gào lên rằng không để tôi được hạnh phúc chỉ vì mẹ không cho mình hạnh phúc
thì thật không công bằng. Cả đời tôi chưa từng ân hận đến như vậy và tôi không
bao giờ quên cái nhìn đau đớn của mẹ khi đáp: “Vì mẹ có thể mất đi một thứ làm
mẹ hạnh phúc nhất. Con”.
Stig gật và nhìn ra cửa sổ tầng hầm.
- Đôi khi ta sai lầm khi tưởng mình biết sự
thật về bố mẹ. Có lẽ họ không yếu hèn. Có lẽ cái gì đó xảy ra đã cho ta ấn tượng
sai. Nếu họ mạnh mẽ thì sao? Nếu họ sẵn sàng để lại ô danh, để mình bị tước sạch
mọi danh dự, nhận chịu trách cứ, để cứu những người họ thương yêu? Và nếu họ mạnh
mẽ như vậy, có lẽ ta cũng mạnh mẽ.
Giọng anh thoáng run, gần như không thể nhận
thấy. Gần như Martha chờ đến khi anh quay lại nhìn cô rồi mới hỏi:
- Vậy ông ấy đã làm gì?
- Ai?
- Bố anh.
Cô thấy yết hầu của anh chạy lên chạy xuống.
Thấy anh chớp nhanh. Mím môi. Cô thấy anh muốn điều đó. Thấy anh nhìn khoảnh khắc
xuất phát đến gần hơn. Anh có thể tránh cú ngã ấy bằng cách ném mình qua một
bên.
- Bố ký lá thư tuyệt mệnh trước khi bị
chúng bắn, - Stig nói. - Để cứu mẹ con tôi.
Martha cảm thấy chóng mặt khi anh nói tiếp.
Có lẽ cô đã xô anh tới bên bờ vực thật, nhưng cô sẽ rơi xuống cùng anh. Và giờ
không còn đường quay lại khoảng thời gian mà cô có thể tẩy xóa điều mình vừa được
biết. Phải chăng bấy lâu nay trong thâm tâm cô đã biết điều này sẽ xảy ra? Có
phải cô đã muốn cú trượt cuồng điên này, cú rơi tự do này?
Cuối tuần đó Stig và mẹ đi tham dự vòng thi
đấu vật ở Lillehammer. Bố anh thường đi với họ, nhưng ông bảo cần ở nhà ông có
chút việc quan trọng phải làm. Stig đã thắng trong hạng cân của mình và khi họ
về đến nhà, anh chạy đến thư phòng để khoe với bố. Bố anh ngồi xoay lưng về
phía anh, đầu gục bên bàn.
Thoạt tiên Stig tưởng bố ngủ quên trong lúc
làm việc. Rồi anh thấy khẩu súng.
- Trước đó tôi chỉ thấy khẩu súng một lần.
Bố tôi thường ghi nhật ký trong thư phòng, một cuốn nhật ký đóng bìa da đen có
trang giấy vàng. Ngày tôi còn bé ông vẫn nói đó là lời xưng tội của ông. Tôi vẫn
nghĩ xưng tội là một từ nữa để chỉ việc viết, mãi cho đến khi tôi lên mười một
và thầy dạy môn tôn giáo bảo tôi xưng tội là kể cho người khác nghe tội lỗi của
mình. Hôm ấy đi học về, tôi lẻn vào thư phòng của bố và tìm được chìa khóa hộc
bàn - tôi biết ông cất nó ở đâu. Tôi muốn biết tội lỗi của bố tôi là gì. Tôi mở
khóa...
Martha hít một hơi như thể cô là người kể
chuyện.
- Nhưng không thấy cuốn nhật ký đâu. Thay
vào đó tôi thấy một khẩu súng lục đen, kiểu cũ. Tôi khóa hộc, bỏ chìa lại chỗ
cũ rồi lẻn ra. Và tôi thấy xấu hổ. Tôi đã cố rình mò bố mình, để lật tẩy ông.
Tôi chưa từng kể ai nghe và không bao giờ còn cố tình xem ông cất nhật ký ở
đâu. Nhưng khi tôi đứng sau lưng bố trong thư phòng cuối tuần ấy, chuyện đấy lại
về với tôi. Đó là sự trừng phạt cho điều tôi đã làm. Tôi để tay lên gáy đánh thức
ông. Không chỉ là ông không ấm, đó là cái lạnh, một kiểu cái chết cứng đờ, lạnh
như đá cẩm thạch toát ra từ xác ông. Và tôi biết đó là lỗi của tôi. Rồi tôi đọc
lá thư...
Martha nhìn sợi ven trên cổ anh khi anh kể
cô nghe mình đã đọc lá thư. Thấy mẹ đứng bên cửa. Anh kể cô nghe mới đầu anh định
xé lá thư đi, vờ như nó chưa từng tồn tại. Nhưng anh đã không thể làm vậy. Rồi
khi cảnh sát đến, anh đưa cho họ. Và nhìn họ anh biết họ cũng muốn xé vụn nó
đi. Ven lồi lên như anh là một ca sĩ non nớt. Hay ai đó không quen nói quá nhiều.
Mẹ anh bắt đầu uống thuốc trầm cảm bác sĩ
kê toa. Rồi tự ý dùng những viên khác nữa. Nhưng như bà thường nói, không có gì
hiệu nghiệm tuyệt vời hơn hay nhanh hơn rượu. Vậy nên bà bắt đầu uống. Vodka
thay cho bữa ăn sáng, bữa ăn trưa, bữa ăn tối. Anh đã cố chăm sóc bà, làm bà bỏ
thuốc và rượu. Để làm vậy anh phải bỏ đấu vật và các sinh hoạt ngoại khóa khác.
Thầy cô đến trước cửa nhà họ, bấm chuông hỏi tại sao anh, người vẫn thường đạt
điểm cao như vậy, lại trốn học, rồi anh đuổi họ về. Mẹ anh yếu đi, ngày một mất
thăng bằng và bắt đầu có ý định tự tử. Khi phát hiện ra ống tiêm giữa mớ thuốc
trong lúc dọn dẹp phòng ngủ của mẹ, anh mới mười sáu tuổi. Anh đã biết nó là
gì. Hay ít ra nó để làm gì. Anh đã cắm phập nó vào đùi mình và nó khiến mọi sự
đỡ hơn. Hôm sau anh xuống Plata mua cho mình gói đầu tiên. Sáu tháng sau anh đã
bán sạch những thứ đồ trong nhà dễ dàng đổi thành tiền và qua mặt chôm sạch của
người mẹ không còn tí khả năng tự vệ. Anh không thiết gì nữa cả nhất là bản
thân, nhưng anh cần tiền để tránh xa nỗi đau. Vì anh chưa đủ mười tám nên không
thể vào tù, anh bắt đầu trả tiền cho thói quen của mình bằng cách nhận tội các
vụ trộm cướp vặt mà phạm nhân lớn tuổi hơn bị cáo buộc. Khi anh lên mười tám và
những đề nghị như vậy đã hết nhẵn chỉ còn cái áp lực áp lực thường xuyên phải
kiếm ra tiền, ngày càng nặng nề hơn, anh đã bằng lòng nhận tội thế hai vụ án mạng
để đổi lại anh sẽ được cung cấp ma túy khi anh ngồi tù.
- Còn giờ anh đã chấp hành xong án tù? - Cô
hỏi.
Anh gật.
- Tất nhiên là vậy.
Cô tụt xuống tủ đông đi lại bên anh. Cô
không suy nghĩ, đã quá muộn. Cô đưa tay ra sờ sợi ven trên cổ anh. Anh nhìn cô
bằng đồng tử đen mở lớn như chiếm hết tròng đen. Rồi cô vòng tay quanh eo anh
còn anh quàng tay ôm vai cô, như hai vũ công không thể quyết xem ai sẽ bước trước.
Họ đứng như vậy một lát, rồi anh kéo cô lại gần. Anh nóng bừng, hẳn là anh bị
siết. Hay cô? Cô nhắm mắt, cảm thấy mũi và môi anh trên tóc mình.
- Ta lên nhà đi, - anh thì thầm. - Tôi có
cái này cho cô.
Họ quay lại bếp. Ngoài trời mưa đã tạnh.
Anh lấy gì đó trong túi áo khoác vắt trên ghế trong bếp.
- Cái này tặng cô.
Đôi hoa tai đẹp đến mức mới đầu nó khiến cô
không nói nên lời.
- Cô không thích sao?
- Nó lộng lẫy quá, Stig. Nhưng làm sao mà
anh... Anh lấy trộm sao?
Anh nhìn cô nghiêm trang không đáp.
- Tôi xin lỗi, Stig. - Ý nghĩ cô lẫn lộn và
mắt rưng rưng. - Tôi biết anh không còn dùng ma túy nữa, nhưng tôi thấy đôi hoa
tai từng thuộc về ai đó...
- Bà ấy không còn sống nữa, - Stig ngắt lời
cô. - Và cái gì đẹp đẽ thì phải dành cho người xinh đẹp đeo.
Martha chớp mắt bối rối. Rồi cô hiểu ra.
- Nó thuộc về... nó là... - Cô ngước nhìn
anh, mắt như nhòa lệ. - Của mẹ anh.
Cô nhắm mắt, cảm thấy hơi thở anh trên mặt.
Bàn tay anh trên má cô, cổ họng, cổ. Cô để bàn tay kia bên hông anh, muốn đẩy
anh ra. Kéo anh lại gần. Cô biết họ đã hôn nhau trong tưởng tượng từ lâu. Hàng
trăm lần là ít, từ phút đầu gặp nhau. Nhưng khi cuối cùng môi họ chạm nhau thì
thật khác biệt và một luồng điện chạy khắp người cô. Cô cứ nhắm mắt, cảm nhận
môi anh, thật mềm, hai bàn tay anh chuồi xuống ngang eo cô, hàm râu lún phún của
anh, mùi vị của anh. Cô muốn nó, muốn tất cả. Nhưng cái chạm cũng đã đánh thức
cô, giằng cô ra khỏi giấc mơ êm đềm cô đã để mình đắm vào bởi không có hệ lụy
nào. Mãi cho đến lúc này.
- Tôi không thể, - cô thì thầm giọng run
run. - Tôi phải đi rồi, Stig.
Anh buông cô ra và cô quay nhanh đi. Cô mở
cửa trước, nhưng dừng lại trước khi đi.
- Là lỗi nơi tôi, Stig. Ta không thể gặp
nhau thế này nữa. Anh hiểu không? Không bao giờ.
Cô khép cửa lại trước khi kịp nghe anh đáp.
Mặt trời đã len qua tầng mây và hơi nước bốc lên từ mặt đường nhựa đen loang
loáng. Cô bước ra cái nóng ẩm ướt.
Qua ống nhòm Markus thấy cô gái vội vã vào
nhà xe, khởi động chiếc Golf cũ họ đã cùng nhau chạy tới và chạy lùi ra, mui xe
vẫn hạ. Cô phóng xe nhanh đến mức cậu không sao tập trung vào cô cho rõ, nhưng
trông như cô đang khóc.
Rồi cậu lại hướng ống nhòm vào cửa sổ bếp.
Phóng gần. Người kia đang đứng đó nhìn theo cô. Hai tay siết lại, hàm nghiến chặt
và ven lồi lên bên thái dương như anh đang đau. Rồi tiếp đó Markus hiểu vì sao.
Anh con trai đưa hai tay ra, xòe lòng bàn tay áp lên kính cửa sổ. Cái gì đó lấp
lánh trong nắng. Đôi hoa tai. Nó cắm vào hai bên lòng bàn tay và hai dòng máu mảnh
rỉ xuống cổ tay.
24
Văn phòng lờ mờ. Ai đó đã tắt hết đèn khi
ra về, có lẽ tưởng mình là người sau cùng, và Simon vẫn để vậy, chiều hè vẫn
còn đủ sáng. Vả chăng ông đã có bàn phím dạ quang mới, nên ông còn chẳng cần bật
đèn đọc. Riêng cái tầng được dùng làm văn phòng của họ cũng đã tiêu thụ hết
250.000 kwh mỗi năm.
Nếu giảm xuống còn 200.000, rõ ràng họ sẽ
tiết kiệm đủ tiền để cho chạy thêm hai xe cảnh sát.
Ông loay hoay tìm hiểu trang web Bệnh viện
Howell. Hình ảnh của bệnh viện mắt này không giống với hầu hết các bệnh viện tư
của Mỹ, vốn giống khách sạn năm sao có bệnh nhân tươi cười, mấy bản chứng nhận
mê tơi còn bác sĩ phẫu thuật thì trông như ngôi sao điện ảnh và phi công. Bệnh
viện này chỉ trình bày dăm ba bức ảnh và thông tin chừng mực về khả năng chuyên
môn của dàn nhân viên, kết quả, mấy bài báo đăng trong các tạp chí danh giá và
các đề cử giải Nobel. Và quan trọng hơn cả: số phần trăm ca phẫu thuật thành
công của cái phác đồ điều trị Else cần. Con số là trên năm mươi - nhưng không
cao như ông mong đợi. Mặt khác, nó thấp đủ để ông tin. Trên trang web không liệt
kê giá. Nhưng ông chưa quên nó là thế nào. Nó đủ cao để ông tin tưởng.
Ông cảm thấy có thoáng động đậy trong bóng
tối. Đó là Kari.
- Tôi đã thử gọi cho ông ở nhà. Vợ ông nói
ông đang ở đây.
- Phải.
- Sao ông làm việc muộn vậy?
Simon nhún vai.
- Khi ta không thể về nhà cùng tin vui, đôi
khi ta nấn ná hết mức có thể.
- Ý ông là sao?
Simon lờ cô đi.
- Cô cần gì?
- Tôi đã làm như ông dặn, đủ mọi cách, tìm
mọi mối liên hệ có thể và không thể giữa vụ giết Iversen và vụ giết ba mạng người.
Tôi không tìm ra một thứ gì cả.
- Tất nhiên cô đã nhận ra là điều đó không
loại trừ chuyện có mối liên hệ, - Simon nói và chuyển sang trang khác trên
trang web.
Kari kéo ghế ngồi xuống.
- À, nếu có thì dứt khoát tôi cũng không
tìm ra. Mà tôi đã xem rất kỹ. Nên tôi nghĩ...
- Ta cứ thích nghĩ.
- Có lẽ nó đơn giản là thế này: tên trộm
phát hiện hai khả năng - nhà Iversen và địa điểm có ma túy và tiền. Hắn cũng đã
học được từ vụ cướp đầu là ta phải luôn khiến thiên hạ đưa mật mã két sắt rồi mới
giết.
Simon ngước lên khỏi máy tính.
- Một tên cướp, đã bắn hai mạng người, phí
phạm nửa ký siêu nhóc trị giá chợ đen là nửa triệu krone để giết nạn nhân thứ
ba?
- Bjornstad cho rằng chuyện đó có liên quan
đến băng nhóm, một cách gửi thông điệp cho bọn cạnh tranh.
- Mấy băng nhóm có thể gửi lời nhắn cho
nhau mà không chi nửa triệu cho bưu phí, sĩ quan Adel à.
Kari ngửa đầu ra sau thở dài.
- Dứt khoát là Agnete Iversen không dính
líu gì đến buôn ma túy và hạng người như Kalle Farrisen, tôi nghĩ ta có thể chắc
chắn điều đó.
- Nhưng có mối liên hệ, - Simon khăng
khăng. - Điều tôi không hiểu là giờ khi ta đã phát hiện ra cái hắn cố che đậy rồi,
tức là việc có mối liên hệ, ta vẫn không xác định được mối liên hệ đó là gì. Nếu
mối liên hệ quả thực khó hiểu như vậy thì sao phải nhọc công che giấu chuyện
hai vụ án cùng một hung thủ?
- Có lẽ hắn dàn dựng vậy không nhằm làm khó
cho ta, - Kari ngáp.
Cô vội ngậm miệng khi thấy Simon trố mắt
nhìn.
- Tất nhiên. Cô nói đúng.
- Thật sao?
Simon đứng lên. Rồi lại ngồi xuống. Ông đập
lòng bàn tay xuống bàn.
- Hắn không lo chuyện cảnh sát biết được
danh tính hắn. Cái này là vì người khác.
- Hắn sợ ai khác sẽ truy tìm hắn?
- Phải. Cũng có thể hắn không muốn đánh động
cho chúng biết sự hiện diện của mình. Nhưng đồng thời... - Simon khum bàn tay
che cằm và lầm bầm chửi thề.
- Đồng thời gì... ?
- Còn phức tạp hơn vậy. Vì hắn không che giấu
hẳn. Giết Kalle theo cách ấy là gửi cho ai đó một thông điệp. - Simon bực tức
đá chân vào cái ghế ngả ra sau.
Họ ngồi, không nói lời nào và không nhận thấy
bóng tối đang thẫm dần xung quanh. Simon phá tan sự im lặng trước.
- Tôi nghĩ rằng mạng sống của Kalle kết
thúc cùng cách với một số khách hàng của hắn. Không thở được sau khi bị thuốc
quá liều. Như thể sát thủ là một kiểu thiên sứ báo thù. Chuyện đó nghe có quen
không?
Kari lắc đầu.
- Chỉ có điều hình như Agnete Iversen không
bị hành quyết theo cùng logic đó, theo chỗ tôi biết thì bà ta chưa từng bắn vào
ngực ai.
Simon đứng lên. Bước tới cửa sổ nhìn xuống
đèn đường. Một tiếng rầm rập từ bánh xe hai ván trượt vọng lên. Hai gã con
trai, cả hai mặc áo có mũ trùm, lướt ngang bên dưới ông.
- Ôi tôi quên mất, - Kari nói. - Tôi cũng
có tìm được một mối liên hệ. Giữa Per Vollan và Kalle Farrisen.
- Mà sao?
- Tôi đã nói chuyện với một cảnh sát điều
tra tội phạm cũ bên Đội Bài trừ Ma túy. Anh ta nói anh ta nghĩ thật kỳ lạ vì
hai người biết rõ nhau như vậy lại chết cách nhau một khoảng thời gian rất ngắn.
- Vollan biết Farrisen?
- Phải. Rõ. Rất rõ, theo cảnh sát điều tra
của tôi. Còn một chuyện nữa. Tôi đã kiểm tra hồ sơ của Kalle. Hắn bị thẩm vấn
nhiều lần trong một vụ điều tra án mạng vài năm trước, hắn thậm chí còn bị tạm
giam. Chưa bao giờ xác định được danh tính nạn nhân.
- Chưa bao giờ sao?
- Bọn tôi chỉ biết cô ta là một thiếu nữ
châu Á trẻ. Phân tích nha khoa đưa ra giả thiết là cô ta mười sáu tuổi. Một
nhân chứng thấy có người cầm ống chích tiêm cho cô ta ở sân sau. Nhân chứng đã
nhận ra mặt Kalle trong hàng người nhận diện ở cảnh sát.
- A ha.
- Nhưng Kalle được thả khi có người khác
thú tội.
- Gã may mắn.
- Phải. Nhân thể, gã nhận tội vụ án mạng
này cũng là người vừa trốn khỏi nhà tù Staten.
Kari nhìn dáng Simon im lìm trước cửa sổ.
Cô thắc mắc không biết ông có nghe mình nói không; cô định nhắc lại thì cái giọng
khàn khàn, dỗ dành như một người cha vang lên:
- Kari?
- Vâng?
- Tôi muốn cô kiểm tra toàn bộ mọi khía cạnh
đời sống của Agnete Iversen. Xem có bất cứ thứ gì tựa như là một phát súng bất
cứ đâu gần bà ta hay không. Bất cứ gì - cô hiểu không?
- Chắc chắn rồi. Ông đang nghĩ gì?
- Tôi đang nghĩ... - âm sắc dỗ dành trong
giọng ông đã mất, - là nếu... nếu... thì...
- Thì sao?
- Thì chuyện này chỉ mới bắt đầu.
25
Markus đã tắt đèn trong phòng ngủ. Theo dõi
người khác khi biết họ không nhìn thấy ta là một cảm giác kỳ lạ. Dù là vậy, một
cú choáng như điện giật lan khắp người cậu mỗi khi Người Con Trai nhìn ra cửa sổ
thẳng vào ống nhòm của Markus. Gần như thể anh biết có kẻ đang nhìn trộm. Lúc
này Người Con Trai đang ở trong phòng ngủ của cha mẹ, anh ngồi trên rương đựng
chăn màu hồng mà Markus biết không có gì ngoài vài tấm chăn lông và tấm trải.
Căn phòng không giăng rèm thắp một ngọn đèn trần có bốn bóng nên dễ thấy bên
trong. Và vì ngôi nhà vàng nằm ở tầm thấp hơn nhà của Markus, cậu lại đang ngồi
ở tầng trên của cái giường tầng mà cậu đã kéo lại gần cửa sổ, cậu có thể thấy
được Người Con Trai đang làm gì. Mà không có gì nhiều; anh đã ngồi đó một lúc
lâu, tai nghe cắm vào điện thoại, nghe gì đó. Hẳn đó là một bản nhạc hay vì cứ
ba phút anh lại bấm điện thoại lần nữa như thể nghe thế nào cũng vẫn chưa đủ.
Và mỗi lần đến đúng một chỗ đó anh lại mỉm cười, dù có lẽ anh cảm thấy hơi buồn
vì cô gái đó. Họ đã hôn nhau, thế rồi cô ùa chạy đi thật nhanh. Tội nghiệp anh
chàng. Markus phân vân không biết có nên qua gõ cửa. Hỏi Người Con Trai xem anh
có muốn qua nhà họ ăn tối không. Có lẽ mẹ cậu sẽ nghĩ chuyện đó tử tế. Nhưng
Người Con Trai trông buồn, nên ắt anh không muốn bầu bạn. Bao giờ cũng còn ngày
mai mà. Markus sẽ dậy sớm, qua bấm chuông cửa, mang cho anh vài lát bánh mì
nóng. Phải, đó là điều cậu sẽ làm. Markus ngáp. Và trong đầu cậu cũng đang chơi
một bản nhạc. À không, không hẳn là bản nhạc, nó chỉ là một câu. Nhưng nó cứ
quay đi quay lại trong đầu cậu. Từ khi thằng du côn ở Tasen hỏi Người Con Trai
có phải anh là cha Markus không. “Có lẽ vậy”.
Có lẽ vậy. Chà!
Markus lại ngáp. Đến giờ đi ngủ rồi. Suy
cho cùng, sáng mai cậu sẽ dậy sớm để nướng mấy lát bánh. Nhưng lúc cậu định hạ ống
nhòm xuống thì có chuyện xảy ra. Người Con Trai đã đứng lên. Markus lại ghì ống
nhòm vào mắt. Người Con Trai đã dời tấm thảm và nhấc tấm ván rời ra. Chỗ giấu đồ.
Anh đang bỏ gì đó vào chỗ giấu. Đó là túi thể thao đỏ. Anh mở nó. Lấy ra một
túi bột trắng. Markus biết ngay đó là gì, cậu đã thấy mấy gói như vậy trên TV.
Ma túy. Thình lình Người Con Trai ngẩng đầu lên. Trông như anh đang nghe ngóng,
anh dỏng tai như con linh dương bên vũng nước trên kênh Thế giới động vật. Còn
giờ thì Markus cũng nghe thấy. Tiếng động cơ từ xa xa. Một chiếc xe. Phố cậu
không có nhiều xe lúc đêm hôm khuya khoắt thế này trong kỳ nghỉ hè. Người Con
Trai ngồi im phắc như bị tê liệt rồi. Markus thấy đèn pha quét sáng mặt đường
nhựa. Một chiếc xe to, màu đen người ta gọi là SUV, dừng lại dưới cột đèn đường
giữa hai nhà họ. Hai người đàn ông bước ra. Markus chăm chú nhìn họ qua ống
nhòm. Cả hai đều mặc com lê đen. Điệp viên áo đen. Người thứ hai trông nổi bật
hơn. Nhưng người nhỏ con hơn thì có mái tóc vàng thật khủng khiếp. Người cao
hơn có mái tóc đen, quăn hệt như Will Smith, nhưng hắn ta có một mảng hói to tướng
còn da thì trắng như phấn. Markus quan sát bọn họ vuốt thẳng com lê và nhìn
ngôi nhà vàng. Người hói chỉ về cửa sổ phòng ngủ sáng đèn rồi bọn họ lẹ làng bước
tới cổng. Cuối cùng thì Người Con Trai cũng có vài người khách!
Cũng như Markus, bọn họ nhảy phóc qua hàng
rào thay vì đi qua cổng. Và như cậu, bọn họ đã nhận ra là bước qua bãi cỏ thì đỡ
gây tiếng động hơn lối đi rải sỏi nhiều. Markus lại lia ống nhòm qua phòng ngủ.
Người Con Trai đã đâu mất. Có lẽ anh cũng đã thấy bọn họ nên xuống nhà mở cửa
cho khách vào. Markus nhắm ống nhòm vào cửa trước thì thấy hai người đàn ông đã
bước lên thềm. Tối quá Markus không thể thấy chính xác chuyện xảy ra. Nhưng cậu
nghe có gì đó đập mạnh rồi cửa mở ra. Markus nín thở.
Bọn họ... bọn họ đã phá cửa vào. Chúng là trộm!
Chắc là có kẻ cho chúng biết ngôi nhà bỏ
hoang. Dẫu có thế nào cậu cũng phải báo cho Người Con Trai biết - nếu chúng
nguy hiểm thì sao?! Markus nhảy thót xuống giường. Cậu có nên đánh thức mẹ dậy
không? Gọi cho cảnh sát? Rồi nói gì chứ? Rằng cậu đang dùng ống nhòm nhìn trộm
hàng xóm sao? Và nếu họ đến rắc bột để lấy dấu tay tìm bọn trộm, họ sẽ thấy dấu
tay của cậu, của Markus! Rồi ma túy của Người Con Trai và anh sẽ phải vào tù.
Markus đứng giữa phòng; cậu không biết nên làm gì. Rồi cậu phát hiện có động đậy
trong phòng ngủ bên kia đường. Cậu lại đưa ống nhòm lên. Là hai tên đó, chúng
đang ở trong phòng ngủ. Chúng đang tìm thứ gì đó. Trong tủ áo, dưới giường.
Chúng... chúng có súng! Theo bản năng Markus lùi lại một bước khi tên cao lớn
tóc quăn đi lại cửa sổ kiểm tra xem cửa đã đóng chưa và chằm chằm nhìn ra, ngay
vào Markus. Hẳn Người Con Trai cũng nấp rồi, nhưng ở đâu? Có vẻ như anh đã bỏ
túi xách có ma túy vào lại chỗ giấu, nhưng nó không đủ lớn cho một người. Ha!
Chúng sẽ không bao giờ tìm ra Người Con Trai, anh biết nhà mình rõ hơn chúng
nhiều cũng như du kích Việt Nam rành rẽ rừng già hơn người Mỹ. Anh chỉ cần im
phăng phắc, như Markus vẫn làm. Người Con Trai sẽ ổn cả thôi. Anh phải ổn! Lạy
Chúa, xin phù hộ cho anh ấy không sao.
* * *
Sylvester vừa liếc quanh phòng ngủ vừa gãi
gãi mảng hói hình lưỡi liềm giữa mấy lọn tóc đen.
- Khốn kiếp, Bo, chắc hắn đã ở đây! Tao chắc
chắn hôm qua không thấy cửa sổ nào sáng đèn cả. - Hắn ngồi phịch xuống rương đựng
chăn màu hồng, đút súng vào bao súng bên vai và châm điếu thuốc.
Tên tóc vàng nhỏ con đứng giữa phòng, tay vẫn
cầm súng.
- Tao có linh cảm hắn đâu đó trong đây
thôi.
Sylvester huơ điếu thuốc.
- Bình tĩnh đi, hắn đã ở đây và đi rồi. Tao
đã kiểm tra cả hai nhà vệ sinh và phòng ngủ kia.
Gã tóc vàng lắc đầu.
- Không, hắn đâu đó trong nhà này.
- Bỏ đi, Bo, hắn đâu phải ma, chỉ là thằng
tay mơ gặp may thôi. Cho đến lúc này.
- Có lẽ mày nói đúng. Nhưng tao chưa từng
đánh giá thấp con trai của Ab Lofthus.
- Tao có phải biết đó là ai không?
- Trước thời mày, Sylvester. Ab Lofthus là
tay cớm khó nhằn nhất thành phố, trong cả dặm.
- Sao mày biết được?
- Vì tao đã gặp gã ta rồi, thằng đần ạ. Hồi
thập niên 90 tao với Nestor đang lúc làm một vụ ở Alnabru thì Lofthus cùng một
tên cớm nữa tình cờ chạy xe qua. Lofthus biết ngay là chúng đang bắt quả tang một
vụ buôn ma túy, nhưng thay vì gọi yểm trợ, gã và đồng nghiệp cố bắt bọn tao tại
trận. Ab Lofthus đơn thương độc mã đánh tơi tả bốn đứa tao rồi tụi tao mới xoay
xở hạ đo ván được gã. Mà chẳng dễ dàng gì, để tao cho mày biết - gã này là dân
đấu vật. Bọn tao định bắn chết gã tại chỗ, nhưng Nestor chùn bước, sợ làm đổ
máu cớm sẽ bất lợi cho công chuyện làm ăn. Rồi khi bọn tao đang tranh cãi chuyện
đó thì gã nằm đó gào lên “Nhào vô đi!” như kỵ sĩ ảo tưởng trong Monty Python -
mày còn nhớ không? Người ta chặt tay chặt chân hắn ra vậy mà hắn vẫn không chịu
thua.
Bo cười. Như mày cười cợt một ký ức quý
giá, Sylvester nghĩ. Gã này bệnh hoạn, gã thích chết chóc và tùng xẻo và thường
nằm ườn trên trường kỷ xem hết một lèo bộ Ridiculousness trên web vì nó có cảnh
người ta tự hành hạ mình, không phải mấy video khôi hài mà thiên hạ vấp té hay
trật ngón tay để làm cả gia đình cùng cười.
- Tao tưởng mày nói bọn chúng có hai người,
- Sylvester cãi.
Bo khịt mũi.
- Cộng sự của gã rút lui ngay. Vui vẻ hợp
tác, quỳ xuống cầu xin rủ lòng thương, mày biết hạng người đó mà.
- Ừ, - Sylvester nói. - Đồ thua cuộc.
- Không đâu, - Bo nói. - Kẻ thắng cuộc. Đó
gọi là trí tuệ cảm xúc. Và chiến lược của gã đó đưa gã đi xa hơn mày tưởng.
Nhưng đủ rồi đó. Ta kiểm tra căn nhà lần nữa đi.
Sylvester nhún vai và gần như đã ra khỏi cửa
thì nhận ra Bo không đi theo. Hắn quay lại nhìn đồng bọn vẫn đứng yên, nhìn chằm
chằm chỗ Sylvester vừa đứng. Nhìn cái nắp rương đựng chăn. Bo đưa ngón tay lên
miệng và chỉ cái rương. Sylvester rút súng ra bật chốt an toàn qua một bên. Hắn
cảm thấy các giác quan tinh nhạy hơn; ánh sáng mạnh hơn, âm thanh mãnh liệt và
mạch đập rần rật nơi cổ. Không một tiếng động, Bo dịch sang trái rương để
Sylvester cũng có đường bắn thoáng. Hai tay Sylvester nắm quanh báng súng và hắn
tiến lại gần Bo ra hiệu là hắn sẽ mở cái nắp. Sylvester gật.
Hắn nín thở khi Bo - súng lúc nhắm vào
rương đựng chăn để mấy đầu ngón tay trái dưới gờ nắp. Chờ một giây, nghe ngóng.
Rồi lật nắp ra.
Sylvester cảm thấy sức cản từ cò súng trên
ngón trỏ.
- Chó chết! - Bo rít lên.
Ngoài khăn trải giường ra thì cái rương trống
không.
Bo với Sylvester cùng lục soát mấy phòng
khác, bật tắt đèn, nhưng không tìm thấy gì. Cuối cùng chúng quay lại phòng ngủ,
mọi thứ vẫn còn như khi chúng bỏ đi.
- Mày sai rồi, - Sylvester nói, từng tiếng
rõ ràng chậm rãi vì hắn biết chính xác nó sẽ làm Bo giận dữ thế nào. - Hắn đi rồi.
Bo uốn vai như thể bộ com lê không vừa.
- Nếu thằng này đi rồi, nhưng để mở đèn, có
nghĩa là hắn định quay lại. Nên nếu ta nấp sẵn đâu đó chờ hắn quay lại, việc của
ta sẽ dễ dàng hơn là phải cố đột nhập vào.
- Có thể. - Sylvester nói. Hắn biết chuyện
này đang dẫn tới đâu.
- Nestor muốn bọn mình tóm hắn càng sớm
càng tốt. Hắn có thể gây ra rất nhiều tổn thất, mày biết đó.
- Ừ, phải đấy, - Sylvester cau có.
- Vậy nên tối nay mày ở lại đây phòng khi hắn
quay lại.
- Sao bao giờ tao cũng phải lãnh những việc
chó chết?
- Câu trả lời bắt đầu bằng chữ Đ.
Đàn anh. Sylvester thở sượt. Hắn ước gì có
ai bắn chết thằng Bo đi để hắn có cộng sự mới. Một thằng ít kẻ cả hơn.
- Tao khuyên mày chờ trong phòng khách để
thấy được cả cửa trước lẫn cửa tầng hầm, - Bo nói. - Kết liễu gã này sẽ không dễ
dàng như lão cha tuyên úy đó.
- Tao nghe mày nói câu này rồi, không phải
nhắc lại, - Sylvester nói.
* * *
Markus thấy hai gã đàn ông ra khỏi phòng ngủ
sáng đèn rồi ít lâu sau gã nhỏ con tóc vàng rời ngôi nhà, lên chiếc SUV chạy
đi. Người Con Trai vẫn còn đâu đó trong nhà, nhưng đâu mới được? Có lẽ anh đã
nghe tiếng xe nổ máy chạy đi, nhưng anh có biết là một trong hai tên vẫn còn ở
trong nhà không?
Markus chĩa ống nhòm vào mấy ô cửa sổ tối,
nhưng cậu không thấy được gì. Có thể Người Con Trai đã lẻn ra sau nhà trốn đi rồi,
nhưng Markus không nghĩ vậy; cậu đã ngồi bên cửa sổ nghe ngóng, cậu phải nghe
thấy gì đó.
Markus cảm thấy có động đậy nên hướng ống
nhòm vào phòng ngủ, vẫn là nơi duy nhất trong nhà sáng đèn. Và thấy rằng cậu
đúng.
Chiếc giường. Nó đang xê dịch. Hay đúng hơn
là tấm nệm. Nó bị đẩy lên dịch qua một bên. Và anh kia rồi. Anh đã nấp giữa vạt
giường và tấm nệm đôi lớn dày Markus vẫn thích nằm lên. Cũng vì Người Con Trai
gầy nhom; anh mà béo như mẹ Markus sợ một ngày cậu sẽ vậy, chúng đã thấy anh rồi.
Người Con Trai rón rén đi tới tấm ván sàn rời, nhấc lên rồi lấy gì đó trong túi
thể thao đỏ. Markus phóng gần lại. Tập trung vào. Và há hốc.
* * *
Sylvester đã đặt ghế bành sao cho thấy được
cửa trước và cổng bên ngoài. Cổng được ngọn đèn đường soi sáng, nhưng nếu có ai
đến thì hắn sẽ nghe thấy từ trước; hắn biết điều đó do tiếng sỏi lạo xạo khi Bo
đi.
Đêm nay có thể sẽ dài nên hắn cần nghĩ ra
thứ gì giúp hắn tỉnh táo. Hắn thử kiếm nơi giá sách và tìm thấy cái hắn cần:
album ảnh gia đình. Hắn bật ngọn đèn đọc và chỉnh chụp đèn để từ ngoài không thấy
được ánh sáng. Rồi hắn lật xem hình. Họ trông như một gia đình hạnh phúc. Khác
biết bao với gia đình hắn. Có lẽ điều này giải thích chuyện hắn bị ám ảnh về
hình chụp của người khác. Hắn thích xem họ rồi cố hình dung xem thế nào. Hắn biết
mấy ảnh gia đình này không nói lên hết sự thật, hiển nhiên rồi, nhưng chắc hẳn
chúng nói một sự thật. Sylvester dừng ở một tấm hình ba người, có lẽ chụp vào kỳ
nghỉ lễ Phục sinh. Tươi cười và rám nắng, họ đứng trước một tháp đá. Người đàn
bà đứng giữa; dựa theo mấy hình khác thì Sylvester cho rằng bà là người mẹ. Bên
trái bà là người cha, gã Ab Lofthus. Còn bên phải ông ta, một người đàn ông đeo
kính không gọng. “Nhóm tam hùng và tôi trong một chuyến đi. Người chụp: Người Lặn”,
lời chú thích bằng chữ viết tay đầy nữ tính bên dưới. Sylvester ngẩng nhìn lên.
Có phải hắn vừa nghe thấy gì đó? Hắn nhìn ra cổng bên ngoài. Ở đó không có ai.
Tiếng động cũng không phát ra từ cửa trước hay cửa tầng hầm. Nhưng có gì đó
khang khác, sự dày đặc trong không khí, cái gì đó có thực trong bóng tối. Bóng
tối. Hắn vẫn sờ sợ bóng tối, tác nhân không ai khác chính là cha hắn. Sylvester
lại chăm chú nhìn bức hình. Xem họ trông hạnh phúc ra sao. Ai cũng biết ta
không nên sợ bóng sợ gió.
Tiếng động nghe như vừa phát ra từ thắt
lưng của ông bố.
Sylvester nhìn chằm chằm bức hình.
Giờ nó lấm tấm máu và có một lỗ đi xuyên
qua album. Cái gì đó trăng trắng bay lơ lửng xuống rồi dính vào máu. Một cọng
lông vũ? Hẳn nó từ tấm bọc ghế. Sylvester nghĩ chắc mình bị sốc vì không cảm thấy
đau. Vẫn chưa. Hắn nhìn khẩu súng của mình đã tuột xuống sàn ngoài tầm với. Hắn
chờ phát súng tiếp theo, nhưng không thấy. Có lẽ gã đó tưởng đã giết chết hắn rồi.
Nếu vậy thì hắn vẫn còn một cơ hội, miễn là hắn giả chết.
Sylvester nhắm mắt, nghe thấy gã thanh niên
bước vào nên nín thở. Cảm thấy một bàn tay trên ngực lục soát áo khoác, tìm được
cái ví có bằng lái của hắn và lấy đi. Hai cánh tay ôm lấy thắt lưng hắn, kéo hắn
khỏi ghế và thảy lên vai; rồi gã thanh niên cất bước. Hẳn gã ta mạnh lắm.
Hắn nghe tiếng cửa mở, một ngọn đèn bật
lên, bước chân loạng choạng xuống cầu thang, và cảm thấy không khí lạnh buốt. Hắn
đang được khiêng xuống tầng hầm.
Giờ họ đã ở nhà dưới. Có tiếng mấy cái khóa
nhựa bung ra. Rồi Sylvester đổ vật xuống, nhưng cú rơi êm hơn hắn sợ nhiều. Hắn
cảm thấy áp suất trong tai và xung quanh tối hơn. Hắn mở mắt ra. Tối như bưng.
Hắn không thấy được gì, hắn đang nằm trong một loại thùng nào đó. Bóng tối thì
chẳng gì phải sợ. Không có quỷ sứ. Hắn nghe thấy tiếng chân kéo lê tới rồi lui
cho đến khi nhỏ dần. Cửa tầng hầm đóng sầm lại. Hắn một mình; gã thanh niên đã
không nhận thấy có gì bất ổn. Giờ thì vấn đề chỉ là giữ bình tĩnh, không làm gì
nóng vội. Chờ đến khi gã thanh niên đã đi ngủ. Bấy giờ hắn có thể bỏ trốn. Hay
gọi cho Bo bảo gã cùng đồng bọn đến đón hắn và giết tên này. Điều kỳ lạ là hắn
vẫn không cảm thấy đau gì lắm, chỉ có máu ấm nhỏ xuống bàn tay. Nhưng hắn thấy
lạnh. Lạnh cóng. Sylvester thử nhúc nhích hai giò để xoay người thành tư thế hắn
với lấy điện thoại được, nhưng không thể, chắc hai giò hắn ngủ gục mất rồi. Hắn
xoay xở đút tay vào túi áo khoác rút điện thoại ra. Hắn bấm và màn hình soi
sáng bóng tối.
Sylvester nín thở.
Con quái vật ngay trước mặt hắn, nhìn hắn
chằm chằm bằng cặp mắt lồi bên trên cái miệng há ra và hàm răng sắc nhọn nhỏ
xíu.
Có lẽ là một con cá tuyết. Bọc trong giấy
ni lông. Quanh nó là vài túi ni lông gói thực phẩm, một số hộp hải sản Frionor,
phi lê gà, giò heo, dâu. Ánh sáng từ điện thoại hắt lên những nhũ đá trên mấy
vách trắng toát bao quanh hắn. Hắn đang ở trong một tủ đông.
* * *
Markus nhìn chăm chăm lên căn nhà và đếm từng
giây.
Cậu đã mở cửa sổ, nghe thấy tiếng đoàng bên
trong và thấy có ánh sáng lóe lên từ phòng khách. Rồi bốn bề lại im lìm.
Markus tin chắc đó là tiếng súng, nhưng ai
bắn?
Lạy Chúa, xin hãy để đó là Người Con Trai.
Xin đừng để anh là người bị bắn.
Markus đếm đến một trăm thì thấy cửa vào
phòng ngủ mở. Tạ ơn ngài, Chúa ơi, tạ ơn ngài; là anh ấy!
Người Con Trai cất súng vào túi thể thao, dỡ
tấm ván sàn rời rồi bắt đầu bỏ mấy gói ni lông chứa bột trắng vào túi. Xong
xuôi, anh vắt túi xách qua vai và ra khỏi phòng mà không tắt đèn.
Lát sau cửa trước đóng sầm rồi Markus thấy
Người Con Trai bước ra cổng. Dừng, nhìn hai bên rồi mất hút cuối đường theo hướng
ban đầu Markus thấy anh tới.
Markus nằm lăn ra giường. Nhìn chăm chăm
lên trần nhà. Anh ấy còn sống! Anh đã bắn bọn xấu! Vì... chúng phải là kẻ bất
lương, đúng không nào? Đương nhiên là vậy rồi. Markus hào hứng đến mức cậu biết
tối nay mình sẽ không tài nào chợp mắt.
* * *
Sylvester nghe cửa trước đóng sầm. Tủ đông
được cách âm quá tốt nên hắn không nghe được gì nhiều, nhưng cửa đóng mạnh đến
mức hắn cảm nhận được độ rung. Cuối cùng thì cũng đã đi rồi. Dĩ nhiên điện thoại
hắn không gửi hay nhận gì được từ một tủ đông dưới tầng hầm, nên sau ba lần thử
hắn thôi không cố nữa. Giờ Sylvester mới cảm thấy cái đau và cùng lúc hắn thấy
buồn ngủ, nhưng cái lạnh làm hắn tỉnh. Hắn ghì hai lòng bàn tay lên nắp mà đẩy.
Cảm thấy hoảng hốt khi nó không nhúc nhích ngay. Đẩy mạnh hơn. Vẫn không nhúc
nhích. Hắn nhớ tiếng mấy cái khóa nhựa, tự thắt nút, vấn đề chỉ là thêm chút sức
nữa. Hắn ghì hai tay lên nắp, cố hết sức đẩy. Không nhúc nhích. Và đó là khi hắn
nhận ra. Gã thanh niên đã khóa tủ đông.
Lần này cơn hoảng loạn không chỉ tê tê châm
chích, nó bóp nghẹt.
Sylvester bắt đầu thở hồng hộc, nhưng buộc
mình chèn cơn hoảng loạn lại để con đê khỏi vỡ, và để bóng tối, bóng tối thật sự,
ập vào. Suy nghĩ. Làm chủ tình hình và nghĩ cho thông suốt.
Hai giò hắn. Sao hắn không nghĩ đến chuyện
đó? Hắn biết hai giò hắn mạnh hơn hai tay nhiều. Hắn dễ dàng nâng được hai trăm
ký lô trên máy tập tạ chân, so với có bảy chục ký trên ghế dài tập tạ tay. Còn
đây chỉ là cái khóa tủ đông, thiết kế ra để ngừa người ta xoáy thịt và dâu,
không phải để ngăn một gã đàn ông to béo, tuyệt vọng thực sự muốn thoát ra. Giữa
hắn và nắp có đủ chỗ để nếu hắn co đầu gối lại và đạp hai bàn chân lên nắp..
Nhưng hắn không gập đầu gối lại được.
Đơn giản là chúng không chịu nghe lời hắn.
Hắn chưa bao giờ bị tê chân tồi tệ như vậy. Hắn thử lại. Không có phản ứng; cứ
như chúng bị cắt rời ra rồi. Hắn nhéo ống quyển. Hắn nhéo đùi. Con đê bắt đầu
kêu răng rắc. Suy nghĩ. Không, dừng suy nghĩ! Muộn quá rồi. Cái lỗ thủng nơi
album ảnh, máu. Hẳn viên đạn đã cắt đứt tủy sống. Chuyện đó giải thích được vì
sao hắn không thấy đau. Sylvester sờ bụng. Ướt đẫm cả máu. Nhưng cứ như sờ vào
người ai khác.
Hắn đã bị liệt, từ thắt lưng trở xuống. Hắn
đấm thùm thụp lên nắp, nhưng chẳng ích gì, chỉ có những cửa cống trong tâm trí
hắn là mở ra. Con đê hắn đã học là không bao giờ được mở ra. Bố hắn đã dạy điều
đó. Nhưng giờ thì những vết nứt xuất hiện và Sylvester biết rằng hắn sẽ chết
như trong mấy cơn ác mộng của hắn. Bị nhốt. Một mình. Trong bóng tối.
26
- Sáng chủ nhật này đúng là tuyệt hảo, -
Else nhìn ra cửa sổ xe và thông báo.
- Công nhận, - Simon nói, về số xe và liếc
nhìn cô. Ông thắc mắc không biết cô quan sát được bao nhiêu, liệu cô có thấy được
Hoàng Cung đặc biệt xanh rì sau cơn mưa như trút hôm qua. Liệu cô thậm chí có
thấy là họ đang chạy ngang Hoàng Cung.
Chính Else là người gợi ý đi xem triển lãm
tranh Chagall tại Hovikodden và Simon đã nói ý đó thật tuyệt vời, có điều ông
phải ghé vào chỗ một đồng nghiệp cũ sống ở Skillebekk trên đường đến phòng
tranh.
Dọc Gamle Drammensveien có nhiều chỗ đậu
xe. Những tòa nhà quý tộc lâu đời và những khối căn hộ trông dứt khoát là đang
vắng vẻ trong kỳ nghỉ. Lá cờ đại sứ quán thỉnh thoảng lay động trong làn gió nhẹ.
- Anh không ở lại lâu đâu, - Simon nói.
Ông xuống xe và bước tới cửa địa chỉ ông vừa
tìm được trên mạng. Cái tên ông tìm được liệt kê ở đầu một dãy chuông cửa.
Sau khi bấm chuông hai lần, Simon sắp bỏ cuộc
thì nghe giọng một phụ nữ.
- Vâng?
- Có Fredrik đó không?
- Ơ... Là ai đấy?
- Simon Kefas.
Mấy giây im lặng, nhưng Simon nghe được tiếng
lách tách như thể bàn tay đặt lên micro trên hệ thống điện thoại nội bộ. Rồi cô
ta quay lại.
- Ông ấy xuống ngay.
- Ok.
Simon chờ. Còn quá sớm, người bình thường
chưa dậy lo công chuyện, nên trên đường ông chỉ thấy một cặp ở độ tuổi ông. Họ
trông như đang ra ngoài đi dạo ngày Chủ nhật. Một chuyến đi dạo mà điểm xuất
phát cũng là đích đến. Người đàn ông đội mũ vải tuýt và quần kaki không có gì nổi
bật. Ta ăn mặc như vậy khi già đi. Simon nhìn lên bóng mình trong ô kính nơi cửa
trước bằng gỗ sồi chạm trổ. Mũ tuýt xẹp và kính râm. Quần kaki. Đồng phục ngày
Chủ nhật.
Phải mất một lúc; ông nghĩ có lẽ mình đã
đánh thức Fredrik. Hay vợ hắn ta. Nhưng cũng có thể đó không phải là vợ Simon
nhìn ra xe thì thấy Else đang nhìn thẳng về ông. Ông vẫy tay. Không có phản ứng.
Cửa trước mở.
Fredrik, mặc quần jean áo sơ mi, xuất hiện.
Hắn đã đủng đỉnh tắm - mái tóc ướt, dày chải ra sau.
- Chuyện này bất ngờ quá, - hắn nói. - Cái
gì...
- Sao ta không đi dạo một lát?
Fredrik nhìn đồng hồ tay nặng trịch.
- Nghe này, tôi...
- Nestor và bọn đàn em bán ma túy đã đến gặp
tôi, - Simon nói to đủ cho cặp gần đó nghe thấy. - Nhưng tôi rất vui lòng đem
chuyện này lên lầu trong căn hộ đang có... vợ ông?
Fredrik nhìn Simon. Rồi hắn đóng cửa lại
sau lưng.
Họ đi dạo dọc vỉa hè. Đôi dép lê của
Fredrik giẫm lạch bạch xuống mặt đường nhựa và vọng lại giữa các vách.
- Hắn đến ngỏ lời cho tôi vay khoản tiền
tôi đã bàn với anh, Fredrik. Chỉ bàn với anh thôi.
- Tôi không nói cho ai tên Nestor cả.
- Anh không phải gọi hắn là “ai tên Nestor
cả”, cả hai ta đều thừa biết anh biết cái tên đó. Anh cứ tha hồ nói dối về cái
gì khác anh biết về hắn.
Fredrik dừng chân.
- Thôi nào, Simon. Kiếm cho anh khoản vay
đó từ khách hàng nào của tôi cũng đều không thể. Nên tôi đã đem vấn đề của anh
bàn với bên thứ ba. Đó là cái anh mong đợi tôi làm, không phải sao? Thành thật
đi?
Simon không đáp.
Fredrik thở dài.
- Nghe này, tôi chỉ đang cố giúp. Chắc hẳn
điều tệ hại nhất có thể xảy ra là anh nhận được lời đề nghị mà anh không thể
khước từ.
- Điều tệ hại nhất có thể xảy ra là giờ đây
một số tên cặn bã nghĩ chúng đã tìm được cách tiếp cận tôi. Cuối cùng thì cũng
được rồi, chúng nghĩ. Vì chúng chưa từng nắm thóp được tôi, Fredrik. Nắm thóp
anh thì có, nhưng tôi, không hề.
Fredrik dựa vào hàng rào.
- Có lẽ đó mới là vấn đề của anh đấy,
Simon. Lý do anh chưa từng có sự nghiệp đáng ra anh đã có.
- Vì tôi không bán mình?
Fredrik mỉm cười.
- Tính nóng nảy của anh. Anh thiếu ngoại
giao. Anh thậm chí còn lăng mạ những người đang cố giúp anh.
Simon nhìn xuống đường tàu cũ bỏ hoang bên
dưới. Từ thời Vestbanen, vẫn còn được sử dụng. Ông không biết vì sao, nhưng ông
vừa u buồn vừa phấn chấn khi thấy đường hào dưới nền đất vẫn còn đó.
- Anh đã đọc về vụ giết ba mạng ở Gamlebyen
chưa?
- Tất nhiên, - Fredrik nói. - Báo chí hầu
như chẳng viết về cái gì khác. Mọi thành viên của Kripos đều đã được huy động,
hay có vẻ vậy. Anh có còn được chơi với bọn họ không?
- Họ thích giữ đồ chơi ngon nhất chơi một
mình như thường lệ thôi. Kalle Farrisen là một trong những người bị sát hại.
Anh có nhận ra cái tên đó không?
- Tôi không thể nói là có. Nhưng nếu Đội Điều
tra án mạng không được phép xem qua, sao anh...
- Vì Farrisen từng bị tình nghi giết cô gái
này. - Simon lấy tấm hình ông in từ hồ sơ ra đưa cho Fredrik. Ông quan sát hắn
nhìn chăm chú gương mặt tái nhợt có nét Á châu. Ta không phải nhìn thân thể cô
mới nhận ra cô đã chết. - Người ta tìm thấy cô ta ở một sân sau; được dàn đựng
để trông như cô ta tình cờ bị quá liều. Mười lăm tuổi. Mười sáu, có lẽ cô ta
không có giấy tờ tùy thân, nên chúng tôi không bao giờ biết được cô ta là ai
hay cô ta từ đâu đến. Hay làm sao cô ta vào được Na Uy. Có lẽ trong container
trên một tàu từ Việt Nam. Thứ duy nhất họ phát hiện ra là cô ta đang có thai.
- Phải, chờ đã, tôi nhớ vụ đó. Tôi tưởng đã
có người nhận tội rồi?
- Phải. Đến cuối ngày mới tới và khiến ai
cũng ngạc nhiên. Điều tôi muốn hỏi anh là: có mối liên hệ nào giữa Kalle
Farrisen và khách hàng ruột của anh là Iversen hay không?
Fredrik nhún vai và nhìn qua vịnh. Hắn lắc
đầu. Simon theo cái nhìn của hắn tới hằng hà sa số những cột buồm trên thuyền bỏ
neo trong bến du thuyền mà hai chữ “thuyền buồm” thời nay có nghĩa là cái gì nhỏ
hơn tàu chiến một chút.
- Anh có biết người nhận tội và bị kết án
giết cô gái đó đã trốn tù không?
Fredrik lại lắc đầu.
- Ăn sáng ngon miệng, - Simon nói.
Simon đang tựa nơi cái quầy cong cong để mũ
áo tại phòng tranh ở Hovikodden. Mọi thứ đều có nét cong. Mọi thứ đều thuộc trường
phái tân biểu hiện. Ngay cả vách kính ngăn các phòng cũng cong và có lẽ cũng
tân biểu hiện.
Ông nhìn Else. Cô nhìn tranh Chagall. Trông
cô nhỏ bé biết bao khi đứng đó.
Nhỏ hơn những hình người của Chagall. Có lẽ
do những đường cong, có lẽ họ tạo ra một ảo giác như kiểu phòng biến dạng.
- Vậy mà ông đến gặp tên Fredrik này chỉ để
hỏi hắn câu đó thôi sao? - Kari đứng cạnh ông hỏi. Ông gọi và hơn hai mươi phút
sau thì cô đến. - Và điều ông đang muốn nói là...
- Là tôi biết hắn sẽ chối chuyện đó, -
Simon nói. - Nhưng tôi phải nhìn hắn để biết hắn có nói dối không chứ.
- Dù một vài xê ri truyền hình quả quyết điều
ngược lại, nhưng ông thừa biết là cực kỳ khó biết chắc ai đó có đang nói dối
không?
- Fredrik không chỉ là “ai đó”. Tôi đã có
kinh nghiệm nghe hắn nói dối, tôi nhận ra cái “biểu cảm” của hắn.
- Vậy Fredrik Ansgar là kẻ nói dối khét tiếng?
- Không. Hắn nói dối vì cần thiết, không phải
vì bản chất hay khuynh hướng.
- Phải. Mà làm sao ông biết điều đó?
- Cái ngày chúng tôi cùng bắt tay lo một vụ
điều tra bất động sản lớn tại Phòng Điều tra thì tôi chưa biết. - Ông thấy Else
trông hơi ngơ ngác nên húng hắng để cô nghe được ông ở đâu. - Chứng minh
Fredrik đang nói dối là việc phức tạp, - Simon tiếp. - Chỉ mình hắn là kế toán
thông thạo trong cuộc điều tra nên chúng tôi khó mà xác minh mọi thứ hắn nói.
Ban đầu đó là những sai số không đáng kể và những trùng hợp kỳ quặc nhưng tổng
số dường như có hơi quá lớn không thể chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Hắn không
báo cho chúng tôi một số thứ hay trực tiếp cho chúng tôi thông tin sai. Tôi là
người duy nhất sinh nghi. Rồi cuối cùng tôi cũng học được cách biết khi nào thì
hắn đang nói dối.
- Thế nào?
- Đơn giản lắm. Giọng hắn.
- Giọng hắn sao?
- Nói dối sẽ kéo theo những cảm xúc.
Fredrik giỏi nói dối bằng cách dùng từ ngữ, logic và ngôn ngữ cơ thể. Nhưng giọng
hắn là cái phong vũ biểu cảm xúc hắn không kiểm soát được. Hắn không biết tạo
đúng giọng tự nhiên, hắn có ngữ điệu dối trá mà tự hắn nghe ra được và hắn biết
nó có thể tố giác hắn. Khi được hỏi thẳng một câu và phải trả lời thẳng, hắn
không thể tin cậy vào giọng mình. Nên hắn bắt đầu gật hay lắc đầu để trả lời.
- Vậy khi ông hỏi hắn có biết mối liên hệ
nào giữa Kalle Farrisen và Iversen?
- Hắn chỉ nhún vai như thể không biết.
- Vậy là hắn đang nói dối?
- Phải. Và hắn lắc đầu khi tôi hỏi hắn có
biết Sonny Lofthus đã trốn khỏi nhà tù không.
- Như vậy không phải là có chút đơn giản
thái quá sao?
- Phải, nhưng Fredrik là người đơn giản, một
người biết rõ bảng cửu chương của hắn, rõ hơn hầu hết. Nghe này, đây là cái tôi
muốn cô làm. Tôi muốn cô xem lại mọi bản án của Sonny Lofthus. Xem cô có còn
tìm được nghi phạm nào khác trong mỗi vụ không.
Kari Adel gật.
- Tuyệt thật, dù sao thì tôi cũng không có
kế hoạch gì cho cuối tuần này.
Simon mỉm cười.
- Vụ Phòng Điều tra đó, - Kari nói. - Nó là
về chuyện gì vậy?
- Gian lận, - Simon nói. - Trốn thuế, tiền
đáng kể, những tên tuổi đáng gờm. Như vụ án cho thấy, nó có thể hạ bệ những
doanh nhân tiếng tăm cũng như các chính khách và dường như nó có thể dẫn chúng
tôi đến chỗ Ông Lớn.
- Là?
- Sinh Đôi.
Kari rùng mình.
- Tôi phải nói đó là một biệt danh kỳ lạ.
- Không kỳ lạ bằng câu chuyện đằng sau nó.
- Ông có biết tên thật của Sinh Đôi không?
Simon lắc đầu.
- Hắn hoạt động bằng nhiều tên. Nhiều đến mức
hắn nặc danh hoàn toàn. Khi mới vào làm ở Phòng Điều tra, tôi ngây thơ đến mức
tưởng con cá bự nhất sẽ dễ thấy nhất. Tất nhiên, sự thật là tầm quan trọng của
ai đó sẽ tỉ lệ nghịch với sự xuất đầu lộ diện của họ. Tôi lại một lần nữa để vuột
mất Sinh Đôi. Vì những lời dối trá của Fredrik.
- Ông có nghĩ rằng có thể Fredrik Ansgar là
gián điệp nhị trùng không?
Simon lắc đầu quầy quậy.
- Khi gián điệp nhị trùng bắt đầu hoạt động
thì Fredrik thậm chí còn chưa làm việc cho cảnh sát. Tôi tin thời điểm đó hắn
là vai phụ, nhưng rõ ràng nếu được để cho thăng tiến thì hắn đã gây rất nhiều
thiệt hại. Nên tôi ngăn chặn hắn.
Kari tròn mắt.
- Ông tố giác Fredrik Ansgar lên ủy viên?
- Không. Tôi có một đề nghị. Hoặc hắn ra đi
lặng lẽ hoặc tôi sẽ đem chút đỉnh tội hắn lên gặp cấp cao nhất. Có lẽ điều đó
không đủ bảo đảm một cuộc điều tra hay sa thải, nhưng nó sẽ chặt cánh hắn, tạm hoãn
sự nghiệp hắn một thời gian. Hắn đồng ý ra đi.
Một sợi ven lộ ra trên trán Kari.
- Ông... ông cứ vậy để hắn đi?
- Chúng tôi loại bỏ con sâu làm rầu nồi
canh mà không kéo lực lượng cảnh sát xuống bùn. Phải, tôi để hắn đi.
- Ông không thể cứ để những người như thế
đi.
Ông nghe thấy sự oán giận trong giọng cô.
Khá đúng.
- Fredrik là cá nhỏ và, như tôi đã nói, hắn
sẽ an toàn thoát tội. Hắn thậm chí còn chẳng thèm vờ vịt đó không phải một đề
nghị tốt. Thực ra, hắn cảm thấy hắn chịu ơn tôi.
Simon quay qua cô. Ông định bụng khiêu
khích cô. Và điều đó đã có tác dụng. Nhưng có vẻ như cơn oán giận của cô đã
qua. Giờ cô chỉ trông như đã tìm được một lý do nữa để rời lực lượng sớm nhất
khi có dịp.
- Vậy còn câu chuyện đằng sau biệt danh
Sinh Đôi?
Simon nhún vai.
- Tôi tin hắn có một người em trai sinh đôi
giống hệt. Lúc mười một tuổi hắn nằm mơ hai đêm liền là hắn giết em mình. Hắn kết
luận rằng bởi họ là anh em sinh đôi giống nhau, sẽ hợp lý nếu cho rằng em hắn
cũng nằm mơ thấy vậy. Từ đó trở đi thì vấn đề chỉ là đi trước người kia một bước.
Kari nhìn Simon.
- Đi trước người kia một bước, - cô lặp lại.
- Xin lỗi, - Simon nói rồi chạy ào theo
Else, cô đang sắp bước vào tường kính.
* * *
Fidel Lae thấy chiếc xe trước khi nghe tiếng.
Xe mới thì thường là vậy, chúng hầu như êm ru không tiếng động. Nếu gió thổi từ
ngoài đường, qua đồng hoang tới trang trại, có lẽ lào sẽ nghe thấy tiếng lốp xe
lạo xạo trên sỏi, sang số hay rồ máy khi xe chạy lên đồi, còn không thì Fidel
phải nhờ mắt mình cảnh báo. Về mấy chiếc xe, phải. Người hay thú thì lại là
chuyện khác - bấy giờ lão đã có hệ thống báo động tốt nhất thế giới. Chín con
chó phốc Dobermann trong chuồng. Bảy con chó cái mỗi năm đẻ một lứa, bán được
mười hai ngàn mỗi con. Đó là công việc làm ăn chính thức trong trại chó của lão,
chó có gắn vi mạch sẽ được giao cho người mua, bảo đảm không bị những tật khó
thấy còn giống của chúng thì được đăng ký ở Trại chó Na Uy.
Phần không chính thức của trại chó thì nằm
sâu hơn trong rừng.
Hai con chó cái và một con đực. Không được
đăng ký ở đâu cả Chó ngao Argentina. Mấy con chó phốc Dobermann sợ chúng mất
vía. Năm mươi lăm ký lô hung hăng và trung thành phủ áo choàng ngắn, trắng như
bạch tạng, lý do vì sao tên tất cả chó của Fidel đều có chữ “ma”: hai con chó
có là Cỗ Máy Ma và Ma Thiêng, con đực là Đạn Phá Ma. Người mua muốn gọi mấy con
cún bằng tên quỷ quái gì thì tùy miễn sao trả đủ 120.000 krone. Giá phản ánh sự
hiếm hoi của con chó, bản năng giết hiệu quả và thực tế là giống này đã bị cấm ở
Na Uy và một số nước khác. Vì khách hàng của lão không đặc biệt nhạy cảm về giá
cả hay bận tâm đến luật pháp Na Uy, ít có gì gợi ý cho thấy giá sẽ hạ. Trái lại.
Vì lý do đó mà năm nay Fidel đã dời chuồng mấy con chó ngao Argentina vào sâu
hơn trong rừng, để ngoài trang trại không nghe thấy tiếng chúng sủa.
Chiếc xe đang tiến về phía trang trại, con
đường không dẫn đi đâu khác, nên Fidel đi êm ru xuống cái cổng luôn đóng. Không
phải để ngăn mấy con Dobermann xông ra, mà để ngăn kẻ xâm nhập. Và bởi trừ
khách hàng của lão ra thì ai cũng là kẻ xâm phạm, Fidel giữ một khẩu Mauser M98
đã được tân trang cho vừa tay trong căn nhà kho nhỏ chạy vòng phía sau cho đến
tận cũi chó gần cổng. Lão cất những vũ khí lạ lùng hơn trong nhà chính, nhưng
lão luôn có thể cãi là lão dùng Mauser để săn nai sừng tấm bởi nhiều lúc nai sừng
tấm cũng đi qua đồng hoang. Tức là khi gió không thổi từ hướng có cái cũi nhốt
mấy con ma Argentina.
Fidel tới cổng cùng lúc với chiếc xe phía
ngoài có huy hiệu công ty cho thuê. Nghe tiếng sang số lụp bụp thì Fidel dám chắc
tài xế không có nhiều kinh nghiệm với cấu tạo xe này; hắn còn thong thả tắt đèn
pha, cần gạt kính chắn gió và, cuối cùng, động cơ.
- Ổn chứ? - Fidel nói, nhìn chăm chú cái gã
từ xe bước xuống. Áo có mũ trùm và giày nâu. Dân thành thị. Thỉnh thoảng có vài
dân thành thị cũng tự mò đến đây mà không hẹn trước. Nhưng chuyện đó hiếm.
Fidel không quảng cáo và chỉ dẫn đường đi trên mạng như mấy trại chó khác. Gã
này đi lại cái cổng mà Fidel không tỏ vẻ gì là muốn mở.
- Tôi tìm một con chó.
Fidel hất chóp mũ trên trán.
- Rất tiếc, nhưng anh đi mất công rồi. Tôi
không nói chuyện với người có thể sẽ là chủ chó của tôi mà không có giới thiệu
trước. Chỉ là vậy thôi. Một con phốc Dobermann không phải là chó nhà để vuốt
ve, nó cần một người chủ biết mình chấp nhận cái gì. Thứ Hai rồi gọi lại cho tôi.
- Tôi không kiếm con Dobermann, - gã này
nói và nhìn ra sau Fidel. Quá trang trại và mấy cái chuồng nhốt chín con chó
cái hợp pháp của lão. Về phía rừng đằng sau. - Gustav Rover giới thiệu cho tôi.
- Gã giơ tấm danh thiếp lên.
Fidel lén nhìn. Xưởng sửa chữa mô tô Rover.
Rover. Fidel rất giỏi nhớ tên và người vì cả hai thứ này lão đều không gặp nhiều.
Gã đi mô tô có cái răng vàng. Hắn đã đến đây với Nestor để mua một con chó ngao
Argentina.
- Ông ta nói chó của ông sẽ canh giữ bọn tạp
dịch Belarus và bảo đảm là chúng không bỏ trốn.
Fidel thong thả gãi gãi cái mụn cóc trên cổ
tay. Rồi lão mở cổng. Gã này không thể nào là cớm, họ không được phép khép tội
bán chó trái phép để giăng bẫy người ta, điều đó sẽ làm hỏng toàn bộ vụ án của
họ. Ít ra thì đó cũng là cái mà luật sư nói với lão.
- Anh có... ?
Gã này gật, đút tay vào túi áo trùm đầu rút
ra một xấp tiền dày. Tờ một ngàn krone.
Fidel mở tủ đựng súng lấy ra khẩu Mauser.
- Tôi không bao giờ đến thăm chúng mà thiếu
cái này, - lão giải thích. - Một con mà xổng ra...
Phải mười phút họ mới tới chỗ nhốt.
Trong năm phút cuối họ nghe tiếng sủa thịnh
nộ mỗi lúc một to.
- Chúng tưởng sắp được cho ăn, - Fidel nói,
nhưng không nói thêm: thịt mày đấy.
Lũ chó điên cuồng chồm vào rào dây thép gai
khi thấy hai người đàn ông xuất hiện. Fidel cảm thấy mặt đất rung chuyển khi
chúng ngả bật ra sau. Lão biết chính xác cọc rào đã cắm sâu chừng nào, lão chỉ
hy vọng là nó đủ sâu. Mấy cái chuồng Đức nhập khẩu có sàn kim loại, để các giống
như chó sục, chó chồn và chó săn không thể đào mà thoát ra được, còn mái tôn uốn
giữ cho chúng được khô ráo và ngăn ngay cả những con khỏe mạnh nhất nhảy qua
hàng rào.
- Chúng nguy hiểm nhất khi ở trong đàn, -
Fidel nói. - Bấy giờ chúng sẽ theo con đầu đàn, Đạn Phá Ma. Nó to con nhất.
Khách hàng chỉ gật. Gã nhìn mấy con chó.
Fidel biết hẳn là gã sợ. Hàm há ra toàn răng sáng bóng, loang loáng, đều tăm tắp
trên nước màu hồng nhạt. Mẹ kiếp, chính lão còn sợ nữa là. Chỉ khi lão ở bên mỗi
một con, tốt hơn là chó cái, lão mới chắc mình là sếp.
- Với một con cún thì anh phải nhanh chóng
xác định anh là chó đầu đàn và bảo đảm mình luôn là vậy. Hãy nhớ rằng lòng tốt
dưới dạng nuông chiều và tha thứ sẽ được xem là yếu đuối. Hành vi không mong muốn
phải bị phạt, và đó là việc của anh. Anh hiểu không?
Khách hàng quay qua Fidel. Có gì xa xôi kỳ
lạ trong đôi mắt tươi cười của gã và gã lặp lại:
- Trừng phạt hành vi không mong muốn là việc
của ta.
- Tốt.
- Sao chuồng đó trống không? - Khách hàng
chỉ một chuồng gần lũ chó.
- Tôi từng có hai con đực. Nếu tôi bỏ chúng
chung một chuồng, cuối cùng rồi một trong hai cũng chết thôi.
Fidel lấy ra chùm chìa khóa.
- Lại đây xem bầy cún, chúng có chuồng
riêng đằng kia...
- Trước khi ông làm vậy, cho tôi biết...
- Gì?
- Để chó cắn xé mặt cô gái trẻ là hành vi
đáng mong muốn sao?
Fidel đứng sững lại.
- Hả?
- Cho chó xé xác mặt một cô gái khi cô ta cố
chạy trốn cảnh nô lệ là hành vi mong muốn, hay phải bị trừng phạt?
- Nghe này, chó chỉ hành động theo bản năng
nên ta không thể trách nó chỉ vì...
- Tôi không nói về con chó. Những người chủ.
Theo ý ông thì có nên trừng phạt chúng không?
Fidel nhìn lại cho kỹ khách hàng. Không lẽ
hóa ra hắn là cớm?
- À, nếu quả tai nạn như vậy xảy ra thì...
- Tôi không tin đó là tai nạn. Sau đó, chủ
nhân đã cắt cổ cô gái rồi ném xác trong rừng.
Fidel nắm chặt hơn khẩu Mauser.
- Tôi chẳng biết gì chuyện đó cả.
- Nhưng tôi biết. Tên người chủ là Hugo
Nestor.
- Nghe này, anh có muốn mua chó hay không
đây? - Fidel nâng báng súng trường nãy giờ vẫn hướng xuống đất lên vài tấc.
- Hắn mua con chó đó của ông. Hắn mua vài
con ở chỗ ông. Vì ông bán chó dùng cho những mục đích như vậy.
- Anh thì biết gì chuyện đó?
- Nhiều lắm. Trong mười hai năm tôi ngồi
trong chuồng nghe mọi người kể chuyện. Đã từng thắc mắc ngồi trong chuồng thì
thế nào chưa?
- Nghe này...
- Giờ ông có thể thử.
Fidel chưa kịp đưa súng trường vào vị trí
thì gã kia đã khóa tay lão từ đằng sau và kẹp chặt hai cánh tay lão vào người đến
mức không khí từ Fidel thoát ra nghe như tiếng hú. Tên chủ trại chó chỉ kịp nhận
biết tiếng sủa điên loạn khi lão bị nhấc lên. Gã kia ngửa người ra khi nhấc
Fidel lên rồi vung lão thành một vòng cung rộng qua đầu. Nhưng khi cổ và vai
Fidel chạm đất trước thì gã này tung mình nhảy lên người Fidel. Fidel thở hổn hển
vùng vẫy thoát ra. Nhưng rồi lão dừng phắt lại khi nhìn vào họng súng.
* * *
Bốn phút sau Fidel chằm chằm nhìn theo lưng
gã đàn ông lùi dần. Trông như gã đang bước trên nước khi băng qua đồng hoang
trong sương mù. Mấy ngón tay Fidel níu lấy hàng rào mắt cáo, kế ổ khóa to sụ.
Lão bị nhốt trong chuồng để không.
Trong chuồng kế bên, con Đạn Phá Ma đã nằm
xuống và lừ đừ nhìn lão. Gã này đã đổ đầy bát nước trong chuồng của Fidel và bỏ
lại cho lão bốn gói Raw đồ ăn cho chó. Gã đã lấy đi điện thoại, chùm chìa khóa
và ví. Fidel cất tiếng thét. Mấy con quỷ trắng tru và sủa đáp lại. Từ một chỗ
nhốt dựng xa tít trong rừng không ai nghe hay thấy chúng được.
Mẹ kiếp!
Người đàn ông đi rồi. Một sự im lặng lạ
lùng trùm xuống. Một con chim lảnh lót. Rồi Fidel nghe những giọt mưa đầu tiên
chạm mái tôn.
27
Khi Simon bước ra khỏi thang máy vào văn
phòng Đội Điều tra án mạng lúc 8 giờ 8 phút sáng thứ Hai, ông có ba thứ trong đầu.
Một là lúc nãy Else đã ngâm mắt trong phòng tắm bên cạnh, tuyệt không hay biết
Simon đang đứng phòng ngủ nhìn cô. Hai là có lẽ ông đã giao cho Kari làm quá
nhiều việc hôm Chủ nhật. Và ba là ông ghét cách bố trí của văn phòng, nhất là
sau khi một người bạn kiến trúc sư của Else bảo ông là văn phòng không gian mở
sẽ tiết kiệm được diện tích sàn trên mỗi nhân viên là chuyện bịa đặt, rằng những
vấn đề tiếng ồn sẽ khiến ta phải tạo ra nhiều phòng họp và vùng đệm đến mức cái
lợi nào cũng đều bị chi phí phụ trội ngốn sạch.
Ông đi lại bàn Kari.
- Cô đến sớm vậy, - ông nói.
Một gương mặt khá mệt mỏi nhìn lên.
- Chào buổi sáng, Simon Kefas.
- Cảm ơn. Tìm được gì không?
Kari ngả người ra ghế. Dù cô đang ngáp,
Simon nghĩ mình phát hiện thấy sự mãn nguyện nào đó ẩn sau vẻ mặt cô.
- Đầu tiên tôi tìm mối liên hệ giữa Iversen
và Farrisen. Không thấy gì. Rồi tôi lục lại các bản án của Sonny Lofthus và
nghi phạm có thể có. Lofthus bị kết án sát hại một cô gái không nhận diện được,
có lẽ là người Việt, chết vì dùng ma túy quá liều và ban đầu cảnh sát nghi
Kalle Farrisen. Nhưng Lofthus còn đang chấp hành án tù vì một vụ giết người
khác. Đó là Oliver Jovic, một tay buôn ma túy, một gã người Séc Kosovo đang cố
chen chân vào thị trường thì người ta phát hiện ra hắn ở Stensparken với một
chai Coke ở cuống họng.
Simon nhăn mặt.
- Chúng rạch họng hắn?
- Không, ý tôi không phải vậy. Một chai
Coke tọng xuống cổ họng hắn.
- Xuống cổ họng hắn?
- Cổ chai trước. Vậy dễ hơn. Tọng thẳng xuống
cho đáy chai tì vào sau răng.
- Làm sao cô biết là...?
- Tôi đã xem hình. Đội Bài trừ Ma túy nghĩ
đó là lời nhắn cho những kẻ cạnh tranh tiềm tàng thấy chuyện gì sẽ xảy ra khi
ta cố ăn tham trong thị trường cocain. - Cô nhìn nhanh lên Simon và nói thêm: -
Chai Coke tức là chai Coca-Cola.
- Vâng, cảm ơn cô, tôi hiểu rồi.
- Cảnh sát đã mở cuộc điều tra, nhưng chẳng
đi tới đâu. Vụ án chưa bao giờ bị bỏ hẳn, nhưng chẳng có gì nhiều xảy ra cho đến
khi Sonny Lofthus bị bắt vì giết cô gái châu á. Cậu ta nhận cả tội giết Jovic.
Trong hồ sơ thẩm vấn cậu ta khai cậu ta với Jovic gặp nhau trong công viên để
dàn xếp một món nợ, là Lofthus không có đủ tiền nên Jovic đã dùng súng hăm dọa.
Lofthus đã tấn công và hạ đo ván hắn. Tôi đoán cảnh sát nghĩ chuyện đó nghe có
vẻ hợp lý, xét tới việc Lofthus từng là dân đấu vật.
- Hừm.
- Điều thú vị là cảnh sát lấy được dấu tay
trên chai.
- Mà sao?
- Nó không phải của Lofthus.
Simon gật.
- Rồi Lofthus giải thích sao chuyện đó?
- Cậu ta nói tìm thấy cái chai không trong
thùng rác gần đó. Rằng dân nghiện như cậu ta vẫn làm vậy để lấy lại tiền thế
chai.
- Nhưng?
- Dân nghiện không lượm ve chai. Vậy thì
quá lâu mới gom đủ tiền chích ngày hôm đó. Báo cáo còn nêu rằng dấu tay là ngón
cái và lấy được ở đáy chai.
Simon biết cô sắp nói tới điều gì, nhưng
không muốn đi trước cô một bước để làm cô cụt hứng.
- Tôi muốn nói là, khi uống ai lại để ngón
cái lên đáy chai? Tuy nhiên, nếu ta tọng chai xuống cổ họng ai đó...
- Và cô không nghĩ lúc ấy cảnh sát đã xem
xét chuyện đó?
Kari nhún vai.
- Tôi không nghĩ có bao giờ cảnh sát lại đi
ưu tiên cho mấy vụ dùng ma túy. Họ không tìm thấy dấu tay trong cơ sở dữ liệu.
Nên khi có người dâng cho họ lời nhận tội một vụ án họ đã chậm trễ một thời
gian rồi...
- Thì họ sẽ nói cảm ơn nhiều, đánh dấu vụ
án là đã giải quyết rồi đi tiếp?
- Đó là cách làm việc của các ông mà, không
phải sao?
Simon thở dài. Các ông. Ông đã đọc trên báo
là uy tín của cảnh sát trong công chúng bắt đầu lên cao sau mấy vụ bê bối trong
ít năm rồi, nhưng lực lượng chỉ nổi danh hơn ngành đường sắt chút đỉnh. Các
ông. Ông hình dung cô đang cảm ơn mấy ngôi sao vận may của mình rằng cô đã bước
một chân ra khỏi văn phòng không gian mở này rồi.
- Vậy là Sonny Lofthus bị kết án hai vụ án
mạng, nhưng trong cả hai vụ thì chứng cứ đều dẫn về bọn buôn ma túy. Có phải cô
đang muốn nói cậu ta là bia đỡ đạn chuyên nghiệp?
- Ông không nói vậy sao?
- Có lẽ có. Nhưng vẫn chưa có gì nối cậu ta
với Farrisen hay Agnete Iversen.
- Còn vụ án mạng thứ ba, - Kari nói. -
Kjersti Morsand.
- Vợ tay chủ tàu, - Simon nói, dù ý nghĩ của
ông giờ đã xoay qua cà phê và máy pha cà phê. - Đó là vụ án của Sở Cảnh sát
Buskerud.
- Chính xác. Cưa đứt đầu bà ta. Sonny
Lofthus cũng bị tình nghi trong vụ đó.
- Chắc hẳn chuyện đó không thể nào đúng được?
Khi chuyện đó xảy ra thì cậu ta đang bị giam.
- Không, cậu ta đã ra ngoài trong ngày được
tự do. Cậu ta ở trong khu vực này. Họ thậm chí còn tìm thấy tóc cậu ta tại hiện
trường.
- Cô đang đùa chứ, - Simon nói, tức thì
quên bẵng cà phê. - Chắc hẳn trên báo phải có gì về chuyện đó. Sát thủ khét tiếng
gắn liền với hiện trường - còn gì đáng đăng tin hơn nữa?
- Sĩ quan bên Buskerud chỉ huy cuộc điều
tra đã chọn cách không công bố, - Kari nói.
- Sao không?
- Hỏi anh ta ấy.
Kari chỉ và Simon nhận thấy một người cao
to từ chỗ máy pha cà phê cùng cái cốc trong tay đang bước tới họ. Bất kể nhiệt
độ mùa hè anh ta vẫn mặc áo len chui đầu dày.
- Henrik Westad, - người này nói, chìa tay
ra. - Tôi là thanh tra bên Sở Cảnh sát Buskerud. Tôi đang chỉ đạo cuộc điều tra
Kiersti Morsand.
- Tôi đã bảo Henrik sáng nay chạy xe lại
trò chuyện một chút, - Kari nói.
- Anh chạy một mạch từ Drammen vào giờ cao
điểm sáng ư? - Simon nói, bắt tay anh này. - Chúng tôi rất biết ơn.
- Trước giờ cao điểm sáng, - Westad nói. -
Chúng tôi đã có mặt ở đây từ sáu giờ ba mươi. Tôi nghĩ không còn gì nhiều để
nói về vụ điều tra, nhưng đồng nghiệp của ông đây lại rất kỹ lưỡng.
Anh ta hất hàm về Kari rồi ngồi xuống ghế đối
diện cô.
- Vậy sao các anh không công bố là đã tìm
thấy tóc của hung thủ đã bị kết án tại hiện trường? - Simmon nói, nhìn cái cốc
Westad đưa lên miệng đầy ghen tị. - Thế cũng giống như nói các anh đã phá được
vụ án. Thường thì cảnh sát không ỉm tin tốt.
- Đúng vậy, - Westad nói. - Nhất là khi chủ
nhân sợi tóc đó đã nhận tội giết người ngay lần đầu chúng tôi thẩm vấn anh ta.
- Vậy đã có chuyện gì?
- Có Leif.
- Leif là ai?
Westad chậm rãi gật đầu.
- Sau buổi thẩm vấn đầu tôi đã có thể ra
thông cáo báo chí cùng cái chúng tôi có được, nhưng có gì đó chưa hợp lý. Cái
gì đó ở... thái độ của nghi phạm. Nên tôi chờ. Thế rồi lần thứ hai chúng tôi thẩm
vấn, anh ta rút lại lời nhận tội và quả quyết mình có chứng cứ ngoại phạm. Một
gã tên Leif lái chiếc Volvo xanh có miếng dán “I love Drammen”, và không hiểu
sao, Lofthus nghĩ ông ta có bệnh tim. Vậy nên tôi đã kiểm tra lại với những người
bán Volvo ở Drammen và khoa tim tại Bệnh viện Trung tâm Buskerud.
- Rồi sao?
- Leif Krognaess, năm mươi ba tuổi. Ông ta
sống tại Kounerud ở Drammen và nhận ra ngay nghi phạm trong tấm hình tôi đưa
ông ta xem. Ông ta đã gặp người này tại chỗ dừng xe trên đường chính cũ chạy
song song đến Drammensveien. Ông biết đấy, khu vực có mấy băng ghế và bàn dã
ngoại để ngồi thưởng thức khí trời. Leif Krognaess chạy xe trong nắng một lát,
nhưng đã đỗ lại ngồi ở chỗ dừng xe vài giờ vì ông ta cảm thấy kiệt sức kỳ lạ.
Tôi không tin dân chạy mô tô ưa chuộng con đường đó, họ thích đường mới hơn, vả
chăng ở đó có cái vũng đầy muỗi vằn. Dù sao, ngày hôm ấy có hai người đàn ông
ngồi một bàn dã ngoại khác. Họ cứ ngồi đó hàng giờ không nói gì như thể đang chờ
gì đó. Rồi một người liếc nhìn đồng hồ tay và nói đã đến lúc đi. Khi họ đi
ngang bàn Krognaess, người còn lại cúi xuống, hỏi tên Krognaess và bảo ông đi gặp
bác sĩ đi, rằng tim ông có gì đó bất ổn. Rồi người đầu lôi người thứ hai đi;
Krognaess nghĩ chắc anh ta là bệnh nhân tâm thần đang được ra ngoài một hôm, rồi
họ chạy xe đi.
- Nhưng ông ta không xua khỏi đầu được tình
tiết đó, - Kari nói. - Vậy nên ông ta đi gặp bác sĩ. Bác sĩ phát hiện là quả thực
ông ta có bệnh tim nên cho nhập viện ngay. Và vì vậy mà Leif Krognaess nhớ một
người ông ta chỉ thoáng gặp ở chỗ dừng xe trên đường chính cũ bên sông Drammen.
Sông Drammen, Simon nghĩ.
- Phải, - Westad nói. - Leif Krognaess nói
anh này đã cứu mạng ông ta. Nhưng vấn đề không phải đó. Vấn đề là báo cáo của
giám định viên nói rằng Kjersti Morsand bị giết vào thời điểm hai người đàn ông
gặp nhau tại chỗ dừng chân.
Simon gật.
- Còn sợi tóc? Anh chưa kiểm xem sao nó lại
có ở hiện trường?
Westad nhún vai.
- Như tôi đã nói, nghi can có chứng cứ ngoại
phạm.
Simon biết là Westad vẫn chưa nêu tên người
thanh niên. Ông hắng giọng.
- Có vẻ như sợi tóc được cắm vào. Và nếu
Sonny Lofthus được cấp cho một ngày ra ngoài để làm cho có vẻ như anh ta gây án
thì hẳn là một quản giáo của Staten đã nhúng tay trong chuyện đó. Có phải vì vậy
chuyện này bị ỉm đi?
Henrik Westad đẩy cốc qua bàn Kari; có lẽ
mùi vị không còn hấp dẫn anh ta nữa.
- Tôi được chỉ thị ỉm vụ đó, - anh ta nói.
- Một ai đó trên cao đã nói thẳng với sếp tôi là phải để yên vụ việc cho đến
khi họ có dịp xem lại.
- Họ muốn kiểm tra lại các tình tiết trước
khi vụ bê bối thành công khai, - Kari nói.
- Cầu cho tất cả chỉ có vậy, - Simon nói khẽ.
- Vậy sao anh cho chúng tôi biết trong khi đã được dặn im lặng, Westad?
Westad lại nhún vai.
- Một mình mình biết thì khó quá. Nên khi
Kari nói đang làm việc cùng Simon Kefas... thiên hạ đồn ông chính trực.
Simon nhìn Westad.
- Anh biết đó chỉ là một từ khác để chỉ kẻ
phá rối chứ?
- Vâng, - Westad nói. - Tôi không muốn có rắc
rối nào. Tôi chỉ không muốn mình mình biết.
- Vì như vậy thì cảm thấy an toàn hơn?
Westad nhún vai lần thứ ba. Khi ngồi xuống,
anh ta không còn có vẻ cao to nữa. Và dù đã mặc cái áo chui đầu, trông anh ta
như đang lạnh.
* * *
Phòng họp hình chữ nhật của ban giám đốc im
phắc.
Hugo Nestor chăm chú vào ghế dựa ở đầu bàn.
Cái ghế lưng cao bọc da trâu trắng xoay
lưng về phía họ.
Người đàn ông nơi ghế đã yêu cầu một lời giải
thích.
Nestor lướt mắt nhìn lên bức tranh treo tường
phía trên ghế. Nó mô tả cảnh đóng đinh trên thập ác. Gớm guốc, máu me và quá
nhiều nét vẽ chi tiết. Người đàn ông trên thập ác có hai cái sừng trên trán và
mắt đỏ rực. Ngoài mấy chi tiết đó ra thì sự giống nhau rất rõ ràng. Người ta đồn
họa sĩ đã vẽ bức tranh sau khi bị người đàn ông ngồi nơi ghế lưng cao chặt mất
hai ngón tay vì nợ tiền ông ta. Chuyện mấy ngón tay thì đúng, chính Nestor đã
chứng kiến. Người ta còn đồn là từ lúc họa sĩ triển lãm bức họa trong phòng
tranh đến khi người đàn ông nơi ghế lấy nó đi là mười hai tiếng đồng hồ. Cái
đó, cùng với lá gan của người này. Tin đồn đó không đúng. Chỉ mất tám giờ, và
chúng lấy lá lách của gã.
Còn về phần tấm da trâu, Nestor không thể
khẳng định cũng chẳng thể phủ nhận câu chuyện người đàn ông nơi ghế đã trả
13.500 đô la để săn và giết một con trâu trắng, loài thú linh thiêng nhất đối với
thổ dân Lakota Sioux, rằng ông ta dùng cây nỏ bắn nó và khi con thú chưa chịu
chết ngay cả khi bị hai mũi tên vào tim, người đàn ông ngồi nơi ghế đã đứng giạng
chân qua mình con thú nặng nửa tấn và dùng bắp đùi vặn cổ nó. Nhưng Nestor thấy
chẳng có lý gì để nghi ngờ câu chuyện. Sự khác biệt về trọng lượng giữa con thú
và người này cực ít.
Hugo Nestor đưa mắt ra khỏi bức tranh.
Ngoài hắn và người đàn ông trên ghế bọc da trâu ra thì trong phòng còn ba người
nữa. Nestor vặn vai và cảm thấy áo sơmi bên dưới áo vest dán vào lưng. Hắn hiếm
khi đổ mồ hôi. Không chỉ vì hắn tránh nắng, len thứ phẩm, tập luyện, làm tình
và các hoạt động gắng sức khác, mà bởi hắn - theo bác sĩ - có khiếm khuyết nơi
bộ điều chỉnh nhiệt trong cơ thể, thứ đã khiến người ta đổ mồ hôi. Nên ngay cả
khi gắng sức hắn cũng không hề đổ mồ hôi, nhưng hắn dễ bị nóng bức. Đó là do thể
trạng di truyền, chứng minh một điều hắn vẫn biết: người được cho là cha mẹ hắn
không phải cha mẹ ruột, rằng những giấc mơ hắn thấy nằm trong nôi một nơi trông
như mấy tấm hình chụp Kiev thập niên 1970 không chỉ là giấc mơ, chúng là những
ký ức thời thơ ấu.
Nhưng giờ hắn đang vã mồ hôi. Dù là người
mang tin tốt, hắn vẫn toát mồ hôi hột.
Người đàn ông nơi ghế chưa nổi cơn thịnh nộ.
Chưa nổi điên về vụ tiền với ma túy ở văn phòng của Kalle Farrisen bị cướp.
Không thét lên sao Sylvester lại mất tích được. Hay gầm lên sao chúng vẫn chưa
tìm ra thằng Lofthus đó. Dù là ai cũng biết chúng đang lâm nguy. Có bốn kịch bản
và ba trong đó là xấu. Kịch bản xấu số một: Sonny đã giết Agnete Iversen,
Kalle, Sylvester và hắn sẽ tiếp tục giết bất cứ ai chúng làm việc cùng. Kịch bản
xấu thứ hai: Sonny bị bắt, thú tội và khai ra tên tuổi hung thủ đích thực trong
các vụ án mạng hắn ngồi tù thay. Kịch bản xấu thứ ba: không có lời nhận tội của
thằng này, Yngve Morsand sẽ bị bắt vì giết vợ, không chịu nổi áp lực nên sẽ
khai với cảnh sát chuyện thật sự xảy ra.
Khi Morsand mới đến gặp chúng nói là lão muốn
người vợ phản trắc của lão chết, Nestor tưởng như vậy nghĩa là lão muốn thuê kẻ
giết mướn. Nhưng Morsand cứ nhất định muốn hưởng cái thú tự mình giết vợ, lão
chỉ muốn chúng dàn xếp người khác lãnh đạn thay vì lão, ông chồng bị cắm sừng,
người sẽ tự động thành nghi phạm số một của cảnh sát. Và được giá thì cái gì
cũng bán.
Trong trường hợp này, ba triệu krone. Một
giá hợp lý cho bản án chung thân, Nestor lập luận, và Morsand đồng ý. Sau đó
khi Morsand giải thích hắn muốn trói con mụ trắc nết phản bội lại, để cây cưa
xuống trán mụ và nhìn vào mắt mụ mà cưa sọ mụ ra, Nestor đã cảm thấy dựng tóc
gáy, vừa kinh hoàng vừa háo hức. Chúng đã dàn xếp mọi thứ với Arild Franck:
ngày ra ngoài cho gã thanh niên, vị trí địa lý, và người áp giải: tên quản giáo
thân tín, tha hóa, được trả lương hậu hĩnh của Franck, một kẻ sống tách biệt ở
Kaupang, thích quan hệ với những người béo ú và chi tiền cho cocain, các khoản
nợ và bọn gái to béo xấu xí đến mức ta có thể nghĩ tiền sẽ trao tay theo hướng
ngược lại.
Kịch bản thứ tư và duy nhất khá khẩm thực
ra rất đơn giản: tìm cho ra thằng thanh niên và thủ tiêu hắn. Hết sức đơn giản.
Đáng ra phải làm từ lâu rồi.
Vậy mà người đàn ông nơi ghế vẫn bình thản
nói giọng trầm đục, rầm rì. Và đó là cái giọng làm Nestor toát mồ hôi hột. Từ
ghế trắng lưng cao giọng đó đã yêu cầu Nestor giải thích. Chỉ có vậy. Một lời
giải thích. Nestor hắng giọng, hy vọng giọng mình sẽ không tố cáo nỗi kinh
hoàng luôn có mặt khi hắn ở trong phòng với sếp.
- Chúng tôi đã quay lại nhà đó tìm
Sylvester. Chúng tôi chỉ thấy cái ghế dựa không ai ngồi có lỗ đạn nơi lưng ghế.
Chúng tôi đã kiểm tra đầu mối liên lạc ở tổng đài Telenor, nhưng không có trạm
cơ sở nào bắt được tín hiệu điện thoại của Sylvester từ đêm qua. Điều này nghĩa
là hoặc Lofthus đã hủy điện thoại hoặc điện thoại hắn đâu đó ngoài vòng phủ
sóng. Bất luận thế nào thì tôi cũng cho rằng quả có nguy cơ Sylvester không còn
sống.
Cái ghế ở đầu bàn từ từ quay lại rồi người
đàn ông hiện ra. Thân hình ụ lên, cơ bắp làm căng mọi đường chỉ nơi bộ com lê,
trán cao, ria mép kiểu xưa, cặp mày rậm bên trên cái nhìn ngái ngủ giả tạo.
Hugo Nestor cố đón bắt ánh mắt đó. Nestor từng
giết đàn bà, đàn ông và trẻ em, hắn nhìn vào mắt họ mà còn chẳng chớp mắt. Hoàn
toàn ngược lại, hắn nhìn chăm chú xem có thấy nó không - nỗi sợ chết, đinh ninh
về điều sắp xảy ra, bất kỳ sự sáng suốt nào người sắp chết có được tại ngưỡng cửa
sang kiếp sau. Như đứa con gái Belarus hắn cắt cổ khi bọn kia không sẵn sàng. Hắn
đã nhìn chằm chằm vào đôi mắt van lơn của cô ta. Như thể hắn bị những cảm xúc lẫn
lộn của mình kích thích, thịnh nộ vì sự đầu hàng và nhu nhược của kẻ khác, và của
cô gái này. Kích thích vì cái háo hức nắm trong tay một sinh mạng và quyết định
xem có ra tay kết liễu nó không, và nếu có thì là khi nào. Hắn có thể kéo dài mạng
sống cô ta thêm một giây, rồi một giây nữa. Rồi thêm một giây nữa. Hoặc không.
Chuyện đó hoàn toàn tùy hắn định đoạt. Và hắn chỉ nhận ra chuyện này gần giống
nhất với cơn cực khoái thiên hạ vẫn nói mà hắn có được, một sự hợp nhất mà với
hắn thì chỉ gắn liền với chút khó chịu và những cố gắng ngượng nghịu để được
xem như người bình thường. Hắn đã đọc đâu đó rằng cứ một trăm người thì có một
người lãnh cảm. Chuyện đó làm hắn thành ngoại lệ. Nhưng điều đó không làm hắn
thành bất thường. Trái lại, hắn có thể tập trung vào cái thực sự quan trọng,
gây dựng đời mình, uy tín của mình, được người khác nể nang sợ sệt mà không bị
xao nhãng và mất sức vì chứng nghiện tình dục mà thiên hạ đã thành nô lệ. Chắc
hẳn chuyện đó hợp lý và - do vậy - bình thường? Hắn là người bình thường không
khiếp sợ, mà, đúng hơn, tò mò về cái chết. Vả lại, hắn có tin tốt cho sếp.
Nhưng Nestor chỉ cố giữ được ánh nhìn của sếp có năm giây rồi phải quay đi chỗ
khác. Vì cái hắn thấy trong đó thì lạnh lẽo và trống trải hơn cả cái chết và sự
tiêu tan. Đó là mãi mãi trầm luân trong hỏa ngục. Lời cam đoan rằng ta đã có một
linh hồn và ta sẽ bị tước mất.
- Nhưng chúng tôi được mật báo về chỗ có thể
có thằng này, - Nestor nói.
Người đàn ông khổng lồ nhướng một bên mày.
- Từ ai?
- Coco Thằng buôn ma túy sống ở Trung tâm
Ila cho đến mới đây.
- Thằng tâm thần đi giày cao gót, phải vậy
không?
Nestor chưa bao giờ xác định chính xác được
sếp có thông tin bằng cách nào. Không bao giờ thấy ông ta ngoài đường. Nestor
chưa từng gặp ai nhận là đã nói chuyện với ông ta, nói gì là nhìn thấy. Vậy mà
ông ta biết mọi thứ và xưa nay vẫn vậy. Thời còn gián điệp nhị trùng thì chuyện
đó không có gì lạ, ngày ấy sếp hắn thường tiếp cận được gần như nhất cử nhất động
của cảnh sát. Nhưng sau khi chúng giết Ab Lofthus khi tên này sắp vạch trần gã
gián điệp, các hoạt động của gián điệp nhị trùng xem ra đã dừng. Chuyện này
cũng đã gần mười lăm năm rồi, và Nestor đành chấp nhận là có lẽ hắn sẽ không
bao giờ biết được danh tính tên gián điệp nhị trùng.
- Hắn nói về một thanh niên tại Ila có nhiều
tiền đến mức trả nợ thay cho thằng ở chung phòng, - Nestor nói bằng giọng điệu
đã cẩn thận tập dượt và với cái hắn nghĩ là một chữ “r” miền Đông Slavơ. - Mười
hai ngàn krone tiền mặt.
- Ở Ila chẳng ai đi trả nợ cho tên nghiện
khác cả, - Sói, tên lớn tuổi hơn chịu trách nhiệm buôn thiếu nữ nói.
- Hẳn vậy, - Nestor nói. - Nhưng thằng này lại
làm - dù tên ở chung phòng tố hắn trộm đôi hoa tai nào đó. Nên tôi nghĩ...
- Mày đang nghĩ về tiền trong két sắt của
Kalle? - Người đàn ông khổng lồ nói. - Và nữ trang ăn cắp ở nhà Iversen, phải vậy
không?
- Vâng. Nên tôi đi gặp Coco và cho hắn xem
hình thằng đó. Và hắn đã xác nhận đúng là gã, Sony Lofthus. Tôi thậm chí còn biết
số phòng gã. 323. Vấn đề là giờ làm sao ta... - Nestor chụm mấy đầu ngón tay với
nhau và bặm bặm môi như đã nếm được cái điều đồng nghĩa với hai chữ khử gã.
- Ta không vào được đâu, - Sói nói. - Hay
ít ra là vào mà không ai hay biết. Cổng khóa, có đám nhân viên tiếp tân và đâu
đâu cũng có màn hình an ninh khép kín.
- Ta có thể dùng một thằng trong trung tâm
cho vụ này, - Voss nói, trước kia hắn là sếp trong công ty bảo vệ, bị sa thải
sau khi có dính líu trong việc nhập khẩu và buôn bán thuốc anabolic steroid [Chất
tổng hợp nhân tạo kích thích tố sinh dục nam, làm phát triển cơ bắp].
- Ta sẽ không giao việc này vào tay một thằng
nghiện, - Sói nói. - Lofthus không chỉ thoát được người của ta, toàn bọn được
cho là thành thạo, mà xem ra còn khử một đứa trong bọn.
- Vậy ta làm gì? - Nestor nói. - Nằm chờ hắn
ra ngoài trung tâm? Cài tay bắn tỉa trong tòa nhà đối diện? Phóng hỏa trung tâm
và phong tỏa các lối thoát hiểm?
- Giờ không phải lúc đùa, Hugo, - Voss nói.
- Ông phải biết tôi không bao giờ đùa cả. -
Nestor cảm thấy mặt nóng bừng. Nóng, nhưng không vã mồ hôi. - Nếu ta không tóm
được hắn trước khi cảnh sát...
- Ý hay.
Hai chữ nói ra nhỏ đến mức chỉ vừa nghe thấy.
Vậy mà nghe như sấm trong phòng.
Tiếp theo là im lặng.
- Nghĩa là? - Cuối cùng Nestor hỏi.
- Không được tóm hắn trước cảnh sát, - người
đàn ông khổng lồ nói.
Nestor nhìn quanh phòng cho chắc là không
chỉ mỗi mình hắn không hiểu rồi mới hỏi:
- Ý sếp là sao?
- Đúng như tao đã nói, - người đàn ông khổng
lồ rì rầm, khẽ mỉm cười và đưa mắt nhìn về người duy nhất trong phòng vẫn ngồi
im cho đến lúc này. - Ông hiểu ý tôi muốn nói gì, phải vậy không?
- Tôi hiểu, - người nọ trả lời. - Cuối cùng
rồi thằng nhỏ sẽ về lại nhà tù Staten. Có lẽ nó sẽ tự vẫn - hệt như cha nó?
- Được.
- Tôi sẽ mật báo cho cảnh sát nơi họ tìm ra
thằng đó, - người này nói, ngẩng cằm lên, mấy cái ngấn dưới cổ áo sơ mi đồng phục
xanh lá dãn ra.
- Chuyện đó không cần thiết. Tôi sẽ lo bên
cảnh sát, - người đàn ông khổng lồ nói.
- Thật sao? - Arild Franck nói, nghe có vẻ
ngạc nhiên.
Người đàn ông khổng lồ quay lại hướng về cả
bàn.
- Vậy còn về nhân chứng ở Drammen?
- Hắn ta đang nằm viện, khoa Tim, - Hugo
Nestor nghe một ai đó nói trong lúc hắn nhìn chằm chằm bức tranh.
- Vậy ta làm gì chuyện đó?
Hắn nhìn chằm chằm.
- Cái ta phải làm, - giọng trầm đục đáp.
Hắn ngây nhìn Sinh Đôi treo trên cây thập
ác.
* * *
Treo.
Martha ngồi trên gác mái.
Nhìn đăm đăm lên xà nhà.
Cô đã nói với đồng nghiệp là muốn kiểm tra
xem việc sắp dọn hồ sơ làm đã đúng chưa. Khó mà không đúng cho được, cô không bận
tâm chuyện đó. Dạo này cô không để tâm đến cái gì cả. Cô nghĩ về anh, Stig, từng
giờ từng phút và điều đó vừa bình thường lại vừa bi đát. Cô đang yêu. Cô vẫn
tin mình không thể có những cảm xúc mãnh liệt. Cô từng phải lòng nhiều người,
hiển nhiên rồi, rất nhiều người, nhưng chưa bao giờ như vậy. Những lúc khác cô
thấy bồi hồi xao xuyến, đó là một trò thú vị, tất cả các giác quan mạnh mẽ lên
và má ửng hồng.
Nhưng đây lại là căn bệnh. Cái gì đó đã xâm
nhập cơ thể cô và kiểm soát mọi ý nghĩ hành động. Cô đã trúng tiếng sét ái
tình. Ngã gục vì một căn bệnh, hay một số phận nghiệt ngã. Đó là một cách diễn
đạt phù hợp. Chuyện này quá mức. Đó là điều không mong muốn. Nó xé tan cô ra.
Người đàn bà đã treo cổ trên gác mái này phải
chăng cũng giống như cô? Phải chăng cô ta cũng đã phải lòng một người đàn ông
mà cô ta biết, trong tận cùng tâm khảm, không phải đối tượng? Và có phải cô ta
cũng đã mù quáng vì tình yêu đến mức bắt đầu cân nhắc đúng sai, cố đặt ra một
luân lý mới cho phù hợp với chứng bệnh tuyệt vời này? Hay có phải cô ta - giống
như Martha - chỉ nhận ra khi đã lụy quá mức rồi? Trong giờ ăn sáng Martha đã
quay lại phòng 323. Cô kiểm tra đôi giày thể thao lần nữa. Nó có mùi thuốc tẩy.
Ai lại đi giặt đế giày thể thao gần như mới toanh trừ khi có gì phải che đậy?
Và sao cô lại ngập tràn thất vọng đến nỗi phải lên gác mái? Lạy Chúa, cô thậm
chí còn không muốn có anh.
Cô nhìn đăm đăm lên xà nhà.
Nhưng cô sẽ không làm cái người đàn bà đã
chết làm: tố giác anh. Cô không thể. Hẳn phải có một lý do, cái gì đó cô không
biết. Anh không như vậy. Trong công việc của mình cô đã nghe rất nhiều dối trá,
bào chữa và đủ kiểu sự thật đến mức cuối cùng cô không còn tin bất cứ cái tên
nào mà thiên hạ tự xưng. Nhưng cô biết một điều: Stig không phải sát thủ máu lạnh.
Cô biết điều đó vì cô đang yêu.
Martha vùi mặt trong hai bàn tay. Cảm thấy
nước mắt dâng lên. Ngồi đó, im lìm run rẩy. Anh đã muốn hôn cô. Cô đã muốn hôn
anh. Vẫn muốn hôn anh. Ở đây, lúc này, mãi mãi! Buông trôi trong đại dương cảm
xúc bao la, ấm áp, tuyệt vời đó. Nhận lấy liều thuốc, đầu hàng, ấn ống bơm xuống,
cảm thấy lâng lâng, thấy khoan khoái và đáng nguyền rủa.
Cô nghe thấy tiếng thút thít. Và cảm thấy
lông tay dựng lên. Nhìn chằm chằm bộ đàm. Tiếng thút thít dịu dàng của trẻ sơ
sinh.
Cô muốn tắt bộ đàm, nhưng không tắt. Lần
này tiếng khóc nghe khác. Như thể đứa bé sợ hãi và đang gọi cô. Nhưng vẫn là đứa
bé đó, luôn là một đứa. Đứa trẻ của cô. Đứa lưu lạc. Bị chết trong chân không,
giữa hư vô, cố tìm đường về. Và không ai đủ sức hay muốn giúp nó. Không ai dám.
Vì họ không biết đó là gì và người ta sợ cái xa lạ. Martha lắng nghe tiếng
khóc. Nó cao vút về âm sắc và cường độ. Rồi cô nghe có tiếng lách tách to và một
giọng cuống cuồng:
- Martha! Martha! Vào đi...
Martha sững người. Chuyện gì vậy?
- Martha! Bọn họ vây ráp trung tâm! Họ có
vũ khí! Chúa ơi cô đâu rồi?
Martha cầm bộ đàm lên bấm nút đàm thoại.
- Có chuyện gì vậy Maria? - Cô thả nút ra.
- Bọn họ mặc đồ đen và đeo mặt nạ, họ có lá
chắn và súng và họ đông lắm! Cô xuống dưới nhà đi!
Martha đứng lên chạy khỏi phòng. Cô nghe thứ
tiếng chân mình chạy bình bịch xuống cầu thang. Mở tung cửa vào hành lang tầng
hai. Thấy một người đàn ông mặc đồ đen quay lại chĩa khẩu súng săn hay có lẽ là
súng máy vào cô. Thấy ba người khác đứng trước cửa phòng 323. Hai trong ba bọn
họ cùng cầm nhá tới nhá lui một búa tạ ngắn ở giữa.
- Có... - Martha mở miệng nói, nhưng dừng nửa
chừng khi người cầm súng máy bước tới trước mặt cô và đưa ngón tay lên chỗ mà
cô nghĩ là môi bên dưới mũ bịt đầu đen. Cô tê liệt trong giây lát rồi mới nhận
ra thứ duy nhất ngăn cô là vũ khí ngu ngốc của hắn.
- Tôi muốn xem lệnh khám xét ngay! Mấy ông
không có quyền...
Có tiếng rầm thật to khi búa tạ đập vào cửa
bên dưới ổ khóa. Người thứ ba mở hé cửa ném vào cái gì trông như hai quả lựu đạn.
Rồi mấy người đàn ông quay đi và bịt tai. Lạy Chúa, có phải họ...? Ánh sáng lóe
lên từ khung cửa mạnh đến mức cả ba sĩ quan cảnh sát hắt bóng trong hành lang vốn
đã sáng trưng, và tiếng nổ to đến mức tai Martha lùng bùng. Rồi họ ập vào
phòng.
- Lùi lại, cô!
Câu nói cảnh sát đứng trước mặt cô phát ra
nghẽn nghẹt. Dường như hắn ta đang quát. Martha cứ nhìn hắn. Cũng như mấy người
kia hắn mặc đồng phục đen của lực lượng Delta và áo chống đạn. Thế rồi cô lùi lại
qua cửa, ra chỗ đầu cầu thang. Dựa tường. Lục tìm trong túi. Tấm danh thiếp còn
nằm trong túi áo khoác như thể cô vẫn biết một ngày nào đó sẽ cần đến. Cô bấm số
bên dưới tên.
- A lô?
Giọng nói là một thứ nhiệt kế chính xác kỳ
lạ. Giọng Simon Kefas nghe mệt mỏi và căng thẳng, nhưng không có cái sôi động
mà một vụ vây ráp, một vụ bắt bớ lớn đem lại. Theo độ vang âm cô còn suy ra là
ông không ở ngoài đường hay trong phòng nào tại Trung tâm Ila, mà trong một
không gian rộng, xung quanh nhiều người.
- Họ đang ở đây, - cô nói. - Họ đang ném
lưu đạn.
- Cô đang nói gì vậy?
- Martha Lian ở Trung tâm Ila đây. Có một đội
phản ứng có vũ trang ở đây. Chúng tôi bị vây ráp.
Trong khoảng dừng theo sau cô nghe thấy đằng
sau ông có một giọng ra thông báo, một cái tên, họ đang gọi bác sĩ đến lo cho
phòng hậu phẫu. Chánh thanh tra đang ở trong bệnh viện.
- Tôi đến đó ngay, - ông nói.
Martha bấm tắt cuộc gọi, mở cửa quay lại
hành lang. Cô nghe có tiếng lách tách và xèo xèo từ radio cảnh sát.
Tên sĩ quan cảnh sát chĩa súng vào cô.
- Này, tôi vừa bảo cô thế nào hả!
Một giọng lanh lảnh trong radio của hắn
nói: “Giờ chúng tôi giải hắn ra đây”.
- Làm đi, cần thì ông cứ bắn tôi đi, nhưng
tôi phụ trách ở đây nên tôi vẫn phải xem lệnh khám xét, - Martha tuyên bố rồi
bước qua mặt hắn.
Thế rồi cô thấy họ từ phòng 323 đi ra. Anh ta
bị còng tay và được hai cảnh sát giải ra. Anh ta gần như trần truồng, mặc mỗi
quần lót trắng hơi rộng và trông anh ta mong manh lạ lùng. Dù có thân hình vạm
vỡ anh ta vẫn trông gầy guộc, hốc hác và kiệt quệ. Một dòng máu rỉ xuống từ bên
tai.
Anh ta nhìn lên. Gặp ánh mắt cô.
Rồi họ đi ngang qua cô, khuất tầm mắt.
Vậy là xong.
Martha thở một hơi nhẹ nhõm.
* * *
Sau khi đã gõ cửa hai tiếng, Betty lấy chìa
cái ra và tự vào phòng. Như mọi khi cô nấn ná lâu hơn cần thiết để nếu như có
khách trong phòng, hắn sẽ kịp tránh một tình huống khó xử có thể xảy ra. Đây là
chính sách tại khách sạn Plaza: nhân viên không được thấy hay nghe gì không nên
thấy hay nghe. Nhưng đây không phải chính sách của Betty. Hoàn toàn ngược lại.
Mẹ cô vẫn luôn nói rồi có ngày thói tò mò sẽ khiến cô gặp phiền phức. Và, phải,
đúng là như vậy, mà không chỉ một lần. Nhưng làm tiếp tân thì tính tò mò cũng rất
hữu dụng; trong khách sạn không ai có khả năng đánh hơi bọn lừa bịp như Betty.
Nó gần như đã thành thương hiệu của cô, vạch mặt những kẻ muốn ăn, và mời mọc tại
khách sạn mà không định thanh toán. Cô cũng thường chủ động; Betty chưa hề che
giấu tham vọng. Năm vừa rồi, sếp đã khen ngợi cô là có tinh thần cảnh giác,
nhưng thận trọng, và luôn đặt lợi ích của khách sạn lên hàng đầu. Nói rằng cô
có thể tiến xa, rằng công việc tiếp tân chỉ là hòn đá kê chân cho người như cô.
Phòng suite là một trong những phòng lớn nhất trong cái khách sạn có tầm nhìn
ra toàn cảnh Oslo này. Nó có quầy bar, một bếp nhỏ, một phòng tắm và phòng ngủ
có phòng tắm riêng. Cô nghe có tiếng vòi sen chảy trong phòng tắm riêng.
Theo đăng ký thì hắn tên Fidel Lae và tiền
rõ ràng không thành vấn đề. Bộ com lê cô đang đem lên cho hắn do Tiger may và
đã mua ở Bogstadveien ngày hôm ấy, gửi đến thợ may để chỉnh sửa theo dịch vụ tốc
hành, và rồi cho taxi giao đến khách sạn. Mùa hè khách sạn thường thuê một cậu
bé chạy việc để đem đồ lên phòng cho khách, nhưng hè này vắng vẻ đến mức chính
tiếp tân phải làm việc đó. Betty tình nguyện ngay. Không phải vì quả thực cô có
lý do nào để nghi ngờ. Khi cô làm thủ tục giao phòng, hắn đã trả trước hai đêm
mà bọn lừa đảo thì không làm vậy. Nhưng ở hắn có gì đó có vẻ không thật. Trông
hắn không giống hạng người đặt phòng suite tầng trên cùng. Giống kẻ ngủ bụi hay
thường nhà trọ dành cho dân du dịch ba lô hơn. Lúc làm thủ tục nhận phòng hắn
trông rất lóng ngóng và hết sức chú tâm như thể chưa từng ở khách sạn, nhưng đã
đọc trên lý thuyết, nên giờ sốt sắng làm mọi thứ cho đúng. Lại còn chuyện hắn
ta trả tiền mặt.
Betty mở tủ áo thì thấy trong đó đã sẵn một
cà vạt và hai sơ mi mới, cũng của Tiger và có lẽ mua ở cùng cửa hiệu. Một đôi
giày đen mới toanh trên sàn. Cô đọc thấy tên “Vass” trên tấm lót giày. Cô treo
bộ com lê lên kế một vali dài, mềm có bánh xe. Nó cao cũng gần bằng cô; cô thấy
những vali loại này rồi, người ta dùng để vận chuyển ván trượt tuyết hay ván lướt
sóng. Cô thấy muốn mở dây kéo ra, nhưng thay vì vậy đã chọt tay vào vali. Lớp vải
trũng xuống. Rỗng - hay ít ra bên trong cũng không có ván trượt tuyết. Ngoài
vali thì trong tủ áo chỉ có một thứ trông không còn mới, túi thể thao đỏ có
hàng chữ Câu lạc bộ đấu vật Oslo.
Cô khép cửa tủ, bước đến mở cửa phòng ngủ
và gọi về cửa phòng tắm:
- Ông Lae! Xin lỗi, ông Lae!
Cô nghe tiếng vòi tắt rồi một người đàn ông
tức thì ló ra, tóc ướt chải ra sau và mặt đầy bọt kem cạo râu.
- Tôi treo bộ com lê vào tủ cho ông rồi.
Tôi được dặn lấy một lá thư, để đóng dấu rồi gửi bưu điện?
- Ồ, phải rồi. Cảm ơn cô nhiều. Cô chờ cho
chút được không?
Betty bước lại cửa sổ phòng khách, đón nhận
quang cảnh Nhà hát Opera mới và vịnh Oslo. Những tòa nhà cao tầng mới đứng san
sát như cọc hàng rào. Ekchergasen. Tòa nhà bưu điện. Tòa thị chính. Mấy đường
ray tàu hỏa từ khắp đất nước đi vào rồi nhập vào nhau thành chùm dây thần kinh ở
Nhà ga Trung tâm Oslo bên dưới. Cô để ý thấy có tấm bằng lái trên bàn làm việc
rộng. Nó không phải của Lae. Kế đó là cây kéo và tấm hình cỡ hộ chiếu của Lae
đeo kính vuông nổi bật có gọng đen cô đã thấy hắn đeo khi làm thủ tục nhận
phòng. Tiếp đó nữa là hai chiếc cặp mới tinh và giống hệt nhau. Dưới nắp một cặp
ló ra góc túi nhựa. Cô nhìn chằm chặp. Nhựa không bóng, nhưng trong suốt. Có dấu
vết thứ gì trăng trắng bên trong.
Cô lùi lại hai bước nhìn vào phòng ngủ. Cửa
phòng ngủ mở nên cô thấy được lưng người khách đứng trước gương. Hắn quấn khăn
tắm quanh thắt lưng và đang chăm chú cạo râu. Vậy là nghĩa là cô có một cơ hội
mong manh để nhòm ngó.
Cô thử mở chiếc cặp có túi nhựa. Nó bị
khóa.
Cô nhìn cái khóa số. Mấy bánh xe kim loại
nhỏ cho thấy số 0999. Cô nhìn qua cặp kia. 1999. Hai cặp có cùng mã không? Nếu
vậy thì trông như 1999 là mật mã. Một năm. Năm sinh của ai đó, có lẽ vậy. Hay
bài hát của Prince. Dù là gì thì nó cũng là không khóa.
Betty nghe khách mở vòi trong phòng tắm. Giờ
hắn đang khoát nước lên mặt. Cô biết quả thực mình không nên.
Cô nhấc nắp chiếc cặp thứ hai lên. Rồi há hốc.
Cặp đựng đầy những xấp tiền.
Rồi cô nghe tiếng bước chân từ phòng ngủ đi
lại nên lẹ làng đóng nắp, bước nhanh ba bước và đứng ở cửa sổ hành lang mà tim
đập thình thịch.
Hắn từ phòng ngủ đi ra nhìn cô mỉm cười.
Nhưng ở hắn có gì khang khác. Có lẽ chỉ vì hắn đã tháo kính râm. Hay vì miếng
khăn giấy thấm máu me trên một bên mắt. Phút đó cô nhận ra cái khang khác đó là
gì. Hắn đã cạo lông mày, thế đấy. Ai đời lại đi cạo lông mày? Ngoài Bom Geldof
trong phim Bức tường, tất nhiên. Nhưng gã ta khùng. Hay làm bộ khùng. Người trước
mặt cô bị điên rồi sao? Không, người điên không có cái cặp đầy tiền, họ chỉ tưởng
mình có.
Hắn ta mở hộc bàn, lấy ra một phong bì nâu
đưa cho Betty.
- Phiền cô làm sao chắc chắn thư đến bưu điện
trong ngày hôm nay.
- Tôi tin chắc chúng tôi lo liệu được chuyện
đó, - cô nói, hy vọng hắn không phát hiện thấy vẻ bối rối của cô.
- Cảm ơn cô nhiều, Betty.
Cô chớp chớp mắt. Tất nhiên rồi - tên cô
trên bảng tên của khách sạn.
- Chúc ông một ngày tốt lành, ông Lae, - cô
mỉm cười rồi để tay lên nắm cửa.
- Chờ đã, Betty...
Cô cảm thấy nụ cười đông cứng lại. Hắn đã thấy
cô mở cặp hắn sắp...
- Có lẽ... ừm, theo lệ thì tôi phải boa cho
việc này đúng không?
Cô thở phào nhẹ nhõm.
- Không đâu, ông Lae.
Đến khi vào thang máy rồi cô mới nhận ra
mình đang toát mồ hôi như tắm. Sao không bao giờ cô kiềm chế được tính tò mò?
Cô cũng không thể nói cho ai biết cô đã lục lọi tài sản của khách. Dù sao thì cất
tiền trong cặp là phi pháp từ khi nào vậy? Nhất là nếu ta làm việc cho cảnh
sát. Vì đó là cái ghi trên bì thư màu nâu. Trụ sở cảnh sát, 44 Gronlandslelret.
Chuyển cho Simon Kefas.
* * *
Simon Kefas đang đứng trong phòng 323, nhìn
quanh.
- Vậy là Delta đã vây ráp căn phòng? - Ông
nói. - Rồi áp giải gã ở tầng giường dưới đi? Johnny - họ của hắn là gì?
- Puma, - Martha nói. - Tôi gọi vì nghĩ có
lẽ ông đã...
- Không, tôi không dính dáng gì đến chuyện
đó. Bạn cùng phòng với Johnny là ai?
- Anh ta tự xưng là Stig Berger.
- Hừm. Vậy giờ cậu ta đâu?
- Tôi không biết. Không ai biết cả. Cảnh
sát đã hỏi hết người ở đây. Nghe này, nếu không phải ông vậy thì tôi muốn biết
ai ra lệnh vây ráp.
- Tôi không biết, - Simon nói, mở tủ áo. -
Chỉ có ủy viên mới có quyền huy động Delta, đi mà hỏi ông ấy. Đây là áo quần của
Stig Berger?
- Theo như tôi biết.
Ông có linh cảm là cô đang nói dối, rằng cô
biết nó của cậu ta. Ông cầm đôi giày thể thao xanh dưới đáy tủ lên. Cỡ 8,1/2. Để
lại chỗ cũ, đóng cửa tủ và phát hiện ra bức hình đính vào tường cạnh tủ áo. Những
nghi ngờ nào ông có thể có cho đến phút này đều tan biến.
- Tên cậu ta là Sonny Lofthus, - Simon nói.
- Sao?
- Người trọ kia. Tên cậu ta là Sonny và
hình này là cha cậu ta, Ab Lofthus. Cha cậu ta từng là sĩ quan cảnh sát. Con
trai thành kẻ giết người. Đến nay đã sát hại sáu mạng người. Xin cô cứ tự nhiên
khiếu nại với ủy viên, nhưng tôi nghĩ chúng tôi có thể an toàn nói rằng sự có mặt
của Delta là có lý do chính đáng.
Ông thấy mặt cô dường như căng thẳng còn
con ngươi co lại như thể thình lình bị chói. Nhân viên ở đây đã nhìn thấy đôi
điều, nhưng khi biết mình cho kẻ giết người hàng loạt dung thân thì đó vẫn là
cú sốc.
Ông ngồi xổm xuống, có gì đó dưới giường tầng.
Ông lôi nó ra.
- Nó là gì thế? - Cô hỏi.
- Lựu đạn gây choáng, - ông nói, đưa lên vật
màu xanh ô liu trông như tay nắm cao su nơi ghi đông xe đạp. - Nó tạo ra ánh
lóe sáng mạnh và tiếng nổ khoảng 170 dB. Nó không nguy hiểm, nhưng làm người ta
không thấy đường, điếc, choáng và rối trí vài giây để Delta kịp làm cái họ cần
làm. Nhưng họ đã không rút chốt cái này, nên nó không nổ. Vậy đấy, bị áp lực
người ta thường mắc lỗi. Cô không đồng tình sao?
Ông liếc đôi giày thể thao rồi nhìn lên cô.
Nhưng khi cô nhìn lại ông, cái nhìn kiên định và dứt khoát. Ông không thấy gì ở
đó.
- Tôi phải quay lại bệnh viện đây, - Simon
nói. - Cô gọi cho tôi nếu cậu ta quay lại chứ?
- Ông có sao không?
- Có lẽ không, - Simon nói. - Nhưng bệnh
nhân là vợ tôi. Cô ấy sắp mù rồi.
Ông nhìn xuống hai bàn tay. Ông thấy muốn
nói thêm: cũng như tôi.
28
Hugo Nestor rất thích Vermont. Đó là một
trong ít sự kết hợp nhà hàng quán bar và vũ trường thực sự thành công trong cả
ba lĩnh vực. Khách hàng gồm người giàu và đẹp, không đẹp nhưng giàu, không giàu
mà đẹp, đủ mặt anh tài trong giới nổi tiếng, những nhà tài chính chưa hẳn thành
đạt và những người làm đêm trong ngành giải trí và những công việc về đêm. Lại
thêm bọn tội phạm thành đạt. Trong những năm 90 chính tại Vermont băng Tveita
và những kẻ có dính líu tới rửa tiền, cướp ngân hàng và bưu điện đã mua những
chai methuselah của Dom Pérignon, và vì vũ công thoát y Na Uy lúc đó thiếu sự
tao nhã nhất định, đã có những người giỏi hơn từ Copenhagen đổ về để nhảy điệu
lap nhanh trong phòng ăn riêng của chúng. Chúng dùng ống hút thổi thẳng cocain
vào nhiều lỗ khác nhau của vũ công thoát y, rồi đến lỗ của mình, trong khi bồi
bàn đem đến hàu, nấm Périgord và món gan ngỗng từ những con ngỗng cũng được
chăm bẵm như chúng chăm bẵm chính mình. Nói tóm lại, Vermont là một nơi có
phong cách và truyền thống. Một nơi mà Hugo Nestor cùng đàn em có thể ngồi hằng
đêm tại bàn riêng có giăng dây và nhìn thiên hạ bên ngoài lao xuống địa ngục. Một
nơi ta có thể làm ăn, nơi các chủ ngân hàng và giới tài chính có thể giao du với
bọn tội phạm mà lũ cớm thường xuyên lai vãng Vermont không đoán ra được nhiều.
Do vậy, yêu cầu của người vừa ngồi xuống
bên bàn chúng không nằm trong số những thất thường hơn. Gã đi vào, nhìn quanh rồi
lách đám đông đi thẳng đến chỗ chúng, nhưng bị Bo ngăn lại khi cố giạng chân bước
qua sợi dây đỏ vạch ra lãnh địa của chúng. Sau khi trao đổi với nhau vài chữ,
Bo đi lại chỗ Nestor nói nhỏ vào tai hắn: “Hắn muốn một con nhỏ châu Á. Hắn nói
là cho khách hàng, sẽ trả bất kỳ giá nào”.
Nestor nghiêng đầu nhấp sâm banh. Sinh Đôi
có một câu nói mà hắn đã biến thành của riêng: Tiền mua được sâm banh cho ta.
- Mày có thấy hắn trông giống cớm không?
- Không.
- Tao cũng không. Lấy cho hắn cái ghế.
Gã ta mặc bộ com lê trông đắt tiền, áo sơ
mi mới ủi và cà vạt. Gã có cặp lông mày nhợt nhạt bên trên cặp kính nổi bật, thời
trang. Không, đính chính chuyện đó, không có lông mày.
- Cô ta phải chưa tới hai mươi.
- Tôi không biết ông đang nói chuyện gì, -
Nestor nói. - Sao ông đến đây?
- Khách hàng của tôi là bạn của Iver
Iversen.
Hugo Nestor nhìn gã chăm chú. Gã cũng không
có lông mi. Có lẽ gã bị chứng rụng tóc toàn phần như anh của Hugo - được cho là
anh - không có lấy một sợi lông trên người. Nếu vậy thì tóc trên đầu gã hẳn là
tóc giả rồi.
- Khách hàng của tôi trong ngành vận chuyển.
Ông ta sẽ trả các anh tiền mặt và heroin đến bằng đường biển. Có lẽ anh biết rõ
hơn tôi về độ tinh khiết của một thứ hàng như vậy.
Ít trạm dừng hơn. Ít kẻ trung gian pha ma
túy hơn.
- Để tôi gọi cho Iversen, - Nestor nói.
Gã lắc đầu.
- Khách hàng của tôi yêu cầu tuyệt mật,
Iversen hay bất kỳ ai cũng không được biết. Nếu Iversen dại dột đến độ nói cho
bạn bè thân tín cái ông ta định làm thì đó sẽ là rắc rối của ông ta.
Và cả của bọn tao, Nestor nghĩ. Gã này là
ai? Gã trông không giống thằng chạy việc. Một kẻ tay chân? Một luật sư rất thân
tín của gia đình?
- Tất nhiên tôi hiểu rằng một người anh
không rõ đến gặp thẳng anh không qua đâu cả thì cần nhiều bảo đảm hơn để giao dịch
an toàn. Do vậy khách hàng của tôi và tôi đề nghị khoản tạm ứng để chứng tỏ
chúng tôi nghiêm túc. Anh nói sao?
- Tôi nói 400.000, - Nestor nói. - Con số
đó tôi chỉ nói bừa thôi, tôi vẫn chưa biết ông đang nói về chuyện gì.
- Tất nhiên là không, - gã nói. - Chúng tôi
làm được.
- Sớm được chừng nào?
- Tôi đang định tối nay.
- Tối nay?
- Tôi chỉ ở lại thành phố đến sáng mai, rồi
tôi sẽ bay về Luân Đôn. Tiền đang để ở phòng suite của tôi tại Plaza.
Nestor với Bo liếc nhìn nhau. Rồi hắn nốc một
cái cạn cốc sâm banh cao.
- Tôi không hiểu chữ nào trong những điều
ông đang nói cả, ông à. Trừ phi ông đang cố bảo tôi là ông mời chúng tôi về
phòng ông làm một ly.
Gã nhoẻn cười.
- Đó chính là điều tôi muốn nói.
* * *
Chúng kiểm tra gã khi họ vừa tới bãi xe. Bo
giữ gã trong khi Nestor sờ tìm vũ khí và micro. Gã để mình bị vỗ vỗ tìm khí giới
mà không phản đối. Gã không có gì.
Bo chạy chiếc limo đến Plaza rồi họ đi bộ từ
bãi xe nhiều tầng đằng sau Spektrum đến khối lăng trụ bằng kính sừng sững là
khách sạn Plaza. Từ thang máy bên ngoài họ nhìn xuống thành phố và Nestor nghĩ
đó là một ẩn dụ - hắn càng lên cao thì thiên hạ dưới kia càng nhỏ bé.
Bo rút súng lục ra khi gã thanh niên mở cửa
phòng. Không có lý do rõ rệt nào để nghĩ sẽ có phục kích; theo Nestor biết thì
hiện nay hắn không có kẻ thù nào còn sống. Không có tranh chấp chưa phân xử
trong thị trường còn nếu muốn thì cảnh sát cứ thoải mái bắt hắn, nhưng họ chẳng
nắm thóp gì hắn. Vậy nhưng hắn vẫn cảm thấy một sự bất an không xác định rõ được.
Hắn cho đó là do cảnh giác nghề nghiệp và quyết định sẽ không lơ là, điều này
thì kẻ khác trong nghề có thể học hỏi. Không phải vô cớ mà Nestor đạt đến địa vị
ngày hôm nay.
Phòng suite lịch sự. Một quang cảnh nhìn ra
tuyệt vời, hắn sẵn sàng cho điểm họ điều đó. Gã ta đã bày sẵn hai chiếc cặp
trên bàn cà phê. Trong khi Bo đi kiểm tra mấy phòng khác, gã ra sau quầy bar
pha thức uống.
- Cứ tự nhiên đi, - gã ta nói, chìa tay về
mấy cái cặp.
Nestor ngồi xuống bên bàn cà phê và mở nắp
cặp thứ nhất, rồi đến cặp kia.
Trong đó có hơn 400.000 krone. Hẳn là vậy.
Và nếu ma túy trong cặp kia tinh khiết như
gã ta ám chỉ thì ở đó có thừa để mua cả một ngôi làng có các thiếu nữ châu Á.
- Tôi mở TV thì có phiền gì ông không? -
Nestor hỏi, cầm điều khiển từ xa lên.
- Xin cứ tự nhiên, - gã ta nói; gã đang
loay hoay pha đồ uống, trông gã làm lóng ngóng, dù ít ra thì gã cũng đang cắt
chanh cho ba cốc rượu gin pha tonic.
Nestor bấm mở mấy kênh thuê bao, bỏ qua mấy
phim thiếu nhi và gia đình đến kênh khiêu dâm rồi mở lớn âm thanh.
Hắn đi lại quầy bar.
- Cô ta mười sáu tuổi và sẽ được giao đến
bãi xe tại Ingierstrand Lido nửa đêm mai. Ông sẽ chạy đến giữa bãi xe và ở yên
trong xe. Một người của tôi sẽ đi lại chỗ ông, vào sau xe kiểm tiền. Xong hắn sẽ
cầm tiền đi và người khác sẽ dẫn cô gái đến. Hiểu chưa?
Gã ta gật.
Cái Nestor không nhắc đến, vì không cần phải
nói, là cô gái đó sẽ không ngồi cùng xe đến nhận tiền. Tiền sẽ phải rời nơi hẹn
trước khi xe chở cô gái tới. Cùng nguyên tắc như trong buôn bán ma túy.
- Còn tiền...?
- Thêm 400.000 nữa, - Nestor nói.
- Được.
Bo từ phòng ngủ đi vào và dừng lại nhìn màn
hình. Hắn có vẻ thích. Hình như ai cũng đều vậy cả. Nestor chỉ thấy phim khiêu
dâm có ích vì nó cho ta một khúc nhạc rên rỉ đều đều dễ biết trước để vô hiệu
hóa bất kỳ vụ nghe trộm phòng có thể có nào.
- Ingierstrand Lido lúc nửa đêm mai, -
Nestor lặp lại.
- Ta uống mừng chuyện đó nào, - gã nói, đưa
ra hai ly.
- Cảm ơn, nhưng tôi lái, - Bo nói.
- Tất nhiên rồi, - gã cười và vỗ đầu. -
Coke?
Bo nhún vai và gã ta mở một lon Coke, rót
vào ly rồi cắt một lát chanh khác.
Họ cụng ly rồi ngồi xuống bên bàn. Nestor
ra hiệu cho Bo, hắn cầm một xấp tiền trong cặp lên đếm thành tiếng. Hắn có mang
theo một túi xách lấy trong xe để bỏ tiền. Chúng không bao giờ chịu lấy túi của
khách, nó có thể gắn thiết bị cảm biến dò ra được tiền đem đi đâu. Đến khi
Nestor nghe Bo đếm sai thì hắn mới nhận ra có gì đó không ổn. Có điều hắn không
biết là gì. Hắn nhìn quanh. Tường đã thay màu rồi sao? Hắn nhìn xuống ly của
mình đã cạn. Nhìn ly trống không của Bo. Rồi ly của gã luật sư.
- Sao ly ông không có chanh? - Nestor hỏi.
Giọng nghe rất rất xa. Và câu trả lời cũng vọng lại từ nơi xa xăm như vậy.
- Không uống được chanh.
Bo đã ngừng đếm; đầu gục bên mớ tiền.
- Mày bỏ thuốc bọn tao, - Nestor nói rồi với
tay rút con dao trong bao gươm bên chân. Hắn còn kịp ghi nhận là hắn đang vỗ
vào nhầm ống chân trước khi thấy đế đèn bay về phía mình. Rồi mọi thứ tối sầm lại.
Hugo Nestor vẫn luôn yêu nhạc. Mà hắn không
muốn nói kiểu ầm ĩ hay một chuỗi nốt nhạc ấu trĩ người bình thường gọi là nhạc
mà nhạc cho người lớn, người biết suy nghĩ. Richard Wagner. Gam nửa cung. Mười
hai nửa cung có tần suất dựa trên căn bậc 12 của 2. Toán học thuần khiết, sạch
sẽ, sự hài hòa, trật tự kiểu Đức. Nhưng tiếng hắn đang nghe lúc này thì ngược với
âm nhạc. Nó chói tai, không liên hệ với bất cứ thứ gì khác, đó là sự hỗn loạn.
Khi tỉnh lại, hắn nhận ra mình đang trên xe, trong một kiểu túi xách lớn nào
đó. Hắn đã cảm thấy buồn nôn và chóng mặt; hai bàn tay và hai bàn chân bị trói
với nhau bằng thứ gì đó sắc cạnh cứa vào da - có lẽ là sợi nhựa, thỉnh thoảng hắn
cũng dùng dây đó trói bọn con gái.
Khi xe dừng hắn bị nhấc ra ngoài và nhận ra
hẳn hắn đang ở trong một vali mềm có bánh xe. Nửa nằm, nửa ngồi, hắn bị đẩy rồi
lôi xềnh xệch qua một địa hình gồ ghề. Hắn nghe thấy người đang kéo vali thở hồng
hộc và khò khè. Nestor đã gọi ra hắn ta, đưa ra những đề nghị tiền bạc, nhưng
không thấy trả lời.
Âm thanh tiếp theo hắn nghe được là tiếng
huyên náo không ra nhạc, không âm điệu mà chỉ càng lúc càng mạnh. Hắn nhận ra
tiếng đó lúc vali được đặt xuống và hắn nằm ngửa ra, cảm thấy nền đất dưới lưng
và biết rằng, bởi giờ hắn đã hiểu mình đang ở đâu, nước lạnh đang thấm qua vali
rồi qua bộ com lê hắn mặc là nước đầm lầy. Chó. Tiếng sủa khục khặc, oăng oẳng
của chó ngao Argentina.
Cái hắn không biết là mọi thứ đó là gì vậy.
Gã này là ai và tại sao chuyện này lại đang xảy ra với hắn. Phải chăng là tranh
giành địa bàn? Có phải gã bắt cóc hắn cũng chính là kẻ đã giết Kalle? Nhưng sao
lại hành động theo kiểu này?
Dây khóa vali kéo ra, Nestor nheo nheo, lòa
mắt vì ánh sáng từ đèn pin rọi thẳng vào mặt.
Một bàn tay túm cổ dựng hắn dậy.
Nestor mở mắt thì thấy khẩu súng lục lấp
loáng lờ mờ trong ánh đèn. Tiếng chó sủa bỗng im bặt.
- Gián điệp nhị trùng là ai? - Giọng nói
sau đèn pin hỏi.
- Gì?
- Ai là gián điệp nhị trùng? Cảnh sát đã tưởng
đó là Ab Lofthus.
Hugo Nestor nheo mắt trước ánh đèn.
- Tao không biết. Mày bắn tao cũng được
nhưng tao không biết.
- Ai biết?
- Chẳng ai cả. Không một ai trong chúng
tao. Có lẽ ai đó trong cảnh sát.
Khi đèn pin hạ xuống thì Nestor thấy đó là
gã luật sư. Hắn đã tháo kính ra.
- Mày phải bị trừng phạt, - gã nói. - Mày
có muốn giúp lương tâm thanh thản trước không?
Gã đang nói về cái gì vậy? Gã nghe như tu
sĩ. Có phải đây là vì chuyện lão cha tuyên úy chúng giết đó không? Nhưng lão chỉ
là một tên ấu dâm đồi bại - chắc hẳn chẳng ai muốn báo thù cho lão?
- Tao không có hối tiếc gì cả, - Nestor
nói. - Cứ làm phứt đi.
Hắn cảm thấy bình tĩnh kỳ lạ. Có lẽ là tác
dụng phụ của ma túy. Hay vì hắn đã nghĩ kỹ chuyện đó nhiều lần lắm rồi, đã chấp
nhận là có lẽ đời hắn sẽ kết thúc thế này, với một viên đạn vào óc.
- Thậm chí cũng không hối tiếc về cô gái mày
để cho bị hành hạ dã man trước khi cắt cổ ư? Bằng con dao này...?
Nestor chớp chớp mắt khi ánh đèn pin hắt ra
từ lưỡi dao cong cong. Con dao Ả Rập của hắn.
- Đừng...
- Mày nhốt mấy cô gái ở đâu, Nestor?
Mấy cô gái? Phải đó là cái gã muốn, chiếm
lĩnh thị trường buôn người? Nestor cố tập trung. Nhưng khó khăn, đầu óc hắn mù
mờ.
- Mày hứa không bắn tao nếu tao cho mày biết
chứ? - Hắn hỏi, dù hắn nhận ra rằng một tiếng “ừ” sẽ có độ tin cậy như con dấu
của Đức làm năm 1923.
- Ừ, - gã nói.
Vậy sao Nestor vẫn tin gã? Sao hắn tin vào
lời hứa sẽ không bắn từ miệng một gã chỉ toàn dối từ lúc xuất hiện ở Vermont? Hẳn
là đầu óc điên rồ của hắn bám lấy cọng rơm cuối cùng này. Vì chẳng còn gì khác,
chẳng có gì ngoài niềm hy vọng ngu ngốc trong một trại chó giữa rừng ban đêm: rằng
gã bắt cóc hắn đang nói thật.
- 96 Enerhauggata.
- Cảm ơn nhiều lắm, - gã nói rồi nhét súng
lục vào lưng quần.
Cảm ơn nhiều lắm?
Gã lấy điện thoại nhập thông tin nào đó từ
mẩu giấy nhớ vàng, có lẽ là số điện thoại. Màn hình soi mặt gã và Nestor chợt
nghĩ có lẽ rốt cuộc thì gã là tu sĩ. Một tu sĩ không nói dối. Một sự mâu thuẫn
về từ ngữ, hiển nhiên rồi, nhưng hắn tin chắc rằng những tu sĩ như vậy tồn tại,
những kẻ không biết mình đang nói dối. Gã tiếp tục bấm phím. Một tin nhắn. Gã bấm
phím gửi đi. Rồi gã đút điện thoại vào túi và nhìn Nestor.
- Mày vừa làm được một việc tốt, Nestor, rất
có thể là giờ họ sẽ được giải cứu, - gã nói. - Tao nghĩ mày muốn biết điều đó
trước khi mày...
Trước khi tao gì? Nestor nuốt ực. Gã hứa
không giết hắn rồi mà! Phải rồi... Khoan đã. Gã đã hứa không bắn hắn. Ánh đèn
pin giờ chỉ thẳng vào ổ khóa nơi chuồng. Gã tra chìa vào ổ. Giờ thì Nestor nghe
thấy tiếng chó. Không phải tiếng sủa, mà là những tiếng vừa đủ nghe thấy, tiếng
trầm hòa âm. Một tiếng gầm gừ câm lặng phát ra từ mấy lõm trong bụng chúng rồi
tăng lên về âm lượng, âm điệu và âm sắc, nín nhịn và tiết chế như nhạc đối âm của
Wagner. Và giờ thì không ma túy nào dập tắt được nỗi sợ trong hắn. Nỗi sợ có cảm
giác như đang bị vòi rồng xối nước đá xuống. Giá mà áp suất cuốn hắn đi, nhưng
người này lại đang ở bên trong, bên trong hắn, xối nước xuống bên trong đầu và
thân hắn. Hết đường thoát. Chính Hugo Nestor là người cầm vòi rồng.
* * *
Fidel Lae ngồi trong bóng tối, nhìn chăm
chăm. Lão đã không nhúc nhích hay gây tiếng động nữa. Chỉ ngồi co ro cố giữ ấm
và kiềm chế cơn run lập cập. Lão nhận ra giọng hai người này. Một là kẻ không
biết từ đâu xuất hiện và nhốt lão lại hơn hai mươi bốn giờ trước. Fidel hầu như
chẳng động đến chút đồ ăn cho chó nào, chỉ uống nước. Và lạnh run. Thậm chí
trong đêm hè cái lạnh cũng ngấm dần vào người ta, làm ta tê liệt, đuổi ta vòng
quanh. Lão đã gào lên kêu cứu cho đến khi thấy cổ họng rát và lão lạc giọng,
cho đến khi máu mà không phải nước bọt thấm ướt cổ họng lão còn nước lão uống
không làm đỡ khát, mà cay xé như rượu. Khi nghe tiếng xe, lão đã thử gào lên lại,
nhưng rồi bật khóc rấm rứt khi giọng lão không thành tiếng; nó chỉ kèn kẹt như
máy xe gỉ sét.
Rồi theo bầy chó thì lão biết có người đang
đi lại. Lão khấp khởi. Và cầu nguyện. Rồi cuối cùng thấy cái bóng dáng in lên bầu
trời đêm hè, thấy là gã ta đã quay lại. Kẻ hôm qua đã lướt qua đồng hoang giờ gập
người lôi theo cái gì đó. Một vali. Có người sống bên trong. Một người đứng hai
tay bị trói ra sau còn hai bàn chân ép chặt vào nhau đến mức rõ ràng hắn khó giữ
được thăng bằng khi bị để trước cổng chuồng chó ở chỗ Fidel.
Hugo Nestor.
Họ đứng cách chuồng của Fidel có bốn mét, vậy
mà lão không sao nghe được họ đang nói gì. Người nọ mở khóa rồi để tay lên đầu
Nestor như ban phúc lành cho hắn. Gã nói gì đó. Rồi gã ấn đầu Nestor một cái.
Cái tên mập mạp mặc com lê thét lên một tiếng, rồi ngã ngửa ra sau đập vào cổng,
nó bật vào trong. Lũ chó động đậy. Người nọ lẹ làng đẩy hai chân Nestor vào
trong rồi đóng cổng lại. Lũ chó ngần ngừ. Rồi con Đạn Phá Ma dường như dựng
thân lên và bắt đầu di chuyển. Fidel nhìn lũ chó trắng khi chúng nhảy chồm vào
Nestor. Động tác của chúng im lặng đến mức lão nghe rõ mồn một thấy hàm nhai,
tiếng da thịt bị xé, tiếng gầm gừ gần như ngây ngất và rồi tiếng thét của
Nestor. Một tiếng duy nhất, run run, thanh khiết kỳ lạ dậy lên tới bầu trời Bắc
Âu sáng nhạt mà Fidel còn thấy được cả côn trùng vo ve. Rồi tiếng động bỗng im
bặt và Fidel thấy cái gì khác rào rào lên, trông như một đàn đang tiến tới lão,
rồi lão cảm thấy những giọt li ti âm ấm phun lên mình và biết đó là gì bởi
chính lão đã cắt động mạch một con nai sừng tấm còn sống trong một lần đi săn.
Fidel đưa tay áo khoác lên chùi mặt và ngoảnh nhìn đi chỗ khác. Lão thấy người
bên ngoài chuồng cũng đã quay đi. Thấy vai gã run lên. Như thể gã đang khóc.
29
- Nửa đêm rồi, - anh bác sĩ nói, dụi mắt. -
Sao ông không về nhà ngủ chút đi Kefas, rồi mai ta bàn chuyện này?
- Không, - Simon nói.
- Tùy ông vậy, - anh bác sĩ nói, ra dấu cho
Simon ngồi xuống một ghế dựa dọc tường hành lang bệnh viện lạnh lẽo. Khi anh ta
ngồi xuống bên cạnh và ngập ngừng rồi mới cúi tới gần, Simon biết đó là tin xấu.
- Vợ ông không còn nhiều thời gian. Nếu muốn
có hy vọng, cô ấy cần được phẫu thuật trong vài ngày tới.
- Và anh không làm gì được?
Anh bác sĩ thở dài.
- Thường thì chúng tôi không khuyên bệnh
nhân ra nước ngoài và tiến hành điều trị tư nhân tốn kém - nhất là khi kết quả phẫu
thuật khá bấp bênh. Nhưng trong trường hợp này...
- Anh đang nói là cần đưa nhà tôi đến Bệnh
viện Howell giờ ư?
- Tôi không nói ông phải làm gì cả. Nhiều
người khiếm thị sống trọn vẹn cả đời với khiếm khuyết của mình.
Simon gật còn mấy ngón tay vuốt quả lựu đạn
gây choáng ông còn giữ trong túi. Ông cố hiểu thông tin, nhưng như thể đầu óc
ông đang cố chạy trốn, tìm nơi ẩn náu bằng cách suy đoán liệu có khi nào tàn tật
không phải là từ không hợp với lối nói phải đạo. Ông cho là thời nay người ta gọi
nó là “khác biệt về khả năng”. Hay từ đó - như ký túc xá - cũng đã thành từ
không hợp với lối nói phải đạo? Mọi chuyện đổi thay nhanh chóng đến mức ông
không theo kịp, và dường như thuật ngữ về sức khỏe và chăm sóc xã hội tan còn
nhanh hơn sữa.
Anh bác sĩ hắng giọng.
- Tôi... - Simon mở định miệng thì nghe thấy
điện thoại lách tách. Ông chộp lấy, thấy mừng vì được tạm hoãn đôi chút. Ông
không biết người gửi tin nhắn là ai.
Ông sẽ tìm thấy những người bị Nestor nhốt ở
96 Enerhauggata. Nhanh lên.
Người Con Trai.
Người Con Trai.
Simon bấm một số.
- Nghe này, Simon, - bác sĩ nói, - tôi
không có thời gian để...
- Vậy thì tốt thôi, - Simon nói và đưa tay
lên để bác sĩ im lặng khi ông nghe một giọng ngái ngủ trả lời điện thoại:
- Falkeid.
- Chào, Sivert, Simon Kefas đây. Tôi muốn
anh cử Delta đến vây ráp địa chỉ sau đây: 96 Enerhauggata. Bao lâu thì các anh
tới đó?
- Đang nửa đêm mà.
- Đó không phải điều tôi đang hỏi.
- Ba mươi lăm phút. Ông đã có sự cho phép của
ủy viên chưa?
- Ngay lúc này Pontius không rảnh, - Simon
nói dối. - Nhưng yên chí đi, chúng tôi đã có một chuỗi lý do dài tít tắp để vây
ráp. Buôn người. Mà thời gian là cốt lõi. Cứ làm đi, tôi chịu hoàn toàn trách
nhiệm.
- Tôi hy vọng ông biết mình đang làm gì,
Simon.
Simon cúp máy rồi nhìn anh bác sĩ.
- Cảm ơn anh, bác sĩ, tôi sẽ nghĩ về chuyện
đó. Giờ tôi phải quay lại chỗ làm.
* * *
Betty nghe thấy những tiếng động làm tình
khi họ vừa ra khỏi thang máy tầng trên cùng.
- Thật tình. - Betty chau mày.
- Đó là TV thuê bao mà, - nhân viên bảo vệ
cô dẫn theo nói.
Họ đã nhận được lời than phiền từ các phòng
bên cạnh và, theo chính sách, Betty đã ghi chú lại trong sổ trực đêm ở quầy tiếp
tân. “2 giờ 13 sáng. Phàn nàn về tiếng ồn phòng suite 4”. Cô đã gọi cho phòng
4, nhưng không có trả lời. Rồi cô gọi cho bảo vệ.
Họ phớt lờ yêu cầu “Xin đừng làm phiền”
treo trên nắm cửa mà gõ mạnh.
Chờ. Gõ lại. Betty đổi tư thế.
- Trông cô căng thẳng thế, - anh bảo vệ
nói.
- Tôi có cảm giác như khách này đang toan
tính... gì đó.
- Gì đó?
- Như ma túy - chứ tôi biết gì?
Nhân viên bảo vệ thả cái nút trên dùi cui
ra và thẳng người lên khi đút chìa cái vào khóa. Mở cửa.
- Thưa ông Lae?
Phòng khách vắng. Tiếng làm tình phát ra từ
người đàn bà mặc áo lót da đỏ có chữ thập trắng có lẽ để cho biết cô ta là y tá
Betty chụp đồ điều khiển trên bàn cà phê bấm tắt TV trong khi nhân viên bảo vệ
đi vào phòng ngủ. Hai chiếc cặp đã không còn. Betty để ý thấy mấy ly không và nửa
trái chanh trên quầy bar. Chanh đã vắt và phần ruột có màu nâu kỳ lạ. Betty mở
tủ áo. Bộ com lê, cái vali lớn và túi thể thao đỏ không còn. Đó là mẹo xưa nhất
trong các chiêu lừa đảo ở khách sạn, treo biển “Xin đừng làm phiền” ngoài cửa
và bật TV để nghe như khách vẫn còn ở đây. Nhưng ông Lae đã trả trước tiền
phòng. Và cô đã kiểm tra là không có phí nhà hàng hay quán bar tính vào tiền
phòng.
- Có một gã trong phòng tắm.
Cô quay qua nhân viên bảo vệ đang đứng ở cửa
vào phòng tắm.
Cô theo anh ta vào trong.
Người nằm trên sàn phòng tắm trông như đang
ôm bồn cầu. Xem xét kỹ hơn thì thấy hắn bị trói vào đó bằng mấy sợi dây quanh cổ
tay. Hắn mặc bộ com lê đen, tóc vàng và trông hoàn toàn không say rượu. Đang
phê. Hay kiệt quệ. Mí mắt nặng trĩu ngái ngủ chớp chớp nhìn họ.
- Cắt dây trói cho tôi, - hắn nói với một
giọng cô không xác định được xuất phát từ đâu trên địa cầu.
Betty gật với nhân viên bảo vệ, anh này rút
con dao bấm quân đội Thụy Sĩ ra cắt mấy sợi dây nhựa.
- Đã xảy ra chuyện gì vậy? - Cô hỏi.
Người này loạng choạng đứng lên. Hơi lắc lư
trước mặt họ. Hắn cố định thần lại, hai mắt giàn giụa.
- Chúng tôi chơi ngu chút thôi mà, - hắn lầm
bầm. - Giờ tôi đi đây...
Bảo vệ đứng vào cửa chắn lối hắn.
Betty nhìn quanh. Không có gì hư hại. Hóa
đơn đã trả. Họ chỉ bị phàn nàn về tiếng ồn TV. Cái họ có cô phải chịu là lôi
thôi với cảnh sát tin tức tiêu cực và bị mang tiếng là nơi hội tụ của các thành
phần bất hảo. Sếp đã khen cô thận trọng, đặt lợi ích của khách sạn lên trước.
Nói rằng cô có thể tiến xa, rằng tiếp tân chỉ là hòn đá kê chân cho người như
cô.
- Để hắn đi đi, - cô nói.
* * *
Lars Gilberg thức giấc vì tiếng loạt soạt
trong bụi cây. Gã trở mình. Thấy dáng người giữa cây lá. Có người đang cố lấy cắp
đồ của chàng trai. Lars ngọ ngậy ra khỏi túi ngủ bẩn thỉu và lồm cồm đứng dậy.
- Này, cậu!
Dáng người dừng. Quay lại. Cậu thanh niên
đã đổi khác. Không chỉ bộ com lê. Cả cái gì đó nơi mặt cậu ta, không hiểu sao
trông sưng phồng.
- Cảm ơn ông đã trông giúp đồ, - cậu thanh
niên nói, hất hàm về cái túi cậu ta đã cặp dưới tay.
- Hừm, - Lars nói và rướn đầu tới gần hơn để
xem có dễ nhận ra sự thay đổi không. - Cậu không gặp lôi thôi đấy chứ, nhóc?
- Ồ, có có chứ, - cậu thanh niên mỉm cười.
Nhưng có gì đó ở nụ cười cậu ta. Cái gì đó nhợt nhạt. Môi run run. Trông như cậu
ta khóc từ nãy giờ.
- Cậu cần giúp không?
- Không, nhưng cảm ơn đã hỏi.
- Hừm. Tôi sẽ không được gặp lại cậu nữa
đúng không?
- Phải, tôi cho là vậy. Sống cho tốt đấy,
Lars.
- Ừ. Còn cậu... - Gã bước tới một bước đặt
tay lên vai chàng trai. - Sống lâu nhé. Hứa với tôi chứ?
Cậu thanh niên gật nhanh.
- Xem dưới gối ông đi, - cậu ta nói.
Lars tự động nhìn chỗ nằm dưới gầm cầu. Và
khi xoay lại, gã chỉ vừa kịp thấy lưng thanh niên trước khi cậu ta chìm trong
bóng tối.
Lars quay lại túi ngủ. Gã nhận ra một phong
bì chìa ra dưới gối. Gã cầm lên.
“Gửi Lars”, phong bì ghi. Gã mở phong bì.
Cả đời Lars Gilberg chưa bao giờ thấy nhiều
tiền như vậy.
* * *
- Chẳng phải giờ này Delta đã phải có mặt rồi
sao? - Kari hỏi, ngáp và liếc nhìn đồng hồ.
- Đúng vậy, - Simon nói và nhìn ra. Họ đã đậu
xe ở đường Enerhauggata và số 96 nằm cách họ năm chục mét trước mặt, bên kia đường.
Đó là căn nhà gỗ hai tầng, sơn trắng, một trong những ngôi nhà được cứu khi những
tòa nhà đẹp mắt của Enerhaugen bị phá hủy năm 1960 để nhường chỗ cho bốn tòa
tháp. Căn nhà nhỏ nằm bình yên tĩnh mịch trong đêm hè đến mức Simon thấy khó mà
hình dung được người ta có thể bị giữ như tù nhân trong đó.
- Chúng tôi cảm thấy hơi có lỗi, - Simon
nói. - Nhưng tôi nghĩ ngày nay kính với bê tông thì phù hợp với mọi người hơn.
- Gì cơ?
- Tôi đang dẫn lời Tổng giám đốc điều hành
Hiệp hội Xây dựng OBOS, năm 1960.
- Phải vậy không? - Kari nói rồi lại ngáp.
Simon thắc mắc liệu cô có hy vọng ông cảm thấy hơi có lỗi khi giữa đêm hôm lại
kéo cô ra khỏi giường. Đúng là cô không nhất thiết phải có mặt cho một cuộc vây
ráp như vậy. - Sao Delta không đến? - Cô lại hỏi.
- Tôi không biết, - Simon nói đúng lúc
trong xe sáng lên vì màn hình điện thoại của ông để giữa hai ghế. Ông nhìn số.
- Nhưng ta sẽ biết ngay thôi, - ông nói, thong thả đưa điện thoại lên tai.
- A lô?
- Tôi đây, Simon. Không ai tới cả đâu.
Simon chỉnh gương chiếu hậu. Một nhà tâm lý
học có thể giải thích vì sao Simon làm vậy, nhưng điều đó đã thành phản ứng tự
động để đáp lại giọng người kia. Simon nhìn kỹ vào gương để xem cái gì đằng
sau.
- Tại sao không?
- Vì lý do vây ráp chưa được chứng minh hợp
lệ, chưa giải thích được sự cần thiết và anh chưa thử đi qua những kênh hợp lệ
để huy động Delta.
- Anh có thể cho phép họ mà, Pontius.
- Phải. Và tôi nói không.
Simon rủa thầm.
- Nghe này, chuyện này...
- Không, anh nghe tôi đây. Tôi đã ra lệnh
cho Falkeid rút lui và bảo anh ta và người của anh ta quay về ngủ. Vậy chứ anh
định làm gì, Simon?
- Tôi có lý do để tin rằng người ta đang bị
giam giữ tại 96 Enerhauggata. Trung thực mà nói thì, Pontius này, chuyện đó...
- Trung thực là tốt, Simon. Hãy nhớ là lần
tới anh phải gọi cho sếp Delta.
- Không còn thời gian để giải thích. Khỉ thật,
không còn thời gian. Anh đã từng tin tưởng vào phán đoán của tôi mà.
- Anh dùng động từ thời quá khứ là chính
xác đấy, Simon.
- Vậy là giờ anh không tin tưởng tôi, phải
vậy không?
- Anh đánh bạc hết sạch tiền, nhớ không?
Luôn cả tiền vợ anh. Theo anh thì chuyện đó cho tôi biết gì về phán đoán của
anh?
Simon nghiến răng. Đã có thời không thể dễ
dàng biết trước ai trong họ sẽ thắng cuộc tranh luận hay ai sẽ đạt điểm cao nhất,
chạy nhanh nhất hay có được cô gái xinh nhất. Cái duy nhất chắc chắn là họ sẽ
đoàn kết với nhau đằng sau người thứ ba trong nhóm tam hùng. Nhưng giờ anh ta
không còn nữa. Và dù ông là người suy nghĩ tốt nhất và mạnh mẽ nhất trong cả
ba, Pontius Parr vẫn luôn có một lợi thế: anh ta nghĩ xa hơn hai người kia.
- Sáng mai chúng tôi sẽ lo việc đó, - ủy
viên nói với sự tự tin thoải mái mà thời nay nó khiến người ta tin rằng Pontius
Parr biết rõ hơn cả. Kể cả chính Pontius. - Nếu anh được tin báo là có buôn người
tại địa chỉ này thì chúng sẽ không bay biến trong một đêm được. Giờ về nhà ngủ
chút đi.
Simon mở cửa xe ra ngoài trong khi ra dấu
cho Kari cứ ở yên đó. Ông đóng cửa rồi bước vài mét xuôi đường. Ông nói khẽ vào
điện thoại.
- Chuyện này không chờ được. Chuyện này khẩn,
Pontius.
- Cái gì làm anh nghĩ vậy?
- Tin báo.
- Mà làm sao anh có nó?
- Một tin nhắn từ ai đó... nặc danh. Tự tôi
sẽ vào.
- Sao? Đừng có nghĩ tới chuyện đó! Dừng lại,
Simon. Anh nghe tôi không? Anh còn đó không?
Simon nhìn điện thoại. Lại áp vào tai.
- Đánh giá do sĩ quan cảnh sát tại hiện trường
thực hiện. Anh còn nhớ đã học điều đó không, Pontius? Anh còn nhớ họ dạy ta rằng
nó luôn hơn hẳn lệnh từ các sĩ quan ở xa hiện trường không?
- Simon! Oslo đã loạn lắm rồi. Hội đồng
thành phố và phương tiện truyền thông đang săm soi chúng ta về mấy vụ giết người
này. Lần này đừng can thiệp quá sâu. Simon!
Simon cúp máy, khóa điện thoại rồi mở ngăn
để hành lý trong xe. Mở khóa hộp súng. Lấy ra khẩu súng săn của mình, khẩu súng
lục và vài hộp đạn. Lấy ra hai áo chống đạn trong ngăn hành lý rồi vào xe.
- Ta sẽ vào, - ông nói, đưa súng săn và một
áo chống đạn cho Kari.
Cô nhìn ông.
- Phải ông vừa nói chuyện với ủy viên đấy
không?
- Đúng thế, - Simon nói, kiểm tra kíp đạn
khẩu Glock 17 đã đầy. Đút vào lại báng súng. - Cô làm ơn đưa tôi còng tay với
khẩu lựu đạn gây choáng trong hộc để găng tay?
- Ông có một quả lựu đạn gây choáng?
- Sản phẩm phụ từ cuộc vây ráp tại Trung
tâm Ila.
Cô đưa Simon cái còng tay Peerless và quả lựu
đạn.
- Ông ta đã cho phép ta vào chưa?
- Ông ta đã được thông báo, - Simon nói, mặc
áo chống đạn vào.
Kari nghiêng khẩu súng săn và nạp kíp đạn bằng
những động tác chớp nhoáng, quen thuộc.
- Săn gà gô trắng từ hồi chín tuổi, - cô
nói như để giải thích, sau khi để ý thấy cái nhìn của Simon. - Nhưng tôi thích
súng trường hơn. Ta làm chuyện này thế nào đây?
- Đếm đến ba, - Simon nói.
- Ý tôi là ta tiếp cận...
- Ba, - Simon nói rồi mở cửa xe.
* * *
Khách sạn Bismarck tọa lạc trung tâm Oslo,
phần đó thì đúng. Cái khách sạn nhỏ nằm giữa Kvadraturen, nơi thành phố được
khai sinh, ở đúng tại điểm mà thị trường ma túy giao khu đèn đỏ. Và đúng với bản
chất của địa điểm đó, nó cho thuê phòng theo giờ, với những tấm khăn tắm cứng
ngắc vì giặt nước sôi quá nhiều. Từ khi chủ hiện tại tiếp quản khách sạn mười
sáu năm trước, các phòng vẫn chưa được trang hoàng lại nhưng cứ hai năm lại phải
thay giường một lần.
Nên khi Ola, con trai của ông chủ làm việc ở
quầy tiếp tân từ lúc mười sáu tuổi, đưa mắt từ máy tính nhìn lên lúc 3 giờ 2
phút sáng và thấy một người đàn ông đứng trước quầy, thật tự nhiên khi Ola cho
rằng người này đến nhầm chỗ.
Không chỉ vì anh ta mặc bộ com lê tử tế và
xách theo hai chiếc cặp và một túi thể thao đỏ, anh ta còn không có bạn nam hay
nữ đi cùng. Tuy vậy, người này cứ khăng khăng trả trước một tuần tiền phòng, nhận
khăn tắm với một tiếng cảm ơn gần như nhún nhường rồi biến lên tầng hai. Ola
quay lại đọc bài trên trang web Aftenposten về một làn sóng án mạng ở Oslo, những
suy đoán của người ta rằng phải chăng một cuộc chiến băng đảng đang bùng nổ và
rằng nó có thể liên can tới sát thủ đã trốn khỏi Staten. Cậu nhìn chăm chú tấm
hình một lúc. Rồi cậu bấm vào một trang khác.
* * *
Simon dừng trước mấy bậc thềm dẫn lên ngôi
nhà và ra hiệu cho Kari sẵn sàng vũ khí và canh phòng mấy cửa sổ tầng một. Rồi
ông bước lên bậc tam cấp và gõ nhẹ đầu khớp ngón tay lên cửa. Ông hô lí nhí “Cảnh
sát đây”. Nhìn Kari để yên tâm là cô có thể làm chứng ông đã theo đúng thủ tục
chính thức. Gõ nhẹ cái nữa. Ông lại hô khẽ “Cảnh sát đây”. Rồi ông nắm báng
súng lục và né người qua một bên để đập kính ô cửa sổ kế cửa lớn. Tay kia ông
đã cầm sẵn trái lựu đạn gây choáng. Ông đã có kế hoạch. Tất nhiên ông đã có kế
hoạch. Gần như vậy. Như người ta nói, yếu tố bất ngờ là tất cả. Được ăn cả, ngã
về không. Ông vẫn luôn vậy. Và điều đó, như vị bác sĩ tâm lý trẻ giải thích, là
chứng bệnh của ông. Nghiên cứu chứng minh rằng người ta thường xuyên phóng đại
khả năng xảy ra của cái không thể xảy ra với họ, chẳng hạn như chết trong vụ
máy bay rơi, con cái bị cưỡng hiếp hay bắt cóc trên đường đi học, hay con ngựa
ta cá bằng tiền tiết kiệm của vợ sẽ trụ được một quãng xa trên đường chạy trong
lần đầu sự nghiệp đua của nó. Bác sĩ tâm lý đã nói là có gì đó trong vô thức của
Simon mạnh hơn lẽ phải, rằng vấn đề chỉ là nhận diện được và bắt đầu đối thoại
với tên bạo chúa bệnh hoạn, điên cuồng đã khủng bố và hủy hoại đời ông này. Rằng
ông phải tự hỏi trong đời ông còn có gì quan trọng hơn không. Quan trọng hơn
tên bạo chúa. Cái gì đó ông yêu thích hơn đánh bạc. Và có đấy. Đó là Else. Và
ông đã làm điều đó. Ông đã nói chuyện với con quái thú, thuần phục nó. Ông chưa
lần nào tái phạm. Cho đến phút này.
Ông hít một hơi sâu. Ông định đánh súng lục
vào kính thì cửa mở ra.
Simon quay ngoắt lại với khẩu súng trước mặt,
nhưng ông không được nhanh như ngày xưa. Thậm chí cũng không gần bằng. Nếu người
đứng ở cửa có vũ khí thì ông đã không còn cơ hội.
- Chào ông, - người này nói cộc lốc.
- Xin chào, - Simon nói, cố lấy lại điềm
tĩnh. - Cảnh sát đây.
- Tôi giúp gì được ông? - Người này mở
toang cửa ra. Hắn đã thay đồ. Quần jean ôm sát. Sơ mi. Chân trần. Không có chỗ
nào để giấu khẩu súng lục.
Simon đút quả lựu đạn gây choáng vào túi và
chìa thẻ cảnh sát ra.
- Tôi sẽ phải yêu cầu anh bước ra ngoài và
đứng thẳng dựa vào tường này. Làm ngay.
Người này bình thản nhún vai và làm theo lời.
- Ngoài mấy cô gái ra thì trong nhà có mấy
người? - Simon vừa hỏi vừa lục soát nhanh và khẳng định được là người này không
mang vũ khí.
- Mấy cô gái? Chỉ có mình tôi ở đây. Ông cần
gì?
- Chỉ chỗ họ cho tôi, - Simon nói, còng tay
gã đàn ông, xô hắn tới trước mặt và ra hiệu cho Kari đi theo. Người này nói gì
đó.
- Chuyện gì? - Simon nói.
- Tôi đang nói đồng nghiệp của ông là cả cô
ta nữa, cứ vào tự nhiên. Tôi chẳng có gì mà giấu giếm.
Simon vẫn đứng sau người này. Nhìn chằm chằm
sau gáy hắn. Thấy da hơi rần rật, như một con ngựa bồn chồn.
- Kari? - Simon gọi ra.
- Vâng?
- Tôi muốn cô lại bên ngoài. Tôi sẽ vào
trong một mình.
- OK.
Simon để tay lên vai gã.
- Bước đi và không được có động tác bất ngờ.
Tôi có súng trên lưng anh đây.
- Ông...
- Cứ chấp nhận là tạm thời lúc này tôi xem
anh là tội phạm và tôi có thể bắn anh; sau này anh vẫn có thể có được lời xin lỗi
không ngần ngại.
Không phản đối gì thêm, người này bước vào
hành lang. Simon tự động nhìn xem có bằng chứng nào cho thấy cái có thể có bên
trong. Bốn đôi giày trên sàn. Người này không sống một mình. Một chén nhựa đựng
nước và một miếng thảm bên cửa bếp.
- Con chó của anh bị gì sao? - Simon hỏi.
- Chó nào?
- Anh uống nước trong chén đó sao?
Người nọ không đáp.
- Chó thường sủa khi có người lạ đến gần
nhà. Nên hoặc đó là chó giữ nhà vứt đi hoặc...
- Nó ở trong cũi. Ta đi đâu đây?
Simon nhìn quanh. Cửa sổ không có chấn
song, cửa trước có mỗi một ổ khóa cắm sẵn chiếc chìa khóa loại thường. Họ không
bị nhốt ở đây.
- Tầng hầm, - Simon nói.
Người đàn ông nhún vai đi tiếp xuống hành
lang. Và Simon biết mình hoàn toàn đúng khi thấy người nọ mở khóa cửa tầng hầm.
Cửa có hai ổ khóa.
Họ vừa bước xuống cầu thang Simon đã nhận
ra cái mùi và nó khẳng định những nghi ngờ của ông. Rằng có người bị nhốt ở
đây. Rất nhiều người. Ông nắm chặt khẩu súng lục.
Nhưng ở đó không có ai.
- Anh dùng mấy cái này vào việc gì? - Simon
hỏi khi họ đi ngang vài chuồng, ngăn với nhau bằng lưới thép thay vì vách.
- Có gì đâu, - người này nói. - Lũ chó sống
đây. Và tôi cất nệm, như ông cũng thấy rồi đấy.
Giờ thì cái mùi còn nồng nặc hơn. Chắc hẳn
mấy cô gái vẫn bị giam giữ ở đây cho đến gần đây. Khốn kiếp, họ đến muộn mất rồi.
Nhưng chắc là họ có thể lấy ADN nơi mấy tấm nệm. Dù rằng chuyện đó chứng minh
được điều gì? Rằng đã có người tiếp xúc với một tấm nệm giờ nằm dưới tầng hầm.
Sẽ bất thường hơn nếu họ không tìm thấy ADN trên một tấm nệm cũ. Họ tay trắng.
Chỉ một cuộc vây ráp chưa được phép. Khốn kiếp, khốn kiếp.
Simon để ý thấy đôi giày thể thao nhỏ nhắn
không cột dây nằm trên sàn gần một cánh cửa.
- Cửa đó dẫn đi đâu?
- Chỉ ra chỗ để xe thôi mà.
Chỉ. Hắn đang cố giảm nhẹ tầm quan trọng của
cánh cửa. Cũng như hắn đã nhấn mạnh hắn muốn Kari vào nhà.
Simon mở cửa thì thấy mình đang nhìn thẳng
về hông chiếc xe tải trắng đậu trên mặt đường nhựa trải từ căn nhà này đến hàng
rào vào nhà hàng xóm.
- Anh dùng xe tải cho việc gì? - Simon hỏi.
- Tôi là thợ điện, - người này nói.
Simon lùi lại vài bước. Khom người xuống cầm
đôi giày thể thao ở sàn tầng hầm lên. Có lẽ là cỡ 5. Nhỏ hơn giày của Else. Ông
đút tay vào. Nó vẫn còn ấm.
Có thể chỉ mới mấy phút từ lúc chủ nhân
đánh rơi. Đúng lúc đó ông nghe thấy một tiếng. Bị nghẹt lại, bị kìm nén, nhưng
không thể lầm được. Một tiếng sủa.
Simon nhìn chằm chằm chiếc xe tải và định đứng
lên lại thì nhận phải một cú đá vào sườn ngã bật ra và nghe người kia gào lên:
- Chạy đi! Chạy đi!
Simon xoay xở lăn mình qua chĩa súng vào
người này, nhưng gã đã quỳ thụp xuống gập hai tay sau đầu đầu hàng vô điều kiện.
Máy nổ, vòng quay cao đến mức rít lên. Simon lăn người lại và giờ đã thấy được
mấy cái đầu ở đầu xe; rõ ràng mấy cô gái đang bị giấu sau xe.
- Đứng lại! Cảnh sát đây! - Simon cố đứng
lên, nhưng chân đau điếng, hẳn gã này đã làm ông gãy mất một xương sườn. Thế rồi
Simon chưa kịp chĩa súng thì chiếc xe đã chuyển động và ra khỏi tầm bắn. Khốn
kiếp!
Có tiếng nổ theo sau là kính vỡ loảng xoảng.
Tiếng máy rít im bặt.
- Đứng yên đó, - Simon vừa nói vừa rên rỉ,
lồm cồm đứng dậy và tập tễnh ra khỏi cửa.
Chiếc xe đã dừng hẳn. Nghe được tiếng gào
thét to và tiếng sủa điên loạn từ bên trong.
Nhưng chính cảnh tượng trước mũi xe mới là
cái Simon chụp hình lại trong đầu để cho vào album ảnh. Kari Adel mặc áo choàng
da đen dài đứng trong luồng sáng từ đèn pha xe tải lúc này đã không còn kính chắn
gió. Báng súng săn trên vai và một bàn tay cầm dưới nòng vẫn còn bốc khói.
Simon bước đến hông xe tải đẩy mở cửa bên
phía tài xế.
- Cảnh sát đây!
Người bên trong không đáp, hắn cứ nhìn thẳng
trước mặt như thể bị sốc, máu từ đường chân tóc nhỏ xuống. Trong lòng hắn đầy
kính vỡ. Simon lờ đi cái đau bên sườn, lôi người nọ xuống đất.
- Úp mặt xuống đường và đưa hai tay ra sau
đầu! Ngay!
Rồi ông đi vòng qua bên kia xe và cũng làm
vậy với người ngồi ở ghế khách cũng đang sững sờ chẳng kém.
Simon với Kari bước tới cửa hông thân xe. Họ
nghe tiếng chó tru và sủa từ bên trong. Simon cầm tay nắm cửa và Kari đứng vào
vị trí ngay trước nó với khẩu súng săn đã sẵn sàng.
- Nghe có vẻ to đấy, - Simon nói. - Có lẽ
cô nên lùi lại bước nữa?
Cô gật và làm như ông khuyên. Rồi ông trượt
cửa mở ra.
Một con quái vật lông trắng lao ra khỏi xe
chồm vào ngay Kari, mõm nhe ra gầm gừ.
Chuyện xảy ra nhanh đến mức cô không kịp nổ
súng. Con thú đâm sầm xuống đất trước mặt cô và nằm im.
Simon ngây nhìn kinh ngạc khẩu súng lục
đang bốc khói của mình.
- Cảm ơn ông, - Kari nói.
Họ quay lại xe. Bên trong, những gương mặt
kinh hoàng giương mắt nhìn ra họ.
- Cảnh sát đây. - Simon nói. Và nói thêm
khi ông thấy, theo vẻ mặt họ, thì có lẽ chuyện này không được xem là tin vui: -
Cảnh sát tốt. Chúng tôi cùng phe các cô.
Rồi ông lấy điện thoại ra gọi một số. Đưa
điện thoại lên tai rồi ngước nhìn Kari.
- Cô nghĩ cô gọi về sở bảo họ cử vài xe tuần
tra đến được không?
- Thế ông đang gọi cho ai?
- Báo chí.
30
Bình minh đã hửng trên Enerhaugen nhưng báo
chí vẫn chưa chụp hình và phỏng vấn xong mấy cô gái đã được cho khăn len và trà
mà Kari pha trong bếp.
Ba phóng viên đang vây quanh Simon cố moi
thêm chi tiết.
- Không, chúng tôi không biết còn ai đứng
sau chuyện này ngoài những người đã bắt ở đây tối nay, - Simon lặp lại. - Và,
phải, đúng là chúng tôi vây ráp địa chỉ này theo một tin báo nặc danh.
- Ông có thật sự phải giết một con thú vô tội
không? - Một nhà báo nữ hỏi, hất hàm về phía con chó đã chết được Kari phủ chăn
lên trong nhà.
- Nó tấn công chúng tôi, - Simon nói.
- Tấn công các vị? - Cô ta khịt mũi. - Hai
người trưởng thành trước một con chó nhỏ? Chắc hẳn các vị có thể tìm cách khống
chế nó.
- Mất đi một mạng sống bao giờ cũng đáng buồn,
- Simon nói và biết mình không nên, nhưng không nhịn được mà tiếp, - nhưng xét
vì tuổi thọ của chó tỉ lệ nghịch với tầm vóc, nếu cô thử nhìn dưới tấm chăn thì
sẽ nhận ra rằng dù sao con chó này cũng không còn sống được lâu.
Stalsberg, tay phóng viên hiện trường kỳ cựu
được Simon gọi đầu tiên, toét miệng cười.
Một chiếc SUV của cảnh sát xuất hiện trên đồi
và đậu đằng sau xe tuần tra vẫn để đèn nháy xanh trên nóc làm Simon phát ghét.
- Nhưng thay vì hỏi tôi thêm câu nào, tôi
khuyên các vị nói chuyện với sếp đi.
Simon hất hàm về chiếc SUV và thế là đám
phóng viên quay lại. Người đàn ông từ xe ló ra cao ráo mảnh mai, tóc thưa chải
ra sau và kính râm không gọng hình chữ nhật. Ông ta thẳng người lên và trông
kinh ngạc khi các nhà báo ùa về phía mình.
- Xin chúc mừng về vụ bắt bớ, Ủy viên Parr,
- Stalsberg nói. - Xin ông vui lòng bình luận về chuyện, có vẻ như cuối cùng
các ông cũng đã có tiến triển về vấn nạn buôn người? Ông có thể gọi đây là một
bước đột phá không?
Simon khoanh tay trước ngực và bắt gặp cái
nhìn lạnh băng của Pontius Parr. Ủy viên gật đầu chào, khẽ đến gần như không nhận
thấy, rồi ông ta nhìn phóng viên đã đặt câu hỏi.
- Tất nhiên đây là một bước quan trọng của
cảnh sát trong cuộc đấu tranh chống nạn buôn người. Từ trước sự việc hiện nay
chúng tôi đã nhấn mạnh là vấn đề này phải được ưu tiên, và việc ưu tiên - như
các anh có thể thấy - đã có kết quả. Nên chúng tôi muốn được chúc mừng chánh
thanh tra Kefas cùng các đồng nghiệp.
* * *
Parr níu Simon lại khi ông quay ra xe.
- Anh nghĩ anh làm cái quái gì vậy hả,
Simon?
Đó là một trong những thứ Simon chưa bao giờ
hiểu được về người bạn cũ; làm sao giọng anh ta không bao giờ đổi tính chất hay
âm sắc. Anh ta có thể vui tươi hay thịnh nộ, nhưng giọng thì vẫn hệt như vậy.
- Việc của tôi. Bắt kẻ xấu.
Simon dừng, đút miếng snus giữa hai môi rồi
chìa hộp thiếc ra mời Parr, người này nhướng mày. Đó là trò đùa cũ rích Simon
chưa hề thấy chán; cả đời Parr chưa từng dùng snus hay hút một điếu nào.
- Ý tôi là màn trình diễn này, - Parr nói.
- Anh bất chấp mệnh lệnh cấm vào và rồi anh mời toàn bộ phương tiện truyền
thông đến đây. Tại sao vậy?
Simon nhún vai.
- Tôi nghĩ riêng lần này ta có thể dùng ít
tin chúc mừng của báo chí. Nhân thể, không phải toàn bộ, chỉ những ai đang làm
ca đêm thôi. Tôi cũng mừng vì ta đã đồng ý rằng đánh giá của cảnh sát tại hiện
trường sẽ là nhân tố mang tính quyết định. Nếu không tôi nghĩ chúng tôi đã
không tìm được mấy cô gái này - chúng sắp sửa chuyển họ đi.
- Điều tôi thắc mắc là làm sao mà anh biết
được chỗ này.
- Như tôi nói anh rồi, một tin nhắn.
- Từ?
- Nặc danh. Điện thoại trả trước.
- Bảo mấy công ty điện thoại dò nó. Tìm xem
đó là ai, càng sớm càng tốt để ta thẩm vấn tìm thêm thông tin. Vì trừ phi tôi
hiểu sai, ta sẽ không moi được chữ nào từ mấy tên ta bắt được ở đây đâu.
- Vậy sao?
- Chúng chỉ là cá bé, Simon. Chúng biết rằng
cá lớn sẽ nuốt sạch chúng trừ phi chúng ngậm miệng. Mà cá to mới là cái ta muốn,
không phải sao?
- Tất nhiên.
- Tốt. Nghe này Simon, anh biết tôi rồi,
anh cũng biết là đôi lúc tôi cũng quá tự tin về sự thông minh của mình, nên...
- Nên?
Parr hắng giọng. Nhún lên nhún xuống trên
gót như chuẩn bị xuất phát.
- Nhưng đánh giá tình hình của anh ở đây tối
qua tốt hơn tôi. Đơn giản và rõ ràng. Sẽ không bị bỏ qua trong lần xét duyệt tới
cho anh.
Cảm ơn, Pontius, nhưng đến kỳ xét duyệt tới
thì tôi đã về hưu từ lâu rồi.
- Điều đó đúng, - Parr mỉm cười. - Nhưng
anh là cảnh sát giỏi, Simon, anh vẫn luôn là vậy.
- Điều đó cũng đúng, - Simon nói.
- Else sao rồi?
- Tốt, cảm ơn anh. Hay là...
- Sao?
Simon hít một hơi.
- Khá tốt. Để lúc nào khác rồi ta nói về
chuyện này. Đi ngủ chứ?
Parr gật.
- Đi ngủ thôi. - Ông ta vỗ vai Simon, xoay
lưng bước về chiếc SUV.
Simon nhìn theo ông ta. Đưa ngón trỏ lấy
snus ra. Mùi vị không ổn lắm.
31
Lúc Simon tới chỗ làm là bảy giờ sáng. Ông
đã xoay xở ngủ được hai tiếng rưỡi, uống một tách rưỡi cà phê và nửa viên thuốc
nhức đầu. Một số người có thể ngủ rất ít mà vẫn sống sót nổi. Simon không nằm
trong số đó.
Tuy nhiên Kari thì có lẽ. Trông cô nhanh nhẹn
lạ thường khi sải bước tới chỗ ông.
- Thế nào? - Simon nói, ngồi phịch xuống ghế
văn phòng và xé mở phong bì nâu đã chờ ông trong hộp thư.
- Ba người ta bắt đêm qua không ai khai gì
cả, - Kari nói. - Thực ra là không một chữ nào. Chúng thậm chí còn không chịu
xưng tên.
- Mấy thằng tử tế thật. Ta có biết chúng
không?
- Ồ có chứ. Cảnh sát chìm nhận diện được
chúng. Chúng từng bị kết án, cả ba đứa. Nửa đêm luật sư của chúng có mặt không
báo trước và cắt ngang mọi cố gắng moi tin của chúng tôi. Một người tên Einar
Harnes. Tôi đã xoay xở dò được điện thoại mà Người Con Trai gửi tin nhắn. Điện
thoại thuộc về Fidel Lae. Chủ trại chó. Ông ta không trả lời điện thoại, nhưng
tín hiệu về trạm cơ sở cho thấy nó đang ở trại của ông ta. Chúng tôi đã cử hai
xe tuần tra đến đó.
Simon nhận ra vì sao cô - khác với ông -
không có vẻ như vừa bò ra khỏi giường. Vì cô đâu đã ngủ được chút nào, cô làm
việc suốt đêm.
- Rồi đến tên Hugo Nestor mà ông bảo tôi
tìm hiểu...? - cô tiếp.
- Thì sao?
- Hắn không ở địa chỉ nhà, không trả lời điện
thoại, cũng không ở địa chỉ văn phòng, nhưng tất cả đó đều có thể là giả. Những
gì tôi có cho đến nay chỉ là một cảnh sát chìm nói đêm qua cô ấy có thấy Nestor
ở Vermont.
- Hừm. Cô có nghĩ hơi thở tôi bị nặng mùi
không, sĩ quan Adel?
- Tôi không nhận thấy, nhưng nghĩ lại thì
chúng ta chưa...
- Vậy cô không muốn xem đây như một ám chỉ
sao?
Simon đưa lên ba bàn chải đánh răng.
- Trông như dùng rồi, - Kari nói. - Sao ông
có?
- Hỏi hay đấy, - Simon nói, ló nhìn vào
phong bì. Ông rút ra một tờ giấy trên đầu có logo khách sạn Plaza. Nhưng không
có tên người gửi. Vỏn vẹn một lời nhắn viết tay ngắn ngủi:
Kiểm tra ADN. S.
Ông đưa tờ thư cho Kari rồi nhìn mấy bàn chải
đánh răng.
- Có lẽ một tên dở hơi nào đó, - Kari nói.
- Pháp y đã có quá nhiều vụ giết người để làm...
- Đi kiểm tra ngay đi, Simon nói.
- Sao cơ?
- Đó là anh ta.
- Ai?
- “S” Là Sonny.
- Làm sao ông biết...
- Bảo họ là việc khẩn.
Kari nhìn ông. Điện thoại Simon reo.
- OK, - cô nói và xoay lưng đi.
Cô đang đứng bên ngoài thang máy thì Simon
tiến lại bên cô. Ông đã mặc áo khoác vào.
- Cô đi với tôi đã, - ông nói.
- Ủa?
- Asmund Bjornstad gọi. Họ vừa phát hiện một
xác chết nữa.
* * *
Một con chim rừng ai oán hót từ đâu đó
trong rừng vân sam.
Asmund Bjornstad đã mất sạch mọi dấu vết
kiêu ngạo. Anh ta xanh xao. Anh ta đã nói thẳng trong điện thoại:
- Chúng tôi cần giúp, Kefas.
Simon đứng cạnh thanh tra bên Kripos và
Kari, nhìn chằm chằm qua lưới mắt cáo của chuồng, nhìn những gì còn lại từ một
cái xác mà dựa trên đủ loại thẻ tín dụng họ tạm thời nhận dạng là của Hugo
Nestor. Khẳng định thì sẽ phải chờ đến khi họ kiểm hồ sơ nha khoa của hắn. Từ
nơi ông đứng và nhìn chỗ trám trong hàm răng trốc hốc Simon có thể suy diễn là
người chết ắt đã đến nha sĩ.
Hai cảnh sát bên đội tuần tra chó dẫn mấy
con chó ngao Argentina đi đã cung cấp một lời giải thích đơn sơ về tình trạng
cái xác:
- Lũ chó bị bỏ đói. Ai đó quên cho chúng
ăn.
- Nestor là sếp của Kalle Farrisen, - Simon
nói.
- Tôi biết, - Bjornstad rên rỉ. - Báo chí
mà biết thì đúng là quá thảm họa.
- Làm sao các anh tìm thấy Lae?
- Hai xe tuần dưới trang trại đã lần theo
tín hiệu điện thoại, - Bjornstad nói.
- Tôi cử họ đi, - Kari nói. - Chúng tôi nhận
được một tin nhắn nặc danh.
- Đầu tiên họ phát hiện ra điện thoại của
Lae, - Bjornstad nói. - Nó ở trên cổng như thể có người để nó đấy để ta dò ra.
Nhưng khi lục soát căn nhà thì họ không tìm thấy Lae. Họ định bỏ đi thì một con
chó cảnh sát phản ứng và muốn vào rừng. Và đó là khi họ tìm thấy... cái này. -
Anh ta vung hai bàn tay ra.
- Còn Lae? - Simon hỏi, hất hàm về phía người
đàn ông đang run cầm cập quấn tấm chăn len, ngồi trên gốc cây sau họ.
- Hung thủ đã dùng súng hăm dọa lão, lão
nói. Nhốt lão trong chuồng bên cạnh, lấy đi điện thoại và ví. Lae bị nhốt ba mươi
sáu tiếng. Lão đã nhìn thấy tất cả.
- Vậy lão nói sao?
- Lão đang suy sụp, tội nghiệp lão, lão
không ngừng nói. Lae bán chó trái phép và Nestor là khách hàng của lão. Nhưng
lão không thể cung cấp mô tả chính xác về hung thủ. Tuy nhiên nhân chứng không
nhớ mặt người đe dọa tính mạng mình là chuyện thường.
- Ồ, họ nhớ chứ, - Simon nói. - Họ nhớ mấy
gương mặt đó đến hết đời. Họ chỉ không nhớ chúng theo cách ta thấy chúng, vì vậy
mà mô tả của họ sai. Chờ đây.
Simon đi lại chỗ người đàn ông. Ngồi xuống
trên một gốc cây khác cạnh lão.
- Cậu ta trông thế nào? - Simon hỏi.
- Tôi đã mô tả rồi...
- Giống vậy không? - Simon nói, lấy từ túi
ra một hình chụp đưa lão xem. - Cố hình dung cậu ta mà không có râu tóc dài.
Người này nhìn chằm chằm bức hình một hồi
lâu. Rồi lão chậm rãi gật.
- Cái nhìn đó. Hắn có ánh nhìn đó. Như thể
hắn vô tội.
- Chắc không?
- Hoàn toàn chắc.
- Cảm ơn.
- Hắn cứ nói vậy suốt. Cảm ơn. Rồi hắn khóc
khi bầy chó làm thịt Nestor.
Simon cất hình vào túi.
- Một điều cuối. Ông báo cảnh sát là cậu ta
dùng súng hăm dọa ông. Cậu ta cầm súng tay nào?
Người đàn ông chớp chớp mắt như thể giờ mới
nghĩ đến điều đó.
- Trái. Hắn ta thuận tay trái.
Simon đứng lên bước lại chỗ Bjorntad và
Kari.
- Đó là Sonny Lofthus.
- Ai? - Asmund Bjornstad hỏi.
Simon nhìn viên thanh tra hồi lâu.
- Tôi tưởng anh là người xuất hiện cùng với
Delta, cố tóm cậu ta tại Trung tâm Ila?
Bjornstad lắc đầu.
- Dù sao, - Simon nói, lấy bức hình ra lại.
- Ta cần công bố mô tả và cáo thị truy nã để công chúng giúp. Ta cần đưa hình
này lên NRK và TV21.
- Tôi không tin có ai nhận diện được cậu ta
nhờ tấm hình đó.
- Bao lâu thì ta nhờ họ phát nó đi được?
- Họ sẽ dành chỗ cho mục tin này ngay, cứ
tin tôi, - Bjornstad nói.
- Vậy thì cho bản tin sáng trong mười lăm
phút nữa, - Kari nói, lấy điện thoại ra bật chức năng chụp hình. - Cầm hình và
giữ yên nhé. Anh quen ai ở NRK để ta gửi tới?
* * *
Morgan Askoy đang cẩn thận gỡ cái vảy nhỏ
trên mu bàn tay thì tài xế xe buýt bất thần đạp phanh nên vô tình Morgan lột được
cái vảy. Một giọt máu hiện ra. Morgan lẹ làng ngoảnh nhìn đi chỗ khác, anh
không chịu nổi khi nhìn thấy máu.
Morgan xuống xe buýt tại Nhà tù An ninh Tối
đa Staten anh làm việc đã hai tháng nay. Anh đang đi sau một nhóm mấy quản giáo
thì một gã mặc đồng phục quản giáo đi lại bên cạnh.
- Chào anh.
- Chào, - Morgan đáp tự động và nhìn qua,
nhưng không nhớ ra anh ta là ai.
Dù là vậy, anh chàng này vẫn tiếp tục bước
bên cạnh như thể họ quen nhau. Hay như thể anh ta muốn làm quen với anh.
- Anh không làm chái A, - anh ta nhận xét.
- Hay anh mới vào làm?
- Chái B, - Morgan nói. - Hai tháng.
- À phải.
Anh ta trẻ hơn đám tín đồ mặc đồng phục
kia. Chủ yếu là mấy quản giáo lớn tuổi hơn, họ mặc đồng phục trên đường đi làm
và về nhà, cứ như thể bọn họ hãnh diện về chuyện đó. Cũng như chính Franck, tay
phó giám thị nhà tù.
Morgan thì sẽ cảm thấy như đồ ngốc nếu phải
ngồi xe buýt và bị thiên hạ nhìn chòng chọc rồi có lẽ còn hỏi han về nơi anh
làm việc ở Staten. Trong tù. Không đời nào.
Anh nhìn thẻ tên trên đồng phục của gã
thanh niên. Sorensen.
Họ đi cạnh nhau ngang qua phòng bảo vệ và
Morgan gật đầu chào tên bảo vệ bên trong.
Khi họ tiến đến lối vào, gã thanh niên lấy
điện thoại ra nên hơi tụt lại đằng sau; có lẽ đang gửi tin nhắn.
Cửa đóng sầm lại sau tay nhân viên trước mặt
họ, nên Morgan phải rút chìa của mình ra. Anh mở khóa cửa.
- Cảm ơn anh nhiều lắm, - gã Sorensen nói
và lách vào trước mặt anh. Morgan đi theo, nhưng rẽ khi đi đến chỗ tủ cá nhân.
Anh thấy thanh niên nhập vào đám nhân viên còn lại khi họ tràn vào lồng tới mấy
chái.
* * *
Betty đá hất giày đi rồi nằm vật ra giường.
Đúng là một ca đêm. Cô kiệt sức và biết phải một lúc nữa mới ngủ được, nhưng ít
ra cô cũng phải thử. Và để làm vậy, đầu tiên cô phải rũ sạch cái cảm giác là cô
cần báo cảnh sát sự việc trong phòng suite 4. Sau khi cô và nhân viên bảo vệ kiểm
phòng xem có hư hao mất mát gì không, Betty dọn phòng và định vất nửa trái
chanh thì phát hiện ra ống tiêm dùng rồi trong sọt rác. Không có gì xúi giục
thì đầu óc cô cũng đã cộng hai với hai: phần thịt trái chanh đổi màu và ống
tiêm. Cô sờ vỏ chanh thì thấy vài lỗ lấm tấm. Vắt một giọt chanh vào tay thì thấy
nước chanh đục lờ, như thể có chứa phấn. Cô cẩn thận đưa lưỡi nếm giọt này,
ngoài vị chua gần như quá gắt thì còn vị đắng, như thuốc. Cô phải quyết định.
Có luật lệ nào cấm khách giữ chanh có vị lạ không? Hay ống tiêm dùng một lần? Vậy
nếu tình cờ họ bị bệnh đái đường hay một chứng bệnh nào khác thì sao? Hay chơi
những trò kỳ quặc với khách trong phòng? Nên cô đã mang đồ trong sọt rác xuống
quầy tiếp tân đổ đi. Viết vắn tắt vài dòng trong sổ trực về tiếng ồn từ phòng
suite 4 và người đàn ông họ thấy bị trói vào chậu rửa mặt. Chính hắn cũng đã
bác bỏ toàn bộ sự việc.
Cô còn biết làm gì?
Cô bật TV treo tường trong khi cởi đồ, vào
phòng tắm, tẩy trang và đánh răng. Cô nghe giọng nói đều đều rì rầm từ kênh tin
tức TV2. Cô thường để nhỏ tiếng vì nó giúp cô ngủ. Có lẽ vì giọng dỗ dành của
phát thanh viên làm cô nhớ giọng cha mình, chất giọng có thể tường thuật về quá
trình sụp lún của các lục địa mà vẫn làm cô cảm thấy an toàn. Nhưng chỉ TV thôi
thì không còn đủ nữa.
Cô đã bắt đầu dùng thuốc ngủ. Phải thừa nhận
là mấy viên thuốc không nặng lắm, nhưng dù là vậy đi nữa. Bác sĩ của cô nói cô
nên tính chuyện xin nghỉ ca đêm xem có đỡ hơn không. Nhưng không ai trốn tránh
mà lên đến đỉnh cao được, ta phải nỗ lực. Qua tiếng của vòi nước và cái bàn chải
đầy bọt cô nghe giọng phát thanh viên nói cảnh sát đang truy lùng kẻ có liên
quan trong vụ sát hại một người tại trại chó đêm qua, và họ gộp vụ này với vụ
án mạng Agnete Iversen và vụ giết một lúc ba mạng người ở Gamlebyen.
Betty súc miệng, tắt vòi và quay lại phòng
ngủ. Đứng sững bên ngưỡng cửa.
Nhìn chằm chặp ảnh người bị truy nã trên
TV.
Là hắn.
Hắn có râu tóc dài, nhưng Betty đã được huấn
luyện lật tẩy những khuôn mặt cải trang và đeo mặt nạ, đối chiếu mặt với hình
chụp mà Plaza và các khách sạn quốc tế khác lưu trong hồ sơ, những tên lừa đảo
khét tiếng trong ngành khách sạn sớm muộn gì cũng có ngày xuất hiện ở quầy tiếp
tân của họ. Và đó là hắn.
Người đã làm thủ tục nhận phòng, chỉ là
không đeo kính, nhưng có lông mày.
Cô ngây nhìn điện thoại để trên bàn cạnh
giường ngủ.
Chu đáo, nhưng thận trọng. Đặt lợi ích của
khách sạn lên hàng đầu. Có thể tiến xa.
Cô lại nhắm nghiền mắt.
Mẹ cô nói đúng. Tính tò mò chết tiệt của
cô.
* * *
Từ cửa sổ văn phòng, Arild Franck nhìn đám
quản giáo hết ca đêm ra về qua cổng. Hắn ghi nhớ trong đầu bất cứ ai có mặt trễ
ca sáng. Chuyện đó làm hắn bực. Những kẻ không làm được việc của mình làm hắn bực.
Như Kripos và Đội Điều tra án mạng. Cảnh sát đã được mật báo vây ráp Trung tâm
Ila vậy mà Lofthus cũng vuột khỏi tay họ. Vẫn chưa đủ tốt. Và giờ bọn họ đang
phải trả giá cho sự kém cỏi của cảnh sát. Hugo Nestor bị giết đêm qua. Trong một
cũi chó.
Thật không tin được là một người, một thằng
nghiện, mà lại có thể gây ra quá nhiều hỗn loạn như vậy. Người công dân tuân thủ
luật pháp trong Franck cũng thấy tức giận chẳng kém vì cái sự yếu kém nơi cảnh
sát cứ liên tục bị chường ra như thế, nhiều lúc thậm chí hắn còn thấy thất vọng
bởi cảnh sát chưa từng xoay xở tóm được hắn, một phó giám thị nhà tù tham
nhũng. Hắn đã nhìn thấy vẻ nghi ngờ trong mắt Simon Kefas, nhưng Kefas không có
gan truy hắn, tên đại hèn, hắn có quá nhiều thứ sợ mất. Simon Kefas chỉ can đảm
khi đang đặt cược tiền. Tiền bạc chết tiệt. Franck trông đợi điều gì? Rằng nó sẽ
mua cho hắn một tượng bán thân, cái thanh danh là rường cột của cộng đồng? Và một
khi hắn đâm ra nghiện tiền như nghiện heroin thì những con số trong tài khoản
ngân hàng dường như đã trở thành mục đích hơn là phương tiện bởi không còn mục
tiêu nào quan trọng nữa. Và cũng như tên nghiện, hắn biết và hiểu điều đó, vậy
mà không làm gì được.
- Một quản giáo tên Sorensen đang đến gặp sếp,
- thư ký riêng ở tiền sảnh nói.
- Đừng để hắn...
- Anh ta đi ngang qua mặt tôi, nói chỉ mất
một phút.
- Thật sao? - Franck chau mày. Có phải
Sorensen đến báo cáo đã khỏe để quay lại làm phận sự khi chưa hết phép nghỉ ốm?
Điều khác thường đối với một nhân viên Na Uy. Hắn nghe cửa mở sau lưng.
- Sorensen, - Arild Franck nói mà không
quay lại. - Vậy ra anh quên gõ cửa sao?
- Ngồi xuống.
Franck nghe cửa khóa nên ngạc nhiên quay về
phía giọng nói. Hắn ngừng nhúc nhích khi nhìn thấy khẩu súng.
- Ông mà gây chỉ một tiếng động thôi là tôi
sẽ bắn thủng trán ông.
Khi ta chĩa súng vào ai, người đó thường sẽ
chăm chăm vào khẩu súng và phải một lúc họ mới nhìn người đằng sau nó. Nhưng
khi gã thanh niên đưa chân lên hất ghế dựa lăn qua sàn đến chỗ phó giám thị,
Franck thấy đó là ai. Người Con Trai đã trở lại.
- Mày khác đi rồi, - Franck nói. Hắn định bụng
nói vậy một cách uy phong hơn, nhưng cổ họng khô khốc và không một âm thanh cụ
thể nào phát ra.
Khẩu súng đưa lên cao hơn một chút nên
Franck tức thì ngồi phịch xuống ghế.
- Để hai tay lên tay ghế, - gã thanh niên
nói. - Tôi sẽ bấm nút hệ thống điện thoại nội bộ rồi ông bảo Ina đến bếp lấy ít
bánh. Làm đi.
Gã thanh niên bấm nút.
- Vâng? - Họ nghe giọng sốt sắng của Ina.
- Ina... - Đầu óc Franck tuyệt vọng tìm những
cách khác.
- Vâng?
- Đi... - Cuộc tìm kiếm của Franck dừng phắt
khi hắn thấy ngón tay gã thanh niên siết lại trên cò. -... cô xuống bếp lấy cho
tôi ít bánh ngọt? Ngay đi.
- OK.
- Cảm ơn, Ina.
Gã thanh niên thả cò, để súng xuống, lấy
trong túi áo khoác ra cuộn băng keo, đi vòng đến ghế Franck rồi bắt đầu dán hai
cẳng tay hắn vào tay ghế. Rồi anh ta quấn băng quanh ngực hắn vào lưng ghế, rồi
đến lượt hai bàn chân, cọc ghế và bánh xe. Đoạn anh ta cầm súng lên lại. Một ý
nghĩ kỳ lạ thoáng qua đầu Franck: lẽ ra hắn phải khiếp sợ hơn. Gã thanh niên đã
giết Agnete Iversen, Kalle, Sylvester, Hugo Nestor. Hắn không nhận ra mình sắp
chết sao? Có lẽ khác nhau là ở chỗ hắn ở đây an toàn trong văn phòng riêng tại
Staten và đang giữa ban ngày. Hắn đã thấy gã thanh niên lớn lên trong chính nhà
tù của hắn - trừ vụ xô xát với Halden đó ra - anh ta chưa từng tỏ ra có thiên
hướng hay khả năng dùng vũ lực nào.
Gã thanh niên lục khắp các túi của Franck rồi
lấy ra ví và chìa khóa xe.
- Porsche Cayenne, - gã thanh niên đọc to
trên chìa khóa. - Đây là xe đắt tiền so với công chức, không phải sao?
- Mày muốn gì?
- Tôi muốn có câu trả lời cho ba câu hỏi
đơn giản. Nếu ông cho tôi biết sự thật, tôi sẽ để ông sống. Nếu không, tôi e
tôi sẽ phải giết ông. - Anh ta nói vậy bằng giọng điệu gần như tiếc nuối.
- Câu hỏi đầu tiên là, tên và số tài khoản
Nestor gửi tiền vào trả cho ông?
Franck ngẫm nghĩ. Không ai biết về tài khoản
này, hắn muốn nói sao cũng được, bịa ra một tài khoản thì ai mà biết được.
Franck mở miệng, nhưng gã thanh niên cắt lời hắn.
- Nếu tôi là ông thì tôi sẽ suy nghĩ trước
khi nói.
Franck nhìn sững họng súng. Thằng này có ý
gì? Chẳng ai có thể khẳng định hay phủ nhận sự tồn tại của tài khoản này. Ngoài
Nestor ra không một ai chuyển tiền vào đó. Franck chớp mắt. Có phải thằng này
đã ép cung Nestor trước khi giết? Đây là phép thử chăng?
- Tài khoản mang tên công ty, - Franck nói.
- Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Dennis, đăng ký tại quần đảo Cayman.
- Còn số tài khoản? - Gã thanh niên đưa cái
gì lên trông như tấm danh thiếp ngả vàng. Phải thằng này đã ghi số Nestor cho
vào đó? Nhưng nếu thằng này đang lòe thì sao? Anh ta sẽ không thể rút tiền dù
cho là Franck đưa anh ta số tài khoản. Franck mở miệng đọc ro ro mấy con số.
- Chậm lại, - gã thanh niên nói, nhìn vào
danh thiếp. - Và nói rõ hơn.
Franck làm theo.
- Vậy thì chỉ còn lại hai câu hỏi, - gã
thanh niên nói khi hắn đọc xong. - Ai giết cha tôi? Và ai là gián điệp nhị
trùng tiếp tay cho Sinh Đôi?
Arild Franck chớp mắt. Cơ thể hắn biết điều
đó. Lúc này nó biết điều đó và đang tuôn tháo mồ hôi khắp mọi lỗ chân lông. Nó
hiểu đã đến lúc sợ. Gã thanh niên lại đặt súng xuống, nhưng rút ra con dao. Cái
hung khí cong cong, chết chóc và kinh tởm của Hugo Nestor.
Franck thét lên.
* * *
- Giờ thì tôi hiểu rồi, - Simon nói khi bỏ
điện thoại vào túi áo khoác và lái xe ra khỏi đường hầm tiến vào ánh đèn trên
Bjorvika và vịnh Oslo.
- Hiểu gì? - Kari hỏi.
- Một nhân viên tiếp tân ca đêm tại Plaza vừa
gọi báo cảnh sát là người bị truy nã để thẩm vấn đã ở một đêm trong phòng suốt
của họ. Theo tên Fidel Lae. Họ cũng đã tìm thấy một người đàn ông khác bị trói
vào chậu rửa mặt trong phòng khi có mấy người khách phàn nàn về tiếng ồn. Khi
được cởi trói thì người này bỏ đi ngay. Khách sạn cũng đã kiểm các camera ở cửa
thì thấy Lofthus đi vào cùng với Hugo Nestor và người về sau họ tìm thấy trong
phòng.
- Ông vẫn chưa cho tôi biết ông hiểu gì.
- Ồ, phải rồi. Làm sao ba tên ở
Enerhauggata biết ta sắp đến tìm chúng. Theo sổ trực đêm tại khách sạn, người bị
trói tay rời Plaza đúng lúc ta đang túc trực bên ngoài địa chỉ buôn người. Hắn
đã gọi báo trước cho cả bọn là Nestor đã bị bắt nên chúng bắt đầu cho sơ tán mọi
vị trí sơ hở phòng khi Nestor khai ra chúng. Chúng biết chuyện gì đã xảy ra cho
Kalle, đúng không nào? Nhưng đúng lúc chúng định chở mấy cô gái trong xe tải đi
thì nhận ra ta ở đó rồi. Nên chúng quyết định chờ cho ta quay đi. Hay chờ ta
vào nhà, để chúng chạy đi không ai hay biết.
- Ông đã nghĩ rất nhiều về chuyện này, phải
không? - Kari hỏi. - Là làm sao chúng biết ta sắp đến.
- Có lẽ, - Simon nói, rẽ về hướng trụ sở cảnh
sát. - Nhưng giờ thì tôi biết rồi.
- Ông đã biết chuyện đó xảy ra như thế nào,
- Kari chỉnh ông. - Ông có định cho tôi biết lúc này ông đang nghĩ gì không?
Simon nhún vai.
- Là ta phải tìm được Lofthus trước khi cậu
ta phá thêm nữa.
* * *
- Gã đó cũng ngộ thật, - Morgan Askoy nói với
người đồng nghiệp hơn tuổi khi họ đi dọc hành lang rộng. Các cửa xà lim đang rộng
mở, sẵn sàng cho đợt kiểm tra buổi sáng. - Sorensen, tên anh ta. Anh ta vừa mới
đi lại cạnh tôi.
- Không thể nào là anh ta được, - đồng nghiệp
nói. - Chỉ có một Sorensen bên chái A mà anh ta thì đang nghỉ ốm.
- Ủa, là anh ta mà. Tôi thấy thẻ tên trên đồng
phục.
- Nhưng vài ngày trước tôi có nói chuyện với
Sorensen - anh ta vừa nhập viện lại.
- Vậy thì anh ta bình phục nhanh chóng thật.
- Lạ quá. Anh nói anh ta mặc đồng phục hả?
Không thể là Sorensen được, anh ta ghét đồng phục; bao giờ cũng thay đồ ở đây rồi
cất trong tủ. Vì vậy Lofthus mới trộm được.
- Tên phạm nhân bỏ trốn sao?
- Phải. Anh có thích thú công việc của mình
không, Askoy?
- Có chứ.
- Tốt. Nhớ là nghỉ phép đúng kỳ, đừng ham
làm tăng ca cho lắm vào.
Họ bước thêm sáu bước nữa rồi cả hai mới dừng
phắt lại ngây nhìn nhau.
Người này thấy người kia trố mắt.
- Gã đó trông ra sao? - đồng nghiệp của anh
kêu lên.
- Lofthus trông ra sao? - Morgan kêu lên.
* * *
Franck thở phì phì qua mũi. Tiếng thét của
hắn nghẹt lại vì bị bàn tay gã thanh niên bịt lên miệng. Anh ta đá hất giày hắn
đi, tháo tất ra nhét vào miệng Franck rồi dán băng keo lại. Gã thanh niên cắt bỏ
bởi băng keo trên tay ghế bên phải vừa đủ cho mấy ngón tay Franck cầm được cây
bút anh ta đưa hắn và rướn tới tờ giấy nằm ngay mép bàn.
- Trả lời tôi đi.
Franck viết.
Không biết.
Rồi hắn buông cây bút ra.
Hắn nghe thấy tiếng sột soạt khi băng keo bị
xé đôi, ngửi thấy mùi hồ trên mặt băng dính trước khi anh ta dán lỗ mũi hắn và
chặn mất không khí. Cơ thể Franck đã nằm ngoài tầm kiểm soát của hắn, giật và gập
lại trong ghế. Uốn éo và quằn quại. Nhảy nhót cho thằng chết tiệt đó xem áp suất
trong đầu hắn tăng lên, chẳng mấy chốc nó sẽ vỡ tung. Hắn đã sẵn sàng chết thì
thấy thanh niên gí mũi bút lên băng keo kéo căng trên lỗ mũi hắn.
Thanh niên chọt vào và lỗ mũi bên trái của
Arild Franck hít hà không khí trong khi những giọt nước mắt nóng hổi đầu tiên
lăn dài xuống má.
Gã thanh niên lại đưa cây bút cho hắn.
Franck chăm chú vào viết.
Xin rủ lòng thương. Tôi sẽ cho cậu biết tên
gián điệp nhị trùng nếu tôi biết.
Gã thanh niên đọc. Nhắm mắt và nhăn mặt như
thể đau đớn tột cùng. Anh ta xé một miếng băng keo nữa.
Điện thoại trên bàn bỗng reo. Franck khấp
khởi nhìn chằm chằm. Số lẻ của văn phòng sáng lên trên màn hình. Đó là
Goldsrud, giám sát ca. Nhưng gã thanh niên cứ mặc kệ và hết sức chăm chú dán
băng lại ngang lỗ mũi Franck. Thế là Franck lại cảm thấy cái run rẩy đi cùng
cơn hoảng loạn. Nó gần như khiến hắn tự hỏi mình đang khóc hay cười.
- Không thấy phó giám thị nghe máy, - Geir
Goldsrud nói và cúp máy. - Ina cũng không có đó - cô ta sẽ nghe máy nếu ông ấy
không nghe. Nhưng trước khi làm phiền đến phó giám thị, ta hãy kiểm tra lại
chuyện này một lần nữa. Các anh nói người các anh thấy tự nhận là Sorensen và
anh ta trông giống hắn...
Goldsrud chỉ đến màn hình TV mà anh đã đưa
hình của Sonny Lofthus lên.
- Không phải là trông giống hắn! - Morgan
khăng khăng. - Đó là hắn, tôi nhắc lại.
- Bình tĩnh đi, - đồng nghiệp lớn tuổi hơn
nói.
- Anh nói thì dễ lắm, - Morgan khịt mũi. -
Gã này bị truy nã vì sáu vụ án mạng thôi mà.
- Để tôi gọi di động cho Ina và nếu cô ta
không biết sếp đâu, ta sẽ bắt đầu tự mình lục soát. Nhưng tôi không muốn có sự
hoảng loạn nào cả, hiểu chưa?
Morgan nhìn đồng nghiệp rồi lại nhìn qua
giám sát ca. Khoảng cách dẫn đến hoảng loạn ở họ ngắn hơn ở bản thân Morgan. Cá
nhân anh thì anh chỉ cảm thấy háo hức. Thật sự háo hức. Một phạm nhân, đột nhập
vào Staten, sao lại có thể có chuyện đó được?
- Ina? - Goldsrud gần như gào vào điện thoại
và Morgan thấy được nỗi nhẹ nhõm trên mặt anh ta. Thật hào hứng khi tố cáo giám
sát ca đang cố trốn tránh trách nhiệm, nhưng làm quản lý cấp giữa hẳn là tồi tệ
lắm, chịu trách nhiệm trước phó giám thị cơ mà. - Chúng tôi cần gặp Franck ngay
lập tức! Ông ấy đâu?
Morgan thấy nỗi nhẹ nhõm nhường chỗ cho vẻ
ngơ ngác rồi đến kinh hoàng.
Goldsrud bấm tắt cuộc gọi.
- Thế...? - Đồng nghiệp lớn tuổi hơn mở miệng.
- Cô ta nói ông ấy đang có khách trong văn
phòng, - Goldsrud nói, đứng lên đi lại chỗ mấy tủ cất súng ở đầu kia phòng. - Một
người tên Sorensen.
- Vậy giờ ta làm cái gì? - Morgan hỏi.
Goldsrud tra chìa vào ổ, xoay rồi mở tủ
súng.
- Cái này, - anh ta nói.
Morgan đếm được mười hai khẩu súng trường.
- Dan và Harald, các anh đi với tôi! -
Goldsrud gào lên và Morgan không còn phát hiện thấy dấu vết ngơ ngác, kinh
hoàng hay sợ trách nhiệm nào nữa trong giọng anh ta. - Đi thôi!
* * *
Simon và Kari đang đứng bên thang máy trong
sân trụ sở cảnh sát thì điện thoại ông reo.
Đó là Viện Pháp y.
- Chúng tôi đã có kết quả ADN từ mấy bàn chải
đánh răng của ông.
- Tuyệt, - Simon nói. - Và tỉ số hết hiệp một
là?
- Tôi phải gọi đó là ba mươi giây trước khi
còi thổi thì hơn. Xác suất là hơn chín mươi lăm phần trăm.
- Cho cái gì? - Simon nói và thấy cửa thang
máy mở ra.
- Chúng tôi đã tìm thấy trong cơ sở dữ liệu
ADN của chúng tôi một mẫu trùng khớp phần nào với nước bọt từ hai bàn chải. Điều
thú vị nơi mẫu trùng khớp là nó không thuộc một tội phạm hay một sĩ quan cảnh sát,
nó khớp với nạn nhân một vụ án mạng. Cụ thể hơn, nó chứng tỏ là ai dùng mấy bàn
chải này đi nữa thì cũng có quan hệ gần với nạn nhân.
- Tôi đã nghĩ đến điều đó, - Simon nói, vào
thang máy. - Mấy bàn chải này của gia đình Iversen. Tôi để ý thấy chúng bị thiếu
mất trong phòng tắm nhà Iversen sau vụ án mạng. Mẫu ADN khớp với Agnete
Iversen, phải không?
Kari nhìn nhanh qua Simon đang đắc thắng
đưa một tay lên.
- Không, - giọng từ Viện Pháp y đáp.
- Chúng tôi vẫn chưa thực sự có ADN của
Agnete Iversen tải lên hệ thống.
- Ủa? Vậy làm sao...
- Đây là một nạn nhân không nhận dạng được.
- Anh có thể chứng minh có mối liên hệ giữa
hai bàn chải với một nạn nhân án mạng không nhận dạng được sao? Không nhận dạng
được?
- Không nhận dạng được. Một người nữ rất trẻ
và đã chết từ lâu.
- Trẻ thế nào? - Simon hỏi và nhìn chằm chằm
cửa thang máy bắt đầu khép lại.
- Trẻ hơn chúng tôi thường có được.
- Nói lại xem?
- Một cái thai bốn tháng.
Não Simon cố hết sức xử lý thông tin này.
- Agnete Iversen phá thai muộn, phải vậy
không?
- Không.
- Không phải? Vậy thì ai - khỉ thật! -
Simon nhắm mắt và ghì trán vào vách thang máy.
- Ông bị mất sóng? - Kari hỏi.
Simon gật.
- Ta ra khỏi thang máy ngay thôi mà, - cô
nói.
* * *
Gã thanh niên đang đục hai lỗ trên băng
keo. Dưới mỗi bên mũi một lỗ. Vậy là Arild Franck hít thêm vài giây sự sống vào
phổi. Hắn chỉ muốn mỗi một điều là sống. Và đó là bản năng duy nhất cơ thể hắn
nghe lời.
- Vậy, ông có muốn cho tôi cái tên không? -
Gã thanh niên thấp giọng hỏi.
Franck thở phì phì; hắn ước gì có lỗ mũi rộng
hơn, khí quản rộng hơn để đón nhận không khí ngon lành, ngọt ngào này. Hắn nghe
ngóng tìm những âm thanh cho hắn biết đang có người đến giúp, giải cứu hắn
trong khi vẫn lắc đầu, cố ra dấu bằng cái lưỡi khô khốc đằng sau chiếc tất, đôi
môi sau băng keo, rằng hắn không có tên nào, không biết gián điệp nhị trùng là
ai, rằng hắn đang cầu xin tha thứ. Được thả. Được tha thứ.
Thế rồi hắn chết trân khi thấy gã thanh
niên dừng trước mặt và đưa dao lên.
Franck không cục cựa được, chân tay đều đã
bị dán xuống. Mọi thứ... Con dao hạ xuống. Con dao găm cong cong, gớm guốc của
Nestor. Đầu Franck rướn lên trên cái nệm cổ, toàn thể các cơ đều căng lên và hắn
thét không thành tiếng khi thấy máu từ người mình phụt ra.
32
- Hai, - Goldsrud nói khẽ.
Mấy người đàn ông đứng đó, vũ khí đã sẵn
sàng, lắng nghe sự im ắng đằng sau cửa văn phòng phó giám thị.
Morgan thở phào. Giờ nó sắp xảy ra. Đây là
khoảnh khắc mà cuối cùng anh cũng được tham gia, cái anh vẫn mơ ước từ hồi còn
bé. Anh sắp tóm ai đó. Có lẽ thậm chí còn...
- Ba, - Goldsrud thì thào.
Rồi anh ta vung búa tạ. Nó trúng cái khóa
trên cửa và vụn gỗ từ khung bay ra rồi Harald, người cao nhất trong đám, lách
qua cửa. Morgan bước vào, khẩu súng trường đưa ngang ngực và bước hai bước sang
trái như Goldsrud đã chỉ thị. Trong phòng chỉ có một người. Morgan nhìn chằm chặp
người đàn ông ngồi nơi ghế với máu trên ngực, cổ họng và cằm. Chúa ơi, nhiều
máu quá. Morgan cảm thấy đầu gối bủn rủn như thể bị tiêm một loại thuốc nào đó.
Anh không được như vậy! Nhưng nhiều máu quá! Người ngồi nơi ghế run bần bật, co
giật như đang bị xử tử bằng điện. Mắt ông ta trừng trừng nhìn họ, điên loạn, lồi
lên như ông ta là cá dưới đại dương.
Goldsrud bước tới hai bước và xé băng keo
trên miệng người này ra.
- Sếp bị thương ở đâu, thưa sếp?
Người đàn ông há miệng, nhưng không phát ra
tiếng nào. Goldsrud thò hai ngón tay vào lôi ra chiếc tất đen. Nước bọt từ miệng
người này túa ra và Morgan nhận ra giọng của phó giám thị Arild Franck khi hắn
la lên: đuổi theo hắn! Không được để hắn thoát!
- Chúng tôi cần biết xem sếp bị thương ở
đâu và ngăn... - Goldsrud định xé toang áo của sếp, nhưng Franck gào lên:
- Khóa hết đống cửa chết tiệt lại, hắn
thoát mất! Hắn lấy chìa khóa xe tao rồi! Cả mũ đồng phục của tao!
- Bình tĩnh đi, sếp, - Goldsrud nói khi cắt
băng keo nơi tay ghế. - Hắn mắc bẫy rồi; hắn sẽ không qua được mấy bộ cảm biến
nhận dạng dấu tay đâu.
Franck thịnh nộ quắc mắt với anh ta và đưa
bàn tay đã cởi trói lên.
- Ồ có chứ, hắn sẽ qua được!
Morgan lảo đảo ra sau và phải dựa vào tường
cho vững. Anh cố, nhưng không thể rời mắt khỏi máu đang túa ra từ nơi đáng ra
phải có ngón trỏ của phó giám thị Arild Franck.
* * *
Kari theo Simon ra khỏi thang máy rồi đi dọc
hành lang đến văn phòng không gian mở.
- Vậy là, - cô nói, cố hiểu thông tin. - Ba
bàn chải gửi đến cho ông theo đường bưu điện cùng mẩu thư từ ai đó tên “S” nói
phải đem chúng đi kiểm ADN?
- Phải, - Simon nói khi bấm nút điện thoại.
- Và hai bàn chải có ADN chứng minh mối
liên hệ gia đình với một đứa trẻ chưa ra đời? Một đứa trẻ chưa ra đời được lưu
trong hồ sơ là nạn nhân một vụ án mạng?
Simon gật trong khi đưa ngón tay lên miệng
ra dấu là ông đã nối máy lại được. Khi ông nói, tiếng nói to, rõ và ông đã mở
điện thoại sang chế độ loa.
- Lại là Kefas đây. Đứa trẻ là ai, vì sao
nó chết, và mối quan hệ gia đình thế nào?
Ông đưa điện thoại lên giữa họ để Kari cùng
nghe.
- Chúng tôi không biết người mẹ hay đứa bé
là ai, chúng tôi chỉ biết là người mẹ đã chết - hay bị giết - do dùng quá liều ở
trung tâm Oslo. Trong sổ đăng ký cô ta chỉ được ghi lại là “không nhận diện được”.
- Chúng tôi có biết về vụ này, - Simon nói,
rủa thầm. - Châu Á, có lẽ Việt Nam. Và có lẽ là nạn nhân của bọn buôn người.
- Đó là đội của ông, Kefas. Đứa bé, hay cái
thai, chết vì mẹ nó chết.
- Tôi hiểu rồi. Vậy ai là cha đứa bé?
- Bàn chải đỏ.
- Cái... màu đỏ?
- Phải.
- Cảm ơn, - Simon nói rồi tắt máy.
Kari đi lại máy pha cà phê để lấy cà phê
cho cả hai. Khi cô quay lại, Simon đang có cuộc gọi khác mà theo giọng nhỏ nhẹ
của ông thì cô đoán là với Else.
Khi ông cúp máy, ông có vẻ mặt mà khi quá độ
tuổi nào đó một số người sẽ bỗng chốc biểu hiện nó trong vài giây, như thể cái
gì đó vừa đi qua họ, như thể họ có khả năng tan thành cát bụi ngay tại chỗ.
Kari đã định hỏi tình hình thế nào, nhưng quyết định để yên vậy.
- Vậy... - Simon nói, cố ra vẻ vui. - Ta
nghĩ ai là ông bố đây? Iver cha hay con?
- Chúng ta không nghĩ, - Kari nói. - Ta biết.
Simon ngạc nhiên nhìn cô giây lát. Thấy cô
thong thả lắc đầu. Rồi ông nheo mắt, cúi đầu và lần tay qua đầu như để vuốt thẳng
chút tóc nào ông còn.
- Tất nhiên, - ông nói khẽ. - Hai bàn chải.
Chắc là tôi đang lão hóa đi rồi.
- Tôi sẽ đi kiểm tra xem ta có gì về Iver,
- Kari nói.
Khi cô đi rồi, Simon bật máy tính và mở hộp
thư.
Có người gửi cho ông một tập tin âm thanh.
Gửi từ điện thoại, có vẻ vậy.
Chưa bao giờ có ai gửi tập tin âm thanh cho
ông.
Ông mở tập tin và bấm nút chạy.
* * *
Morgan nhìn phó giám thị sôi sục đứng giữa
phòng điều khiển. Ông ta đã quấn gạc quanh chỗ cụt trên bàn tay, nhưng xua đi
yêu cầu khẩn thiết của người hộ lý là nằm xuống nghỉ.
- Vậy là anh nhấc thanh chắn và cứ để hung
thủ chạy thẳng ra?! - Franck gầm lên.
- Hắn lái xe của sếp, - nhân viên bảo vệ
nói, lau mồ hôi trán. - Hắn đội mũ đồng phục của sếp.
- Nhưng đó không phải tôi! - Franck rú lên.
Morgan không biết có phải vì Franck bị huyết
áp cao, nhưng chất màu đỏ gây buồn nôn đang rỉ qua gạc trắng và Morgan lại thấy
muốn xỉu.
Một điện thoại kế màn hình reo. Goldsrud cầm
lên nghe.
- Họ đã tìm thấy ngón tay, - anh ta nói,
đưa tay che miệng loa. - Chúng tôi sẽ chở sếp lên Bệnh viện Ulleval để phẫu thuật,
để họ có thể...
- Đâu? - Franck cắt ngang lời anh ta. - Họ
tìm thấy nó đâu?
- Ngay trên bảng đồng hồ xe Porsche của sếp.
Nó đậu song song ở Granland.
- Tìm hắn đi! Tìm hắn!
* * *
Tor Jonasson nắm lấy cái tay nắm trên thanh
ngang trong tàu điện. Lầm bầm xin lỗi khi va phải một người đi tàu buổi sang
ngái ngủ khác. Hôm nay cậu phải bán được năm chiếc điện thoại. Đó là mục tiêu của
cậu. Và khi cậu đứng - hay hy vọng là ngồi - trên tàu chiều nay, cậu sẽ biết
mình đã thành công chưa. Và điều đó sẽ làm cậu... hạnh phúc. Có lẽ.
Tor thở dài.
Cậu nhìn người đàn ông mặc đồng phục đang đứng
xoay lưng về phía mình.
Nhạc vẳng ra từ tai nghe anh ta đang đeo. Sợi
cáp dẫn vào tay anh ta cho cậu thấy một điện thoại ở mặt lưng có cái nhãn nhỏ
xíu của cửa hiệu nơi Tor làm việc. Tor đổi chỗ để nhìn kỹ nét mặt nghiêng của
người này. Cố nhìn kỹ anh ta. Chẳng phải anh ta là cái gã đã muốn mua pin cho
thứ đồ cổ đấy sao? Máy Discman. Tor đã khá tò mò nên tra tìm nó trên mạng. Người
ta sản xuất Discman cho đến năm 2000 thì Walkman tương thích với MP3 được phát
minh. Tor đứng sát sau lưng anh ta đến mức nghe được nhạc từ tai nghe qua tiếng
bánh xe thép kêu rầm rập của toa tàu, nhưng nó chìm đi khi tàu đi qua một khúc
cua và toa tàu kêu ken két.
Nó nghe như một giọng nữ lẻ loi. Nhưng cậu
nhận ra giai điệu:
“Anh vẫn luôn là người yêu của nàng...”,
Leonard Cohen.
* * *
Simon ngờ vực nhìn chăm chăm biểu tượng tập
tin âm thanh. Chỉ mất vài giây là ông đã nghe hết. Ông bấm chạy lần nữa.
Không nghi ngờ gì nữa, đó là giọng ban đầu
ông nghĩ. Nhưng ông không hiểu nó là về chuyện gì.
- Ông đang làm gì đấy? Dò xổ số hả?
Simon quay lại. Sissel Thou đang đi tuần buổi
sáng và lo đổ mấy sọt rác.
- Đại loại vậy, - Simon nói và bấm nút dừng
khi bà lấy cái sọt dưới bàn ông và đổ vào xe đẩy.
- Anh đang ném tiền đi đấy, Simon, xổ số là
dành cho những kẻ may mắn.
- Vậy bà không nghĩ đó là ta sao? - Simon
nói trong lúc vẫn nhìn chằm chằm màn hình máy tính.
- Cứ nhìn cái thế giới mà ta tạo ra ấy, -
bà nói.
Simon ngả người ra ghế và dụi mắt.
- Sissel này?
- Gì?
- Một thiếu phụ bị giết và giờ hóa ra cô ta
có thai. Nhưng tôi không nghĩ kẻ giết sợ cô ta, tôi nghĩ hắn sợ đứa con của cô
ta.
- Ừ hử.
Im lặng.
- Đó là câu hỏi sao, Simon?
Simon ngả đầu ra miếng nệm dựa cổ.
- Nếu bà biết bà đang mang thai đứa con của
quỷ, bà có tiếp tục sinh nó ra không, Sissel?
- Ta đã nói chuyện này rồi, Simon.
- Tôi biết, nhưng bà đã nói sao?
Bà nhìn ông quở trách.
- Tôi đã nói đáng buồn là thiên nhiên không
cho người mẹ tội nghiệp chọn lựa nào, Simon. Hay người cha, cũng vậy.
- Tôi tưởng ông Thou bỏ bà?
- Tôi đang nói về anh đấy, Simon.
Simon lại nhắm mắt. Ông chậm rãi gật.
- Vậy ta là nô lệ cho tình yêu. Và ta được
cho ai để yêu, đó cũng là xổ số. Phải bà muốn nói vậy không?
- Thật tàn nhẫn, nhưng nó là vậy đấy, -
Sissel tuyên bố.
- Còn thần thánh thì cười, - Simon nói.
- Có lẽ, nhưng trong lúc này thì phải có
người dọn dẹp cái mớ lộn xộn dưới đây.
Simon nghe tiếng bước chân bà nhỏ dần. Rồi
ông chuyển tập tin âm thanh từ máy tính sang điện thoại di động, đến nhà vệ
sinh dành cho nam giới, vào một phòng nhỏ và mở lại đoạn ghi âm.
Sau khi nghe hai lần thì cuối cùng ông cũng
đã hiểu mấy con số nghĩa là gì.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét