Thứ Tư, 2 tháng 10, 2019

Sát Thủ Tokyo - Chương 14

Sát Thủ Tokyo

Tác giả: Barry Eisler
Người dịch: Khánh Vân
Nhà xuất bản Văn Học - 2014

Phần Hai

Khi thanh kiếm của anh chạm vào thanh kiếm của kẻ thù, anh không bao giờ được phép nao núng, thay vào đó anh phải dốc sức tấn công với toàn bộ sự quyết tâm của cả cơ thể...
— MIYAMOTO MUSASHI, Ngũ Luân Thư

14

Sáng hôm sau, tôi đang ngồi quay lưng vào tường ở vị trí thuận lợi ưa thích ở Las Chicas, chờ đợi Franklin Bulfinch xuất hiện.
Đó là một buổi sáng hanh khô và nắng ấm, và giữa những luồng ánh sáng rực rỡ chiếu vào qua những ô cửa sổ và không khí thời thượng mà Las Chicas thường lấy làm tự hào, tôi cảm thấy thoải mái trong cặp kính râm Oakley hàng nhái mà tôi đã mua trên đường.
Midori đã ngồi an toàn trong gian âm nhạc của tòa nhà Xoắn Ốc gần đây trên đường Aoyama, đủ gần để có thể gặp Bulfinch một cách nhanh chóng nếu cần thiết nhưng cũng đủ xa để được an toàn nếu có chuyện không hay xảy ra. Cô ấy đã gọi điện cho Bulfinch chưa đầy một giờ trước để sắp xếp cuộc hẹn này. Có thể gã là một phóng viên chân chính và sẽ đến cuộc hẹn một mình, nhưng tôi thấy chẳng dại gì mà cho gã thời gian để bố trí quân tiếp viện nếu tôi nhầm.
Tôi dễ dàng nhận ra Bulfinch khi gã đến nhà hàng, đó chính là cái gã cao gầy đeo kính không gọng mà tôi đã thấy trên tàu hỏa. Bước chân gã sải dài và dáng điệu tự tin, thẳng đứng, và một lần nữa gã làm tôi ngạc nhiên bởi vẻ quý phái của mình. Gã đang mặc quần jean, đi giày tennis, và khoác chiếc áo vét blazer màu xanh dương. Gã băng qua sân hiên và bước vào trong nhà hàng, dừng lại để nhìn sang bên phải, rồi bên trái, tìm kiếm Midori. Đôi mắt gã lướt qua tôi mà không nhận ra.
Gã thơ thẩn đi về hướng nhà vệ sinh, có lẽ để kiểm tra khu vực ăn uống dành riêng ở phía trong tòa nhà. Tôi biết gã sẽ quay lại ngay, và dùng thời gian chờ đợi để quan sát đường phố thêm một lúc nữa. Gã đã bị theo dõi ở Alfie, và có thể bây giờ gã cũng đang bị theo dõi.
Đường phố vẫn vắng tanh khi Bulfinch quay trở ra một phút sau đó. Đôi mắt gã lại quét qua khu vực này một lần nữa. Khi chúng hướng về phía tôi, tôi khẽ nói:
- Anh Bulfinch.
Gã nhìn tôi trong một thoáng giây trước khi nói:
- Tôi có biết anh không?
- Tôi là một người bạn của Midori Kawamura. Cô ấy đã đề nghị tôi đến đây thay cô ấy.
- Cô ấy đâu?
- Bây giờ cô ấy đang gặp nguy hiểm. Cô ấy cần cẩn trọng trong từng hành động.
- Cô ấy sẽ đến đây chứ?
- Còn tùy.
- Tùy vào cái gì?
- Vào quyết định của tôi rằng điều đó có an toàn hay không?
- Anh là ai?
- Như tôi đã nói, một người bạn, quan tâm đến thứ mà anh đang quan tâm.
- Đó là?
Tôi nhìn gã qua cặp kính râm.
- Cái đĩa.
Gã ngập ngừng trước khi nói:
- Tôi chẳng biết cái đĩa nào cả.
Tốt.
- Anh đang đợi cha của Midori giao cho anh một cái đĩa khi ông ấy chết trên tàu Yamanote ba tuần trước. Ông ấy không mang nó theo, vì vậy anh đã đến tìm Midori sau buổi biểu diễn của cô ấy ở Alfie vào thứ sáu tuần sau đó. Anh đã gặp cô ấy ở quán Starbucks trên đường Gaienhigashi, gần tiệm cà phê Almond ở Roppongi. Ở đó anh đã kể với cô ấy về cái đĩa, bởi vì anh hi vọng cô ấy có thể đang giữ nó. Anh sẽ không nói với cô ấy cái đĩa chứa nội dung gì vì anh sợ làm vậy sẽ hại đến cô ấy. Mặc dù sự xuất hiện của anh ở Alfie đã là gây họa cho cô ấy rồi, bởi vì lúc đó anh đang bị theo dõi. Tôi hi vọng tất cả những điều tôi vừa nói đã đủ để xác minh cho sự thành thật của tôi.
Gã không tỏ vẻ gì là sẽ ngồi xuống.
- Anh có thể biết được hầu hết những điều đó mà không cần Midori phải kể cho anh nghe, và khỏa lấp những chỗ trống bằng sự phỏng đoán dựa theo kinh nghiệm - đặc biệt là khi anh chính là người đã theo dõi tôi.
Tôi nhún vai.
- Và sau đó tôi giả giọng cô ấy để gọi điện cho anh một giờ trước ư?
Gã do dự, rồi bước tới và ngồi xuống, lưng dựng thẳng đứng và hai bàn tay đặt trên mặt bàn.
- Được rồi. Anh có thể nói với tôi những gì?
- Tôi đang định hỏi anh câu đó.
- Nghe này, tôi là một phóng viên. Tôi viết các bài báo. Anh có thông tin cho tôi không?
- Tôi cần biết cái đĩa có chứa nội dung gì?
- Anh lại nói về một cái đĩa nào đó.
- Anh Bulfinch, - tôi nói, thoáng nhìn ra ngoài đường, nó vẫn vắng tanh, - những kẻ muốn cái đĩa đó nghĩ rằng Midori đang giữ nó, và chúng sẵn sàng giết cô ấy để đoạt được nó. Có lẽ việc anh đến gặp cô ấy ở Alfie trong khi đang bị theo dõi đã đẩy cô ấy vào nguy hiểm. Vì vậy đừng có quanh co nữa, được không?
Gã bỏ kính ra và thở dài.
- Giả sử có một cái đĩa như thế tồn tại, tôi không nghĩ việc biết được nội dung của nó sẽ có lợi gì cho Midori.
- Anh là một phóng viên. Tôi cho rằng anh sẽ muốn công bố những nội dung chứa trong cái đĩa giả định đó?
- Vâng, anh có thể nghĩ vậy.
- Và tôi cũng cho rằng có những kẻ muốn ngăn chặn sự công bố đó?
- Đó cũng là một giả thiết đúng đắn.
- Vậy đấy. Chính vì sợ sự công bố đó nên những kẻ này mới nhắm vào Midori. Một khi những nội dung chứa trong cái đĩa được công bố, Midori sẽ không còn là một mối đe dọa nữa, đúng không?
- Những điều anh nói đều có lí.
- Vậy thì có vẻ như chúng ta đều muốn một điều. Chúng ta muốn những nội dung chứa trong cái đĩa được công bố.
Gã đổi tư thế ngồi.
- Tôi hiểu ý anh. Nhưng tôi sẽ không thấy thoải mái khi nói về chuyện này trừ phi tôi gặp Midori.
Tôi cân nhắc trong một thoáng.
- Anh có mang theo di động không?
- Có.
- Cho tôi xem nào.
Gã thò tay vào túi áo khoác bên trái và rút ra một cái điện thoại nắp gập nhỏ.
- Tốt lắm, - tôi nói. - Anh hãy cất nó vào túi trở lại.
Khi gã làm vậy, tôi lấy ra một cây bút và một mảnh giấy nhỏ từ túi áo khoác của tôi và bắt đầu viết các chỉ dẫn. Linh cảm mách bảo tôi rằng gã không có máy nghe lén, nhưng linh cảm không phải lúc nào cũng đúng.
- Trừ phi tôi đề nghị anh, tôi không muốn anh đụng đến cái điện thoại đó trong bất cứ trường hợp nào, - tờ giấy của tôi viết. - Chúng ta sẽ rời nhà hàng cùng nhau. Khi chúng ta bước ra ngoài, hãy dừng lại để tôi có thể lục soát vũ khí của anh. Sau đó, hãy đi về phía tôi chỉ. Sẽ có lúc tôi cho anh biết tôi muốn anh đi thẳng, và sẽ có lúc tôi cho anh biết chúng ta đang đi đâu. Nếu bây giờ anh có câu hỏi gì thì hãy viết chúng ra. Nếu không, hãy đưa lại tờ giấy này cho tôi. Bắt đầu từ bây giờ, anh không được nói một lời nào trừ phi tôi lên tiếng trước.
Tôi đưa tờ giấy cho gã. Một tay gã nhận nó, tay kia vội đeo kính. Khi đọc xong, gã đẩy nó ngang qua bàn cho tôi và gật đầu.
Tôi gấp tờ giấy lại và cất nó vào túi áo khoác, rồi đến cái bút. Sau đó tôi đặt một tờ giấy bạc một nghìn yên lên mặt bàn để trả tiền cho tách cà phê mà tôi đã uống và ra hiệu cho gã rời đi.
Chúng tôi đứng dậy và bước ra ngoài. Tôi lục soát người gã và chẳng lấy làm ngạc nhiên khi thấy gã không có vũ khí. Khi chúng tôi đi xuôi theo con phố, tôi cẩn thận để gã đi hơi chéo ở trước mặt, coi gã như một tấm “lá chắn sống” nếu cần. Tôi biết mọi địa điểm tốt trong khu vực này để theo dõi hay mai phục, và đầu tôi ngoảnh đi ngoảnh lại, tìm kiếm một kẻ có vẻ lạc lõng, kẻ có thể đã theo dõi Bulfinch tới nhà hàng và chờ đợi bên ngoài.
Trên đường đi, tôi hô “trái” hoặc “phải” từ đằng sau gã để định hướng, và cuối cùng chúng tôi đã đến tòa nhà Xoắn Ốc. Chúng tôi bước qua cánh cửa kính và đi vào gian âm nhạc, nơi Midori đang đợi.
- Cô Kawamura, - gã nói, cúi đầu chào, khi gã thấy cô ấy. - Cảm ơn vì đã gọi điện cho tôi.
- Cảm ơn anh vì đã đến gặp tôi, - Midori đáp. - Tôi e rằng tôi đã không hoàn toàn thành thật với anh khi chúng ta gặp nhau uống cà phê. Tôi không phải là không biết gì về những mối quan hệ của cha tôi như tôi đã nói với anh. Nhưng tôi không biết gì về cái đĩa mà anh nhắc đến. Ngoài những điều anh đã kể cho tôi nghe.
- Vậy thì, tôi không biết tôi có thể làm được gì giúp cô, - gã nói.
- Hãy nói cho chúng tôi biết trong cái đĩa chứa nội dung gì, - tôi đáp.
- Tôi không thấy điều đó giúp được gì cho anh.
- Tôi cũng không thấy nó có thể gây hại gì cho chúng tôi, - tôi trả lời. - Bây giờ chúng ta đều đang mù mờ. Nếu chúng ta hợp tác với nhau, khả năng tìm được cái đĩa của chúng ta sẽ cao hơn là khi chúng ta hoạt động riêng rẽ.
- Làm ơn, anh Bulfinch, - Midori nói. - Vài ngày trước tôi đã suýt bị sát hại bởi những kẻ đang cố gắng tìm cái đĩa. Tôi cần sự giúp đỡ của anh.
Bulfinch nhăn mặt và nhìn Midori rồi nhìn tôi, đôi mắt đưa đi đưa lại vài lần.
- Thôi được rồi, - một lát sau, gã nói. - Hai tháng trước cha cô đã liên lạc với tôi. Ông ấy nói ông ấy đã đọc chuyên mục của tôi trên tạp chí Forbes. Ông ấy xưng danh và nói muốn giúp tôi. Như một người tố giác điển hình.
Midori quay sang tôi.
- Đó là khoảng thời gian ông ấy được chẩn đoán.
- Xin lỗi, tôi không hiểu? - Bulfinch hỏi.
- Ung thư phổi. Ông ấy đã phát hiện ra là ông ấy chẳng còn sống được bao lâu nữa, - Midori nói.
Bulfinch gật đầu, tỏ vẻ đã hiểu.
- Ra vậy. Tôi không biết điều đó. Tôi rất tiếc.
Midori khẽ gật đầu, tỏ ý đón nhận lời chia buồn của gã.
- Làm ơn nói tiếp đi ạ.
- Trong tháng tiếp theo, tôi đã có vài cuộc gặp bí mật với cha cô, ông ấy đã kể cho tôi nghe rất nhiều về nạn tham nhũng trong Bộ Xây dựng và vai trò của nó như kẻ môi giới giữa Đảng Dân chủ Tự do và yakuza. Những thông tin ấy đã cung cấp cho tôi sự hiểu biết vô giá về bản chất và quy mô của nạn tham nhũng trong xã hội Nhật Bản. Nhưng tôi cần bằng chứng xác thực.
- Bằng chứng xác thực gì nữa? - Tôi hỏi. - Anh không thể chỉ đăng nó lên báo và nói rằng nó được “một nguồn thâm niên trong Bộ Xây dựng” cung cấp sao?
- Bình thường thì tôi có thể làm vậy, - Bulfinch đáp. - Nhưng có hai vấn đề. Thứ nhất, vị trí của Kawamura trong Bộ Xây dựng khiến ông ta là người duy nhất được quyền biết và sử dụng thông tin mà ông ta đang cung cấp cho tôi. Nếu đăng thông tin ấy lên báo thì coi như chúng tôi đã tiết lộ rõ ràng người cung cấp tin cho chúng tôi là ai.
- Còn vấn đề thứ hai? - Midori hỏi.
- Sự tác động, - Bulfinch trả lời. - Chúng tôi đã đăng nửa tá bài báo vạch trần nạn tham nhũng mà Kawamura có liên quan. Báo chí Nhật Bản cương quyết không chịu hưởng ứng. Tại sao? Bởi vì các chính trị gia và quan chức chính phủ thông qua và giải thích các luật có thể đem lại thành công hoặc hủy hoại các tập đoàn nội địa. Và các tập đoàn này cung cấp hơn một nửa doanh thu quảng cáo cho các phương tiện truyền thông. Vì vậy, chẳng hạn, nếu một tờ báo đăng một bài xúc phạm đến một chính trị gia, ông ta sẽ gọi điện cho các mối quen biết của ông ta ở các tập đoàn có liên quan, những người này sẽ không đăng quảng cáo trên tờ báo đó nữa mà chuyển sang tờ báo đối thủ, và tờ báo làm ông ta phật ý bị phá sản. Cô hiểu chứ?
Nếu cô cho phóng viên điều tra một câu chuyện độc lập với các câu lạc bộ kisha (kí giả, phóng viên) được chính phủ bảo trợ, cô sẽ bị ngừng hoạt động. Nếu cô làm theo họ, tiền bạc sẽ tới tấp ùa tới, cả hợp pháp và bất hợp pháp. Không một ai dám mạo hiểm; mọi người coi sự thật như một căn bệnh truyền nhiễm vậy. Chúa ơi, báo chí Nhật là thứ dễ điều khiển nhất trên thế giới.
- Nhưng với bằng chứng... ? - Tôi hỏi.
- Bằng chứng cụ thể sẽ thay đổi mọi thứ. Các tờ báo sẽ buộc phải đưa tin, nếu không họ sẽ để lộ rằng họ chỉ là những công cụ của chính phủ. Và việc đưa những nhân vật tham nhũng đầu sỏ ra ánh sáng sẽ làm quyền lực của chúng yếu đi và khuyến khích sự can đảm của giới báo chí. Chúng ta có thể khởi động một vòng quay đạo đức sẽ dẫn tới sự thay đổi trong đời sống chính trị của Nhật Bản mà đất nước này chưa từng được thấy kể từ sau cuộc cải cách Minh Trị.
- Tôi nghĩ có thể anh đang đánh giá quá cao nhiệt tâm của các phương tiện truyền thông đại chúng trong nước, - Midori nói.
Bulfinch lắc đầu.
- Không đâu. Tôi biết rõ một vài người trong số họ. Họ là những phóng viên tốt, họ muốn công bố sự thật. Nhưng họ cũng là những người thực tế.
- Bằng chứng, - tôi nói. - Nó là cái gì?
Bulfinch nhìn tôi qua mép trên của cặp kính không gọng.
- Tôi không biết chính xác. Chỉ biết rằng nó là bằng chứng cụ thể. Không thể chối cãi.
- Có vẻ như cái đĩa nên được đem đến Keisatsucho, chứ không phải báo giới, - Midori nói, nhắc đến cơ quan điều tra của Tatsu.
- Cha em sẽ không sống nổi thêm một ngày nếu ông ấy giao thông tin đó cho họ, - tôi nói thay Bulfinch.
- Đúng vậy, - Bulfinch nói. - Cha cô không phải là người đầu tiên cố gắng vạch trần vấn nạn tham nhũng. Cô đã từng nghe về Honma Tadayo chưa?
À, có, ông Honma. Một câu chuyện buồn.
Midori lắc đầu.
- Khi Ngân hàng Tín dụng Nippon bị phá sản năm 1998, - Bulfinch tiếp tục, - ít nhất ba mươi sáu tỉ đô la, và có lẽ còn nhiều hơn thế, trong số khoản cho vay lên đến một trăm ba mươi ba tỉ đô la của nó đã trở thành nợ xấu. Những khoản nợ xấu này có liên quan tới thế giới ngầm, thậm chí là những khoản chi trả bất hợp pháp cho Bắc Triều Tiên. Để giải quyết vụ bê bối này, một hiệp hội giải cứu đã thuê Honma Tadayo, vị cựu giám đốc đáng kính trọng của Ngân hàng Nhật Bản. Ông Honma trở thành chủ tịch của NCB (Ngân hàng Tín dụng Nippon) vào đầu tháng chín và bắt đầu kiểm tra sổ sách của ngân hàng, cố gắng khám phá quy mô đầy đủ các khoản nợ xấu của nó và tìm hiểu từ đâu và tại sao mà chúng lại có quy mô như thế.
Honma làm việc này được hai tuần. Ông ta được phát hiện đã chết trong tư thế treo cổ tại một phòng khách sạn ở Osaka, với những bức thư tuyệt mệnh được gửi cho gia đình, công ty và những người khác tương tự. Thi thể ông ta nhanh chóng được hỏa táng, không khám nghiệm, và cảnh sát Osaka tuyên bố cái chết này là một vụ tự tử mà không thèm mở một cuộc điều tra.
Và Honma không phải là trường hợp cá biệt. Cái chết của ông ta là “vụ tự tử” thứ bảy giữa những người Nhật có chức vụ cao hoặc là đang điều tra các vụ bê bối tài chính, hoặc chuẩn bị đứng ra làm chứng cho những vụ bê bối kể từ năm 1997, khi quy mô của các khoản nợ xấu ảnh hưởng đến các ngân hàng như Tín dụng Nippon bắt đầu bị đưa ra ánh sáng. Còn có một thành viên quốc hội đang định tiết lộ về các hoạt động gây quỹ phi pháp, một giám đốc khác của Ngân hàng Nhật Bản - người giám sát những tổ chức tài chính nhỏ, một thanh tra viên của Cơ quan Giám sát Tài chính, và trưởng bộ phận phụ trách các tổ chức tài chính vừa và nhỏ ở Bộ Tài chính. Không một trường hợp nào trong bảy trường hợp trên dẫn đến một cuộc điều tra giết người. Các thế lực ở đất nước này không cho phép điều đó.
Tôi nghĩ về Tatsu và những giả thuyết âm mưu của anh ta, đôi mắt không chớp sau cặp kính râm.
- Có những lời đồn về một đơn vị đặc biệt trong lòng yakuza, - Bulfinch nói, tháo cặp kính và chùi mắt kính vào áo sơ mi, - các chuyên gia về “những nguyên nhân tự nhiên”, chúng đến phòng khách sạn của các nạn nhân vào ban đêm, ép họ viết thư tuyệt mệnh trước họng súng, tiêm cho họ thuốc an thần, sau đó siết cổ họ để ra vẻ là họ đã treo cổ tự tử.
- Anh đã tìm thấy bất cứ bằng chứng nào cho những lời đồn đó chưa? - Tôi hỏi.
- Chưa. Nhưng không có lửa thì làm sao có khói.
Gã giơ cặp kính lên quá đầu và săm soi nó, rồi đeo nó trở lại.
- Để tôi kể tiếp cho anh nghe. Những vấn đề trong các ngân hàng đã đủ tồi tệ rồi, nhưng Bộ Xây dựng còn khủng khiếp hơn nữa. Xây dựng là lĩnh vực sử dụng lao động lớn nhất Nhật Bản - cứ sáu bàn ăn ở Nhật Bản thì một bàn có cái ăn là do nó mang lại. Ngành công nghiệp này cho đến nay vẫn là nguồn đóng góp lớn nhất cho LDP. Nếu anh muốn đào tận gốc sự tham nhũng của đất nước này, Xây dựng chính là điểm khởi đầu. Cha cô là một người dũng cảm, Midori ạ.
- Tôi biết, - cô ấy nói.
Liệu cô ấy có còn cho rằng cú trụy tim của ông ấy xuất phát từ nguyên nhân tự nhiên hay không? Tòa nhà đang bắt đầu có cảm giác ấm dần lên.
- Tôi đã kể cho cô những gì tôi biết, - Bulfinch nói. - Giờ thì đến lượt cô.
Tôi nhìn gã qua cặp kính râm.
- Anh có thể nghĩ ra lí do nào đó khiến Kawamura đến gặp anh sáng hôm đó nhưng không mang theo cái đĩa không?
Bulfinch ngừng lại một lúc trước khi nói:
- Không.
- Sáng hôm đó chính là thời điểm để giao cái đĩa à?
- Vâng. Như tôi đã nói, chúng tôi đã bí mật gặp nhau nhiều lần trước đó. Vì vậy sáng hôm đó chính là thời điểm Kawamura giao cái đĩa cho tôi như đã hứa.
- Có thể ông ấy không lấy được cái đĩa, không thể tải xuống bất cứ thứ gì mà ông ấy định tải ngày hôm đó, và đó là lí do ông ấy đến tay trắng.
- Không. Hôm trước ông ấy đã nói với tôi qua điện thoại rằng ông ấy đang giữ nó. Tất cả những gì ông ấy phải làm chỉ là giao nó cho tôi.
Bỗng một tia chớp nhận thức lóe lên trong đầu tôi. Tôi quay sang Midori.
- Midori, cha em sống ở đâu?
Dĩ nhiên tôi đã biết thông tin này, nhưng không thể để cô ấy biết việc đó.
- Shibuya.
- Chome nào?
Chome là những khu vực nhỏ hơn trong lòng các quận của Tokyo.
- Chome 3.
- Vậy là ở phía đầu phố Dogenzaka, đúng không? Phía trên nhà ga?
Tôi quay sang Bulfinch.
- Sáng hôm đó Kawamura lên tàu ở đâu?
- Ga JR Shibuya.
- Tôi có một linh cảm mà tôi sẽ phải làm theo. Tôi sẽ gọi cho anh nếu có kết quả.
- Chờ chút..., - gã nói.
- Tôi biết anh sẽ cảm thấy không thoải mái, - tôi nói, - nhưng anh sẽ phải tin tưởng tôi. Tôi nghĩ tôi có thể tìm thấy cái đĩa đó.
- Bằng cách nào?
- Như đã nói, tôi có một linh cảm. - Tôi bắt đầu đi ra cửa.
- Chờ đã, - gã lặp lại. - Tôi sẽ đi với anh.
Tôi lắc đầu.
- Tôi làm việc một mình.
Gã nắm lấy cánh tay tôi và lại lặp lại:
- Tôi sẽ đi với anh.
Tôi nhìn bàn tay gã đang đặt trên cánh tay tôi. Sau một thoáng giây, gã thu tay về.
- Tôi muốn anh bước ra khỏi đây, - tôi bảo gã. - Đi về phía đại lộ Omotesando. Tôi sẽ đưa Midori đến một nơi an toàn và làm theo linh cảm của tôi. Tôi sẽ liên lạc với anh sau.
Gã nhìn Midori, rõ ràng bối rối.
- Không sao đâu, - cô ấy nói. - Chúng tôi cũng muốn những gì anh muốn.
- Tôi không nghĩ tôi có nhiều sự lựa chọn, - gã nói, nhìn tôi với ánh mắt trừng trừng ra vẻ căm tức lắm. Nhưng tôi có thể nhìn thấy những gì gã thật sự đang nghĩ.
- Anh Bulfinch, - tôi nói, hạ giọng, - đừng cố gắng đi theo tôi. Tôi sẽ phát hiện ra nếu anh làm vậy. Và sẽ không phản ứng như một người bạn đâu.
- Vì Chúa, hãy nói cho tôi biết anh đang nghĩ gì. Tôi có thể giúp anh.
- Nhớ nhé, - tôi nói, chỉ ra đường, - hãy đi về phía đại lộ Omotesando. Tôi sẽ liên lạc với anh sớm.
- Anh nên như thế, - gã nói. Rồi gã bước lại gần hơn và nhìn vào mắt tôi qua cặp kính râm, và tôi phải ngưỡng mộ sự can đảm của gã. - Anh nên như thế.
Gã gật đầu với Midori và bước qua cánh cửa kính của Tòa nhà Xoắn Ốc để ra ngoài đường.
Midori nhìn tôi và hỏi:
- Linh cảm của anh là gì vậy?
- Anh sẽ nói sau, - tôi nói, quan sát Bulfinch qua lớp kính cửa. - Chúng ta phải đi ngay, trước khi gã có cơ hội quay lại và đi theo một người trong chúng ta. Đi thôi.
Chúng tôi ra ngoài và lập tức vẫy một chiếc tắc xi đi về phía Shibuya. Tôi có thể thấy Bulfinch vẫn đang đi bộ về hướng ngược lại, khi chúng tôi chui vào xe và được chở đi.
Chúng tôi xuống xe và chia tay ở ga JR Shibuya. Midori quay về khách sạn trong khi tôi đi lên Dogenzaka - nơi Harry và tôi đã theo dõi Kawamura sáng hôm đó, một việc có vẻ như đã xảy ra lâu lắm rồi. Nếu linh cảm của tôi là đúng, Kawamura đã vứt cái đĩa ở đâu đó vào buổi sáng ông ta chết.
Tôi đang nghĩ về Kawamura, về hành động của ông ta sáng hôm đó, về những gì hẳn đã diễn ra trong đầu ông ta.
Hơn bất cứ điều gì khác, ông ta sợ. Ngày hôm nay đã đến; ông ta đang có trong tay cái đĩa sẽ xua hết tất cả lũ chuột cống ra ngoài ánh sáng. Nó đang nằm ngay trong túi ông ta. Nhỏ và nhẹ bẫng, dĩ nhiên, nhưng ông ta hoàn toàn cảm nhận được sự hiện diện của nó, ông ta biết vật này sẽ khiến ông ta bị tước nốt vài ngày còn lại trong đời nếu bị bắt gặp với nó. Chưa đầy một giờ nữa, ông ta sẽ gặp Bulfinch và cất được cái gánh nặng chết tiệt này, và cảm ơn Chúa vì điều đó.
Nhỡ bấy giờ mình đang bị theo dõi thì sao? Ông ta sẽ nghĩ vậy. Nhỡ chúng bắt gặp mình với cái đĩa? Ông ta bắt đầu ngoảnh nhìn qua vai. Dừng lại để đốt một điếu thuốc, quay mặt lại và quét mắt quan sát con phố.
Ai đó đằng sau ông ta có vẻ đáng ngờ. Tại sao lại không chứ? Khi anh bị bao trùm trong nỗi sợ hãi, toàn thế giới biến đổi. Mội cái cây bỗng có vẻ giống một chiến sĩ NVA đến từng chi tiết - từ bộ đồng phục sẫm màu đến khẩu súng AK. Mỗi người đàn ông mặc com lê trên đường đều trông như một sát thủ của chính phủ, kẻ sẽ thò tay vào túi anh, lấy cái đĩa ra, và mỉm cười khi giơ súng vào trán anh.
Hãy vứt thứ chết tiệt này ở đâu đó, và để cho Bulfinch tự mình đến lấy nó. Bất cứ đâu, bất cứ đâu cũng được... kia rồi, cửa hàng hoa quả Higashimura, được đấy.
Tôi dừng lại bên ngoài cánh cửa nhỏ của cửa hàng và nhìn lên tấm biển hiệu phía bên trên. Đây chính là nơi ông ta đã rẽ vào sáng hôm đó. Nếu nó không nằm ở đây, nó có thể ở bất cứ đâu. Nhưng nếu ông ta đã bỏ lại nó trên đường đến gặp Bulfinch, thì đó phải là nơi này.
Tôi bước vào. Chủ cửa hàng là một người đàn ông thấp bé với đôi mắt của một kẻ thất bại và màu da của một kẻ cả đời hút thuốc lá, ông ta ngẩng lên và chào đón tôi với một câu “irrashaimase” mệt mỏi, rồi quay lại với cuốn manga đang đọc dở. Cửa hàng nhỏ và có hình chữ nhật, và chủ cửa hàng có thể quan sát toàn bộ nơi này. Kawamura chỉ có thể giấu cái đĩa ở những nơi mà khách hàng được phép sờ tay vào. Ông ta cũng phải hành động thật nhanh chóng. Trong suy nghĩ của ông ta, dù gì cái đĩa cũng chỉ cần được giấu khoảng một tiếng đồng hồ, vì vậy ông ta không cần phải tìm một chỗ an toàn tuyệt đối.
Có nghĩa là nó có thể đã biến mất, tôi bàng hoàng nhận ra. Nó sẽ không còn ở đây nữa. Nhưng tôi còn biết làm gì hơn. Cứ thử tìm một lần cũng chẳng mất mát gì.
Táo. Tôi đã nhìn thấy một quả táo lăn xuống khỏi toa tàu khi những cánh cửa đóng lại.
Ở góc xa nhất của cửa hàng có một thùng táo Fuji, trông chúng bóng loáng và đẹp mắt khi được bọc một nửa trong những cái lưới xốp. Tôi hình dung ra cảnh Kawamura đang đi tới đó, vừa kiểm tra những quả táo vừa tranh thủ tuồn cái đĩa xuống bên dưới chúng.
Tôi tiến lại gần và quan sát. Cái thùng chỉ đủ sâu để xếp vài lớp táo lên nhau, và tôi có thể tìm ra cái đĩa dễ dàng chỉ bằng cách di chuyển những quả táo, như thể tôi đang cố chọn được quả ngon nhất.
Chẳng có cái đĩa nào cả. Chết tiệt.
Tôi lặp lại động tác đó với những quả lê ở ngay bên cạnh, rồi đến những quả quýt, vẫn chẳng có gì.
Khốn kiếp. Vậy mà tôi cứ chắc mẩm cảm giác của mình là đúng.
Tôi sẽ phải mua một thứ gì đó để hoàn tất trò vờ vĩnh này. Rõ ràng tôi là một người mua hàng sành sỏi, đang tìm kiếm một thứ đặc biệt.
- Ông có thể chọn cho tôi một giỏ hoa quả để làm quà biếu không? - Tôi hỏi chủ cửa hàng. - Có lẽ khoảng sáu quả khác nhau, bao gồm một quả dưa vàng nhỏ.
- Kashikomarimashita*. - ông ta trả lời với nụ cười uể oải.
*[Có ngay đây ạ]
Khi ông ta bắt đầu đi quanh cửa hàng, cẩn thận lựa chọn từng loại quả để tập hợp thành một giỏ quà, tôi tiếp tục việc tìm kiếm. Trong khoảng thời gian năm phút khi chủ cửa hàng mải thực hiện yêu cầu của tôi, tôi có thể kiểm tra mọi vị trí mà Kawamura sẽ tiếp cận sáng hôm đó. Nhưng vô ích.
Chủ cửa hàng sắp xong việc. Ông ta lấy ra một sợi ruy băng có vân gợn sóng màu xanh lá cây và quấn nó hai lần quanh cái hộp mà ông ta đã dùng, và cuối cùng thắt nó lại theo hình nơ bướm đơn giản. Đó thực sự là một món quà đẹp. Có lẽ Midori sẽ thích nó.
Tôi lấy ra ít tiền mặt và đưa cho ông ta. Mày đang hi vọng gì chứ? Tôi nghĩ. Kawamura sẽ không có thời gian để giấu nó thật kĩ. Cho dù ông ta có làm được thì đến giờ phút này hẳn đã có người phát hiện ra nó rồi.
Hẳn là đã có người phát hiện ra nó.
Ông ta đang đếm tiền lẻ để trả lại tôi với tác phong rề rà giống như lúc ông ta sắp xếp giỏ hoa quả. Đúng là một người cẩn thận. Ngăn nắp.
Tôi đợi ông ta làm xong, rồi nói bằng tiếng Nhật:
- Xin lỗi. Tôi biết chuyện này khó có thể xảy ra, nhưng một người bạn của tôi đã bị mất một cái đĩa CD ở đây khoảng hơn một tuần trước và nhờ tôi kiểm tra xem có ai thấy nó không. Khả năng này khó xảy ra đến mức tôi ngại không dám hỏi, nhưng...
- Un (Vâng), - ông ta lẩm bẩm, quỳ xuống đằng sau quầy thanh toán. Một lát sau ông ta đứng dậy, tay cầm một cái hộp đựng đĩa CD bằng nhựa dẻo. - Tôi đang nghĩ không biết có ai đến nhận nó không. - Ông ta chùi nó bằng tạp dề với vài động tác lờ đờ và đưa nó cho tôi.
- Cảm ơn, - tôi nói, không tỏ ra ngạc nhiên chút nào. - Bạn tôi sẽ vui lắm.
- Mừng cho ông ấy, - ông ta nói, và đôi mắt ông ta lại như bị phủ một lớp sương mỏng.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét