Cuộc Chiến Đi
Qua
Tác giả: Kanta
Ibragimov
Người dịch: Đào
Minh Hiệp
Nhà xuất bản
Văn Học 2017
Phần Một (tiếp)
* * *
Cuối tháng
Năm, vào một buổi chiều mùa xuân ấm áp, bà Hadizhat, vợ của ông Baki-Haji, với
lòng quyết tâm và kiên trì, bước sang sân nhà ông em chồng Kosum ngay sát bên.
Thời tiết
vào những ngày này rất đẹp, thoảng hương vị của mùa hè, sáng sủa và yên bình. Mặt
trời sau một ngày mệt mỏi đã hạ xuống, đốt đến cháy đỏ đường chân trời, hắt lên
khắp núi rừng, thung lũng một màu đỏ thắm như đống củi đang cháy. Trên bầu trời
màu xanh bạc, bị che khuất bởi vô số những đám mây tơ, hàng đàn chim nhạn vô tư
chao lượn, còn dưới mái nhà lũ chim sẻ đua nhau ríu rít. Đàn trâu bò bụng căng
tròn lười biếng tha thẩn trên đường làng Duts-Khote.
Bà
Hadizhat, dáng đi lạch bạch trên đôi chân mập, nghiêng qua nghiêng lại như con
vịt vội vàng bước vào trong sân nhà người bà con. Con chó già lông lá bù xù nằm
trên bãi cỏ ngay trên đường đi của người đàn bà, chẳng thèm ngẩng đầu lên, lười
biếng hé mắt ra, nhìn thấy một khối thịt đang chuyển động, đành phải đứng lên,
tránh đường rồi lại nằm xuống ở chân tường nhà.
Bà
Hadizhat, chẳng thèm nhìn trước nhìn sau, nặng nề ngồi phịch xuống mép hiên, thở
nặng nhọc, lấy lòng bàn tay lau chiếc cằm sệ ướt đẫm mồ hôi rồi chùi tay vào vạt
áo.
Bà Soby, vợ
ông Kosum rối rít quanh bà vợ ông anh chồng.
- Sao chị
không vào nhà mà ngồi đây? - Bà Soby nói, vẻ xun xoe.
- Không, ở
đây mát mẻ hơn. - Bà Hadizhat đáp lại bằng giọng của một người chỉ huy.
Là con dâu
trưởng của nhà Arachaev và với tính cách của mình, bà Hadizhat nghiễm nhiên là
chỉ huy của đám phụ nữ và luôn tận dụng ưu thế đó.
- Chồng cô
đâu? - Bà Hadizhat thở lấy hơi, lạnh lùng hỏi.
- Mới đi cắt
cỏ về, đang ở dưới mái hiên kia.
- Này chú
Kosum, lại đây! - Bằng một giọng năn nỉ khác hẳn, bà Hadizhat gọi. - Có chuyện
này.
- Tôi đến
đây. - Ông Kosum đáp, cố làm cho xong việc với con ngựa. - Khi anh Aldum còn sống
tôi chẳng phải bận tâm đến những chuyện này, còn bây giờ, mọi việc trút hết lên
vai tôi... Tôi chán quá rồi.
- Phải...
phải. - Bà Hadizhat buồn bã lắc đầu. - Ai có thể ngờ mọi việc lại như này cơ chứ.
Từ mái
hiên thấp lè tè lợp bằng cây sậy bị ố đen vì dãi dầu mưa nắng, ông Kosum mệt mỏi
bước lại chỗ bà chị dâu, ngồi xuống bên cạnh, thò tay vào túi quần lấy cái bao
đựng thuốc sợi ra.
- Có chuyện
gì làm chị lo lắng thế? - Ông Kosum vừa mở bịch thuốc ra vừa nhìn bà, hỏi.
Bà
Hadizhat hít một hơi dài, chờ cho đến khi bà Soby khuất sau cánh cửa mới nói:
- Khi nào
thì cái lão già ngu ngốc của tôi mới quay về, hay là ông ấy định ở luôn đấy?
Ông Kosum
không trả lời, chỉ bật cười vui vẻ. Khuôn mặt mệt mỏi đầy những vết nhăn như
dãn ra, cặp mắt nheo nheo, lóe lên.
- Chú cười
cái gì? Tất cả đàn ông nhà Arachaev đều một giuộc như nhau. Tôi không thể nào
quán xuyến hết mọi việc được, sức đâu mà kham cho nổi, còn ông ấy, đồ vô lại,
như mọi khi lại trốn đi chơi. Cả đời, ông ấy cứ nhạo báng tôi như vậy. Lang
thang khắp thế gian, giờ đã già rồi mà vẫn chưa chán. Ông ấy chôn cất cái gì ở
đấy. Ai cần đến ông ấy, cái gốc cây mục ấy? - Bà Hadizhat tuôn ra một tràng.
- Chị
không nên nói thế. - Ông Kosum mỉm cười. - Tôi nghe người ta nói, anh ấy cưới một
bà góa còn trẻ. Sống với bà ấy, quên hết chúng ta, chẳng còn biết khổ đau gì nữa.
- Ôi, ai
thèm rước ông ấy chứ. Hết thời rồi. Chỉ làm nhục cho con cái thôi. - Bà già cằn
nhằn.
Ông Kosum
châm thuốc hút, đụm khói màu lam xám bay lên như một đám mây rồi tan dần.
Ngoài đường,
một con trâu cái đang rống lên thảm thiết. Lát sau nó hồng hộc chạy vào trong
sân nhà ông Kosum, giương cặp mắt lồi quan sát khắp sân, hướng cái đầu to tướng
về phía con chó rồi chạy về phía con ngựa ô mới sinh buộc dưới mái che. Vừa lúc
ấy, con nghé con, bốn chân mảnh khảnh vui mừng nhảy đến chỗ mẹ, dịu dàng kêu
nghé ọ, nôn nóng ngọ ngoạy cái đầu. Con trâu cái to lớn chăm chú nhìn con nghé,
hít hít, liếm liếm vài lần vào mông nó, rồi bình thản cúi đầu xuống cái máng ăn
chứa đầy hạt ngô xay. Con nghé con lấy hết sức hất sợi dây thừng ra để ngậm vào
vú mẹ.
Hai con bò
sữa và con trâu cái khác cũng chạy vào sân, giương những cặp mắt đờ đẫn quan
sát mọi người rồi rống lên và tiến về khu chuồng trại.
- Esky! -
Ông Kosum gọi cậu con cả. - Ra buộc lũ gia súc lại đi.
Vừa lúc đó
bà chủ nhà cũng bước ra với hai chiếc xô để vắt sữa. Chờ cho bà Soby đi xa đến
chỗ mái che, bà Hadizhat mới nói tiếp:
- Chú
Kosum, thôi đừng tán nhảm nữa, ở nhà rất cần đến ông lão nhà tôi. Chú hãy bảo
thằng Tsanka đi gọi ông ấy về.
- Bảo nó
đi là thế nào? Đến mùa cắt cỏ rồi, ai làm.
- Chẳng có
gì ảnh hưởng đến chuyện gặt hái của chú cả. - Bà Hadizhat nhìn chằm chằm vào cậu
em chồng vẻ không hài lòng.
Kosum,
cũng như mọi người dân trong vùng, đều biết rõ kế hoạch của bà Hadizhat: cô con
gái giữa Bazali, góa chồng mấy năm trước, giờ sắp lấy chồng khác. Sắp tới, bên
thông gia sẽ đến, với nhiều khoản chi phí, quà cáp, mà tất cả đều phụ thuộc vào
uy tín của ông Baki-Haji. Giờ đây, chỉ có số phận của cô con gái, chứ chẳng phải
là sự an toàn của ông chồng làm bà Hadizhat phải bận tâm. Ông Kosum ngẫm nghĩ về
điều đó và bật cười vui vẻ.
- Thôi được
rồi, khi việc cắt cỏ xong xuôi, chắc là phải mất năm, sáu ngày, tôi sẽ bảo thằng
Tsanka đi tìm ông ấy. - Ông em chồng đành phải đồng ý vì quá biết tính khí
ngang ngạnh của bà chị dâu.
- Chú làm
sao thế, chú cũng điên như ông anh của chú hả? - Bà Hadizhat bật dậy. - Ngày
mai, ngay ngày mai phải đi ngay, nếu không tôi sẽ tự đi tìm ông ấy.
Ông Kosum
bật cười nhìn bà già la hét trong cơn tức giận. Mồ hôi lại rịn ra trên khuôn mặt
béo núc của bà. Bà vung hai cánh tay mập ú lên vỗ vỗ vào bộ ngực và cái bụng chảy
sệ của mình.
- Thôi được
rồi. - Ông em chồng xoa dịu. - Hai ngày nữa, chúng tôi sẽ cắt xong các cánh đồng
chính, khi đó sẽ tính. Gặt hái là gặt hái, cầu xin Thượng đế đừng mưa, nếu
không, cỏ sẽ thâm đen rồi thối hết. Đến mùa đông sẽ xoay xở ra sao?
- Không
sao hết. Sắp tới còn hai vụ cắt nữa. Cỏ năm ngoái chúng ta còn đầy ra, chưa biết
quẳng đi đâu. - Bà già vẫn không chịu.
- Đó là
khi anh Aldum còn sống, anh ấy tính toán rất chu đáo. Còn bây giờ, chẳng ai muốn
làm việc, kể cả tôi nữa. Nhưng Tsanka rất giống cha, chăm chỉ làm việc, làm sao
tôi cho nó đi được? - Ông Kosum lo lắng.
- Thôi,
chú em yêu quý ơi, tôi xin chú, chú hãy bảo nó đi ngay ngày mai. - Bà Hadizhat
xuống giọng năn nỉ. - Tôi xấu hổ, không dám nói với nó, nhưng phía thông gia, họ
sẽ tới, chú hiểu chứ?
Ông Kosum
ngẫm nghĩ rất lâu. Ở phía cuối sân, gần chuồng gà, lũ gà mái chuẩn bị lên chuồng.
Chúng xếp hàng trật tự, chậm rãi leo lên chuồng theo tấm ván nhỏ, còn con gà trống
oai vệ đứng ở dưới. Nó kiêu hãnh xòe rộng đôi cánh đập đập, rồi nhìn quanh, cục
cục vài tiếng gì đó rồi cũng leo lên theo lũ gà mái.
- Thôi được,
nếu việc cần như vậy, ngày mai tôi sẽ bảo nó đi.
- Ôi, cám
ơn chú, cám ơn chú em yêu quý. Chỉ còn lại mỗi mình chú là người am hiểu trong
gia đình chúng ta, còn lão ngốc nhà tôi, già rồi còn lang bạt tứ xứ. Mà lúc trẻ
cũng chẳng hơn gì, không bao giờ chịu ở nhà. Thôi, tôi đi đây, hôm nay tôi mệt
quá rồi, đầu lại đau nữa. Chú ghé nhà tôi chơi, con Bazali sẽ đãi chú món gì
đó, rất ngon.
- Tôi sẽ đến,
để sau đã. - Ông Kosum đáp theo tiếng bước chân nặng nề của bà Hadizhat.
Sáng sớm
hôm sau, Tsanka lên đường đến làng Nui-Tso để tìm ông bác. Cậu tính toán chặng
đường rất kĩ, nhưng cuối cùng vẫn quyết định đi qua cối xay nước và qua cái
hang kinh tởm kia. Mặc dù Tsanka rất sợ phải chui qua cái lỗ gớm ghiếc xuyên
qua núi, song cơ hội được nhìn thấy Kesyrt vẫn thắng thế.
Tháng trước,
vì lý do công việc, Tsanka đến cối xay nước, nhưng thật trớ trêu, hôm ấy Kesyrt
không có nhà. Bà Haza kể, có những người đàn bà nào đó từ Makhketa đến đòi nợ,
rằng họ phải gom hết những đồng bạc cuối cùng, bán cả bò sữa mới đủ thanh toán
một phần khoản nợ. Nên bây giờ cô con gái lại phải quay về với công việc buôn
bán để giải quyết cho xong mọi việc. Lúc chia tay cậu, bà già khóc thảm thiết,
than thở về số phận cô đơn, bất hạnh của con gái, cầu xin Tsanka, nếu chẳng may
bà qua đời, cậu hãy quan tâm đến con bé như tình anh em. Nghe những lời đó,
chàng trai đỏ bừng mặt, bối rối không biết giấu mắt vào đâu. Tình yêu, tình cảm
trìu mến, giờ lại thêm lòng trắc ẩn đến mức tuyệt vọng đã đánh thức trong lòng
cậu một sinh lực mới. Cậu thương nhớ Kesyrt, muốn được nhìn thấy cô, mong ước
được giúp đỡ cô bằng cách nào đó, nhưng không biết bằng cách nào.
Có lần
Tsanka đã nghĩ đến chuyện bán con ngựa cái với chú ngựa non, món quà của ông bác
Baki-Haji để lấy tiền đưa cho người yêu, nhưng lại sợ mọi người trong nhà tức
giận, và điều quan trọng nhất là Kesyrt kiêu hãnh, sau sự cố xảy ra đêm đó, có
chịu nhận sự giúp đỡ của cậu hay không.
Thấp
thoáng giữa cánh rừng rậm xa xa là hình dạng xám xịt của cối xay nước, nghe rõ
cả tiếng nước chảy ngân vang rì rào. Mấy con chó nhà bà Haza đánh hơi thấy người
liền chạy ra sủa ầm ĩ. Tsanka vội bước tới, tim như ngừng đập, các mạch máu hai
bên thái dương chảy rần rật. Nỗi xúc động của cậu không phải vì đi nhanh mà vì
khát khao muốn được gặp người yêu dấu. Cậu không biết Kesyrt có nhà hay không,
nhưng sự hồi hộp mỗi lúc một lớn dần lên theo từng bước chân.
Mấy con
chó nhận ra Tsanka từ xa nên chỉ rên ư ử vẻ biết lỗi, rồi ngoe nguẩy đuôi đi
theo cậu vào trong sân cối xay nước. Đằng sau ô cửa sổ bé xíu, tối om thấp
thoáng một bóng hình, sau đó cánh cửa bật mở, và bà Haza ngái ngủ bước ra.
- Chào
bác. - Tsanka cất tiếng chào, nụ cười méo xệch.
- Chúc
cháu mọi sự an lành và tốt đẹp. - Bà già đáp.
- Bác định
ngủ đến giờ ăn trưa à? - Tsanka quyết định đùa một chút.
- Thế những
kẻ độc thân như chúng ta biết làm gì bây giờ. Bò cái bán rồi, phải nghỉ ngơi,
ngủ nghê cho đẫy giấc chứ. - Bà Haza nói bằng một giọng đớt đớt. Thế cháu đến
đây làm gì sớm thế? Có chuyện gì à?
- Không ạ,
cháu đi đón bác cháu, tắt qua cối xay nước cho nhanh.
- Cháu định
đi qua hang một mình sao? - Bà già ngạc nhiên.
- Thì có
gì ghê gớm đâu?! - Qua cơn bối rối, Tsanka tỏ ra kiêu hãnh đáp.
Đúng lúc ấy,
từ sau cánh cửa, Kesyrt bước ra bậc thềm bằng gỗ đã sạm đen và xiêu vẹo vì mưa
nắng, chân trần, tươi tắn, hồng hào, quần áo xộc xệch và vẫn còn chưa tỉnh ngủ.
Vừa nhìn thấy Tsanka, Kesyrt khẽ mỉm cười, rồi vừa ngáp cô vừa làm ra vẻ thản
nhiên, cất tiếng:
- Chào
anh, Tsanka. Anh định đến chỗ bác Baki-Haji à? - Kesyrt thờ ơ hỏi, cứ như giữa
họ chưa từng xảy ra cái vụ cãi cọ trong lần gặp nhau gần đây nhất.
- Chào cô
Kesyrt. - Đắm đuối vì sự xuất hiện của Kesyrt, Tsanka lại tỏ ra bối rối.
Trong chiếc
áo váy giản dị bằng vải hoa, mái tóc đen lòa xòa với những lọn tóc bồng bềnh,
trông cô gái cực kỳ hấp dẫn. Người cô tỏa ra mùi chăn ấm, mùi đàn bà đang trong
thời kỳ sung mãn có thể làm cho người ta ngất ngây. Tsanka bắt gặp mình đang có
ý nghĩ, rằng nếu không có bà Haza, có thể cậu không kìm lòng được - Kesyrt có một
sự tác động mãnh liệt đối với cậu. Cặp mắt Tsanka, bất chấp sự cưỡng lại của
chính cậu, vẫn lướt trên thân thể cô gái, từ bàn chân, cho đến vóc dáng cân đối
và khuôn mặt.
Hai người
phụ nữ không còn xa lạ với những ánh mắt như thế. Kesyrt nhìn sang bên, khuôn mặt
đầy đặn của cô thoáng nụ cười mỉa, bàn tay nhẹ nhàng đưa lên gạt mớ tóc ra sau
gáy, ngửa đầu lên, để lộ ra chiếc cổ cao với vài nếp gấp nhỏ màu bánh mật và một
phần bộ ngực căng tròn.
Bà Haza
thì ngược lại, cau mặt, và khuôn mặt không lấy gì làm đẹp của bà lại càng dài
ra, đôi môi mím lại, bực bội. Bà liếc xéo cậu, vẻ không hài lòng, nhưng lại nói
với con gái:
- Con nhảy
ra đây làm gì mà cứ như ở trần thế? - Bà tức giận khẽ rít lên.
- Thế có
chuyện gì hả mẹ? Lúc nào con chẳng ăn mặc thế này, -
Kesyrt nhẹ
nhàng đáp lại, ném về phía chàng trai một cái nhìn khó hiểu như thiêu đốt, rồi
vừa đi về phía nguồn nước vừa lẩm nhẩm hát.
- Cậu có
muốn uống trà không? - Bà Haza hỏi như nhắc cho Tsanka nhớ, đã đến lúc cậu phải
tiếp tục con đường của mình.
- Không,
không ạ, cám ơn bác. - Tsanka đáp nhưng đầu óc vẫn để đâu đâu, cậu quay người,
đi về hướng núi cao.
- Chúc cậu
lên đường may mắn. - Bà Haza lạnh lùng nói.
- Cám ơn
bác ạ. - Cũng bằng một giọng như vậy, cậu đáp.
Tsanka đã
đi cách cối xay nước một đoạn khá xa, đột nhiên cậu nghe tiếng Kesyrt gọi:
- Tsanka,
Tsanka, đứng lại đã. - Cô gái bước lên bờ, hướng về phía cậu, cặp mắt phản chiếu
ánh nắng mặt trời vừa nhô lên. - Anh đi tay không à?
- Thì sao?
- Tsanka đứng lại.
- Anh phải
đi suốt cả ngày đường, đói lắm chứ.
- Không
sao đâu, càng nhẹ bụng.
- Không,
anh chờ đây, đừng quay lại. - Cô gái ra lệnh.
Như một
con nai tơ, Kesyrt, vẫn đi chân đất, nhẹ nhàng chạy ngay về nhà. Vài phút sau
cô quay lại với chiếc tay nải, khuôn mặt tươi cười rạng rỡ, vội vàng đến sát
Tsanka và chìa túi thức ăn cho cậu. Cô ấy tuyệt làm sao! Tươi tắn làm sao! Đúng
là người Tsanka mong ước!
- Trong
này có bánh mì dẹt, pho mát tươi, tỏi và một miếng thịt hun khói. - Cô nói, mắt
nhìn xuống, khuôn mặt càng ửng đỏ, hơi thở dồn dập. - Nếu tôi biết trước, tôi
đã chuẩn bị sẵn cho anh nhiều hơn. Thôi được rồi. Chúc anh thượng lộ bình an.
Anh đừng ở lâu trong hang. - Và khi Tsanka đã bước đi rồi, cô còn vừa cười vừa
nói thêm. - Cẩn thận kẻo lạc đấy.
Tsanka
không thể hạnh phúc hơn trong ngày hôm ấy. Cậu không đi mà như bay trên mây. Bữa
trưa cậu ăn với một sự ngon miệng không thể diễn tả bằng lời, rồi còn hít hà
mãi chiếc khăn bàn màu be do chính tay Kesyrt dệt, sau đó cẩn thận gấp nó lại,
nâng niu bỏ vào túi.
Mặt trời
còn khá cao khi Tsanka đến làng Nui-Tso. Ông Baki-Haji rất vui gặp lại Tsanka,
ông ôm chặt đứa cháu vào lòng, ngắm nghía, trách móc sao lâu mới đến, ông bảo,
ông đã định quay về một mình.
- Hóa ra,
khi làm khách chỉ thoải mái trong những ngày đầu, còn sau đó anh sẽ làm họ phát
ngán, còn họ sẽ... Thôi được rồi, kể đi, ở nhà thế nào?
Tsanka lần
lượt kể hết mọi việc, ngắn gọn đáp lại tất cả các câu hỏi của ông bác.
- Thế còn
chủ tịch mới? - Đột nhiên ông bác hỏi.
- Ôi! -
Tsanka ngạc nhiên. - Sao bác biết ở chỗ chúng ta có chủ tịch mới?
- Bác biết
hết. Anh ta là ai?
- Cháu chỉ
nhìn thấy có một lần. Tầm vóc trung bình, khoảng bốn mươi, tên là
Tashady-Khasanov. Họ bảo, ông ấy từ Terek đến, cùng với gia đình, có hai con,
là người có học, tướng mạo dễ coi. Cho đến giờ, ông ấy chưa sục sạo gì cả.
- Sống ở
đâu?
- Không sống
ở làng ta mà ở làng bên Khote. Họ bảo, ông ấy được bổ nhiệm làm chủ tịch ủy ban
của năm làng thuộc huyện Vashandaroi, còn trong mỗi làng có các ủy viên thư ký
là người địa phương để điều hành công việc.
Hai bác
cháu còn trò chuyện rất lâu và quyết định sáng hôm sau sẽ về. Cuối cùng ông
Baki-Haji hỏi về khẩu súng. Tsanka tỏ ra lúng túng. Sợ bị hỏi về việc này, cậu
đã nghĩ ra đủ chuyện để lấp liếm, nhưng khi bị hỏi trực diện, cậu đành phải kể
hết sự tình, kể cả việc xảy ra ở trạm kiểm soát, dĩ nhiên không đả động gì đến
vụ rắc rối với Kesyrt đêm ấy.
Sau đó ông
lão còn hỏi rất nhiều về những thùng ong, về lũ ngựa, chó. Hai bác cháu đi ngủ
muộn, trời vừa rạng đã lên đường trở về.
- Thôi được,
cháu đã đánh mất khẩu súng ta tặng, giờ chúng ta sẽ quay về mà không có súng.
Có thể như thế lại tốt hơn, hành trang sẽ nhẹ hơn. Mặc dù trong thời buổi hiện
nay, vũ khí là một người đồng chí tốt. Thôi được rồi, Thượng đế mới là người bảo
vệ chính cho chúng ta. Người thấy rõ hơn.
Họ quay về
bằng con đường cũ và cũng nghỉ ăn trưa ở đúng chỗ cũ bên con suối nhỏ. Đến lúc
đó, không kìm nổi, Tsanka lại hỏi ông Baki-Haji về con dê vàng của ông Tsakhy
đã hành hạ cậu bấy lâu nay. Ông già cười ngất, bảo đó chỉ là chuyện cổ tích, rồi
khi đã đi tiếp, ông chợt nói:
- Cháu có
nhớ bà già Bikazhu sống ở cối xay nước không? Bà phù thủy ấy sống đến một trăm
lẻ hai tuổi mới chết đấy. Người ta đồn, bà ấy là người cuối cùng nói chuyện với
lão điên Tsakhy trước khi chết. Ông ấy bảo, con dê sẽ chỉ được tìm thấy khi nguồn
nước cạn kiệt và nỗi bất hạnh khủng khiếp trút xuống mảnh đất này. Bởi vậy cháu
đừng đi tìm và đừng nghĩ đến nó nữa... Ta nghĩ, tất cả chỉ là chuyện cổ tích,
chuyện huyền thoại.
Im lặng một
lát, ông Baki-Haji lại tiếp:
- Thật
lòng mà nói, dạo còn trẻ, ta cũng mất mấy năm đi tìm nó. Họ bảo, ông tổ Arts của
chúng ta cũng bị cuốn vào chuyện này. Còn cháu, ta khuyên không nên nghĩ về nó
nữa. Tất cả chỉ là huyền thoại. Đi thôi.
Đến chiều,
sau khi đi qua cái hang mà Tsanka chẳng thích chút nào, hai bác cháu đến cối
xay nước. Kesyrt không có nhà. Bà Haza bảo, Kesyrt lại xuống chợ Makhketa.
Ông
Baki-Haji mệt mỏi ngồi xuống bậc thềm gỗ mục nát, bà Haza đứng bên cạnh, hai
người trò chuyện rất lâu. Bà Haza vung tay liên tục, kể cái gì đó, thỉnh thoảng
lại lau nước mắt. Tsanka xuống nguồn nước, đến bên cái chỗ ưa thích của Kesyrt,
rửa ráy và ngẫm nghĩ về chuyện của mình.
Đến chiều
muộn hai bác cháu mới về đến nhà. Ông Baki-Haji vừa lập cập cởi giày vừa nói
chuyện với ông em, rồi đi nằm và thiếp đi lúc nào không hay cho đến tận sáng với
giấc ngủ không ngon, thậm chí bỏ cả buổi cầu kinh tối nữa. Ông tỉnh dậy lúc rạng
đông, cầu kinh và lần tràng hạt rất lâu. Sau đó ông bước ra sân, bầu không khi
buổi sáng trong lành làm ông tỉnh hẳn. Đôi chân đau nhức do hôm qua đi nhiều, đầu
gối cũng đau.
Ông già
xem xét kĩ lưỡng nhà cửa, lúi húi rất lâu bên các thùng ong, lũ chó xúm xít
quanh ông, ngoe nguẩy đuôi, liếm láp, kêu ăng ẳng. Rồi ông lại vào nhà, nằm xuống
và thiếp đi.
Bà vợ đánh
thức ông dậy, càm ràm vẻ không hài lòng:
- Dậy đi,
lão già ngu ngốc, ông không quan tâm đến chuyện nhà nữa hay sao. Lúc thì mất
hút không biết ở đâu, còn về đến nhà là ngủ suốt ngày. Ông có biết hôm nay bên
thông gia sẽ đến không, cạo mặt đi rồi đưa tiền đây, không mua cái gì hay sao.
Thật nhục nhã.
Ông
Baki-Haji chậm chạp ngồi dậy, bước ra sân. Xung quanh, mọi người tất bật. Tất cả
phụ nữ là họ hàng và láng giềng đang quét dọn, cọ rửa, sắp đặt.
- Thế nào,
định cưới vợ cho tôi đấy à? Làm gì mà rối rít thế? - Ông Baki-Haji vui vẻ nói.
- Cứ để đấy, cô dâu mới sẽ tự dọn dẹp.
Đám đàn bà
cười mỉm, chỉ có bà Hadizhat khó chịu nhún đôi vai béo núc của mình lên.
- Lại đây,
có việc này. - Bà nói nhỏ với chồng.
- Sao bà cứ
ám tôi mãi thế? Mặt vênh lên như con gà mái ấp, làm như bà sắp lấy chồng vậy. -
Ông già châm chọc. - Hay là bà kiếm được thằng ngốc nào như tôi. Tôi sẵn sàng
trả thêm cho nó một khoản lớn đấy.
- Ôi, lão
già bị thịt. Ông đã hóa rồ lên rồi. Tất nhiên thời trẻ ông cũng không hơn gì
bây giờ. - Bà Hadizhat lên giọng. - Nếu trước kia tôi biết ông thế này, tôi chẳng
thèm lấy, chỉ làm hỏng cuộc đời.
- Phải, nếu
như không có tôi, một người đàn ông tử tế, giàu lòng thương người, thì bà sẽ ở
vậy suốt đời mà chẳng ai thèm để mắt đến. Bây giờ thì bà đã khá hơn rồi, tôi đã
phải chịu bao khổ sở để vỗ béo bà, đồ ngốc ạ. Thấy chưa, bà đã phát phì ra nhờ
đồ ăn của tôi, còn tôi phải nhịn đói nhịn khát để nuôi bà.
- Ôi, đồ
điên! Có lúc nào ông nghĩ đến tôi, suốt đời chỉ chăm chút cho bản thân, rồi
rong chơi khắp chốn. Nếu mà ông cưới một trong số những con điếm của mình, nó sẽ
hành ông cho đến chết. Chỉ có tôi mới làm cho ông nên người. Tôi không biết còn
có người nào khốn nạn như ông. Đúng là đồ đĩ đực khốn nạn. Bản thân thì như cái
móng tay, người ngợm thì loắt choắt mà khoác lác như ông tướng...
Bà
Hadizhat còn có thể kể lể nhiều chuyện nữa, nhưng vừa lúc ấy, cô con gái lớn từ
trong nhà đi ra. Cô quát cả hai người rồi kéo mẹ vào nhà. Sau đó, các cô con
gái gọi ông bố lại, hỏi tiền hồi môn, quà tặng và tiệc chiêu đãi. Đám phụ nữ
đòi rất nhiều, nhưng ông chồng đồng thời cũng là ông bố ấy hứa rất ít, viện lý
do không có tiền. Cuộc tranh cãi lại nổ ra. Giờ đây, đối tượng bị chỉ trích là
cái tính keo kiệt thâm căn cố đế của ông linh mục đối với gia đình mình và sự
hào phóng đối với đám đàn bà bên ngoài. Ba cô con gái và bà mẹ một bên, bên kia
là ông già, và như mọi khi, một vụ ầm ĩ lại nổ ra. Những tiếng la chí chóe yếu ớt
bị đứt quãng của ông Baki-Haji, xen với tiếng khóc rống lên của bà Hadizhat và
tiếng gào thét của các cô con gái vang khắp vùng. Thường thì một người đàn ông
bà con nào đó sẽ xuất hiện vào đúng lúc ấy, can ngăn mọi người. Đám phụ nữ chỉ
sợ mỗi ông Aldum quá cố, còn đối với những người khác, họ yêu cầu không được
can thiệp vào chuyện riêng của gia đình. Giờ đây ông Aldum không còn nữa, những
người đàn ông khác thì đang đi cắt cỏ nên không có ai đứng ra giải quyết vụ
xung đột. Cuối cùng, ông già, dưới sức ép của các cô con gái đành phải nhượng bộ,
móc hầu bao ra. Suốt cả ngày sau đó, nét mặt ông lúc nào cũng nhăn nhó, bực tức,
đá thúng đụng nia, làm đổ vỡ lung tung. Sau khi đã nhận được phần của mình, mẹ
con bà Hadizhat lặng lẽ dọn dẹp tất cả những gì mà ông bày ra, tỏ ra vô cùng
ngoan ngoãn và vâng lời.
Ông
Baki-Haji, sau khi đã phải chi tiền để được yên thân lại trở thành ông chủ đầy
quyền lực.
Sau bữa trưa,
đã đến lúc phải chuẩn bị mọi việc: nấu nướng, và không chỉ ở trong sân nhà ông
Baki-Haji mà cả ở nhà láng giềng nữa. Thịt bò, cừu, ngỗng, gà và gà tây, không
chỉ được phân phát từng miếng mà bằng cả cái mâm to. Khắp nơi ngào ngạt mùi gia
vị, ớt tỏi.
Theo sự thỏa
thuận từ trước, vì đôi uyên ương không phải lần đầu cưới hỏi, nên hai bên thống
nhất rước dâu ngay trong ngày hôm ấy.
Trong bộ
áo váy bằng lụa đỏ đắt tiền, bà Hadizhat trông trẻ hẳn ra, chạy loăng quăng khắp
sân. Mồ hôi túa ra thấm ướt áo thành từng vệt, vằn vện trên lưng, dưới nách và
trước ngực. Bà chỉ huy tất cả mọi người, thỉnh thoảng lại chạy đến chỗ những
chiếc rương đựng quà cưới.
- Đúng là
đồ ngốc! Ngốc quá! - Ông Baki-Haji quan sát toàn bộ cảnh tượng tất bật như điên
ấy và thầm nói với chính mình. - Nếu bà ấy mà có quyền, bà ấy sẽ giao cả ngôi
nhà và mảnh vườn này, cho đến đồng xu cuối cùng cho lũ con gái rồi tống khứ
mình đi khắp thế gian cũng nên.
Đến khuya,
cô con gái Bazali mới được gia đình chồng đưa đi. Mọi người còn ngồi ăn uống trong
sân rất lâu. Ông bố, như trước đây, chẳng hiểu con gái mình lấy ai, và mình sẽ
có quan hệ thông gia với ai. Ông chỉ hiểu một điều, bây giờ “lại phải chuẩn bị”
cho đứa tiếp theo, lại phải chia sẻ, cãi cọ với bà vợ, lại phải nghe những lời
than vãn về sự nghèo túng và ế ẩm của các cô con gái.
Trong đêm ấy,
ông Baki-Haji cho gọi Tsanka tới, kéo cậu ra một góc rồi dúi vào tay cậu một
cái gói bọc trong chiếc khăn tay, nhờ cậu sáng hôm sau mang đến cho bà Haza
nhưng tuyệt đối không được hé răng với bất cứ ai.
Tsanka chạy
ngay đến cối xay nước với hy vọng sẽ được gặp Kesyrt. Nhưng vừa nghe tiếng chó
sủa, bà Haza đã bước ra. Chẳng cần giải thích, Tsanka đưa ngay cho bà Haza cái
gói nhỏ, nhưng rồi không kìm nổi, cậu hỏi Kesyrt.
- Nó ngủ rồi.
Cháu cần gì nó? - Bà Haza vừa lạnh lùng đáp vừa tiễn vị khách đêm ra về, bàn
tay to tướng nắm chặt món quà.
Sáng hôm
sau, khi tất cả những người còn khả năng lao động của làng Duts-Khote, kể cả đàn
bà và thiếu niên đã đi hết vào thung lũng để tiến hành vụ cắt cỏ đầu tiên trong
năm, một sự cố đã xảy ra. Một đội ky binh gồm có công an và nhân viên Ban bảo vệ
chính trị quốc gia vào làng bắt ông Baki-Haji lúc ấy đang đứng bên các thùng
ong. Khi bắt ông, có mặt cả chủ tịch mới Tashady Khasanov, các công an của làng
là Bekhan Timishev, Densuar Abkaev và một người mặc thường phục là Abaev
Nutsulkhan.
Bà
Hadizhat vô vọng chạy hết từ người này đến người kia trong làng, nhờ cứu giúp
ông chồng ốm đau bệnh tật của mình, nhưng tất cả chỉ lặng thinh, nhìn ra chỗ
khác, hàm ý họ đều bất lực.
Mãi đến
trưa, ông Kosum mới biết anh trai mình đã bị bắt.
Ngay trong
buổi chiều hôm ấy, những người trong gia đình cùng với ông em họ Basnak phi ngựa
sùi cả bọt mép đến huyện lỵ Shali. Niềm hy vọng duy nhất của họ là trong ngày
hôm ấy, ông Baki-Haji chưa bị đưa đến thành phố Grozny, vẫn còn bị giam qua đêm
ở đâu đó trong Ban dân ủy nội vụ huyện Shali. Ở đây họ có bà con và bạn bè có
thế lực.
Việc đầu
tiên là anh em nhà Arachaev phi ngựa đến nhà ông Makhmaev Esamby, nguyên là đại
tá trong quân đội Sa hoàng, một người rất có thế lực và dũng cảm. Bản thân ông
Makhmaev không được chính quyền Xô viết tin cậy, cũng từng bị bắt và thẩm vấn
không chỉ một lần, tuy nhiên vị sĩ quan của chế độ Sa hoàng thoát nạn vì ông
không phải là người giàu mà là người nghèo. Mối quan hệ giữa ông với chính quyền
mới cho đến thời điểm đó là thận trọng và chờ thời.
Sau khi vắn
tắt kể lại sự việc, họ quyết định đến gặp trưởng công an huyện Shali là Shitaev
Damsi vì đây là người duy nhất có thể giúp được.
Để không
gây nên sự chú ý, họ chờ đến tối và chỉ có hai người đi bộ đến là ông Kosum và
ông Makhmaev, còn Basnak ở nhà.
Ông
Shitaev có nhà và cũng đã biết về vụ việc. Ông im lặng suy nghĩ khá lâu. Cuối
cùng, ông Kosum đề nghị sẽ bồi dưỡng một khoản tiền lớn để bày tỏ lòng biết ơn.
Sau đó, họ thống nhất, sáng mai, Shitaev sẽ cho người đến báo tin.
Khi các vị
khách vừa đi, Shitaev liền phi ngựa đến trung tâm huyện, nơi có các cơ quan
lãnh đạo. Ông ta trực tiếp đến gặp lãnh đạo Ban bảo vệ chính trị quốc gia là
Kudriavsev Venyamin Serafimovich hiện đang sống trên tầng hai của tòa nhà trước
kia thuộc về người lái buôn ở Shali tên là Magomadov nhưng đã bị xử bắn năm
1924 vì những hành động chống đối chính quyền Xô viết. Trong nhà còn có các
nhân viên công an khác. Còn văn phòng của cơ quan Ban dân ủy nội vụ, nhà giam
và trụ sở Ủy ban cách mạng huyện thì đóng trong các ngôi nhà bị tịch thu khác cạnh
đó.
Kudriavsev
mới được bổ nhiệm về Shali chưa lâu. Ông nhanh chóng kết bạn với Shitaev vì cả
hai đều thích vui vẻ và nhậu nhẹt.
Trong một
chuyến đi chơi, ông Kudriavsev thừa nhận với Shitaev rằng ông thuộc dòng họ quý
tộc và không ưa chính quyền Xô viết cũng như sự chuyên chính của nó. Nhưng ngay
hôm sau, ông ta liền chối phăng những gì đã nói, bảo rằng chẳng qua vì quá say
nên lếu láo cho vui.
Đáp lại, Shitaev
chỉ trợn mắt và bảo, mình còn say hơn và hoàn toàn chẳng nhớ gì cả, còn nếu bản
thân ông có nói năng hay làm điều gì sai trái, thì đề nghị ông kia cũng quên
đi. Nói chung, về lâu về dài, họ sẽ luôn là những người bạn đáng tin cậy và là
những người cùng chí hướng trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ chính quyền Xô viết.
Ngay trong
đêm ấy, họ lại nhậu một trận tưng bừng, ôm hôn nhau thắm thiết, nửa đêm lại
cùng nhau đến làng Gudermes vui vẻ với các phụ nữ quen của Shitaev. Sau vụ ấy,
họ thành bạn, hay làm ra vẻ như là bạn, lúc nào cũng đi chơi với nhau.
Thật ra, họ
cũng muốn che giấu điều đó, nên ngày thường trong quan hệ công việc, cả hai đều
tỏ ra lạnh nhạt, nghiêm túc, thậm chí còn cố tình làm như đối đầu nhau nữa.
Buổi tối
hôm ấy, Kudriavsev có nhà, đang ăn chiều thì Shitaev đến gõ cửa cùng với một bảo
vệ. Kudriavsev ra tiếp trưởng công an huyện với nụ cười mệt mỏi, nhẹ nhàng vỗ
vào vai rồi mời xuống phòng ăn.
Bà vợ của
Kudriavsev - một người đàn bà đẹp, mái tóc màu hạt dẻ sáng, khuôn mặt lúc nào
cũng có vẻ đăm chiêu, đượm buồn cùng với hai đứa con đang ngồi bên chiếc bàn ăn
bày biện sang trọng. Hai chiếc đèn dầu lớn soi rõ nội thất căn phòng được nhà
nước cấp.
Khi vị
khách không mời mà đến xuất hiện, bà vợ cùng hai đứa con lạnh nhạt chào hỏi, rồi
xin lỗi và rút vào trong phòng.
Khi đó,
ông Kudriavsev liền thò tay vào chiếc tủ cũ, mặt kính đã vỡ lấy ra một chai to
đã uống một nửa. Sau đó ông ta vào bếp, nghe loáng thoáng tiếng hai vợ chồng cằn
nhằn với nhau về chuyện gì đó. Lát sau, Kudriavsev đi ra với chiếc chảo gang nhỏ
có mấy miếng thịt cừu rán với hành.
Cả hai
hăng hái và thích thú nâng ly đầu tiên, rồi sau khi nhắm một miếng, nâng tiếp
ly thứ hai. Sau đó, họ uống bằng những chiếc cốc nhiều cạnh, nhắm với bánh mì
chấm nước mỡ trong chảo và “chữa lửa” bằng nước ép trái dâu tây tươi.
Sau khi đã
uống kha khá, Shitaev bắt đầu vào việc. Cả hai đều rất tỉnh táo khi đề cập đến
những việc quan trọng. Họ thì thầm tranh luận, thậm chí chửi thề nữa. Cuối
cùng, sau khi đã thỏa thuận được với nhau, cả hai nâng cốc chúc mừng như thường
lệ.
Sáng hôm
sau, người đưa tin là Alkha Shitaev - em trai của Damsi Shitaev, đến gặp
Makhmaev. Anh ta nhắn lại, rằng họ sẽ làm hết khả năng, nhưng cần phải trả gấp
đôi.
Ngay trong
buổi sáng hôm ấy, Kudriavsev cùng với hai trợ lý tiến hành hỏi cung, nói cho
đúng hơn là một cuộc nói chuyện nhằm tìm hiểu một số vấn đề với ông Baki-Haji.
Họ yêu cầu
ông Baki-Haji không chỉ trung thành, ủng hộ chính quyền Xô viết mà còn phải cộng
tác bằng cách tố giác người khác.
Kudriavsev
hỏi đi hỏi lại:
- Hiện giờ,
theo như người ta nói, ông không còn hoạt động tôn giáo nữa, đúng không? Cuối
cùng thì ông cũng thừa hiểu, những điều không tưởng vô nghĩa ấy có hại và lừa bịp
thế nào chứ?
Ông
Baki-Haji không rành tiếng Nga lắm, nhưng những ý chính thì ông vẫn hiểu, ông vội
vàng gật liên tục cái đầu với nước da vàng bệch, mái tóc bù xù vì bệnh tật của
mình và nói như máy: “Vâng, vâng, vâng. Đúng thế, đúng như ông nói”.
Sau đó,
khi đến lúc cần phải nói “không”, ông vẫn bối rối tiếp tục: “vâng, vâng”.
- Ông lảm
nhảm cái gì thế? - Kudriavsev hét lên.
Ông
Baki-Haji liền im bặt, thoạt đầu không hiểu người ta muốn gì ở mình, sau đó
cũng hiểu ra.
- Dĩ nhiên
rồi, không! Không ạ! Đúng như ông nói, đúng như thế. Chẳng qua, tôi không hiểu
rõ. - Ông Baki-Haji khẽ nói bằng một giọng the thé trung thành như con chó già
nhìn người chỉ huy bằng cặp mắt trắng dã vì bất lực và sợ hãi.
Sau đó,
ông run rẩy ký vào tờ giấy gì đó.
Đến chiều
thì ông được thả ra.
Một ngày
sau khi ông Baki-Haji được thả, Tsanka cùng với cậu bạn Zukaev Kurto của mình
và Esky, con trai trưởng ông Kosum, lùa bốn mươi con cừu đã được tuyển lựa kĩ
ra chợ Makhketa. Đó là số tiền chuộc.
* * *
Khoảng thời
gian từ ngày 25 tháng Tám cho đến ngày 11 tháng Chín năm 1925, lần đầu tiên, một
chiến dịch với quy mô lớn được tiến hành nhằm chinh phục Chechnya.
Một số sư
đoàn hỗn hợp dưới sự chỉ huy của tướng I.R.Apanasenko tiến vào nước cộng hòa
Chechnya nhỏ bé.
Đầu tiên
là những cuộc ném bom vào mười sáu điểm dân cư, hơn một trăm điểm khác bị pháo
kích, đốt cháy 119 ngôi nhà của “các nhóm thổ phỉ”, tịch thu 426 ngôi nhà của
“tầng lớp phú nông và tăng lữ”.
Tịch thu
25 ngàn khẩu súng trường và súng ngắn trong dân chúng.
* * *
Con đường
hiểm trở từ các bãi chăn thả trên dãy núi Alpes đến chợ Makhketa, các chàng
trai phải đi gần ba ngày. Đàn cừu nhỏ ngu ngốc không muốn đi trên những con đường
lạ. Đến trưa, vì quá nóng bức, chúng không muốn đi nữa, túm tụm lại thành từng
nhóm, thở khò khè trong làn bụi mù mịt, thậm chí đàn chó áp giải cũng không thể
làm chúng sợ và nhúc nhích khỏi chỗ nữa.
Sau một
ngày đường, sự lãng mạn của chuyến đi đã biến mất nhường chỗ cho những cuộc
tranh cãi, thậm chí chửi rủa nữa. Sau một cuộc cãi nhau, Esky cho rằng, cậu
không đáng bị xúc phạm, bèn bỏ về.
Chỉ còn lại
hai người, Tsanka và cậu bạn Kurto tiếp tục lùa đàn cừu đi. Suốt chặng đường
còn lại, cả hai đều im lặng, vừa mệt vừa đói, cảm thấy khó chịu, chán ngán với
công việc được giao.
Họ đến chợ
Makhketa vào lúc xế chiều. Mặc dù việc buôn bán ở chợ đã kết thúc sau bữa trưa,
nhưng chợ vẫn còn đông. Khắp nơi vẫn còn vô số xe cộ, trâu, bò, ngựa, cừu, dê.
Nằm la liệt dưới đất là những chú gà, ngỗng, gà tây, chân cẳng bị buộc túm, mỏ
há hốc, thở nặng nhọc. Lũ chó hoang lang thang kiếm ăn. Có một sự bất an nào đó
bao trùm khắp khu chợ, dân chúng chạy ngược chạy xuôi, la hét ầm ĩ, hốt hoảng.
Hai, ba
ngày trước, từ thành phố Grozny lan đến cái tin, những người Bolsevich sẽ bao
vây tất cả ba chợ của thành phố, bắt những người buôn bán, tịch thu toàn bộ tài
sản, hàng hóa. Bắt đầu xuất hiện một cụm từ mới đáng sợ “kẻ đầu cơ” - đó là các
thương gia, hay nói cho đúng hơn là kẻ thù của nhân dân lao động.
Chính quyền
thông báo, chỉ có các cửa hàng nhà nước và các cơ sở phân phối hàng tiêu dùng mới
được phép buôn bán.
Thay cho
các chợ truyền thống sẽ có các chợ của nông trang tập thể, ở đó chỉ có các nông
trang mới được phép buôn bán thông qua người đại diện hợp pháp của mình. Toàn bộ
giá cả các mặt hàng sẽ được nhà nước quy định cụ thể. Tất cả các sản phẩm nông
nghiệp dư thừa sẽ được các tổ chức chuyên thu mua lương thực, thực phẩm, gia
súc, gia cầm của nhà nước đứng ra thu mua. Ở mỗi huyện sẽ có một điểm thu mua
như vậy. Bảng giá thu mua đã được soạn thảo và phổ biến đến tận khu dân cư. Giá
thu mua thấp đến mức sỉ nhục. Ngoài ra, thay vì trả tiền cho những mặt hàng thu
mua, người dân sẽ được nhận trái phiếu rất có giá trị với thời hạn thanh toán
trong thời gian sớm nhất là mười, mười lăm năm.
Với những
thông tin đó, dân chúng bị cú sốc nặng, thậm chí hoảng loạn. Mọi việc mua bán,
trao đổi đều bị cấm.
Tsanka và
Kurto lùa đàn cừu đến bên dưới gốc cây lê, người ngợm bẩn thỉu, vừa mệt vừa
đói, ngồi bệt xuống đất, không biết phải làm gì. Đến chiều tối, hai đứa thay
nhau xuống sông Bass tắm, nhưng tắm xong lại càng đói. Trong túi Tsanka chỉ còn
lại mấy đồng xu lẻ, và thay vì mua đồ ăn, cậu lại đi mua thuốc lá sợi. Hai
chàng trai đốt thuốc liên tục và càng cảm thấy khó chịu, ho sặc sụa đến nghẹt
thở, lưỡi đắng nghét, bụng sôi sùng sục. Khi đó, mặc dù vừa sợ vừa lo, nhưng
Tsanka đành phải tuyệt vọng đánh liều làm thịt một con cừu non mập mạp.
- Thôi được,
cậu đừng lo. - Người bạn động viên. - Ông bác của cậu giàu lắm, còn chúng ta
đang phải chết đói ở đây. Cậu thấy đấy, ngay cả lũ chó của ông Baki-Haji cũng
phải rên ư ử. Mà cậu biết rõ hơn mình, ông linh mục yêu quý lũ chó hơn bất cứ
ai. Bí quá chúng ta sẽ bảo, con cừu bị gãy chân trên đường đi hay là bị chó sói
ăn thịt.
- Mặc xác
ông ấy. - Tsanka vặc lại, tay vẫn lột da tảng thịt. - Chẳng việc gì phải thanh
minh hay nói láo. Mình sẽ nói thẳng là mình ăn. Nếu ông ấy không hài lòng, thì
quay lại chỗ cũ mà ngồi. Tớ cần quái gì cái chợ với lũ cừu này. Đấy, các cô con
gái của ông ấy, ăn diện như tiểu thư, quần áo chỉ mặc đến lần thứ hai là bỏ,
còn mình thì nhếch nhác như súc vật, có mỗi chiếc quần rách, mà cũng là mặc thừa
của cha mình.
- Phải, mọi
của cải giàu sang, cha cậu đã dồn hết cho ông Baki-Haji rồi. - Kurto nói. - Sau
khi cha cậu qua đời, gia đình cậu thành nghèo khổ, còn các cô con gái ông linh
mục, nói cho đúng hơn là những thằng chồng của họ thì hóa rồ lên vì tiền của. Đấy,
công sức lao động của chúng ta đổ vào đâu!
- Thôi được
rồi, chuyện ấy sẽ giải quyết sau. - Tsanka bực bội lẩm bẩm. - Tốt hơn là cậu
hãy đốt lửa lên.
Sau khi
ném cho lũ chó phần đầu, chân và nội tạng con cừu, việc đầu tiên hai chàng trai
làm ngay là nướng bộ gan cừu trên than hồng. Họ nhồm nhoàm ăn ngay miếng phủ tạng
tươi rói, gần như vẫn còn máu, chẳng cần muối, mặt mũi và hai tay nhọ nhem.
Dần dần,
người làng Duts-Khote đang buôn bán ngoài chợ bắt đầu tụ tập lại bên đống lửa,
hy vọng về một sự no nê. Chẳng mấy chốc người ta tìm được một chiếc chảo, chiếc
rìu nhỏ, muối và cả một chai rượu nữa.
Mọi người
nhanh chóng chén hết con cừu, uống hết nước xúp béo ngậy. Sau khi ăn xong, hăng
hái vì có chút men, mọi người bắt đầu bàn luận mọi chuyện trên trời dưới đất,
cười đùa la hét, thậm chí còn nhảy nhót nữa. Đến nửa đêm, vừa mệt vừa buồn ngủ
và no say, họ nằm lăn bên đống lửa, tất cả đều chỉ nghĩ đến ngày mai.
- Người ta
đồn, ngày mai sẽ có một trung đoàn được điều động đến Shali. Kiểm tra tất cả
nhà cửa, thống kê toàn bộ tài sản, đất đai, thậm chí đếm từng con gà.
- Phải, cuộc
sống với những tên khốn ấy sẽ chẳng ra làm sao. Đấy, ở chợ Grozny, người ta bắt
và tịch thu hết, muốn làm gì là làm.
- Những
người bị bắt vẫn chưa được thả ra đâu. Chỉ riêng đàn bà là không bị đụng đến.
- Người
làng ta có ai bị bắt không? - Tsanka vừa ngẫm nghĩ vừa chen vào câu chuyện.
- Người
làng ta không có ai ở đó cả.
- Không có
ai là thế nào, còn cô Kesyrt?
- Hôm ấy
Kesyrt ở nhà. Hôm nay cô ấy mới từ cối xay nước đến đây. Tôi nhìn thấy cô ấy,
cô ấy bảo mẹ ốm nên phải ở nhà chăm sóc mẹ. Nhờ vậy mà cô ấy không bị làm sao.
Người ta đồn, những kẻ vô thần ấy thường hay quấy nhiễu các cô gái trẻ đẹp.
- Phải,
cái con chó cái Kesyrt ấy đẹp thật! Tôi sẵn sàng mất nửa đời người để được ngủ
với cô ta một đêm.
- Thế mà
cũng đòi mơ ước, đồ ngốc.
- Vì
Kesyrt chưa lấy chồng nên bọn đàn ông cứ chạy theo cô ấy như ngựa đực bám theo
ngựa cái.
- Cô ấy
làm thế là đúng đấy. Bọn họ chạy theo, đề nghị làm vợ hai, vợ ba, đẻ thêm năm,
sáu đứa con trai nữa. Cô ấy còn trẻ, lại không ngu ngốc, sẽ tìm được hạnh phúc
của mình.
- Tìm cái
gì cơ chứ, chẳng qua là chơi bời vậy thôi. Gái góa, có mất gì đâu.
- Đừng nói
bậy. Cô ấy là một phụ nữ tử tế. Người ta bảo, con ruồi cũng không đậu được vào
người cô ấy. Suốt ngày chỉ ăn, ngủ, giao du với các bà già thôi.
- Thôi được
rồi, làm như cái gì cũng biết vậy. Tất cả phụ nữ đều là rác rưởi, cô ấy xếp đầu
bảng.
- Nếu anh
là người can đảm, hãy đến nói thẳng vào mặt cô ấy đi. Có nhớ, dạo lễ hội mùa
đông, cô ấy đã suýt cắt cổ thằng cha Sharpudin Tsintsiev, may là dân chúng kịp
thời can ngăn. Còn anh, vì câu ấy có thể bị cắt cụt lưỡi và vài thứ khác nữa đấy.
Mọi người
cười ồ lên, chỉ có mình Tsanka là vẫn ngồi trầm ngâm, buồn rầu nhìn vào đống lửa
sắp tàn.
- Quỷ tha
ma bắt cô ta đi cho rồi. Đàn gà của tôi đang thoi thóp mà tôi không biết phải
làm gì đây. Có thể sáng mai tôi phải về thôi, đằng nào thì chuyện buôn bán cũng
không thành, mà cũng chẳng có gì để đổi chác cả. Người ta có chở cái gì từ
thành phố đến đâu.
- Ngủ
thôi. Sáng mai Thượng đế sẽ phù hộ, chắc vậy. Còn cậu, Tsanka, cám ơn cậu và
ông bác của cậu vì bữa ăn no nê. Thượng đế sẽ coi đó như là một việc cúng tế.
- Tôi cũng
xin cám ơn bà con đồng hương. Chúc mọi người ngủ ngon.
Đêm khuya,
sau khi đã lót dưới đất tấm da cừu vừa giết thịt, hai chàng trai thay phiên
nhau ngủ. Trước lúc rạng đông, cả hai nhổ toẹt vào lũ cừu, chen nhau trên tấm
da rồi thiếp đi.
Khi họ tỉnh
dậy thì mặt trời đã lên khá cao, tiết trời oi bức. Sau giấc ngủ, hai chàng trai
và lũ chó no nê phải tản đi bốn phía.
Người ngợm
vẫn còn mệt mỏi và đau nhức vì nằm trên đất cứng và cũng chưa tỉnh hẳn, nhưng
Tsanka và Kurto cùng với lũ chó phải bổ nhào đi tìm đàn cừu, vừa đi vừa nguyền
rủa cả thế gian và lũ cừu ngu ngốc. Thật may là đàn cừu đang chen nhau gặm cỏ gần
đấy.
Dân chúng
nghỉ đêm tại chợ, bắt đầu ra sông để giải quyết các nhu cầu và rửa ráy rồi quay
lại. Đàn ông, phần lớn đi riêng lẻ, còn đàn bà đi theo từng nhóm. Đàn ông đi thẳng
xuống sông ngay bên chợ, còn đàn bà đi xa lên phía trên, ở đó có những bụi dẻ rừng,
kim anh tử và mận gai rậm rạp.
Từ làng
Makhketa, một đoàn đại biểu dân địa phương đổ ra chợ. Họ yêu cầu, buổi tối tất
cả mọi người phải về nhà, than phiền dân đi chợ cùng với lũ gia súc đã làm ô
nhiễm khắp vùng, nước sông nồng nặc mùi xú uế. Thế là nổ ra cuộc cãi vã. Bị chống
đối kịch liệt, dân làng Makhketa đành phải bỏ đi, nhưng dọa sẽ kiện lên chính
quyền, rồi tất cả sẽ bị bắt như ở Grozny.
May cho
hai chàng trai, vào đúng lúc ấy, ông Kosum cùng với cậu con trai Esky cũng vừa
đi xe ngựa tới. Họ mang theo rất nhiều đồ ăn. Tsanka báo cáo ngắn gọn tình
hình, cuối cùng bối rối thú nhận vì đói quá nên đã ăn mất một con cừu.
- Cháu làm
thế là đúng. - Ông chú mỉm cười đáp lại. Sau đó, ông giơ tay ra hiệu cho cháu
và con trai ra một góc. - Chúng mày có khi nào nghe thấy những người trong dòng
họ Arachaev cãi nhau không? - Ông nói nhỏ bằng một giọng không hài lòng. -
Không. Và sẽ không bao giờ. Vậy mà chúng mày, chưa kịp nứt mắt, thế mà đã vội
lên giọng phệnh phạo. Dân chúng sẽ nghĩ sao về chúng ta? Đầu tiên là thằng bạn
Kurto của mày... Thật là nhục nhã! Xấu hổ! Đừng bao giờ để xảy ra như vậy nữa.
Nhà ta ít người, vậy mà cũng không biết sống hòa thuận, tử tế với nhau. Bây giờ
hãy nhớ đây, nhớ suốt đời, phải sống với nhau như anh em. Còn mày, đồ quái
thai, - Ông chỉ tay vào cậu con trai. - Mày phải im mồm, ngay cả khi Tsanka bổ
củi vào đầu mày. Hiểu chưa?
Esky lúc lắc
cái đầu đang cúi gục.
- Đừng bao
giờ để tao phải nghe thấy lần nữa, - ông Kosum tiếp tục nói to bằng một giọng
đã bình tĩnh hơn. - Chúng mày là anh em, ngoài chúng mày ra, chẳng còn ai nữa.
Rồi ông
không nói không rằng tiến lại gần Tsanka, sờ nắn túi quần cậu và lôi ra bọc thuốc
lá sợi bốc mùi nồng nặc.
- Một lần
nữa tao mà nhìn thấy thứ này, tao sẽ vặt tai. Hiểu chưa? - Ông nói với Tsanka.
- Không phải
của cháu. - Tsanka lí nhí.
- Của ai
không quan trọng. Phải làm gương cho các em chứ? Thôi được rồi, hai đứa ăn đi,
ta vào chợ xem thế nào. - Nói xong, ông hòa ngay vào giữa dòng người, trong khi
hình bóng của ông còn chưa khuất hẳn thì một đụn khói màu lam đã treo lơ lửng
ngay trên đầu ông.
Hơn một giờ
liền, ông Kosum lang thang khắp các lều quán mới quay về, mồ hôi ướt đầm, mệt mỏi,
vẻ mặt bối rối, bộ ria màu hung đã điểm bạc vểnh lên, hốc mắt như lõm xuống.
- Phải,
đang xảy ra một điều gì đó thật kinh khủng! - Ông nói, mắt nhìn xuống như đang
ngắm nghía đôi ủng bốc-can đắt tiền, dính đầy bụi của mình. - Không biết cái
đám khốn nạn ấy muốn làm gì với chúng ta đây? Chẳng còn lương tâm gì nữa. Không
để cho ai được sống... Người ta đã không kịp bắn hết lũ khốn kiếp ấy, bây giờ
đành phải sống dưới gót giày của chúng. Sự việc là thế đấy... Thật khủng khiếp.
Ông Kosum
còn ngồi rất lâu, suy nghĩ về điều gì đó, đầu lắc lắc.
- Thôi được,
dẫu sao thì chúng ta cũng đã hết thời rồi, nhưng còn các con, sẽ ra sao? - Ông
Kosum nhìn đám trẻ, tiếp tục. - Hy vọng Thượng đế sẽ thương chúng ta. Và cũng
có thể những kẻ quái thai kia sẽ tỉnh ngộ ra.
Đến trưa,
thời tiết càng trở nên oi bức. Lũ ruồi lì lợm không để cho người và gia súc được
yên. Mệt mỏi vì nóng nực và chờ đợi căng thẳng, dân chúng chậm chạp rời khỏi
bãi chợ tìm chỗ trú nắng dưới bóng cây và bên bờ sông. Hoạt động buôn bán ế ẩm.
Mọi người đều lo âu chờ tin từ Shali và Grozny.
- Rõ ràng
là ở đây không có việc gì làm nữa. Chẳng ai thèm quan tâm đến đàn cừu của chúng
ta. - Đột nhiên ông Kosum lên tiếng. - Nhưng để bác Baki-Haji khỏi trách mắng,
Tsanka và Esky sẽ ở lại đến trưa mai, biết đâu, sẽ gặp may. Còn ta và Kurto sẽ
về, mẹ nó đang lo, bà ấy đã đến gặp ta hai lần để hỏi thăm tình hình. Đến chiều,
khi trời mát, hai đứa phải lùa đàn cừu đi ăn, rồi uống nước, nếu không chúng sẽ
chết đói mất. Nếu sáng mai không có gì thay đổi, hai đứa quay về. Hiện giờ, ở
đây người ta có buôn bán gì nữa đâu.
Khi chiếc
xe chở ông chú Kosum vừa khuất dạng, Tsanka liền bật dậy.
- Này
Esky, em ở lại trông đàn cừu, anh đi quanh xem có ai mua không. - Vừa nói,
Tsanka vừa ngắm nghía lại bộ dạng của mình.
Việc đầu
tiên, Tsanka không đi ngay vào chợ mà đi về hướng bờ sông.
Cậu rửa
ráy khá kĩ, lau chùi cẩn thận đôi giày da mềm cũ rích, mòn vẹt, lấy tay vốc nước
gột những vết bẩn trên quần áo, chẳng mảy may nghĩ về lũ cừu, mà chỉ nghĩ về cuộc
gặp với người đẹp làm cậu mất ăn mất ngủ. Tsanka không hề hé răng với ai về
tình cảm của mình, kể cả với bạn thân. Từ nơi sâu thẳm của tâm hồn, cậu dự kiến
những kế hoạch táo bạo khác nhau, kể cả phương án cùng với Kesyrt bỏ xứ đến bất
cứ nơi nào, miễn là luôn ở bên người đẹp.
Đúng giữa
trưa, Tsanka có mặt bên các sạp hàng. Hàng hóa ế ẩm chất đống trông như sụm xuống.
Mọi người đang bàn luận về chuyện gì đó. Chẳng ai mua bán gì cả, thậm chí người
đi lại giữa các sạp cũng thưa thớt. Những mặt hàng mau hỏng đã bốc mùi thối rữa.
Từ tháp
giáo đường Hồi giáo làng Makhketa vọng lại lời ông linh mục nhắc đã đến buổi cầu
kinh trưa, xen lẫn với tiếng gà gáy, tiếng bò rống thảm thiết đâu đây, tiếng
đàn bà tranh cãi, la hét ầm ĩ. Một người đàn ông nằm vật bên hàng rào, miệng há
hốc, trông như vừa bị một trận đòn, bị trấn lột, lũ nhặng xanh béo múp đã bắt đầu
bu trên người. Cảnh vật bẩn thỉu, nóng nực và bụi bặm.
- Tsanka.
- Một giọng đàn bà vang lên.
Cậu quay lại
và nhìn thấy một bà già quen.
- Lại đây,
Tsanka, lại đây, mua cho bà thứ gì đi, bốn ngày nay ta chẳng bán được cái gì cả.
Cháu làm gì ở đây thế? - Bà già lắm lời tuôn ra một tràng, lấy tay che ánh nắng
mặt trời, nhìn Tsanka từ đầu đến chân.
- Chào bà.
- Tsanka đáp, mắt không nhìn về phía bà già mà lướt qua các sạp hàng, - Chúc bà
mua rẻ bán đắt.
- Mua bán
gì ở đây nữa! Chỉ có lỗ sạt nghiệp. May mà mọi người đều thế. Nỗi khổ chung,
cũng giống như lễ hội chung vậy thôi. Còn cháu, chắc là tìm Kesyrt phải không?
Bị hỏi bất
ngờ, Tsanka giật mình, nhìn chằm chằm vào bà già.
- Con bé
ngồi ở cuối dãy hàng này, dưới mái che ấy. Đến đấy mà tìm. - Bà già mỉm cười tiếp
tục nói với chàng trai đang ngơ ngác.
Tsanka định
nói một câu gì đó đáp lễ và đi sang hướng khác, nhưng cậu chẳng nói được gì cả,
còn đôi chân cứ tự đi về hướng bà già chỉ, bất chấp sự phản kháng của lý trí.
Không hiểu sao, cậu cảm thấy càng nóng nực hơn, cậu ngẩng đầu lên, rảo bước, muốn
nhanh chóng nhìn thấy người mình yêu dấu, đồng thời lại cảm thấy một nỗi lo
không rõ nguyên cớ, cậu cố kìm lại, chân tay run rẩy. Không hiểu sao, Tsanka lại
cho rằng số phận và cuộc đời cậu sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào cuộc gặp này, cuộc
nói chuyện này. Cuộc đời cậu chính là Kesyrt. Chỉ có với cô ấy, duy nhất một
mình cô ấy, bên cô ấy mãi mãi là có ý nghĩa... Còn tất cả những điều khác chỉ
là chuyện vớ vẩn, tầm thường, chỉ là cảnh lăng xăng vô bổ, mất thời gian vô
ích...
Kesyrt là
người nhận ra trước vóc dáng cao kều của Tsanka, thấy cậu chạy nhớn nhác, cặp mắt
đảo lia lịa, nheo nheo vì ánh nắng mặt trời. Kesyrt bất giác mỉm cười, vội lấy
khăn tay lau mồ hôi trên mặt, sửa lại mái tóc dưới tấm khăn choàng, chụm lại
đôi chân trong chiếc áo váy rộng đang khuỳnh ra vì nóng nực, ngồi thẳng người
lên, làm vẻ mặt kênh kiệu.
Kesyrt vô
cùng ngạc nhiên khi thấy Tsanka đưa mắt lướt nhanh về phía cô rồi đi qua.
Kesyrt còn mỉm cười trong vài giây nữa, nhưng ngay sau đó, khuôn mặt cô bỗng tỏ
ra bối rối, thậm chí lo lắng nữa. Trong lúc đó, Tsanka vẫn đi, mỗi lúc một xa dần.
Kesyrt không kìm được, dẫu biết mình đang hành động sai lầm, nhưng cô vẫn cứ
hét lên “Tsanka!”.
Tsanka dừng
ngay lập tức, quay đầu lại, nụ cười ngượng ngùng như in trên khuôn mặt. Cậu cố
làm ra vẻ dửng dưng, chậm rãi tiến về phía Kesyrt. Hàng chục cặp mắt, cho đến
lúc đó đang buồn chán liền đổ dồn về phía họ.
Tsanka tiến
sát đến sạp hàng của Kesyrt, khẽ cất tiếng chào. Kesyrt đứng lên, cũng khẽ chào
lại. Tsanka sợ nhìn thẳng vào mắt Kesyrt, cậu không muốn người ngoài nhìn thấy
niềm vui sướng và nỗi xúc động của cậu. Khuôn mặt cậu tái nhợt và nghiêm nghị,
mồ hôi ròng ròng hai bên thái dương và trên cổ. Còn Kesyrt thì ngược lại, mỉm
cười thích thú, đôi mắt ướt toát lên sự tinh nghịch, thậm chí điệu đàng nữa.
Họ cứ đứng
lặng đi như thế. Khoảnh khắc tạm ngừng này có vẻ như không được tự nhiên và gò
bó với cả hai. Chỉ cần một chút nữa là các bà buôn vô công rồi nghề và đang buồn
chán sẽ rút ra những kết luận bất ngờ.
- Anh lại
đây. Ngồi nghỉ chút đã. Chỗ này có mái che, mát hơn. - Cuối cùng, Kesyrt bật
ra.
Tsanka thở
phào nhẹ nhõm, chỉ dám nhìn xuống chân mình, đi vòng qua sạp hàng, đến gần
Kesyrt và ngồi xuống chỗ cô chỉ ngay bên cạnh, trên chiếc bao đựng ngô đã lép kẹp.
Chưa kịp
yên vị, Kesyrt đã ném cho Tsanka cả đống câu hỏi về làng xóm, về bà con họ
hàng, về đàn cừu của cậu và cả về thời tiết oi bức nữa. Chuyện công việc của
người khác và chuyện cừu ngựa chẳng làm ai bận tâm, bởi vậy mà những ánh mắt tò
mò xung quanh cũng tắt ngay, hướng ra phía khác.
Vừa nhát gừng
trả lời những câu hỏi vô nghĩa của Kesyrt, Tsanka vừa dần dần bình tâm trở lại.
Khi đã can đảm hơn một chút, cậu liếc nhìn khuôn mặt Kesyrt đang trong thời kỳ
sung mãn bằng ánh mắt dịu dàng, đắm đuối. Bất ngờ ngay với chính mình, Tsanka
phát hiện ra khuôn mặt trái xoan của Kesyrt giờ trông có vẻ nghiêm nghị, hai gò
má hơi cao một chút. Đôi mắt to màu đen hơi xếch với hàng mi dày toát lên niềm
vui sống. Một chút lông măng phủ trên đôi môi mọng, hồng hồng, có vẻ đỏng đảnh.
Kesyrt
cũng liếc xéo về phía Tsanka một cái, rồi vội vàng ngoảnh đi, rồi lại nhìn lại.
Một bên lông mày cong như mỏ đại bàng của cô hơi nhô cao một chút. Kesyrt khẽ
nghiêng người về phía Tsanka.
- Đừng
nhìn tôi bằng cặp mắt xanh trơ tráo như vậy. - Cô mỉm cười nói, hai lúm đồng tiền
nhỏ hiện lên trên đôi má đỏ thắm.
Ngay lập tức
Tsanka nhìn xuống đất.
- Anh lùa
đến đây bao nhiêu con cừu? - Kesyrt bất ngờ đổi đề tài.
- Bốn
mươi, hôm qua ăn mất một con rồi. - Tsanka vẫn không ngẩng đầu lên, đáp.
- Tôi nghe
người ta nói rồi. Lẽ ra anh cũng nên đãi tôi nữa chứ.
- Tôi
không biết cô ở đây.
- Nhưng
anh có đi tìm đâu. - Kesyrt bật cười.
- Tôi chẳng
còn tâm trí đâu mà nghĩ đến chuyện ấy.
- Đấy, thấy
chưa, mọi việc phải bắt đầu từ đây. Đây mới chính là bản chất con người anh. -
Kesyrt lại cười.
- Nhưng
tôi.. tôi... - Tsanka định nói gì đấy, nhưng không thốt thành lời, mọi ý nghĩ của
cậu cứ rối loạn cả lên.
Kesyrt lại
càng cười to hơn:
- Miệng
nói toàn những chuyện... cao siêu... rằng mình thế này, thế nọ, nhưng bản chất
lại rất thấp kém. Anh chẳng thèm quan tâm đến tôi, chẳng thèm biết tôi đang gặp
chuyện gì. Có khi tôi đang chết đói cũng nên, hay là ai đó đang xúc phạm tôi,
hay là... Thế mà anh, vừa ra đến chợ, liền vật con cừu ra đánh chén với bọn đàn
ông, lại còn nhậu nhẹt nữa...
Tsanka
hoàn toàn bị đánh gục, đầu cúi xuống, xị mặt, mắt dán xuống đất, không biết phải
đáp lại thế nào.
- Thôi, với
anh thế là đủ rồi. - Kesyrt đập tay lên vai Tsanka. - Anh tự ái thật đấy à?
Không biết đùa sao.
Tsanka vẫn
ngồi gục đầu. Một khoảng thời gian tạm ngưng... Kesyrt cũng trầm ngâm, thở dài
và nói khẽ bằng một giọng hoàn toàn nghiêm túc.
- Anh biết
không, Tsanka, tôi rất biết ơn anh! Tôi xin cám ơn anh! Cầu chúc anh hạnh phúc!
Tôi sẽ cầu nguyện cho anh vào mỗi buổi cầu kinh. Nếu không có số tiền mà anh
mang đến, tôi chẳng biết phải xoay xở ra sao nữa. Anh không biết hết mọi chuyện...
Đó là món nợ... món nợ nặng nề nhất.
- Nhưng
tôi có liên quan gì đâu. - Tsanka ngắt lời. - Không phải tôi mà chính bác
Baki-Haji đã giúp.
- Tôi biết.
Nhưng mọi việc đều do anh thực hiện. Cám ơn anh!
Giờ đây
Kesyrt lại thu mình lại, ôm đầu gối, nhìn xuống chân, giọng nói nhỏ nhẹ, buồn
bã, ai oán:
- Anh
không thể hình dung nổi, những ngày tháng qua tôi khổ thế nào. Các chủ nợ kêu
réo hành hạ. Những người khác, nợ cả năm cũng chẳng sao, nhưng với chúng tôi, họ
cứ ngồi lỳ ở sân. Họ biết, chúng tôi đang trong giai đoạn khó khăn, nên tất cả
đều xúm vào đòi, không để chúng tôi yên. Chúng tôi đã phải bán đến con bò sữa
cuối cùng. Mẹ tôi, suốt đời tích cóp được ít tiền đề phòng lúc nhắm mắt xuôi
tay, cũng phải giao hết... Biết làm sao được... Anh không thể hình dung nổi
đâu. Chẳng ai giúp, cũng chẳng biết vay mượn của ai. Mẹ tôi tức giận, la hét, một
mình... với nỗi đau... Chắc là anh sẽ không tin, nhiều lần tôi định tự tử,
nhưng đến phút cuối, tôi thấy thương mẹ. Tôi không thể giết mẹ tàn nhẫn như vậy
được. Rồi đột nhiên... cám ơn anh, Tsanka. Suốt đời tôi sẽ không bao giờ
quên... Tôi là kẻ cô đơn, bất hạnh, và anh đã giúp tôi như với một người ruột
thịt... Cám ơn anh!
Kesyrt khẽ
nấc lên, cả người run rẩy, càng cúi thấp đầu xuống, lấy tay che mặt.
Tsanka ngẩng
đầu lên, nhìn quanh như muốn tìm sự giúp đỡ hay động viên. Phải, mọi nỗi đau đều
giống nhau.
- Kesyrt,
thôi đi. Tôi xin cô, hãy thôi đi, bình tĩnh lại đi. - Tsanka dịu dàng nói, cậu
muốn kéo Kesyrt lại gần mình, vuốt ve cô, bảo vệ cô suốt đời, mãi mãi. -
Kesyrt, thôi đi. Bình tĩnh lại đi... Không nên thế.
Tsanka muốn
nói, có cậu ở đây, cậu sẽ giúp, nhưng cậu cũng hiểu, nói như vậy thật nực cười:
dù cậu có tin chắc mọi việc rồi sẽ tốt đẹp, nhưng bản thân cậu cũng đói nghèo, vậy
thì còn cưu mang được ai nữa. Đồ quỷ tha ma bắt!.. Chính cậu cũng ứa nước mắt,
có cái gì đó như chẹn ngang ngực, cổ họng đắng nghét. - Kesyrt, đừng khóc nữa.
- Tsanka run rẩy thốt lên.
- Được rồi,
xong rồi... qua rồi. - Kesyrt rầu rĩ đáp, hai bàn tay đầy mồ hôi và nước mắt
che trên mặt. - Tôi thôi ngay bây giờ... Xin anh... tha lỗi cho tôi...
Kesyrt lấy
tay ra khỏi mặt, cặp mắt đỏ hoe vì nước mắt dịu dàng nhìn về phía Tsanka, hàng
mi dày bết lại vì nước mắt lại càng nổi lên trên cặp mắt màu đen. Cô khẽ cười:
- Cám ơn
anh, Tsanka! Anh đã giúp tôi như người anh em ruột thịt.
- Tôi
không muốn làm anh em của cô. - Tsanka làm ra vẻ tự ái, bực bội đáp.
- Thế anh
muốn là gì? - Kesyrt mỉm cười hỏi lại.
Tsanka
không đáp gì cả, chỉ nhún vai.
- Là gì? -
Kesyrt liếc xéo về phía chàng trai si tình, hỏi lại bằng một giọng pha chút
ranh mãnh.
- Tôi muốn
ở bên Kesyrt. - Tsanka làu bàu, lưỡi như cứng lại.
- Ở bên,
như tình nhân? - Kesyrt châm chọc.
- Cô là đồ
ngốc. - Tsanka bật lên. - Tôi muốn làm chồng.
- Nói nhỏ
thôi, anh ngốc ạ, đừng làm ồn. - Kesyrt đưa mắt nhìn quanh, khẽ nói.
Tsanka lại
nhìn chằm chằm vào Kesyrt. Một giọt nước nhỏ xíu, không biết là nước mắt hay mồ
hôi đang lăn chầm chậm trên cằm cô gái, rồi chạy nhanh theo cái cổ dài, dừng lại
giây lát chỗ cái lõm giữa cổ rồi lại chậm chạp chạy xuống cái khe giữa ngực. Giờ
đây, Tsanka đã nghĩ sang chuyện khác ám ảnh cậu bấy lâu nay. Cậu rất muốn...
- Này,
Tsanka, giá như anh có thể làm chồng tôi, thì tôi lại không xứng.
- Đừng lảm
nhảm ngu ngốc thế, Kesyrt... Cô rất cần cho tôi, tôi yêu cô. - Tsanka tha thiết
nói.
- Nói nhỏ
thôi. Anh im đi. - Kesyrt nói như ra lệnh, giọng nghiêm túc. - Không nói về
chuyện ấy nữa... Anh không biết xấu hổ à... Tôi không cho phép anh nói lung
tung.
- Lung
tung cái gì? Tôi muốn... Tôi... - Tsanka nổi giận.
Khuôn mặt
đỏ bừng, các mạch máu nổi lên hai bên thái dương, những lọn tóc loăn xoăn thấm
mồ hôi bết lại trên mặt, trên cổ Tsanka.
- Anh im
đi. - Kesyrt bình thản nói. - Anh còn trẻ, như người ta vẫn thường nói là trai
tơ, còn tôi là gái góa, tàn tạ... Chẳng lẽ anh muốn cả dòng họ nhà anh, mà đứng
đầu là ông Baki-Haji cùng với vợ con ông ấy nguyền rủa tôi hay sao?
- Họ thì
có liên quan gì?
- Anh hãy
bình tĩnh. Đừng la lên như thế. Hơn nữa, tôi còn có kế hoạch riêng của mình.
Tsanka mở
to đôi mắt màu xanh da trời, lông mày nhướn lên, ngạc nhiên:
- Kế hoạch
nào? Cô nói cái gì thế?
- Còn anh,
cũng đang nói cái gì thế? - Kesyrt liếc xéo Tsanka một cái rồi đỏng đảnh đáp lại
bằng câu hỏi.
Tsanka thở
dồn dập, cánh mũi phập phồng, mồ hôi rịn ra lấm tấm.
- Ý cô muốn
nói gì? - Tsanka khẽ hỏi, hai tay nắm chặt, cố ghìm lại nỗi bực tức trong giọng
nói.
- Anh hãy
nghe đây, Tsanka. Tại sao anh cứ ám tôi mãi thế? Tôi có cuộc sống của mình,
công việc của mình. Tôi không còn trẻ nữa, phải nghĩ đến tương lai, - Kesyrt lạnh
lùng nói và quay mặt đi.
- Ý cô muốn
nói là cô sẽ lấy chồng? Và cô đã tìm được ai đó? - Tsanka cố lục vấn.
- Tôi
không đi tìm, Tsanka. - Kesyrt tiếp tục, mắt vẫn nhìn ra hướng khác. - Chính họ
chạy theo tôi, không lúc nào để tôi được yên.
- Tôi
không cho phép. - Tsanka rít lên.
- Ôi, đúng
là người hùng. - Kesyrt quay đầu lại, kiêu hãnh hất mặt lên, bật cười. - Anh là
ai? Anh còn trẻ lắm, mà tôi cần phải sống chứ không phải chơi trò tình nhân với
anh. Từ trước đến nay và sau này cũng vậy, tôi không bao giờ chơi cái trò đó,
và cũng không cho phép ai làm điều đó với tôi. Tôi đi guốc trong bụng anh. Anh
còn trẻ, chưa đủ kinh nghiệm để xỏ mũi tôi đâu. Anh hãy đi giải trí với các bà
góa khác chứ không phải với tôi... Nếu như tôi phạm sai lầm một lần nữa thì sẽ
chẳng có ai thương hại tôi cả... Họ sẽ xé xác tôi ra, bóp chết tôi rồi nhổ toẹt
vào mặt tôi. Và sẽ chẳng có ai đứng ra bảo vệ tôi nữa. Tôi sợ điều đó... Đấy,
bao nhiêu người tán tỉnh... nhưng tất cả chỉ có một mục đích, giải trí xong là
ném ngay. Anh nghĩ xem, điều đó đối với tôi dễ chịu lắm sao? Tất cả đều gạ gẫm
tôi vào bụi, không được thì gạ làm chồng. Mà chồng con gì kiểu đó, toàn chuyện
nhảm nhí. Tôi không tin vào những thằng đàn ông bẩn thỉu bốc mùi hôi thối ấy.
Nói xong,
Kesyrt đột ngột nghiêng đầu, hít hít chính cơ thể mình rồi bật cười thích thú.
- Ha, ha,
ha, hiện giờ tôi chỉ bốc mùi bụi bặm và mồ hôi thôi. - Cô vui vẻ nói.
Tsanka im
lặng, buồn bã nhìn xuống, nóng nảy bẻ ngón tay.
- Anh làm
sao thế? - Kesyrt vừa cười vừa hỏi. - Một chàng trai nghiêm túc và trầm tư!
- Tất cả
những gì cô vừa nói là sự thật à? - Tsanka đột ngột cắt ngang.
- Về chuyện
gì?
- Về chuyện
đó. - Tsanka nhìn thẳng vào mắt Kesyrt như muốn đọc thấu tâm can cô.
Kesyrt bỗng
trở nên lúng túng trước cái nhìn nặng nề, trước tình cảm và sự trong sáng của
Tsanka. Cô không ngờ chàng trai lại phản ứng như vậy. Nụ cười biến ngay khỏi
khuôn mặt Kesyrt. Lần đầu tiên cô cảm nhận được sức mạnh, ý chí và cả cá tính
trong ánh mắt Tsanka. Ánh mắt cương quyết đó làm cô như bị tê liệt, trong khoảnh
khắc đã đánh bại hoàn toàn niềm kiêu hãnh và tính đỏng đảnh của cô. Lần đầu
tiên Kesyrt hiểu ra rằng, Tsanka đã là một người đàn ông thực thụ, một người
đàn ông với tính cách mạnh mẽ và quyết đoán, không cho phép ai đùa bỡn với
mình.
- Tsanka,
- Kesyrt nói như van vỉ. - tôi còn phải lấy chồng nữa.
- Cô đã
quyết định chưa? - Tsanka lạnh lùng hỏi, vẫn không rời mắt khỏi khuôn mặt bối rối
của cô gái.
- Hiện giờ
thì chưa... Nói cho đúng ra thì chưa dứt khoát... Nhưng anh ta yêu cầu tôi phải
trả lời. Có lẽ, tôi sẽ nói đồng ý.
- Anh ta
là ai?
- Anh
không có quyền hỏi tôi những câu như vậy... Đằng nào thì anh cũng không biết
anh ấy.
- Anh ta
trẻ hay già? Góa vợ hay đang có vợ?
- Phải, phải...
anh ta già rồi, giàu có, góa vợ, có con nữa. Nhưng cuộc sống của tôi sẽ được đảm
bảo, tôi sẽ được yêu thương, che chở. - Kesyrt lạnh lùng, bực bội đáp.
Tsanka
quay mặt đi, gục đầu xuống, thu người lại. Cậu đưa ngón trỏ gạt lên trán, một
giọt mồ hôi to rơi xuống mặt đất khô khốc, tạo thành một vệt tròn, thẫm. Cả hai
đều im lặng. Suy nghĩ. Trên mái che, một con quạ kêu lên thảng thốt, từ xa vọng
lại tiếng chó sủa ầm ĩ. Những con nhặng đói sau khi đã ăn uống no nê bay từng
đàn, cắn cả vào những chỗ da thịt hở hang của con người. Thời tiết càng trở nên
nóng nực và oi bức. Cổ họng khô khốc.
- Anh uống
nước không? - Kesyrt phá vỡ sự im lặng, đưa tay xuống dưới sạp hàng lôi ra một
chiếc chai to chuyên đựng rượu.
Tsanka đón
chiếc chai, uống trực tiếp từ cổ chai mấy ngụm liền. Nước trong chai âm ấm đã bốc
mùi. Kesyrt rót nước ra cốc, nhấp hai ngụm rồi vội nhổ ra.
- Phù, tởm
quá, bốc mùi rồi.
Cả hai lại
im lặng, tránh nhìn nhau. Sau ánh mắt nặng nề của Tsanka, Kesyrt đâm ra bối rối.
Cô có cảm giác, cạnh mình không còn là chàng trai trẻ có thể đùa bỡn và nhạo
báng nữa, mà là một người đàn ông đã trưởng thành, hơn nữa lại không bình thường
chút nào. Một tình cảm mới mẻ đối với Tsanka bắt đầu xuất hiện trong tâm hồn
cô. Như để củng cố cho những suy nghĩ của mình, Kesyrt liếc nhìn về phía
Tsanka, thấy bàn tay nổi đầy gân xanh, những ngón tay đàn ông to tướng, cô muốn
nhìn nữa, nhưng đúng lúc ấy, Tsanka như có giác quan thứ sáu, cảm nhận được ánh
mắt chăm chú của Kesyrt, liền đột ngột quay đầu lại. Ánh mắt hai người gặp
nhau. Kesyrt không chịu đựng nổi áp lực trong ánh mắt Tsanka, liền quay mặt đi,
cố giấu những vết đỏ phản phúc đang hiện lên trên khuôn mặt xinh xắn màu bánh mật
của mình.
- Cô đã
quyết định dứt khoát chưa? - Tsanka hỏi bằng một giọng lạnh như thép.
- Có lẽ, rồi.
- Khi nào?
- Anh ấy
muốn tôi phải trả lời ngay, còn tôi muốn hoãn đến mùa thu, nhưng mẹ tôi bảo
không được trì hoãn nữa.
- Trì hoãn
cái gì, - Tsanka cay độc nói. - Cần phải chộp ngay nếu không chú rể giàu có sẽ
tìm đến những người đàn bà khác.
Kesyrt cố
nén tự ái:
- Tôi cũng
định tổ chức ngay bây giờ, nhưng phải trả nợ xong đã. - Cô khẽ đáp.
- Nợ nào?
Cô còn nợ nữa à? - Tsanka ngạc nhiên.
- Tất
nhiên rồi. Tôi phải trả lại món nợ đối với bác Baki-Haji. Tôi không thể bước
vào nhà người khác với món nợ trên vai được.
- À, à. -
Tsanka phẩy tay. - Đó không phải là nợ. Bác tôi có thể chờ được. Cô đi lấy chồng,
cố tỏ ra dịu dàng, âu yếm với lão già, lão ta sẽ thanh toán hết cho cô. Dĩ
nhiên rồi... Ôi, tôi ngu quá đi mất! Sao tôi lại không đoán ra điều đó nhỉ?! Cô
giỏi lắm! Thông minh lắm! Tôi mừng cho cô. - Tsanka đưa mắt nhìn lên khắp người
Kesyrt, nói bằng một giọng nhạo báng, cay độc. - Người chồng thứ hai vẫn chưa
làm cô vừa lòng vì ông già ấy bốc mùi rồi. Giờ đây cô lại tìm được một lão như
vậy, chỉ khác là có nhiều tiền... Cô sẽ vắt kiệt lão ta, rồi lại quẳng đi... quen
rồi... Còn tôi, có là cái thá gì đâu, vừa nghèo vừa đói, khi nào thì...
Tsanka còn
định nói nữa nhưng cậu chợt nhìn thấy những giọt nước mắt to tướng lăn trên má
Kesyrt, cả người cô run lên từng chặp, đầu gục trên hai đầu gối, tay che miệng,
rên khe khẽ, nức nở, thậm chí khuôn mặt tái ngắt, biến dạng hẳn đi.
Kesyrt bật
dậy, làm như sửa lại chiếc khăn choàng để che mặt, rồi bỏ chạy giữa các sạp
hàng.
Tsanka ngồi
chết lặng, toát mồ hôi lạnh. Sau đó cậu chậm chạp đứng lên, đi như người mộng
du về hướng ngược lại. Người đàn bà ở sạp bên cạnh đang mơ mơ màng màng liền mở
mắt ra.
- Này
chàng trai, chàng trai. - Bà gọi với theo Tsanka. - Lại đây.
Tsanka đứng
lại, ngơ ngác quay đầu. Bà lão vẫy cậu lại. Tsanka nghe theo.
- Cô ấy
như nguồn nước mạch tinh khiết. Cậu không được làm vấy bẩn cô ấy, hiểu chưa? -
Bà lão rít vào tai Tsanka. - Cậu không phải là đàn ông. Thôi cút đi, đồ con lợn!
- Bà lão hét to theo Tsanka khi cậu đã bỏ chạy.
Tsanka chạy
ra khỏi chợ trước những ánh mắt ngạc nhiên của mọi người. Rồi cậu đứng lại, ngẫm
nghĩ. Sau đó cậu chạy về hướng bờ sông, tin chắc là Kesyrt đã chạy về hướng đó.
Từ xa Tsanka nhìn thấy Kesyrt. Cô đang rửa ráy. Cậu nặng nhọc thở hắt ra, lặng
lẽ bước lại gần, không biết phải nói gì. Kesyrt đứng quay lưng về phía Tsanka
nhưng cảm nhận được sự có mặt của cậu, liền quay đầu lại.
- Anh cút
đi... Cút đi. - Kesyrt tức giận nói.
- Kesyrt,
xin cô tha lỗi cho tôi. Tôi xin cô. - Tsanka khẽ năn nỉ.
- Anh hãy
để tôi yên. Để tôi yên. Anh còn muốn gì nữa? Anh còn muốn xúc phạm tôi, sỉ nhục
tôi thế nào nữa?
Kesyrt đứng
lên, khuôn mặt đẫm nước, bước lại, các mạch máu nổi hằn trên cổ.
- Anh cút
đi, cút đi! Anh là đồ đáng ghét. Mà anh nói đúng, - Kesyrt căm tức hét lên. -
Ngàn lần đúng... Tôi chỉ là con chó cái. Tôi phải bán mình vì không biết trốn
đi đâu nữa. Anh muốn nghĩ sao về tôi cũng được. Tôi nhổ toẹt hết. Anh cút đi,
và để tôi yên... Tôi xin anh!
- Kesyrt
yêu quý, tôi xin cô, hãy nghe tôii. - Tsanka run rẩy năn nỉ.
- Tôi
không muốn nghe gì nữa, đi đi... Tôi xin anh, hãy đi đi! - Những giọt nước mắt
lại ứa ra trên khuôn mặt Kesyrt.
Tsanka
quay người, chậm chạp bỏ đi, đôi chân không cảm thấy gì và bản thân cũng không
hiểu điều gì đang diễn ra.
- Đứng lại
đã! - Đột nhiên cậu nghe thấy giọng nói yêu thương.
Tsanka đứng
lại với chút hy vọng le lói, quay người. Kesyrt chạy tới, cặp mắt ướt đẫm của
cô toát lên nỗi căm giận, cô xỉa ngón tay trỏ vào mặt cậu.
- Anh hãy
nhớ, và hãy chuyển lời của tôi đến ông bác anh, tôi sẽ trả món nợ đó. Và cho đến
khi tôi chưa trả xong nợ, tôi sẽ không đi lấy chồng. Anh hiểu chứ? - Kesyrt hét
thẳng vào mặt Tsanka, hai tay vung lên, chiếc khăn choàng tụt khỏi đầu, mái tóc
xổ ra, bù xù, trông như một người điên. - Tôi sẽ trả hết. Trả hết. Tôi không
thèm cái gì của người khác cả. Không cần gì. Từ bé tôi đã tự nuôi sống mình,
làm quần quật cả ngày lẫn đêm. Tôi chỉ có một mình... Tại sao anh lại xúc phạm
tôi? - Kesyrt lại bật khóc, nước mắt đầm đìa, bất lực quỵ xuống đất và càng
khóc to hơn, thảm thiết hơn. - Tại sao, Tsanka, tại sao anh lại xúc phạm tôi?
Tôi tin tưởng anh đến thế! Tôi cứ nghĩ anh là chỗ dựa, là niềm hy vọng duy nhất
của tôi. Tại sao anh lại có những ý nghĩ đó? Chẳng lẽ tôi đáng bị như thế hay
sao? Tsanka, tại sao thế?.. Sao tôi lại bất hạnh thế này!
Tsanka
không thể nói gì, quỳ xuống bên Kesyrt và cũng khóc nức nở.
Cả hai cứ
ngồi mãi như thế một lúc lâu, không nói một lời nào, không khóc nữa và đều sợ
phải nhìn vào mắt nhau. Vài người đi ngang qua, ngạc nhiên nhìn họ.
Cuối cùng,
Kesyrt nặng nhọc đứng lên, lơ đãng lấy tay chùi nước mắt và mồ hôi đầy trên mặt,
mái tóc để trần, chẳng thèm nhìn Tsanka, bước về phía bụi cây.
Còn Tsanka
vẫn cứ ngồi đờ đẫn, chỉ mãi đến khi Kesyrt khuất dạng cậu mới vội hét lên:
- Kesyrt,
hãy tha lỗi cho tôi! Tôi yêu cô! Tôi yêu cô!
Mặt trời sắp
lặn, bóng nắng đổ dài. Nước trong sông như đang rì rầm về điều gì đó, có thể nó
đang mách lẻo về những khát vọng của người đời. Trên đám cỏ rậm dưới chân
Tsanka, những con kiến đang hối hả chạy qua chạy lại. Cạnh đó, hai con bướm vẫn
đang vô tư vẫy cánh. Một con rắn mối thập thò trong bụi cây. Cảm nhận được
không khí dịu mát của buổi chiều tà, dân chúng trong chợ như bừng tỉnh cùng với
những tiếng la hét vang dội khắp khe núi.
Ngay trong
chiều hôm ấy, Kesyrt không nói với ai một lời nào, đi nhờ xe ngựa quay về nhà.
Tsanka như người mất hồn, trút mọi nỗi bực tức lên lũ cừu tội nghiệp, nhăn nhó
với Esky. Cậu lại lấy gói thuốc sợi ra, quấn hút liên tục. Đến chiều tối, cùng
với một số người làng, cậu lại uống khá nhiều rượu, say đến mức ói mửa, phải chạy
xuống sông, ngồi ở đấy đến tận nửa đêm. Khi Tsanka quay về chỗ cũ thì Esky vẫn
còn chưa ngủ, đang lo lắng cho ông anh họ, cứ cằn nhằn mãi cho đến khi Tsanka
thiếp đi trong một giấc mơ khủng khiếp.
Ngay trong
đêm ấy, hai đơn vị quân đội cùng với công an và nhân viên Ban bảo vệ chính trị
quốc gia đến giải tán chợ Makhketa. Một đơn vị đến từ hướng Shali, đơn vị kia,
ít hơn đi từ làng Vedeno. Hai giờ trước khi họ xuất hiện, tin đồn đã lan khắp
chợ. Mọi người bán tín bán nghi. Một số vội vàng thu dọn hàng hóa và ra về thật
nhanh. Chỉ khổ cho những người buôn bán gia súc, nhất là cừu.
Tsanka, nửa
say nửa tỉnh bị đánh thức dậy, mãi không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Sau khi hiểu
rõ ngọn ngành, trong thâm tâm cậu còn cảm thấy vui mừng nữa. So với những mất
mát và nỗi đau trong lòng thì chuyện này chẳng là cái gì. Dẫu vậy, Tsanka cũng
cố gắng làm một việc gì đó, nhưng bất lực. Một sự náo loạn cùng với những tiếng
la hét, kêu gào bắt đầu diễn ra. Những con vật khốn khổ không biết người ta muốn
gì ở chúng, bị xua đi đâu. Tất cả thành một mớ hỗn độn: người, ngựa, bò, trâu,
cừu, gà. Những chiếc túi xách, tay nải bị quăng tứ tung. Khắp nơi vang lên toàn
những tiếng chửi rủa. Đàn bà khóc lóc. Rất ít người chạy kịp, phần lớn bị kẹt lại,
cố gắng bảo vệ thành quả lao động dành dụm được.
Trời vừa rạng,
khoảng năm trăm chiến sĩ Hồng quân súng trường lăm lăm trong tay, tạo thành một
vòng vây quanh chợ Makhketa, lấy báng súng dồn người và súc vật lại. Sau đó, rất
nhiều công an người Chechnya xuất hiện ở giữa vòng tròn. Những tiếng la hét và
chửi rủa, những cuộc cãi vã nổ ra. Một loạt súng vang lên. Ngay lập tức mọi người
im bặt. Một công an, một phụ nữ và ba đàn ông trong số những người buôn bán nằm
trên vũng máu.
Lát sau
hai chiếc xe tải chạy đến, dừng lại trên bãi đất cao cách chợ một đoạn. Một số
người đàn ông khỏe mạnh, chủ yếu là người Nga, chỉ có một, hai người Chechnya đứng
quan sát tất cả những gì đang xảy ra.
Người lãnh
đạo cao nhất trong số “các đồng chí”, đứng phía trước chăm chú quan sát bằng ống
nhòm, rồi mỉm cười vẻ hài lòng:
- Vậy đấy,
các đồng chí nhìn xem, khá lắm. Thế mà các đồng chí lại bảo là không có gì để
nuôi sư đoàn... Chúng ta sẽ ăn mừng. Ngựa đẹp lắm...
- Phải,
cũng đủ cho một tháng.
- Sau một
tháng chúng ta sẽ nghĩ ra cách gì đó. Vùng đất này rất trù phú. Chỉ có điều phải
làm theo đúng luật lệ, quy định. Các đồng chí cũng biết rồi... Tôi nghĩ, chúng
ta không có việc gì làm ở đây nữa. Đến chiều báo cáo lại cho tôi.
Đến trưa
thì sân chợ đã vắng hoe và bẩn thỉu như sau một trận đánh. Đàn bà, người già và
trẻ em được thả ra với tay không. Tất cả đàn ông đều bị khám xét và giải về
Shali giữa trời nắng chang chang. Tsanka cũng nằm trong số đó. Rất may là Esky,
vì còn trẻ nên được thả ra.
Đến chiều
thì họ tới Shali. Tối ngủ ngay ngoài trời trên quảng trường rộng, không có gì để
ăn, uống.
Ngày hôm
sau, từng người một được gọi đi. Một số người mặc thường phục nhanh chóng thẩm
vấn họ ngay tại chỗ qua phiên dịch. Sau cuộc hội ý ngắn gọn, phần lớn được thả,
một số bị đưa vào nhà giam địa phương.
Đến trưa
thì Tsanka bị gọi lên. Đối với cậu, mọi chuyện chẳng có nghĩa lý gì cả, chỉ có
cơn khát là đang hành hạ cậu.
Trước dãy
bàn chỉ huy có một chiếc thùng to, đựng một thứ nước âm ấm bay mùi dưa chuột muối.
Tsanka vội lao đến, uống liền vài cốc. Ngay lập tức cậu thấy dễ chịu hơn, thậm
chí còn cảm thấy hơi chóng mặt vì thích thú.
- Họ? - Bằng
một giọng mỏi mệt, một người hỏi.
-
Arachaev.
- Tên?
- Tsanka.
- Tên cha?
- Aldum.
- Năm
sinh?
- Một chín
không năm.
- Ở đâu?
- Làng
Duts-Khote.
Một người
đàn ông Chechnya vóc dáng vạm vỡ tiến lại bên cạnh, nắm lấy khuỷu tay Tsanka.
- Cậu là
cháu của ông Baki-Haji? - Người đó hỏi.
Tsanka im
lặng gật đầu.
- Bảo với
ông ấy, có Shitaev Damsi gửi lời hỏi thăm. Nhớ chưa?
Chàng trai
lại gật đầu.
Tsanka được
thả ngay. Khi ra đến bên ngoài, một người đồng hương khác là Abaev Nutsulkhan
giữ cậu lại.
- Đừng đi
theo đường cái. Khắp nơi đều có các đội kỵ binh tuần tiễu và trạm kiểm soát. -
Abaev nói nhỏ vào tai Tsanka. - Đừng để rơi vào tay binh lính và nhân viên mật
vụ. Họ không khách sáo đâu.
Suốt nửa
ngày còn lại và một phần đêm, phải khó khăn lắm Tsanka mới vượt qua nổi các đèo
dốc, cắm đầu cắm cổ chạy về nhà, không còn biết sợ là gì nữa. Khi đó Tsanka còn
chưa biết rằng, tất cả mới chỉ là những trò đùa và những cuộc tập dượt của các
Xô viết đối với nhân dân, sau này, tham vọng lớn lên, các biện pháp để xúc phạm
và trấn áp dân chúng càng tinh vi, quy mô và quyết liệt hơn. Và Tsanka, trải
qua tất cả những điều đó nhưng đành phải cắn răng chịu đựng và quên đi để chính
mình không biến thành một con thú dữ.
Vào lúc nửa
đêm, sau khi đi qua Makhketa, Tsanka đến bìa rừng trống trải và bằng phẳng. Quá
mệt mỏi, cậu ngã sấp mặt xuống đám cỏ cao, rậm rạp và mềm mại, tỏa hương thoang
thoảng, rồi thiếp đi ngay trong giấc ngủ mê mệt.
Sáng hôm
sau, những tia nắng mặt trời mùa hè rực rỡ chiếu lên mặt như muốn đánh thức
Tsanka dậy, nhưng cậu không muốn. Cậu lật người sang phía bên kia, quay cái
lưng dài, gầy nhom của mình về hướng mặt trời, rồi lại ngủ tiếp. Cậu mơ thấy một
giấc mơ, hình như dạo còn bé, mẹ cậu tắm cho cậu bằng nước ấm và nói:
“Tsanotska yêu quý của mẹ ơi, hãy lớn nhanh thành một người cao to, khỏe mạnh,
hãy sống thật lâu, hãy hưởng hạnh phúc!”. Mẹ hôn cậu, vỗ vào bụng, vào rốn cậu.
Đứng cạnh mẹ là Kesyrt, mỉm cười vui vẻ, thì thầm điều gì đó với cậu. Nhưng sau
đó, cô nghiêng sát mặt cậu, rống vào tai cậu một câu gì đó và thở hổn hển...
Tsanka hoảng
sợ tỉnh giấc, nhưng mắt vẫn chưa mở. Ngay bên cạnh, đúng là có ai đó đang thở
khò khè, nặng nhọc. Cậu còn nằm im một lát. Ý thức bắt đầu xuất hiện, tim đập
thình thịch. Không thể chịu đựng hơn được nữa, cuối cùng cậu hé mắt ra và ngay
lập tức bật dậy: sau lưng cậu, một con bò sữa to tướng, bụng căng tròn no nê,
đang nằm trên đám cỏ rậm và nhìn cậu bằng cặp mắt lờ đờ. Cách một đoạn là chú
bê con khoảng một tuổi.
- Phù, đồ
ngốc! - Tsanka thở phào nhẹ nhõm.
Như để trả
lời cậu, con bò cái cũng nặng nhọc đứng lên, rống khe khẽ.
“Chắc bị lạc
khi mang ra chợ”, - Tsanka quan sát con vật, thầm nghĩ.
Con bò cái
thuần giống, có vẻ hiền, hai bầu sữa to vẫn đang nhỏ giọt. Con bê vụng về tiến
lại gần con bò cái, định bú. Con bò cái hít hít con bê rồi bực tức lấy đầu hất
con bê không phải là con mình ra.
- Vậy là
Thượng đế đã gửi sữa xuống cho mình đây, - Tsanka thích thú thầm nói, gãi gãi
các vết muỗi đốt sưng vù trên tay và mặt.
Nhưng ý tưởng
về sữa hóa ra không thành vì con bò sữa không cho chạm vào bầu vú của mình. “Chẳng
khác gì Kesyrt”, - Tsanka nghĩ, rồi phẩy tay, bước tiếp. Con bò cái rống lên một
tiếng rồi đi theo cậu, còn con bê thì chạy theo con bò cái. Đến cái dốc cao,
hai con vật đứng lại, rống lên thảm thiết, nhìn theo con người đang xa dần.
Tsanka dừng lại ngẫm nghĩ, nếu bỏ mấy con bò lại trong rừng, thú dữ sẽ ăn thịt
chúng, còn dẫn về nhà thì xa quá, mà lũ bò nhà cũng làm cậu ngán lắm rồi. Đột
nhiên cậu sực nhớ đến Kesyrt và bà Haza. Họ không còn bò sữa nữa, bán trả nợ rồi.
Chẳng cần
nghĩ ngợi lâu, Tsanka quay lại, bẻ cành cây nhỏ, rồi lùa con bò cái và con bê
vòng qua núi, đi theo các khe hẻm đến cối xay nước.
Tsanka đi
bộ suốt cả ngày, vừa đói vừa mệt vì tiết trời oi bức, vừa nguyền rủa hai con bò
ngu ngốc.
Mãi đến xế
trưa, khi ánh nắng mặt trời gay gắt nhất, Tsanka mới tới đích. Ngay cả những
con chó hung dữ của bà Haza cũng lười biếng không muốn chui ra khỏi bóng râm. Cảnh
vật hoang vu, bơ phờ. Chỉ có mỗi nguồn nước là lúc nào cũng vui vẻ vẫy gọi, từng
đàn chuồn chuồn vô tư bay dọc theo dòng nước. Lũ ve sầu kêu inh ỏi trong các bụi
phỉ tử.
- Bác Haza
ơi! - Tsanka gọi, dù trong thâm tâm cậu muốn gọi tên Kesyrt hơn.
Cậu gọi một
lần nữa.
Cánh cửa mở
toang. Để ngăn muỗi và các loại côn trùng, cửa vào bị che bằng một tấm vải thô
tự dệt.
Cuối cùng,
bà Haza mồ hôi đầy người, vẫn còn ngái ngủ, xuất hiện nơi khung cửa.
- Tsanka,
cháu đấy à? - Bà hỏi, vẻ lo lắng.
- Cháu
đây. - Cậu đáp, vẻ không vui. - Cháu dẫn đến cho bác con bò sữa và con bê.
- Dẫn đến
là thế nào? Ở đâu ra thế? - Vẫn còn chưa tỉnh ngủ hẳn, bà Haza hỏi.
Tsanka giải
thích vắn tắt cho bà già rõ sự tình. Nhưng chỉ một phút sau, cậu phải kể lại cặn
kẽ mọi việc một lần nữa. Khi đó bà Haza mới bắt đầu xem xét kĩ lưỡng con bò
cái, dịu dàng vuốt ve nó, cứ như là bà phải bỏ một đống tiền ra để mua nó, rồi
chẳng nói chẳng rằng, bà dẫn nó vào chuồng.
- Tsanka,
bác không biết phải nói sao, phải cám ơn cháu thế nào, nhưng đúng là Thượng đế
đã gửi cháu đến để giúp chúng ta. - Bà lão nói to. - Thật lòng mà nói, cháu đã
giúp chúng ta rất nhiều... Cầu xin Thượng đế ban cho cháu sức khỏe!
Sau con bò
sữa, đến lượt con bê con, mọi cử động của bà Haza trở nên nhanh nhẹn, hứng thú
vô cùng, thậm chí bà vừa đi vừa nhảy nữa.
- Không có
gia súc chúng ta như bị mồ côi vậy. Làm sao có thể thiếu chúng được? Thật khổ sở
vì không có việc gì làm... Dĩ nhiên trong nhà sẽ có thêm thực phẩm... Nếu chủ
nhân của chúng đến đây, bác sẽ trả ngay, không nói một lời... Cho đến lúc đó,
chúng ta sẽ chăm sóc cho chúng... Cám ơn cháu, Tsanka, cám ơn cháu... Cháu giỏi
quá, cháu đã cứu được mấy con bò, nếu không lũ sói cũng ăn thịt.
- Thôi được
rồi. Cháu đi đây. - Tsanka không chịu nổi bà lão lắm lời nữa.
- Khoan
đã, đi là thế nào? Ôi, bà già này ngu quá đi mất, bác lẩm cẩm mất rồi. - Bà
Haza chạy lăng xăng quanh Tsanka, lấy tay áo lau mồ hôi trên mặt cậu. - Có đúng
là bọn khốn nạn ấy đã bắt cháu phải không?! Chúng ta lo quá đi mất! Bốn người bị
bắt hôm qua đã về rồi. Ngay từ sáng, con Kesyrt đã chạy vào làng để hỏi thăm
tin tức về cháu.
- Cô ấy
đâu? - Mắt Tsanka như sáng lên.
- Nó nằm
trong nhà ấy. Mấy ngày nay nó như người mất hồn, thẫn thờ... Bác không biết nó
đau ốm hay là có chuyện gì nữa?
Tsanka
không nói gì, đi ngay xuống nguồn nước. Cậu đến bên chiếc ghế băng dưới bóng
cây thùy dương, cởi áo ra, nhào xuống suối, bụm tay lại uống nước. Nước lạnh
làm cậu tỉnh ra, sức sống như hồi sinh trở lại trong cái cơ thể gầy guộc, mệt mỏi.
Cậu không nhận thấy Kesyrt đã đến sau lưng mình. Cô nhẹ nhàng lội xuống nước,
ngắm nhìn chàng trai, nụ cười kỳ lạ đọng trên môi.
Đột nhiên,
Tsanka ném đôi giày mòn vẹt đi, rồi vẫn mặc quần lao vào giữa dòng nước, thích
thú phun phì phì, cố vùng vẫy giữa dòng nước xiết. Cuối cùng, cậu nhìn thấy
Kesyrt, ánh mắt họ gặp nhau. Thoạt đầu, Tsanka làm ra vẻ nghiêm nghị, nhưng khi
nhìn thấy nụ cười của Kesyrt, nét mặt cậu cũng dãn ra. Tsanka bước lên, mắt
không rời khỏi người yêu dấu.
Kesyrt giản
dị trong chiếc áo váy rộng mặc trong nhà bằng vải hoa
màu be
sáng, trên mặt và trên tay vẫn còn hằn những vết nhăn do nằm ngủ lâu, mái tóc
dài màu đen xõa trên lưng, đi chân đất.
- Tsanka,
anh vẫn còn sống! - Cuối cùng Kesyrt thốt lên thành lời điều làm cô lo lắng nhất.
- Sao hôm qua anh không về cùng với mọi người?
- Tôi dẫn
con bò sữa và con bê về cho mẹ con cô. - Tsanka mỉm cười.
Kesyrt
cũng bật cười, cả hai cứ đứng như thế một lát, cùng cười không có nguyên cớ, rồi
cùng đột ngột im lặng, trở nên nghiêm túc, thậm chí thoáng buồn nữa.
- Ôi, hôm
nay trời nóng quá. - Kesyrt nói.
- Thì lội
xuống đây.
- Khi nào
anh đi tôi sẽ tắm.
- Thế có mặt
tôi, không tắm được à? - Tsanka đùa.
- Không được.
Anh sẽ không tự chủ được.
- Tối cô
có tắm không?
- Có.
- Tôi sẽ đến
xem.
- Đúng là
đồ vô liêm sỉ. Anh cứ thử xem, tôi sẽ mách mẹ anh. Phải lấy vợ cho anh thôi.
Anh đã xúc phạm tôi đến thế. - Kesyrt khẽ nói bằng một giọng trách móc và tự
ái, vờ quay mặt đi.
Tsanka
không thể rời mắt khỏi Kesyrt. Niềm khát khao trong lòng cậu lại bùng lên. Cậu
vội mặc áo vào để cố che giấu tình cảm của mình. Bằng cặp mắt của phụ nữ,
Kesyrt không bỏ sót một chi tiết nào, cô mỉm cuời tinh quái, rồi lại làm ra vẻ
nghiêm nghị, mím môi lại, nghiến răng.
- Vào nhà
đi. - Đột nhiên Kesyrt nói. - Chắc là anh đói rồi, tôi sẽ nấu cho anh thứ gì
đó.
Kesyrt đột
ngột quay người lại, và với sự nhanh nhẹn của con mèo, chạy ngược lên dốc.
Tsanka mặc
xong quần áo, chạy theo cô.
Bà Haza vẫn
còn quẩn quanh bên con bò sữa. Kesyrt đứng ở bậc thềm.
- Con ăn mặc
cứ như công chúa vậy. - Bà Haza nói, vẻ không hài lòng. - Cháu vào đi, trong
nhà mát hơn. Ăn chút gì đó rồi về.
- Thôi ạ.
Cám ơn bác. Mẹ cháu chắc là đang lo lắm. Cháu đi đây. - Tsanka nói, rồi không
thèm nhìn Kesyrt, cũng chẳng chia tay, đi ngay.
Kesyrt còn
đứng nhìn mãi theo Tsanka, sau đó cô đi xuống suối, ngồi xuống chiếc ghế dài
yêu thích của mình dưới bóng cây thùy dương, đầu gục xuống, buồn bã nghĩ về điều
gì đó, ánh mắt đờ đẫn, và lặng lẽ khóc, mặc cho những giọt nước mắt tuôn lã
chã.
Vào lúc ấy,
mọi người trong nhà Tsanka đón cậu trở về cứ như sau cả năm trời xa cách. Mẹ và
em gái òa khóc. Mọi người trong dòng họ Arachaev tập trung hết ở nhà ông Aldum
quá cố, tìm hiểu cặn kẽ từng chi tiết nhỏ nhặt nhất. Đám đàn bà tụ tập quanh bếp
lò. Thoạt nhìn, cứ nghĩ họ đang chuẩn bị cho đám cưới.
Nhân dịp
Tsanka trở về lành lặn, mọi người làm thịt một con cừu non, hai con gà tây và
vài con gà mái nữa. Buổi chiều ông Baki-Haji mời tất cả các vị bô lão đáng kính
trong làng Duts-Khote và các làng lân cận đến nhà rồi làm lễ cầu nguyện.
Tsanka chẳng
quan tâm lắm đến mọi sự tất bật đó, thậm chí cậu còn thấy khó chịu nữa. Cậu
mong đến đêm, nhất định sẽ đến cối xay nước để được gặp Kesyrt. Cậu chỉ mong ước
một điều: được ở bên cô, trò chuyện với cô, nghe cô nói. Cậu cảm thấy xấu hổ vì
những gì cậu đã nói ngoài chợ, vì sự bồng bột và những suy nghĩ, ham muốn dục vọng
xấu xa, không thể không nhận ra. Cậu muốn chứng minh cho Kesyrt thấy, không phải
điều đó đã quyến rũ cậu, mà chính là bản thân cô ấy, tâm hồn trong sáng của cô ấy,
cặp mắt màu đen của cô ấy, tấm thân xinh đẹp của cô ấy... “Đồ quỷ tha ma bắt! Lại
tấm thân nữa?! Nhưng chẳng lẽ mình có lỗi hay sao? Nếu sự việc đúng là như vậy,
mình biết làm gì bây giờ?” - Tsanka cay đắng nghĩ.
Tuy nhiên
ước mơ của Tsanka không thành hiện thực. Cậu mệt mỏi lui vào gian phòng ngoài
cùng của em gái để tranh thủ nghỉ một lát, rồi ngủ một giấc mê mệt cho đến tận
sáng.
Suốt cả
ngày hôm sau, Tsanka đi đi lại lại, dáng vẻ lờ đờ, trầm tư và buồn bã như vừa
đánh mất cái gì đó rất thân thuộc, quý giá.
- Hình như
ở đấy người ta đã làm gì nó thì phải. - Người mẹ lo lắng nói với các bà hàng
xóm. - Cứ như người mất hồn vậy.
Ngày hôm
đó đối với Tsanka là một ngày dài chưa từng có. Không điều gì có thể làm cậu
vui thích, ngay cả con ngựa tía yêu quý cũng vậy.
Chiều muộn,
Tsanka bảo với mẹ là cậu đến nhà Kurto, và có thể cả hai sẽ sang làng bên để dự
một cuộc vui.
- Đi đi,
giải trí cho khuây khỏa. - Bà mẹ vui vẻ đáp. - Đã đến lúc con phải tìm vợ chưa
cưới rồi.
Tsanka hào
hứng hùa theo, trong lòng cảm thấy hồi hộp về một điều gì đó mới mẻ, kỳ lạ sẽ
diễn ra trong đêm nay.
Khi trời tối
hẳn, Tsanka băng qua những bụi mận gai và táo dại đầy gai góc, toát mồ hôi, thở
hổn hển vì đi nhanh và vì một sự lo âu không rõ nguyên cớ gì đó. Làn da đầm đìa
mồ hôi va quệt vào cành cây làm cậu khó chịu. Càng đến gần cối xay nước, Tsanka
càng đi chậm lại, một nỗi lo âu, bối rối và sợ hãi khủng khiếp choán ngợp tâm
trí. Máu hai bên thái dương chảy rần rật, trong ngực như có cái gì ép chặt, đầu
óc bấn loạn cả lên. Không chỉ một lần Tsanka đã định nhổ toẹt vào tất cả rồi
quay về, gặp gỡ với bạn bè và rất có thể là tham dự một cuộc vui nào đó. Tuy
nhiên, có một sức mạnh vô hình khủng khiếp như đang vẫy gọi, xô đẩy, cuốn hút cậu
đến cái nơi heo hút kia, chẳng khác gì dòng chảy cuồng nộ của con sông vào mùa
xuân. Tsanka không còn biết, tại sao mình đến đây, mình muốn gì. Cậu cảm thấy
vô cùng khổ sở, cả người run lên, hai tay lạnh ngắt.
Cuối cùng,
Tsanka nghe thấy tiếng nước chảy rì rầm, ma quái, cậu tiến thêm vài bước nữa, vạch
bụi cây rậm đầy gai và bước hẳn ra bờ suối cao.
Từ phía
sân nhà bà Haza mấy con chó sủa ầm ĩ và lao xuống nguồn nước. Một con phóng
ngay sang bờ bên kia, người ướt sũng, vừa sủa vừa lao vào kẻ đột nhập. Nhưng
khi nhận ra Tsanka, nó rên ư ử rồi rũ nước trên người. Nó nằm xuống cạnh cậu một
lát, rồi sau không thấy có gì ăn mà cũng chẳng được ve vuốt, nó lặng lẽ bỏ vào
sân cối xay nước.
Tsanka nằm
trên thảm cỏ dày đang trổ bông. Từ dòng nước réo ầm ầm tỏa ra một làn không khí
mát mẻ, thoang thoảng mùi bạc hà và hoa đầu mùa.
Khắp nơi
vang lên tiếng dế mèn rả rích. Đâu đó bên cạnh, một con cú mèo rúc một hồi dài
âm vang, rầu rĩ, từ phía làng vọng lại tiếng chó sủa yếu ớt. Trong bụi rậm bên
cạnh có cái gì đó động đậy, chậm chạp bò về phía Tsanka, làm lay động những bụi
cỏ cao. Tsanka thận trọng ngóc đầu dậy, qua hình bóng mờ mờ, cậu nhận ra một
con nhím. Cậu lại nằm xuống, lấy chân đẩy con nhím bướng bỉnh đi. Con nhím bực
mình khịt khịt, đổi hướng và biến mất trong bụi cây mộc tặc.
Đêm xuống.
Phải khó khăn lắm Tsanka mới phân biệt nổi hình dạng cối xay nước. Trên nền trời
màu khói nổi rõ đường viền cong cong của những tán cây.
Tiếng cánh
cửa cọt kẹt. Bà Haza với chiếc đèn dầu trong tay bước ra. Tấm thân còng của bà
hắt lên bức tường đất nhà kho xiêu vẹo thành một cái bóng to, kỳ quái. Bà chậm
rãi đi vòng quanh nhà kho, ghé mắt nhìn vào chuồng gà, sau đó dừng lại khá lâu
bên con bò sữa dưới mái che, rồi ra sân, huơ cây đèn dầu đuổi lũ chó ra.
Cuối cùng
bà Haza lại vào nhà, cánh cửa lại rít lên nặng nhọc. Lát sau, ánh sáng mờ mờ của
cây đèn dầu sau ô cửa sổ nhỏ cũng biến mất. Không gian lại chìm trong bóng tối.
Tsanka còn chăm chú quan sát khá lâu sân nhà bà Haza, lắng nghe mọi động tĩnh,
cuối cùng cậu mệt mỏi nằm ngửa ra. Đêm không trăng tĩnh lặng, tối như bưng và đầy
sao. Rất xa ở phía dưới, trong khu đầm lầy Vashandaroi vọng lại tiếng ếch kêu.
Trên bầu trời cao thăm thẳm, các vì sao nhấp nháy yếu ớt. Lũ dơi chao qua chao
lại ngay trên đầu, một con muỗi vo ve ngay bên tai.
Tsanka
nghe thấy tiếng tim đập mỗi lúc một dồn dập, không hiểu tại sao trong đêm nay,
cậu lại cảm thấy nỗi sợ hãi và lo âu. Có một điều gì đó cứ níu giữ cậu ở lại,
như ghim cậu xuống đất, không thả ra.
- Mình sẽ
nằm đợi một lát nữa, nếu cô ấy không ra, mình sẽ về. - Cuối cùng, cậu gối đầu
lên hai tay, quyết định dứt khoát, và để tự trấn an, cậu bắt đầu đếm sao... Và
thiếp đi.
- Tsanka,
dậy đi. - Trong cơn mơ, cậu nghe thấy một giọng nói dịu dàng.
Tsanka vội
vàng mở mắt ra. Ai đó đang cúi xuống người cậu, vuốt vuốt mái tóc xoăn của cậu.
- Ông là
ai? - Tsanka hốt hoảng la lên.
- Đừng làm
ồn. - Vẫn giọng nói dịu dàng, quen thuộc đáp lại kèm theo tiếng cười.
- Kesyrt,
cô đấy à? - Tsanka lại hỏi.
- Phải, phải,
tôi đây. - Cô gái đáp lại bằng một giọng giễu cợt, lấy tay ra khỏi đầu cậu và
ngồi dịch ra một chút. - Vậy anh đến đây để ngủ à?
Tsanka
không biết nói sao và cũng không dám ngồi dậy nữa.
- Còn tôi,
ngồi đây từ lâu rồi để canh giấc ngủ cho anh.
- Sao cô
biết tôi ở đây?
- Chó vừa
sủa là tôi biết ngay. - Cô mỉa mai.
- Tôi chờ
mãi không thấy rồi ngủ quên mất. - Tsanka vẫn nằm, cố thanh minh.
- Anh ngồi
dậy đi, ở đây nhiều rắn lắm đấy.
- Phải, có
một con, chính là cô. - Tsanka nghiêm giọng nói.
Kesyrt vội
bật dậy, thân hình hiện rõ trên nền trời xanh thẫm.
- Anh lại
định xúc phạm tôi nữa phải không? Thôi, cút đi.
Câu nói đó
đã nhanh chóng đưa Tsanka trở về với thực tại. Cậu vội vàng ngồi dậy như cái
máy, định túm lấy Kesyrt, nhưng cô đã khéo léo né sang rồi chạy xuống nguồn nước,
từ đó bỗng vọng lại tiếng “ối”.
- Cô làm
sao thế? - Tsanka kêu lên, rồi lao xuống.
Kesyrt ngồi
xổm, hai tay ôm chặt chân.
- Cô làm
sao thế? - Tsanka ngồi xuống bên cạnh, hỏi lại.
Đầu hai
người chạm nhau, cùng thở một nhịp, sâu và gấp gáp.
- Không
sao cả. - Kesyrt lạnh lùng đáp rồi đứng dậy kéo cao váy lên, thận trọng lội qua
suối, ngồi lên chiếc ghế băng yêu thích của mình, cúi xuống xoa xoa lên chỗ
chân đau.
Tsanka
tháo giày ra, co ro bước theo, lội xuống dòng nước tối đen, réo cuồn cuộn. Nước
lạnh ngập đến đầu gối, chảy rất mạnh. Cậu vội vàng băng qua suối, quẳng đôi
giày sang bên, bước lại gần Kesyrt.
- Cô có
đau không? - Tsanka hỏi bằng một giọng thông cảm.
- Chân
không sao. Chỉ có cái lưỡi của anh thì như nọc độc vậy. - Kesyrt đáp.
Cả hai
cùng im lặng một lát. Cuối cùng, Tsanka không chịu nổi:
- Tôi có
thể ngồi bên cô được không? Tôi có chuyện phải nói với cô.
- Chúng ta
chẳng có gì để nói cả. - Kesyrt bực bội đáp, nhưng vẫn ngồi dịch sang một bên.
Tsanka ngồi
xuống. Ngay lập tức cậu cảm nhận được cơ thể phụ nữ của Kesyrt ngay bên cạnh,
mùi hương toát ra từ làn da và mái tóc.
Cả hai lại
im lặng khá lâu, lắng nghe giai điệu dịu êm của dòng suối.
- Kesyrt!
- Tsanka khe khẽ mở đầu. - Tôi cần phải nói hết với Kesyrt, tôi muốn nói...
Kesyrt vẫn không nói gì.
- Kesyrt,
tôi yêu cô! Tôi cần cô! Xin cô hãy làm vợ tôi! - Tsanka nhìn Kesyrt, tha thiết
nói.
- Sao cô
im lặng? - Cậu năn nỉ.
- Thế tôi
phải làm gì, chẳng lẽ nhảy cẫng lên vì thích thú ư? - Kesyrt nghiêm túcđáp.
- Xin hãy
trả lời tôi. - Tsanka bật lên. - Sao cô lại làm khổ tôi đến thế?
Tsanka đứng
ngay trước mặt Kesyrt, tay buông thõng.
Kesyrt
cũng đứng lên, nhìn vào mặt Tsanka.
- Anh hãy
nghe đây, Tsanka. Thứ nhất, không phải tôi làm khổ anh, mà chính anh làm khổ
tôi, anh săn đuổi tôi và sỉ nhục tôi. Thứ hai, và đây mới là điều quan trọng,
tôi sẽ không làm vợ anh. Vì anh còn nhỏ... nói cho đúng hơn, anh còn nhỏ so với
tôi. Anh còn trẻ lắm, hãy hiểu điều đó! - Kesyrt nói, lạnh lùng, nghiêm khắc và
rành rọt. - Còn bây giờ, anh hãy đi đi.
- Tôi
không đi đâu cả. - Tsanka bướng bỉnh nói.
- Nếu vậy
tôi sẽ đi. - Kesyrt nói rồi từ từ quay người.
Tsanka chồm
tới, hai tay ôm chầm lấy cơ thể mềm mại của Kesyrt.
- Đừng đi.
Tôi xin cô. Hãy ngồi lại với tôi một lát, tôi rất xin cô. - Tsanka năn nỉ.
Kesyrt sững
lại trong tư thế đó, không nói gì.
- Thôi được
rồi, nhưng với một điều kiện, anh phải cư xử cho đúng mực. - Kesyrt ra lệnh.
- Được, được.
Nhất định rồi. Phải như vậy. - Tsanka buồn bã vội đáp.
Hai người
lại ngồi xuống cạnh nhau, im lặng nhìn về phía trước.
- Anh biết
không, Tsanka. - Kesyrt chuyển sang giọng mỉa mai. - Tôi đã tìm được cho anh một
cô vợ chưa cưới, đẹp như tranh vẽ, tên là Lartsa ở làng Agishta, con gái ông
Gani. Chính cô ấy mới xứng làm vợ anh. - Kesyrt vui vẻ nói, nghiêng đầu vào vai
Tsanka, đôi môi gần như chạm vào tai cậu.
Sự đụng chạm
gần gũi của cơ thể người yêu dấu bất giác làm Tsanka mất hết tự chủ. Một tình cảm
mãnh liệt lại choán ngợp tâm trí cậu. Không thể kìm được, cậu đưa bàn tay xương
xẩu của mình đặt lên bàn tay mềm mại của Kesyrt, cảm nhận được hơi ấm và làm da
mịn màng của bàn tay nhỏ bé.
- Tôi sẽ
giới thiệu anh với Lartsa nhé? - Kesyrt không phản ứng lại với những đụng chạm
của Tsanka, tiếp tục trêu.
- Tôi không cần
Lartsa của cô. - Tsanka nổi nóng, thở dồn dập, tim đập thình thịch.
- Sao tay
anh lạnh thế? - Kesyrt hỏi, vẫn bằng giọng đó.
- Kesyrt,
Kesyrt, tôi không thể sống thiếu cô. - Tsanka kêu lên.
Tsanka nắm
chặt tay Kesyrt, cố kéo về phía mình. Kesyrt sợ hãi đứng dậy, rút tay ra. Nhưng
Tsanka đã mất bình tĩnh, lẩm nhẩm cái gì đó, định ôm chầm lấy Kesyrt trong bóng
tối.
Kesyrt hoảng
hốt lùi lại, đẩy mạnh hai nắm tay vào ngực Tsanka. Bị đẩy bất ngờ, Tsanka mất
thăng bằng, trượt chân trên mặt đất ướt, choãi ra. Cậu cố đứng thẳng dậy nhưng
không được, lăn xuống suối, hai cánh tay dài quều quào bất lực. Dòng nước suối
chảy mạnh cuốn ngay lấy cậu, kéo xuống phía dưới. Tuy nhiên, trong bóng tối
Tsanka vẫn bám được vào một tảng đá to và leo lên bờ, cả người ướt sũng, Cậu ngồi
xổm, nhẫn nhục lấy tay xoa vết xước ở đầu gối, nhìn theo bóng cô gái đang khuất
dần.
Trong lúc đó,
Kesyrt cầm khăn và tấm vải trải giường, vội vã chạy ngược lên bờ dốc cao, vào
sân cối xay nước. Vầng trăng lưỡi liềm bắt đầu hiện lên sau dãy núi. Từ thung
lũng vọng lại tiếng trống dồn dập của điệu nhảy Lezghinka. Hình như ở đâu đó
đang có cuộc vui. Từ làng Duts-Khote vọng lại tiếng gà gáy sáng đầu tiên. Con
mèo đen của bà Haza kêu meo meo, dụi đầu vào chân Kesyrt. Từ phía cánh rừng vọng
lại tiếng quạ kêu lanh lảnh, thê lương “quạ, quạ”.
Kesyrt còn
đứng rất lâu, nghĩ về điều gì đó, rồi cô nhìn lên bầu tời thăm thẳm đầy sao,
thì thầm:
- Cầu xin
Thượng đế tha tội cho con. Em cũng cầu xin anh Salakh hãy tha thứ cho em... Em
không thể chịu đựng hơn được nữa... em đã yêu anh ấy... khao khát anh ấy, em rất
muốn... Anh ấy cũng trẻ như anh, Salakh ạ. - Kesyrt nhớ lại người chồng đầu
tiên của mình. - Xin anh hãy tha lỗi cho em... Em rất khổ tâm...
Kesyrt còn
đứng một lát nữa, đầu cúi xuống như đang chờ đợi sự trừng phạt của Đấng tối
cao. Nhưng Kesyrt không thể chờ lâu, cô chậm chạp bước xuống suối, đôi chân run
rẩy, hai tay bất lực vung lên, rạo rực đến đứng như pho tượng trước mặt chàng
trai đang ngồi co ro.
Tsanka
nhìn thấy Kesyrt đi như người mộng du, cậu sợ hãi nhìn lên khuôn mặt mờ mờ của
cô, nhận ra tia sáng lấp lóa trong đôi mắt. Cậu không biết phải làm gì, xử sự
ra sao, còn Kesyrt vẫn cứ đứng ngay bên cạnh, câm lặng ngẩng cao đầu.
- Kesyrt,
Kesyrt. - Tsanka khẽ thì thào, nhích đến gần Kesyrt.
Kesyrt
không nói gì cả, vẫn đứng im không nhúc nhích.
Tsanka bò
đến sát Kesyrt, đường viền cơ thể cân đối của cô in rõ trên nền trời đêm. Không
còn nghĩ đến điều gì nữa, Tsanka nhổm dậy, ôm chặt lấy cô, ép vào cái bụng ấm
áp của cô, rồi cậu ngẩng đầu lên, cảm nhận được hai giọt nước mắt to và mặn
chát rơi xuống khuôn mặt ướt của mình. Tsanka đứng lên, đưa hai bàn tay to đỡ lấy
đầu cô, nhìn sát vào đáy mắt và thấy Kesyrt đang khóc. Tsanka dịu dàng, lập cập
ôm vai cô, và qua lớp quần áo ướt cậu cảm thấy trái tim Kesyrt đang đập yếu ớt,
như con chim sẻ bị tóm trong bàn tay.
* * *
... Trong
đêm đó, trên khắp mặt đất này chỉ còn lại hai người bên nguồn nước trong vắt
như mối tình của họ.
Sáng sớm
hôm sau hai người chia tay, họ nắm tay nhau rất lâu, cả hai đều hạnh phúc.
Kesyrt tiễn
Tsanka đi một đoạn khá xa, lúc chia tay, hai người âu yếm ôm hôn nhau.
- Cám ơn
anh, Tsanka! Rất cám ơn anh! - Cô gái thì thào bên tai chàng trai.
- Chính
tôi mới phải cám ơn Kesyrt yêu quý! Cho phép tôi ngày mai đến nhé! - Tsanka thì
thầm bên tai Kesyrt.
- Anh đi
đi, - Kesyrt dịu dàng mỉm cười, đẩy Tsanka. - Trời sáng rồi.
Tsanka
quay đi, chốc chốc lại đắm đuối ngoái đầu nhìn lại, vẫy tay...
Đó là một
trong số những đêm hạnh phúc nhất trong cuộc đời Tsanka.
... Về đến
nhà, Tsanka thấy mẹ ngủ ngay cạnh cửa. Bà chỉ ngủ bằng một mắt và một tai,
ngóng chờ đứa con cả.
- Con ở
đâu thế? - Bà mẹ nghiêm khắc hỏi, còn trong lòng lại cảm thấy vui mừng vì thằng
con yêu quý trở về. - Con dự cuộc vui ở Tovzan.
- Sao ướt
hết thế kia? - Bà mẹ đến sát cậu con trai, gặng hỏi.
- Mồ hôi đấy.
- Cậu phẩy tay rồi đi ngủ.
Mẹ Tsanka
không nói gì cả, nhưng bằng linh cảm của phụ nữ, bà nhận ra mùi đàn bà và đàn
ông từ người cậu.
Bà cảm thấy
có đều gì đó không hay.
Rạng sáng,
bà chạy đến nhà ông anh chồng.
- Lẽ ra phải
cưới vợ cho nó từ lâu, - ông Baki-Haji lo lắng nói. - Đơn giản vậy thôi, nhưng
chú em tôi đã mất rồi...Đến mùa thu này nhất định phải cưới vợ cho nó. Còn cô,
phải để mắt đến nó, bắt làm việc nhiều vào. Một tiếng nữa gọi nó dậy rồi bảo đến
gặp tôi.
Suốt ngày
hôm ấy, ông Baki-Haji giao cho Tsanka phải vận chuyển hết số cỏ đã cắt từ trên
núi về làng. Tranh thủ mọi lúc, Tsank nằm xuống ngủ. Buổi chiều, trước khi mặt
trời lặn, cậu ăn thật no rồi đi ngủ sớm. Khi trời vừa tối hẳn, cậu bật dậy,
băng qua vườn rau chạy ra ngoài làng rồi thẳng đến cối xay nước.
Buổi tối
hôm ấy hoàn toàn khác hẳn. Cả hai như có linh cảm hạnh phúc của họ không kéo
dài mãi. Hai người quấn quýt bên nhau cho đến tận sáng.
Cả hai
không một lần cười hay mỉm cười.
- Tsanka,
- đột nhiên Kesyrt thì thầm vào tai cậu. - Anh hãy nói thật đi... Bây giờ anh
còn muốn lấy Kesyrt nữa không?
Tsanka
quay ngoắt lại, nhìn thẳng vào mắt Kesyrt. Trời đã sáng. Cậu nhìn thấy, chỉ sau
một đêm, đôi mắt đen của cô trở nên hốc hác và thâm quầng. Kesyrt nhìn lên trời
chứ không nhìn cậu.
- Muốn. -
Cậu đáp bằng một giọng cương quyết. - Thế còn Kesyrt?
Cô gái im
lặng.
- Sao
Kesyrt không trả lời tôi? - Tsanka gặng hỏi. - Trả lời tôi đi... tôi xin cô.
Kesyrt còn
im lặng một lúc lâu nữa, sau đó cô vẫn nhìn lên trời, khẽ đáp:
- Tsanka ạ,
chuyện của chúng ta sẽ chẳng đi đến đâu. Tất cả bà con họ hàng nhà anh sẽ nguyền
rủa tôi. Không sống nổi đâu... Mà tôi sẽ già nhanh lắm, còn anh vẫn còn trẻ,
anh sẽ nhòm ngó đến các cô gái khác. Tôi sẽ không chịu đựng nổi điều đó... Và
điều quan trọng, như tôi đã nói, họ hàng nhà anh sẽ không chúc phúc cho chúng
ta.
- Nếu vậy,
chẳng lẽ chúng ta cứ phải trốn trong bụi sao?
Kesyrt
không đáp lại, cặp mắt ngấn nước. Tsanka dịu dàng ôm hôn và vuốt ve cô. Cậu thề
sẽ mãi chung thủy, năn nỉ cô làm vợ mình, dọa sẽ bắt cóc cô...
Tsanka về
nhà khi mặt trời lên khá cao. Mẹ đang vắt sữa bò, không nói gì cả. Tsanka chui
vào gian phòng trước kia là của cha, nằm vật xuống ngủ.
Một tiếng
sau, Tsanka bị đánh thức dậy và được biết, cậu với ông chú họ Basnak cùng với
hai người chăn cừu thuê Dagestan phải đưa đàn cừu của ông Baki-Haji, băng qua
Vedeno và Botlikh, đến chỗ những người Lezghin ở Azerbaijan, vốn là bạn của ông
linh mục. Ông già biết rõ, một thời kỳ khó khăn đã bắt đầu.
Theo tính
toán của những người cao tuổi, chỉ cần năm, sáu ngày là giải quyết xong công việc.
Tuy nhiên Basnak và Tsanka phải mất hai mươi bốn ngày mới quay về. Đàn cừu bán
được, nhưng cả hai phải chịu bao khổ sở.
Mệt mỏi vì
chuyến đi dài, Tsanka ngồi dưới mái hiên, ăn món thịt gà tây. Mẹ và em gái nấu
mứt dẻo anh đào trong chiếc chảo gang to. Các bà hàng xóm ngồi quanh.
- Đúng là
con ngốc. - Một bà hàng xóm nói. - Nó phát điên lên rồi.
- Phải,
lúc nào cô ta cũng không bình thường như vậy. - Bà khác đế vào.
- Nhưng
con ngốc ấy cũng gặp may, - mẹ Tsanka tham gia vào câu chuyện. - Lấy được ông
chồng giàu như thế, mũi lại hểnh lên.
- Họ bảo,
bà Haza phải lấy roi đánh cho nó một trận, nguyền rủa nó, bắt nó phải đồng ý.
Miếng thịt
gà mắc nghẹn trong cổ họng, Tsanka ho sặc sụa, đỏ mặt tía tai. Cậu bật dậy, chạy
ra chuồng ngựa, dắt con ngựa chưa kịp ráo mồ hôi sau chuyến đi xa, chẳng cần
đóng yên, choàng dây cương lên, rồi phi ra khỏi sân. Mọi người đều hết sức ngạc
nhiên. Chỉ có mẹ Tsanka là hiểu hết mọi chuyện. Bà lặng lẽ ra ngồi ở mép hiên,
thở dài nặng nề.
Mười lăm
phút sau, Tsanka đã có mặt trong sân cối xay nước. Bà Haza hồ hởi thông báo cặn
kẽ mọi tin tức cho Tsanka. Hóa ra chiều hôm qua, người ta đã đưa Kesyrt đến
làng Kurtsaloi xa tít dưới đồng bằng. Chồng Kesyrt là một người đàn ông đã có
tuổi, giàu có, góa vợ.
Tsanka khổ
sở xuống ngựa, đi xuống nguồn nước, ngồi rất lâu trên chiếc ghế băng thân thuộc.
Sau đó cậu vã nước lạnh lên rửa đôi mắt đỏ hoe vì khóc, chẳng thèm chào bà
Haza, nhảy lên ngựa, phi xuống thung lũng Vashandaroi, bên tai văng vẳng bài
dân ca buồn:
Chàng kỵ sĩ cô đơn phi trên núi,
Con dao găm lấp lánh ánh bạc,
Trên cánh đồng, anh không là chiến binh,
Nhưng trong núi, như đại bàng dũng mãnh.
Giờ đây, chàng kỵ sĩ vội đi đâu,
Ra roi thúc ngựa, tìm khắp núi rừng,
Tìm người Môrơ hay người Cơ đốc,
Hay kẻ nô lệ bần cùng nổi loạn?
Không, ở đấy mọi chuyện đều ổn,
Thậm chí đang là ngày cưới,
Người yêu của chàng
Bị ép gả cho nhà giàu.
Ơi chàng kỵ sĩ dũng mãnh ơi,
Hãy quất cho ngựa lồng lên,
Phi nhanh đến đám cưới...
* * *
Vào một buổi
chiều tháng Bảy oi bức, có một phái đoàn quan trọng từ Grozny và Shali đến làng
Duts-Khote.
Một cuộc
mít tinh được tổ chức thông qua phiên dịch để khai hóa quần chúng. Người ta nói
về sự ưu việt của chính quyền Xô viết, về kẻ thù cách mạng, về những kẻ phú
nông nào đó, về bè lũ phản động và tình trạng hỗn loạn.
Ngay trong
buổi chiều hôm đó, họ quyết định bầu ủy viên thư ký của Ủy ban cách mạng, tức
là trợ lý thứ nhất của chủ tịch ủy ban Tashady Khasanov, trực tiếp điều hành
làng Duts-Khote.
Sau cuộc
tranh luận ngắn gọn, người ta bầu ông Kosum Arachaev vì ít ra ông cũng là người
có học, tận tụy và được mọi người kính trọng.
Hai ngày
sau, Tashady Khasanov và ông Kosum Arachaev được triệu tập đến Shali để nhận kế
hoạch giao nộp nông sản cho nhà nước. Các số liệu rất không chính xác, cao hơn
nhiều so với thực tế. Tuy nhiên chẳng ai quan tâm đến sự phản đối của ông
Kosum. Chẳng những thế, mỗi gia đình còn phải đóng một khoản thuế bằng tiền mặt.
Dân làng
Duts-Khote tỏ ra bất bình, phẫn uất và mất niềm tin, họ công khai cười nhạo vào
sự ngớ ngẩn của chính quyền. Chỉ có ông Baki-Haji là nghiêm túc nói:
- Nếu quân
đỏ bắt dân phải cống nộp, tức là họ đã củng cố vững chắc và xây dựng xong chính
quyền của mình. Họ đang thiết lập nhà nước, và cái nhà nước này sẽ vặn cổ chúng
ta.
Từ từ
nhưng chắc chắn, các Xô viết bắt đầu siết chặt đai ốc. Tất cả mọi việc đều có
giới hạn, kể cả trong buôn bán, đổi chác, thậm chí ngay cả việc đi lại từ nơi
này khác cũng vậy. Mọi quyền hành tập trung vào chủ tịch Ủy ban cách mạng.
Không có giấy phép của Xô viết địa phương, việc đi lại từ Duts-Khote đến Shali
sẽ rất nguy hiểm, còn đến Grozny hay Gudermes thì càng khó khăn. Tất cả mọi
công việc đều được quy định chặt chẽ, mọi kiến nghị chỉ có thể được chấp nhận
dưới sự kiểm tra của ủy ban.
Người ta bắt
đầu chụp mũ cho dân chúng: nào là thành phần phú nông Cu lắc, kẻ thù giai cấp,
kẻ phá hoại, kẻ cướp, kẻ đầu cơ.
Chỉ có những
kẻ đê tiện, nói cho đúng hơn là vô công rồi nghề, nghiện ngập, bê tha là cảm thấy
hạnh phúc.
Bất cứ một
thủ đoạn mị dân nào cũng được khuyến khích, nhất là trong các cuộc mít tinh. Những
lời góp ý thiết thực, xác đáng đều bị coi là phản dân, phản cách mạng. Dân
chúng đành phải cam chịu, hy vọng chuyện này sẽ qua mau, rằng các Xô viết sẽ từng
bước trở nên ổn định và chuẩn mực. Nhưng cuộc sống càng ngày càng tồi tệ. Nông
dân bị tách khỏi ruộng đất, cày cuốc và niềm hăng say làm việc. Người ta tuyên
bố về sự bình đẳng toàn diện, đặc biệt là bình đẳng trong hưởng thụ.
Các Xô viết
đã đi theo con đường dễ dàng: không thể tạo được sự bình đẳng giàu có, thì tạo
nên sự bình đẳng nghèo khổ. Mức độ giàu có được xác định bằng các tiêu chí khác
nhau, còn mức độ nghèo khổ thì đều giống nhau.
* * *
Tsanka vô
cùng đau khổ. Thế giới xung quanh trở nên trống rỗng, cuộc sống mất hết mọi ý
nghĩa. Trông cậu hốc hác, gầy như cây sào. Tsanka bực tức với tất cả mọi người,
làm trái ý người lớn, lang thang một mình rất lâu trong núi, trong rừng. Chỉ đến
tận bây giờ Tsanka mới hiểu ra rằng, Kesyrt có ý nghĩa như thế nào đối với cậu.
Tsanka cảm thấy tiếc nuối tất cả, cậu chỉ sống bằng quá khứ.
Hằng đêm,
Tsanka nằm mơ thấy Kesyrt, lúc nào cũng buồn bã, lo âu, khóc lóc. Cậu nhớ
Kesyrt, khát khao tình yêu và những cử chỉ âu yếm của cô. Cậu nghĩ, cuộc sống đến
đây là kết thúc, cậu sẽ không bao giờ có hạnh phúc, niềm vui và tình yêu nữa.
Đôi khi cậu
muốn phóng đến làng Kurtsaloi tìm Kesyrt, để được nhìn ngắm cô, có thể nói chuyện
với cô nữa. Cậu nghĩ sẽ thuyết phục được Kesyrt bỏ trốn với mình đến nơi cùng
trời cuối đất.
Ban ngày nỗi
đau lắng xuống, công việc đồng áng giúp cậu tạm quên đi những ý nghĩ đau khổ và
những ảo mộng trong đêm. Khoảng hơn một tháng sau, cậu bắt gặp mình với ý nghĩ:
Kesyrt đáng bị nguyền rủa vì sự bạc tình và phản bội. “Rõ ràng là cô ấy lang chạ
không chỉ với mình mà còn với nhiều người khác”, - Tsanka cố thuyết phục mình
như thế, và điều đó giúp cậu thanh thản hơn, tự do hơn.
Nhưng rồi
đêm đêm, Tsanka lại bị dằn vặt bởi những ý nghĩ hèn hạ đó. Tuy nhiên, chỉ có
nghĩ như vậy cậu mới cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng, và thế là cậu lại nghĩ xấu về
Kesyrt, mặc cho trí tưởng tượng bệnh hoạn của mình nghĩ ra đủ chuyện. Những
tình cảm trái ngược nhau làm cõi lòng Tsanka tan nát. Cậu yêu Kesyrt nhưng đồng
thời lại căm ghét cô, và điều đó lại càng làm cậu khổ sở hơn. Tâm trí cậu trở
nên bấn loạn, không tìm được sự thanh thản và yên ổn trong lòng.
Cuối cùng,
thói ích kỷ đã lấn át tất cả. Người ta bảo, khi gấu mẹ muốn ăn thịt gấu con, nó
làm cho con mình trở nên bẩn thỉu. Tsanka bôi xấu người yêu của mình cũng bằng
cách ấy, cậu muốn xóa bỏ hoàn toàn hình bóng của Kesyrt ra khỏi tâm trí. Đôi
khi, cậu lại muốn Kesyrt ly hôn và đau khổ, rồi hằng đêm cậu lại đến gặp
Kesyrt, lại chui vào bụi và nằm trên bãi cỏ để thỏa mãn dục vọng của mình...
Đêm đêm,
Tsanka lại mơ thấy Kesyrt xinh đẹp mỉm cười với mình. Còn cậu dịu dàng, nồng
nhiệt, quấn quýt với cô. Tỉnh lại sau những giấc mơ như thế, Tsanka cảm thấy một
sự trống rỗng, bất lực, đau buồn và tan nát.
Tsanka nhớ
lại những chi tiết nhỏ nhặt nhất trong hai đêm bên người yêu. Bất giác cậu sực
nhớ đến người đẹp Lartsa ở Agishta mà Kesyrt đã nhắc đến. Đầu óc cậu rối bời. Để
trêu tức Kesyrt và mọi người, Tsanka quyết định chinh phục trái tim của người đẹp
không quen biết kia, người mà thậm chí cho đến giờ cậu cũng chưa biết mặt.
Do công việc
gia đình bận rộn, suốt một thời gian dài Tsanka chưa thể đến làng Agishta. Cuối
cùng cậu mới thoát ra được và đi cùng với Kurto. Trong ngôi làng nhỏ bé
Agishta, việc tìm ra cô con gái Lartsa của ông Gani chẳng có gì khó khăn. Dẫu
không biết mặt và cũng chẳng hình dung nổi hình dạng Lartsa ra sao, nhưng hai
chàng trai vẫn quyết định bỏ qua giai đoạn thăm dò, tấn công ngay lập tức. Hai
cậu nhờ bà hàng xóm sang nhà Lartsa xin một cuộc hẹn, nhưng kết quả chỉ là lời
từ chối.
Chiều hôm
sau, mọi việc lại diễn ra y như vậy. Đến lúc này thì Tsanka tức giận thật sự,
thậm chí còn cảm thấy ngượng với bạn.
Cách một
ngày nữa, hai chàng lại đến làng Agishta và được biết, Lartsa đã đi gặp một
thanh niên khác. Sự tò mò tăng lên.
- Ít ra
chúng ta cũng phải đến xem mặt cô ta chứ. - Kurto khăng khăng.
- Không cần,
- Tsanka lẩm bẩm vẻ không hài lòng, nhưng chính mình lại đi về hướng đó.
Vào buổi
chiều, khu vực bên nguồn nước là nơi các thiếu nữ hò hẹn với các chàng trai đến
từ khắp vùng. Các cặp tình nhân đứng bên nhau, bàn tính chuyện tương lai.
Mặc dù
Kurto và Tsanka chưa gặp Lartsa lần nào, nhưng hai cậu đã nhanh chóng xác định
được cô ta. Tsanka chỉ liếc qua cô gái, điều làm cậu quan tâm hơn chính là
chàng trai đang đứng trước mặt cô với nụ cười rạng rỡ trên môi. Cậu nhận thấy
chiếc áo choàng cherkeska màu boóc-đô được may bằng vải tốt, đôi ủng bốc-can,
và điều quan trọng nhất là con ngựa ô tuấn tú, khỏe mạnh.
Kurto thì
ngược lại, chỉ để mắt đến cô gái. Sau đó, lúc trên đường về nhà, Kurto tỏ ra rất
thích cô gái, còn Tsanka lại nghĩ về chuyện khác. Qua một ngày nữa, theo lời bà
hàng xóm, trong sân nhà ông Gani sẽ có một cuộc vui để bà con trong làng giúp
ông lảy xong số ngô đã thu hoạch. Tsanka suy tính, cậu sẽ trang phục đàng
hoàng, chính thức đến xem mặt cô ta.
Nhưng
Tsanka chẳng có bộ quần áo nào tử tế cả, toàn quần áo cũ mèm của cha cậu để lại,
phải đi mượn. Về kích thước, chỉ có chú ruột Kosum và chú họ Basnak là vừa.
Nhưng ông Basnak chẳng quan tâm lắm đến chuyện trang phục, lúc nào cũng luộm
thuộm, còn ông Kosum thì ngược lại, thích ăn diện bảnh bao.
Sáng hôm
sau, Tsanka sang nhà ông Kosum, than phiền với bà vợ ông về nỗi khổ của mình.
Bà Soby hào phóng và tốt bụng nhanh chóng hiểu ra vấn đề liền mang ra cho cậu
xem những bộ quần áo đáng giá nhất của ông chồng. Hai người thử rất lâu, tất cả
đều hơi rộng và ngắn.
- Ôi, giá
mà có con Kesyrt ở nhà, chỉ trong một giờ là nó sửa xong ngay. - Bà Soby thở
dài.
Tsanka
đang cởi chiếc áo cherkeska của ông chú ra, vừa nghe bà già nhắc đến Kesyrt, cậu
sực nhớ, cả đêm qua cậu không hề mơ tới Kesyrt, cũng chẳng bị lương tâm cắn rứt
mà còn cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng nữa.
Thật may
cho Tsanka, có một chiếc áo cherkeska khá vừa với cậu.
Đúng lúc ấy,
ông Kosum thức dậy bước ra sân. Ông mỉm cười thông cảm với nỗi lo của chàng
trai.
- Chú tặng
cháu chiếc áo ấy đấy. Cứ mặc đi. - Vừa nói ông Kosum vừa dịu dàng vuốt ve đứa
cháu yêu quý đã lớn phổng lên.
Ngày hôm
sau, vừa bước vào sân nhà Tsanka, Kurto không nhận ra bạn mình nữa.
Bên ngoài
chiếc áo cherkeska may bằng vải tốt, còn có hai băng đạn bọc bạc trên ngực và
chiếc thắt lưng trang trí hoa văn, treo lủng lẳng con dao găm ngắn cán bạc của
ông Baki-Haji đặt làm tận Atagakh, dưới chân là đôi ủng bốc-can của ông Basnak
được đánh bóng bằng mỡ bò.
Tuy nhiên,
điều quan trọng không phải là những thứ đó. Bà vợ ông Baki-Haji, để cạnh tranh
với cô vợ chưa cưới tương lai, cũng muốn hào phóng phô trương, liền lấy con ngựa
đực của chồng cho cậu cưỡi. Con ngựa tía nổi tiếng khắp vùng về sự nhanh nhẹn
và dáng vóc tuấn tú. Ông linh mục phải đổi khá nhiều bò sữa để lấy con ngựa. Một
năm ông chỉ đôi lần đưa nó ra ngoài, và trong những dịp thật đặc biệt - cuộc
đua hay đám cưới.
Tất cả
hàng xóm láng giềng đều tò mò nhìn qua hàng rào, theo dõi sự chuẩn bị long trọng
cho chú rể tương lai.
- Được rồi,
nếu hôm nay mà mày không mang cô dâu về thì chúng ta cũng không biết phải làm
gì với mày nữa. - Bà Hadizhat vung đôi tay mập mạp, nói to.
- Bất cứ
người đẹp nào cũng phải chạy theo một thằng thanh niên như thế này, - bà Soby
nói.
Chỉ có mẹ
Tsanka là không nói gì cả, bà chỉ lắc đầu cầu xin Thượng đế phù hộ cho đứa con
trai của mình thoát khỏi mọi tai ương và đổ vỡ.
- Cẩn thận
đấy, đừng phóng ngựa nhanh quá, phải kìm nó lại, không được cho nó ăn uống ở
đâu cả, - ông Baki-Haji lo lắng nhắc đi nhắc lại, vuốt ve con ngựa tía yêu quý
của mình.
Tsanka
không nghĩ mình lại được quan tâm đến thế, mặt mũi đỏ bừng vì xấu hổ, nhưng
trong bụng rất vui.
Tsanka rời
làng Duts-Khote khá sớm. Cậu bạn Kurto cưỡi con ngựa cái của ông Baki-Haji tặng
cho Tsanka, con ngựa non để ở nhà. Con nghẽo già tỏ ra không hài lòng, hí luôn
miệng, tận dụng mọi cơ hội để cắn con ngựa tía. Con kia hào hiệp chìa mông ra,
rồi dừng lại hít hít đuôi con ngựa cái. Chuyện ve vãn của những kẻ bốn chân
không nằm trong dự kiến nghiêm túc của các chàng trai nên các cậu phải lấy roi
quất cho chúng đi cách nhau. Tuy nhiên, mỗi khi các cậu lơ đễnh là chúng lại
làm theo ý mình.
- Toàn bộ
thế giới này, cả con người lẫn động vật, chỉ bận tâm mỗi một việc, - Tsanka
nhìn con ngựa tía không bị thiến của mình đang cố gí mũi vào mông con ngựa cái,
thầm nghĩ.
Các chàng
trai làng Duts-Khote không ngờ mình lại gây ấn tượng mạnh đến thế đối với dân
làng Agishta. Gần như nửa làng đổ xô ra nhìn ngắm. Thật ra, không phải họ nhìn
hai chàng trai, mà là nhìn hai con ngựa. Tsanka, bay lên chín tầng mây vì thích
thú, làm ra vẻ quan trọng, thậm chí quên bẵng cả mục đích của chuyến đi.
Trong lúc
đó buổi liên hoan đã bắt đầu. Các cô gái ngồi thành một hàng, trước mặt là một
đống bắp ngô. Các chàng trai ngồi đối diện với họ, nhưng chừa ra một khoảng sân
để khiêu vũ. Kurto và Tsanka, với tư cách là các vị khách danh dự đến từ xa
trên những con ngựa đẹp nên được mời ngồi ở chính giữa. Trước mặt cậu hóa ra lại
là Lartsa con gái ông Gani.
Tiếng đàn
phong cầm, tiếng trống nổi lên, không khí bắt đầu vui vẻ, còn công việc của các
cô gái thì quá đơn giản.
Trong buổi
lễ, cũng như các lễ hội Chechnya khác, đám thanh niên trao đổi với nhau những
câu đối đáp giao duyên và những ánh mắt đầy ý nghĩa, thông qua các bà sồn sồn,
họ có thể gửi cho nhau bất cứ lời đề nghị quan trọng nào, hay tiếng gọi của
trái tim. Bằng cách giao tiếp như thế, mỗi cô gái chỉ có thể đối thoại với một
chàng trai. Và trong trường hợp đồng ý hay từ chối, cô gái phải thông báo ngay
với người ái mộ mình. Cùng với việc giao duyên đó, cô gái có thể khiêu vũ khi
được mời.
Chẳng cần
đợi đến nghi lễ chính thức giới thiệu chung, qua người phụ nữ-trung gian,
Tsanka gửi đến Lartsa lời đề nghị, liệu cô có muốn cùng cậu bước lên con đường
tình ái vui vẻ, mà trong trường hợp cụ thể này là cho phép cậu được ve vãn, tán
tỉnh cô. Cô gái từ chối.
Tsanka nổi
giận, mặt mũi đỏ bừng, lấy gói thuốc sợi mà cậu đã trộm của ông Kosum ra, quấn
đốt liên tục hết điếu này đến điếu khác.
Lát sau, ý
trung nhân của Lartsa xuất hiện, đó là một thanh niên khoảng ba mươi tuổi, má đỏ
hồng, khỏe mạnh. Tên anh ta là Baid Alaev, gốc gác ở làng Khatuni.
Khi cuộc
khiêu vũ bắt đầu, một trong số những người đầu tiên được Kurto mời nhảy là
Lartsa. Khi cô gái bước ra giữa vòng tròn, Tsanka sững người, điếu thuốc dính
chặt trên môi.
Lartsa là
cô gái xinh đẹp, dáng cao, da trắng, tóc màu hạt dẻ, mắt xanh. Nhưng điều quan
trọng nhất là cô còn rất trẻ. Tsanka nhận ngay ra điều đó và bất giác so sánh với
Kesyrt.
Tsanka mê
mải ngắm và không thể không liên tưởng tới Kesyrt như một trái cây quá chín.
“Đúng, cần phải chọn một cô gái trẻ đẹp và trong trắng như thế này để làm vợ”,
- cậu thầm nghĩ, mắt vẫn không rời khỏi người đẹp.
Nhưng có
điều gì đó như còn thiếu nơi Lartsa. Cô không có cái nét yêu kiều và thanh tú bẩm
sinh, cũng không có một sức mạnh nội tâm và nghị lực như Kesyrt.
Thậm chí
Tsanka còn nhận thấy Lartsa có vẻ đỏng đảnh và kênh kiệu, cô ta tỏ ra rất hời hợt
trong điệu nhảy cũng như trong công việc. Và điều quan trọng nhất, trong con
người Lartsa không thấy toát lên lòng nhiệt huyết và ngọn lửa sống.
Dẫu vậy,
suốt cả buổi tối Tsanka vẫn không rời mắt khỏi Lartsa. Cậu có cảm giác cô ta liếc
xéo về phía mình. Tsanka khiêu vũ với Lartsa hai lượt, nhưng cậu bị lỗi nhịp đến
vài lần.
Ngày hôm
sau, cả làng Duts-Khote không ngớt bàn tán về chuyện tình duyên của cậu con
trai nhà Arachaev. Chuyện đơm đặt còn nhiều hơn cả chuyện thật, còn Lartsa thì
được mô tả như người đẹp trên thiên đàng.
Tsanka chẳng
còn cách nào hơn là phải xuôi theo dòng chảy đồn đại ấy, cậu phải làm ra vẻ
quan trọng và cố sống cố chết chinh phục trái tim cô con gái ông Gany.
Hai ngày
sau cuộc vui, Tsanka và Kurto lại đến làng Agishta với hy vọng sẽ gặp được
Lartsa. Và họ rất ngạc nhiên khi Lartsa đồng ý bước ra gặp họ.
Tsanka trò
chuyện với cô gái, và càng lúc càng cảm thấy thất vọng. Cậu phát hiện ra Lartsa
có rất nhiều nhược điểm. Nào là môi dưới to, trễ xuống như môi ngựa, lại còn
nói đớt, lúc nào cũng õng ẹo, kênh kiệu, không trả lời được một cách rành mạch
và dứt khoát bất cứ câu hỏi nào của cậu. Và điều quan trọng nhất - Tsanka có cảm
giác, khi cười khuôn mặt cô ta trở nên kỳ lạ, thậm chí hơi có vẻ ngây ngô nữa.
Trên đường
về, Tsanka kể cho Kurto nghe tất cả những điều đó. Kurto văng tục ầm ĩ, cố bênh
vực người đẹp, kết tội Tsanka là thành kiến và cao ngạo.
Tuy nhiên,
dù có điều gì xảy ra đi nữa thì bà con họ hàng của Tsanka vẫn nghiêm túc quyết
định phải cưới vợ cho cậu.
Chính bản
thân Tsanka bị loại ra khỏi kế hoạch để nhường chỗ cho các bà nhảy vào cuộc.
Bà
Hadizhat ngu ngốc và vô công rồi nghề tự nhận vai trò tiên phong. Hai lần bà trực
tiếp đến thẳng nhà Lartsa, trò chuyện với cô ta, tâng bốc Tsanka lên tận mây
xanh và tặng cô dâu tương lai một ít quà.
Còn bà con
họ hàng của đối thủ Alaev ở làng Khatuni cũng không ngủ quên. Bản thân Baid
Alaev ngày nào cũng đến vờn múa trên con tuấn mã của mình, hẹn hò với Lartsa.
Trong khi đó, ông Baki-Haji không cho Tsanka mượn con ngựa tía của mình nữa. Cậu
cảm thấy xấu hổ khi xuất hiện ở đó trên con nghẽo già, mà tệ hơn nữa lại là ngựa
cái.
Cuộc quyết
đấu không còn là một trò đùa nữa. Tsanka hiểu rằng, trong cuộc chơi này, mọi việc
không phụ thuộc vào cậu. Cậu chán ngán thừa hiểu điều đó và cảm nhận rất rõ, tất
cả chuyện này đều là giả tạo, thậm chí đáng ghét nữa. Tuy nhiên, Tsanka không
thể cưỡng lại sự cuồng nhiệt đã cố tình được thổi phồng lên.
Bà
Hadizhat tính khí thất thường và phát phì lên vì vô công rồi nghề, bỗng dưng
tìm thấy cho mình một công việc, liền tham gia hăng hái đến mức không chỉ
Tsanka, mà ngay cả Lartsa và họ hàng của cô ta nữa cũng phải né tránh.
Trước sự
săn đón và hâm mộ như vậy, Lartsa trở nên kênh kiệu như một nữ hoàng và tuyên bố
công khai, trong số hai người đang tán tỉnh mình, cô sẽ lấy người về nhất trong
cuộc đua ngựa được tổ chức ở làng Germentsuk vào mùa thu.
Nghe
Lartsa nói vậy, Tsanka từ chối tham gia cuộc thi và từ bỏ luôn “con ngốc kênh
kiệu” đó. Nhưng các bà phụ nữ lại la ầm lên:
- Sao lại
thế, chẳng lẽ dòng họ Arachaev chịu thua hay sao... Nó sợ cuộc đua à. Trong khi
chúng ta có con ngựa tốt nhất vùng. Chúng ta... Giá mà vào tay tôi... - và đại
loại như vậy.
Còn ông
Baki-Haji thì nổi giận thực sự.
- Chúng ta
cần gì cái con bé tự cao tự đại ấy! Quỷ tha ma bắt nó đi cho rồi! Lại còn đặt
điều kiện này nọ nữa. Đẹp đẽ gì cái thứ ấy. - Ông bực mình hét toáng lên khắp
làng bằng cái giọng già nua the thé của mình.
Khi bà vợ
khuyên ông không nên nói nữa, ông vẫn gào lên với bà con họ hàng:
- Tôi sẽ
không cho mượn ngựa... Nó chưa được huấn luyện để tham gia cuộc đua. Tôi đang vỗ
béo nó để giao phối. Có thấy bụng nó to ra không. Nó không phi được đâu, nhất
là lại mang thằng Tsanka nặng nề trên lưng nữa.
Đến lúc
này thì ông Kosum mới can thiệp vào. Ông Kosum làm cho ông Baki-Haji phải cảm
thấy xấu hổ khi nhắc cho ông kia nhớ rằng, Tsanka là con trai cả của ông Aldum,
và ông Aldum quá cố sẽ nghĩ sao, khi biết ông anh cả tiếc con ngựa, cho dù đó
là con ngựa quý thế nào đi nữa. Sau câu đó, ông Baki-Haji đành phải chịu thua.
Các kỵ sĩ
phải phi mười hai vòng rộng. Từ vòng thứ nhất đến vòng thứ mười một, Tsanka
luôn dẫn đầu trên con ngựa tía của mình, nhưng đến vòng cuối cùng, con ngựa khụy
chân ngã xuống và chết ngay trên đường đua, có lẽ do quả tim và cái cơ thể đang
phát phì lên của nó không chịu đựng nổi. Tsanka ngã lộn nhào và gãy xương đòn.
Cậu ứa nước mắt vì đau đớn và tức giận. Người ta vội vàng khiêng Tsanka lên xe
ngựa chở về nhà và ngay trong ngày hôm ấy, thầy lang vườn bó cho cậu một cái nẹp
to tướng trên vai, lấy vải thô quấn khắp người.
Buổi chiều,
Kurto đến thăm bạn bị nạn, kể cho Tsanka biết, sau cuộc đua là đến màn khiêu
vũ, và cô Lartsa, với sự chứng kiến của mọi người, trong điệu nhảy Lezghinca đã
ném cho anh chàng Alaev chiếc khăn tay thêu chỉ vàng của mình để thể hiện sự chấp
nhận làm vợ anh ta. Kurto còn kể cho người bệnh nghe đủ chuyện, chỉ đến lúc sắp
ra về mới nói nhỏ vào tai Tsanka:
- Tớ nhìn
thấy Kesyrt ở đấy. Mắt đỏ hoe, không biết vì khóc hay vì cái gì nữa. Cô ấy nhờ
mình chuyển lời thăm hỏi cậu, bảo cậu đừng quá đau khổ vì cái con bé õng ẹo ấy.
Cô ấy còn bảo, Thượng đế đã cứu cậu thoát khỏi cái con ngốc lười chảy thây.
Sáng tinh
mơ hôm sau, vẫn còn băng bó đầy người, Tsanka đến gặp Kurto, nói dăm câu ba sợi
vớ vẩn, rồi làm như vô tình, hỏi đi hỏi lại về Kesyrt, rằng trông cô ấy ra sao,
ăn mặc thế nào, cô ấy còn nói gì nữa, cô ấy đứng với ai?
Cũng ngay
trong ngày hôm ấy, mặc dù vẫn còn nằm trên phản, nhưng Tsanka đã rút ra một kết
luận bất ngờ: cậu không chỉ không đau khổ vì để mất Lartsa, mà thậm chí chẳng một
lần nhớ tới cô ta nữa, và điều ngạc nhiên nhất là cậu phải cố gắng lắm mới hình
dung nổi nét mặt và vóc dáng của cô ta.
Tsanka
không biết rằng, trong cuộc đua đó cậu đã đánh mất một thứ, nhưng lại tìm được
một thứ khác. Cái “thứ khác” đó, nhiều năm sau cậu cũng không thể nói ra được.
Cuộc sống không thể quay trở lại. Cái gì đã qua, cho qua. Rất có thể sự việc
còn tồi tệ hơn thế. Còn về nguyên tắc, làm sao có thể xác định thế nào là tốt
hay xấu? Như ông Baki-Haji từng nói với cậu, mất bao nhiêu sẽ tìm lại được từng
ấy, và ngược lại. Chỉ có điều, đơn vị để đo đếm chuyện được - mất ấy có thể
khác nhau, nhưng kết quả cuối cùng thì tất cả đều được cân bằng trên một đường
thẳng - đó là đường đời.
Vài ngày
sau cuộc đua, có một số nhân vật quan trọng từ Shali đến làng DutsKhote gặp ông
Baki-Haji. Đó là những người họ hàng và bạn bè của nhà buôn giàu có Irs-Haji
Inalov, rất nổi tiếng vào thời đó. Gần nửa năm, ông Irs-Haji và ông Baki-Haji
cùng thực hiện chuyến hành hương đến thánh địa Mecca và hai người trở thành bạn
từ dạo đó. Mỗi khi đi ngang qua Shali, ông Baki-Haji đều ghé thăm ông Irs-Haji.
Mặc dù ông Irs-Haji rất giàu nhưng chính quyền Xô viết không động đến ông, có
thể vì trưởng công an huyện Shali Shitaev Damsi là họ hàng gần của ông.
Ông
Baki-Haji đón tiếp các vị khách quý rất trọng thị. Tất cả đàn bà trong dòng họ
Arachaev tất bật bên bếp lò. Rất nhiều món ăn và thức uống ngon được mang ra,
các vị khách ăn uống thoải mái, trò chuyện rôm rả và uống khá nhiều bia.
Suốt cả buổi
chiều, ông Baki-Haji tỏ ra khá lo lắng, còn bà Hadizhat thì bực bội vì không biết
mục đích chuyến viếng thăm của các vị khách, nhưng sau khi hiểu ra, mọi người
thở phào nhẹ nhõm.
Hóa ra là
ông Irs-Haji có cô con gái đã đến tuổi gả chồng. Đúng ra thì con bé đến tuổi gả
chồng từ lâu, chẳng qua là trong khắp vùng không có chàng trai nào môn đăng hộ
đối.
Các vị
khách bảo, trong cuộc đua ngựa, bà mẹ và cô con gái tên là Dikhant của ông
Irs-Haji có nhìn thấy Tsanka gặp nạn, và ngay lập tức hai mẹ con quyết định phải
giúp đỡ chàng trai trong cơn hoạn nạn. Khoản giúp đỡ đó khá là hậu hĩnh, bởi lẽ
ông bố giàu có dành cho cô con gái yêu một khoản hồi môn rất lớn. Thật ra, ông
Irs-Haji có tới tám cô con gái, nhưng Dikhant là chị cả nên ông yêu quý nhất.
Họ còn bảo,
người đến cầu hôn nhiều vô kể, tha hồ chọn. Nhưng để kết sui gia phải chọn người
xứng đáng, và người xứng đáng nhất trong khắp vùng, về sự tôn kính, lòng trung
thực và đức tin tôn giáo thì chỉ có mỗi ông Baki-Haji. Dĩ nhiên, họ cũng tiếc
cho cô con gái là một hoa khôi, nhưng họ phải làm tất cả những điều này, chấp
nhận mọi sự hy sinh là vì bạn quý, vì hạnh phúc của đôi trẻ.
Chuyện cấp
bách không nên gác lại, các vị khách cố khuyên nài như vậy, nên một ngày sau
ông Baki-Haji lên đường đến nhà ông Irs-Haji. Ông phải mang cả bà vợ theo nếu
không bà sẽ quậy tưng bừng khắp làng.
Thật ra,
ông Baki-Haji cũng linh cảm thấy có điều gì đó không bình thường trong chuyện
này, nếu không thì họ đã chẳng phải đến tận Chechnya để gả con gái. Vừa đi ông
vừa ngẫm nghĩ, vừa suy đoán, liệu cô con gái của ông Irs-Haji có tì vết gì
không mà đến tận giờ vẫn chưa lấy chồng. Nhưng khi đến nơi, nhìn thấy cô gái,
ông thở phào, còn bà Hadizhat thì đưa tay lên miệng để khỏi phải la lên vì ngạc
nhiên.
Quả thật,
các vị khách không nói dối họ: Dikhant đúng là một cô gái quyến rũ, thậm chí
còn được chăm sóc khá tốt nữa, chỉ có điều cô ta khá cao, thậm chí quá cao là đằng
khác.
- Tôi
nghĩ, con bé còn cao hơn cả Tsanka nữa. - Bà Hadizhat không kìm nổi, thì thào
vào tai chồng.
- Im đi, đồ
ngốc ạ. - Ông linh mục chọc tay vào mạng sườn béo múp của bà vợ. - Bà cũng đâu
có thấp hơn tôi... Trong tình yêu, điều đó không ảnh hưởng mà có khi ngược lại
cũng nên.
Khi chỉ
còn lại hai ông già với nhau, một cuộc trò chuyện khá nặng nề đã diễn ra, nói một
cách đơn giản là một cuộc mặc cả.
- Ông
thông cảm cho tôi, ông Irs ạ, - ông Baki-Haji nhẹ nhàng nói. - Thực ra, nó
không phải là con trai tôi, mà chỉ là cháu, tôi không thể ép buộc nó. Biết đâu
nó cứ một mực phản đối, chê con bé không còn trẻ nữa, mà rõ ràng con bé lớn tuổi
hơn thằng Tsanka, đã thế còn cao hơn nó nữa.
- Thôi được
rồi, ông bạn thân mến ơi, - ông Irs-Haji mỉm cười đáp lại. - Chẳng lẽ mọi chuyện
lại đơn giản như vậy sao?.. Tôi biết ông đang buồn bực vì mất con ngựa tốt nhất.
Nhưng ông đừng lo, sau đám cưới, ông sẽ nhận được con ngựa đốm xám của tôi. Đó
mới thực sự là ngựa! Phi như tên bắn! Dĩ nhiên, chẳng phải là chuyện ơn nghĩa
gì đâu, chỉ đơn giản là tôi tặng một người bạn... Thật lòng mà nói, có một người
vợ như nó trong nhà là niềm hạnh phúc. Nào là viết lách, đan lát, nấu nướng! Quả
thật, nó không yêu súc vật cho lắm, nhưng đó là việc của đàn ông.
- Thế còn
vắt sữa bò? - Ông Baki-Haji không kìm được.
- Sẽ làm
được thôi. Chúng ta chẳng nên can thiệp vào cuộc sống riêng của chúng.
- Nhưng
còn mẹ của Tsanka nữa, bà ấy ngang bướng lắm. - Ông Baki-Haji vẫn không chịu
thua.
- Bà ấy
cũng như bà vợ ông, chỉ cần cắt cho một miếng lụa trắng là xong. Ông đừng ngại,
chúng ta sẽ cùng chăm lo cho con cháu mình. Chúng sẽ sống trong hòa thuận và
sung túc. Cầu xin Thượng đế phù hộ!
- Amen! -
Ông Baki-Haji tán thành.
Mặc dù vẫn
còn băng bó, song Tsanka cùng với Kurto đến gặp Dikhant hai lần. Lúc trở về,
khi nhắc đến vóc dáng cao ngồng của Dikhant, hai anh chàng cười đến chảy nước mắt.
Tsanka
không đồng ý, bảo cô ấy vừa già, vừa dài.
Khi đó ông
Baki-Haji liền la toáng lên khắp làng bằng cái giọng the thé của mình:
- Chỉ vì một
con chó cái kháu khỉnh nào đó mà nó đã giết chết con ngựa quý của tôi, thế mà
nó lại không muốn lấy một cô gái tử tế, giàu có, con nhà danh giá.
Tsanka tự
ái, mang trả lại ông bác con ngựa cái và chú ngựa đực non - món quà mà ông đã tặng
cậu.
Ông già
keo kiệt không từ chối. Coi như xong nợ.
Đám đàn bà
bắt đầu đàm tiếu quanh Tsanka. Họ bảo, Dikhant vừa thông minh vừa xinh đẹp, lại
khéo tay, nấu nướng giỏi, còn của hồi môn thì không đếm xuể. Phải thừa nhận chi
tiết cuối cùng đóng vai trò quyết định. Tsanka đành phải chấp thuận: Ai chẳng
muốn có một cuộc sống sung túc, thoải mái?!
Đám cưới
được chuẩn bị nhanh chóng. Ngôi nhà vách đất nhồi rơm của Tsanka và gia đình cậu
chỉ có ba gian sát nhau và một lối đi chung. Gian ngoài cùng được ngăn ra, mở lối
đi riêng, đặt bếp lò, ống khói dẫn qua ô cửa sổ nhỏ. Toàn bộ cơ ngơi của họ chỉ
có vậy.
Đám cưới
được tổ chức hoành tráng. Cô dâu trông rất giàu có. Chiếc váy cưới may bằng lụa
trắng, trang trí hoa văn bằng chỉ vàng. Song thực ra, của hồi môn chẳng có gì
ngoài một đống quần áo, nhưng không chiếc nào có thể mặc để vào chuồng bò mà chỉ
để hò hẹn với các chàng trai.
Theo nghi
lễ, sau hai tuần Tsanka đưa cô vợ trẻ về nhà cha mẹ, nhân thể làm quen với họ
hàng mới. Khi đó người ta mới tặng cho Tsanka một miếng vải tốt để may bộ quần
áo cherkeska và chiếc đồng hồ mạ vàng bỏ túi.
Sau sự kiện
đó, Tsanka bắt đầu cuộc sống gia đình, còn Dikhant thì hếch mũi lên, lúc nào
cũng than phiền về sự nghèo đói. Cô không thích cuộc sống ở đây, đêm nào cũng
ca cẩm người chồng trẻ toàn bốc mùi phân chuồng và mồ hôi, làm cô ta nghẹt thở,
rồi tấm phản ngủ cứng ngắc, chăn nệm cũ mèm và không có chỗ tắm táp. Tsanka xấu
hổ chịu đựng tất cả những điều đó, để bù lại, cậu để ý đến chuyện ăn mặc hơn,
còn chiếc đồng hồ với sợi dây xích sột soạt trong túi tạo cảm giác dễ chịu.
Nhưng dù
có thế nào đi nữa, Tsanka cũng không thể tự dối mình được lâu. Một lần vào buổi
chiều, khi cô vợ làm ra vẻ kinh tởm như thường lệ, Tsanka giáng cho cô ta một
cú bợp tai khá mạnh. Dikhant nhảy bổ lên, mặt mày đỏ bừng, hung dữ, hai tay chống
nạnh, mắt trợn ngược.
- Anh là đồ
vô lại khốn nạn, - Dikhant la toáng lên. - Anh còn đánh tôi nữa xem? Sao anh
dám làm thế? Ngay cả cha tôi cũng chưa bao giờ động ngón tay vào người tôi! Anh
có biết tôi là ai không? Cứ thử động vào tôi một lần nữa xem, đồ súc sinh!
Tsanka
không nói gì cả, lẳng lặng bước lại gần Dikhant, hả hê giáng tiếp hai cái tát nữa
vào mặt vợ, rồi xoay người cô ta lại, đạp vào mông, tống ra khỏi nhà.
Đêm đó,
Dikhant ngủ lại ở chỗ bà mẹ chồng, sáng hôm sau cô thu dọn những thứ đồ đạc
đáng giá của mình rồi về nhà.
Suốt một
tuần liền không có tin tức gì cả. Tsanka được tận hưởng sự yên tĩnh và tự do.
Sau đó, ông Baki-Haji cho gọi hai mẹ con cậu đến. Với sự có mặt của tất cả mọi
người, ông giáo huấn cho Tsanka một bài.
- Đối với
vợ trẻ, - ông già nói bằng một giọng ngọt xớt, - cần phải khoan dung và kiên nhẫn.
Dĩ nhiên, không phải mọi việc đều tốt đẹp... Nhưng mọi việc đều tốt đẹp hết thì
cũng không bao giờ có. Cần phải có thời gian để chịu đựng và học hỏi, từng bước
giải quyết mọi việc. Cháu phải kiên nhẫn. Còn đánh nhau, đánh phụ nữ, nhất lại
là vợ mình thì không xứng đáng. Đây, cứ hỏi bác gái mày đi, bao nhiêu năm chúng
ta sống với nhau, gặp bao chuyện rắc rối, đói khổ, thiếu thốn, nhưng chúng ta
luôn chịu đựng, bao nhiêu năm ta không động ngón tay vào người bà ấy. Có đúng vậy
không, hả bà? - Ông nghiêm túc hỏi bà vợ đang ngồi ngay trước mặt.
- Đúng như
thế, và chỉ như thế. - Bà Hadizhat đáp lại bằng một giọng càng nghiêm túc hơn.
Tsanka
không chịu nổi sự dối trá đó, cậu cúi đầu, nhưng không nén được, liền phì cười.
Những người khác cũng khẽ cười theo, chỉ có ông Baki-Haji và bà vợ là chết lặng
như hóa đá trong tư thế đang rao giảng luân lý. Cuối cuộc thảo luận, mọi người
bắt Tsanka phải đích thân đi đón vợ về, và nếu có thể thì phải xin lỗi nữa.
Tsanka đáp “vâng” mặc dù cậu không hề có ý định đi đâu cả. Đến lúc đó, chính
Dikhant tự quay về, mang theo một bao bột trắng và thịt xông khói. Dikhant tỏ
ra bớt cằn nhằn hơn, nhưng cái thói kênh kiệu và ngạo mạn thì vẫn y nguyên. Hằng
đêm, Tsanka nằm quay lưng lại phía cô ta, mệt mỏi thở dài và mơ tưởng đến
Kesyrt.
Chỉ có mỗi
bà mẹ là hiểu được nỗi lòng của đứa con trai, bà vẫn thường khóc thầm, làm thay
cho cô con dâu tất cả mọi việc, còn trong lòng thì rủa thầm ông anh chồng và bà
vợ ông ta vì cái vụ cưới hỏi này.
* * *
Mùa thu đến
tự lúc nào không hay. Ngày trở nên ngắn và lạnh hơn. Buổi sáng, từ trên dãy núi
Alpes, một màn sương mù lạnh lẽo bò dần xuống, len lỏi vào tất cả các dãy núi
và thung lũng như những cái vòi bạch tuộc màu xám. Sau đó, gió thổi mạnh hơn, mặt
trời từ từ biến mất, bỏ lại trên những thảm cỏ già, khô đét một màn hơi nước
dày đặc.
Đã đến lúc
thu hoạch. Vụ mùa không được tốt cho lắm. Dân làng Duts-Khote, từ trẻ con đến
người già, suốt ngày có mặt trong thung lũng Vashandaroi giữa núi rừng. Người
ta bẻ ngô, bới khoai tây, đánh đống cỏ khô và cày bừa cho vụ thu.
Các sườn
núi trở nên vàng úa, rồi đỏ lên và quang đãng hơn. Sự sôi động và ồn ào của mùa
hè đang lịm dần. Tất cả đã no nê, đã sinh nở và mỏi mệt vì nhịp sống mãnh liệt,
giờ đang chuẩn bị cho giấc ngủ đông yên bình.
Một đám
mây đen thấp lè tè trôi từ hướng tây-bắc về. Mưa liên tiếp mấy ngày liền, gió lạnh
giật từng cơn.
Sau đó trời
trở nên lạnh lẽo, ướt át và u ám.
Mặc dù thời
tiết xấu và vết thương chưa lành hẳn, Tsanka vẫn phải làm quần quật suốt ngày,
làm cho chính mình, cho họ hàng và cho cả hàng xóm nữa. Công việc ngập đầu. Vào
những ngày đẹp trời Tsanka cố ra đồng làm việc, còn vào những ngày thời tiết xấu,
cậu chăm sóc gia súc: lùa đàn bò, trâu, cừu, ngựa từ các bãi chăn thả mùa hè
trên núi Alpes về, xén lông cừu, lông dê, tô trét lại mái và tường nhà ở, nhà
kho và chuồng trại, che chắn các thùng ong để tránh đông.
Một lần
vào buổi chiều, ông Baki-Haji cho gọi Tsanka đến. Hai bác cháu cùng đọc kinh cầu
nguyện chiều, ăn một bữa no nê rồi uống trà. Sau đó, ông linh mục ngồi ngay ngắn
trên giường, chăm chú nhìn Tsanka như lần đầu nhìn thấy cậu và khẽ nói, làm ra
vẻ rất bí mật:
- Cháu hãy
chú ý nghe ta nói đây, Tsanka. Một thời kỳ khó khăn, thậm chí rất nặng nề đã bắt
đầu. Có thể thấy, càng ngày càng tệ hơn... Cháu là con trai trưởng của thế hệ mới
trong dòng họ, tương lai của chúng ta hoàn toàn thuộc vào cháu. Tất cả thanh niên,
nam nữ trong dòng họ Arachaev đều nhìn vào cháu. Chính vì vậy, cháu phải gánh
vác một trọng trách quan trọng - phải là tấm gương cho mọi người.
Từ buổi
chiều hôm ấy, cuộc sống của Tsanka có bước ngoặt lớn. Mỗi tối, Tsanka cùng với
Esky và vài thanh niên hàng xóm nữa đến nhà ông linh mục để học kinh Koran và học
chữ Arập. Ngoài ra, ông bác còn kể cho họ nghe về lịch sử và truyền thống xa
xưa của dân tộc.
Trong thời
gian này, với sự quan tâm của ông Baki-Haji, cuộc sống của Tsanka cũng trở nên
khấm khá hơn. Ông trả lại cho Tsanka con ngựa cái và chú ngựa non, tặng thêm
hai con bò đực, một con bò cái, một con trâu cái và mười lăm con cừu nữa. Niềm
vui của Tsanka không thể diễn tả bằng lời. Nhưng cùng với nó là những lo toan mới,
cần phải giữ cho lũ gia súc ấy chống chọi qua mùa đông đang đến gần.
Một lần,
giữa buổi học tối thường nhật ở nhà ông Baki-Haji, thì ông Kosum xuất hiện. Ông
đi thẳng từ ngoài đường vào, mang theo cả hơi lạnh và mùi thuốc lá. Ông ném xuống
đất chiếc áo khoác ướt sũng, mệt nhọc ngồi xuống phản. Tất cả học trò của ông
linh mục đều lặng lẽ đứng dậy, chào ông Kosum rồi ra về, chỉ có Tsanka được giữ
lại. Lát sau, ông chú họ Basnak cũng tới. Trong lúc Tsanka rót trà, mọi người đều
im lặng cố đoán xem ông Kosum sẽ nói gì sau ba ngày vắng mặt. Ông Kosum đi cùng
với chủ tịch ủy ban vào thành phố Grozny dự hội nghị.
- Tất cả
những gì chúng ta nghĩ đều sai bét, - cuối cùng ông Kosum nặng nhọc thốt lên,
ngụm trà pha mật ong như tắc nghẹn nơi cổ họng. - Chính quyền càng ngày càng
thô bạo, sẵn sàng lột da tất cả. Trong các làng của người Cozak, người Chechnya
ở Gekhi đã nổ ra các vụ phản kháng, và tất cả đều bị dìm trong máu. Một sư đoàn
Hồng quân đang đóng cạnh Shali. Nếu chúng ta không hoàn thành kế hoạch được
giao, sẽ bị khám xét, kiểm tra và trưng thu hết.
- Nhưng
chúng ta không thể giao nộp từng ấy lúa mì. Đồng ruộng, năng suất không đủ khả
năng, điều đó ai cũng thấy. - Ông Baki-Haji tức giận nói.
- Người ta
chẳng thèm bận tâm. - Ông Kosum thở dài.
- Không bận
tâm là thế nào? - Ông linh mục hét lên.
- Thế đấy...
Sao anh lại hét lên với tôi? Làm như tôi bắt anh nộp vậy.
- Thế chủ
tịch Khasanov nói sao?
- Khasanov
thì làm được cái gì? Anh ta biết hết, nhưng cũng như tôi thôi, chẳng ai thèm
nghe, chẳng là cái thá gì.
Một sự im
lặng nặng nề bao trùm, mọi người đều gục đầu.
- Có thể
vì dân chúng ở dưới đồng bằng phản đối nên chúng ta bị vạ lây. - Ông Baki-Haji
khẽ nói, thoáng chút hy vọng.
- Không chắc
đâu... Người ta đồn, ở nước Nga đang có nạn đói. Rồi dân Ukraina cũng đổ xô về
Grozny, họ bảo ở đó cũng chẳng có cái gì ăn. Trong thành phố Grozny đang có dịch
sốt thương hàn và dịch tả. Chẳng có gì để nuôi quân đội. Mọi chuyện thật khủng
khiếp... Không thể đi đâu được nữa, chỗ nào cũng có trạm kiểm soát. Bây giờ mà
không có giấy phép của ủy ban, chỉ đến Shali cũng nguy hiểm chứ đừng nói đến
thành phố... Và điều quan trọng nhất là ngay lập tức phải đóng cửa cái trường học
ở nhà anh lại.
- Trường học
của tôi thì liên quan gì? - Ông già thở dài.
- Liên
quan đấy... Thậm chí ở hội nghị người ta còn nhắc đến tên anh như là một kẻ
truyền giáo chống chính quyền Xô viết.
- Thế chú
không thể chứng minh ngược lại được à? - Ông anh cả bực mình.
- Anh hãy
bình tĩnh, - ông Kosum cười mỉa. - Tôi chẳng là cái thá gì ở đó. Ai cho tôi
nói? Loạng quạng, người ta có thể bắt giam tôi ngay tại đó nữa. Có một vài vị
chủ tịch bị bắt ngay trong phòng hội nghị. Chẳng ai dám ho he, thậm chí sau đấy
người ta còn công khai ủng hộ nữa. Anh biết ông chủ tịch Vedeno Khalidov chứ?
Ông linh mục
lặng lẽ gật đầu.
- Ông ấy bị
bắt rồi, chủ tịch cũng không tha.
- Thế đấy,
- Basnak thở hắt ra.
Ngoài đường
gió thổi mạnh, lùa qua các ô cửa sổ ọp ẹp làm lay động ngọn lửa chiếc đèn dầu.
Những bóng đen ảm đạm lướt trên khuôn mặt mọi người trong dòng họ Arachaev.
- Làm sao
họ biết tôi dạy học? - Ông Baki-Haji hỏi nhỏ.
- Làm sao
à, thế những kẻ như Tutushev, Abaev để làm gì?
- Họ tố
giác?
- Dĩ nhiên
rồi... Theo anh thì tại sao họ lại tỏ ra dương dương tự đắc thế. Vì đã có chính
quyền đứng đằng sau. - Ông Kosum phẩy tay, hét lên.
- Phải,
cái đám khố rách áo ôm, tứ cố vô thân ấy có cơ hội kiếm ăn dưới chính quyền mới,
cần phải thanh toán với chúng. - Ông Baki-Haji buồn bã lắc đầu.
Vài ngày
sau cuộc trò chuyện đó, theo chỉ thị của ủy ban huyện Shali, hai mươi chiếc xe
ngựa tải chất đầy gỗ dẻ gai và gỗ sồi tuyển lựa kĩ, được chở từ làng DutsKhote
đến tận làng Dubov xa tít của người Cozak.
Tsanka và
ông Basnak cùng với Haron Tutushev và con trai Salman là công an thôn, thay mặt
chính quyền áp tải đoàn xe chở gỗ. Trong đoàn, chỉ có Salman được trang bị súng
trường, những người khác tay không, thậm chí dao găm cũng phải giấu kín dưới đống
gỗ.
Vì dân
chúng không được phép mua bán, trao đổi và tự do đi lại nên người Cozak rất thiếu
gỗ. Họ vui mừng tiếp đón dân làng Duts-Khote. Suốt một ngày uống rượu, giao
lưu, ôm hôn thắm thiết. Trước khi lên đường, dân Cozak còn đưa dân Chechnya ra
thảo nguyên để hái dưa hấu và dưa bở, muốn lấy bao nhiêu cũng được, chẳng những
thế họ còn tặng thêm cho vài chai rượu nữa.
Sau khi chỉ
còn lại một mình trên cánh đồng thoáng đãng, dân Chechnya lại uống tiếp, không
khí bốc lên, họ hát hò, nhảy múa, lấy ủng giẫm nát dưa hấu, dưa bở, chỉ ăn chút
ruột.
Ai đó,
không biết cố ý hay vô tình nhắc lại chuyện ông Haron đã làm ông Baki-Haji bị
ngã xuống bùn. Chỉ thế thôi cũng đủ để chú cháu nhà Arachaev xông vào cha con
nhà Tutushev. Cuộc ẩu đả hai chọi hai kéo dài không lâu, nhưng rất hung bạo và
đẫm máu. Tsanka chỉ đánh được bằng một tay, cánh tay bị thương vẫn còn đau. Ông
Basnak khỏe mạnh, ngay từ cú đấm đầu tiên đã hạ gục ông Haron. Sau đó, hai chú
cháu Basnak và Tsanka lao vào Salman, ngay cả khi Salman đã bị đánh ngã vẫn còn
bị hai người dùng chân dẫm đạp lên nữa.
Sau đó cuộc
nhậu chuyển sang hướng mới. Khi tỉnh lại, Salman liền chộp lấy khẩu súng trường,
nhưng rất may là bị mọi người tước ngay. Khi đó ông Basnak liền dẫn chàng công
an trẻ Salman sang bên và lại đánh cho một trận nữa. Nếu các đồng hương không
kéo ra rất có thể Salman đã bị đánh chết.
Cuộc nhậu
lại tiếp tục. Cha con nhà Tutushev, sau khi hoàn hồn liền bỏ của chạy lấy người,
vào làng cầu cứu dân Cozak và chính quyền địa phương. Dân Cozak mừng thầm vì
dân Chechnya đánh nhau, lại còn mừng hơn khi biết công an bị đánh.
Tại ruộng
dưa, mọi người còn vui chơi cho đến tận sáng. Do uống quá nhiều rượu lại ăn nhiều
dưa hấu nên mọi người đi tiểu liên tục. Trong trạng thái nửa say nửa tỉnh, người
ta đái cả lên những quả dưa.
Sáng, mấy
chiếc xe ngựa rỗng với một số người miền núi say rượu quay về làng. Về tới nhà,
họ phân bua, dưa hấu và dưa bở không ngon, chẳng ai thèm ăn, ăn vào có khi bị
tiêu chảy nữa. Còn những người vẫn ở lại ruộng dưa thì lội khắp ruộng, bảo:
- Quả này không
bị ai đái...
- Quả này
cũng thế...
- Quả này
cũng không bị ướt.
- Còn cái
quả to tướng này thì chính tôi đã đái lên, nước đái của tôi trong như nước mắt
trẻ con ấy.
* * *
Năm đó,
dân làng Duts-Khote không hoàn thành chỉ tiêu giao nộp nông sản cho nhà nước. Mọi
người không muốn phải chia tay với thành quả lao động bằng mồ hôi và công sức của
mình, hơn nữa chỉ tiêu quá cao, không thể thực hiện được.
Suốt mùa
đông, ông chủ tịch thôn Khasanov liên tục bị gọi lên huyện lỵ Shali, lên thành
phố Grozny, bị quát tháo, yêu cầu phải hoàn thành nhiệm vụ, dọa sẽ tống vào tù
nữa. Nhưng thảy đều vô ích: dân làng chỉ nộp trong khả năng của mình, họ phải để
lại đủ sống qua mùa đông cho đến vụ xuân.
Từ dưới đồng
bằng lan truyền tin đồn, quân đội sẽ bao vây làng, lùng bắt, khám xét, thu tất
cả lương thực dự trữ, chỉ để lại cho mỗi nhân khẩu nửa bao ngô. Rồi còn bắt mọi
người phải vào nông trang tập thể, tất cả gia súc sẽ bị công hữu hóa, trở thành
tài sản nhà nước.
Dân chúng
náo lọan, không biết phải làm gì, tin ai.
Theo lệnh
của ông Baki-Haji, mọi người trong họ Arachaev đều xẻ thịt tất cả những con gia
súc mập mạp nhất, nhiều hơn số lượng cần ăn, mang sấy khô, xông khói, rồi đem
chôn giấu cùng với lương thực, ở nhiều chỗ khác nhau dưới đất.
Mùa đông
năm ấy, do chưa đủ lực và cũng không có thời gian, chính quyền Bolsevich chưa
vươn tới vùng núi Chechnya. Dưới đồng bằng còn quá nhiều việc và mối quan tâm,
chưa thể trưng thu cùng một lúc đối với tất cả các điểm dân cư ở vùng đồng bằng
rộng lớn và giàu có.
Tuy nhiên,
điều đáng sợ nhất lại nằm ở chỗ khác, đó là các vụ bắt bớ hàng loạt. Tất cả những
người có dính dáng đến hoạt động tôn giáo hay bị xếp vào thành phần phú nông Cu
lắc, nghĩa là có chút của ăn của để, đều bị trưng thu tài sản và gia súc.
Mọi người
trong dòng họ Arachaev đều lo cho ông Baki-Haji, thuyết phục ông tạm lánh một
thời gian ở Nui-Tso, nhưng ông cương quyết phản đối. Nhờ có sự nỗ lực của ông
em Kosum với tư cách là ủy viên thư ký, ông linh mục già mới thoát nổi cú đòn
giáng vào đầu mình.
Đến giữa
mùa đông, sau cuộc họp thường kỳ ở Shali, ông Kosum cho gọi Tsanka đến nhà
mình.
- Chồng
Kesyrt bị xử bắn rồi. Cháu hãy báo cho bà Haza biết. - Ông Kosum lắc đầu, lạnh
lùng nói, rồi thêm: - Một ông chủ giàu có và tốt bụng.
Tsanka đến
cối xay nước với trái tim nặng trĩu trong lồng ngực, tâm hồn đau nhói vì
Kesyrt. Cậu yêu Kesyrt, si mê đến phát ghen lên, thậm chí có lúc còn muốn
Kesyrt ly dị một lần nữa để cậu lại được gặp cô ấy. Nhưng giờ đây, Tsanka nhận
ra, cậu không mong muốn điều đó nữa, cậu chỉ mong Kesyrt được sống trong hạnh
phúc và no đủ. Như nỗi đau của chính mình, nỗi đau của một người thân yêu ruột
thịt, cái tin ấy làm trái tim chàng trai Tsanka buốt nhói.
Tsanka lo
ngại, khi nghe tin đó bà Haza sẽ khóc rống lên và la hét ầm ĩ vì đau khổ. Tuy
nhiên, bà già, thậm chí cũng không khóc, chỉ nặng nề ngồi phịch xuống phản, gục
đầu, buồn bã.
- Con gái
ta thật bất hạnh! Chắc là cái số của nó như vậy. - Bà khẽ nói. - Nó sẽ sống ra
sao sau khi ta chết? Một đứa bé cô độc, bất hạnh, sao ta lại sinh nó ra làm gì
cơ chứ?! Sao ta lại không chết đi?.. Sao ta lại phải chịu đựng nỗi hành hạ đau
khổ này? Ta biết làm gì với nó bây giờ, chẳng lẽ lại bỏ nó một thân một mình?!
Những giọt
nước mắt to tướng lăn trên gò má hốc hác và nhăn nheo của bà Haza rồi rơi xuống
hai bàn tay xương xẩu, khô quắt với các mạch máu đen nổi chằng chịt đang đặt
trên ngực.
Tsanka
không biết phải an ủi bà Haza như thế nào, bản thân cậu cũng đang ở trong tâm
trạng đó, cậu muốn khóc thét lên, muốn chạy đến giúp Kesyrt. Những tình cảm
trìu mến kỳ lạ chưa bao giờ biết đến, sự cảm thông chân thành, thậm chí cả tình
anh em ruột thịt với người yêu bỗng như thức dậy trong lòng cậu.
- Tsanka
ơi, - bà Haza năn nỉ. - Cháu hãy giúp bác đến chỗ nó, bác cần phải gặp nó, an ủi
nó.
Mọi người
trong làng Duts-Khote chia sẻ với nỗi đau của bà Haza và Kesyrt. Họ đều muốn đến
làng Kurtchaloi để chia buồn với Kesyrt, hay ít ra cũng nói một câu an ủi cô
gái bất hạnh, nhưng chẳng thể làm gì được. Ông Kosum cảnh báo, khắp nơi đều có
trạm kiểm soát, đàn ông có thể bị bắt giữ, ngựa xe có thể bị tịch thu. Mọi người
quyết định cử một chiếc xe đại diện. Ông Kosum đưa cho Tsanka một tờ giấy gì
đó, bảo đây là giấy phép của ủy ban.
Đến
Kurtchaloi, Tsanka rất ngạc nhiên khi nhìn thấy cơ ngơi sang trọng nhà chồng
Kesyrt: chiếc sân rộng lát đá nhẵn bóng, ngôi nhà to hai tầng bằng gạch đỏ, mái
tôn lấp lóa, dưới mái hiên tất cả mọi chi tiết bằng gỗ đều được chạm khắc tinh
xảo. Sau nhà là khu vườn rộng, kéo dài xuống suối.
Đến nơi mọi
người mới biết, tang lễ đã được tiến hành một tuần trước, nhưng xác ông chủ vẫn
chưa được trao trả. Kesyrt tái nhợt, lạnh lùng, buồn bã. Vừa nhìn thấy mẹ, cô
đã gục đầu lên vai bà, bật khóc thảm thiết.
Có thể thấy,
họ hàng của người quá cố lạnh nhạt với Kesyrt và cũng chẳng mặn mà tiếp đón những
người từ trên núi xuống. Kesyrt thành một người thừa, không ai cần đến trong cơ
ngơi giàu có này.
“Nhưng nếu
cô ấy có mang thì sao? - Tsanka đứng từ xa liếc nhìn Kesyrt, thầm nghĩ. - Đứa
con ấy sẽ ra sao? Chẳng lẽ họ lại không tiếp nhận nó?”
Rồi cậu nhổ
một bãi, tự rủa thầm vì những ý nghĩ ngu ngốc chẳng liên quan gì đến mình.
Các vị khách từ xa
đến thậm chí cũng không được mời vào nhà. Kesyrt không có quyền làm điều đó, cô
cảm thấy bối rối như người có lỗi.
Lúc chia
tay, Kesyrt bước lại gần Tsanka, tuyệt vọng nhìn thẳng vào mắt cậu, cô cứ nhìn
mãi như thế, như một con chó đói vô chủ. Có rất nhiều điều Tsanka muốn nói với
Kesyrt, nhưng cậu chỉ im lặng, cảm nhận được sự để ý quá mức của mọi người xung
quanh.
- Nếu có
thể, sau một tuần nữa anh hãy đến đón tôi. - Kesyrt khẽ năn nỉ bằng một giọng rầu
rĩ.
Tsanka
không nói gì cả, chỉ lặng lẽ gật đầu, có một cục đá như chẹn ngang họng. Dáng vẻ
tiều tụy, giọng nói nài nỉ của người yêu làm cậu nghẹt thở, cặp mắt bất giác
ươn ướt. Để cố che giấu tất cả những điều đó, Tsanka vội vã bước sang bên và ngồi
lên xe.
Đúng một
tuần sau, giữa tiết trời băng giá khủng khiếp, Tsanka xin giấy phép ở chỗ chú
Kosum rồi đến làng Kurtchaloi. Trong sân nhà chồng Kesyrt có vài chiếc xe ngựa,
mấy người lính Nga đi đi lại lại, một người Chechnya say rượu nào đó, lúc thì
hét lên bằng tiếng Nga, lúc bằng tiếng mẹ đẻ, vừa vung tay loạn xạ vừa chửi tục.
- Cô
Kesyrt đâu rồi? - Tsanka hỏi anh ta.
- Cái gì?
Kesyrt nào? - Người đàn ông mập mạp khó chịu hỏi lại.
Sau một hồi
giải thích, Tsanka mới hiểu ra, tòa nhà bây giờ là của nhà nước, ở đây sẽ bố
trí trường học, ông béo này là trưởng phòng hành chính quản trị của trường, còn
về chủ cũ của tòa nhà, ông không biết và nói chung ông không phải người ở đây.
Việc tìm
ra Kesyrt không mất nhiều thời gian. Kesyrt sống trong nhà hàng xóm gần đấy. Vừa
nghe thấy tiếng Tsanka, cô vội chạy ra đường giữa tiết trời băng giá với một
gói nhỏ trong tay. Khuôn mặt Kesyrt vẫn còn hốc hác, nước da bánh mật bợt bạt,
thậm chí sạm lại, chỉ có cặp mắt khi nhìn thấy Tsanka là lóe lên. Cô bất giác mỉm
cười, vui mừng như gặp người thân.
Vài người
phụ nữ ra tiễn Kesyrt. Tất cả đều khóc. Trời lạnh, mọi người quấn kín trong những
tấm khăn choàng lông. Một cô bé khoảng mười ba tuổi đến bên, rồi một cô khác, lớn
tuổi hơn.
Kesyrt
chia tay với tất cả mọi người, ném chiếc túi của mình lên xe rồi tự leo lên.
- Cô làm
sao thế, cứ phong phanh thế này mà đi sao? - Tsanka ngạc nhiên hỏi.
- Chị ấy đến
thế nào thì ra đi như thế, - cô bé mười ba tuổi bật cười đáp thay cho Kesyrt.
Mấy người
phụ nữ cảm thấy xấu hổ, xô đẩy nhau quay vào. Kesyrt không nói gì cả, chỉ càng
gục đầu xuống và quay mặt đi. Đến lúc đó Mấy người phụ nữ cảm thấy xấu hổ, xô đẩy
nhau quay vào. Kesyrt không nói gì cả, chỉ càng gục đầu xuống và quay mặt đi. Đến
lúc đó Tsanka liền bật dậy, tức giận nhìn đám phụ nữ, hai gò má xương xẩu của cậu
như nổi u lên. Cậu cởi chiếc áo choàng bằng da rộng thùng thình của mình ra,
cương quyết kéo Kesyrt đứng lên, quấn kĩ chiếc áo vào người cô rồi cẩn thận đặt
cô ngồi xuống, sửa lại vạt áo, kéo cao cổ áo lên che gần hết khuôn mặt. Không
thèm nhìn đám phụ nữ và cũng chẳng chia tay với họ, Tsanka quất mạnh một roi
vào mông con ngựa đáng thương.
Ra khỏi
làng, đến khu đồng không mông quạnh gió thổi mạnh hơn, trời tối dần, những đám
mây đen nặng nề che kín bầu trời. Chiếc xe ngựa bị quăng quật trên con đường
không có tuyết đóng băng cứng ngắc, gồ ghề. Không có áo ấm, Tsanka lạnh run, mặt
tái nhợt, cố thu mình lại, không để lộ điều đó ra.
- Tsanka,
- Kesyrt khẽ nói.
Tsanka
quay đầu lại, nhìn vào khuôn mặt đã bị che gần kín của Kesyrt. Cô vẫn còn khóc,
cặp mắt đỏ hoe, hàng mi bị đóng băng, bết lại.
- Tsanka,
lấy áo mặc đi, anh sẽ bị cảm lạnh mất. - Cô nói và nhìn Tsanka bằng đôi mắt đẫm
nước.
- Tôi
không sao đâu, - Tsanka vừa lạnh lùng đáp, vừa quất vào lưng ngựa.
Đúng lúc ấy,
từ phía làng vang lên tiếng súng, rồi tiếng còi.
Tsanka
quay đầu lại, bốn kỵ sĩ đang phi nước đại về phía họ.
Lát sau
các kỵ sĩ đuổi kịp, vây quanh chiếc xe. Nhìn mặt, Tsanka nhận ra một người
Chechnya và ba người Nga.
Chẳng cần
chào hỏi, họ tiến hành cuộc thẩm vấn ngay tại chỗ thông qua người phiên dịch
Chechnya. Tsanka chìa giấy phép của mình ra. Người chỉ huy xem xét rất kĩ tờ giấy,
lật qua lật lại mấy lần, mặc dù mặt sau trắng tinh. Rồi anh ta ngạo mạn vung
tay ra hiệu cho hai người xuống xe.
- Cái gì
trong túi kia?
- Quần áo
của tôi, - Kesyrt run rẩy đáp.
- Thế còn
cái này?
- Đồ ăn dọc
đường, - Tsanka đáp.
Một người
lính lấy thanh gươm chọc chọc vào lớp cỏ khô trên sàn xe.
- Có vũ
khí không?
- Không ạ.
- Tsanka đáp.
- Cô kia
là gì với anh? - Người chỉ huy chỉ vào Kesyrt.
- Vợ tôi.
- Tsanka mạnh bạo đáp.
Không còn
câu hỏi nào nữa. Họ trả lại tờ giấy, phi về làng.
Tsanka và
Kesyrt lặng lẽ leo lên xe.
- Tôi
không thể tiếp tục đi như thế này, - Kesyrt cương quyết nói.
Tsanka ngạc
nhiên nhìn Kesyrt chăm chú.
- Anh sẽ bị
lạnh, rồi đổ bệnh.
- Tôi sẽ
không sao cả. Cô ngồi lên đi, - Tsanka ra lệnh, rồi vừa chèn thêm cỏ khô dưới
chỗ ngồi Kesyrt, vừa cẩn thận đặt cô ngồi xuống.
- Tôi
không thể đi như thế này được, - cô năn nỉ.
- Thôi đi.
- Tsanka nói bằng một giọng dịu dàng hơn, rồi vừa ngồi sát lại gần Kesyrt vừa
nhìn vào mặt cô.
Cặp mắt
Kesyrt ráo hoảnh, khuôn mặt lạnh lùng, nghiêm túc. Chỉ đến lúc này Tsanka mới
nhận ra Kesyrt đã thay đổi nhiều, đã già đi. Quanh mắt xuất hiện những nếp nhăn
nhỏ, khuôn mặt dài ra, gò má nhô cao, thô hơn, trên trán hiện rõ một vết nhăn.
Kesyrt, dường như đã đọc được những ý nghĩ của Tsanka, liền cúi đầu nhìn ra hướng
khác.
Tsanka nhẹ
nhàng ôm lấy khuôn mặt Kesyrt, nhìn cô bằng đôi mắt xanh của mình, dịu dàng hôn
lên má, rồi má bên kia, và cuối cùng đặt vào đôi môi khô héo của cô một nụ hôn.
Kesyrt không đáp lại nhưng cũng không phản đối, một sự dửng dưng hoàn toàn toát
ra từ cơ thể cô. Tsanka cảm nhận được nỗi đau và vị đắng từ miệng cô. Cậu từ từ
lùi lại.
- Không cần
đâu, Tsanka ạ... Tôi xin anh! Không nên. Tôi xin anh... Tôi đang có tang, có nỗi
đau... Tốt hơn là tôi nên chết đi, - Kesyrt khẽ nói.
Tsanka hôn
một cái nữa lên má Kesyrt.
- Cô hãy
bình tâm lại, Kesyrt yêu quý ạ, cô cứ yên tâm... mọi việc rồi sẽ tốt đẹp. -
Tsanka an ủi rồi ngồi lên phía trước, giật dây cương.
- Không,
tôi không thể đi như thế này được, - Kesyrt phản đối. - Anh sẽ bị cảm lạnh mất.
Cuộc tranh
cãi tiếp theo chẳng mang lại kết quả gì.
Hai người
ngồi sát bên nhau, quấn chung trong chiếc áo choàng, lấy cỏ khô tủ lên chân.
Họ đi rất
lâu trong im lặng. Tsanka cảm nhận được thân thể của người yêu sát bên, phải cố
kìm nén ngọn lửa tình của mình lại. Còn Kesyrt, lát sau ngả đầu vào vai Tsanka.
- Cái
xương đòn của anh thế nào rồi? - Kesyrt hỏi.
- Đang
lành.
- Tôi đã
nhìn thấy anh ngã... Thật khủng khiếp!
Tsanka ôm
lấy vai Kesyrt trong tấm áo choàng, kéo cô sát lại và hôn lên tóc.
- Cám ơn
anh, Tsanka. Quả thật tôi không biết phải làm gì nếu không có anh. - Tiếng
Kesyrt thì thào bên tai.
- Cô sống ở
đấy thế nào? - Đột nhiên Tsanka hỏi.
Kesyrt im
lặng khá lâu, nặng nề thở dài.
- Tôi vẫn
sống như vậy... Về chồng tôi thì chẳng có gì để nói, ông ấy là người tốt, yêu
quý tôi. Nhưng lũ con ông ấy chỉ muốn ăn tươi nuốt sống tôi. Chúng hành hạ, sỉ
nhục, xúc phạm tôi, ghen tức khủng khiếp. Sau khi ông ấy bị bắt thì chẳng còn
là cuộc sống nữa... Họ bắt ông ấy ba tháng trước, sau đó có tin bị xử bắn. Thế
là đám con cái, anh chị em, bà mẹ và những người họ hàng, ngày nào cũng nguyền
rủa cái lòng tốt của ông ấy. Thật kỳ lạ! Còn tôi thì bị họ căm ghét, họ sợ tôi
tranh chấp với họ cái gì đó. Đúng là lũ súc sinh... Thậm chí cũng không cho tôi
ăn nữa.
- Cô có
đói không? - Tsanka cắt ngang.
Kesyrt im
lặng. Tsanka dừng xe lại, lôi gói thức ăn của mình ra, lấy con dao nhỏ cắt một
khoanh dày mỡ cừu sấy khô béo ngậy đã ngả sang màu đỏ sậm vì thời gian, rồi kẹp
vào lát bánh ngô khô cứng, đưa cho Kesyrt.
Xe lại lăn
bánh.
- Thế những
đứa bé ấy là con của chồng cô à? - Tsanka tiếp tục câu chuyện bị gián đoạn.
Kesyrt lặng
lẽ gật đầu, miệng cô đang bận, cô cầm thức ăn bằng hai tay, vội vàng nhai ngốn
ngấu. Sau đó, Kesyrt lại ngả đầu lên vai Tsanka, khẽ nói “cám ơn” và từ từ thiếp
đi.
Bầu trời
càng xuống thấp hơn. Tuyết rơi dày và xốp. Gió ngừng thổi. Họ đi qua Avtura,
chiều tối qua Shali, và nghỉ lại đúng ở chỗ họ đã nghỉ đêm trong lần đầu cùng
đi với nhau từ thành phố Grozny về. Cả hai không ai nhắc lại chuyện đó. Tsanka
tháo ngựa, dẫn xuống suối uống nước rồi buộc vào xe, cạnh mớ cỏ. Hai người ngồi
xuống ăn tối. Trong lúc ăn, Kesyrt hỏi Tsanka về công việc, về người vợ, về cuộc
sống gia đình. Tsanka miễn cưỡng trả lời, hầu như không nói gì về vợ hoặc né
tránh trả lời. Trong cuộc trò chuyện, lần đầu tiên Kesyrt mới nói to, thậm chí
thoáng chút mỉa mai, cô còn cười khi nhận ra vẻ bối rối của Tsanka.
Tuyết vẫn
tiếp tục rơi, một lát đã phủ trắng cảnh vật xung quanh, chỉ còn lại dải sông
Bass mỏng manh thẫm màu hiện lên giữa khe núi.
Từ sườn
núi đối diện vọng lại tiếng chó núi tru thảm thiết, còn từ Shali vang lên tiếng
chó sủa. Con ngựa toàn thân ướt sũng vì tuyết đang vội vã nhai cỏ.
- Có cần đốt
đống lửa không? Để sưởi. - Tsanka hỏi.
- Không cần
đâu. Nếu có thể, ta nên đi tiếp, - Kesyrt khẽ nói.
Trong bóng
tối, Tsanka nôn nóng nhìn Kesyrt, rồi không nói không rằng, ôm chầm lấy cô hôn
tới tấp.
Kesyrt chống
lại, tỏ ra tức giận thực sự, đấm vào người Tsanka và hét lên. Tsanka bực mình
lùi lại, thở nặng nhọc rồi đi thắng ngựa, vô cớ đấm cho nó hai cú vào hông.
Kesyrt bước
lại gần Tsanka, từ đằng sau vuốt vuốt vai cậu, khẽ ôm cậu.
- Anh hãy
hiểu cho tôi, Tsanka. Tôi vừa mới mất người chồng chính thức của mình. Không
nên thế, anh hãy hiểu... sẽ có lỗi trước Thượng đế.
- Phải.
Thôi được rồi, - Tsanka phẩy tay. - Tôi xin lỗi... xin lỗi.
Họ lại lên
đường ngay, ôm chặt lấy nhau vì lạnh.
- Cô có
yêu ông ấy không? - Đột nhiên Tsanka lạnh lùng hỏi, mắt vẫn nhìn về phía trước.
Kesyrt nhấc
đầu ra khỏi vai Tsanka, hít một hơi dài và lại tỏ ra nghiêm túc.
- Tôi có
thể không trả lời câu hỏi này được không? - Cô buồn rầu nói.
- Được.
Một khoảng
im lặng. Kesyrt lại tựa đầu vào vai Tsanka và nói:
- Yêu hay
không yêu, không thể hỏi điều đó, nhưng có một sự thật, ông ấy là người tốt,
thông minh và luôn tôn trọng tôi... Và vì điều đó tôi sẽ luôn tưởng nhớ đến ông
ấy.
Họ đến
Makhketa trong tiếng chó sủa rân ran. Tuyết đã ngừng rơi, nhưng trời lại càng lạnh
hơn. Con ngựa thấm mệt, nặng nề leo lên dốc. Tsanka đành phải nhảy xuống, đẩy
xe bằng đôi tay lạnh cóng. Đến lưng đèo, đến lượt Kesyrt cũng phải xuống, vất vả
lắm họ mới đưa được chiếc xe qua đèo. Sau đó là con dốc dài, thoai thoải, bắt đầu
vào địa phận thung lũng quê hương Vashandaroi.
- Không
khí ở đây thật dễ chịu! Tuyệt quá! - Kesyrt thốt lên. - Lâu lắm rồi tôi không về
đây! Dù sao thì quê hương vẫn là quê hương!
- Phải, phải,
- Tsanka thừa nhận và lại ôm lấy vai Kesyrt, cảm thấy cô chiều theo mình.
- Thế nguồn
nước còn chảy không? Nguồn nước của chúng ta ấy! - Kesyrt nhìn Tsanka, hỏi.
- Còn, vẫn
chảy, mất đi đâu được.
- Ôi, mong
cho mùa hè đến nhanh. Tôi rất thích tắm ở đấy.
- Cô có nhớ
lần chúng ta cùng tắm không? - Tsanka hỏi bằng một giọng ngọt lịm.
Kesyrt
không đáp lại, chỉ khẽ cựa quậy, Tsanka cảm nhận qua lớp quần áo, bộ ngực căng
tròn của cô ép vào hông mình. Kesyrt nhìn Tsanka, ánh mắt lấp lánh...
Con ngựa
không có ai điều khiển, chạy ra khỏi đường, lao vào đống tuyết. Chờ một lúc
lâu, chẳng thấy ai quan tâm đến mình, nhưng vì đã cảm nhận được mái ấm và sự
nghỉ ngơi rất gần đâu đây, nó đành phải tự động giật giật mấy cái... Nhưng thảy
đều vô ích: chiếc xe đã ngập sâu vào đống tuyết, đến tận trục...
* * *
Tháng Ba
năm 1928, đến lượt làng Duts-Khote, một tiểu đoàn Hồng quân cùng với một đơn vị
công an và an ninh vào làng. Người ta ra lệnh phải nộp tất cả vũ khí, kể cả dao
găm và những con dao to.
Những người
đầu tiên phải chấp hành là gia đình nhà Arachaev: Từng người một đến giữa làng,
ném xuống đất tất cả các loại vũ khí cổ xưa hoen gỉ, những con dao găm và gươm
giáo sứt mẻ. Rồi đến những người khác. Họ chỉ giao nộp những thứ cũ kĩ không
còn dùng được nữa, chỉ mang tính trang trí từ thời nổ ra cuộc chiến tranh
Kavkaz.
- Tất cả
vũ khi đã giao nộp hết chưa? - Chỉ huy đoàn công tác, một người đàn ông khỏe mạnh,
rắn chắc mặc chiếc áo da màu đen hét lên.
Dân làng
Duts-Khote đồng thanh gào to: “Hết rồi”.
Người chỉ
huy vẫy tay, những người lính được huấn luyện kĩ và có tổ chức liền ập vào từng
nhà, lục lọi khắp nơi, moi móc từng khe hở, kiểm tra kho chứa, hầm chứa, gác
thượng, mái hiên.
- Mọi người
hãy nhớ đây, - người chỉ huy hét lên sau cuộc vây ráp. - Bất cứ ai tàng trữ,
mang theo và nhất là sử dụng vũ khí đều bị bắt ngay và sẽ bị trừng phạt đích
đáng, thậm chí xử bắn nữa... Hiểu chưa?
Thoạt đầu
người ta im lặng, nhưng sáng hôm sau, dân làng Duts-Khote bỗng nhìn thấy súng
săn, súng ngắn, thuốc nổ, dao găm trong vườn nhà mình mà đêm trước hàng xóm đã
vứt sang ... Thế đấy...
Hai tuần
sau sự kiện đó, trong thung lũng Vashandaroi diễn ra cuộc phân chia đất cày và
đồng cỏ giữa dân chúng trong làng cho vụ hè sắp đến. Vào bữa trưa sau khi chia
ruộng đất xong, Tsanka cùng với vợ Dikhant, em trai Basil và em gái Kelika quay
về làng bằng xe ngựa. Basil cầm cương, Tsanka ngồi ở sau xe, thòng chân ra
ngoài.
- Anh
Tsanka, anh Tsanka, - đột nhiên cậu em trai hét lên. - Hồng quân.
- Ở đâu? -
Tsanka giật mình.
Một đội kỵ
binh Hồng quân từ làng đang đi về phía họ.
- Giấu vũ
khí đi. - Cậu em Basil lo lắng.
- Sợ cái
gì chứ? - Tsanka cười khẩy.
- Anh cất
đi, giấu đi. - Cả cô vợ Dikhant và em gái Kelika cùng năn nỉ.
- Thôi được
rồi, - Tsanka làm ra vẻ quan trọng, - nếu không vì các em...
Tsanka
tháo con dao găm và khẩu súng ngắn trên thắt lưng ra, nhét xuống dưới tấm lông
cừu trên sàn xe để ngồi cho êm.
Những người
lính mỏi mệt đi ngang qua, thậm chí cũng không thèm nhìn chiếc xe nữa. Khi họ
đã khuất sau gò, Tsanka lại lôi khẩu súng ngắn ra, oai vệ nhét vào thắt lưng.
- Anh
Tsanka, có một chiếc xe ngựa bốn bánh kia. - Basil lại la lên.
- Bao
nhiêu người? - Tsanka không thèm quay lại, hỏi.
- Hai.
- Thì
chúng ta cũng có hai, xử lý được thôi.
- Thôi,
xin anh, cất súng đi. - Kelika bực mình.
- Các người
sợ cái gì chứ? Không sao đâu. Cứ yên tâm.
Trên xe có
trung đoàn trưởng Shevtsov và người đánh xe của ông là Albastov Siamby, một người
Chechnya ở làng bên. Khi hai chiếc xe đến bên nhau, Shevtsov ngồi sau nhìn thấy
khẩu súng ngắn trên thắt lưng Tsanka.
- Đứng lại!
- Shevtsov ra lệnh đồng thời nhảy xuống, rút khẩu súng ngắn trong bao của mình
ra. - Dừng xe lại... Giao nộp vũ khí.
Trước họng
súng, thoạt đầu Tsanka có hơi bối rối, nhưng sau khi nhớ ra bên cạnh mình là vợ
và em gái, cậu cương lên như con gà trống, rút khẩu súng của mình ra, lên đạn
và chĩa thẳng vào ngực người chỉ huy Hồng quân.
- Giao nộp
vũ khí! - Shevtsov ra lệnh.
Tsanka
không chấp hành, khuôn mặt trắng bệch, bàn tay run run chĩa nòng súng vào giữa
ngực đối thủ.
Người đánh
xe Albastov Siamby nhảy xuống, lôi khẩu súng trường năm viên ở dưới chỗ ngồi
ra, kéo quy lát, chạy ra sau lưng Tsanka, thúc nòng súng vào giữa hai bả vai cậu.
Dikhant và
Kelika vừa kêu la ầm ĩ vừa cầu nguyện.
- Em phải
làm gì bây giờ, trời ơi? - Cậu em trai Basil cũng kêu lên.
- Lấy dao
găm đâm vào mạng sườn cái thằng đang đứng sau lưng anh.
Cậu em
trai Basil vẫn còn chưa mất bình tĩnh, lôi con dao ra, chạy vòng ra phía sau
Albastov và thúc mũi dao nhọn vào lưng anh ta.
Con ngựa,
cảm thấy lỏng dây cương và hoảng sợ vì những tiếng la hét liền phi về làng,
mang theo hai cô gái.
- Bỏ súng
xuống! - Shevtsov đỏ mặt tía tai, hét lên.
- Nộp đi.
- Albastov khuyên.
Tsanka vẫn
không nói gì, quai hàm bạnh ra vì căng thẳng.
- Thưa đồng
chí chỉ huy, chẳng nên dây dưa với đám thanh niên này làm gì. - Albastov vội
nói. - Tôi biết chúng là con nhà ai.
- Con nhà
ai?
- Cháu của
ủy viên thư ký Ủy ban Kosum Arachaev.
- Hừ, thế
đấy, - Shevtsov nhếch mép, hạ khẩu súng ngắn xuống, - Quay về làng. Đến đấy sẽ
giải quyết.
Shevtsov
và Albastov tức giận nhìn Tsanka rồi quay xe phóng nhanh về làng Duts-Khote.
Tsanka và Basil chạy men theo dòng suối, qua cối xay nước, tìm chỗ giấu khẩu
súng, rồi chạy về làng trước những ánh mắt vô cùng hốt hoảng và kinh ngạc của
bà Haza và Kesyrt.
Một đám
đông hỗn loạn đang tụ tập trong sân nhà ông Baki-Haji. Chiếc xe ngựa bốn bánh đỗ
bên hàng rào. Hai cậu con trai nhà Arachaev chưa kịp vào sân, ông Kosum liền bước
tới.
- Chúng
mày ở đâu?
- Chúng
cháu ở cối xay nước.
- Ban đêm
mày la cà ở đấy chưa chán hay sao mà ban ngày cũng mò ra đấy nữa. - Ông chú
Kosum hét toáng lên khắp làng. - Khẩu súng ngắn đâu?
- Cháu giấu
ở đấy.
- Mang về
đây ngay. Đồ ngu! Coi chừng đấy, nếu không tao sẽ bẻ gãy chân mày và con bồ
phóng túng của mày nữa.
Tsanka lại
chạy ra cối xay nước, đầu óc chỉ nghĩ đến việc không hiểu sao ông chú lại biết
rõ những cuộc phiêu lưu của mình. Cậu không thể nghĩ đến việc gì khác, chỉ lo
cho Kesyrt, cô sẽ rất đau khổ nếu biết mối quan hệ giữa họ đã bị lộ.
Khi Tsanka
quay về với khẩu súng ngắn, thì ông Shevtsov cùng với hai ông chú Kosum và
Basnak đang uống rượu.
- Tôi sẽ
tha cho nó với một điều kiện, nó sẽ phải vào trường học ở Vedeno hoặc Shali. -
Ông Shevtsov nói bằng một giọng đã nhừa nhựa.
- Nó sẽ
đi, sẽ đi, - ông Basnak đáp. - Sẽ đi học ở Shali và cả ở Vedeno nữa.
- Không phải,
chỉ cần học ở chỗ này hoặc ở chỗ kia thôi.
- Thì tôi
bảo, học chỗ này và cả chỗ kia nữa, - ông Basnak đã say, vẫn không chịu. - Nếu
ông ra lệnh, nó sẽ vào cả thành phố Grozny học luôn thể.
Tsanka phải
chạy hết từ phòng này sang phòng kia phục vụ khách khứa, cậu nhận thấy ông
Baki-Haji nhìn mình bằng ánh mắt nặng nề, tức giận. Cậu nghĩ, ông linh mục tức
giận vì khẩu súng, nhưng thực ra ông già chẳng bận tâm đến khẩu súng. Tất cả mọi
người chỉ quan tâm đến mỗi một việc mà ông Kosum đã nói toạc ra, đó là mối quan
hệ giữa Tsanka và Kesyrt.
- Này, bà
lão, lại đây, - ông Baki-Haji gọi vợ.
Tò mò
không hề thua kém những người khác, bà Hadizhat như bừng tỉnh, phân vân không
biết có nên tin hay không. Bất cứ một tin xấu nào liên quan đến mẹ con bà Haza
đều làm cho bà Hadizhat hả lòng hả dạ và thỏa mãn cái cơ thể béo núc của mình.
- Ông cần
gì? - Bà hỏi chồng bằng một giọng dịu dàng và săn đón hơn thường ngày, mắt cụp
xuống.
- Bà gọi
Kosum lại cho tôi gặp một lát. - Ông già bực bội nói.
Bà
Hadizhat không nói gì cả, những lần khác bà đã giao việc lại cho Tsanka hay ai
đó, hoặc mặc xác ông già, tuy nhiên lần này bà tự mình đi làm.
Ông Kosum
đến, mặt mũi đỏ gay, bóng loáng lên vì thức ăn nhiều mỡ, môi ướt nhoẹt.
- Bà ra
ngoài đi. - Ông Baki-Haji ra lệnh cho vợ.
Bà vợ nhún
vai vẻ không hài lòng, lầm bầm cái gì đó rồi đi ra, nhưng đứng ngay sát cửa để
nghe trộm.
- Hôm qua
chú lảm nhảm cái gì thế? - Ông linh mục hỏi em trai.
- Về chuyện
gì ? - Ông Kosum ngạc nhiên hỏi lại.
- Về cối
xay nước... thằng Tsanka.
- À, à, -
ông em bật cười. - Thì tôi là ủy viên thư ký Ủy ban mà, tôi cần phải biết tất cả.
Vậy anh gọi tôi có việc gì?
- Lại đây.
- Ông linh mục ngoắc tay.
Tình cờ
Tsanka cũng nghe được cuộc nói chuyện đó. “Họ sẽ xé xác mình ngay bây giờ và cả
Kesyrt nữa, - cậu nghĩ. - Điều quan trọng là đừng để cô ấy biết”.
Nhưng
Tsanka không biết rằng, cùng lúc ấy, bà Hadizhat, suốt cả mùa đông không bước
ra khỏi nhà, giờ đang lội trong tuyết đến đầu gối, đôi chân mập ú sục trong bùn
đất, chạy ra rìa làng, đến nhà cô con gái lớn để thông báo cái tin chấn động
kia. Vậy là chỉ sau vài giờ, những lời đàm tiếu đã lan khắp ngôi làng miền núi
nhỏ bé và đến tai cô vợ của Tsanka.
Dikhant cảm
thấy có điều gì đó không bình thường khi nhìn thấy thái độ dửng dưng và lạnh
lùng của chồng, cô không biết phải ghen tuông với ai, trút nỗi bực tức và căm
giận lên đầu ai. Giờ đây, cô tiếp nhận cái tin ấy như một lời thách đấu. Vốn
căm ghét những người Chechnya miền núi, Dikhant coi tất cả dân làng DutsKhote
là một lũ ăn lông ở lỗ, điên rồ và ngu ngốc. Cô không thể cho phép chồng mình
đánh đổi mình để lấy một đứa con hoang vô gia cư, một con đàn bà phóng túng mấy
đời chồng, con gái của mụ Haza rác rưởi nào đó.
Với sự hộ
tống của các bà hàng xóm và người hầu bí mật - một phụ nữ quá thì ngớ ngẩn tên
là Azhu - Dikhant quyết tâm tiến đến cối xay nước. Một vụ scandal nổ ra, tuy
nhiên, niềm hy vọng của Dikhant không được đền bù xứng đáng: Kesyrt, từng trải
chuyện đời, đứng vững trước cuộc đấu võ mồm với vợ Tsanka, và khi cô kia không
còn giữ được bình tĩnh nữa, lao vào khua móng tay lên định cào cấu, thì Kesyrt
nhanh nhẹn né sang bên rồi xô một cú thật mạnh làm cho vị khách ngã nhào xuống
đất. Sau đó, không thèm nói một lời, Kesyrt đi ngược theo dòng suối, lên rừng.
Trong lúc đó bà Haza kinh hãi nấp kín giữa tấm phản và bếp lò, chỉ sợ người ta
sẽ đánh mình. Và khóc thảm thiết...
Mãi đến gần
sáng, trong tâm trạng u ám, Tsanka mới về đến nhà, đầu đau nhức vì căng thẳng.
Vợ không có nhà. Bếp lò không đốt, căn phòng xiêu vẹo tối om. Tsanka đi cả ủng
bẩn ngồi xuống phản, vất vả lắm mới tháo được một chiếc, ném ra cửa, đang tháo
chiếc thứ hai thì Dikhant hiện ra nơi ngưỡng cửa. Vì trời tối nên Tsanka không
nhìn rõ mặt mũi và quần áo của vợ, cậu chỉ nghe thấy hơi thở dồn dập, đứt quãng
của Dikhant.
- Anh còn
về đây làm gì nữa? Sao không cút đi với con đàn bà phóng túng của mình! -
Dikhant điên cuồng hét lên.
Tsanka
nhìn về hướng vợ. Trong bóng tối, cậu nhận ra vợ mình đang đứng với dáng vẻ
khiêu khích, hai tay chống nạnh.
- Đồ con
hoang, đồ gái điếm... mẹ nó là đồ chó cái, cả nó cũng là đồ chó cái! - Dikhant
tiếp tục bằng một giọng gay gắt hơn.
- Cô nói
ai thế? - Tsanka không kìm nổi.
- Về cái
con Kesyrt của anh, thật đáng đời! Sáng mai tôi sẽ còn đánh cho nó vỡ mặt ra,
còn anh, đồ con lợn bẩn thỉu...
Dikhant
còn muốn nói nói thêm nữa, nhưng chiếc ủng nặng trịch, dính đầy bùn đất, từ
trong bóng tối bay thẳng vào ngực cô. Dikhant ngã vật xuống gầm phản, và không
biết điều gì sẽ xảy ra nữa với cô vợ bụng mang dạ chửa nếu như mẹ, em trai và
em gái không kịp thời lao vào can ngăn.
Sau đó,
không nói với ai một lời nào, Tsanka chạy đến cối xay nước. Nghe tiếng chó sủa,
bà Haza bước ra. Vừa nhìn thấy vị khách đáng ghét trong bóng tối, bà Haza lại
càng còng lưng xuống, tức giận phều phào bằng cái miệng móm, chân dẵm đành đạnh
xuống tấm ván đã mục nát ở bậc thềm, vung đôi tay dài ngoằng lên.
- Thằng khốn
nạn đáng nguyền rủa kia, - bà lão hét to. - Mày đã quyến rũ con gái tao, làm nhục
nó, làm hại đời nó! Tao phải làm sao bây giờ? Sao mày lại xúc phạm chúng ta, những
người phụ nữ bất hạnh như thế?!
Bà Haza
khóc òa lên, bất lực ngồi phịch xuống bậc thềm. Con mèo đen khẽ kêu meo meo,
cào cào vào chiếc lưng còng của bà. Trong chuồng, con bò cái chưa được vắt sữa
và chưa được ăn liền rống lên, con bê con cũng hùa theo.
- Chúng ta
phải làm gì bây giờ? Phải sống thế nào đây? - Bà lão úp tay lên mặt, than vãn bằng
một giọng nhỏ nhẹ hơn. - Ta thì sao cũng được, ta đã sống hết thời của mình,
nhưng còn nó, nó sẽ sống tiếp thế nào... Tại sao ta lại không chết trước khi xảy
ra nỗi nhục này?
Tsanka đứng
lặng, mồ hôi đẫm lưng áo, không biết phải làm gì, xử sự ra sao.
- Tsanka,
- bà Haza nhìn cậu bằng đôi mắt đẫm nước, - đi tìm xem con Kesyrt ở đâu. Nó đi
về hướng này, ngược theo con suối.
Tsanka vội
vàng đi theo con đường mòn nhỏ phủ đầy lá rụng từ năm ngoái, lên đầu nguồn con
suối. Lát sau, mới đi được nửa đường trong bóng tối, Tsanka nhìn thấy người yêu
đang đi ngược lại.
- Kesyrt
yêu quý ơi, - Tsanka kêu lên.
- Đừng đến
gần tôi. Đứng lại... Tôi xin anh, - Kesyrt nói bằng một giọng nghiêm khắc lạ
thường.
Hai người
đứng đối mặt nhau rất lâu trong im lặng. Ngay cạnh là dòng suối chảy rì rào. Trời
tối, gió lạnh từ trên núi thổi xuống khẽ lay động những ngọn cây tiêu huyền cao
lớn, làm những cành khô đập vào nhau loạt soạt. Trong rừng, không xa, một con
sói tru lên.
- Xin anh
hãy nghe tôi, Tsanka. - Kesyrt đưa tay bắt chéo lên ngực, nói: - Tôi có lỗi
trong mọi chuyện. Anh không có lỗi gì cả. Tôi có tội trước Thượng đế, trước mẹ
tôi và tất cả mọi người...
- Cô đừng
nói vậy, - Tsanka lao đến, định ôm lấy Kesyrt.
- Tôi xin
anh, tôi van anh, hãy thôi đi. - Kesyrt lạnh lùng nói. - Tôi xin anh... - giọng
cô bỗng đứt đoạn, - Tôi xin anh đừng đến gần tôi, hãy để tôi yên, - Kesyrt
không thể kìm được, òa khóc, cả người run lên bần bật.
Tsanka vẫn
cương quyết ôm lấy Kesyrt, ép chặt vào người cô, không biết nói gì vì chính cậu
cũng muốn khóc.
- Nếu
không vì mẹ tôi, tôi đã tự kết liễu đời mình. Tôi đã chán ngấy tất cả!
- Đừng nói
thế, Kesyrt yêu quý, xin đừng nói thế. Mọi việc rồi sẽ tốt đẹp... Tôi sẽ giải
quyết tất cả...
- Tsanka,
anh hãy hứa với tôi, là anh sẽ để tôi yên và đừng bao giờ xuất hiện trước mặt
tôi nữa. - Kesyrt nói thẳng vào mặt Tsanka.
- Cô nói
gì vậy? Thôi đi, không bao giờ lại như vậy. - Tsanka thì thầm và càng ôm chặt
Kesyrt hơn nữa.
- Chúng ta
hãy đi khỏi đây... Ở đây chúng ta không thể sống được đâu.
- Kesyrt,
thôi đi, đừng nói thế.
- Anh có
thực hiện lời yêu cầu và điều mong ước của tôi không?
- Được,
Kesyrt cứ nói đi. Tôi sẽ làm tất cả những gì cô muốn. - Tsanka nói to.
- Anh hãy
để tôi được yên và hãy đi khỏi cuộc đời tôi. Tôi van anh... Đi ngay đi.
- Không,
không. - Tsanka ôm chặt Kesyrt.
- Tôi van
anh, hãy đi đi. - Kesyrt vùng ra khỏi vòng tay của Tsanka. - Hãy đi đi... đi
đi...
Khuya lắm
Tsanka mới về đến làng trong tâm trạng vô cùng tồi tệ. Cậu không về nhà ngay mà
rẽ vào nhà bạn Kurto. Hai người uống rượu cho đến lúc gà gáy lần thứ hai, hút rất
nhiều thuốc lá, nói đủ chuyện, tranh cãi, cười cợt. Phải cố gắng lắm, Kurto mới
làm cho bạn mình bình tâm trở lại, rằng mọi chuyện rồi sẽ qua, mặc cho người đời
đàm tiếu, rồi họ sẽ quên ngay, rằng Kesyrt là một phụ nữ độc thân, có thể vui
chơi, còn Thượng đế thì cho phép những người trẻ tuổi được đáp ứng nhu cầu của
phụ nữ độc thân.
* * *
Không biết
vụ ầm ĩ liên quan đến Tsanka và Kesyrt sẽ còn dẫn tới đâu nếu như không xảy ra
những sự kiện khác quan trọng hơn nhiều. Một tiểu đoàn Hồng quân được điều động
đến làng Duts-Khote. Mỗi nhà có ba, bốn người lính được bố trí đến ở, thậm chí
ngay cả nhà bà già Avraby độc thân cũng có đến ba người lính.
Việc kiểm
kê trong làng diễn ra từ sáng đến tối. Tất cả mọi thứ đều được thống kê: nhân
khẩu, gia súc, cừu, đất đai, gà qué, thậm chí cả cây ăn quả nữa. Công việc kéo
dài suốt cả một tuần, kĩ lưỡng, không vội vàng. Sau đó, người ta bắt đầu tiến hành
đo đạc diện tích bãi chăn thả, đồng cỏ, đất cày. Ngay cả những thùng ong của
ông Baki-Haji cũng không bỏ qua, thậm chí trong cột chú thích còn ghi rõ có bao
nhiêu thùng rỗng, thùng hỏng.
Sau một tuần,
toàn thể dân chúng được triệu tập trong một cuộc họp chung. Trời mưa lâm râm, mọi
người không muốn rời khỏi ngôi nhà ấm áp của mình. Tuy nhiên, chỉ trừ lũ trẻ
con và những người quá già, tất cả đều được triệu ra bãi bãi đất trống trong
làng. Người ta tuyên bố cho dân làng Duts-Khote biết, họ đã không hoàn thành chỉ
tiêu kế hoạch của năm trước, mặc dù trong các nhà vẫn còn lại rất nhiều lương
thực thực phẩm. Người ta bảo, sau khi phân tích kĩ lưỡng các số liệu thống kê,
năm nay chỉ tiêu kế hoạch sẽ được nâng lên.
Bắt đầu từ
đây, mọi chuyện rắc rối diễn ra. Với số thuế còn thiếu, mỗi hộ sẽ bị trưng thu
cho đủ bằng nông sản và gia súc. Các vị bô lão, đứng đầu là ông Baki-Haji phải
đi từng nhà kêu gọi mọi người phải hết sức bình tĩnh, nhắc họ nhớ lại vụ việc xảy
ra ở làng Khote bên cạnh. Ở đó đã nổ ra cuộc xô xát mà hậu quả là mười hai người
dân trong làng bị bắn chết, sau đó, tất cả gia súc bị tịch thu hết, gấp ba lần
số lượng mà người ta yêu cầu.
Một đàn lớn
bò và cừu bị lùa ra khỏi làng Duts-Khote như là một món cống vật cho chính quyền.
Trước đó, một đoàn xe tải chở đầy thóc lúa, bơ, pho mát và các thực phẩm khác của
làng nối nhau ra đi.
Tuy nhiên,
chuyện rắc rối đến đây vẫn chưa kết thúc. Hai tuần sau, một đoàn công tác khác
lại vào làng, đến từng nhà phát cho mỗi hộ những tờ giấy ghi rõ chỉ tiêu kế hoạch
thực hiện và số thuế phải nộp trong năm. Các chủ hộ phải nắm rõ nội dung và
đánh dấu chữ thập xác nhận đã đồng ý.
Người ta
cho tháo dỡ cái tháp trên giáo đường Hồi giáo xuống rồi bố trí văn phòng Ủy ban
và trường tiểu học vào đó.
Sau vài
ngày, khi dân làng đã hoàn hồn bởi những biến cố vừa diễn ra và đánh giá đúng
khoản thuế phải nộp trong năm, người ta đổ xô đến Ủy ban khiếu nại, yêu cầu chủ
tịch Khasanov và ủy viên thư ký Kosum Arachaev xem xét về sự vô lý của chính
quyền, rằng dân làng chưa bao giờ có được sản lượng lương thực như vậy.
Ông Kosum
đến Shali để trình bày khiếu nại của dân làng, nhưng ở đó chẳng giải quyết được
gì. Khi đó, ông tham gia trong đoàn đại diện lãnh đạo Ủy ban huyện Shali xuống
thành phố Grozny với hi vọng có thể giải quyết được vấn đề mức thuế quá cao.
Sau mấy
ngày chầu chực ở phòng lãnh đạo họ mới được tiếp. Trong căn phòng rộng, sáng sủa,
sau khi nghe họ trình bày, người ta bảo họ bị tác động bởi luận điệu của bọn
phú nông Cu-lắc, rằng tất cả những điều đó sẽ dẫn đến sự hỗn loạn. Ông Kosum
quay về nhà, tay trắng vẫn hoàn tay trắng, suốt dọc đường cứ phải chạy vào bụi
để giải quyết nhu cầu cá nhân.
Ngày hôm
sau, ngay từ sáng sớm dân làng đã đổ xô đến phòng làm việc mới của ông Kosum,
yêu cầu giải thích mọi việc và xin cấp các loại giấy chúng nhận này nọ. Mới ngồi
được nửa tiếng, ông Kosum, như mấy ngày qua cảm thấy cơ thể có điều gì đó bất ổn,
liền chạy ra khỏi phòng định về nhà.
- Ông
Kosum, dừng lại đã, đừng đi vội. - Dân chúng gọi theo.
- Ông đi
đâu thế, đứng lại!
- Cho tôi
xin giấy chứng nhận!
- Chúng
tôi bầu ông lên để làm gì mà ông ngạo mạn thế?
- Này, chẳng
lẽ ông không nhận ra tôi à? - dân chúng la hét ầm ĩ.
Ông Kosum
cố thoát ra khỏi đám đông vây kín xung quanh, cuối cùng ông cũng thoát ra được,
nhưng ngay lập tức bị túm tay.
- Cho tôi
xin cái giấy chứng nhận, ông Kosum.
- Mọi người
chờ tôi một lát, tôi sẽ quay lại ngay. - Ông Kosum la lên, mắt trợn ngược.
- Không được,
chỉ một phút thôi mà.
- Tôi chờ
ông suốt ba ngày nay rồi...
- Xin hãy
thả tôi ra, - ông Kosum hét lên, rồi đột nhiên ông sụn xuống trong tư thế rất kỳ
dị. - Thôi rồi, bây giờ thì nói đi, muốn gì nào.
Một mùi xú
khí bỗng bốc lên, mọi người liền tản ra, chiếc quần màu cỏ úa của ông bỗng sẫm
lại, từ dưới gót giày một vệt nước sền sệt, vàng vàng chảy ra. Dân chúng khắp
vùng còn đàm tiếu rất lâu về chuyện ông Kosum đã mang theo dịch bệnh thổ tả từ
thành phố về làng.
Bệnh dịch
khủng khiếp bò lên núi, cướp đi nhiều nhân mạng. Chỉ tính riêng trong làng
Duts-Khote đã có mười chín người chết. Nhà Arachaev có ba người mắc bệnh là ông
Kosum, Tsanka và cậu con trai cả Esky của ông Kosum. Cũng may cho cả dòng họ là
không ai chết. Ông Baki-Haji bảo, tất cả là nhờ ông cầu nguyện và nhờ Thượng đế
thương tình. Tuy nhiên, cũng cần phải nhắc đến yếu tố mức sống đầy đủ trong nhà
họ và điều quan trọng nhất là những bộng ong có khả năng chữa bệnh của ông linh
mục.
Mãi đến cuối
tháng Năm, lần đầu tiên Tsanka mới bước ra ngoài trời. Thời tiết rất đẹp. Trong
nhà không có ai, tất cả mọi người đều ra đồng làm cỏ ngô. Dikhant đã rời khỏi
nhà suốt hai tháng qua. Vừa nghe tin trong núi có dịch thổ tả, anh em của cô đã
đến đưa cô về nhà mình.
Tsanka đứng
trong sân, ngắm nhìn xung quanh. Tất cả cảnh vật hình như trở nên khác hẳn -
tươi mới, sạch sẽ và đẹp đẽ. Trên trời, lũ chim én vô tư chao lượn, chim sẻ ríu
rít khắp nơi, chim oanh vàng đua nhau ca hót, đùa nghịch. Cảnh vật như khoác bộ
cánh màu xanh, hoa keo tỏa hương nồng nàn. Trên sườn núi, những tán cây dẻ rừng
bắt đầu sáng lên như mái tóc bắt đầu điểm bạc. Một con đại bàng đơn độc, tắm
mình trong nắng sớm, chao lượn nhẹ nhàng trên thung lũng Vashandaroi. Dưới chân
hàng rào cỏ non đã nhú lên, một con nghé con đang lim dim ngủ... Tsanka cứ đứng
mãi trong sân ngắm nhìn không chán mắt, cảm nhận được sự sống dâng trào, cùng với
sinh lực và sự tự do.
Giờ đây,
Tsanka tiếp nhận thế giới xung quanh với những vấn đề phức tạp và nỗi lo của
mình theo một cách khác. Hóa ra, trong thế giới này có biết bao điều vô ích,
hèn mọn và không đáng để bận tâm. Chỉ đến khi rơi vào ranh giới giữa cái sống
và cái chết, con người mới bắt đầu hiểu ra hiện thực xung quanh trong bản chất
khách quan và tự nhiên của nó, không có sự đam mê mù quáng, tự dối, tự phụ và sự
can thiệp từ bên ngoài. Tsanka có cảm giác như của một người sau khi đã trải
qua những nỗi đau, bước ra bờ sông thoáng đãng, trước mặt là dòng đời ngầu đục
đang sôi réo sùng sục, sủi bọt trắng xóa. Và không thể cứ đứng mãi như thế bên
sông mà ngẫm nghĩ và tính toán - không, dưới sự tác động của nhiều hoàn cảnh,
con người buộc phải bước vào dòng nước ngầu đục kia dẫu có thể phải uống no nước.
Rồi sau đó, thị hiếu sẽ khác đi, rồi đố kị, rồi đam mê, rồi lý trí bị chi phối
- và dòng sông cuộc đời cuồn cuộn kia cứ chảy mãi, lôi ta đến cái thảm họa cá
nhân tiếp theo, mà có thể là cuối cùng... Nhưng dù có thế nào thì con người vẫn
không kìm lòng được: bản năng vẫn cứ lôi kéo anh ta với bao hiểm nguy. Niềm tin
vào thành công, niềm đam mê thay đổi liên tục sẽ lại đẩy anh ta vào những hành
động táo bạo và những cuộc phiêu lưu khác...
Thế giới tự
nhiên là như vậy, và đó mới là cuộc sống...
Tsanka còn
ở nhà thêm một tuần nữa, vô công rồi nghề la cà các nhà hàng xóm và bạn bè,
nhưng rồi cậu không chịu nổi, liền ra đồng, và vô cùng ngạc nhiên: hơn một nửa
diện tích đất cày không được gieo, mọc đầy cỏ dại, dân làng chẳng có gì để gieo
vì không có hạt giống.
Chẳng bao
lâu sau, Dikhant quay về. Trước kia cô không bao giờ nhúng tay vào công việc đồng
áng, nay có mang, hầu như chẳng bước chân ra khỏi cửa, chỉ nằm lên nằm xuống
trong căn nhà đất nhồi rơm mát mẻ.
Mọi việc
trong nhà đều do một tay Tsanka. Sau vụ xô xát liên quan đến Kesyrt, một bóng
đen lạnh nhạt xuất hiện giữa đôi vợ chồng. Trước đó, họ sống với nhau cũng chẳng
vui vẻ gì, nay gần như là người xa lạ. Vài lần Dikhant đã bỏ về nhà cha mẹ đẻ,
song ông bố nghiêm khắc đã quát mắng bà mẹ thật to để cô con gái cũng nghe được:
- Tôi
không cần một đứa con gái lỡ thì độc thân trong nhà, hơn nữa với đứa con của
người khác. Cứ để nó sống ở đấy và tự giải quyết. Bà đã quá nuông chiều nó, đồ
vô dụng, cứ để cái con lười nhác ấy tự lo, nó không có đường về đâu... Tôi biết
cái tính lười biếng của nó, cũng như bà, đồ vô lại... Chẳng qua là trên thế giới
này không có ai ngu như tôi...
Sau đó,
Dikhant không còn cách nào khác là phải quay về ngôi nhà tuềnh toàng, ọp ẹp của
chồng.
Tsanka
cũng đau khổ. Chưa bình phục hẳn, cậu đã phải ra đồng, vào rừng. Đầu tiên là chỉ
đi dạo một mình, sau đó, khi đã khỏe hơn một chút, cậu phải tham gia việc cắt cỏ
cùng với mọi người.
Mỗi sáng,
Tsanka ra đồng, đến bên suối với trái tim buốt nhói, cậu muốn quay sang trái,
đi về hướng cối xay nước, để được nhìn thấy Kesyrt, trò chuyện với cô, ôm cô
vào lòng... Nhưng Tsanka chỉ thở dài nặng nhọc, ể oải bước tiếp.
* * *
Như mọi
năm, vào đầu tháng Sáu tiết trời se lạnh, mưa thường xuyên hơn. Vào một trong số
những ngày mưa như vậy, một đoàn công tác lại đến làng DutsKhote. Người ta kiểm
tra hoạt động của trường học, câu lạc bộ những người không theo đạo, ủy ban bần
cố nông, rồi họ đến cối xay nước. Trước đó, Thượng đế còn ưu ái đối với những
phụ nữ độc thân nên những chiếc xúc tu của chính quyền chưa chạm tới họ. Giờ đã
đến lượt họ.
Đối với phụ
nữ, chính quyền đối xử khá tế nhị, không thô bạo và lỗ mãng, có thể thấy, họ biết
rõ vai trò của phụ nữ trong công việc gia đình. Trước khi ra đi, họ bảo với bà
Haza và Kesyrt rằng hai mẹ con phải tìm chỗ cư ngụ khác vì cối xay nước sẽ bị
xóa bỏ. Bà già khóc lóc, nói rằng cối xay nước từ lâu đã không làm việc, rằng
khắp vùng chẳng ai có lúa và họ không có chỗ nào khác để sống.
- Biết làm
sao bây giờ, - người đàn ông Chechnya trong đoàn công tác buồn rầu nói. - Lệnh
là như vậy. Họ bảo, trong cả nước, nhà nước sẽ độc quyền việc xay xát. Trong
vùng này sẽ có một nhà máy xay của nhà nước. Còn các cơ sở của bọn phú nông
Cu-lắc phải bị xóa sổ. Hai mẹ con có thể sống đến mùa thu, còn sau đó, dù rất
thông cảm với hoàn cảnh của hai người, nhưng tôi không thể giúp được nữa.
Trong toàn
bộ cuộc trao đổi đó, hai người đàn bà sợ chết khiếp chỉ hiểu được một điều: chẳng
bao lâu nữa họ sẽ bị tống cổ ra khỏi túp lều. Hai mẹ con vô cùng bối rối...
Sau cuộc đụng
độ với Dikhant, bà Haza lại càng trở nên nóng nảy hơn, lưng lại còng hơn, có
khi cả tuần liền bà không nói một câu, rồi vô cớ nổi nóng, bảo con gái đã làm ô
nhục tên tuổi của bà lúc gần đất xa trời. Giờ đây, khi mối đe dọa đang treo lơ
lửng trên túp lều của hai mẹ con, bà Haza hoàn toàn đánh mất sự bình yên trong
lòng, bà không biết phải làm gì, cầu cứu ai.
- Vì những
hành vi lầm lạc của mày mà giờ đây tao cảm thấy xấu hổ khi phải cầu xin sự giúp
đỡ của mọi người. - Bà mắng con gái. - Chúng ta phải làm gì bây giờ, sống ở
đâu? Cái mông của mày đã gây nên nông nỗi này đấy...
Kesyrt
không thể chịu đựng nổi, bật lên:
- Sao mẹ lại
quát mắng con?! Tốt hơn là mẹ hãy cho con biết, mẹ đã quan hệ với ai để đẻ ra
con, hay là nhặt được con trong bụi? - Cô con gái tức điên, độp lại.
Ngay sau
đó, Kesyrt liền nhận ra mình đã phạm sai lầm không thể tha thứ, cô hoảng hốt bụm
miệng lại... nhưng đã muộn.
Bà Haza
không nói thêm một lời, lặng lẽ bỏ đi. Không ăn uống, chỉ rên rỉ.
Kesyrt
khóc lóc xin lỗi mẹ, vuốt ve mẹ.
Bà mẹ chỉ
im lặng.
Sang ngày
hôm sau, bà Haza lên cơn đau. Trong đêm, bị cơn đau trong ngực hành hạ, bà ngã
từ trên phản xuống, gần như nghẹt thở nhưng không thể la lên được, chỉ nặng nề
ôm chặt lấy tim rên rỉ, rồi sau đó bất tỉnh.
Kesyrt gào
khóc thảm thiết, đỡ tấm thân bất động của mẹ lên phản, bên ngọn đèn dầu, cô ngồi
chờ sáng, nhìn qua hàng nước mắt khuôn mặt đầy những vết nhăn đau khổ, giờ đây
lại càng nhăn nhúm hơn của mẹ.
Trong cơn
hoảng loạn Kesyrt chạy ra sân, kêu thét lên, cầu xin sự giúp đỡ, nhưng chẳng ai
nghe được nỗi thống khổ của cô. Xung quanh chỉ có cánh rừng đang ngủ trong bóng
tối. Mấy con chó già hoảng sợ vì tiếng thét man dại của cô chủ liền vểnh đuôi
lên, trốn vào sau vách nhà kho. Ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn dầu hỏa như cuốn
hút lũ dơi, chúng chao qua chao lại trên đầu Kesyrt, kêu chít chít.
- Rúc-úc,
- một con cú mèo rúc lên bằng một giọng ma quái, hoang dại, rồi lại cười lên bằng
một giọng âm vang, - Huc-huc... ha-ha-ha, - tiếng vang âm âm và độc địa của nó
lan xa khắp thung lũng.
Con suối
buồn bã thì thầm.
Kesyrt hoảng
sợ chạy vào nhà. Trong ánh sáng ngọn đèn dầu le lói, lập lòe vì gió thổi, cô
nhìn thấy khuôn mặt nhăm nhúm vì đau khổ của mẹ và lại khóc thét lên, lao ra,
chạy băng qua cánh rừng rậm về phía làng, về phía có người. Vừa chạy, vừa khóc,
va quẹt vào cành cây, vấp ngã đau điếng trên mặt đất gồ ghề, Kesyrt cố lao đi
tìm sự giúp đỡ và bảo vệ. Cô cứ cắm đầu chạy, chẳng nghĩ ngợi gì cả, chỉ muốn
tìm được chỗ dựa từ người cô yêu quý, tin tưởng và cùng chia ngọt sẻ bùi với
mình. Kesyrt không nghĩ đến hậu quả, chỉ đơn giản là cô không thể nghĩ được, nỗi
đau đã đánh gục cô hoàn toàn: cả niềm kiêu hãnh, cả nguyên tắc sống, cả tính
cách. Ngay bây giờ chỉ có một người trên thế gian này có thể là niềm hy vọng và
sự cứu cánh cho Kesyrt.
- Tsanka,
Tsanka, xin hãy cứu tôi, giúp tôi!.. Tsanka-ka-ka!
Người đầu
tiên lao ra khỏi nhà là bà mẹ Tabark, tiếp theo, từ cánh cửa bên cạnh là Tsanka
chỉ mặc độc chiếc quần. Cậu đi chân đất chạy ra mở cổng, vừa nhìn thấy Kesyrt
ngã quỵ xuống Tsanka vội ôm lấy vai cô.
- Có chuyện
gì? Chuyện gì thế? - Tsanka kêu lên.
- Mẹ tôi,
mẹ tôi, chết... Tôi xin anh, hãy giúp tôi...
Khi Tsanka
và Kesyrt chạy về cối xay nước thì nhìn thấy một cảnh tượng kỳ lạ: bà Haza nằm
bất động trên con đường mòn dẫn xuống nguồn nước. Vừa thở hổn hển vì chạy, hai
người vừa vất vả khiêng bà Haza vào nhà, đặt lên phản. Bà già, thở khò khè, bất
ngờ mở mắt ra, lẩm bẩm điều gì đó.
- Mẹ cần
gì? Cần gì? - Cô con gái nước mắt đầm đìa, cúi sát xuống.
- Nước, nước,
- bà Haza khẽ thì thào, - nước nguồn, nước nguồn.
Kesyrt chạy
đến chiếc thùng gỗ đựng nước, múc một gáo đầy mang lại kê sát miệng bà Haza, bà
mím môi lại, lắc đầu. Tsanka hiểu ngay, liền chạy xuống nguồn nước.
Bà Haza
thèm thuồng hớp liền vài ngụm, nghỉ lấy hơi rồi uống tiếp và quay mặt đi.
- Mẹ ơi, mẹ
ơi, - Kesyrt khóc nấc lên.
Đột nhiên,
bà Haza bỗng động đậy, thậm chí muốn ngồi dậy nữa, nhưng không thể, đành phải nằm
xuống, đầu gối lên chiếc gối cao.
- Đưa tay
cho mẹ, - bà thì thào.
Kesyrt vội
vàng đưa tay cho mẹ. Bà Haza nắm lấy cổ tay con gái bằng những ngón tay dài,
khô đét và cong queo của mình.
- Kesyrt,
Kesyrt, con hãy tha thứ cho mẹ, - bà khẽ nói.
Đột nhiên,
đôi mắt bà bỗng mở to như hồi sinh trở lại, thậm chí còn lóe sáng lên nữa.
- Con gái
yêu của mẹ, con hãy tha thứ cho mẹ... Mẹ sinh ra con trong nỗi đau và sự cô
đơn. Mẹ xin con, hãy tha thứ cho mẹ... Mẹ không thể mang lại cuộc sống tốt đẹp
cho con, mẹ không thể... Nếu được, con hãy tha lỗi cho mẹ...
- Mẹ ơi, mẹ
ơi, mẹ đừng nói thế, - Kesyrt quỳ bên cạnh, nước mắt lã chã, van vỉ. - Mẹ hãy
tha lỗi cho con... Hãy tha lỗi cho con, mẹ yêu quý ơi...
- Thượng đế
sẽ ban phước lành cho con! - Bà Haza khẽ nói, hàng mi khép lại.
Nhưng chỉ
một phút sau, bà Haza lại mở mắt ra, nhìn Tsanka.
- Tsanka,
cháu hãy chăm sóc nó, - giọng bà rất yếu, lát sau bà tiếp bằng một giọng đã khỏe
hơn: - Cháu hãy đọc bản kinh Iasin đi.
Tsanka ngồi
đối diện với bà Haza và bắt đầu đọc bản kinh cầu hồn, Kesyrt vẫn ngồi chỗ cũ,
nhìn mẹ qua hai hàng nước mắt, bà già nằm yên, Tsanka ngồi đối diện với bà Haza
và bắt đầu đọc bản kinh cầu hồn, Kesyrt vẫn ngồi chỗ cũ, nhìn mẹ qua hai hàng
nước mắt, bà già nằm yên, mắt vẫn mở nhìn lên trần nhà bằng đất sét. Bà Haza đã
ra đi như thế. Ngoài đường, trời đã sáng.
Sau khi đọc
xong bản kinh, Tsanka đứng lên, nhìn bà Haza và vô cùng ngạc nhiên: trên khuôn
mặt bà, nụ cười méo xệch như đọng lại, từ cái miệng há hốc đầy kiêu hãnh lấp ló
hai chiếc răng to vàng xỉn, các nếp nhăn như dãn ra. Có thể thấy, lúc qua đời,
lần đầu tiên bà đã tìm thấy sự yên bình và hạnh phúc, và chính vì vậy nên bà đã
vui... Dù cố gắng đến đâu, Tsanka cũng không thể nhớ nổi đã bao giờ cậu nhìn thấy
nụ cười như thế của bà Haza.
- Mẹ mất rồi,
- Tsanka nói và vuốt mắt cho bà.
- Mẹ ơi, mẹ
ơi, - Kesyrt hét lên, gục xuống ngực mẹ.
Lúc này,
ông Kosum cùng bà vợ Soby và bà Tabark mẹ Tsanka cũng vừa đến. Sau họ là ông
Baki-Haji đi xe ngựa tới. Đám đông bà con đã tụ tập bên cối xay nước.
- Bà Haza
thật hạnh phúc, chết đúng vào buổi sáng ngày Thứ Sáu thần thánh. - Dân làng bàn
tán.
Theo lệnh
của các vị bô lão, những người đưa tin hỏa tốc thông báo cho các làng lân cận
biết tin.
Hóa ra, mọi
người rất quý trọng bà Haza, rất nhiều người đến đưa tang bà. Tất cả người lớn
làng Duts-Khote đều có mặt ngoại trừ bà vợ ông Baki-Haji cùng cô con gái và cô
vợ Tsanka. Bà Haza được chôn cất với tất cả nghi lễ truyền thống tại nghĩa địa
cổ Gazavata. Theo yêu cầu khẩn khoản của Kesyrt, người ta xẻ thịt con bò cái
duy nhất của bà Haza để làm lễ hiến sinh.
Đến chiều
thì mọi người ra về, họ muốn đưa Kesyrt về làng, nhưng cô cương quyết từ chối. Khi
đó, theo đề nghị của Tsanka, mẹ và em gái ở lại ngủ với Kesyrt.
Mọi việc
tiếp theo diễn ra rất lạ. Ngay đêm sau, bà Hadizhat vợ ông Baki-Haji cũng đột
ngột qua đời. Những kẻ độc miệng kháo nhau, do người đàn bà mập ú ấy không chịu
đựng nổi niềm “hạnh phúc” quá lớn sau cái chết của bà Haza nên đã bị đột tử.
Theo tục lệ
đạo Hồi, sau khi qua đời, bạn bè thân hữu và người cao tuổi tập trung ở nhà người
quá cố bảy ngày để đọc kinh cầu hồn.
Sau khi bà
Hadizhat mất, số người đến cối xay nước đọc kinh cầu hồn cho bà Haza chỉ có hai
anh em Tsanka và Basil, cậu bạn Kurto và vài người nữa. Trong khi ở sân nhà ông
Baki-Haji thì đông nghẹt.
Tsanka chịu
đựng cảnh đó trong một vài ngày, đến ngày thứ ba, cậu bực tức phi ngựa thẳng từ
cối xay nước vào sân nhà ông bác đúng vào lúc mọi người vừa kết thúc buổi đọc
kinh cầu hồn, chuẩn bị ra về.
- Mọi người,
hãy nghe tôi nói đây! - Tsanka bất ngờ hét lên bằng một giọng chói tai.
Tất cả đều
quay đầu lại và nhìn thấy khuôn mặt hốc hác của Tsanka.
- Mọi người
hãy nghe đây! - Tsanka nhắc lại. - Các người tự cho mình là những tín đồ Hồi
giáo ngoan đạo. - Cậu ngừng vài giây. - Nhưng là những tín đồ như thế nào!?
Ngay bên cạnh cũng có một người đàn bà vừa qua đời, nhưng ở đó chẳng có ma nào,
trong khi ở đây không còn chỗ chen chân. Dĩ nhiên rồi, vì ở đây đáng tôn kính
hơn, lại là một dòng họ lớn, cuối cùng lại được đánh chén no say. Các người
không phải là những tín đồ Hồi giáo, và cũng chẳng xứng là người nữa...
Nói xong,
Tsanka còn đứng lại giây lát xem mọi người phản ứng ra sao, sau đó cậu từ từ
quay người, nhảy lên ngựa, kiêu hãnh ngẩng cao cái mũi to của mình lên rồi thúc
ngựa.
- Thằng mất
dạy! - Ông Baki-Haji giận dữ rít lên.
Nhưng ông
em Kosum đứng cạnh lại bật cười, vỗ tay:
- Y như
cha nó. Bản sao của anh Aldum... Giỏi lắm!
Bốn ngày
sau khi bà Haza được chôn cất, Tsanka đánh xe ngựa đưa mẹ và em gái từ cối xay
nước về làng. Sáng hôm ấy, trời nắng, ấm áp như mùa hè, chim chóc ca vang. Những
giọt sương mai đọng lại từ đêm qua chưa kịp tan, lấp lóa trên thảm cỏ. Khắp núi
rừng tràn ngập những âm thanh kỳ lạ của rất nhiều loài chim. Những tia nắng sớm
xuyên qua tán lá dày, nhảy nhót trên mặt đất. Một con sơn tước đầu đen đậu trên
cành hồ đào sum sê bên đường ngân lên một điệu nhạc lảnh lót. Con ngựa kéo chiếc
xe xuống dốc nhẹ nhàng, vui vẻ.
- Mẹ ạ, -
Tsanka, không quay đầu lại, nói như khẳng định. - Con sẽ lấy Kesyrt.
Một khoảng
im lặng kéo dài.
- Thế còn
chị Dikhant? - Cô em gái Kelika hỏi thay mẹ.
- Về cô
ta, anh không biết, sau này sẽ rõ.
- Con có
tin chắc vào tình cảm của mình không? - Người mẹ thận trọng hỏi.
- Tin. -
Tsanka cương quyết đáp.
- Nhìn
chung, sau vài ngày sống với cô ấy, chuyện trò, mẹ thấy đó là một phụ nữ tốt bụng,
tình cảm. Và bất hạnh. - Mẹ nói.
- Cô ấy rất
tốt! - Kelika bổ sung. - Chẳng giống như chị Dikhant kênh kiệu và hay ngủ của
anh!
- Vậy là
hay rồi! - Tsanka bật cười. - Mẹ và em ủng hộ con chứ?
- Ủng hộ
hay không, chẳng quan trọng. Mẹ biết, con cũng như cha, đều bướng bỉnh và trực
tính... Con hãy làm những gì con cho là đúng, theo lương tâm, còn chúng ta chẳng
bao giờ bỏ rơi con, - người mẹ khẽ nói. - Thật lòng mà nói, Dikhant không hợp với
con, vừa kênh kiệu, vừa xa lánh. Làm sao có thể sống suốt đời với nó?
- Vậy là mọi
việc đã giải quyết xong, - Tsanka vui vẻ thốt lên.
- Thế khi
nào hai người làm đám cưới? - Cô em gái Kelika bật cười đập vào vai anh trai.
- Ba ngày
nữa, khi tang lễ kết thúc.
- Con làm
sao thế, điên rồi à, - cả mẹ và em gái đều bật lên. - Con không đùa đấy chứ?
- Con
không đùa đâu. Chẳng việc gì phải chờ đợi... Kesyrt một thân một mình, không biết
sống với ai?.. Người nào chết thì cũng đã chết rồi, còn chúng ta vẫn phải sống
tiếp trong khi Thượng đế cho phép...
- Thế còn
lễ tang bác gái Hadizhat? - Bà Tabark vẫn không chịu, - còn các cô con gái của
bà ấy, còn bác Baki-Haji? Con đã nghĩ đến chuyện ấy chưa?
- Nếu cứ
nghĩ thì cuộc sống vụt qua mất rồi. - Tsanka lạnh lùng đáp.
- Họ sẽ nuốt
sống mẹ! - Bà mẹ la lên.
- Mẹ sẽ
không làm sao cả. Đàm tiếu chán rồi cũng im. Con lấy vợ chẳng phải vì vô công rồi
nghề mà vì yêu cầu của cuộc sống. Mẹ hiểu chứ? Còn nếu ai không hiểu thì mặc
xác họ. Chúng ta sẽ giải quyết ổn thỏa thôi.
- Thế anh
chị định sống ở đâu? - Cô em gái Kelika lại chen vào.
- Chúng
con sẽ đến ở nhờ nhà bà Avraby. Cũng còn vài việc phải thu xếp ở đấy...
- Ôi, thật
khốn khổ cho tôi, - bà Tabark khẽ thở dài. - Chính lúc này, các con rất cần có
cha ở bên để chăm lo cho cuộc sống. Còn mẹ? Cầu xin Thượng đế phù hộ cho con,
con trai của mẹ...
Theo đúng
phong tục, lễ tang bà Haza kéo dài bảy ngày. Những đêm đó, bà Tabark và con gái
Kelika đều đến ngủ với Kesyrt. Sáng ngày thứ tám, Tsanka không đến sớm để đón mẹ
và em gái như mọi khi. Ba người phụ nữ ngồi đợi dưới cây liễu bên nguồn nước. Mặt
trời đã lên cao, một ngày hứa hẹn sẽ nóng bức và ngột ngạt.
- Có việc
gì mà hôm nay anh Tsanka đến muộn thế nhỉ. - Kesyrt buồn rầu nói.
- Không có
gì đâu, anh ấy sẽ đến thôi. - Kelika vui vẻ đáp.
- Thậm chí
cháu cũng không biết phải làm gì, phải sống tiếp như thế nào? Bác và em có sống
mãi với cháu được đâu. Quả thật, cháu không biết nữa. - Cô con gái bà Haza vừa
rầu rĩ thốt lên, vừa lau nước mắt.
- Cháu đừng
lo, Kesyrt, - bà Tabark an ủi. - Thượng đế nhân từ, bằng cách này hay cách
khác, sẽ giải quyết mọi việc.
- Đối với
cháu, mọi việc đã an bài rồi. - Kesyrt vẫn tiếp tục bằng một giọng buồn bã.
Đúng lúc ấy,
tiếng lọc cọc của bánh xe ngựa cùng với tiếng hò reo của thanh niên bỗng vọng đến.
Kesyrt
chăm chú lắng nghe, ngạc nhiên thấy bà Tabark và Kelika đều tỏ ra vui vẻ. Ngay
lúc đó, ba chiếc xe ngựa tải và một chiếc xe bốn bánh chở đầy thanh niên phóng
nhanh vào sân cối xay nước. Vẻ mặt của tất cả mọi người chẳng giống như đi dự
đám tang.
Đám thanh
niên nhảy xuống, đứng quanh ba người phụ nữ. Mọi cặp mắt đều đổ dồn vào Kesyrt.
Cô không hiểu có chuyện gì đang diễn ra, bối rối nhìn mọi người, và cuối cùng dừng
lại nơi Tsanka. Không như những người khác, Tsanka trông có vẻ ngượng nghịu
hơn, mắt cụp xuống.
- Thế nào,
Tsanka, sao im lặng thế, bắt đầu đi chứ. - Kurto hét lên.
- Nào,
nào, nhanh lên, - Esky động viên.
Một khoảng
lặng, rồi tất cả mọi người đều cười òa lên, chỉ trừ có Tsanka và Kesyrt.
- Kesyrt,
- đột nhiên Tsanka cất tiếng, giọng run run. - Xin Kesyrt hãy lấy tôi làm chồng.
- Làm chồng!?
- Kesyrt bật lên.
- Vì tình
yêu. - Kurto đứng đằng sau nói to.
Esky và
Basil nắm lấy tay Kesyrt đang bối rối kéo về phía chiếc xe ngựa bốn bánh.
Kesyrt chỉ còn biết lắc đầu, tròn mắt ngạc nhiên, không hiểu có chuyện gì đang
xảy ra. Đúng lúc ấy, Kelika và Esama, con gái ông Kosum bước lại, kéo chiếc
khăn choàng đen trên đầu Kesyrt ra và choàng lên chiếc khăn sa tanh trắng.
Kesyrt
nhìn sang mẹ Tsanka cầu cứu.
Bà Tabark,
nụ cười yếu ớt trên môi, nước mắt ứa ra.
- Con đừng
lo, mẹ sẽ trông nom nhà cửa cho. - Bà Tabark phẩy tay, - Thượng đế sẽ phù hộ
cho các con!
Đám đông ồn
ào phóng ra khỏi cối xay nước, tiến về phía làng Khote bên cạnh, đến chỗ ông
linh mục ở đó để xin được chúc phúc và làm lễ thành hôn trước sự chứng kiến của
Thượng đế và những người làm chứng.
Đến chiều
thì mọi người đưa cô dâu về nhà bà già độc thân Avraby. Kesyrt chẳng hiểu gì cả:
đây là mơ hay thật.
Mặc dù đã
thỏa thuận trước với nhau là không uống rượu và không làm ồn, nhưng sự việc diễn
ra khác hẳn - họ uống và khiêu vũ, thậm chí nổ súng nữa.
Dân làng
Duts-Khote, nhiều người ủng hộ đám cưới, một số thậm chí còn rất khâm phục sự
quyết tâm của Tsanka. Riêng ông Baki-Haji cảm thấy như thế nào thì không ai biết,
nhưng bù lại, ông Kosum và ông Basnak đích thân đến dự đám cưới, nói là để kiểm
tra. Thực tế thì hai người cũng uống khá nhiều, nhảy nhót với đám trẻ và tán gẫu
với cô dâu.
Cùng lúc ấy,
trong căn phòng của bà Hadizhat quá cố, ba cô con gái đã có chồng của bà cùng với
cô vợ Dikhant của Tsanka đều đồng thanh nguyền rủa Kesyrt, Tsanka và đám cưới của
họ...
Cuộc vui
kéo dài rất lâu, tuy nhiên, ông Kosum và ông Basnak vẫn còn đủ minh mẫn để giải
thích cho đám thanh niên hiểu, trong làng đang có tang, cần phải có lương tâm.
Đến nửa đêm thì mọi người giải tán. Chỉ còn lại Tsanka và Kesyrt. Họ chẳng có
gì nhiều để nói với nhau nữa, cả hai đều bối rối, ngượng ngùng. Lần đầu tiên họ
nằm chung giường với nhau với tư cách là chồng, vợ. Tsanka đã say nên ôm chặt
người vợ mới yêu quý của mình và thiếp đi ngay. Còn Kesyrt, vẫn không ngủ được,
trong bóng đêm, cô nhìn vào khuôn mặt người chồng chính thức của mình, úp đầu
vào vai chồng và khóc cho đến sáng - không biết vì hạnh phúc hay vì đau khổ.
Cả ngày hôm sau họ
đến cối xay nước để chuyển vài thứ đồ đạc vặt vãnh, đàn gia súc gia cầm, rồi
đóng chặt cửa nẻo lại. Kesyrt ngồi rất lâu trong ngôi nhà thân yêu của mình rồi
bên nguồn nước, khóc lóc, vuốt ve chiếc ghế dài, không muốn ra đi. Cuối cùng,
Tsanka phải bế cô lên đặt vào xe.
Buổi chiều,
bà con họ hàng và bạn bè lại đến vui chơi cho đến khuya. Khi chỉ còn lại đôi vợ
chồng trẻ, họ lại cảm thấy ngượng nghịu, lúng túng, cứ như lần đầu mới gặp
nhau.
Tsanka cởi
quần áo đi nằm trước. Căn phòng ngột ngạt khói thuốc lá, dù đêm xuống nhưng làn
không khí oi bức mùa hè ban ngày vẫn chưa thoát ra khỏi căn nhà. Kesyrt ngồi
bên ô cửa sổ mở, hít thở làn không khí tươi mát ban đêm, trầm tư nhìn lên bầu
trời đầy sao, không biết phải làm gì, xử sự ra sao, cảm thấy một sự ngượng
ngùng ghê gớm, thậm chí cả sự phục tùng như nô lệ trước người chồng trẻ.
Kesyrt đã
ba lần lấy chồng, tuy nhiên chưa bao giờ cô có cảm giác như bây giờ. Cô biết,
Tsanka không chỉ là người chồng mà còn là một con người gần gũi, thân thiết hơn
cả ruột thịt, là người duy nhất có thể giữ cho cô gắn bó với cuộc đời này. Và
thật kỳ lạ, bất kể sự gần gũi như trước, cô vẫn có cảm giác: trong con người
Tsanka có một điều gì đó bí hiểm và lãng mạn mà cô chưa từng biết. Cô sợ đứng
lên, bước lại gần Tsanka, nhưng đồng thời cô lại rất muốn cởi quần áo ra và nằm
xuống bên chồng.
Một làn
hơi lạnh từ trên núi tràn xuống ùa vào cửa sổ. Một con muỗi vo ve bên tai. Đâu
đó rất xa vọng lại tiếng chó tru yếu ớt, tiếng dế gáy và tiếng quạ kêu não nùng
như đưa người ta vào giấc ngủ.
“Cuộc sống
quả là không thể tiên đoán được”, - Kesyrt vẫn ngồi bên cửa sổ, thầm nghĩ. Đã
bao nhiêu lần người ta đề nghị cô làm vợ bé của ai đó, nhưng cô chỉ cười nhạo,
và thề là sẽ không bao giờ tự biến mình thành cái nệm cho đàn ông, ấy vậy mà cô
đã thành, chẳng những thế lại không hề phản kháng... Thêm vào đó, tự nơi sâu
kín của tâm hồn, cô lại còn mong ước điều đó nữa. Cô yêu...
Tsanka nằm
im không nhúc nhích, chờ đợi, sau đó, không thể chịu đựng hơn được nữa, cậu ngồi
dậy, rón rén bước lại gần Kesyrt, dịu dàng ôm vai cô, nhẹ nhàng bế cô đặt lên
giường.
- Ngủ đi,
cô mệt rồi, - Tsanka thì thầm vào tai Kesyrt. - Cởi quần áo ra.
- Không,
Tsanka, không phải vậy. Tôi không thể. Không nên, - Kesyrt rầu rĩ van xin. - Vừa
mới an táng mẹ. Tôi không thể... Xin lỗi anh.
- Nhưng có
ai nghĩ đến chuyện ấy đâu? Đồ ngốc ạ! - Tsanka khẽ bật cười.
- Tôi sẽ
không cởi quần áo. Được không?
- Dĩ nhiên
rồi, cô muốn làm gì thì làm. Tôi cũng chẳng nghĩ đến chuyện ấy. Cứ yên tâm...
Ngủ đi.
Hai người
nằm ngửa trên tấm phản cứng, cách nhau. Không ngủ được, thở nặng nhọc, người
này lắng nghe mọi động tĩnh từ người kia. Cuối cùng, Tsanka không thể chịu đựng
nổi, lặng lẽ, nhè nhẹ đưa tay kéo Kesyrt về phía mình, cô ngoan ngoãn ép vào
người cậu, chạm má vào bộ ngực trần của cậu, nghe rõ cả nhịp đập trái tim, ngửi
thấy cả mùi mồ hôi. Sau đó, bằng cả cơ thể của mình, Kesyrt cảm nhận được sự
hưng phấn và hơi nóng toát ra từ cơ thể trẻ trung của Tsanka, hơi thở của cô
càng gấp gáp hơn, cô như người say bởi những khát vọng chợt ùa đến, cô cắn môi
cố kìm lại. Trong lúc đó, Tsanka xoay người nằm nghiêng về phía cô, kéo cô lại.
Qua lớp vải, Kesyrt nhận ra cái cơ thể quen thuộc.
- Tôi
không thể... - Tsanka thì thào trong niềm khát vọng.
- Tsanka,
ôi, Tsanka của em, - Kesyrt bật lên, hai cơ thể của họ hòa làm một...
Chiều hôm
sau, bà già Avraby ngồi trên chiếc ghế dài trước cửa nhà mình, than phiền với
bà già hàng xóm:
- Tôi thật
dại dột cho chúng vào nhà. Suốt cả đêm tôi không ngủ được. Tường nhà mỏng, chân
tường bị chuột khoét rỗng cả, mọi tiếng động đều nghe rõ, thậm chí cả hơi thở nữa.
Đến tận sáng chúng vẫn chưa ngủ, trở mình suốt đêm.
- Chúng
còn trẻ mà. Còn biết làm gì nữa?
- Nhưng
tôi muốn ngủ. Lũ quỷ sứ, làm phiền quá.
Một tuần
sau, bà Avraby nói:
- Này, bà
ơi. Bọn chúng phát điên lên cả rồi. Thậm chí tôi chẳng nghe thấy động tĩnh gì cả,
suốt đêm cứ ve vuốt. Đúng là cơn ác mộng. Thằng kia nói toàn những câu tội lỗi,
già như tôi, quên lâu rồi, giờ nghe lại giật cả mình, lại nghĩ toàn chuyện bậy
bạ.
Bà Avraby
bối rối mỉm cười, sửa lại chiếc khăn trùm đầu, liếc nhìn bộ dạng của mình.
- Thế thằng
ấy nói những gì? - Bà hàng xóm hỏi.
- Thôi bà
ơi, làm sao kể lại được?
- Thì bà cố
nhớ lại xem nào.
- Lời nói
có nghĩa gì đâu, chẳng qua là cách nó nói, nghe cứ nổi da gà... Mà nghe được hết...
Ôi!... Thời trẻ, tôi đúng là con ngốc! Chẳng biết gì cả, cố giữ mình, cứ nghĩ
phải làm thế mới đúng, thành ra cả mình, cả chồng chẳng được cái gì. Còn con
Kesyrt, không để cho thằng kia ngủ, nó cho hết và cũng nhận hết.
- Chứ còn
gì nữa, - bà hàng xóm có vẻ ghen tị. - Con ấy kinh nghiệm đầy mình, bốn đời chồng
chứ ít à, chẳng những thế còn chơi bời chán chê khắp các chợ, phóng túng lắm.
- Bà nói
gì ngu ngốc thế? Con kia tốt lắm! Khắp vùng chúng ta, không có đứa nào được như
nó. Nó cũng rất yêu thằng kia!.. Hằng đêm, tôi nghe hết. Thật lòng mà nói, con
kia hăng lắm, thằng đàn ông nào có bết đến đâu, nó cũng làm cho sống lại được.
- Này bà
Avraby, cho tôi sang ngủ với bà một đêm nhé.
- Bà làm
sao thế, điên rồi à... Chẳng lẽ lại đi nghe trộm những chuyện như vậy sao?
- Thế còn
bà?
- Tôi sống
ở đây, biết đi đâu được... Tôi còn sợ làm chúng giật mình, thậm chí ban ngày
cũng phải đi rón rén.
- Có gì
ghê gớm đâu, ông chồng tôi kia, mạnh hơn nhiều. Thằng Tsanka như cái sào, còn
chồng tôi như tráng sĩ... Thế mà chỉ sau một tháng là hết chuyện, ngủ yên.
... Cuối
thu, hai bà già gặp nhau bên giếng.
- Thế nào,
bà Avraby, đã được ngủ yên chưa? - Bà bạn cười, hỏi.
- Ôi, bà
ơi, đừng nói nữa. Đêm lại càng dài hơn. Cho đến giờ, mọi chuyện vẫn như lần đầu
vậy. Chúng cười cả đêm, thậm chí tôi cũng chẳng hiểu tại làm sao... Chúng trêu
chọc, cười đùa cả đêm, thế mà không đứt hơi.
- Chẳng lẽ
tình yêu lại như vậy?
- Ôi, thật
là xấu hổ. Chúng nói với nhau toàn những lời âu yếm, thậm chí tôi cũng không
hình dung nổi. Ban ngày chúng cư xử với nhau cũng dịu dàng lắm. Thật lòng mà
nói, thằng ấy gặp may có được con vợ như nó, vừa thông minh, vừa chịu khó!
- Phải, cô
ta cũng nếm đủ mùi cay đắng rồi, bây giờ phải cố bấu víu vào cái máng lợn này
chứ... Chẳng lẽ đến giờ chúng vẫn còn vui vẻ với nhau, bà không nói dối tôi đấy
chứ?
- Tôi nói
dối bà làm gì, bà thừa biết. Chúng làm tôi trẻ lại đến hai mươi tuổi. Giá bây
giờ tôi có một thằng đàn ông, tôi sẽ quần cho tới sáng không ngủ được...
- Ôi, làm
sao bà kiếm được một người đàn ông như thế? Rõ ràng là thằng con ông Aldum là
loại không bình thường.
- Không phải
đâu, bà ơi. Phải biết cách chứ, nghệ thuật đấy, phải có tài nghệ.
- Chắc là
con chó cái Haza đã truyền lại cho con gái mình?
- Ồ,
không, không đâu, con bé đã được Thượng đế ban cho điều đó. Đúng ra mà nói, con
bé thật lòng yêu thằng kia, quý mến nó... Nó chiều chuộng thằng kia lắm! Làm tất
cả mọi việc cho nó hài lòng.
- Chứ còn
gì nữa, nếu không nó sẽ chạy đến con khác ngay.
- Thằng
kia thỉnh thoảng cũng về nhà mình ngủ.
* * *
Dikhant lớn
lên trong nhung lụa và no ấm. Là con gái đầu của một nhà buôn giàu có và thành
đạt, cô trở nên đỏng đảnh và kiêu căng. Dikhant đã quen với việc lúc nào cũng
có người hầu riêng, chưa kể bảy em gái của mình. Vào thời niên thiếu trẻ trung,
Dikhant khá xinh đẹp, trắng trẻo, sau đó bất ngờ cao vổng lên, hơn cả cha và
các anh trai. Có rất nhiều kẻ ngưỡng mộ săn đón cô, nhưng tất cả đều thấp hơn
cô. Tuy nhiên, hy vọng về khoản hồi môn đáng kể mới làm mọi người lóa mắt.
Đối với
Dikhant, cô tự cho vóc dáng của mình là bình thường và coi những người khác chỉ
là loài sâu bọ. Có lần, một người bạn của cha cô từ thành phố Grozny đến chơi,
nhìn thấy cô con gái đầu của bạn, liền bảo, vóc dáng của cô thể hiện sự cao quý
và duyên dáng bẩm sinh, là dấu hiệu của tầm cao trí tuệ và sự cao sang.
Sự kiện
này đã làm hỏng Dikhant hoàn toàn - cô trở nên kênh kiệu và háo danh. Dikhant
loại bỏ ngay từ ngưỡng cửa mọi lời cầu hôn của các chàng trai vóc dáng thấp bé,
thậm chí cũng chẳng thèm nghe họ nói nữa. Năm tháng trôi qua, các em gái lần lượt
đi lấy chồng, sinh con đẻ cái, còn Dikhant vẫn một thân vò võ. Giờ đây, chẳng
ai thèm quan tâm đến cô nữa, các cô bé khác đã lớn lên và của hồi môn cũng
không kém. Đã thế Dikhant lại càng trở nên vênh váo hơn, coi khinh tất cả, gây
nên bao vụ ầm ĩ, thậm chí cãi lại cha và các em dâu, xua đuổi, xúc phạm họ.
Trong lúc
vợ chồng ông Inalov không biết phải làm gì với cô con gái thì đột nhiên, trong
cuộc đua ngựa họ nhìn thấy Tsanka, vóc dáng cao ngồng. Thật may là ông
Baki-Haji đã giúp một tay, mà cũng có thể, Thượng đế đã sắp đặt như vậy...
Dikhant
vào làm dâu một gia đình nghèo mà theo như lời cô là mọi rợ. Cô không yêu
Tsanka và những người thân của anh ta, cô coi tất cả những người miền núi là
kém phát triển và ngu dốt.
Cô không
biết làm việc và cũng không muốn làm. Nhìn thấy lũ gia súc là cô đã hếch mũi
lên, õng ẹo trề môi ra. Tuy nhiên, cô cũng không ngại ngùng hét toáng lên khắp
nhà “Mẹ ơi, nhà ta có sữa tươi và kem chua không?”.
Mỗi ngày,
cô cố tình mặc một bộ quần áo mới khác nhau, không bao giờ chịu tháo ra khỏi
người vô số đồ trang sức bằng vàng và kim cương.
Sau khi bỏ
về nhà lần thứ nhất, Dikhant chỉ ở rịt trong nhà, khóc lóc, van vỉ cha mẹ,
nhưng thảy đều vô ích. Gia đình lại tống cô con gái ngang ngạnh quay về núi.
Khi lần đầu
tiên Tsanka đánh Dikhant và cô phải chạy về nhà, các em của cô tỏ ra rất ngạc
nhiên, sao đến tận lúc ấy ông anh rể của họ mới động chân động tay.
Vào thời kỳ
dịch bệnh thổ tả, Dikhant được các em trai đến thăm, rồi cô ta, chẳng thèm nói
với mẹ chồng một lời, bỏ mặc người chồng đang bệnh và giải thích với các em,
mình phải về nhà hai tháng để dưỡng thai.
Dikhant hy
vọng sẽ được ở nhà luôn, nhưng người cha không thèm nghe cô nói, lại tống cô
quay lại nhà chồng.
Tuy nhiên,
người làm Dikhant tức giận hơn cả chính là chồng cô.
Suốt cả một
thời thanh nữ, Dikhant chỉ mơ ước về một người chồng giàu có, địa vị cao sang,
khỏe mạnh, vậy mà cô chỉ nhận được một chàng trai gầy nhom, cao ngồng, người ngợm
lúc nào cũng bốc mùi gia súc, cỏ khô và mồ hôi. Cô không thể chịu đựng nổi cách
âu yếm của chồng, và khi ông chồng quay người đi để ngủ, cô cảm thấy dễ chịu
hơn.
Dikhant
cũng đã cố tạo cho cuộc sống của mình tiện nghi hơn.
Nhiều lần
cô bóng gió ám chỉ việc mua nhà dưới đồng bằng, tốt nhất là trong thành phố
Grozny, nhưng Tsanka chỉ bỏ ngoài tai như không nghe thấy gì cả.
Dikhant
coi việc có mang của mình như một tai họa, cô nhận ra rằng, suốt đời mình sẽ phải
gắn bó với một kẻ mọi rợ, thô lỗ, với túp lều ọp ẹp và với những con người mãi
mãi đầu tắt mặt tối.
Khi biết
mình có mang, Dikhant lại càng trở nên xấc xược hơn. Viện cớ sức khỏe không được
tốt, cô nhờ Kelika dọn dẹp giường chiếu, giặt giũ quần áo của Tsanka, trông coi
bếp núc và công việc nội trợ.
Dikhant hy
vọng, sau khi sinh con trai, cô sẽ lấy lý do để đảm bảo cho tương lai, bắt chồng
phải rời khỏi đây. Ngày này qua ngày khác, Dikhant luôn tìm mọi cách để xỏ mũi
chồng, cố đẩy anh ta xuống chân mình, vô hiệu hóa anh ta, biến anh ta thành miếng
giẻ rách.
Dikhant tiếp
nhận tin đồn về sự không chung thủy của Tsanka như một lời thách đấu, một sự đe
dọa đến những dự tính của mình. Chính vì thế mà cô đã muốn đánh cho đứa con
hoang nhân tình kia một trận, dập nó xuống bùn để người khác nhìn thấy mà sợ, đồng
thời qua đó cũng để hạ nhục chồng, làm anh ta phải xấu hổ và bị sỉ nhục trước
công chúng.
Dikhant đến
cối xay nước trong tâm trạng hưng phấn cực kỳ. Cô có cảm giác, đây là cơ hội tốt
nhất để thực hiện những ý đồ bí mật của mình.
Tuy nhiên,
cô con gái khốn nạn của bà Haza đã làm hỏng hết kế hoạch của cô, không để cho
cô gây nên một vụ scandal ầm ĩ, mà ngược lại, cô bị đẩy ngã xuống bùn, còn
Kesyrt thì bỏ đi mất.
Dikhant
nghĩ, sau khi chồng bị vạch mặt về tội phản bội, cô có thể dùng nó làm con át
chủ bài để mắng mỏ, sỉ nhục và dạy dỗ anh ta nên người. Tuy nhiên, kết quả lại
khác hẳn: Tsanka đã cho cô một trận và càng xa lánh hơn, gần như trở thành người
dưng. Còn sau đó, anh ta, cứ như là đã bẻ gẫy xương sống cô bằng cách cưới
Kesyrt.
Dikhant phải
khổ sở trải qua tất cả những điều đó! Cô nghĩ, mình sẽ không chịu đựng nổi nỗi
nhục và nỗi bất hạnh này! Lòng ghen tuông và danh dự bị xúc phạm nặng nề như
bóp nghẹt trái tim, đâm nát tâm hồn.
Đột nhiên,
bất ngờ cho chính bản thân mình, Dikhant bỗng nhận ra, hằng đêm cô có cảm giác
buồn nhớ chồng, cảm thấy cô đơn khi thiếu vắng Tsanka, thiếu vắng mùi mồ hôi của
anh ta, sự thô lỗ và trực tính của anh ta. Chẳng những thế, bản năng làm mẹ
trong con người cô bắt đầu xuất hiện, cô đang mong đợi đứa con.
Trái hẳn với
dự đoán của người đời, lần này Dikhant không bỏ về nhà nữa, chẳng những thế, cô
còn trở nên chu đáo hơn với bà mẹ chồng, hiền dịu hơn với em chồng. Tất cả những
điều đó đã tạo được sự thông cảm sâu sắc nơi bà Tabark, bà mẹ bắt con trai,
theo luật đạo Hồi, phải chia sẻ thời gian bằng nhau giữa hai người vợ. Kết quả
không đạt được như ý nguyện, nhưng cứ sau ba đêm ngủ với Kesyrt, thì Tsanka ngủ
một đêm với Dikhant.
Đến đầu
tháng Tám, Tsanka trở thành cha. Dikhant sinh đôi, một trai một gái. Ông Kosum
là người đầu tiên nhìn thấy hai đứa bé, liền đặt tên cho chúng là Dakany và
Kutany.
Tháng đầu
tiên, Tsanka sợ không dám nhìn mặt các con, sợ cả tiếng khóc lẫn hình dạng
chúng, nhưng rồi cậu quen dần với những sinh vật bé nhỏ đó, có một sức hút kỳ lạ
nào đó kéo cậu đến với chúng. Dikhant nhìn thấy tất cả những điều đó, trong bụng
mừng thầm. Bản thân cô cũng có những thay đổi, cô quan tâm đến chồng hơn, tình
cảm với chồng hơn, còn buổi tối, cô trở nên một phụ nữ khác hẳn. Trước kia,
Dikhant nằm như khúc gỗ, ghê tởm những cử chỉ ve vuốt của chồng, không cảm nhận
được chút đam mê hay tình yêu nào. Sau khi sinh con, Dikhant biến đổi hẳn -
chính cô là người chủ động đến với chồng, đòi hỏi sự chiều chuộng, ve vuốt các
kiểu, đòi hỏi chính bản thân và ông chồng lừng khừng phải hết mình. Cho đến
sáng, cô phải vắt kiệt sinh lực chồng mới thôi, và chỉ thả về với cô vợ kia với
những quầng thâm quanh mắt.
Tuy nhiên,
tất cả những điều đó chỉ là một sự chắp vá không cảm xúc, không đam mê cháy bỏng.
Hàng đêm, Tsanka nhìn thấy Dikhant ve vuốt mình, nhưng trong mắt cô không ánh
lên chút đam mê nào mà chỉ có sự tò mò khám phá, thậm chí là xa lánh, đôi lúc lại
cười nhạo.
- Cái con
chó cái ấy ve vuốt anh thế nào? - Dikhant có thể hỏi Tsanka câu ấy bất kỳ lúc
nào, ngay cả khi đang ở thời điểm nhạy cảm nhất. - Đúng rồi, cô ta có kinh nghiệm
hơn, quan hệ với nhiều đàn ông hơn. Không phải ngẫu nhiên mà cả làng đồn ầm lên
là đến tận sáng cô ta cũng không để cho anh ngủ, lúc nào cũng đòi hỏi. Có thể,
nhu cầu sinh lý của cô ấy không ai đáp ứng nổi.
Lần khác,
Dikhant lại hét lên:
- Giá mà lột
trần được tất cả ra, tôi sẽ biết rõ, anh có cần cho cô ta hay không?
Buổi sáng,
trước khi Tsanka đi, Dikhant còn bảo:
- Đi đi,
nhanh lên, nếu không cô ta sẽ đến với thằng khác đấy.
... Kesyrt
cũng ghen với chồng dù cố không để lộ điều đó ra. Cô cố gắng một cách tuyệt vọng
để có con với Tsanka. Cô bí mật đến gặp các thầy lang, uống các thứ cây cỏ, thuốc
thang gì đó.
Một đêm,
không kìm được, cô hỏi:
- Ở đấy,
anh cũng âu yếm cô ấy dịu dàng như thế này hả?
Tsanka tự
ái, không nói gì cả, chỉ quay mặt đi.
Buổi sáng,
lúc uống trà, Kesyrt đến gần Tsanka, đặt tay lên mái tóc xoăn của cậu, vuốt ve,
ép đầu cậu vào bộ ngực nở nang của mình.
- Tsanka,
xin anh tha lỗi cho em. - Kesyrt thì thầm trong nước mắt. - Em là một con ngốc.
Dù anh có làm gì thì em vẫn luôn đón nhận anh và thông cảm với anh. Xin anh hãy
tha thứ cho em.
Tsanka mỉm
cười, ôm hôn Kesyrt, đặt cô ngồi lên đùi rồi bế cô lên phản...
Nhưng dù
có thế nào, kể cả con cái và những khát vọng đã được đánh thức trong lòng
Dikhant, cùng những lời trách móc và ghen tuông cũng không thể che mờ được tình
yêu của Tsanka đối với Kesyrt. Bên Kesyrt, Tsanka cảm thấy tự chủ và vững tin
hơn. Tsanka biết và cảm nhận rất rõ, khi có chuyện gì đó xảy ra, Dikhant sẽ trốn
sau lưng cậu và rất có thể sẽ bỏ chạy mất, còn Kesyrt thì ngược lại, cô sẽ vươn
ngực ra đứng bên cậu, chính xác hơn là sẽ đứng che cho cậu.
Kesyrt
luôn ở bên Tsanka, họ cùng đi với nhau vào rừng lấy củi, cùng đi cày, cắt cỏ,
gieo hạt, lúc nào cũng bên nhau. Kesyrt làm việc chẳng thua kém Tsanka, thậm
chí còn hơn cậu nữa. Lúc nghỉ trưa, khi Tsanka nằm lăn ra ngủ trên bãi cỏ thì
Kesyrt ngồi bên cạnh, đuổi ruồi và các loài sâu bọ khác. Vào những ngày nóng bức,
Kesyrt không bao giờ uống nhiều nước trong chai - cô chắt chiu từng giọt dành
cho chồng, trong bữa ăn cô cũng dành cho chồng những miếng ngon nhất. Còn quần
áo cô may cho chồng thì khỏi nói!
Suốt ngày,
Kesyrt không bao giờ ngơi tay, nhà bà Avraby nuôi nhiều gia cầm và gia súc nhỏ,
nhưng bản thân bà già không thể nào quán xuyến nổi. Kesyrt chăm sóc bà chu đáo
như người thân trong gia đình, tuần nào cũng tắm rửa, giặt giũ quần áo cho bà.
Nhưng
Kesyrt cũng không quên bản thân mình. Suốt ngày đêm cô luôn bị một ý nghĩ dằn vặt,
ấy là cô lớn tuổi hơn và sẽ già nhanh hơn Tsanka. Kesyrt chăm sóc bản thân rất
kĩ, giữ eo, giữ cho khuôn mặt không tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, sử dụng các
loại kem khác nhau và không bao giờ quên cái toa thuốc của bà phù thủy Bikazhu:
Người phụ nữ, bất cứ chỗ nào có lông có tóc, chỗ đó phải tỏa hương chứ không được
bốc mùi.
Bản thân
Tsanka cũng có những biến đổi - trở nên chững chạc hơn, trưởng thành hơn. Vẫn
như trước, Tsanka rất dễ nổi nóng vì những chuyện vặt vãnh, nhưng bây giờ, mọi
việc cậu đều mang ra trao đổi, chia sẻ với Kesyrt. Kesyrt cố giữ gìn, bảo vệ và
làm yên lòng Tsanka. Mỗi tối, trước khi đi ngủ, Kesyrt đều tắm rửa cho Tsanka
như đứa trẻ, rồi chuẩn bị chăn gối cho cậu ngủ.
Sau đó,
Kesyrt chăm sóc cơ thể mình kĩ lưỡng như con mèo, rồi lặng lẽ nằm xuống cạnh
người chồng đã thiếp đi, không bao giờ đòi hỏi này nọ, chỉ dịu dàng vuốt ve chồng
như ru cho chồng ngủ, nhưng người chồng lại tỉnh dậy...
Sau đó,
khi chồng đã ngủ say, Kesyrt sửa lại chăn gối cho chồng, ngắm nhìn hình bóng chồng
trong bóng đêm, lắng nghe từng hơi thở đều đặn và yên bình của chồng, dịu dàng
vuốt ve những lọn tóc quăn của chồng... Kesyrt biết rất rõ, bên cô là chỗ dựa
và là niềm hy vọng duy nhất của cô trên khắp thế gian này. Cô lặng lẽ khóc, như
sợ đánh mất, nhẹ nhàng ôm Tsanka trong giấc mơ...
Vậy mà cô
cũng không giữ được.
* * *
Vào thời
gian đó, ở Ban bảo vệ chính trị quốc gia huyện Shali, có thêm một bộ hồ sơ mới:
“Arachaev Tsanka, sinh năm 1905 ở làng Duts-Khote, cha là Arachaev Aldum -
nguyên trưởng thôn Duts-Khote, bị bắt năm 1924, bị xử bắn năm 1925 tại thành phố
Grozny vì tội âm mưu lật đổ và tuyên truyền chống chính quyền Xô viết. Bác ruột
là Arachaev Baki-Haji, thành phần phú nông cu-lắc, thủ lĩnh tôn giáo, tổ chức
truyền đạo bất hợp pháp cho trẻ em (xem trong hồ sơ của Arachaev Baki-Haji).
Arachaev Tsanka - là người theo đạo, ít học, nhiều lần công khai chống lại
chính quyền Xô viết. Có hai vợ”.
* * *
Mùa đông
năm 1928/1929, kế hoạch thu thuế của làng Duts-Khote không hoàn thành. Câu lạc
bộ những người vô thần không hoạt động, ủy ban bần cố nông không được thành lập.
Giống như một năm trước, một tiểu đoàn tiễu phạt đổ về làng, lấy đi tất cả, thậm
chí lương thực cũng không để lại.
Cũng trong
mùa đông năm ấy, toàn bộ ban lãnh đạo huyện bị cách chức, từ trưởng công an huyện
Shitaev Damsi cho đến ủy viên thư ký ủy ban của ngôi làng bé nhỏ Duts-Khote là
Arachaev Kosum. Bộ máy lãnh đạo mới không được bầu trong cuộc họp toàn thể như
trước đây mà được bổ nhiệm tại huyện. Ủy viên thư ký làng Duts-Khote là Haron
Tutushev, kẻ thù cũ của gia đình nhà Arachaev.
Mùa xuân
năm 1929, cả làng Duts-Khote không gieo được một mẫu nào vì không có hạt để
gieo. Tất cả gia súc gia cầm đều được kiểm kê từng con, nên trước khi đóng thuế
năm thì đừng nghĩ đến chuyện ăn thịt. Nếu không may một con gia súc bị bệnh chết
hay vì nguyên nhân nào khác, nhất thiết phải có văn bản xác nhận, báo cáo cho ủy
ban, có chữ ký của hai người láng giềng làm chứng. Để tránh sự thông đồng, móc
ngoặc, tất cả các điểm dân cư Chechnya được được phân chia thành các “tổ tự quản”,
nằm dưới sự giám sát của các phái viên bí mật. Nhân sự của bộ máy phái viên này
thường được chọn trong số những người từ nơi khác đến, không có họ hàng gốc rễ ở
đấy. Những người có công tố giác được hưởng nhiều ưu đãi và đặc quyền đặc lợi.
Ngoài bộ
máy phái viên đặc biệt đó, người ta còn áp dụng rộng rãi biện pháp đe dọa. Người
dân được triệu tập đến Ban bảo vệ chính trị quốc gia và được thông báo cho biết,
rằng có người hàng xóm nào đó, có bằng chứng gì đó, ông bà có gì để biện hộ hay
chứng minh bằng chứng đó là không đúng. Rồi chính người hàng xóm đó cũng sẽ được
triệu tập... Nói tóm lại, người ta đã gieo vào lòng người sự nghi ngờ, đố kị và
không tin tưởng lẫn nhau, sử dụng các biện pháp, thủ đoạn hèn hạ nhất, chẳng từ
một thủ đoạn nào.
Mùa xuân
năm 1929, tiếp theo nước Nga, trên vùng đất Chechnya cũng xảy ra nạn đói và dịch
bệnh. Trong làng Duts-Khote, tất cả số ngựa còn chạy được đều bị trưng thu để
cung cấp cho quân đội. Khi người ta dắt con ngựa tía của ông Baki-Haji ra khỏi
chuồng, ông già khốn khổ đã phải bật khóc.
Tuy nhiên,
nỗi bất hạnh của ông linh mục chưa kết thúc ở đó: vào một ngày mùa xuân nắng đẹp,
công an địa phương, với sự giám sát của nhân viên Ban bảo vệ chính trị quốc gia
đã thiêu hủy cối xay nước của bà Haza. Cái công trình chẳng lấy gì làm to lớn ấy
cháy suốt một ngày một đêm, soi sáng cả bầu trời.
Cả đêm,
Kesyrt quan sát ngọn lửa cháy âm ỉ bên nguồn nước, khóc nức nở và hiểu ra rằng,
mối dây liên hệ của cô với tuổi thơ, với mẹ, với nguồn nước và với những kỷ niệm
đẹp đẽ về gia đình đã bị đốt cháy.
Sự việc tiếp
theo là tồi tệ nhất: người ta trưng thu cả những thùng ong, dụng cụ đồ nghề và
cả số mật còn lại của ông Baki-Haji. Sau đó, họ điều lính đến đào nát mảnh vườn
nhà ông già lên, tìm thấy vũ khí gì đó, cùng với hai bao lúa và một chai dầu hỏa.
Ngay trong
đêm đó, ngôi nhà của ủy viên thư ký địa phương Haron Tutushev bị cháy trụi
thành tro, còn sau đó một tuần thì ông Baki-Haji bị bắt.
Tsanka trải
qua tất cả những điều đó một cách khổ sở. Gánh nặng trách nhiệm đè lên đôi vai
trẻ trung của cậu.
Vào đầu
hè, Kesyrt sinh con trai. Tsanka trở thành một ông bố trẻ nhiều con, lại còn em
trai, em gái và mẹ - tổng cộng chín nhân mạng. Tsanka không biết phải chu cấp
cho họ bằng cách nào, phải làm gì, trong khi đó, mùa đông khắc nghiệt đang đến
gần, rồi Dikhant lại có mang nữa.
Suốt cả
mùa hè họ đi cắt cỏ để dự trữ cho lũ gia súc còn lại, ít ra thì cũng hi vọng sẽ
đổi được hạt ngũ cốc ở các làng dưới đồng bằng. Đám đàn bà đi gom cỏ, hái táo,
lê và nấm dại. Cũng may là trong rừng còn rất nhiều những sản vật đó.
Vào đầu
thu, Tsanka, Kurto, Basil và Esky, ngày nào cũng vào rừng săn bắn, mang về thịt
dê núi, nai, có lần còn bắn được cả con gấu nữa. Tuy nhiên, việc đó sau này
cũng bị cấm. Người ta tuyên bố, toàn bộ thung lũng Vashandaroi và các vùng phụ
cận là khu bảo tồn quốc gia. Muốn vào rừng phải có giấy phép, muốn săn bắn phải
được sự đồng ý của chính quyền, và dân chúng không được phép có vũ khí nóng.
Trong một
đêm mưa, tất cả bốn thợ săn bất hạnh đều bị bắt, dẫn về Shali và tống vào tù.
Thông qua công an khu vực, họ được biết, các thợ săn sẽ được thả sau khi giao nộp
hết vũ khí và đạn dược. Ông Kosum mang khẩu súng trường đến nộp. Họ bảo còn ít
lắm, phải nộp nữa, Ông mang thêm hai khẩu súng nữa kèm theo một lít vodka, chỉ
đến lúc ấy mấy chàng trai mới được thả ra.
Vào tháng
Mười, tháng Mười Một, quân đội lại đến thu thuế. Họ lấy đi tất cả những gì còn
lại, trưng thu cả cỏ khô và những vật dụng gia đình.
Mọi người
bị tước hết một cách không thương tiếc.
Lòng kiên
nhẫn đã đến giới hạn. Làn sóng bất bình của đám đông nổi lên. Những cuộc nổi loạn
tự phát nổ ra ở Shali, Benoi, Goity, Atchkhoi-Martane, Aldakh, Atagakh.
Cuộc nổi dậy
để lại hậu quả khốc liệt nhất xảy ra ở Shali dưới sự chỉ huy của nguyên trưởng
công an huyện Damsi Shitaev. Sau này, người ta bảo, chỉ vì một con nghé con quặt
quẹo mà có đến năm trăm người bị bắn chết.
Thực ra,
con nghé chỉ là cái cớ, sự tức giận đối với chính quyền đã đến đỉnh điểm, đến
cái mức không thể chịu đựng hơn được nữa.
Sự việc bắt
đầu từ lúc hai công an viên người Chechnya đến bắt con nghé của bà già nghèo độc
thân cạnh nhà ông Damsi. Nghe tiếng bà hàng xóm kêu khóc, ông Damsi cùng với em
trai là Alkha Shitaev chạy ra. Ông Damsi giành lại con vật từ tay hai người công
an vốn trước đây là thuộc cấp, lại còn đạp cho họ mấy cái nữa. Lẽ ra vụ việc đến
đây có thể kết thúc, song hai anh em ông Damsi còn đuổi theo hai công an, đánh
cho họ một trận và tước cả vũ khí. Một trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Công
an huyện không dám bắt thủ trưởng cũ, nhưng ngay chiều hôm đó, một đơn vị quân
đội chủ lực được điều động từ Grozny về Shali.
Một cựu
chiến binh thời kỳ Nội chiến, một người có nhiều đóng góp trong việc xây dựng
chính quyền Xô viết ở Chechnya, ông Damsi Shitaev vốn là một người rất dũng cảm
và ưa phiêu lưu mạo hiểm không thể thỏa hiệp với việc mình bị truất khỏi vị trí
trưởng công an huyện. Chính dưới sự lãnh đạo của ông, pháo đài Vedeno đã bị
đánh chiếm và tàn phá vào năm 1918. Chỉ có ông, duy nhất một mình, có thể thu gom
được toàn bộ đại bác trong pháo đài, và cũng nhờ những khẩu đại bác này mà ông
đã đánh bại đội quân của Denikin vào năm 1919 ở Mesker-Iurt...
Qua những
người bạn cũ, ông Damsi biết quân đội được điều động tới để bắt mình. Khi đó,
ông quyết định phát động quần chúng đang bất bình để giành chính quyền. Ngoài
ra, qua các nguồn thông tin khác, ông còn biết toàn bộ vùng Bắc Kavkaz và các
làng Cozak, dân chúng đã nổi dậy phản đối chính quyền Xô viết.
Ông Damsi
bắt đầu tổ chức phòng thủ. Công việc đầu tiên là ông nhờ đến sự giúp đỡ của
viên cựu sĩ quan Nga hoàng - đại tá Makhmaev Esamby. Nhà quân sự chuyên nghiệp
lắng nghe ông Damsi rất lâu, rồi nói:
- Tất cả
chỉ là một sự hi vọng ấu trĩ. Các Xô viết đã được củng cố vững chắc. Họ có
chính quyền và quân đội. Và nói chung, tất cả những điều đó chỉ vô ích. Tôi sẵn
sàng chiến đấu ngoài chiến trường, thậm chí cả trong rừng, nhưng không phải giữa
những người dân lành. Sẽ có rất nhiều nạn nhân vô tội.
Sau khi mắng
đại tá Makhmaev Esamby là hèn nhát, ông Damsi bỏ đi và ra lời kêu gọi dân chúng
huyện Shali và các làng lân cận.
Ngay trong
buổi chiều hôm đó, hơn bốn mươi người được vũ trang tập trung ở sân nhà ông
Damsi. Phần đất được chia sau cải cách ruộng đất của gia đình ông Damsi kéo dài
xuống tận bờ sông Bass rậm rạp. Có một kẻ thù không đội trời chung của gia đình
Damsi cũng đến tham gia, đó là tên tướng cướp Hazhady từng giết một người cháu
của gia đình Damsi. Hắn không đến một mình mà kéo theo một nhóm đạo tặc như hắn.
Sáng sớm
ngày 3 tháng Chạp năm 1929, toàn bộ khu vực quanh nhà ông Damsi bị quân đội bao
vây. Cuộc tấn công nổ ra. Chiến sự kéo dài suốt một ngày. Những người lính
không thể tấn công có hiệu quả vì bị dân làng Shali bắn từ phía sau lưng.
Đến trưa
thì lực lượng pháo binh được điều động đến, bắn vài loạt, đạn vọt qua, phá hủy
một số ngôi nhà bên cạnh. Khi đó, theo đề nghị của những người Chechnya địa
phương, người ta đưa súng máy lên tháp giáo đường Hồi giáo nằm đối diện ngay
trên bờ sông Bass, và thế là từ trên cao, hỏa lực súng máy tuôn như vũ bão. Chỉ
có bằng cách ấy cuộc bạo động mới bị bẻ gãy, kéo theo nhiều nạn nhân, việc
kháng cự tiếp theo trở nên hoàn toàn vô ích.
Kẻ đầu
tiên quyết định tháo chạy là tên tướng cướp Hazhady cùng với đồng bọn của mình.
Trong số sáu tên, chỉ có hắn và một tên nữa thoát được. Đến gần tối, những người
sống sót mới có thể thoát ra khỏi vòng vây. Ông Damsi và em trai Alkha kịp chạy
vào những bụi cây rậm, và nhờ bóng tối và mưa xối xả họ mới thoát được vào
trong núi.
Sau đó, một
cuộc phục kích được tổ chức ở Vedeno để lùng bắt Alkha, nhưng mặc dù bị thương,
Alkha vẫn thoát ra được. Người ta đồn, có người nhìn thấy anh ta sống ở Gruzia
với những người Chechnya-Kisti, lập gia đình rồi sau này qua đời ở đấy. Tuy
nhiên, không một ai trong số họ hàng có thể xác nhận điều đó.
Còn ông
Damsi Shitaev, sau cuộc gặp với người trung gian và tin lời người bạn cũ
Kudriavsev Venyamin nên sau ba tháng lang thang trong rừng đã mang vũ khí đến
trình diện Ban bảo vệ chính trị quốc gia huyện Shali. Người ta tước súng ngắn
và súng trường của ông, nhã nhặn mời ông lên tầng hai, đến phòng số năm để lấy
lời khai và lập biên bản.
Ngồi trong
phòng là một người quen của ông Damsi - công an viên Tutushev Salman, người
làng Duts-Khote. Hai người lạnh nhạt chào hỏi nhau, khi ông Damsi vừa ngồi xuống,
người công an liền nã ngay hai viên đạn vào người ông. Vốn là một người khỏe mạnh,
ông Damsi, dù bị thương vẫn cố bật lên, chộp lấy con dao găm và nhảy qua bàn định
đâm vào kẻ giết người, nhưng không tới, ông ngã vật xuống, rồi lại đứng lên lao
về phía Tutushev. Tutushev hoảng sợ chạy ra cửa, giật vài lần nhưng cánh cửa
không bật ra, anh ta quay lại, hốt hoảng nhìn mũi dao nhọn hoắt đang tiến đến gần,
bắn tiếp năm viên nữa, hết sạch băng đạn, nhưng vẫn vô hiệu. Trong cơn giận dữ
điên cuồng trước khi chết, ông Damsi vẫn còn kịp cắm ngập cán dao vào người
Tutushev. Hai người đổ vật xuống trong tư thế ôm chặt lấy nhau.
Sau đó,
Kudriavsev Venyamin vẫn còn kịp cúi xuống Tutushev đang hấp hối:
- Khá lắm,
anh xứng đáng với niềm hi vọng của chúng tôi, sẽ được thưởng huân chương. -
Kudriavsev tin tưởng nói.
Ông Damsi
Shitaev không phải là nạn nhân duy nhất của vụ bạo động. Sau khi cuộc bạo động
được dẹp yên, sáng ngày 4 tháng Chạp năm 1929, tất cả đàn ông trong huyện
Shali, tuổi từ 15 trở lên đều bị đưa ra rìa làng ngồi trên cánh đồng ướt dưới
trời mưa tầm tã. Chỉ có tay cửa hàng trưởng Tazhu là được ngồi trên một chiếc
thùng, hai chân vắt chéo, liên tục ngoắc tay với ông Kudriavsev. Một tiếng sau,
Tazhu được thả ra.
Trong lúc
đó, một người đàn ông Nga mặc sơ mi xám, áo da đen đi giữa những người ngồi như
tìm một người nào đó. Cuối cùng, ông ta dừng chân cạnh Makhmaev Esamby, mỉm cười.
- Tôi đã bảo
với ông rồi, đừng có xuất hiện trước mặt tôi, “thưa quý ông”, - người đàn ông mặc
áo đen nghiêng người xuống vị cựu sĩ quan, cay độc nói bằng giọng mũi. - Bây giờ
chúng ta sẽ xem...
- Thôi đi,
- ông Esamby đáp lại bằng một giọng trầm, - Đạn của anh không giết được tôi
đâu. Dẫu có thế nào thì anh cũng vẫn chỉ là một tên lính hầu như xưa thôi.
Ngay trong
đêm ấy, Esamby bị đánh đến nhừ tử và bị bắn vào gáy.
Năm trăm
người trong huyện Shali bị bắt, trong số đó hơn một trăm hai mươi người không
bao giờ trở về nhà. Cả mùa đông năm 1929/1930, số người bị bắt ở Chechnya không
dưới ba mươi lăm ngàn người.
Nhìn tổng
thể trong toàn Chechnya, để trấn áp các vụ bạo động, người ta đã phải dùng đến
máy bay, xe bọc thép và năm sư đoàn quân chính quy, các đơn vị hỗn hợp của trường
bộ binh Vladikavkaz, trường kỵ binh Krasnodar, ba tiểu đoàn pháo binh, hai
trung đoàn lính sơn cước, ba đại đội kỵ binh của Ban bảo vệ chính trị quốc gia.
Từ ngày
hôm đó, chính quyền Xô viết đã được củng cố một cách vững chắc. Xương sống của
dân chúng đã bị bẻ gãy, nhưng tinh thần thì không. Tinh thần ấy mạnh mẽ, dẻo
dai và bền bỉ...
* * *
Các cuộc
trấn áp và thanh trừng của những người Bolsevich không chỉ diễn ra ở Shali. Để
răn đe những người khác, tất cả các thành phần tôn giáo và phú nông cu-lắc cũng
bị trấn áp và tiêu diệt, những kẻ không chịu khuất phục đều bị thanh trừng.
Trong ngôi làng nhỏ Duts-Khote trên núi cao, theo sự mật báo của các điệp viên,
mười một người bị bắt, trong đó có ba người của dòng họ Arachaev là ông Kosum,
ông Basnak và Tsanka.
Cả ngày họ
bị giam giữ trong ngôi trường nguyên là giáo đường Hồi giáo. Quá trưa, lần đầu
tiên trong lịch sử làng Duts-Khote, máy móc kĩ thuật được đưa đến làng - đó là
hai chiếc xe tải có mui. Những người bị bắt bị khám xét, cởi hết quần áo ngoài,
thắt lưng và bị đưa lên xe lúc trời chạng vạng vào một ngày tháng Chạp giá lạnh.
Hộ tống họ ra khỏi làng còn có một đội kỵ binh đông đảo.
Những người
bị bắt cứ tưởng bị đưa đến huyện lỵ Shali, xa hơn có thể là thành phố Grozny.
Tuy nhiên chiếc xe chạy theo hướng ngược lại.
- Chuyện
này chẳng báo hiệu điều gì tốt lành. - Ai đó trong thùng xe nói.
- Thế anh
mong đợi điều gì tốt đẹp ở họ? - Ông Kosum vặn lại.
Đoạn đường
ngắn đến nguồn nước trở nên dài kinh khủng. Trên con đường trơn truội chưa bao
giờ có vết xe lăn, hai chiếc xe bò chậm chạp, thậm chí còn bị sa lầy hai lần. Đến
sát nguồn nước, xe ngoặt sang trái, rú ga ầm ĩ, phải khó khăn lắm mới bò lên được.
- Đến cối
xay nước, - ông Basnak nhìn qua khe hở trên thùng xe, nói:
- Họ nghĩ
ra cái trò gì thế nhỉ? - Bitsaev, người đàn ông cùng làng lo sợ hỏi bằng một giọng
run run.
- Họ sẽ tắm
rửa cho chúng ta, cho ăn, cho uống rồi chở về nhà. - Một người nào đó buồn bã
pha trò.
Đến cái dốc
nhỏ tiếp theo, chiếc xe lại rú ga ầm ĩ và không lên nổi nữa.
- Dừng lại.
- Mệnh lệnh được phát ra.
Mọi người
được đưa ra khỏi xe, đứng xếp hàng trước ánh sáng đèn pha.
- Họ định
làm gì thế? Chẳng lẽ bắn à? - Bitsaev rú lên.
Không ai
trả lời, tất cả đều im lặng.
Tsanka
không nghĩ ngợi gì cả. Cậu không tin cuộc sống lại bất ngờ rẽ ngoặt thế này và
họ có thể bị giết dễ dàng như vậy.
- Mẹ-mẹ-ơi!
- Bitsaev rên rỉ.
- Chuẩn bị!
- Giọng người chỉ huy đột ngột vang lên.
Do đứng
ngược sáng đèn pha nên họ không nhìn thấy những người lính.
Lúc chiều,
cơn mưa nhỏ đã biến thành những bông tuyết, gió lạnh từ các thung lũng phía bắc
thổi tới. Tiếng động cơ nổ ầm ầm một cách hiểm độc, át đi tất cả mọi tiếng động
khác, kể cả tiếng lên đạn súng trường khô khốc. Chỉ có nguồn nước, bị ép sát
vào bờ cong, gầm lên sôi sục, rồi lao xuống dưới, hướng về phía không gian
thoáng đãng, về phía tự do.
- Ôi, mẹ
ơi! - Bitsaev lại hét lên, quỳ mọp xuống. - Tôi muốn sống! Tại sao? Tại sao?
Tôi muốn sống!
- Đứng
lên, đồ súc sinh! - Ông Basnak đứng bên cạnh nhổ vào đầu anh ta. - Đứng lên, đồ
vô lại! Mày không phải là đàn ông, và cả thằng cha đẻ ra mày cũng thế.
Người chỉ
huy đội quân, lấy thuốc lá trong chiếc áo da ra, nghiêng người che tuyết, châm
hút.
- Abaev, -
người chỉ huy phả một đụm khói màu lam xám trong ánh sáng đèn pha, rồi nói to:
- Anh ta
nói gì thế?
- Dạ,
không có gì ạ. Anh ta cầu xin sự khoan dung, - một người nào đó trong bóng tối
đáp lại bằng tiếng Nga, giọng thô kệch.
- Hay là
ta khoan hồng chăng?
- Để làm
gì ạ? Dù hắn là bà con... nhưng là kẻ thù của nhân dân.
- Nếu vậy
thì cầm súng lên, bắn đi.
- Vâng,
tôi, tôi, - cái giọng không phải gốc Nga run rẩy. - Chỉ có điều tôi không biết
bắn. Tôi chỉ rành chuyện tôn giáo thôi ạ...
- Thôi đừng
lảm nhảm nữa! - Giọng chỉ huy cắt ngang. - Đứng vào, hoặc là bên này, hoặc bên
kia.
Một sự im
lặng bao trùm, những người bị bắt không thể nhìn thấy Abaev có cầm súng lên hay
không.
- Hắn là
ai thế? - Ông Kosum hỏi ông Basnak.
- Theo
tôi, hình như là Abaev Nutsulkhan.
- Có gì
khác nhau đâu, phải xử lý tất cả bọn họ, - một người cùng làng đứng bên cạnh,
thốt lên.
- Bây giờ
chúng ta sẽ rõ, - ông Kosum cay đắng cười mỉa.
- Phải chạy
tản ra, - ông Basnak thì thào.
Lúc đó,
người chỉ huy bỗng cười vang lên.
-
Ha-ha-ha! Đúng lắm! Anh đã đứng vào phía bên này từ lâu rồi còn gì... Chuẩn bị!
- Người chỉ huy rít một hơi thuốc dài, đốm lửa lóe lên.
- Thưa đồng
chí chỉ huy! Hình như chiếc xe kia đang phát tín hiệu ạ, - người lái xe trong
ca bin nói, - đèn pha nhấp nháy. Hình như báo hiệu cho chúng ta.
Người chỉ
huy quay đầu, liếc nhìn.
- Dừng lại.
- Anh ta khẽ nói.
Ở phía dưới,
ngay chỗ rẽ, ánh sáng đèn pha trên đường đã tắt. Bóng đen ngăn cách hai chiếc
xe.
- Không được
bắn! Không được bắn! - Một người lính vừa chạy tới vừa la to. - Có lệnh phải bắn
ở xa làng, bên kia sông. - Người lính chạy đến nơi, giọng đã bình tĩnh hơn. -
Nhất thiết phải chôn cất cẩn thận.
- Có thể
chúng ta phải hát kinh cầu hồn cho chúng nữa chăng? - Người chỉ huy xỏ xiên,
rít nốt điếu thuốc rồi hỏi bằng một giọng nghiêm túc: - Abaev, cầu ở đâu?
- Lên chút
nữa ạ. Gần đây thôi, - người Chechnya đáp.
Những người
lính chạy ngược chạy xuôi, đi lên.
Ông Basnak
thúc vào hông ông Kosum đứng bên cạnh.
- Phải chạy,
- ông rít lên.
Ông Kosum
gật đầu đồng ý.
- A-a-a! -
Ông Basnak la lên bằng một giọng thảm thiết rồi lao về hướng nguồn nước. Vài
bóng đen nữa chạy theo ông, Tsanka cũng lao theo. Cậu nghe thấy tiếng súng, một
tiếng nổ chát chúa vang lên sát bên tai, sém cả mặt và tóc. Trong cơn tuyệt vọng,
Tsanka lao đến bờ nguồn nước, vừa chạy vừa lấy đầu húc vào một cái bóng to lớn
phía trước đang cản đường, và cả hai cùng bay xuống làn nước lạnh như băng.
Dòng nước chảy xiết cuốn lấy họ, nhấn xuống đáy bùn trơn như mặt kính.
Trong khoảnh
khắc đầu tiên, làn nước giá lạnh làm cho Tsanka và người lính bị tê liệt hoàn
toàn, cả hai hoảng loạn bấu chặt vào nhau, sau đó, khi đã định thần lại, hai
người lại vật lộn với nhau. Tsanka cảm nhận được sức mạnh của người đàn ông
trung niên, hai người bị dòng nước cuốn xuống dưới, thở phì phì vào mặt nhau,
người này cố dìm người kia xuống. Bàn tay khỏe mạnh của người lính tóm vào cái
cổ gầy nhom của Tsanka, một ngón tay to tướng, thô kệch của anh ta ấn vào cổ họng
làm cậu nghẹt thở, hụt hơi, muốn ói mửa. Theo bản năng, cậu hít một hơi và thế
là nước ộc luôn vào mũi vào miệng.
Đột nhiên,
cả hai bị dòng nước đập vào bờ rất mạnh, rồi lại bị ném sang bờ bên kia, rồi một
cú đập nữa. Do bị quăng đập bất ngờ nên cú siết cổ khủng khiếp của người lính lỏng
ra, bàn tay vuột lên mặt Tsanka.
Tại cái chỗ
ngay dưới chân núi, dòng chảy rất mạnh của nguồn nước bị cản lại bởi những tảng
đá lăn to tướng, chắc là từ trên núi rơi xuống. Dòng nước vòng qua những tảng
đá, tăng thêm tốc độ, rồi đập vào một tảng đá granit khổng lồ ngay dưới chân
núi. Qua nhiều năm, mà có thể hàng thế kỷ, dòng nước đã mài mòn chân tảng đá
lăn, chảy ngoằn ngoèo quanh đó, rồi phun lên như một vòi phun, chảy vào cái
vũng rộng nhưng không sâu lắm... Từ bé, Tsanka không chỉ một lần đã mạo hiểm
bơi theo dòng chảy điên khùng đó. Còn bây giờ, Tsanka bất giác nhớ lại cái sức
mạnh khủng khiếp của dòng chảy không lớn lắm nhưng rất xiết đó, cậu hít một hơi
dài lặn xuống đáy như hồi bé vẫn thường làm... Rồi một cú va đập nữa, đến một
khúc quanh, sau đó có cảm giác như bị đẩy mạnh lên trên, cái mũi to của cậu sượt
qua một bề mặt nhơn nhớt rất khó chịu... Khoảnh khắc tiếp theo, dòng chảy đã
đưa cậu vào cái vũng nước bình lặng.
Cảm nhận
được dưới chân là lớp đất cứng, Tsanka định đứng lên nhưng đôi chân bất lực run
rẩy không giữ nổi tấm thân cao ngồng của cậu. Tsanka lại ngã xuống làn nước lạnh
ngắt, cậu hít một hơi dài, cố đứng lên, cơn ho sặc sụa trào lên ngực và lên cổ
họng. Run bần bật vì lạnh và vì sợ, Tsanka thở hổn hển, cứ đứng mãi dưới nước,
cố đấu tranh với bản thân, không biết phải làm gì giữa bốn bề là sự nguy hiểm
chết người. Rồi cậu cũng hoàn hồn trở lại, đưa mắt nhìn quanh. Có ai đó vừa sặc
nước vừa cố vùng vẫy bơi vào bờ.
- Này! Ai
đấy? - Tsanka khẽ hỏi.
Tiếng thác
nước đổ ầm ầm, át tất cả mọi tiếng động khác, nhưng Tsanka có cảm giác, hình
như đó là chú Basnak. Cậu sải tay bơi lại.
- Chú
Basnak, có phải chú không? Đưa tay đây! - Tsanka sung sướng hét lên và chìa tay
ra.
Đột nhiên,
tất cả mọi vật trước mắt Tsanka như nhòe đi. Một cú đấm rất mạnh làm cậu đổ
nhào xuống. Tsanka bị mất thăng bằng, chân bật lên không chạm được tới đáy vũng
nước nông. Trong cơn hoảng loạn, cậu cố vùng vẫy hai tay và bị uống khá nhiều
nước lạnh. Cuối cùng, chân chạm đất, nhưng Tsanka không dám đứng thẳng người,
chỉ ló từ mũi trở lên, nhẹ nhàng bơi về phía dưới. Được khoảng một trăm mét, chỗ
con suối hòa vào với dòng sông Vashandaroi, Tsanka chui qua bụi cây rậm đầy
gai, leo lên bờ. Run cầm cập vì lạnh, cậu đưa mắt nhìn quanh, nhầm lẫn lung tung,
cắm đầu cắm cổ chạy về hướng núi, về chỗ cắm trại mùa hè của dân du cư, cố
thoát khỏi mọi người, khoát khỏi ngôi làng ruột thịt.
Không thể
diễn tả nổi sự ngạc nhiên và vui mừng khôn xiết của Tsanka khi cậu gặp lại chú
Kosum trong ngôi nhà đất cùng với hai người làng chạy thoát khỏi vụ xử bắn.
Suốt cả
ngày hôm sau, vừa đói vừa lạnh cóng, mọi người không biết phải làm gì tiếp. Mãi
đến chiều mọi người mới quyết định, Tsanka cùng với một người nữa quay về làng.
Đến khuya,
lặn lội trên lớp tuyết vừa rơi, hai người mới về đến làng. Tsanka bàn với người
bạn đường, trở về nhà ngay bây giờ sẽ rất nguy hiểm, có thể bị phục kích. Hai
người đi tiếp đến nhà bà già Avraby. Tsanka nóng lòng muốn gặp lại Kesyrt vì buồn
nhớ.
Hai người
thận trọng đến gần sân nhà bà Avraby, bước vào. Lũ chó nhận ra người quen, chỉ
rên ư ử và nhảy lên liếm tay. Không khí thoảng mùi cỏ khô và phân gia súc.
Tsanka lần đến bên của sổ, gõ nhẹ. Một bóng đen thoáng qua, ngay lập tức Kesyrt
hiện ra nơi khung cửa, nhảy lên ôm cổ chồng. Nhìn thấy Tsanka không đi một
mình, Kesyrt bối rối cúi đầu rồi đẩy hai người vào nhà.
Bà Avraby
ngủ chung với Kesyrt. Sự xuất hiện của Tsanka bằng xương bằng thịt làm bà vui mừng
không kém cô vợ. Họ kéo rèm cửa sổ xuống, châm ngọn đèn dầu lên rồi đốt lò, bày
bàn ăn. Sau đó, bà Avraby chạy đến báo tin cho bà Tabark và họ hàng của người
kia.
Rất nhiều
người tụ tập trong căn phòng nhỏ. Họ nói rất khẽ, vẻ mặt buồn rầu, lo lắng. Lúc
này mọi người mới biết, trong số mười một người bị đưa đi xử bắn, chỉ có tám
người trốn thoát. Ba người bị bắn chết ngay tại chỗ, trong đó có ông Bitsaev.
Riêng số phận ông Basnak vẫn chưa rõ.
Gần sáng,
hai nạn nhân vô tội thu gom tất cả thức ăn, diêm, thuốc và vũ khí, rời khỏi
ngôi nhà.
Hai ngày
sau, em trai Basil của Tsanka đến khu trại cho biết, mọi người đã tìm thấy xác
ông Basnak trong sông Vashandaroi. Một cuộc đời tráng kiện và khỏe mạnh đã bị
giết chết bằng bảy phát đạn.
Nhổ toẹt
vào tất cả, ông Kosum và Tsanka quyết định quay về làng để dự đám tang ông
Basnak. Họ bị bắt ngay tại đây, bị áp giải vào thành phố Grozny và tống vào tù.
Dòng họ
nhà Arachaev trở nên côi cút và sa sút hẳn. Nhà ông Baki-Haji gần như vắng hoe,
chỉ thỉnh thoảng mấy đứa con gái đã đi lấy chồng quay về than khóc cho số phận,
rồi lại ra đi, mang theo vài thứ vật dụng gia đình. Cũng vì chuyện đó mà không
ít lần giữa các cô đã xảy ra cãi vã.
Các cô con
gái bà Hadizhat mắng chửi nhau thậm tệ, nhưng không lâu. Sang ngày hôm sau, thậm
chí có thể ngay trong ngày, họ lại tụ tập, quên tất cả những lời lẽ xúc phạm vừa
ném vào mặt nhau.
Khuôn mặt
buồn rầu của mẹ và vợ Tsanka lúc nào cũng bị che kín trong tấm khăn choàng. Cô
vợ Dikhant thay đổi đến mức không nhận ra. Sau cuộc bạo động ở Shali, ông
Irs-Haji Inalov cha cô và hai em trai bị bắt. Số phận của họ, cũng như số phận
của Tsanka và ông Kosum, không ai biết. Nhưng không chỉ có vậy. Tòa nhà to lớn
của dòng họ Inalov cùng với các cửa hàng của họ ở thành phố Grozny và huyện lỵ
Shali đều bị quân lính cướp sạch, sau đó bị thiêu hủy. Toàn bộ gia súc và tất cả
những gì họ có, đều bị trưng thu. Kết quả là bà mẹ Dikhant cùng với hai đứa em
gái chưa lấy chồng trở thành những kẻ vô gia cư, gần như bần cùng.
Một bước
ngoặt cuộc đời như thế, Dikhant không bao giờ hình dung nổi. Phải khó khăn lắm
cô mới vượt qua được tất cả những điều đó. Mái đầu kiêu hãnh giờ đây gục xuống,
người thu lại, khuôn mặt hốc hác, đôi mắt bạc phếch, mái tóc xơ xác. Nhưng điều
quan trọng nhất không phải ở đó. Có thể thấy rõ, do quá đau khổ nên Dikhant đã
đẻ non trước một tháng, vật vã với đứa bé còi cọc hai tháng nữa rồi cũng phải
chôn cất nó.
Nhưng người
đau khổ nhất chính là Kesyrt. Cô thương nhớ chồng, khóc suốt đêm, không biết
chuyện gì sẽ xảy ra với Tsanka, bị giam ở đâu, sống hay chết. Nhưng đó vẫn chưa
phải là điều tệ hại nhất. Sự thiếu thốn cùng cực và đói khát đã mò vào tận nhà
bà Avraby. Họ chẳng còn gì để ăn. Sau khi Tsanka bị bắt, nhà họ bị khám xét để
tìm vũ khí và bị tịch thu luôn tất cả những gì có thể ăn được, trong đó có cả
con bò sữa, chỉ để lại con bê con gần như chết đói vì thiếu sữa. Họ không dám
làm thịt con bê - đó là niềm hy vọng cuối cùng của bà già Avraby.
Vì thiếu
ăn nên Kesyrt không có sữa cho con bú, đứa bé gào khóc suốt đêm, mút đến tóe
máu đầu vú của Kesyrt. Thỉnh thoảng bà Tabark có giúp đỡ đôi chút trong khả
năng của mình, bảo con dâu về sống với mình. Nhưng Kesyrt từ chối vì sợ va chạm
với Dikhant. Hơn nữa, bà Avraby lại khóc lóc năn nỉ đừng bỏ mặc bà ở lại một
mình.
Bà Avraby
đã quen với Kesyrt, và điều quan trọng là đã gắn bó với đứa bé con cô.
Họ chật vật
cầm cự cho đến mùa xuân. Vào đầu tháng Ba, Kesyrt để con lại cho bà Avraby
trông nom, lần đầu tiên đi vào núi một mình để đào củ hành gấu đầu mùa. Trong rừng
sâu, dưới lớp đất đóng băng cứng ngắc, Kesyrt chỉ đào được những bụi nhỏ vừa mới
nhú lên có thể ăn được. Cô hy vọng mình là người đầu tiên mang ra chợ bán những
bó hành gấu non đầu mùa.
Ba ngày liền
làm quần quật, Kesyrt đào được bốn bao củ hành gấu, bỏ lên chiếc xe kéo bằng
tay, vất vả vượt qua bao đèo dốc, kéo ra chợ Shali. Sáng kiến của Kesyrt đã được
đền bù xứng đáng: cô đổi được một bao bột ngô và một put lúa đại mạch.
Ngay trong
ngày hôm đó, Kesyrt gửi số tài sản của mình ở nhà người quen rồi đến đồn công
an, hỏi thăm tin chồng. Tận dụng vẻ ngoài xinh đẹp và hấp dẫn của mình, Kesyrt đã
trực tiếp gặp được trưởng công an huyện Shali là Aky Mataev. Trưởng công an
cũng không biết gì về số phận những người nhà Arachaev, nhưng ông hứa sẽ tìm hiểu
trong thời gian sớm nhất.
Trên đường
về, Kesyrt gặp may, một số bạn đường ở làng bên về nhà bằng xe trâu không chở
gì cả. Họ cho Kesyrt đi nhờ xe, còn chiếc xe kéo tay của cô thì buộc đằng sau.
Suốt cả chặng đường Kesyrt thiếp đi vì quá mệt mỏi.
Buổi chiều,
trong nhà bà Avraby có một bữa đại tiệc - mọi người được ăn thỏa thích món cháo
ngô. Sau đó, hai mẹ con Kesyrt đến nhà bà Tabark, chia cho gia đình bà ít bột,
kể về cuộc gặp với trưởng công an huyện và lời hứa của ông ta.
Buổi tối,
Kesyrt ôm đứa con trai vào lòng, hít thở mùi cơ thể nó, hôn nó đắm đuối và khóc
nức nở.
Một tuần
sau, Kesyrt lại kéo đến chợ Shali bốn bao củ hành gấu. Nhưng lần này đã có các
đối thủ cạnh tranh nên Kesyrt chỉ đổi được vẻn vẹn nửa bao bột ngô. Dẫu vậy, cô
vẫn được coi là người hạnh phúc và được số phận ưu ái. Sau đó, lúc trên đường đến
đồn công an, cô phải nhẩm tính số lương thực ấy đủ sống được mấy ngày.
Kesyrt gặp
may thêm một lần nữa trong việc quan trong nhất, trưởng công an huyện cho cô biết,
đối tượng Tsanka Arachaev hiện đang thụ án trong nhà tù thành phố Grozny và cô
có thể gửi đồ thăm nuôi cho chồng, nếu biết xoay xở thì có thể được gặp nữa.
Còn ông Kosum, đã bị đưa đến nhà tù thành phố Rostovtrên sông Đông, ngoài ra
không có tin gì khác.
Kesyrt rất
muốn được gặp Tsanka, hay ít ra thì cũng gửi quà. Bà Tabark bị lây ngay cái ý
tưởng đó. Hai mẹ con gom góp số thực phẩm dự trữ cuối cùng, rồi Kesyrt lên đường
đi Grozny. Kesyrt phải chạy ngược chạy xuôi mất mấy ngày ở đó, nhưng kết quả,
chỉ đến gần nhà tù thôi cô cũng không được phép. Họ bảo, phải có giấy phép của ủy
ban thôn. Kesyrt chẳng hiểu mô tê gì về các loại giấy tờ đó, ngay lập tức cô được
hướng dẫn cụ thể.
Sau khi về
đến làng Duts-Khote, Kesyrt gác tất cả mọi công việc sang một bên, đến gặp trực
tiếp ông chủ tịch ủy ban cách mạng thôn, ông này bảo cô đến gặp ủy viên thư ký
Haron Tutushev. Ông Haron tỏ ra rất nhã nhặn và sốt sắng với Kesyrt, song ông bảo
không thể giúp được vì ông không biết phải cấp loại giấy phép gì. Nhưng ngay
chiều hôm ấy, ông Haron đi xe ngựa đến nhà bà Avraby, gọi Kesyrt ra.
- Ngày mai
tôi có việc phải đi Shali, ở đấy tôi sẽ tìm hiểu rõ sự việc. Còn cô, nếu cần giấy
phép, thì trưa ngày kia chờ tôi ở cửa hàng trung tâm.
Kesyrt rối
rít cám ơn ông Haron, thiếu chút nữa là quỳ xuống, mặc dù cô biết, nhà Tutushev
và nhà Arachaev luôn đối đầu nhau. Khi Kesyrt quay vào nhà, tỏ vẻ hài lòng, bà
Avraby buông một câu như vô tình:
- Ông ta
nhìn con như muốn ăn tươi nuốt sống vậy...
- Bà nói
gì thế? - Kesyrt bật cười. - Ông ấy già khọm rồi, không nghĩ đến chuyện ấy đâu.
- Chỉ đến
khi về già người ta mới để tâm đến chuyện ấy, còn lúc trẻ, cứ nghĩ không đi đâu
mà vội, - bà già buồn bã nói. - Trông ông ta chẳng có vẻ gì tử tế. Đồ đê tiện đểu
giả, không tin được đâu.
Kesyrt bỏ
ngoài tai tất cả những lời đó, hy vọng sẽ sớm được gặp người chồng yêu quý.
Đúng như
đã thỏa thuận, ông Haron và Kesyrt gặp nhau ở Shali. Ông Haron tỏ ra lăng xăng,
lo lắng.
- À, cô
đây rồi. - Ông ta nói, đôi mắt thèm thuồng nhìn cô từ đầu đến chân.
- Ông thấy
đấy, - Kesyrt mỉm cười, nhớ lại lời bà Avraby.
- Vậy thế
này, - ông Haron vỗ vỗ vào đùi. - Tôi tìm được một người ở Mesker-Iurt, người
quen của tôi, làm trong nhà tù, ông ấy hứa sẽ cho gặp.
- Cám ơn
ông Haron, - Kesyrt vui mừng.
- Nhưng
cám ơn suông không giải quyết được đâu. - Ông Haron lo ngại đảo mắt nhìn quanh.
Kesyrt bắt
đầu cảnh giác.
- Ông ấy
đòi bao nhiêu? - Cô lo lắng hỏi.
- Không
nhiều lắm, tôi sẽ thỏa thuận, nhưng tôi nghĩ mọi việc sẽ ổn. - Ông Haron trấn
an.
- Ông thừa
biết là tôi chẳng có gì để đưa, - Kesyrt nói. - Chúng tôi phải chật vật lắm mới
sống được qua ngày...
- Khẽ
thôi, khẽ thôi, - ông Haron vỗ về. - Sau này chúng ta sẽ tính. Tôi sẽ giúp. Có
vấn đề gì đâu. Dẫu sao cũng là người làng với nhau... Thôi được rồi, đi thôi.
Ngày ngắn lắm, trên đường đi, nói tiếp.
- Đi đâu?
- Kesyrt ngạc nhiên.
- Đi đâu
là thế nào? Đến Mesker-Iurt, sáng mai chúng ta sẽ cùng đi với ông ấy đến
Grozny.
- Chỉ có
chúng ta? - Kesyrt càng ngạc nhiên hơn.
- Thì đã
sao?
- Tôi
không biết nữa.
- Sao cô
õng ẹo như trẻ con thế? Tôi cần cô, và với cái tuổi của tôi, chẳng sợ ai nghi
ngờ. - Ông Haron cau mặt. - Nếu muốn, ta cùng đi, nếu không, tôi càng nhẹ người.
- Ông Haron cương quyết bước về chiếc xe của mình.
Kesyrt cắn
môi, tay nắm chặt, khổ sở vì sự nghi ngờ, nhưng cuối cùng nỗi khát khao được gặp
chồng đã thắng.
- Chờ đã,
ông Haron. - Kesyrt bước lại chỗ chiếc xe. - Thế tối nay chúng ta ngủ ở đâu?
- Ở nhà
người quen của tôi... Cô lo cái gì chứ, ông ấy có vợ con đàng hoàng. Sáng mai
chúng ta sẽ đi cùng ông ấy đến Grozny.
- Để tôi
nhắn cho gia đình biết là tôi đi với ông cho họ đỡ lo.
- Cô muốn
làm gì thì làm, - ông Haron cằn nhằn rồi leo lên xe ngồi ở ghế trước. - Nhanh
lên đấy. - Ông ta gọi với theo Kesyrt lúc ấy đã lẫn vào đám đông.
Khoảng hơn
chục phút sau, Kesyrt quay lại, thở hổn hển.
- Không biết
tại sao tôi không tìm được ai quen cả.
- Thôi được
rồi, trên đường đi có thể sẽ gặp ai đó, ta sẽ nhắn... Nếu đi thì lên xe. Hết
ngày rồi.
Vẫn còn
thoáng chút nghi ngờ, Kesyrt cố nhìn vào mắt ông Haron nhưng ông ta quay mặt
đi, nhét cái gì đó xuống dưới ghế ngồi. Cuối cùng, sau khi đã cầu xin Thượng đế,
Kesyrt quyết định dứt khoát, nhanh nhẹn nhảy lên xe, ngồi lên ghế ngay sau lưng
ông Haron.
Họ lặng lẽ
rời khỏi Shali, đến làng Germentsuk. Con đường ảm đạm, vắng hoe, bầu trời u ám
nhưng không mưa. Những đám mây đen vần vũ che kín bầu trời. Mặc dù vậy, không
khí đã mang hơi thở của mùa xuân, tinh khiết.
Ông Haron
thỉnh thoảng mới thúc ngựa, thân hình to lớn và cái mông của ông cứ nảy chồm chồm
mỗi khi chiếc xe bị vấp.
Khi đã đi
cách Germentsuk một đoạn khá xa, ông Haron luồn tay xuống dưới ghế lấy ra cái
gói, mở ra rồi chìa cho Kesyrt một miếng bánh mì trắng.
- Này, cô
ăn đi, - ông Haron quay đầu lại, ngoác miệng cười rất to, chiếc môi dưới dày,
trề xuống như môi con ngựa già.
- Không,
cám ơn ông, tôi không đói. - Cô đáp.
- Cầm đi,
cầm đi. Cô đã bao giờ ăn bánh mì trắng chưa? - Ông nhếch mép.
Kesyrt thận
trọng cầm miếng bánh mì. Khi ông Haron quay đi, cô thích thú hít hít rồi vội
vàng cắn một miếng. Lát sau, ông Haron lại lôi từ dưới ghế ra một chiếc chai
to, hớp vài ngụm. Kesyrt ngửi thấy mùi rượu.
- Hay là
chúng ta dừng lại, ăn uống cho đàng hoàng? - Ông hỏi.
- Không,
không. Muộn rồi, chúng ta cần phải đi, - Kesyrt lo lắng.
Ông Haron
không nói gì thêm, uống thêm một ngụm nữa, khó chịu ợ một cái, hít hít mẩu
bánh, lát sau lại hớp một ngụm nữa, chép miệng rồi nhắm bằng bánh mì.
- Cô ăn nữa
không? - Ông Haron quay lại hỏi, mặt đỏ bừng, những quầng thâm hiện ra dưới mắt.
- Không,
không, cám ơn ông. - Kesyrt đáp.
- Thế còn
cái này? - Ông nhấc chiếc chai chỉ còn một nửa lên, hỏi.
- Không ạ.
- Kesyrt đáp, giọng dứt khoát, sống lưng lạnh toát.
- Có thể uống
một chút cho ấm. - Ông Haron cười khả ố.
Kesyrt
không đáp gì cả, chỉ thu người lại.
Ông Haron
còn uống thêm hai ngụm nữa, xe xóc làm ông bị sặc, ông chửi con ngựa, quất cho
nó mấy cái rồi im lặng khá lâu. Kesyrt cảm thấy yên tâm, bắt đầu thiếp đi. Sự đụng
chạm làm cô tỉnh dậy. Một bàn tay to tướng, béo núc, đầy lông đen đang sờ nắn
đùi cô, từ đầu gối tiến dần lên.
- Lấy tay
ra! - Kesyrt bật dậy hét lên như bị con gì đốt.
- Ha-ha-ha
- ông Haron cười to. - Cô hét cái gì thế? Không có gì xảy ra với cô đâu!
Kesyrt
không nói gì, lùi xa vào một góc, đầu óc căng ra, nghiêm túc nghĩ cách rời khỏi
chiếc xe. Trong lúc đó, ông Haron quay người lại, đột ngột giật mạnh dây cương,
lẩm bẩm cái gì đó, tức giận nhổ bọt.
- Cô làm bộ
làm tịch cái gì thế? Chắc là thiếu đàn ông hả? - Ông Haron không thèm quay đầu
lại, hỏi.
- Ông nói
gì vậy? - Kesyrt đột ngột hét lên. - Nói thế với phụ nữ mà ông không thấy xấu hổ
à?
- Thôi im
đi. - Ông Haron vẫn không quay đầu lại, cười gằn. - Đùa một tí không được à. -
Rồi ông ta ném về phía cô một cái nhìn đầy ác ý, cười xòa. - Này, cô hãy nói thật
cho tôi biết, trong số các ông chồng của cô ai là người khá nhất? Dĩ nhiên là về
chuyện đó. - Ông ta vung tay làm một động tác thô tục.
Máu dồn
lên mặt, Kesyrt tức giận cắn môi, nhưng không biết phải nói gì, làm gì, hành động
ra sao.
- Chắc thằng
Tsanka khá nhất phải không. - Ông Haron vẫn tiếp tục. - Người ta đồn, hai người
cứ dính vào nhau cho đến tận sáng. Dĩ nhiên rồi, nó là con ngựa non, còn cô là
gái già đầy kinh nghiệm, nếm đủ mùi đàn ông.
- Ông câm
đi, đồ đê tiện! - Kesyrt giận dữ bật dậy, hét lên, cô định nhảy từ trên xe xuống,
nhưng ông Haron kịp nhận ra điều đó liền đưa bàn tay béo múp của mình khẽ đập
lên vai cô, bắt cô ngồi xuống.
- Thôi được
rồi, đã đến nước này, chúng ta sẽ nói thẳng với nhau, - đột nhiên ông Haron hơi
xoay người lại, nói bằng một giọng nghiêm túc: - Cô Kesyrt này, tôi xin lỗi vì
đã làm cô hiểu sai tôi. Có thể tôi sai, - cặp mắt ông Haron ươn ướt, vẻ rầu rĩ,
ông liếm liếm đôi môi dày, ngừng lời, nặng nề nuốt nước bọt. - Cô Kesyrt yêu
quý ạ, cô hãy chú ý nghe tôi nói, đừng ngắt lời tôi, tôi xin cô đấy. - Giọng
ông ta trở nên nhẹ nhàng, ngọt lịm, thậm chí dịu dàng nữa. - Từ bao lâu nay tôi
vẫn đau khổ vì cô, cô không thể hình dung nổi tôi yêu cô nhường nào kể từ lần đầu
nhìn thấy cô trong đám cưới mùa đông. Cô Kesyrt ạ, kể từ dạo ấy, tôi không ngủ
yên được, không thèm muốn thứ gì khác, lúc nào cũng nghĩ đến cô... Cô không biết,
tôi đã đau khổ thế nào khi cô lại đi lấy chồng một lần nữa. Hàng trăm, thậm chí
hàng ngàn lần, tôi đã định nói với cô, thổ lộ với cô, và đây là cơ hội đầu tiên
của tôi. Kesyrt ạ, tôi giàu có, công việc tử tế, làm cho chính quyền, tôi được
kính trọng. Tôi sẵn sàng làm tất cả vì cô. Hãy giúp tôi, xin đừng từ chối tôi!
Tôi yêu cô! - Ông Haron nhìn Kesyrt như con chó con bị bỏ đói, ánh mắt van xin
nhìn vào đôi mắt màu đen mở to vì sợ hãi của Kesyrt. - Cô không biết tôi sẽ đền
ơn cô như thế nào đâu, tôi sẽ làm tất cả những gì cô muốn. Và sẽ không có ai biết
gì cả. Cô sẽ được sống sung túc, no đủ. Chỉ cần thỉnh thoảng chúng ta gặp nhau.
Mọi việc sẽ đâu vào đấy.
- Ông là đồ
con lợn, - Kesyrt ngắt lời ông ta, khuôn mặt cô như cháy lên vì tức giận và
cương quyết. - Ông là đồ con lợn, ông nghĩ tôi là ai?
- Cô hét
cái gì thế, đồ ngốc! - Ông Haron phả hơi rượu nồng nặc vào mặt Kesyrt. - Cô tưởng
tôi không có việc gì làm lang thang với cô ở đây hay là tôi quan tâm đến số phận
những người nhà Arachaev của cô hả? Muốn được phục vụ thì phải trả tiền.
- Tôi
không cần ông phục vụ nữa, không cần. - Kesyrt định đứng lên, nhưng ông Haron lại
ấn cô ngồi xuống.
- Thả tôi
ra, - Kesyrt la lên.
- Thả cô
đi đâu? - Ông Haron cười khẩy. - Thế ai sẽ trả công cho tôi?
- Thả tôi
ra, đồ con lợn! Đồ đê tiện khốn nạn! Ông có biết tôi là ai không? Tôi là vợ
chính thức của anh Tsanka Arachaev. Anh ấy là...
-
Ha-ha-ha! Vợ chính thức! Ha-ha-ha! Cô là đồ con hoang của bà Haza thì có, bà ấy
đã chửa hoang ra cô. Còn cô thì lang chạ với thằng Tsanka trong bụi, thằng nhóc
ấy chỉ yêu cái mông của cô thôi, đầu óc mụ mị vì đã bị cô bỏ bùa mê, tôi biết tỏng
dòng họ nhà cô, đồ phù thủy Bikazhu.
- Ông là đồ
súc sinh! Đồ đê tiện! Câm mồm đi! - Kesyrt điên cuồng hét lên.
- Câm cái
gì? - Ông Haron đểu cáng cười nhạo vào mặt Kesyrt. - Cô biết “vợ chính thức của
Arachaev” là gì không. Hừ, tôi có thể nói cho cô và dòng họ nhà Arachaev biết...
Tất cả sẽ phải ngồi tù rục xương ở đấy, lũ súc sinh. Tôi sẽ đùa giỡn với cô và
những người khác, nhất là cô, vì cô đã có kinh nghiệm trong chuyện này. - Ông
Haron lấy bàn tay đẫm mồ hôi vuốt lên má Kesyrt, định kéo cô lại.
- Bỏ bàn
tay bẩn thỉu của ông ra, đồ khốn nạn. - Kesyrt căm giận rít lên, gạt tay ông ta
ra.
- Nào, hãy
ngoan đi, vui vẻ một lát rồi ta đi tiếp. Còn tôi, đã hứa là làm.
- Ông cút
đi, đồ khốn nạn! Ông sẽ phải ân hận và sẽ phải trả giá cho những lời đó.
Kesyrt cố
đứng lên một lần nữa, nhưng ông Haron vẫn lấy bàn tay to tướng của mình ấn cô
ngồi xuống ghế.
- Thả tôi
ra, thả tôi ra, - cô gào lên.
Ông Haron
bật cười, rồi quay nhìn con đường như muốn tìm chỗ dừng xe. Trong cơn tuyệt vọng,
Kesyrt nghĩ đến điều khủng khiếp nhất, cô luồn tay vào ống tay áo lấy ra con
dao. Ông Haron bất ngờ quay lại, nhìn thấy lưỡi dao, hoảng hốt vung tay đấm một
cú. Kesyrt bay ra khỏi xe như con búp bê, đập xuống đất, rên rỉ đau đớn. Ông
Haron vội nhảy xuống, giật con dao ném vào bụi. Sau đó ông bế cô lên, nặng nề đặt
vào ghế sau và lên ngồi ngay bên cạnh. Ông Haron nhìn trước nhìn sau, cho xe chạy
thêm khoảng bốn chục mét nữa, rồi rẽ vào khoảnh rừng cây rậm rạp. Xe chạy khá
lâu giữa những bụi cây đầy gai, cành cây cào vào mặt, vào tay rát rạt. Kesyrt
rên rỉ vì đau, cố vùng vẫy, khóc lóc, van xin ông Haron thương tình đừng làm hại
cô nhưng vô ích. Người đàn ông đang hăng máu bị chi phối hoàn toàn bởi niềm ham
muốn đã xâm chiếm toàn bộ tâm trí và thể xác ông từ lâu.
Họ đi theo
vết bánh xe bị cây cỏ che khuất, cách con đường khá xa. Đến một khoảnh đất nhỏ,
khô ráo, cỏ non mới nhú, xe dừng lại. Bất chấp tuổi tác, ông Haron nhanh nhẹn
nhảy khỏi xe, buộc ngựa vào gốc cây, trải chiếc áo khoác ngắn của mình xuống đất.
Ông bế Kesyrt đang rên rỉ lên, nhưng không thể nhẹ nhàng đặt cô xuống đất, mà gần
như ném cô xuống, rồi ngã đè lên. Kesyrt run rẩy ôm lưng, đau đớn kêu la, rên rỉ.
- Ông
Haron, tôi van ông, hãy thả tôi ra. Xin đừng hành hạ tôi nữa. Tôi đau khắp người,
lúc ngã hình như tôi bị gãy cái gì đó. Xin ông hãy thương hại tôi... Ông Haron
hổn hển ngồi xuống bên cạnh, hơi thở nồng nặc.
- Đừng lo,
nhanh thôi mà. Điều quan trọng là cô không nên xúc động quá, mọi việc sẽ đâu
vào đấy.
Ông Haron
đưa tay ôm mặt cô, ngắm nhìn khá lâu như muốn tìm cái gì đó.
- Kesyrt,
cô đẹp lắm! Cuối cùng thì cô... cũng là của tôi, của tôi!.. Tôi sẽ làm cô hạnh
phúc! Tôi yêu cô, yêu cô... Tôi sẽ chiều chuộng cô, - ông vừa thì thào vừa thở
hổn hển ngay bên tai Kesyrt, phả mùi hôi lên khắp mặt cô.
Ông Haron
đưa đôi môi dày dính đầy nước bọt của mình hôn lên má cô, sau đó ụp vào môi cô,
mút mút một cách thỏa mãn. Đúng lúc đó, Kesyrt lấy hết sức cắn một cái thật mạnh
vào lưỡi ông. Ông Haron bật dậy, la toáng lên, nhảy chồm chồm vì cơn đau khủng
khiếp. Lúc đó, Kesyrt với chiếc lưng đau không gập lại được, vẫn cố đứng lên, tập
tễnh, lảo đảo đi vào trong rừng. Giận dữ điên cuồng, ông Haron chỉ cần nhảy hai
bước đã túm được áo Kesyrt, kéo lại. Chiếc áo may bằng vải tự dệt, rách toạc đến
thắt lưng. Ông xoay người cô lại, tát mấy cái như trời giáng, chửi rủa thậm tệ.
Kesyrt ngã vật xuống, kêu la. Ông Haron bịt mồm cô lại, cô cắn vào bàn tay béo
múp của ông.
- A, đồ
chó cái! Mày đúng là dòng họ nhà Arachaev, - ông Haron rít lên và đấm cho
Kesyrt một cú, cô lịm đi ngay.
Trong cơn
hưng phấn, ông Haron cúi xuống người Kesyrt, lần tìm chỗ cởi chiếc áo váy của
cô ra, nhưng vì vội vàng nên nhầm lẫn lung tung, bực tức nhổ bọt, xé toạc ngực
áo để lộ ra bộ ngực căng sữa, to, tròn, mềm mại.
Ông Haron
vội vàng đến toát cả mồ hôi, thấy chiếc quần vướng víu, ông liền đứng lên tháo ủng,
bỏ miếng vải quấn chân ra. Đúng lúc ấy Kesyrt tỉnh lại, cố đứng lên, kêu thét
khắp cánh rừng. Ông Haron hốt hoảng bịt mồm cô lại, nhìn quanh bốn phía, lấy mảnh
vải quấn chân hôi đến lộn mửa nhét vào mồm cô, dùng ngón tay chuối mắn đẩy sâu
vào trong họng. Rồi ông chạy chân đất về chỗ chiếc xe, lấy trong bao đạn ra sợi
dây thừng, bộc túm hai tay cô lên trên. Sau đó ông cởi quần.
... Cuối
cùng, vào cái tuổi cao niên, ông Haron tứ cố vô thân đã đạt được tất cả những
khát vọng thầm kín của mình: Trở nên giàu có, quyền lực, và giờ đây, niềm khao
khát từ lâu, tức là người đàn bà mong ước cũng đã rơi vào tay ông. Đã bao lần
ông mơ tưởng về người đàn bà này? Giờ đây, ông đã chiếm đoạt được bằng sức mạnh,
cảm nhận được một cách trọn vẹn niềm khoái lạc đầy cám dỗ từ cơ thể Kesyrt!
... Ông đã
cưỡng hiếp cô bằng thủ đoan đê tiện nhất, đã nhạo báng một người phụ nữ yếu đuối
như một kẻ hung bạo...
Cuối cùng,
ông Haron kiệt sức đổ vật xuống, nằm ngửa ra, thở hổn hển, tinh thần xáo trộn,
tim đập thình thịch, đầu đau như búa bổ, cổ họng khô khốc, đắng nghét. Ông nhìn
lên bầu trời chiều muộn, thấp lè tè, phủ đầy sương, khí lạnh từ mặt đất bốc lên
ngấm vào cơ thể béo núc của ông. Chỉ đến lúc ấy, ông mới ý thức được mình đã
gây nên chuyện gì. Ông vội bật dậy, nhìn vào cơ thể trần truồng. Giờ đây, ngay
cả việc chạm tay vào, ông cũng cảm thấy ghê sợ và kinh hãi.
Sau đó,
ông lấy mảnh áo của Kesyrt lau chùi kĩ lưỡng các vết nhầy nhụa và máu khô trên
cơ thể chảy sệ của mình. Bỏ lại trên mặt đất người đàn bà trần truồng bị trói
chặt, ông Haron không dám nhìn, lật Kesyrt nghiêng sang một bên, kéo chiếc áo
khoác của mình ở dưới lưng cô ra. Ông vội vàng mặc quần áo, thắng ngựa và phóng
đi ngay. Nhưng mới được chục mét, ông dừng xe, cương quyết quay lại, cúi xuống,
đưa tay túm vào chiếc cổ cao, yếu ớt của Kesyrt, bóp chặt... nhưng ông không có
đủ tinh thần để bóp đến chết. Ông bật dậy, kinh hoàng nhìn vào khuôn mặt
Kesyrt, lùi mãi cho đến khi trượt chân ngã xuống. Rồi ông vội vàng đứng dậy,
cho xe chạy thục mạng khỏi mảnh đất khủng khiếp.
Ra đến đường
cái, ông Haron không biết phải đi đâu. Ông cho xe quay về hướng Mesker-Iurt, đến
chỗ người quen. Đúng là ông đã thỏa thuận với người đó, cứ nghĩ mọi chuyện sẽ
đâu vào đấy như ông dự tính, nhưng Ra đến đường cái, ông Haron không biết phải
đi đâu. Ông cho xe quay về hướng Mesker-Iurt, đến chỗ người quen. Đúng là ông
đã thỏa thuận với người đó, cứ nghĩ mọi chuyện sẽ đâu vào đấy như ông dự tính,
nhưng không ngờ lại đâm ra tồi tệ thế này. Chỉ khi đến gần làng, ông mới cân nhắc
được thấu đáo mọi chuyện. Ông tỉnh táo quay xe phóng ngược trở lại. Trong bóng
tối, ông tìm kiếm rất lâu con đường rẽ, nhưng không thể nhận ra. Ông bỏ xe lại
trên đường, chạy vào rừng, thở hổn hển, khát cháy cổ, khiếp sợ bóng đêm và bất
cứ một tiếng động lạ nào, lại càng sợ hơn nữa nếu phải giáp mặt với Kesyrt... Đến
gần sáng, ông Haron mới tới được nhà người quen ở Mesker-Iurt, uống với người
đó một trận say mềm, không còn biết trời đất gì nữa...
Kesyrt sống
sót, bò ra đến đường cái. Những người đi đường tốt bụng đã nhặt được cô, chở về
làng Duts-Khote, về với bà Avraby và con trai. Bà già Avraby vội chạy đến gặp
bà Tabark. Bà Avraby vừa khóc lóc vừa nguyền rủa kẻ khốn nạn, vừa kể cho bà kia
nghe toàn bộ sự việc xảy ra với vợ Tsanka. Bà mẹ chồng lôi khẩu súng săn hai
nòng ra, hai ngày liền lùng sục trong rừng và đón lõng ở đường cái. Buổi chiều
ngày thứ tư, ông Haron Tutushev mới quay về làng bằng xe ngựa, trên xe có mấy
người đi nhờ. Bà Tabark từ trong rừng nhảy ra, chĩa súng vào bộ mặt béo múp của
kẻ cưỡng dâm.
- Đồ con lợn,
chẳng lẽ mày nghĩ những người trong dòng họ Arachaev cho phép mày đụng vào phụ
nữ của họ hay sao?
Ông Haron
định nói hay định làm gì đó, nhưng không kịp. Hai phát đạn cùng nổ vào giữa mặt
ông Haron, chiếc xe ngựa tha cái xác không đầu về nhà. Dọc đường, những người
đi nhờ sợ hết hồn vội vàng nhảy xuống xe...
Sau vụ đó,
bà Tabark bị bắt, nhưng rất mừng cho những người thân, ba tháng sau bà được thả.
Sau vụ bị
làm nhục tồi tệ đó, Kesyrt lâm bệnh nặng, cô bị nhiễm trùng. Các thầy lang vườn
bảo, nhiễm trùng đã vào tận máu. Rồi qua sữa, đứa bé cũng bị lây bệnh. Chết.
Kesyrt chỉ còn như cái bóng, hốc hác, xám xịt.
Ngay cả đến
lúc này, các cô con gái của bà Hadizhat và cô vợ cả Dikhant cũng không để
Kesyrt được yên.
- Nó đã
quyến rũ tất cả mọi người bằng cái mông của mình, tôi cũng khổ sở vì nó. - Họ
rêu rao, cốt để Kesyrt nghe được.
Bảy ngày
sau tang lễ của con trai, Kesyrt ra nghĩa trang Gazavata lần cuối. Cô ngồi rất
lâu bên mộ mẹ và con trai, khóc nức nở.
Sau đó, cô
đến cái nơi trước kia từng là cối xay nước. Dấu vết còn lại chỉ là hai thớt cối
xô lệch và chiếc ghế dài dưới tán cây liễu bên nguồn nước.
Kesyrt tắm
lần cuối trong nguồn nước thân thương, mặc cả quần áo để không phải nhìn thấy
cái cơ thể đã biến dạng của mình, cứ nghĩ Tsanka đang ngắm nhìn mình từ bụi cây
trên bờ đối diện.
Sau đó,
Kesyrt còn ngồi lại rất lâu trên ghế. Rồi cô đi vào núi qua đường hang động...
Mấy ngày
liền Basil cùng với Esky và dân làng đi tìm Kesyrt, nhưng không thấy...
Sau ba năm
rưỡi, đúng vào mùa thu, Tsanka ra tù, trở về. Trái tim cậu mách bảo, Kesyrt đã
tự vẫn, đã nhảy từ “mỏm đá tình yêu” xuống. Tsanka đến bên bờ vực nhìn xuống mà
nghẹt thở. Cảnh vật đẹp một cách u buồn và ảm đạm, toát lên sự chết chóc. Chỉ
có một con đại bàng cô đơn bay trên bầu trời xa tít, như cố thoát khỏi mặt đất
tăm tối này. Tsanka rất muốn bay theo người yêu, nhưng nhớ đến mẹ, đến con, phải
cố lắm mới kìm lại được.
Sau đó,
Tsanka quyết định sẽ leo xuống rồi leo lên theo vách đá dựng đứng cao khoảng một
ngàn mét. Và nếu số phận đã an bài - cậu sẽ chết, nếu không, cậu sẽ leo lên được
cùng với nhúm xương tàn của Kesyrt.
Phải khó
khăn lắm Tsanka mới leo xuống được, và vẫn sống. Cậu tìm thấy bộ xương đã bị
thú rừng gặm kĩ và một mảnh áo của Kesyrt. Tsanka leo lên với chiếc tay nải, và
vẫn sống sót...
Ngay chiều
hôm đó, Tsanka rửa sạch bộ xương cốt trong nguồn nước rồi mai táng tất cả những
gì còn lại trong nghĩa trang Gazavata. Cậu chôn nắm xương cạnh tấm bia của cha
và ngôi mộ của con trai.
Trên tấm
bia ghi: “Con gái bà Haza - con dâu nhà Arachaev - Kesyrt: 1899-1930”.
Hôm sau,
lúc Tsanka đọc kinh cầu hồn Iasin cho vợ, các vị bô lão trong làng Duts-Khote chạy
đến, bảo không được chôn cất người tự vẫn trong nghĩa trang này.
- Cô ấy
không tự vẫn, người ta đã giết cô ấy, không cho cô ấy sống. - Tsanka đáp.
Tsanka đọc
kinh cầu hồn cho Kesyrt năm ngày nữa. Hàng ngày, sau khi đọc kinh xong, cậu lại
đến ngồi trên chiếc ghế dài bên nguồn nước, và lẩm nhẩm hát.
Và rồi mùa thu lại đến,
Ngày đẹp trời tàn rất nhanh,
Thung lũng phủ đầy rêu mốc
Rồi ngày lại dài hơn đêm.
Buổi sáng tiết trời se lạnh.
Sương mù bao phủ khắp nơi.
Cây cối gục đầu ủ rũ.
Số phận cây đã an bài.
Chim sẻ ríu rít ít hơn
Bồ câu không gầm ghì nữa.
Trên cao, người bạn vẫy cánh
Thảng thốt bay về phương Nam.
Buổi sáng tiết trời se lạnh.
Sương mù bao phủ khắp nơi.
Riêng tôi gục đầu ủ ũ,
Tình yêu đã mãi xa rồi...
...
Năm 1990,
ông Arachaev Tsanka nhận được trả lời chính thức của Ủy ban An ninh Quốc gia
Liên Xô về những chất vấn của mình, trong đó ghi rõ:
“Arachaev
Aldum - bị xử bắn năm 1925 tại nhà tù Grozny vì tội tuyên truyền chống chính
quyền Xô viết và âm mưu lật đổ.
Arachaev
Baki (Haji) - chết năm 1930 tại nhà tù Grozny trong quá trình điều tra.
Arachaev
Kosum bị xử bắn vì tội tuyên truyền chống chính quyền Xô viết và khủng bố tại
thành phố Rostov-trên sông Đông năm 1931.
Arachaev
Basnak - bị bắn chết lúc chạy trốn khi bị bắt vào năm 1930”.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét