Báo Thù
Tác giả: Barry Eisler
Người dịch: Trần Anh Ngọc
Nhà xuất bản Văn Học - 2014
Phần Hai
Âm nhạc
hé lộ một quá khứ riêng tư mà, cho tới thời điểm đó, mỗi chúng ta không hề biết
tới, đẩy chúng ta tới chỗ khóc cho những bất hạnh chúng ta chưa bao giờ chịu đựng
và những lỗi lầm chúng ta chưa bao giờ phạm phải.
- Jorge Luis Borges -
9
Đêm đó tôi đi một quãng đường dài, lang
thang qua Tokyo. Tôi thấy bồn chồn và cảm giác cần phải di chuyển, để phó mặc
cho những luồng gió của thành phố đưa tôi đến nơi nào tùy ý.
Tôi dạt lên phía bắc từ Meguro, đi theo những
con phố hẹp, những ngõ hẻm, những lối đi đơn độc qua những công viên không đèn.
Có điều gì đó về thành phố chết tiệt này tiếp
tục thu hút tôi, cám dỗ tôi. Tôi cần phải rời đi. Tôi những muốn rời đi. Khốn
kiếp, tôi đã cố rời bỏ. Nhưng tôi lại đang ở đây.
Có thể
đó là số phận.
Nhưng tôi không tin vào số phận. Số phận là
thứ nhảm nhí.
Vậy
thì là cái gì?
Tôi đến Hikawa Jinja ở Hiro, một trong nhiều
miếu thờ Thần Đạo nằm rải rác trong thành phố. Rộng khoảng ba mươi mét vuông,
nó là một trong những ngôi miếu nhỏ hơn, nhưng không phải là nhỏ nhất, trong số
những không gian xanh uy nghiêm này. Tôi bước qua cây cổng đá cổ xưa và ngay lập
tức được bao trùm trong bóng đêm an ủi.
Tôi nhắm mắt lại, nghiêng đầu về phía trước,
và hít vào bằng mũi. Tôi giơ hai bàn tay lên trước mặt và vươn các ngón tay ra
như một người mù đang cố xác định nơi anh ta đã tìm thấy chính bản thân mình.
Nó ở đó, chỉ ngay sau những giới hạn của nhận
thức thông thường. Cái cảm giác của một thành phố đang sống, cuộn xoáy, chồng lớp
và vang đều đều khắp xung quanh tôi. Và cảm giác rằng tôi đang sống như một phần
của nó.
Tôi mở mắt ra và ngẩng đầu lên. Miếu thờ được
xây dựng trên một con dốc, và qua những thân cây ngoài rìa của nó tôi có thể thấy
ánh sáng đèn của Hiro, và của Meguro phía xa xa.
Tokyo thật quá rộng lớn, và có thể thờ ơ một
cách tàn nhẫn đến nỗi sự giúp đỡ đến từ cái ốc đảo dự bị của nó ngọt ngào hơn của
bất cứ nơi nào tôi từng biết. Đó là sự yên tĩnh của những miếu thờ như Hikawa,
đem lại sự đồng vọng buồn bã mà đối với tôi luôn luôn cùng mức với âm vang của
một quả chuông đền thờ; niềm khuây khỏa của những nomiya nhỏ bé - những quán nước của các khu dân cư, với chỉ hai hoặc
bốn ghế đối diện một quầy bar ngắn hơn nửa chiều dài một cánh cửa, được quản lí
bởi một mama-san không tuổi, người có thể dịu dàng hay nghiêm nghị, tùy thuộc
vào những nhu cầu của khách, một sự sắp xếp mang đến lòng an ủi và thấu hiểu
hơn giường bệnh của bất cứ bác sĩ tâm lí nào; sự thân thiết vô danh kì lạ của yatai và tachinomi, những quầy bán hàng ăn ngoài trời nơi phục vụ bia trong
các cốc lớn và nướng thức ăn trên xiên, những quầy hàng mọc lên như nấm trong
các góc tối và trong bóng râm của những nhịp đường tàu cao tốc trên không, tiếng
cười của những người khách quen lan trong không khí ban đêm như những chùm ánh
sáng nhỏ chống lại bóng tối không ánh sáng.
Tôi di chuyển sâu hơn vào bóng đêm và ngồi
xuống tựa lưng vào honden, tòa kiến trúc lợp ngói, hình dáng đối xứng, nơi trú
ngụ cho vị thần của ngôi miếu nhỏ này. Tôi nhắm hai mắt và thở ra, dài và trọn
vẹn, rồi lắng nghe, trong một lúc, sự tĩnh mịch.
Khi còn nhỏ tôi bị bắt quả tang lấy trộm một
thanh sô-cô-la ở một cửa hàng trong khu phố. Ông bà chủ già cả ở đó biết tôi,
đương nhiên, và báo cho cha mẹ tôi. Tôi rất sợ phản ứng của cha, và chối bay tất
cả khi ông hỏi. Ông không tức giận. Thay vào đó ông gật đầu chậm rãi, và bảo
tôi rằng điều quan trọng nhất đối với một người đàn ông là thừa nhận những gì
anh ta đã làm, rằng nếu không làm được điều đó anh ta chỉ có thể là một thằng
hèn. Tôi có hiểu điều đó không? Ông hỏi thế.
Lúc đó, tôi không thực sự hiểu được những
gì ông muốn nói. Nhưng những lời của ông gây ra một nỗi hổ thẹn kịch liệt, và
tôi thú nhận. Ông đưa tôi tới cửa hàng, nơi tôi xin lỗi trong nước mắt. Trước mặt
hai người chủ, mặt ông nghiêm khắc, gần như là phẫn nộ. Nhưng khi chúng tôi ra
về, trong khi tôi tiếp tục khóc vì hổ thẹn, ông nhanh chóng và vụng về kéo tôi
lại bên cạnh ông, rồi nhẹ nhàng đặt bàn tay lên cổ tôi trong khi chúng tôi bước
đi.
Tôi chưa bao giờ quên những gì ông đã nói với
tôi. Tôi biết tôi đã làm gì, và tôi thừa nhận tất cả những điều đó.
Lần trực tiếp giết người đầu tiên của tôi
là một người bộ đội Việt Nam gần sông Sê Kông, biên giới Lào. Ở Việt Nam việc
được gọi là “trực tiếp giết người” là khi anh giết một người cụ thể bằng một thứ
vũ khí ngắm bắn thẳng và chắc chắn tự mình thực hiện chuyện đó. Lúc đó tôi mười
bảy tuổi.
Tôi là thành viên của một đội trinh sát ba
người. Các đội đều rất nhỏ, và việc thành công hay sống sót phụ thuộc vào khả
năng hoạt động sau chiến tuyến đối phương mà không bị họ phát hiện. Vì thế chỉ
có những người có khả năng di chuyển bí mật tuyệt đối mới được chọn đi trinh
sát.
Những nhiệm vụ kiểu này cần các bóng ma hơn
là những kẻ sát nhân.
Chuyện đó xảy ra lúc rạng sáng. Tôi nhớ lại
lúc tôi chỉ có thể thấy sương mù bốc lên khỏi mặt đất ẩm ướt khi ánh sáng len lỏi
vào bầu trời. Tôi luôn luôn nghĩ đây là một đất nước đẹp đẽ. Rất nhiều lính
ghét nó vì họ ghét phải ở đó, nhưng tôi không thấy thế.
Chúng tôi đã ở ngoài đồng hai đêm không
liên lạc và đang hướng về điểm rút quân khi nhìn thấy người đó, một mình, đứng
giữa khoảng trống. Chúng tôi không cử động và quan sát anh ta từ một hàng cây.
Anh ta mang một khẩu AK, vì thế chúng tôi biết đó là bộ đội Việt Nam. Anh ta bước
đi, nhìn trái, rồi nhìn phải. Anh ta dường như đang cố xác định phương hướng.
Tôi nhớ là đã tự hỏi có phải anh ta bị lạc đơn vị không.
Chỉ thị của chúng tôi là tránh chạm trán,
nhưng lệnh là thu thập tin tức tình báo, và chúng tôi thấy anh ta mang theo một
cuốn sách lớn. Một loại sổ sách nào đó. Nó có thể là một chiến lợi phẩm tốt. Chúng
tôi nhìn nhau. Đội trưởng gật đầu với tôi.
Tôi quỳ xuống và rút ra khẩu CAR-15, tìm kiếm
người bộ đội Việt Nam trong tầm nhìn, chờ đợi anh ta dừng bước.
Vài giây trôi qua. Tôi biết mình có thời
gian và muốn phát súng ăn chắc.
Anh ta quỳ gối và đặt khẩu súng trường cùng
quyển sách xuống. Rồi anh ta đứng lên, mở khóa quần, và tiểu tiện. Hơi nước bốc
lên từ nơi dòng chất lỏng nóng chạm mặt đất. Tôi giữ anh ta trong tầm ngắm, suy
nghĩ suốt lúc đó rằng anh ta không biết chuyện gì đang đến và rằng đây quả là một
cách khốn kiếp để chết.
Tôi đợi anh ta xong và kéo lại khóa quần. Rồi,
pằng! Tôi bắn hạ anh ta. Tôi thấy anh
ta ngã xuống. Tôi có cảm giác hân hoan lạ thường, rằng tôi đã thành công! Tôi
đã thắng! Tôi giỏi việc này!
Chúng tôi bước qua chỗ anh ta nằm xuống.
Khi tới đó, tôi kinh ngạc khi thấy anh ta vẫn còn sống. Tôi bắn trúng vào xương
ức và anh ta mang một vết thương đang phập phồng trên ngực. Anh ta ngã ngửa và
hai chân giạng ra. Đất bên dưới anh ta đã chuyển màu sậm vì thấm máu.
Tôi nhớ là đã sốc vì anh ta trẻ như thế
nào. Trông anh ta tầm tuổi tôi. Tôi nhớ là ý nghĩ đó xẹt qua tâm trí tôi - Lạy Chúa, cũng như tôi! - khi chúng tôi
đứng thành vòng tròn quanh anh ta, không biết phải làm gì.
Anh ta chớp mắt liên hồi, ánh mắt nhảy từ
gương mặt này sang gương mặt khác rồi lại trở lại. Chúng dừng lại ở mặt tôi, và
tôi nghĩ đó là do anh ta biết tôi là người đã bắn anh ta. Về sau, tôi nhận ra lời
giải thích chắc là đơn giản hơn thế. Anh ta có lẽ đang cố lí giải những đặc điểm
châu Á của tôi.
Một người tháo bi đông nước và chìa về phía
anh ta. Nhưng anh ta không biểu lộ cử chỉ gì để nhận lấy nó. Hơi thở của anh ta
trở nên nhanh hơn và nông hơn. Nước mắt trào ra từ khóe mắt và anh ta lẩm bẩm
vài lời với một giọng cao, gắng sức mà không ai trong chúng tôi có thể hiểu được.
Về sau tôi được biết những người bị thương và sắp chết trên chiến trường thường
gọi mẹ họ. Anh ta có thể đang làm như vậy.
Chúng tôi nhìn anh ta. Vết thương trên ngực
ngừng phập phồng. Anh ta cũng không còn chớp mắt. Đầu anh ta ngả xuống nền đất
ướt ở một góc kì dị, như thể anh ta đang lắng nghe điều gì đó.
Chúng tôi đứng lặng im quanh anh ta. Cảm
giác hân hoan ban đầu đã biến mất, thay thế bởi một sự thông cảm sâu sắc đến kì
lạ, và một nỗi buồn kinh khủng đột ngột và nặng nề đến mức nó thực sự làm tôi
muốn rên lên.
Cũng như tôi, tôi lại nghĩ. Anh ta không có
vẻ là người xấu. Tôi biết trong một thế giới nào đó chúng tôi chắc sẽ không phải
cố giết nhau. Có thể chúng tôi sẽ là bạn bè. Anh ta sẽ không nằm chết trên nền
đất rừng thấm máu chính mình.
Một trong hai người đi cùng tôi bắt đầu
khóc. Người kia bắt đầu kêu than Ôi Chúa
ơi, ôi Chúa ơi, lặp đi lặp lại. Cả hai đều nôn mửa.
Tôi thì không.
Chúng tôi nhặt lấy cuốn sổ. Hóa ra là nó chứa
một số thông tin khá hữu ích về việc Việt Cộng tìm cách mở rộng địa bàn tại các
bản làng. Mặc dù tất nhiên, cuối cùng, chẳng việc nào trong số đó quan trọng.
Một người trên chiếc trực thăng Huey đón
chúng tôi sau đó cười phá lên và nói tôi đã “mất trinh”. Không ai nói về cảm
giác thực sự, hay chuyện gì đã xảy ra trong khi chúng tôi đứng thành vòng tròn
câm lặng và nhìn người đó chết.
Khi quân đội đánh giá xem tôi có thích hợp
để tham gia Lực lượng Đặc nhiệm - chương trình của CIA được biết đến với tên
SOG - vị bác sĩ tâm lí đã tỏ ra quan tâm đặc biệt tới kinh nghiệm giết người
ban đầu của tôi. Ông ta có vẻ nghĩ rằng rất đáng chú ý khi tôi không nôn mửa.
Và ông ta miêu tả việc đó là “những cảm xúc tiêu cực liên kết” đã bị xua tan.
Không ác mộng sau đó, điều này cũng được tính là một điểm cộng.
Về sau, tôi mới biết rằng tôi được xếp loại
là thuộc về số lượng hai phần trăm kì lạ những người lính có khả năng giết chóc
liên tục, không do dự, không mang trạng thái đặc biệt, không hối tiếc. Tôi
không biết mình có thực sự thuộc về số đó không. Chuyện đó không dễ dàng đối với
tôi như đối với Jake Khùng. Nhưng họ đã đặt tôi vào loại đó.
Một người bình thường sẽ ngạc nhiên trước
phạm vi mà một người lính phải đối phó với sự do dự trước thực tế và sự hối hận
về sau. Tất nhiên, một người bình thường chưa bao giờ bị buộc phải giết một người
lạ mặt trong phạm vi gần.
Những người sống sót qua những vụ giết chóc
ở khoảng cách gần biết rõ rằng con người bị chi phối bởi một sự miễn cưỡng bẩm
sinh, sâu xa không muốn giết chính giống loài của họ. Tôi tin rằng có những
cách giải thích thuộc về thuyết tiến hóa cho sự tồn tại của cảm giác miễn cưỡng
này, nhưng điều đó không thực sự quan trọng. Điều quan trọng là mục đích cốt yếu
của việc đào tạo cơ bản cho phần lớn binh sĩ là sử dụng các kĩ thuật điều tiết
cổ điển và có hiệu quả để trấn áp cảm giác miễn cưỡng đó. Tôi biết các khóa huấn
luyện hiện đại đạt được mục tiêu này với một hiệu quả tàn khốc. Tôi cũng biết rằng
việc huấn luyện giải quyết sự miễn cưỡng tốt hơn là giải quyết sự hối hận.
Tôi ngồi đó một lúc lâu, sắp xếp lại những
kí ức. Cuối cùng tôi bắt đầu thấy lạnh. Tôi trở lại khách sạn, cảnh giác phía
sau như mọi khi dọc đường về. Tôi tắm một bồn nước nóng giãy, rồi chui vào một
trong những bộ yukata (loại kimono hè
thông thường) bằng cotton mà khách sạn đã chu đáo chuẩn bị. Tôi kéo một chiếc
ghế ra trước cửa sổ và ngồi trong bóng tối, nhìn giao thông chuyển động dọc
theo phố Hibiya, hai mươi tầng nhà bên dưới. Tôi nghĩ đến Midori. Tôi tự hỏi
nàng đang làm gì ngay lúc này ở đầu bên kia thế giới.
Khi giao thông bắt đầu thưa dần, tôi mới
leo lên giường. Giấc ngủ tới chậm chạp. Tôi mơ thấy Rio.
Cảm giác thật xa xôi.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét