Thứ Tư, 16 tháng 10, 2019

Anders Sát Thủ Cùng Bè Lũ - Phần 3

Anders Sát Thủ Cùng Bè Lũ
Nguyên bản: Hitman Anders and the meaning of it all

Tác giả: Jonas Jonasson
Dịch giả: Phương Hoa
Nhà xuất bản TRẺ - 3/2017

Phần Ba
Một Kế Hoạch Kinh Doanh Bất Thường Khác Nữa

Chương 59

Gã tiếp tân nằm cạnh nữ mục sư, dưới tấm chăn lông, miên man mãi không ngủ được. Gã nghĩ lại mọi chuyện đã xảy đến với họ thế nào, với gã ra sao. Gã nghĩ về Ông Nội quỷ tha ma bắt đã tiêu tán hết gia sản, gián tiếp đẩy thằng cháu vào cảnh trớ trêu làm quản lý nhà thổ.
Giờ đây gã cùng nữ mục sư có một số tiền đáng kể trong vali vàng. Họ giàu chắc ngang ngửa Ông Nội ngày xưa. Họ sống trong phòng thượng hạng khách sạn sang trọng, thường xuyên chiêu đãi bản thân bằng món gan ngỗng cùng rượu sâm panh. Một phần vì ngon, phần nữa vì Per Persson khăng khăng muốn mọi thứ họ ăn uống đều là hàng xa xỉ.
Per Persson đang trả thù những ngày gian khó. Gã có cảm giác gì đó kỳ lạ. Hay là cảm giác thiếu thốn một thứ gì đó.
Nếu mọi chuyện cuối cùng cũng tốt đẹp năm mươi năm sau khi Ông Nội phá sản, thì cớ sao gã không thấy thỏa mãn hoàn toàn? Hay ít nhất thỏa mãn đôi phần?
Phải chăng gã thấy lương tâm tội lỗi do đã đẩy Anders Sát Thủ vào nơi hắn đáng phải vào?
Không, sao phải thế?
Nói chung thì con người hay quái thú đều sẽ nhận những gì chúng xứng đáng phải nhận. Ngoại trừ trường hợp lão gác nhà thờ, đầu tiên là đam mê quyền lực quá mức nên rồi kết thúc chết ngỏm không cần thiết. Một ca xui xẻo, rõ là như vậy. Cũng chỉ là một trường hợp hy hữu mà thôi.

Bây giờ đi lạc đề tí xíu cũng được. Có thể không đúng khi nói cái chết từ hành động giết sai người là “trường hợp hy hữu”. Nhưng ai chịu để tâm đến mặt di truyền học của Per Persson sẽ lý giải được.
Gã thừa hưởng nền tảng đạo đức từ cha, một kẻ nát rượu (người đã bỏ đứa con trai đổi lấy chai rượu mạnh khi nó hai tuổi), và từ ông nội, nhà buôn ngựa, người đã cho ngựa con uống chất độc asen ngay từ khi mới sinh khiến chúng quen với độc tố, luôn duy trì thể trạng cân đối không phải chỉ vào ngày bị đem bán, rồi thể lực suy giảm từng chút một, hàng tuần, hàng tháng sau đó.
Kẻ nào bán động vật trong phiên chợ thứ Bảy mà bị than phiền vào Chủ nhật rằng con vật vừa mua đã chết thì danh tiếng có mà đi tong tức thì. Nhưng những con ngựa ông nội Per Persson bán luôn đứng vững cả đêm dài, mắt vẫn sáng rực ngày hôm sau. Chúng chỉ chết sau vài tháng, vì bệnh tiêu hóa mãn tính; ung thư, phổi hay gan hay thận kém hoạt động; những triệu chứng khó mà quy kết cho ông thương lái giàu có đáng kính trọng.
Do ông luôn cẩn thận đo đạc cân đo đong đếm, nước da mấy con ngựa ông bán không bao giờ bị tái nhợt trước khi chết. Đó là tác dụng phụ của việc lạm dụng chất độc nhiều giờ liền trước lúc đem bán. Cơ bản là ngựa không tự nhiên có màu xanh. Hơn nữa, ngựa mua về để làm việc chứ không thể lăn quay ra chết trước cả lúc đưa vào lao động. Tưởng tượng coi, một ông nông dân bỏ cả buổi chiều thứ Bảy mua một con ngựa kéo khỏe mạnh, sau đó nâng ly ăn mừng cả cuối tuần, thức dậy ngày hôm sau đầu đau như búa bổ, còn con ngựa mới mua không bao giờ tỉnh dậy nữa. Ông ấy có hẳn ít nhất hai lý do để bỏ đi lễ nhà thờ, xách chĩa ba lên đi kiếm thằng cha bán hàng giờ đang lẩn trốn trong giáo xứ.
Ông nội của Per Persson thì ma mãnh hơn thế nhiều; nhưng vẫn quá ngu ngơ không kịp nhận ra rằng sự bành trướng của máy kéo còn đáng sợ hơn gấp nhiều lần bị chĩa ba xiên ngang hông.
Do táo rụng không xa cây gia phả, cũng dễ hiểu suy nghĩ hiện thời của gã tiếp tân. Một con ngựa bị đầu độc tinh xảo và một lão gác nhà thờ bị tống khứ tài tình: sự khác biệt đơn thuần về khía cạnh đạo đức ở đây là gì?
Sau khi trăn trở xoay xở cả não lẫn người, Per Persson quyết định tìm kiếm sự giúp đỡ từ người nằm ngủ kế bên.
- Em yêu? Em còn thức không?
Không có ai trả lời.
- Em yêu ơi?
Nữ mục sư trở mình. Chút xíu.
- Không, em đang ngủ, - cô mơ màng. - Có chuyện gì vậy?
Ôi, giờ thì gã tiếp tân hối hận đã lôi cô vào luồng suy tư giữa đêm khuya... đồ ngu, ngu, ngu.
- Anh xin lỗi làm em thức dậy. Ngủ đi, sáng mai mình nói chuyện.
Nhưng nữ mục sư đã đẩy gối ngồi nhổm dậy.
- Nói em nghe coi, hoặc là em sẽ thức nguyên đêm đọc Kinh Gideon cho anh nghe đó.
Gã tiếp tân biết nàng chỉ dọa cho vui. Từ đêm đầu tiên, nữ mục sư đã quẳng khỏi phòng cuốn Kinh Gideon vốn được đặt trong các phòng khách sạn trên cả nước. Gã nghĩ cũng cần nói gì đó. Nhưng không rõ cần nói những gì, hay nói thế nào đây.
- À, em yêu, - gã cố thử, - tụi mình thực cũng rất thông minh phải không?
- Ý anh là ai ngáng đường mình thì nay đều chết, hay vào nhà giam, trong khi mình thưởng thức sâm panh đó hả?
Hừm, không hẳn là điều gã muốn nói, ít nhất là không thẳng tuột như vậy.
Per Persson nghĩ rằng họ đã thay đổi số phận sau bao nhiêu bất công cuộc đời. Đứa cháu trai nay đã hoán chuyển việc phá sản của ông nội bằng cuộc sống ở phòng khách sạn hạng sang, ăn gan ngỗng, uống rượu đắt tiền. Họ kiếm tiền nhờ Per và Johanna cùng hợp lực bóp méo nội dung Kinh Thánh mà dòng dõi nhà cô áp đặt cô phải đi theo.
- Ý anh là mình đạt được mục tiêu cuộc đời rồi đó ha. Cũng thiệt... bực bội nếu cái bà nhà thơ, tên gì đó, viết rằng đường đời đáng nhận thương đau... nếu bả mà...
- Đường gì? - nữ mục sư mơ ngủ hỏi, bắt đầu nghĩ rằng cuộc nói chuyện này chắc không kết thúc sớm được.
- Ừ, đường đời. Nếu mục tiêu tụi mình là ở phòng thượng hạng, ném Kinh Thánh ra ngoài cửa sổ, thì phải chăng cuộc đời mình là cuộc dạo chơi trong công viên? Hay em cũng nghĩ vậy?
- Nghĩ gì?
- Cuộc dạo chơi trong công viên?
- Là gì?
- Cuộc đời.
- Mấy giờ rồi?
- Một giờ mười, - gã tiếp tân đáp.

Chương 60

Phải chăng cuộc đời là chuyến đi dạo trong công viên?
À, một điều chắc chắn: nếu quả thật như vậy, đây là hiện tượng mới lạ với Johanna Kjellander. Đến giờ với cô cuộc đời chỉ như tên dở hơi.
Là vì tất cả những điều xảy ra với cha cô. Với cha của cha cô. Và cha của cha ông ấy. Và cha của cha của cha ông ấy. Nói cách nào đi nữa, họ đã quyết định rằng cô nên là một thằng con trai, rằng cậu trai ấy nên làm mục sư.
Thoạt đầu, chuyện diễn ra không như họ mong muốn, nên Johanna phải nghe đay nghiến suốt tuổi thơ rằng đó là lỗi của cô, cô không đủ nam tính để là một thằng con trai.
Nhưng cô cũng đã trở thành mục sư. Nếu cô nghĩ ngợi thêm đôi chút thay vì lăn ra ngủ, thì thấy rằng vấn đề không nằm ở chỗ cô thiếu đức tin mà là chọn không muốn tin. Kinh Thánh có thể đọc hiểu theo nhiều ý. Nữ mục sư chọn cách của cô - để khẳng định sự căm ghét với cha, ông nội, ông cố, các đời tổ tông ngược về đâu đó thời Vua Gustav Đệ Tam (tình cờ thay, ông này cũng có kết cục tương tự như lão gác nhà thờ, ngoại trừ hồi đó ông vua nhận một viên đạn vào lưng chứ không phải vào mắt).
- Vậy rốt cuộc là em cũng có tin vào cuốn sách đó phải không? - Gã tiếp tân hỏi.
- Đừng hỏi linh tinh. Làm quái gì có chuyện Noah sống đến chín trăm tuổi.
- Chín trăm rưỡi.
- Ừ nhiêu đó tuổi. Nhớ là em mới ngủ dậy đó.
- Hình như anh chưa từng nghe em nói bậy.
- Ồ, có đó. Thường là sau một giờ sáng.
Họ nhìn nhau mỉm cười. Trong bóng đêm nhìn không thấy rõ lắm nhưng họ có thể cảm nhận được.
Gã tiếp tân thừa nhận rằng câu gã mới hỏi nghe hơi ngu ngốc, nhưng nữ mục sư cố lảng tránh trả lời. Johanna Kjellander ngáp, nói rằng bởi cô quên mất câu hỏi là gì.
- Mà anh hỏi lại lần nữa đi. Đằng nào thì cũng toi cả đêm rồi.
Ừm, câu hỏi về mấu chốt vấn đề. Phải chăng cuộc đời cả hai đang xuôi theo chiều tích cực. Phải chăng cuộc đời cũng đơn giản như dạo chơi trong công viên.
Nữ mục sư im lặng một chút, rồi quyết định nói chuyện nghiêm túc. Cô thật rất thích ăn gan ngỗng ở Khách sạn Hilton cùng người tình. Thích hơn nhiều so với việc phải đứng trên bục giảng nói nhăng cuội với đám cừu ngoan bên dưới mỗi tuần.
Nhưng Per nói đúng, mỗi ngày trôi qua như mọi ngày, họ đâu thể ở trong khách sạn mắc tiền hoài đến khi cạn nhẵn túi. Mà trả tiền cho loại phòng này thì tiền cạn còn nhanh hơn nữa phải không?
- Tính kỹ ra nếu ngày nào cũng ăn gan ngỗng uống sâm panh, tụi mình sẽ tiêu hết tiền trong khoảng ba năm rưỡi, - gã tiếp tân nói, có chừa thêm sai số trong tính toán.
- Rồi sau đó sao nữa? - nữ mục sư hỏi.
- Nãy giờ anh đang bàn về chuyện đó đó.
Nữ mục sư liên tưởng trò tán tỉnh của Per Persson với một trong những bài thơ nổi tiếng nhất Thụy Điển, bài thơ bắt đầu là “Một ngày đầy đủ chưa hẳn đã vui; một ngày xấu đui có khi lại tốt”.
Điều khiến cô suy nghĩ không phải là về bài thơ nói riêng, mà vì nhà thơ đã tự tử sau đó mấy năm. Không thể coi đó là ý nghĩa cuộc sống được.
Johanna thực sự cảm thấy hạnh phúc từ khi gặp gã tiếp tân (bên cạnh mối quan hệ trai gái khi họ vui vẻ trên giường, trong xe tải, sau cây đàn dương cầm, hay bất kỳ đâu đó thuận tiện), đó là lúc họ cho đi rất nhiều tiền. Bữa lộn xộn trong cửa tiệm của Hội Chữ Thập Đỏ ở Vaxjo chưa phải là vui nhất, nhưng cảnh bà nhân viên Hội Cứu Tế bước giật lùi về phía sau khỏi tiệm rượu Sydtembolaget ở Hassleholm thì thiệt buồn cười ghê gớm mỗi khi nhớ lại. Rồi lần xe tải đậu phía ngoài trụ sở chính Quỹ Cứu Trợ Trẻ Em. Rồi đợt Anders Sát Thủ quát anh lính canh không chịu nhận gói hàng bí ẩn gửi cho nữ hoàng...
Gã tiếp tân gật đầu nghe cô nói chuyện, nhưng có phần hơi lo lắng. Phải chăng cổ ngụ ý quyên góp luôn hết số tiền trong vali vàng cho những kẻ khốn khó. Đừng nói cổ đang nghĩ là...?
- Khốn nạn vậy đó! - nữ mục sư nguyền rủa, ngồi thẳng lưng trên giường.
- Em chửi thề nữa rồi đó.
- Anh thì ngưng nói những thứ rác rưởi đó đi!
Ít nhất thì họ cũng đồng ý là giờ đây cuộc đời như dạo bước trong công viên bởi họ đang giúp nhau một tay, còn không ai biết tay kia họ đang giúp nhau những gì. Hồng phúc là nhận hơn là cho, nhưng loại cho đi này thì thật sung sướng.
Gã tiếp tân cố tóm tắt vấn đề, nghĩ về tương lai.
- Phải chăng ý nghĩa cuộc sống là giúp mọi người hạnh phúc khi tụi mình có nguồn tài chính giúp bản thân hạnh phúc hơn đôi chút? Như vụ làm ăn với nhà thờ, miễn không liên quan đến Chúa Con, Chúa Cha, hay mấy thằng bắn tỉa trên tháp chuông.
- Hay Noah nữa, - nữ mục sư nói thêm.
- Gì?
- Miễn không liên quan đến Chúa Con, Chúa Cha, mấy thằng bắn tỉa trên tháp chuông hay Noah. Em không ưa ông đó.
Gã tiếp tân hứa sẽ cân nhắc chuyện cân bằng giữa lòng tốt và sự túng thiếu, dù họ luôn cho mình là kẻ túng thiếu nhất quả đất. Quan trọng là việc cân bằng - dù là loại cân bằng nào đi nữa - cũng không bao gồm ông Noah với cái thuyền gỗ.
- Em đi ngủ còn anh nghĩ tiếp đi ha? - nữ mục sư hỏi, chỉ chờ nghe câu trả lời “ừ”.
Gã tiếp tân cho rằng cô đúng là đối tác trò chuyện quý báu dù cho đang lơ mơ ngủ. Chắc cô thức thêm chút xíu cũng được. Bởi gã mới nghĩ ra ý tưởng cho chủ đề Ý Nghĩa Cuộc Sống. Gã bèn bảo cô có thể ngủ đi, nếu không muốn phản ứng tích cực với sự thật là gã đang rạo rực với người phụ nữ nằm kế bên. Per Persson xích gần hơn.
- Sắp một rưỡi rồi đó, - Johanna Kjellander nói. Rồi cô kéo hắn vào sát bên mình.

Chương 61

Cuộc họp giới tội phạm lớn thứ ba được tổ chức lần thứ ba ở cùng hầm rượu như lần họp thứ hai. Mười lăm thành viên; do hai thành viên đã bị bắt trong tình trạng phê thuốc khi thực hiện vụ cướp xe bọc thép mà hóa ra là xe tải chở bánh mì.
Dù những gì hai tên cướp lấy được không quá mười ổ bánh mì kẹp của tiệm bánh Eskelund (một trong hai tên đang đói mờ mắt), chúng bị kết tội do mang theo vũ khí. Tên tuổi tiệm bánh Eskelund được báo chí nhắc đến liên tục khắp nơi, khiến ông chủ gửi hai chậu hoa phong lữ tuyệt đẹp đến trại giam nơi hai tên cướp đang thụ án chờ ngày ra tòa. Nhân viên trại giam nghi ngờ đây là âm mưu buôn lậu thuốc cấm: bởi trong lịch sử gác giam chưa từng có tù nhân nào được nhận hoa cám ơn do cướp của không thành. Do vậy mà chậu hoa bị xả ra từng mảnh trước khi giao đến người nhận, cũng còn gì nữa đâu mà nhận.
Tình hình hiện nay là cặp đôi bá tước đã vĩnh viễn ra đi sau một trận quyết đấu dữ dội với anh em can trường nhà Olofsson. Hai người họ không hứng thú bàn luận sâu chi tiết cụ thể sự vụ xảy ra như thế nào.
- Bí mật nghề nghiệp, - Olofsson viện cớ, ông anh gật đầu đồng tình.
Anders Sát Thủ giờ cũng vào trại giam, còn nhà thờ hành nghề của hắn thì đã bị phong tỏa.
Giờ đây mười lăm thành viên phải quyết định vận mệnh hai cộng sự của Anders Sát Thủ. Hai đứa nó đang ngồi trên cả núi tiền. Nay sát thủ đã ngồi tù yên ổn, còn sống nguyên, việc đàm phán không-nhân-nhượng với chủ đề “đưa hết tiền đây” không còn quá nguy hiểm nữa. Dĩ nhiên các thành viên có những ý tưởng ngấm ngầm khác nhau về việc chia số tiền này thế nào là phù hợp.
Thành viên tên Bò Mộng phát biểu rằng hai đứa này phải hứng chịu cái chết đau đớn như cặp đôi bá tước, ví dụ như mỗi đứa phải nuốt một trái lựu đạn. Anh em nhà Olofsson cũng nên tiếp tục nhiệm vụ này tại đằng nào họ cũng rành cách thực hiện rồi.
Sau khi tranh cãi chán chê, các thành viên bỏ phiếu 14 chống 1 rằng nuốt lựu đạn là hoàn toàn không khả thi dù có người khác giúp ấn xuống cổ họng (ý là chưa tính đến vấn đề an toàn cho người đứng ấn), hơn nữa tin tức về hai cộng sự bị nổ tung có thể khiến Anders Sát Thủ tiết lộ những thông tin không cần nói ra.
Nên không có giết chóc gì cả. Tất cả họ đồng ý rằng thông tin Anders Sát Thủ đang nắm giữ về danh tánh những ai ký hợp đồng giết người hay gây thương tích cho kẻ khác không nên bị tiết lộ.
Dù cho giờ đây cặp đôi bá tước đang thong dong chốn địa ngục (sớm muộn tất cả bọn họ sẽ gặp nhau dưới đó), vẫn còn rất nhiều bí ẩn quanh việc ai muốn khử ai. Giữ tính mạng nữ mục sư và gã tiếp tân sau khi chúng giao nạp hết số tiền là một phương án an toàn.
Số phiếu 13-2 là kết quả chọn anh em nhà Olofsson với nhiệm vụ xử lý hai tên cộng sự sót lại. Anh em nhà họ cố vòi năm mươi ngàn kronor coi như là phí xử lý khi kế hoạch kết liễu tính mạng hai tên này đã bị hủy bỏ.
* * *
Anh em nhà Olofsson bí xị đang chưa biết làm cách nào kiếm ra nữ mục sư và gã tiếp tân. Chúng lượn lờ quanh nhà thờ vài ngày, rồi lại thêm vài ngày nữa. Sự khác biệt giữa ngày này và ngày khác chỉ là cỏ mọc ngày càng dày trên con đường sỏi dẫn đến hàng hiên. Ngoài ra thì chẳng có manh mối gì sất.
Sau gần một tuần, một trong hai đề nghị mở thử cánh cửa hướng ra con đường coi có khóa không. Cửa không khóa. Bên trong nhà thờ như một bãi chiến trường, Không ai từ Đội Thi Hành Công Vụ mó tay dọn dẹp gì trong này.
Ở đây cũng chẳng có tí manh mối nào của hai kẻ bỏ trốn kia.
Trong phòng thánh, chúng tìm được cơ man là thùng chứa hàng ngàn lít rượu, đáng để nhấm nháp thử. Mùi vị rượu không tệ, dẫu cho uống rượu thì cũng chẳng ích gì ngoại trừ giúp cho việc tìm kiếm tẻ ngắt nơi đây có phần phấn khích hơn.
Có một bộ truyện tranh trong ngăn tủ. Dựa vào ngày xuất bản thì phải từ ba mươi năm trước rồi.
- Truyện tranh trong nhà thờ hén? - Olofsson nói.
Ông em không buồn trả lời. Hắn ngồi phịch xuống đọc cuốn Điệp viên X9.
Olofsson táy máy lục lọi một xô giấy lộn cạnh bàn giấy. Hắn đổ ngược cái xô, rơi ra một đống giấy vò nhăn nhúm. Tất cả đều là hóa đơn tiền mặt thanh toán phòng lưu trú ở Khách sạn Hilton gần Slussen Stockholm. Hóa đơn một đêm, một đêm nữa, rồi một đêm nữa... Hai con lợn đó ở Khách sạn Hilton bằng tiền của anh em Olofsson và những anh em khác sao?
- Đi thôi! - Olofsson vừa tìm ra được manh mối quan trọng nhất cuộc đời mình.
- Đợi chút xíu, - Olofsson kia phản đối, hắn đang đọc nửa chừng cuốn truyện tranh trinh thám Modesty Blaise.

Chương 62

Nữ mục sư và gã tiếp tân tiếp tục đồng lòng tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời. Sau sáu ngày, họ đồng ý tuyệt đối rằng ý nghĩa cuộc đời đó không có mặt trong phòng thượng hạng Riddarholm ở Khách Sạn Hilton.
Đến khi bắt đầu tìm chỗ khác để dọn đến, họ mới nhận ra giá nhà bây giờ đắt đỏ cỡ nào. Một căn hộ ba phòng ngủ ở Stockholm có giá ngang ngửa toàn bộ số tiền trong vali, cuộc sống bần hàn trong cảnh phá sản thì còn gì vui nữa? Đứng xếp hàng để nộp hồ sơ thuê căn hộ giá rẻ cũng chẳng có ý nghĩa gì nếu họ không sống đến 950 tuổi, như chúng ta cũng biết thì chỉ mới có một người duy nhất sống đến chừng đó tuổi.
Hai người họ không ai có tí kinh nghiệm về thị trường nhà đất. Per Persson từ hồi trưởng thành chỉ toàn ngủ sau sảnh khách sạn hay trong xe tải cắm trại. Kinh nghiệm của Johanna Kjellander không khá khẩm hơn gì mấy, chỉ nhỉnh chút đỉnh là cha cô được cấp nhà, phòng ký túc xá ở Uppsala, rồi trở lại tư thất của ông già (hồi mới tốt nghiệp, cô phải đi lại gần 20km giữa phòng ngủ tới nơi làm việc; đó là khoảng tự do lớn nhất cha cô chấp thuận).
Nhưng giờ đây họ nhận ra rằng họ quá đề cao những thứ đựng trong vali vàng dùng trang trải cho cuộc sống.
Lựa chọn tương đối rẻ tiền là một túp lều câu cá trên hòn đảo giữa biển Baltic. Họ tìm thấy túp lều này trên trang trực tuyến Gotland với giá rẻ như cho không, cộng với không gian địa lý vời vợi hơn một trăm hải lý xa khỏi trung tâm băng đảng Stockholm. Chúng mà phát hiện ra chỗ họ trú ẩn thì nhất định sẽ cho nổ tung cả hai.
Giá rẻ phải có lý do. Không được sống trong nhà xây dựng kiên cố vĩnh viễn, không được lắp bộ giữ nhiệt tường hay mái, cũng không được lắp nhà xí.
- Anh nghĩ cứ mua nó, rồi thử nhóm lửa trên bếp, lấy cuốn luật nhà nước làm mồi lửa. Rồi sau đó mình có thể lắp bộ giữ nhiệt tường, xây nhà xí, viện cớ mình không hiểu luật.
- Lỡ ai đó bắt được thì sao? - Nữ mục sư vẫn vô cùng e dè luật pháp sau ngần ấy năm sống dưới mấy tầng áp chế của ông già.
- Lỡ có ai bắt được sao? Mà ai mới được? Chuyên viên kiểm tra nhà xí vùng Gotland chăng? Em nghĩ ông hay bà chuyên viên đi từ phòng này qua phòng kia coi coi người ta có ị đúng chỗ không à?
Ngoài các quy định nêu trên, còn không được đi dạo bên ngoài, kiểu thằng cha bán lều nói dấm dớ như vậy trên điện thoại, rằng vùng biển cần được bảo vệ, khu nước cạn cần được bảo vệ, động vật cần được bảo vệ, khu sinh thái cần được bảo vệ, cùng vô vàn những thứ cần được bảo vệ khác khiến nữ mục sư cuối cùng chịu hết nổi. Cuối cùng thì cha bán lều cũng đi kết điểm chính là ổng không thể hình dung được sẽ trao quyền sử dụng kho báu văn hóa đó cho ai đó khác. Nhưng trao cho người phụng sự Đức Chúa thì ông hoàn toàn yên tâm.
- Cám ơn ông đã tin tưởng, - nữ mục sư đáp. - Ông có thể gửi hết giấy tờ liền được không, tôi thật rất háo hức mong chuyển đến nơi này.
Ông bán lều lại muốn họ gặp nhau trước: có thể ký hợp đồng sau khi cùng ăn súp rong biển. Tuy nhiên gã tiếp tân đã trộm nghe được phần nào, gã quyết định rằng nói nhăng cuội nhiêu đó đủ rồi, giật lấy ống nghe, giới thiệu gã là trợ lý mục sư Kjellander, thông báo rằng gã và nữ mục sư đang tham gia một cuộc hội thảo ở Khách sạn Hilton Stockholm, chỉ hai ngày nữa họ sẽ bay đến Sierra Leone cho một dự án nhân đạo hỗ trợ người bị bệnh phong; sẽ thuận tiện biết bao nhiêu nếu ông bán lều ký hết mấy giấy tờ rồi gửi qua khách sạn họ đang cư trú. Họ sẽ ký và gửi ngược lại ngay.
- Chà, - người đàn ông muốn mời họ ăn súp hứa rằng ông sẽ làm ngay tắp lự.
Sau khi gác điện thoại, nữ mục sư nói rằng thời nay bệnh phong không còn tồn tại nữa, mà có còn thì người ta cũng chữa trị bằng kháng sinh chứ không nằm dài trong tay cựu mục sư xứ đạo.
- Nhưng mà nói chung là tuyệt vời, - cô khen ngợi. - Cái gì khiến anh nhớ ra Sierra Leone vậy?
- Ai mà biết, - gã tiếp tân đáp. - Tại ở đó không có bệnh phong thì cũng có thứ khác thôi.
* * *
Đã đến lúc dọn dẹp đồ đạc. Một vali. Do chi phí tiền phòng ở Hilton, giờ đây đồ đạc với số tiền còn lại xếp chung một va li cũng đủ.
Cặp đôi ôm vali vàng kiểm tra xung quanh lần chót. Vali đỏ trống trơn bỏ lại trong phòng. Kế hoạch của họ là đi bộ ra nhà ga Trung tâm, sau đó bắt xe buýt đi Nynashamn, đến đó sẽ có phà chở họ đi Gotland.
Tuy nhiên chẳng có phần nào trong kế hoạch diễn ra cả.

Chương 63

Anh em nhà Olofsson quá may mắn khi chạm trán cặp đôi bá tước lần trước. Đến giờ chúng chưa từng gặp xui xẻo. Chúng mới đậu xe ngồi đợi trước Khách sạn Hilton chừng mười phút.
- Quỷ thần ơi! - Olofsson nói với ông em, giờ vẫn đang đọc truyện tranh. - Chúng kia rồi!
- Đâu? - Olofsson ngơ ngác hỏi.
- Kìa! Với cái vali vàng kìa! Tụi nó đang rời khỏi khách sạn đi đâu đó!
- Ừa, đến hầm rượu của tụi mình đó, - Olofsson em nói, quăng cuốn truyện ra ghế sau. - Đi theo tụi nó, em sẽ tóm luôn khi có cơ hội.
Cơ hội nói trên đến ngay chỉ năm mươi mét sau đó trên đường Sodermalmstorg. Olofsson tông cửa xe bay ra lề đường ép nữ mục sư và gã tiếp tân vào băng sau với sự trợ giúp của ổ súng lục bự gấp đôi ổ hắn quăng lại ngoài Nhà thờ Anders (hắn nghĩ rằng súng càng to thì càng đỡ bỏ quên). Với một khẩu Smith & Wesson chỉ thẳng vào mặt, không ai trong số hai nạn nhân kháng cự lại mệnh lệnh từ người đàn ông xa lạ.
Còn cái vali Olofsson tính quăng luôn ngoài đường, cuối cùng nghĩ thế nào lại quyết định thảy vào lòng mấy nạn nhân bị bắt cóc. Chắc chắn ở trong thế nào cũng có chứng cứ gì đó nếu hai tên ngu kia không chịu mở miệng khai báo giấu tiền ở đâu.
* * *
Nữ mục sư, gã tiếp tân cùng cái vali vàng xếp thành hàng ngang ở tụ điểm họp mặt thế giới ngầm Stockholm: hầm rượu bên dưới quán bia trốn thuế nhiều nhất. Ngạc nhiên vô cùng là có vẻ không ai thèm ngó ngàng đến cái vali.
- Xin chào, - thủ lĩnh không chính thức của mười lăm gã giang hồ. - Tụi tao hứa mày trước sau cũng sẽ được ra khỏi đây. Trong túi nhựa, hay cách nào đó khác.
Rồi hắn thông báo rằng nữ mục sư cùng thằng cha đi cùng đang mắc nợ nhóm mười ba triệu kronor.
- À, số tiền còn tùy cách ông đếm nữa chứ, - nữ mục sư dũng cảm phản pháo. - Ra giá mười ba nghe nhiều quá đó.
- Ra giá? - thủ lĩnh hỏi lại.
- Tui là Per Persson, - gã tiếp tân chỉnh lại, bởi không muốn mình bị gọi là “thằng cha đi cùng”.
- Tao đếch quan tâm tên mày là gì, - thủ lĩnh cấm cẳn rồi quay lại nữ mục sư. - Ý mày là gì, “ra giá” với “tùy cách ông đếm”?
Nữ mục sư không chắc lắm nên ra giá thế nào hay ai đó nên đếm tiền ra sao, nhưng đã lỡ phóng lao rồi giờ đành theo lao. Cố mà nói vòng vo trước rồi nghĩ cách sau vậy.
- À, tính nhẩm thì mười triệu là quá nhiều tiền rồi, - cô trả lời đồng thời nhận ra mình đã ngu ngốc cỡ nào đưa ra giá nhiều hơn số tiền họ thực có để đổi lại tự do.
Thủ lĩnh chỉnh lại bằng cách đặt câu hỏi theo cách của hắn:
- Vậy là theo lý thuyết, nếu tụi tao đồng ý với cách tính nhẩm của mày thì mười triệu knonor để ở đâu?
Per Persson không giỏi ứng biến trong mấy trường hợp này. Gã ngẫm nghĩ coi có cách nào gỡ rối vấn đề, nhưng nữ mục sư đã nhanh mồm hơn.
- Trước tiên, tôi muốn thương lượng về số tiền, - cô nói.
- Số tiền gì? - thủ lĩnh hỏi lại. - Chẳng phải mày mới nói mười triệu mẹ gì đó sao?
- Nè nè, đâu cần phải chửi thề, - nữ mục sư tiếp lời. - Người trên cao thấy và nghe được mọi thứ.
Cô nàng nhập vai rồi, gã tiếp tân trộm nghĩ.
- Tôi có nói là tính nhẩm thì mười triệu là con số tương đối hợp lý hơn. Tuy nhiên, cố thận trọng nhất thì tôi cũng phải nói rõ ba trong mười triệu có thể truy lại từ hợp đồng nam nữ bá tước đã yêu cầu tụi tôi xử lý vài người trong mấy ông, hoặc là vài người trong mấy ông yêu cầu điều ngược lại, cùng vài ba chuyện xấu xa khác nữa.
Âm thanh xôn xao lo lắng trỗi lên trong căn hầm nhỏ. Con mụ này có định tiết lộ thêm là ai định làm gì ai không vậy?
- Nếu ông cho phép tôi tiếp tục, - nữ mục sư nói tiếp, - tôi xin phép ngỏ ý rằng thật không đạo đức chút nào nếu mấy ông đòi lấy tiền của Anders Sát Thủ do rằng ông ấy không hề giết hại ai trong đây.
Gã tiếp tân gần như không theo kịp câu chuyện của nữ mục sư. Không khán giả nào trong hầm rượu theo kịp. Bọn họ mất dấu từ sau từ “không đạo đức”.
- Hơn nữa, tôi đề nghị giảm giá thêm nữa, cân nhắc từ trường hợp của nam nữ bá tước. Nếu họ không chĩa súng vào người đàn ông đã được trả tiền để giết họ, chắc chắn họ sẽ không thiệt mạng đúng không?
Tiếng lao xao lớn hơn.
- Túm lại là sao đây? - thủ lĩnh cáu kỉnh lên tiếng hỏi.
- Tụi tôi còn một cái vali đỏ, - nữ mục sư trả lời, đặt tay lên cái vali vàng bên cạnh.
- Một cái vali đỏ sao?
- Trong đó chứa đúng sáu triệu kronor. Tất cả tài sản. Chắc là có vài người ở đây đã từng đi lễ nhà thờ. Có lẽ một hai người tin vào kiếp sau, mà điều đó không nhất thiết là họ phải gặp lại nam nữ bá tước. Sáu triệu đô có lẽ là số tiền chuộc khá hợp lý mà không cần phải giết một mục sư đúng không?
- Và một Per Persson, - gã tiếp tân nhanh nhẹn chêm vào.
- Và cả Per Persson, dĩ nhiên rồi, - nữ mục sư thêm vào.
Thủ lĩnh nhắc lại là hắn không quan tâm đến thằng nào tên Per Persson. Trong lúc đó, chuỗi lao xao rộ lên khắp căn hầm. Nữ mục sư muốn cắt ngang chuỗi lao xao. Bởi đâu đó có những ý kiến trái chiều nhau. Cô nói thêm:
- Cái vali được giấu ở một nơi bí ẩn. Chỉ mình tôi biết ở đâu, tôi sẽ sẵn lòng nói cho mấy ông biết địa điểm nó chỉ khi tôi bị tra tấn. Nhưng mà nghĩ coi - tra tấn một mục sư! Đó có phải cách yêu kính Thiên Chúa không? Hơn nữa theo tôi được biết, cho dù Anders Sát Thủ đang bóc lịch, không có nghĩa ổng không còn tiếng nói.
Câu đó khiến vài gã rùng mình.
- Tôi đề nghị người đàn ông này, người mà quý vị không muốn biết tên, và tôi sẽ đưa tận tay các ông sáu triệu kronor, đổi lại các ông phải lấy danh dự kẻ cướp mà thề rằng sẽ giữ nguyên mạng sống cho hai đứa tôi.
- Hoặc ba triệu, - gã tiếp tân đế vào, với trái tim tan nát với viễn cảnh quay về cuộc sống nghèo túng lần nữa. - Và rồi tất cả chúng ta sẽ đều được lên Thiên Đàng khi Chúa gọi.
Nhưng mối quan hệ giữa Per Persson và băng đảng giờ đã trở nên rất tồi tệ.
- Tao đếch quan tâm tên mày là gì, tao cũng đếch quan tâm mày lên tới đâu sau khi tao xẻ mày từ rốn lên đến cằm, - thủ lĩnh nổi giận, có vẻ như hắn chuẩn bị chửi rủa tiếp tập hai nếu nữ mục sư không kịp ngắt lời.
- Là sáu triệu, như tôi vừa nói, - nữ mục sư chen ngang.
Cô có vừa đủ thời gian phân tích tình huống rằng họ sẽ không thoát được nếu thương lượng bớt chút đỉnh.
Lại lao xao hơn nữa. Cuối cùng thì thủ lĩnh đồng ý rằng sáu triệu là tương đối chấp nhận được để bảo toàn tính mạng cho mụ mục sư khốn kiếp cùng thằng cha luôn khăng khăng mình có một cái tên. Chắc chắn là giết hai người họ sẽ khiến mọi chuyện đơn giản hơn, nhưng giết người là giết người, và cảnh sát là cảnh sát. Mà lại còn thằng cha Anders Sát Thủ điên ngoài kia.
- Được rồi, - thủ lĩnh chốt lại. - Mày dẫn tụi tao đến chỗ cái vali đỏ có sáu triệu kronor, tụi tao sẽ đếm tiền trong tầng hầm này, nếu đủ thì tụi mày an toàn ra đi không bị làm phiền. Sau đó, coi như tụi mày chưa từng tồn tại.
- Nhưng tụi tui vẫn tồn tại theo tụi tui biết? - gã tiếp tân muốn hiểu cho tường tận.
- Cái đó tùy mày có muốn nhảy khỏi cầu Vaster không, nhưng mày không còn nằm trong danh sách nữa. Đó là nếu tụi mày đưa tao cái vali đỏ với đúng số tiền mày nói.
Nữ mục sư đưa mắt nhìn xuống, nói rằng Thiên Chúa luôn tha thứ cho kẻ nói dối miễn đó là lời nói dối chân thực.
- Ý mày là sao?
- Cái vali đỏ... thực chất là vali vàng.
- Cái mày đang dựa vô đó hả?
- Giao hàng nhanh đúng không? - nữ mục sư mỉm cười. - Tụi tôi lấy đi hai cái bàn chải, đồ lót với mấy thứ lặt vặt khác trong vali này rồi rời khỏi đây được không?
Cô mở vali cho khán giả xung quanh choáng ngợp với những gì bên trong trước khi thủ lĩnh và đồng đảng kịp đổi ý.

Chương 64

Trong khi những tên cướp tham lam chỉ lo chúi mặt mũi tay chân vào vali đầy tiền, nữ mục sư với lấy bộ đồ lót, một cái bàn chải, một cái váy, một quần tây, và thứ gì đó nữa, rồi thì thầm bảo gã tiếp tân rằng cơ hội tẩu thoát của họ là ngay bây giờ đây.
Đến cả thủ lĩnh cũng không nhận ra hai tù nhân đã biến mất bởi hắn tham lam không kém các anh em trong phòng. Tuy nhiên hắn quát rằng mọi người dừng ngay việc nháo nhào lên với đống tiền. Mọi thứ cần được chia chác theo trật tự.
Lệnh của thủ lĩnh quả thực có quyền năng khiến phần lớn tiền mặt được trả lại vali, tuy rằng không phải tất cả. Gã du côn số hai rõ ràng thấy số bốn giấu một mớ tiền vào túi quần trước bên trái và giờ đang cố chứng minh điều đó.
Nhưng số bốn không phải là loại yếu hèn ai muốn làm gì thì làm, không được phép đến quá gần bộ máy sinh lý cá nhân của hắn, nhất là khi ai cũng đang chăm chú nhìn. Để chứng tỏ vị thế của mình, hắn đấm số hai một phát. Số hai ngã nhào xuống sàn, may thay, xỉu ngay tắp lự do chấn thương vùng đầu, bằng không thì tình hình còn rắc rối hơn vậy nhiều.
Nhờ đó không khí lắng xuống được khoảng bốn phút, cuối cùng thủ lĩnh cũng ổn định được trật tự đám đông. Nhiệm vụ giờ đây là chia sáu triệu kronor cho mười lăm người, hay mười bốn, tùy vào thằng cha đang bất tỉnh trên sàn kia có tỉnh lại hay không.
Nhưng mà chia sáu cho mười lăm thế nào đây? Bài toán đó là quá khó với cả bọn. Đột nhiên có mấy ý kiến cho rằng anh em nhà Olofsson nên được nhận ít tiền hơn do họ đã được thanh toán rồi, hơn nữa phần của họ nên được tính thành một thay vì hai - do họ có tên giống hệt nhau. Đến đây thì hai anh em hay giận dữ trở nên vô cùng giận dữ. Đến nỗi một trong hai nói với tên số bảy (Bò Mộng) rằng thật đáng tiếc Anders Sát Thủ đã không cắt cổ hắn phứt cho rồi.
- À ha, đồ con lợn, - Bò Mộng vỡ lẽ, - hóa ra mày muốn thanh toán tao!
Rồi hắn rút dao ra định làm điều tương tự với Olofsson như Olofsson muốn Anders Sát Thủ làm với hắn.
Điều này khiến Olofsson kia cố gắng hóa giải tình hình trong tình thế nửa hoảng loạn. Trong lúc vội vàng, gã chỉ kịp khai hỏa vu vơ cây súng lục loại lớn Smith & Wesson 500 thẳng vào vali tiền. Dĩ nhiên gã đang cầm loại súng lục lớn nhất thế giới, loại có thể bắn một phát giết luôn con bò, nên cú khai hỏa mồi một đốm lửa nhỏ giữa đống tiền.
Sự can thiệp hoàn toàn hiệu quả, thoạt đầu Bò Mộng cùng tất cả (trừ thằng cha đang bất tỉnh trên sàn) bị ù tai trong vài giây, rồi ngay sau đó chuyển hướng quan tâm hoàn toàn.
Mấy chục cái chân cùng nhau đạp liên hồi lên các tờ tiền mệnh giá năm trăm kronor, ngọn lửa sắp bị dập tắt thì số tám nảy ra ý định thông thái là hy sinh một phần năm chai rượu 150 độ cồn tự chế nhằm dập tắt hẳn mấy đốm lửa.
Anh em nhà Olofsson đã kịp thoát thân khỏi căn hầm ngay trước khi ngọn lửa bùng lên dữ dội. Mười mấy người còn lại cũng nhanh chóng chạy trốn (nếu thằng cha nằm trên sàn không chết vì đập đầu xuống đất cứng thì hắn cũng làm y như vậy): rượu 150 độ cồn tự chế không có - hay không bao giờ có - tác động tích cực nào khắc chế ngọn lửa.
Đêm hôm sau, bốn người đàn ông đến thăm anh em nhà Olofsson. Chúng không nhấn chuông, không gọi cửa. Chúng chỉ xả nát cánh cửa với một cái rìu đến khi tạo đủ khoảng trống bước vào. Nhưng sau khi chạy khỏi tầng hầm, hai anh em đã đáp tàu đi Malmo, cách những khách hàng giận dữ nhất hành tinh lúc này cỡ 600km.
Malmo là một thành phố xinh đẹp, an toàn nhất Thụy Điển. Không ai để ý một hai vụ trộm cướp xảy ra trong tuần.
Đó là kết luận của Olofsson khi anh em gã cướp sạch tiền một trạm xăng, với bốn thanh kẹo Kexchoklad, rồi ép ông quản lý đưa chúng ra xe.

Chương 65

Có một điều gã tiếp tân không hiểu nổi. Sao lại có chính xác sáu triệu kronor trong vali? Ít nhất phải có thêm sáu trăm ngàn kronor nữa mới phải?
Đúng vậy, nữ mục sư đã thủ sẵn chút tiền mặt trong người khi cô đóng gói đồ đạc. Bàn chải, đồ lót, và mấy thứ nữa xếp vào vali vẫn vừa, nhưng cô nghĩ thật lằng nhằng nếu lần nào trả tí tiền vé xe buýt cũng phải mở vali.
- Hay tí tiền trả cái lều cá ở Gotland? - gã tiếp tân hỏi.
- Đúng luôn.
Đáng lẽ ra đời còn tệ hơn nhiều. Chính xác là họ có 646.000 kronor khi đi mua lều cá. Rồi còn ít hơn sáu trăm ngàn sau khi mua thêm vật dụng đồng thời có vi phạm một số các quy chế, bắt đầu bằng việc đốt lửa trong lều. Chuyện này có trong kế hoạch ban đầu. Để an toàn, họ quyết định không gọi điện xin phép trước khi dùng thuốc tẩy giết sạch cả tập đoàn ong bắp cày làm tổ gần biển và có nguy cơ tuyệt chủng.

Chương 66

Các cửa hàng trong thành phố Visby cổ xưa đang chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh sắp đến. Lãi suất xuống thấp 0 phần trăm khuyến khích người dân tiêu số tiền mà họ không sở hữu nhằm đạt doanh thu cao nhất cho mùa bán hàng cuối năm. Như vậy người dân cũng có thể giữ được việc làm nhằm trả số nợ mới. Kinh tế học quả là một dạng khoa học đặc biệt.
Vài tháng nay, gã tiếp tân quán triệt nguyên tắc “phước lành là nhận lấy thay vì cho đi” (chứ không phải ngược lại) và nay có thể áp dụng vào thực tế. Bữa giờ gã không có nhiều cơ hội làm gì khác ngoài vế “cho đi”. Quyên góp một hai đồng thì cũng được. Lại vui. Mà hơi ngốc nghếch trừ khi kiếm lại được ít nhất số tiền tương đương.
Đã từng có lúc mọi chuyện vô cùng tốt đẹp, một tên cựu sát thủ hảo tâm cùng vô số xô đựng đầy tiền quyên góp. Giờ thì họ không có sát thủ, xô tiền, hay giáo xứ. Thứ duy nhất có thể kiếm lại được chắc là mấy cái xô, mà để làm chi cơ chứ?
Trong khi đi dạo dọc đường Hastgatsbacken, tình cờ nữ mục sư và gã tiếp tân thấy một người đàn ông lớn tuổi mặc quần áo đỏ đeo chòm râu trắng giả. Chắc do hội đồng thành phố thuê đóng giả ông già Noel. Ông già đi dọc con phố reo lên, “Chúc mừng Giáng Sinh”, và phát bánh gừng cho bọn trẻ. Mọi người hồ hởi trông thấy ông già Noel. Có thể nhiệm vụ của ông là giúp các gia đình phấn khích mua sắm nhiều hơn, tuy cũng không chắc lắm.
Nữ mục sư bảo rằng có thể mọi chuyện đã xảy ra hoàn toàn khác nếu cô lái Anders Sát Thủ tin vào sự tồn tại của Ông già Noel chứ không phải Thiên Chúa.
Gã tiếp tân mỉm cười, tưởng tượng Anders Sát Thủ trên bục giảng, kêu gọi Ông già Noel quyền năng tối thượng, phân phát rượu glogg và bánh gừng cho đám con chiên thay vì rượu đỏ và phô mai.
- Glogg làm từ rượu mạnh, - nữ mục sư ngẫm nghĩ. Chi tiết rất quan trọng.
Điều này khiến gã tiếp tân tiếp tục mỉm cười, đến khi gã bắt đầu nghĩ nghiêm túc. Sự khác biệt giữa Đức Chúa trên Thiên Đàng và Ông già Noel (sống ở đâu đó) gần như là không có. Sự thật là cả hai đều tuyệt.
- Trước hết, anh nghĩ đến việc cả hai đều không tồn tại hay do bộ râu của họ? - nữ mục sư thắc mắc.
- Không cái nào cả. Cả hai người họ đều nổi tiếng là tốt bụng đúng không? Tụi mình có thể thai nghén ý tưởng nào đó từ đây.
Cô không rõ bệnh tình Ông già Noel thế nào, nhưng quả tình làm nghề chui vào chui ra ống khói thì không thể khỏe mạnh được.
Gã tiếp tân phản pháo vui vẻ, nói rằng gã biết không ai trong hai người họ là những đứa trẻ cưng của Ông già Noel hay Đức Chúa. Thực tế cho thấy họ phạm chín trong Mười Điều Răn. Chỉ còn mỗi tội ngoại tình là họ chưa phạm đến.
- Nhân nói đến đó, - nữ mục sư nói, - tụi mình ở bên nhau suốt rồi, liệu có nên kết hôn không? Có thể là đám cưới dân sự và anh mua nhẫn.
Gã tiếp tân đồng ý ngay tắp lự, hứa sẽ mua hai chiếc nhẫn vàng. Rồi gã nói muốn đính chính Điều Răn thứ hai. Rằng họ chưa từng đồng lòng giết ai cả.
Đó là sự thật, có nghĩa là điểm Điều Răn họ đạt được là 8-2 chứ không phải 9-1 nữa. Cũng chả phải điểm cao đáng tự hào lắm.
Per Persson không trả lời bởi không cần thiết. Quay lại Mười Điều Răn. Liệu gã có được thèm muốn vợ mình không? Và mấy tờ năm trăm kronor đồng sở hữu?
Nữ mục sư giảng giải đó chỉ là vấn đề đọc hiểu ngôn ngữ, mà giờ cô chỉ muốn bỏ luôn Kinh Thánh một lần và mãi mãi. Cánh Cổng Thiên Đường đối với cô không hề tồn tại, cho dù có thì cũng chẳng việc gì phải xếp hàng đi qua.
Ý nghĩ bị Đức Chúa sai khiến sau khi vào nước Ngài khiến cô thật sự khó chịu. Cô quay lại hỏi gã tiếp tân phải chăng Ông già Noel trở thành nhân vật chính cho đề tài “sự hào phóng có thể tăng lượng tiền mặt”.
Per Persson thật thà trả lời: giờ thì chẳng có nhân vật chính nào cả, trừ phi nữ mục sư - không như Per - hào phóng cho đi thay vì nhận lại.
- Anh chẳng tin có chuyện đó xảy ra.
- Đúng vậy, - nữ mục sư đồng tình. - Nhưng mà sau này xài hết tiền rồi thì tụi mình làm gì đây?
- Đám cưới?
- Cái đó quyết định xong rồi. Vả lại cưới xin cũng không làm mình giàu hơn được đúng không?
- Đừng nói vậy. Luôn có phần phước từ trẻ con. Sáu bảy đứa gì đó là đủ.
- Ngốc ạ, - nữ mục sư mỉm cười mắng yêu. Lúc đó cô trông thấy một tiệm nữ trang. - Mình vào đó đính hôn luôn đi nào.”

Chương 67

Hết đông sang xuân; hết xuân sang hè. Cuối cùng thì tội lỗi cũng được xóa sạch ở một khía cạnh nhất định. Đến lúc nữ mục sư và gã tiếp tân chính thức trở thành vợ chồng.
Nhân vật dân sự nhất họ tìm được là tỉnh trưởng tỉnh vùng Gotland. Bà đồng ý cử hành hôn lễ cho họ ở lều cá cạnh bờ biển.
- Hai người sống ở đây hả? - bà thắc mắc.
- Trông có vẻ thế thôi! - nữ mục sư đáp.
- Vậy chứ hai người sống ở đâu?
- Chỗ khác, - gã tiếp tân trả lời. - Mình bắt đầu luôn được chưa?
Cặp vợ chồng trẻ muốn buổi lễ tiến hành trong bốn mươi lăm giây, nhưng người chủ hôn cãi rằng ba phút thì mới đủ. Đằng nào bà cũng phải di chuyển cả quãng đường dài, thật phí phạm nếu đến đây chỉ để hỏi từng người “Anh/ Chị có muốn lấy...”, rồi lại đi cả chặng đường về lại văn phòng. Hơn nữa, bà cũng đã chuẩn bị vài lời theo ý riêng là dễ thương với chủ đề “Chúng ta phải thương yêu chăm sóc lẫn nhau như chăm sóc khu sinh thái học mong manh vùng Gotland”.
Sau một khoảng thời gian thảo luận đáng kể qua điện thoại, nhất trí rằng sự tham gia của tỉnh trưởng là miễn phí cho dù buổi lễ ngắn dài ra sao, gã tiếp tân đồng ý cho phép bà liên kết tình yêu với vấn đề đa dạng sinh thái nếu bắt buộc phải nói vậy.
Rồi gã cám ơn bà đã gọi đến, gác máy, giấu hết mấy chai thuốc tẩy, nếu không có thể đặt người chủ hôn vào tâm trạng khó ở. Chắc ăn hơn nữa, gã đặt mua mười chai xịt phòng Cây Nhỏ, gài chúng vào đám rong biển để thiên nhiên yêu quý của bà thống đốc tỉnh sẽ thơm mùi nhựa sống như đáng lẽ chúng phải như thế.
* * *
Họ có giấy chứng nhận kết hôn cùng bằng chứng hôn thú, cùng những lời chúc tụng từ tỉnh trưởng.
- Mà nhân chứng đâu?
- Nhân chứng nào? - gã tiếp tân ngơ ngác.
- Ôi chết tiệt, - nữ mục sư thốt lên.
Cô đã làm lễ cho nhiều đám cưới đến nỗi cô nhận ngay ra vấn đề của họ.
- Đợi chút, - cô chạy bay đến một cặp đôi lớn tuổi đang đi dạo trên bãi biển gần đó.
Trong khi bà thống đốc tỉnh nhắc rằng bà đang tiến hành đám cưới dân sự cho một nữ mục sư chửi thề trong vai cô dâu, thì nữ mục sư đang cố giao tiếp với đôi vợ chồng già từ Nhật Bản. Họ không nói được tiếng Thụy Điển, Anh, Đức, Pháp, hay bất kỳ loại ngôn ngữ nào khác. Tuy nhiên họ hiểu rằng nữ mục sư muốn họ đi cùng cô.
- Ông bà có phải là nhân chứng cho cặp đôi này không? - bà tỉnh trưởng hỏi đôi vợ chồng Nhật Bản đang ngơ ngác nhìn người phụ nữ nói gì đó mà họ không hiểu.
- Nói hai đi, - gã tiếp tân bảo họ (đó là từ tiếng Nhật duy nhất gã biết).
- はい, - một nhân chứng nói. Ông không dám nói khác.
- はい, - bà vợ cũng nói vậy vì lý do tương tự.
- Chúng tôi biết nhau lâu rồi, - nữ mục sư giải thích.
Tốn thêm kha khá thời gian hoàn tất thủ tục giấy tờ và những sáng tạo nhất định từ bà tỉnh trưởng thì buổi thành hôn mới hoàn tất. Bà thuộc dạng giải quyết vấn đề bằng cách tạo ra thêm vấn đề.
Sau một lúc thì nữ mục sư và gã tiếp tân cũng đã có trong tay giấy viết tay chứng nhận giờ đây họ chính thức là vợ chồng.
* * *
Hết mùa hè, qua mùa thu. Nữ mục sư giờ đang mang bầu bốn tháng.
- Đứa trẻ phúc lợi xã hội đầu tiên đang đến! - gã tiếp tân hào hứng hét vang khi nghe tin. - Bốn năm đứa nữa thôi là tụi mình có cả doanh nghiệp. Nếu tận dụng tốt, chỉ cần mua một bộ áo quần cho bọn trẻ. Đứa đầu sẽ nhường quần áo cho đứa thứ hai, đứa thứ ba, đứa thứ tư...
- Tụi mình có thể để đứa đầu tiên yên ổn ra đời trước được không? - nữ mục sư hỏi. - Đứa thứ hai từ từ. Còn lũ còn lại tính sau.
Rồi nữ mục sư thay đổi chủ đề. Họ hiện đang sống bình yên ở khu lều cá bất hợp pháp rộng sáu mươi mét vuông. Họ chi tiêu vô cùng tằn tiện. Ăn mì uống nước phông-tên thì không xa hoa như hồi sống trong khách sạn ăn gan ngỗng và uống rượu sâm-panh, bù lại họ có cả một quang cảnh đại dương và được sống cùng nhau. Hơn nữa, nhờ vào chai thuốc tẩy, họ chẳng những dọn sạch ong bắp cày, mà còn giết gọn kiến, ong vò vẽ, gián, kiến thân đỏ, ruồi tachina, và phần lớn những sinh vật khác chịu trách nhiệm duy trì hệ sinh thái đa dạng.
Không còn vài triệu kronor trong vali, đến cái vali cũng chẳng còn. Kế hoạch cho-đi-nhưng-nhận-lại-chút-đỉnh của gã tiếp tân ra sao đây?
Dựa vào tình hình thực tế, nữ mục sư có chút nghi ngờ. Nếu nhìn vào khả năng tài chính hiện giờ của họ, kế hoạch nhận-và-nhận-nhiều-hơn nghe ra còn có vẻ khả thi.
Gã tiếp tân thừa nhận rằng quá trình tiến triển khá chậm chạp. Gã có tìm gặp Ông già Noel vài lần, nhưng lão già đó chả chịu nhận lấy thứ gì cả.
Nữ mục sư giờ đây đã chán ngán cảnh dạ dày thì ngày càng rỗng thêm trong khi không có gì mới xảy ra ngoại trừ mùa đông sắp tràn đến Gotland. Cô gợi ý họ nên vào bờ chơi một chuyến.
- Tụi mình làm gì trong đó? - gã tiếp tân thắc mắc. - Ngoại trừ xui xẻo chạm trán một hay hai thằng giang hồ không ưa tụi mình.
Nữ mục sư không chắc lắm. Họ có thể tìm nơi nào đó mà tụi thế giới ngầm không mò đến để giải trí. Như thư viện quốc gia, bảo tàng hàng hải... Khi nói ra cô cũng đã hình dung giải trí ở những nơi đó vui đến cỡ nào.
- Hay mình làm chuyện gì đó dễ thương miễn không phải tiêu tiền, - cô gợi ý. - Nếu tụi mình không vui thì rõ là đang đi sai hướng. Đây là một chi tiết quan trọng trong câu đố cho tương lai không bao giờ chấm dứt.
- Câu đố tương lai của tụi mình, - gã tiếp tân nghĩ. - Gì đó dễ thương? Như giúp mấy bà già qua đường?
- À, tại sao không? Hay là tụi mình có thể đến thăm sát thủ hái nấm, người mà tụi mình gửi trả thành công về nhà tù. Nếu nhớ không lầm, hồi xưa lúc vội chia tay, em có hứa đến thăm hắn.
- Nhưng em chỉ nói dối thôi mà hả? - gã tiếp tân hỏi.
- Em biết. Mà em có đọc đâu đó là người chớ nói dối kẻ lân cận mình. - Nữ mục sư mỉm cười.
Đến thăm Anders Sát Thủ đồng nghĩa với nâng điểm trò chơi Mười Điều Răn lên 7-3 dù họ không bao giờ thắng. Nhưng cứ tăng điểm là vui.
Gã tiếp tân nghi ngại nhìn nữ mục sư, cô thừa nhận rằng ý nghĩ đến gặp người đàn ông họ bỏ rơi là kết quả của tăng nội tiết tố. Cô đọc đâu đó là có phụ nữ mang bầu ăn liên tục cá ngừ ngâm dầu, hay hai mươi quả cam mỗi ngày, hay nhai phấn, nên đây chắc là kết quả tương tự.
Đến lúc này cuộc đời của họ vẫn đứng vững như các hoạt động sinh thái trong khu rong biển đã được làm sạch. Không còn con ong bắp cày nào còn lại làm phiền họ. Có thể một chuyến phà ngắn cùng một chuyến viếng thăm nhà tù ngắn hơn có thể khiến mọi chuyện dễ chịu đi đôi phần. Mà nữ mục sư vẫn chưa đăng ký thăm nom.
Gã tiếp tân mới nhận ra có chuyện gì có kỳ cục xảy ra khi phụ nữ mang bầu. Nữ mục sư thương yêu đang bị ám ảnh bởi kẻ giết người và ong bắp cày. Với tư cách một người cha tương lai, gã phải làm gì đó. Ăn cả thùng cam thì không tốt chút nào.
- Hay đầu tuần sau tụi mình đi, - gã đề nghị. - Em coi giờ thăm tù đi, anh sẽ mua vé phà.
Johanna Kjellander vui lòng gật đầu, trong khi Per Persson khó mà giữ được khuôn mặt vui vẻ. Gặp Anders Sát Thủ chẳng thể là ý nghĩa cuộc đời. Nhưng khi cô vợ bị thay đổi nội tiết tố thì đó là ý nghĩa cuộc đời. Hơn nữa, đi thăm Thư viện Quốc gia hay Bảo tàng Hàng hải cũng chẳng có gì vui.
- Dù tốt hay xấu hơn, - gã lẩm bẩm. - Anh nghĩ tụi mình nên ghi chuyện này vào cột “xấu hơn”.

Chương 68

- Ôi những người bạn thân yêu! Chúa phù hộ các bạn, Hallelujah và Hosanna! - Anders Sát Thủ reo vui khi gặp lại họ trong phòng thăm tù.
Họ gần như không nhận ra hắn. Trông hắn khỏe mạnh, hạnh phúc, hàm râu phủ đầy khuôn mặt. Giải thích cho điều này hắn nói một lần nữ mục sư có giảng rằng trong Kinh Cựu Ước nói người ta không nên cạo râu. Hắn không nhớ chính xác từng từ, cho dù có ráng tìm đọc, nhưng hắn vẫn tin tưởng cô bạn thân.
- Kinh Leviticus mười chín, - nữ mục sư tự động nói. - Các người chớ ăn vật chỉ có huyết. Chớ dùng bói khoa, chớ làm thuật số. Chớ cắt mẻ tóc mình cho tròn và chớ phá khóe râu mình. Chớ vì kẻ chết mà cắt thịt mình, chớ xăm vẽ trên mình: Ta là Đức Chúa.
- Ôi đúng rồi, ra thế, - cựu mục sư quản nhiệm đồng tình, gãi gãi bộ râu. - Chẳng thể làm gì với mấy hình xăm, nhưng Đức Chúa với tui có bàn về chuyện đó, đồng ý bỏ qua quá khứ.
Anders Sát Thủ vui vẻ như cá gặp nước. Hắn tổ chức nhóm học Kinh Thánh ba ngày mỗi tuần, bẫy được ba môn đệ, cùng một số lượng đáng kể đang cân nhắc tham gia.
Nỗ lực của hắn chỉ sai sót một lần duy nhất, khi hắn cố đề nghị mọi người nói lời tạ ơn trong nhà ăn, khiến cho tên đầu bếp đang thụ án chung thân nổi cơn lôi đình và bắt đầu trận ẩu đả. Người đàn ông đứng gần nhất trong hàng là một người nước ngoài nhỏ con có biệt danh “Kẻ líu lo” do ông ta chẳng bao giờ hé răng nói gì (căn bản vì ông ta chỉ có thể nói bằng ngôn ngữ mà mọi người xung quanh không hiểu). Tên đầu bếp thọc cái chai bể vào cổ họng Kẻ Líu Lo khiến gã kêu kên “Ối!” bằng tiếng Thụy Điển, rồi ngã vật ra chết.
Tên đầu bếp với cái chai bị kết án thêm một đời chung thân nữa. Và gã bị giáng chức xuống làm rửa chén.
Một hay hai án chung thân đối với Anders Sát Thủ cũng như nhau (dù rằng án này còn tệ hơn cái chết vì phải đứng rửa chén đến hai cuộc đời). Hắn hào hứng kể tiếp rằng dù hắn đã dứt bỏ lễ thánh thể trong thời gian ở tù, mối quan hệ giữa hắn và Đức Chúa luôn duy trì mạnh mẽ. Giờ thì nữ mục sư và gã tiếp tân đừng thấy bị xúc phạm, bởi trong khi nghiên cứu Kinh Thánh, hắn nhận ra vài điều mà trước đó hai người họ đã hiểu lầm. Chỉ vì một người muốn đi theo Thiên Chúa, không có nghĩa là người đó phải uống một hay vài chai rượu mỗi ngày. Nếu họ muốn, hắn sẽ giải thích kỹ càng hơn.
- Không, cám ơn, - nữ mục sư nói. - Nhìn chung tôi hiểu ông nói gì.
Ừm, họ có thể nói lại về chủ đề này lúc khác cũng được. Tóm lại, gã đầu bếp mà nay phải đứng rửa chén mỗi ngày đến khi chết đi hai lần, chỉ phục vụ có mỗi sữa và nước ép quả nam việt quất, theo luật trại giam hiện hành. Do không tù nhân nào thích sữa hay nước ép quả nam việt quất, một đường dây buôn lậu được hình thành đem vào một số lượng lớn một thứ mà Anders Sát Thủ không dùng trong nhiều năm mà cũng không có ý định dùng lại.
- Như cái gì? - nữ mục sư tò mò.
- Thuốc kích thích, những loại ghê tởm vậy đó, - Anders Sát Thủ trả lời. - Không có gì khiến tui phát điên như trộn thuốc kích thích với chút rượu. Mà hồi đó đã lâu lắm rồi, tạ ơn Chúa.
Đám mây duy nhất trên bầu trời xanh lơ của hắn là Cơ quan Tù Nhân công nhận hắn là một tù nhân cải tạo tốt nên họ có kế hoạch thả hắn ra sớm hơn.
- Thả sớm? - gã tiếp tân hỏi lại.
- Hai tháng nữa, - Anders Sát Thủ nói. - Có thể còn sớm hơn thế. Rồi các môn đệ học Kinh Thánh của tui sẽ ra sao? Còn tui nữa? Tui thiệt lo lắng không biết làm gì luôn.
- Đó là tin tốt lành mà, -  gã tiếp tân an ủi, với giọng chân thành đến độ nữ mục sư hết hồn. - Tụi tui có thể đến đón ông vào ngày ông được thả. Tui có một công việc mới cho ông, - gã nói tiếp, khiến nữ mục sư hoảng hốt lần thứ hai.
- Chúa phù hộ chúng con! - Anders Sát Thủ đáp.
Nữ mục sư hoàn toàn im lặng. Cô mất khả năng nói.
Trong cuộc thăm tù vừa qua, Per Persson để ý một chi tiết mà nữ mục sư không thấy. Nhờ Kinh Leviticus 19:27-28, Anders Sát Thủ đã biến chính mình thành một bản sao giống hệt Ông già Noel. Họ chỉ cần tỉa mớ tóc bù xù, kiếm một cặp kính như Ông Noel cho hắn. Chòm râu là đồ thiệt, mà còn trắng như cước.
Gã tiếp tân thấy quen quen giống... ai đó... và ngay lập tức khái niệm Ông Noel ra đời. Mặc dù có thể có một thế lực tối thượng đâu đó, nếu gã không vượt qua cái bóng của sự nghi ngờ rằng không một sức mạnh cao hơn nào, thèm nhấc một ngón tay giúp đỡ hai vợ chồng họ.

Chương 69

Ngay khi chỉ còn lại hai người với nhau, gã tiếp tân giải thích cho vợ gã ý nghĩ xuất hiện trong phòng thăm tù. Về đến nhà, họ tìm đọc vài số báo cũ tờ Gotlands Allehanda, ngay lập tức tìm thấy lý do chứng minh ý tưởng của gã tiếp tân là khả thi. Đó là một bài báo về một người đàn ông không thể tiếp tục sống trong căn hộ cho thuê do tường nhà đầy rệp. Chủ nhà từ chối xử lý vấn đề này, nên người đàn ông không còn chỗ nào để sống, mà vẫn bị ép tiếp tục trả tiền thuê nhà.
- Tôi sống dựa hoàn toàn vào tiền hưu trí, - người đàn ông đáng thương trần tình với phóng viên, tự cảm thấy bản thân thật tội nghiệp.
Câu chuyện thê thảm của người đàn ông lớn tuổi không làm động lòng gã tiếp tân hay nữ mục sư. Ông ta quá nhăn nheo già cỗi, không còn chút giá trị thương mại nào. Ông ta phải kiếm cách trị lũ rệp, dù gã tiếp tân có thoáng suy nghĩ liệu gã có nên gọi điện thoại cho ông già mách cách xài thuốc tẩy, vì khả năng giết hết không chừa thứ gì.
Sự thật là người đàn ông già đã kể lể câu chuyện đáng thương cho một tờ báo địa phương, rồi một tâm hồn bất hạnh khác kể một câu chuyện khác trên tờ bản tin đối thủ, Gotlands Tidning, chỉ sau vài số. Đây là điều hai vợ chồng muốn khẳng định.
Những câu chuyện bất hạnh đăng trên báo chí hàng ngày dường như bất tận. Dù cho họ không đếm vụ người đàn ông già với đám rệp, ông triệu phú nhiễm bệnh từ sên Tây Ban Nha trong vườn, và những con chuột bị ném vào thùng rác bởi một thiếu niên tổn thương tâm lý, thì con số vẫn là vô tận.
Gã tiếp tân rút một trong hai máy tính bảng họ mua từ mấy năm trước bằng tiền từ xô quyên góp rồi bật máy lên.
- Sao rồi anh? - nữ mục sư thắc mắc, cô xoa xoa bụng, nhìn ông chồng đang chúi mũi vào cái iPad với một cuốn sổ bên cạnh.
- Tốt cả, cám ơn em, - gã tiếp tân trả lời, nói rằng gã đã gửi lệnh mua ấn bản điện tử một tờ nhật báo Thụy Điển.
- Ljusdalsposten, - gã nói. - Một trăm chín mươi chín kronor mỗi tháng.
Ừm, tại sao không? Nữ mục sư ngẫm nghĩ. Ljusdal là tờ báo dễ đọc, không có nghĩa không có tin tức về người đáng thương khiến người đọc mủi lòng. Rồi cô phạm sai lầm hỏi những tờ báo nào có phiên bản điện tử (vì câu trả lời không bao giờ chấm dứt).
- Anh có một danh sách nè, - gã tiếp tân đáp. - Coi coi... Ô kê, tờ Östersundsposten, Dala-Demokraten, Gefle Dagblad, Upsala Nya Tidning, Nerikes Allehanda, Sydsvenskan, Svenska Dagbla...”
- Thôi đủ rồi! - nữ mục sư ngắt lời.
- Không, muốn làm chuyện này tụi mình phải hiện diện trên mọi ngóc ngách cả nước. Danh sách còn nhiều, bên mặt kia tờ giấy nữa. Tất cả có khoảng năm mươi tờ báo. Không miễn phí, dù có vài tờ cho miễn phí đọc thử. Tờ Blekinge Läns Tidning là hời nhất. Phí một kronor cho một tháng đọc thử.
- Tụi mình có thể trả được tiền cho hai tờ, - nữ mục sư nói. - Tệ nhất là nội dung giống hệt nhau trên cả hai tờ báo.
Gã tiếp tân mỉm cười, mở trang Excel đang làm dở. Về lâu dài, chi phí đăng ký sẽ tốn khoảng một trăm ngàn kronor một năm, tuy nhiên giá giới thiệu, giá đăng ký ngắn hạn và thời gian đọc thử sẽ giúp chi phí đầu tư ban đầu hạ thấp xuống bằng khoản tiền họ đang có. Điều này tốt cho cả người quyên góp và (quan trọng hơn) người đi quyên góp. Sự rộng lượng của người khác thường lớn lao hơn chính bản thân họ, giúp đem đến con số thu tích cực. Có thể không thấy kết quả ngay từ đâu, nhưng sau một thời gian ngắn họ sẽ tận hưởng thành quả.
- Bên cạnh sự thật là người khác luôn hào phóng hơn tụi mình nhiều, em hoàn toàn đồng ý với anh, anh yêu, - nữ mục sư đồng tình.
Nguy cơ lớn nhất đe dọa thành công của họ chính là từ Ông già Noel. Anders Sát Thủ vẫn luôn tiềm tàng nguy cơ an ninh. Nhưng nếu họ đằng nào cũng phải xuống Địa Ngục thì tốt hơn là cứ chấp nhận mọi chuyện như vậy. Ý tưởng của gã tiếp tân quá hấp dẫn, triển khai toàn diện luôn là hay nhất.
- Ngày mai sẽ lo về việc ngày mai. Sự khó nhọc ngày nào đủ cho ngày ấy. Matthew sáu, dòng ba mươi bốn.
- Em mới tự trích Kinh Thánh đó hả? - gã tiếp tân ngạc nhiên.
- Ừa. Tưởng tượng nổi không.
* * *
Nhìn chung bản chất con người là một nồi lẩu thập cẩm vô vàn đặc điểm. Chẳng hạn như: keo kiệt, tự kỷ, ghen tị, ngớ ngẩn, ngu ngốc, sợ hãi. Mà đồng thời cũng: tử tế, thông minh, hòa đồng, vị tha, chu đáo - và hào phóng. Như nữ mục sư và gã tiếp tân biết thì không phải tâm hồn nào cũng có đủ hết mấy đặc điểm trên, theo kinh nghiệm cá nhân.
Triết gia Immanuel Kant đưa ra giả thiết rằng bên trong mỗi cá nhân tồn tại một la bàn đạo đức, chỉ tại ông chưa có dịp gặp nữ mục sư và gã tiếp tân mà thôi.
Kế hoạch nhận-và-(bằng cách nào đó)-cho-đi, khởi đầu khi nhìn thấy Ông Noel giả ở trung tâm mua sắm phát bánh gừng cho bọn nhỏ, nay đã chắp nối hoàn thiện và hoàn toàn sẵn sàng.
Đầu tiên, gã tiếp tân mở cuộc điều tra, đứng đầu và thực hiện bởi chính gã. Gã cần thêm thông tin thị trường và các đối thủ tiềm năng.
Hiện nay có vài đối thủ đáng cân nhắc. Chẳng hạn như dịch vụ thư tín Thụy Điển mỗi năm nhận hơn một trăm ngàn lá thư gửi cho Ông Già Noel, địa chỉ đến “Tomten” (tên Ông Già Noel tiếng Thụy Điển) ở “17300 Tomteboda, Thụy Điển”. Người đại diện bưu điện tự hào thuật lại qua điện thoại với gã tiếp tân rằng bất cứ ai gửi thư cũng sẽ nhận được hồi âm - cùng một món quà nhỏ.
Gã tiếp tân đáp, “Cám ơn về thông tin của ông”, xong gác máy, lầm bầm rằng giá trị “món quà” đó có khi còn ít hơn phí gửi thư. Đó là một sự kết hợp lòng tốt cực kỳ giới hạn và lợi nhuận cực kỳ hãn hữu. Về tính nhân văn thì đây không phải là ý tưởng tồi, chỉ là không phù hợp. Tốn quá nhiều chi phí văn phòng như vậy thì một doanh nghiệp hòa vốn còn là may. Con số mà nữ mục sư và gã tiếp tân ghét hơn số không đó là bất cứ số nào có dấu trừ phía trước.
Bên cạnh dịch vụ thư tín còn có Vùng Đất Ông Già Noel ở Dalarna. Sau khi đọc những thứ muốn đọc, gã tiếp tân đi đến kết luận rằng Vùng Đất Ông Già Noel thực chất là công viên giải trí. Khách hàng phải trả phí vào cổng, ăn uống tốn mất vài trăm kronor, nghỉ qua đêm với giá vài ngàn kronor, được gửi một danh sách ước cho Ông già Noel giả, người sau đó sẽ dùng danh sách đó nhóm lửa ban đêm.
Ý tưởng này cũng không tồi, tuy nhiên rõ ràng là nhận được nhiều hơn cho đi quá nhiều. Cân bằng là điều quan trọng nhất!
Một Ông Già Noel khác có bộ râu bằng nhựa sống ở Rovaniemi, Phần Lan. Khái niệm cũng tương tự như ông sống ở Dalarna. Với cùng vấn đề và nhược điểm.
Tình cờ sao, người Đan Mạch phát hiện ra Ông già Noel sống ở Greenland. Người Mỹ nghĩ rằng ổng ở Bắc Cực, người Thổ cho là ở Thổ Nhĩ Kỳ, người Nga thì nhất quyết ổng ở Nga. Trong hết thảy bọn họ, chỉ người Mỹ tạo ra một ngành công nghiệp từ Ông già Noel. Phần vì có vẻ ổng thích uống Coca-Cola hơn mấy thức uống khác, phần vì trong một bộ phim Giáng Sinh hằng năm, ổng thoạt đầu làm mọi việc rối tung, sau cùng lại khiến mọi trẻ em trên thế giới đều hạnh phúc. Ít nhất là một đứa. Giả bộ vậy. Trả mười hai đô vé xem phim.
Dĩ nhiên cũng có anh em của Ông Già Noel, như Sinterklaas, hay Thánh Nicholas. Theo như những gì gã tiếp tân đọc, ông ấy là thánh bảo trợ cho tất cả các cựu trộm cướp, quả là ý nghĩ dễ thương. Nhưng quả thật thì ông ấy không đáng tin tưởng lắm bởi ông đem quà đến cho trẻ con quá sớm - vào ngày 6 tháng 12.
-- Chứ không phải phụ thuộc vào việc cả thế giới mong muốn như thế nào sao? ” nữ mục sư thắc mắc.
- Tùy quốc gia chứ, - gã tiếp tân đáp. - Chẳng hạn như nước Đức với dân số đông gấp mười Thụy Điển. Vậy phải cần đến mười Ông Già Noel như Anders Sát Thủ, lại còn phải nói được “Frohe Weihnachten” (“Chúc mừng Giáng Sinh” bằng tiếng Đức) mà không khiến mọi chuyện bại lộ.
Phải nói những hai từ tiếng nước ngoài. Thật vượt quá sức Anders Sát Thủ, cả nữ mục sư và gã tiếp tân đều biết điều đó (ngoại trừ việc gọi tên các loại nấm bằng tiếng Latin). Mà còn nguy cơ chữ “Hosanna” trong tiếng Đức cũng là “Hosanna” nữa chứ.
* * *
Như vậy, đối thủ cho một Ông già Noel phát quà thật, không phải trả lương trước gần như không tồn tại.
Lợi nhuận mô hình kinh doanh này phụ thuộc vào việc họ tìm được bao nhiêu câu chuyện thương tâm trên báo. Tốt nhất là nội dung có mẹ đơn thân, trẻ em ốm yếu, các thể loại thú cưng dễ thương bị bỏ rơi. Câu chuyện về người đàn ông xấu xí có bọ trong nhà sẽ không gây xao động lòng người, cũng như chuyện con chuột cống bị tra tấn trong thùng rác. Còn câu chuyện về mấy cha triệu phú có ốc sên Tây Ban Nha trong vườn, truyền thống Thụy Điển còn cho rằng mấy ổng bị vậy là đáng đời.
Kế hoạch là dựa vào những câu chuyện được chọn lọc cẩn thận trên báo địa phương. Đây quả là ý tưởng sáng suốt bởi những đối tượng trên đã từng trả lời phỏng vấn truyền thông, nên sẽ dễ dàng đồng ý làm lại lần nữa, lần này có sự đồng hành bất ngờ của Ông già Noel.
Sau đó nhiều người sẽ tò mò vào trang web, nơi có Ông già Noel với bộ râu hoàn toàn thật giật không đứt.
Nếu Chúa rủ lòng thương (gã tiếp tân suýt nói ra câu này), thì có thể có một hai người quyên góp. Hay một trăm người? Mà sao không là một ngàn người?
Tất cả những kế hoạch này chỉ là trên giấy cho đến khi Trại Giam tiến hành kế hoạch riêng của họ - điều tuyệt vời điên rồ - là phóng thích Anders Sát Thủ.

Chương 70

Ý tưởng cơ bản kế hoạch Ông già Noel dựa trên nền tảng: điều duy nhất vui sướng hơn cho đi là nhận lại. Theo nữ mục sư và gã tiếp tân, người có thể làm cả hai việc hẳn sẽ sống trường thọ hạnh phúc. Dù sao kế hoạch của họ chẳng phải là đói đến chết cùng đứa con chưa kịp chào đời. Anders Sát Thủ cũng không nên chịu chung vận mệnh như thế.
Ghim mục tiêu đó trong đầu, gã tiếp tân lập một trang Facebook có khẩu hiệu “Ông già Noel đích thực - niềm vui suốt một năm dài”.
Gã đưa lên đầy các bài viết về tình yêu dưới nhiều hình thức khác nhau (không có bài nào liên quan đến tôn giáo). Cột bên trái, gã để lời kêu gọi rằng ai ai cũng có thể mở rộng trái tim (cũng hàm ý là mở rộng hầu bao) giúp Ông già Noel trên hành trình thực thi nhiệm vụ. Mọi sự đóng góp qua chuyển khoản ngân hàng, thẻ tín dụng, chuyển tiền trực tiếp, qua điện thoại, hay vài cách khác đều được. Cho dù đóng góp bằng cách nào, tiền đều sẽ vào tài khoản ở Handelsbanken, Visby. Tài khoản thuộc về một công ty Thụy Điển có tên Ông già Noel Đích Thực AB, do một tổ chức Thụy Sĩ vô danh quản lý. Trong mọi trường hợp, họ không thể để người mang niềm vui đến nhân gian mở miệng nói tiếng nào, thương hiệu Anders Sát Thủ phải đi vào quên lãng.
Trong khi đó, thương hiệu Ông già Noel đã trường tồn qua biết là bao lâu, cùng với Nelson Mandela, Mẹ Teresa, và gã đàn ông sẽ mãi mãi vô danh.
Bên cạnh đó, kế hoạch mới vô tình giống hệt một phần kế hoạch sử dụng trang web quyên góp cũ của Anders Sát Thủ. (Những ngày này, trang web ấy đầy những lời phàn nàn đòi trả tiền lại).
Nhằm bảo đảm an toàn, gã tiếp tân đặt mua danh bạ những người đóng thuế ở Thụy Điển, trọn bộ hai mươi ba cuốn. Toàn bộ số tiền họ phải trả là 6,200 kronor, hoàn toàn xứng đáng. Bằng cách này, gã sở hữu toàn bộ tên, địa chỉ, thu nhập chịu thuế, thu nhập đầu tư, của từng cá nhân đóng thuế trên đất nước này. Đó là cách người Thụy Điển làm việc. Không có gì là bí mật cả. Ngoại trừ danh tánh của Ông già Noel. Làm gì có chuyện quyên góp tiền cho ai đó mà báo chí kêu gọi lòng thương xót, rồi phát hiện ra là người đó đang ngồi trên đống tiền hai triệu kronor trong trang viên lâu đời màu vàng có mười ba phòng ở Djursholm, dù có hay không có mấy con ốc sên Tây Ban Nha.
Nhiệm vụ đầu tiên của Ông già Noel là đến gặp một người phụ nữ trẻ sống trong một căn hộ chung cư. Thông tin điều tra cho biết căn hộ được cho thuê và thu nhập chịu thuế của cô nàng là 99,000 kronor mỗi năm.

Chương 71

Người phụ nữ tên Maria Johansson, ba mươi hai tuổi, sống trong một căn hộ hai phòng ngủ chật chội ở Ystad, cực nam Thụy Điển cùng cô con gái năm tuổi Gisela. Cha đứa trẻ không có nhà; gã đã không về nhà hơn một năm rồi. Maria đang thất nghiệp, và rồi ai đó, theo tờ Ystads Allehanda, chọi đá vào cửa sổ phòng ngủ nhà cô. Đòi tiền bảo hiểm để sửa cửa cũng rất gian nan bởi công ty bảo hiểm cho rằng cha Gisela là người đã quăng đá vào đêm thứ Bảy. Bằng chứng quan trọng là gã đã nhận tội khi bị cảnh sát thẩm vấn. Gã nhận rằng sau khi đi ăn tối, gã đến nhà bạn gái cũ, la hét kết tội cô là gái bán hoa khi cô từ chối mở cửa, cũng không cho phép quan hệ ân ái dù gã nói sẽ trả tiền đàng hoàng. Gã kết thúc cuộc thăm hỏi bằng cách ném đá vào cửa sổ.
Ở khía cạnh bảo hiểm, vấn đề là cha của Gisela vẫn đăng ký tạm trú ở địa chỉ căn nhà nói trên. Người tự ném đá vào nhà mình không thể đòi đền bù từ công ty bảo hiểm. Vì vậy, Maria và Gisela bé bỏng sẽ phải đón Giáng Sinh với mảnh bìa cứng che tạm cửa sổ phòng ngủ, hoặc dùng tiền tiết kiệm của Maria lắp cửa sổ mới và bỏ qua phần quà cáp cho Gisela.
Đó là tình cảnh hai mẹ con họ trước khi có tiếng gõ cửa nhà. Maria cẩn thận hé cửa, biết đâu đó lại là...
Nhưng không phải. Đó là Ông già Noel. Một Ông già Noel bằng xương bằng thịt xuất hiện. Ông cúi xuống đưa cho Gisela một con búp bê biết nói! Tên con búp bê là “Nanne”, nhanh chóng trở thành người bạn yêu quý nhất của Gisela, mặc dù Nanne chưa được lập trình hoàn hảo lắm.
- Tớ yêu cậu, Nanne, - Gisela nói.
- Mình không biết. Mình không biết mấy giờ, - Nanne trả lời.
Cùng với con búp bê, Ông già Noel trao tặng thêm một phong bì chứa hai mươi ngàn kronor cho mẹ của Gisela. Rồi ông nói, “Chúc mừng Giáng Sinh!” bởi đó là điều Ông già Noel phải nói. Sau đó, ông vô tình nói thêm, “Hosanna!” đi ngược với những lời hướng dẫn, bởi không có cỗ xe tuần lộc trên không nào đi cùng ông.
Ông biến mất cũng nhanh như khi xuất hiện, trong chiếc xe taxi do tài xế Taxi Torsten điều khiển. Ngồi băng sau là hai thần lùn, không phải trong trang phục thần lùn và một đang mang thai tám tháng.
Nhiệm vụ Ông già Noel bắt đầu ở Ystad. Sau đó, chuyến xe tiếp tục đi về hướng bắc. Điểm đến tiếp theo là Sjobo. Rồi đến Horby, Hoor, Hassleholm, xuyên dọc cả chiều dài đất nước. Trung bình, mỗi ngày có một món quà giá trị từ mười đến ba mươi ngàn kronor được trao tặng, trong bốn tuần liên tiếp. Có lúc là tiền mặt, có lúc là quà Giáng Sinh, có lúc cả hai thứ.
Tặng quà cho mẹ đơn thân là tốt. Trẻ em tị nạn trong trại mồ côi còn tốt hơn, dù các bé gái sẽ được ưu ái hơn, tuổi càng nhỏ thì tiềm năng tài chính càng lớn. Người bị bệnh tật và tàn tật cũng được. Các cậu bé cô bé đáng yêu bị ung thư thì đỉnh luôn.
Tình cờ làm sao, Ông già Noel quay lại Hassleholm, nơi ông sống hồi trước. Taxi Torsten lái xe đến một địa chỉ, Ông già Noel bước vào rung chuông ngôi nhà của bà nhân viên Hội Cứu Tế mà ông từng cho tiền hồi xưa. Bà nhân viên Hội Cứu Tế mở cửa, nhận phong bì một trăm ngàn kronor, nhìn vào trong rồi nói:
- Chúa ban phước cho ông. Mà mình đã từng gặp nhau chưa ấy nhỉ?
Ngay lúc ấy, Ông Già Noel vội vã chạy vào xe taxi biến mất trước khi bà nhân viên Hội Cứu Tế kịp mời, “Ông muốn ăn một chút củ cải nghiền không?”
Theo số liệu tài chính, chi tiêu tháng đầu tiên đã gần nuốt hết con số năm trăm ngàn kronor còn lại. Điều đó có nghĩa là chuyến phiêu lưu cùng tiền sẽ chấm dứt vào tháng Hai - trong trường hợp họ không nhận được một đồng quyên góp nào.
Trong thời gian từ 20 tháng Mười Hai đến 20 tháng Một, tổng chi phí thấp hơn 460,000 kronor, có tính đến khoản bội chi ở Hassleholm và vì họ làm việc cật lực trong bốn tuần đầu tiên.
Kế hoạch hoạt động tương lai là mỗi tháng làm việc ba tuần trên đường và về nhà nghỉ ngơi một tuần ở Gotland. Nếu - lần nữa - họ không bị phá sản. Cách tốt nhất để bù đắp là đẻ con càng nhanh càng tốt.
- Tốt hơn là mình dự kiến nữa nè! - nữ mục sư phấn khích khi cô bị bể ối. - Ôi! Trời! Mình phải đến bệnh viện liền!
- Từ từ! Anh chưa sẵn sàng! - gã tiếp tân chần chừ.
- Hosanna! - Ông Già Noel thốt lên.
- Tui đánh xe qua liền, - Taxi Torsten sốt sắng.
* * *
Là một đứa bé gái, hai ký chín.
- Đây rồi! - gã tiếp tân nói với nữ mục sư đang kiệt sức. - Đứa trẻ phúc lợi đầu tiên của tụi mình! Bao giờ em sẵn sàng làm đứa thứ hai?
- Không phải hôm nay, cám ơn anh, - nữ mục sư trả lời, trong khi cô ý tá đang khâu lại những chỗ cần khâu.
Vài tiếng sau, đứa bé gái nằm say giấc nồng, no nê hạnh phúc trên bụng mẹ. Nữ mục sư giờ đã khỏe hơn đôi phần, lấy sức hỏi gã tiếp tân nói gì lúc cô đang chuyển dạ.
Nghĩ coi, gã tiếp tân hoàn toàn quên mất gã đang nói gì khi cơn chuyển dạ thật sự diễn ra. Nhưng không có lúc nào như bây giờ.
- À, anh định nói là mình đã chi bốn trăm sáu mươi ngàn. Mà tụi mình mới có một khoản nhỏ chuyển vào từ chiến dịch truyền thông trên mạng đó.
- Ôi vậy sao? - Nữ mục sư kiêm mẹ trẻ ngạc nhiên.
- Được bao nhiêu?
- Tháng đầu tiên?
- Tháng đầu tiên cũng được.
- Số ước tính?
- Số ước tính cũng được.
- À, với giả thiết là anh có thể nhớ lộn đôi chút tại anh không có thời gian viết xuống con số chính xác, với giả thiết là có vài đồng vào ra lúc mình vào sanh, và với giả thiết là...
- Anh nói huỵch toẹt ra được không vậy? - nữ mục sư hỏi, trộm nghĩ thực sự sinh ra đứa trẻ là cô chứ có phải ông chồng đâu.
- Ừ, xin lỗi mình. Với tất cả những giả thiết như trên, anh ước tính khoảng hai triệu ba trăm bốn mươi lăm ngàn bảy trăm chín mươi kronor.
Nữ mục sư chắc sẽ vỡ ối thêm lần nữa nếu quả thực điều đó có thể xảy ra.

Chương 72

Số lần Ông già Noel đến thăm mang niềm vui đến mọi nhà tỉ lệ thuận với sự thành công của kế hoạch kinh doanh. Hàng ngàn các khoản quyên góp chảy vào mỗi ngày, chẳng phải chỉ trong Thụy Điển mà từ khắp nơi trên thế giới. Các bà mẹ đơn thân, các cô gái nhỏ bật khóc sung sướng, những chú chó cưng sủa nhặng xị hàm ý biết ơn. Nhật báo đưa tin, tuần báo viết nguyên các câu chuyện, truyền thanh và truyền hình chạy các bản tin cập nhật. Ông Già Noel mang đến niềm vui vào dịp Giáng Sinh, tuy nhiên ông vẫn miệt mài làm việc dù đông đã sang xuân, và xuân chuyển sang hè. Không bao giờ ngừng.
Điều này khiến Vùng Đất Ông già Noel ở Mora và Rovaniemi phải cân nhắc lại kế hoạch kinh doanh. Giờ một Ông già Noel với hàm râu nhựa giả chỉ thân ái gật đầu khi Lisa đòi con ngựa con không còn hợp thời nữa. Hoặc Ông già Noel râu nhựa phải cho Lisa những gì nó đòi (mà sẽ khiến doanh nghiệp lỗ chổng vó), hoặc phải mẫu mực giải thích rằng ông chỉ có thể cho cô bé một gói Lego nhỏ, thương hiệu từ tập đoàn Lego ở Billund, Đan Mạch. Không có ngựa con, chuột con gì cả. Chi phí món quà nhỏ (hẳn nhiên sẽ không làm vừa lòng Lisa) sẽ được bù đắp nhờ tăng giá vé vào cửa.
Những nhà báo điều tra cố tìm hiểu xem Ông già Noel bí ẩn là ai, và nhận được khoảng bao nhiêu tiền quyên góp. Nhưng chi tiết duy nhất họ có là ngân hàng Handelsbanken ở Visby. Theo luật Thụy Điển, nhân viên không có nghĩa vụ thông báo số tiền được chuyển cho một tổ chức vô danh ở Thụy Sĩ. Vì mỗi cá nhân chỉ đóng góp chút đỉnh (số tiền tổng cộng lên đến hàng triệu là do rất nhiều người quyên góp), không phóng viên nào có thể bôi xấu hình ảnh Ông già Noel vô danh nhân từ bác ái.
Một lần, có ai đó đã kịp chụp hình Ông già Noel, nhưng sau bộ râu giả dày và dài cũng bao nhiêu phục trang khác, không ai nghĩ ông có mối liên hệ nào với cựu sát thủ/cựu mục sư Nhà thờ Anders. Nhằm đảm bảo an toàn, Taxi Torsten xoay xở chôm một biển số xe mới để dùng mỗi khi đi lòng vòng trong Stockholm. Hơn nữa, gã còn dùng sơn sửa chữ F thành E khiến chiếc xe thành như vô chủ, hoặc trông như thuộc về gã thợ điện nào đó ở Hasselby.
Tiếng đồn ngày càng bay xa. Phải chăng đó là Đức Vua, thân chinh đi khắp nơi ban phát niềm vui cho thần dân của ngài? Dù sao thì Hoàng Hậu vốn rất nổi tiếng yêu quý trẻ em và kẻ ốm đau. Báo chí viết về giả thiết này vài kỳ trên báo mạng cho đến một ngày Đức Vua đi bẫy một con hươu trong rừng Sormland ngay đúng lúc Ông già Noel đang chia sẻ niềm vui với cô bé tị nạn mồ côi mười hai tuổi ở Harnosand.
Nữ mục sư, gã tiếp tân, Ông già Noel, và Taxi Torsten chia tám phần trăm lợi nhuận, giúp họ sống sung túc trên hòn đảo giữa biển Baltic nay đã thành ngôi nhà thân thương.
Phần tiền còn lại dùng để đầu tư vào những món quà hào nhoáng. Gã tiếp tân cũng đang tiến hành những bước đầu tiên kế hoạch của nữ mục sư tấn công vào thị trường nước Đức. Người Đức giàu tài sản và giàu lòng nhân ái. Họ còn giỏi chơi bóng đá. Hơn nữa, do dân số họ quá đông, việc kiểm soát số tiền Dự Án Ông già Noel kiếm được là chuyện gần như không thể. Khó khăn duy nhất là kiếm mười Ông già Noel hiểu họ nói gì, rồi khiến họ hiểu họ phải nói những gì. Đồng thời họ cũng phải biết giữ mồm giữ miệng về nhiệm vụ phải làm.
* * *
Mọi việc trên đời quả là có bàn tay Thiên Chúa sắp đặt. Bởi ngay khoảng thời gian đó, mẹ của gã tiếp tân - người suýt trở thành cô giáo dạy tiếng Đức - quá mệt mỏi với mọi hình thức bùng nổ của cả ông chồng lẫn núi lửa ở Iceland. Trong một lần quay về thế giới văn minh sắm sửa lương thực, bà gọi cảnh sát tiết lộ nơi ông chồng tham nhũng đang trốn, và bằng cách đó, bà tẩu thoát. Sau đó, bà liên lạc với con trai qua Facebook.
Và đến nay bà đã có lều cá của riêng mình ở Gotland, không quá xa nơi con trai và gia đình đang sinh sống, cùng công việc mới là giám đốc phát triển thị trường Đức sắp khai trương. Trong khi đó, tòa án Iceland kết luận ông chồng bà sẽ chịu án tù sáu năm bốn tháng nhằm phục hồi nhân phẩm liên quan đến kinh tế.
Về phần Anders Sát Thủ, hắn gặp Stina rồi nhanh chóng dọn vào sống chung. Cô phải lòng hắn ngay lập tức khi hắn vô tình biết nấm súp lơ trong tiếng Latin gọi là gì. (Điều này có thể giải thích được là vì sát thủ, trước khi trở thành sát thủ, đã mua một cuốn sách với hy vọng biến các loại nấm thành thuốc phiện. Hắn chỉ nhận ra sự thật sau khi đọc đi đọc lại mười hai lần đến mức thuộc tên tất cả các loại nấm trên đời nhưng không biết cách nào biến chúng trở thành những thứ khác bản chất vốn có).
Họ thất bại trong việc tìm ra nấm truffle (Tuber melanosporum) với sự giúp đỡ của một con lợn đã được huấn luyện nhưng hơi đần độn. Không từ bỏ, lần sau họ thử trồng măng tây, và kết quả vẫn là tương tự (con lợn thì đúng là thứ vô dụng nhất trên đời, nó chỉ toàn nhăm nhăm đào xới lật tung hết cả khu vườn).
Stina là người rất đơn giản. Cô không bao giờ hỏi han Johan yêu thương của mình làm gì trong ba tuần biền biệt trên đất liền. Quan trọng là lúc ảnh nói ảnh về là về, cầm theo số tiền lương ngày càng nhiều. Sau đó họ có thể đến nhà thờ vào Chủ nhật tuần thứ tư tạ ơn Chúa về tất cả ngoại trừ nấm truffle và măng tây.
Khi không phải đóng vai người lái xe riêng cho Ông Già Noel, Taxi Torsten lại lái xe dạo chơi lòng vòng trên đảo.
Không phải vì tiền. Chỉ vì gã thích lái xe. Gã không làm việc ngoài khoảng thời gian từ trưa đến bốn giờ, từ thứ Hai đến thứ Năm cứ mỗi tuần thứ tư trong tháng. Thời gian còn lại, gã ngủ hoặc giải trí ở quán bia. Gã sống trong khách sạn căn hộ giữa trung tâm Visby, gần các trung tâm giải trí xung quanh.
Nữ mục sư và gã tiếp tân vẫn sống trong lều cá bên bờ biển, cùng đứa bé; thỉnh thoảng bà nội ghé qua trông cháu dùm.
Họ không còn cần đẻ bốn năm đứa nhằm trục lợi từ quỹ phúc lợi xã hội. Nhưng mà có thêm một hai đứa nữa thì cũng không có hại gì. Đó là kết quả tình yêu. Một đêm nọ, gã tiếp tân bất ngờ đề nghị một ý tưởng: họ có thể căm ghét cả thế gian hoặc cũng có thể ngừng lại.
- Ngừng lại sao? - nữ mục sư ngỡ ngàng. - Tại sao?
À, gã chuẩn bị nói đến phần đó. Có thể vì danh sách ngoại lệ ngày càng dài ra. Đầu tiên là đứa con bé bỏng của họ, tất nhiên rồi. Rồi tên sát thủ. Thực sự hắn là người dễ thương, nếu không quá đần. Và người phụ nữ đó, tên gì quên rồi, bà tỉnh trưởng đã đồng ý làm đám cưới cho họ, dù rằng có đôi chút nghi ngờ rằng hai nhân chứng không biết mình đang chứng nhân cho việc gì.
Nữ mục sư gật gù. Có thể có thêm vài người trong danh sách loại lệ nữa. Bà nội đứa trẻ, cô bạn gái mới sát thủ, và nếu không phải Taxi Torsten thì cũng là cái xe của gã.
- Nhân tiện, em thấy một con ong bắp cày lượn lờ trong đám rong biển hôm nay đó. Nhà hết thuốc tẩy rồi. Mình phải mua mấy chai mới hoặc tính luôn tụi nó vào danh sách ngoại lệ với sát thủ, tỉnh trưởng, với mấy người còn lại.
- Ừa vậy đi. Ý anh là thêm con ong vào danh sách. Anh nghĩ chắc sẽ còn dài nữa mà mình vẫn còn dư chỗ mà. Mình tạm ngừng lại bấy nhiêu đó thôi được không? Tụi mình sẽ vẫn ghét những thứ còn lại?
Ừm, quả là một nhượng bộ sáng suốt.
- Mà không phải tối nay. Em mệt quá chừng rồi. Ngày hôm nay bận quá sức. Một ngày tốt, mà dài quá. Ngủ ngon anh cựu tiếp tân yêu quý, - cựu nữ mục sư ngái ngủ nói, rồi cô nhanh chóng chìm vào giấc mộng.

Kết

Một buổi chiều đẹp trời, nữ mục sư đứng trên sườn dốc từ lều cá nhìn về đại dương mênh mông. Biển êm ả phẳng lặng như mặt gương. Từ xa, chiếc phà Oskaeshamn lướt nhẹ trên mặt nước. Một con mòng biển đang sục sạo trong đám rong biển đã dọn sạch gần đó. Ngạc nhiên chưa: nó tìm được một con bọ: lâu lắm rồi làm gì có côn trùng ở đây. Ngoại trừ mỗi chuyện đó, xung quanh vô cùng tĩnh lặng, mặt trời từ từ lặn xuống đường chân trời, chuyển sắc vàng sang cam.
Rồi bỗng nhiên sự im lặng đột ngột bị phá vỡ.
- Johanna, con không phải người xấu. Ta muốn con biết điều đó. Không ai cứ xấu xa mãi mãi.
Có ai ở đây sao?
Không. Là giọng nói từ bên trong chính cô.
- Ai đó? Ai đang nói đó? - cô lên tiếng.
- Con biết ta là ai, con biết Chúa Cha luôn sẵn sàng tha thứ.
Nữ mục sư đứng tim. Là Người sao? Sau ngần ấy năm? Cô choáng váng. Và bực bội. Nếu ông ấy thực sự có tồn tại, sao không xuất hiện sớm hơn, ngăn cản ông già cô khủng bố cả gia đình lúc vẫn còn kịp?
- Cha tôi không tha thứ cho ai cả. Tôi cũng không có ý định tha thứ cho ông ấy. Và đừng có trích câu “Nếu ai đó tát vào má phải bạn thì chìa nốt luôn bên kia”.
- Tại sao không? - Đức Chúa băn khoăn.
- Bởi không phải ông hay thánh Matthew là người nghĩ ra câu đó. Người ta đặt điều nói rằng đó là lời Chúa mà không hỏi ý kiến ông suốt mấy thế kỷ qua.
- Khoan khoan, - Đức Chúa thốt lên, phẫn nộ trong giới hạn cho phép. - Đúng là người ta dùng tên ta bịa đặt đôi điều, nhưng con biết gì về...
Người chỉ kịp nói đến đó bởi gã tiếp tân bước ra khỏi lều, bế theo em bé Hosanna trên tay.
Khoảnh khắc tâm sự chấm dứt.
- Em tự nói chuyện một mình à? - gã tiếp tân ngạc nhiên.
Thoạt đầu nữ mục sư im lặng.
Rồi im lặng lâu hơn chút nữa. Cuối cùng cô trả lời:
- Ừa, chắc vậy. Mà bố khỉ, ai mà biết được?

Hết

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét