Thứ Năm, 10 tháng 10, 2019

Người Con Trai - Phần 4

Người Con Trai

Tác giả: Jo Nesbo
Người dịch: Thiên Nga
Nhà XB Hà Nội & Nhà Sách Nhã Nam  - 2017

Phần Bốn

33

Dưới nắng Simon và Kari băng qua Radhusplassen hơi quá rộng, hơi quá trống trải, và hơi quá mùa hè yên tĩnh.
- Mô tả của Fidel Lae đã giúp ta tìm được chiếc xe thuê, - Kari nói. - Nó đã được trả lại, nhưng may là vẫn chưa chùi rửa. Pháp y tìm thấy vết bùn khớp với bùn trên đường dẫn tới trại chó. Vậy mà tôi đã nghĩ bùn chỉ là bùn.
- Mỗi loại bùn đều có tỉ lệ khoáng chất riêng của nó, - Simon nói. - Thuê bằng tên gì?
- Sylvester Trondsen.
- Hắn là ai?
- Một người đàn ông ba mươi ba tuổi sống bằng trợ cấp thất nghiệp. Không tìm được hắn tại địa chỉ đăng ký. Hắn bị hai bản án cho tội hành hung. Các cảnh sát của ta nói hắn cùng hội với Nestor.
- OK. - Simon dừng trước một lối vào giữa hai cửa hiệu nhỏ. Cánh cửa cao rộng báo hiệu sự kiên cố và vẻ nghiêm nghị. Ông bấm chuông một phòng tầng ba. - Còn gì nữa không?
- Một người trọ trong Trung tâm Ila khai với cảnh sát là trông như gã mới đến ở phòng 323 và phó giám đốc đang rất tâm đầu ý hợp.
- Martha Lian?
- Hôm nọ họ thấy hai người ngồi chung xe chạy khỏi trung tâm.
- Công ty Bất động sản Iversen, - một giọng nói vọng qua mấy lỗ nơi tấm đồng thau bên trên chuông cửa.
- Tôi muốn cô chờ ở tiếp tân trong khi tôi nói chuyện với Iversen, - Simon nói khi thang máy của họ đi lên.
- Tại sao?
- Vì tôi có thể phạm luật chút đỉnh nên tôi không muốn kéo cô vào.
- Nhưng mà...
- Tôi rất tiếc, nhưng thực ra thì đó là lệnh, cô biết vậy mà.
Kari nhướng mày, nhưng không nói gì.
- Iver, - cậu thanh niên tự giới thiệu khi đến gặp họ ở tiếp tân. Cậu ta bắt chặt tay Simon trước rồi đến Kari. - Các vị đến đây gặp cha tôi.
Có gì đó ở chàng thanh niên mách Simon rằng ngày trước cậu ta thường tươi cười và dễ tính, rằng cậu ta chưa từng trải qua cái đau và nỗi buồn Simon đọc thấy trong đôi mắt dưới mái tóc mềm. Ông đoán vì vậy mà chàng trai trông như mất hồn và bối rối.
- Lối này. - Hẳn cha cậu ta đã cho cậu ta biết họ là sĩ quan cảnh sát nên, cũng như người cha, cậu ta nghĩ họ đến vì cuộc điều tra vụ án mạng của mẹ. 
Văn phòng có cảnh nhìn ra Vestbanen và vịnh Oslo. Cạnh cửa là tủ kính trưng bày có mô hình chi tiết tòa nhà chọc trời hình thù như chai Coca-Cola.
Ông bố trông như một bản sao già hơn của cậu con trai. Cũng mái tóc mềm, làn da mịn, khỏe mạnh, cái nhìn tươi tắn nhưng nhẹ nhàng trong mắt. Cao, dáng đẹp, cằm săn chắc, một người nhìn thẳng vào mắt ta, thân thiện, nhưng có sự thách đố đùa cợt, trai trẻ. Có gì đó an tâm, vững chãi kiểu dân phía Tây Oslo ở típ người này, Simon nghĩ, như thể họ từ một khuôn đúc ra; du kích kháng chiến, dân thám hiểm cực địa, đội đi thuyền Kon-Tiki, ủy viên cảnh sát.
Iver cha mời Simon ngồi rồi ngồi xuống sau bàn làm việc bên dưới bức hình đen trắng cũ chụp một khối căn hộ nhất định là Oslo khoảng cuối thế kỷ mười chín đầu thế kỷ hai mươi, nhưng trong thoáng chốc Simon không xác định được vị trí của nó.
Simon chờ đến khi cậu con trai Iver rời văn phòng rồi vào đề ngay.
- Mười hai năm trước người ta phát hiện một cô gái chết trong sân sau tại Kvadraturen ở Oslo. Khi được tìm thấy cô ta trông thế này.
Simon để tấm hình lên bàn Iversen rồi cẩn thận theo dõi mặt nhà đầu tư bất động sản khi hắn ta nhìn thấy tấm hình. Không có phản ứng gì nhiều.
- Một thanh niên tên Sonny Lofthus đã nhận tội giết, - Simon nói.
- Tôi hiểu. - Vẫn không có phản ứng.
- Khi được tìm thấy thì cô gái đang có thai.
Giờ thì đã có phản ứng. Lỗ mũi phình ra, đồng tử dãn ra.
Simon chờ ít giây rồi mới tung đợt tấn công thứ hai.
- Chứng cứ ADN từ bàn chải lấy nhà ông chứng minh ai đó trong gia đình ông là cha của đứa trẻ chưa ra đời.
Động mạch nơi cổ hắn ta phình lên, mặt biến sắc, chớp mắt không kiềm chế được.
- Bàn chải màu đỏ là của ông, Iversen, đúng không?
- Làm sao... làm sao mà ông...?
Simon nhoẻn cười nhìn xuống hai bàn tay.
- Tôi còn một nhân viên thuộc cấp, cô ấy đang chờ ở tiếp tân. Đầu óc cô ta nhanh nhẹn hơn đầu óc tôi một chút. Cô ấy là người đầu tiên rút ra kết luận hợp lý, đơn giản là khi ADN trên hai trong ba bàn chải nhà Iversen cho thấy mối liên hệ với cái thai, thì người con trai trong nhà không thể là cha. Nếu vậy thì cả ba thành viên trong gia đình sẽ có quan hệ với bào thai. Nên nó chỉ có thể là người đàn ông kia. Ông.
Nước da khỏe mạnh của Iver Iversen nhợt nhạt rồi mất hẳn sức sống.
- Có lẽ rồi ông sẽ thấy chuyện như vậy xảy ra với mình khi ông già như tôi, - Simon nói để an ủi hắn. - Đầu óc họ nhanh hơn ta nhiều, mấy thanh niên này.
- Nhưng...
- ADN là vậy đấy. Nó không chừa nhiều chỗ cho những cái nhưng...
Iversen mở miệng ra, đồng thời, theo lệ hắn gượng cười nhếch mép. Trong một cuộc chuyện trò lúng túng thì hiển nhiên đây là lúc hắn thường đem đến cái gọi là pha trò cho đỡ căng thẳng, một câu xí xóa. Phải, chính là nó, cái gì đó để thấy đỡ nguy hiểm. Nhưng không có gì cả. Ở đó không có gì.
- Giờ thì gã già cả lạc hậu này... - trước mặt hắn Simon gõ ngón tay lên trán, - ... chậm hơn một chút, nhưng đi xa hơn một chút. Và điều đầu tiên hắn ta nghĩ là một người đàn ông có vợ như ông có động cơ rõ ràng hơn ai hết để khử một phụ nữ có thai và rất có thể sẽ gây phiền phức. Ông không đồng tình sao?
Iversen không đáp, nhưng cảm thấy yết hầu hắn đáp thay.
- Cảnh sát đã đưa hình cô này cho báo chí để hỏi xem có ai biết danh tính cô ta. Và khi người tình của cô ta và người cha của con cô ta vẫn câm như hến, thậm chí một tin báo nặc danh cho cảnh sát cũng không, điều đó khiến nó thêm đáng ngờ. Ông không đồng tình sao?
- Tôi đã không biết... - hắn mở lời, nhưng dừng. Đã thấy hối tiếc điều đó. Và rồi tiếc đã để lộ quá rõ là hắn tiếc chuyện đó.
- Ông không biết cô ta có thai sao? - sĩ quan cảnh sát hỏi.
- Không! - Iversen nói, khoanh tay trước ngực. - Ý tôi là, tôi không... tôi không biết gì về chuyện này. Giờ tôi muốn gọi cho luật sư riêng.
- Rõ ràng ông có biết gì đó. Nhưng thực ra thì tôi tin ông khi ông nói không biết hết mọi chuyện. Tôi nghĩ vợ ông, Agnete, là người biết mọi chuyện. Ông nghĩ sao?
Kefas. Chánh thanh tra, chẳng phải ông ta tự giới thiệu vậy sao? Iver Iversen với tay lấy điện thoại.
- Cái tôi nghĩ là ông không có bằng chứng và cuộc gặp này đã xong, ông Kefas.
- Ông đúng về điều trước, nhưng sai về chuyện sau. Cuộc gặp này chưa xong vì ông phải biết mình đang chặn những lối thoát nào nếu cầm điện thoại đó lên, Iversen. Cảnh sát không có chứng cứ nào buộc tội vợ ông, nhưng người bắn chết bà ta thì rõ ràng là có.
- Mà sao có thể vậy được?
- Vì anh ta là kẻ giơ đầu chịu báng và cha xưng tội cho bọn tội phạm trong thành phố này mười hai năm trời. Anh ta biết hết. - Kefas chồm người tới trước trong ghế và cứ mỗi chữ lại chọt ngón tay lên bàn một lần. - Anh ta biết rằng Kalle Farrisen giết hại cô gái và Agnete Iversen đã trả tiền cho hắn làm vậy. Anh ta biết điều này bởi anh ta vào tù vì vụ án mạng Kalle gây ra. Chuyện anh ta vẫn chưa đi tìm ông là lý do duy nhất tôi tin có thể ông vô tội. Cứ làm đi, cầm điện thoại lên và rồi chúng tôi sẽ làm theo luật. Tức là, bắt ông với tội vô danh đồng phạm, kể cho phương tiện truyền thông mọi thứ chúng tôi biết về ông với cô gái, giải thích với các đối tác làm ăn của ông là ông sẽ đi xa một thời gian, cho con trai ông biết rằng... chà, ông muốn chúng tôi nói với con trai ông thế nào đây?
Nói gì với con trai của hắn ta. Simon chờ. Để nó thấm vào. Điều đó quan trọng cho cái sắp xảy đến. Để nó bắt rễ. Để Iversen từ từ hiểu ra tầm vóc lớn lao của câu chuyện, những hậu quả. Cởi mở trước các chọn lựa khác mà mới hai phút trước thôi đã là không thể. Như chính Simon đã phải làm. Và chuyện ấy đã đẩy ông tới đây, tới chuyện này.
Simon thấy bàn tay Iversen buông rơi và nghe một giọng khản đặc, run run:
- Ông muốn gì?
Simon ngồi thẳng người lên.
- Giờ ông nói tôi nghe tất cả. Nếu tôi tin ông thì ắt không có gì nhiều xảy ra. Suy cho cùng, Agnete cũng bị trừng phạt rồi.
- Bị trừng phạt?! - Mắt người đàn ông góa rực lên, nhưng ngọn lửa tắt rụi khi gặp cái nhìn lạnh băng của Simon.
- Thôi được. Agnete với tôi, chúng tôi... không có nhiều từ cuộc hôn nhân. Không theo kiểu ấy. Một cộng sự có vài cô gái. Châu Á. Tôi đã gặp Mai như vậy. Cô ấy... có cái gì đó, cái gì đó tôi cần. Không phải tuổi thanh xuân hay sự ngây thơ và những thứ như vậy, mà một... sự đơn độc trong đó tôi nhận ra chính mình.
- Cô ta là người bị giam giữ, Iversen. Cô ta bị bắt cóc đem đi khỏi nhà và gia đình.
Nhà đầu tư bất động sản nhún vai.
- Tôi biết, nhưng tôi đã trả cho cô ấy được tự do. Tôi cho cô ấy một căn hộ để chúng tôi gặp nhau. Chỉ có cô ấy và tôi. Rồi một ngày cô ấy bảo tôi cô ấy tắt kinh đã nhiều tháng. Rằng có lẽ cô có thai. Tôi nói cô ấy phải bỏ nó đi, nhưng cô ấy không chịu. Tôi không biết phải làm sao. Nên tôi hỏi ý Agnete...
- Ông hỏi vợ ông sao?
Iversen đưa bàn tay lên xua đi.
- Phải, tất nhiên. Agnete là người lớn. Cô ấy không phiền gì khi người khác lãnh lấy phận sự mà chính cô ấy không thích làm. Nói thật thì tôi nghĩ cô ấy thích đàn bà hơn đàn ông.
- Nhưng bà ta đã cho ông một đứa con trai?
- Trong gia đình cô ấy họ xem trọng phận sự và cô ấy là người mẹ tốt.
- Một gia đình cũng đồng thời là chủ bất động sản tư lớn nhất Oslo, có hình ảnh hoàn hảo và một tên tuổi không tì vết mà lại có một đứa con hoang châu Á thì đơn giản là không tưởng tượng được.
- Đúng, Agnete là người cổ hủ. Và tôi đi hỏi cô ấy vì suy cho cùng thì cô ấy là người nắm quyền.
- Vì công ty này được gây dựng trên tiền của bà ta, - Simon nói. - Cho nên Agnete quyết định tống khứ rắc rối. Mọi rắc rối.
- Làm sao tôi biết chuyện đó được, - Iversen nói.
- Không phải, vì ông không hỏi. Ông để bà ta liên lạc với những kẻ có thể lo việc giùm ông. Và rồi đến lượt chúng phải mua cho mình tên giơ đầu chịu báng khi nhân chứng báo cảnh sát là thấy có người chích cho cô gái trong sân sau. Phải xóa dấu vết và ông trả.
Iversen lại nhún vai.
- Tôi chẳng giết ai cả, tôi chỉ giữ đúng thỏa thuận phía tôi mà cho ông biết chuyện đã xảy ra. Vấn đề là, về phần mình ông có tuân thủ không?
- Vấn đề là, - Simon nói, - sao một phụ nữ như vợ ông lại tìm được thứ hạ lưu như Kalle Farrisen.
- Tôi chưa từng nghe đến tên Kalle Farrisen.
- Đúng vậy, - Simon nói, xếp hai tay trước mặt. - Nhưng ông biết Sinh Đôi là ai.
Một khoảnh khắc im phăng phắc trùm xuống căn phòng. Như thể ngay cả xe cộ bên ngoài cũng nín thở.
- Xin lỗi tôi chưa nghe rõ? - Cuối cùng Iversen nói.
- Tôi làm cho Phòng Điều tra Gian lận Nghiêm trọng nhiều năm, - Simon nói. - Công ty bất động sản Iversen làm ăn với Sinh Đôi. Các ông đã giúp hắn rửa tiền từ các hoạt động ma túy và buôn người, đổi lại hắn cung cấp cho các ông những khoản lỗ ma, để các ông có thể cắt giảm thuế, một con số lên đến hàng trăm triệu krone.
Iver Iversen lắc đầu.
- Tôi sợ rằng tôi không biết về Sinh Đôi nào cả.
- Ngoài chuyện đúng là ông đang sợ ra thì đó là nói dối, - Simon nói. - Tôi có bằng chứng hai người hợp tác với nhau.
- Ông biết sao? - Iversen nói và chụm mấy đầu ngón tay với nhau. - Vậy sao Phòng Điều tra Gian lận Nghiêm trọng chưa bao giờ khởi tố tôi?
- Vì khi tôi làm cho Phòng Điều tra người ta đã giật gấu áo tôi, - Simon nói. - Nhưng tôi biết Sinh Đôi dùng tiền ma túy mua bất động sản thương mại của ông rồi sau đó bán lại cho ông với giá cao hơn nhiều. Hay ít ra đó cũng là điều giấy tờ nói. Hắn làm ra vẻ đã tạo được một khoản lợi nhuận cho phép hắn gửi tiền ma túy vào ngân hàng mà không bị quan chức thuế tra hỏi làm sao hắn có được. Và nó đem lại cho ông một khoản lỗ dễ thấy để ông bù trừ vào các khoản lợi nhuận trong tương lai và do vậy tránh được việc đóng góp cho xã hội. Một tình huống đôi bên cùng có lợi.
- Một giả thuyết thú vị đấy, - Iversen nói, nhún vai. - Tôi đã nói ông tất cả những gì tôi biết. Còn gì nữa không?
- Còn. Tôi muốn gặp Sinh Đôi.
Iversen thở sượt.
- Tôi vừa bảo tôi không biết Sinh Đôi nào cả.
Simon như khẽ gật một mình.
- Ông biết gì không? Ở Phòng Điều tra chúng tôi nghe điều đó thường xuyên đến mức mọi người đâm nghi chẳng biết Sinh Đôi có tồn tại không nữa, họ nghĩ hắn chỉ là truyền thuyết.
- Tôi thấy có vẻ như hắn ta đúng là vậy đó, Kefas.
Simon đứng lên.
- Với tôi thì chuyện đó được thôi. Nhưng truyền thuyết không kiểm soát thị trường ma túy và buôn người trong cả thành phố, năm này sang năm khác, Iversen. Truyền thuyết không thủ tiêu phụ nữ đang mang thai theo yêu cầu của đối tác làm ăn. - Ông cúi người tới, tì cả hai lòng bàn tay lên bàn và thở phì để Iversen nếm được hơi thở ông già của mình. - Đàn ông không khiếp sợ đến mức sẵn sàng nhảy khỏi vách đá vì truyền thuyết. Tôi biết hắn tồn tại.
Simon đẩy người đứng lên rồi vừa tiến ra cửa vừa vẫy điện thoại.
- Tôi sẽ gọi họp báo ngay khi vào thang máy, nên có lẽ giờ là lúc thích hợp cho cuộc chuyện trò giữa cha và con đó.
- Chờ đã!
Simon dừng trước cửa mà không quay lại.
- Tôi sẽ... tôi sẽ xem xem tôi làm được gì.
Simon lấy danh thiếp ra để trên tủ kính trưng bày tòa nhà chọc trời hình chai Coca-Cola.
- Ông và hắn có từ giờ đến sáu giờ.
* * *
- Bên trong Staten? - Simon lặp lại khi họ đi xuống thang máy.
- Lofthus tấn công Franck ngay tại văn phòng ông ta?
Kari gật.
- Đó là tất cả những gì tôi biết lúc này. Iversen nói sao?
Simon nhún vai.
- Không có gì. Cũng chẳng có gì lạ, hắn cứ một hai phải nói chuyện với luật sư trước. Mai ta sẽ phải nói chuyện với hắn.
Arild Franck ngồi bên mép giường chờ được đưa vào phòng phẫu thuật. Hắn mặc áo xanh nhạt của bệnh viện và có vòng tên quanh cổ tay. Trong một tiếng đầu hắn không cảm thấy đau, nhưng giờ đã bắt đầu đau và chút thuốc tê y tá tiêm cho hắn chẳng được tích sự gì. Người ta đã hứa chích cho tử tế, nói nó sẽ làm tê cả cánh tay phải ngay trước khi phẫu thuật. Một bác sĩ chuyên về phẫu thuật bàn tay đã ghé lại nói cặn kẽ cho hắn nghe là thời nay tiểu phẫu làm được những gì, rằng ngón tay bị đứt rời đã tới bệnh viện, rằng vết cắt ngọt xới, và một khi ngón tay được nối liền lại với đúng chủ, dây thần kinh chắc chắn sẽ liền lại nên trong vài tháng nữa hắn sẽ dùng được ngón tay cho cả chuyện này lần chuyện kia. Có lẽ anh ta cố pha trò vì hảo ý, nhưng Franck không có tâm trạng đâu để đùa. Nên hắn đã ngắt lời bác sĩ phẫu thuật và hỏi anh ta cần bao lâu để nối lại ngón tay và khi nào thì hắn quay lại làm việc được. Thế rồi khi bác sĩ phẫu thuật nói rằng cuộc phẫu thuật sẽ mất vài giờ, anh ta kinh ngạc thấy Franck nhìn đồng hồ rồi khẽ lầm bầm chửi thề.
Cửa mở và Franck ngẩng đầu lên. Hắn hy vọng đó là bác sĩ gây tê vì giờ không chỉ ngón tay hắn đang rần rật dữ dội mà cả đầu hàm và toàn thân cũng vậy.
Nhưng đó không phải ai mặc đồ trắng hay xanh lá, mà là người đàn ông cao, mảnh khảnh mặc com lê xám.
- Pontius? - Franck nói.
- Chào Arild. Tôi chỉ muốn xem anh thế nào rồi.
Franck nheo mắt. Như thể làm vậy hắn dễ nhận ra hơn lý do thực Ủy viên đến thăm. Parr ngồi xuống giường cạnh hắn. Hất đầu về bàn tay băng bó.
- Có đau không?
- Sẽ ổn thôi mà. Bảo tôi là ông đang tìm hắn đi?
Ủy viên nhún vai.
- Lofthus đã biệt tăm. Nhưng chúng tôi sẽ tìm ra hắn. Anh có biết gì về cái hắn muốn không?
- Muốn ư? - Franck khịt mũi. - Ai mà biết hắn muốn gì? Rõ ràng hắn đang lao mình vào một kiểu thánh chiến loạn trí nào đó.
- Đồng ý, - Parr nói. - Cho nên vấn đề thật sự là hắn sẽ ra đòn kế tiếp bao giờ và ở đâu. Hắn có để lộ cho anh thấy dấu hiệu nào không?
- Dấu hiệu ư? - Franck rên và hơi co cùi chỏ. - Ví dụ như cái gì?
- Ắt là hai người đã nói về chuyện gì đó.
- Hắn nói. Tôi bị bịt miệng. Hắn muốn biết gián điệp nhị trùng là ai.
- Phải, tôi thấy rồi.
- Ông thấy rồi?
- Nơi giấy tờ trong văn phòng anh. Hay ít ra là những thứ chưa bị loang đầy máu.
- Ông đến văn phòng tôi sao?
- Đây là vụ được ưu tiên hàng đầu, Arild. Kẻ này là tên giết người hàng loạt. Báo chí săn chúng tôi là đã đủ tệ rồi, nhưng giờ đám chính khách cũng bắt đầu can thiệp. Từ lúc này tôi sẽ trực tiếp nhúng tay.
Franck nhún vai.
- OK.
- Tôi có một câu hỏi...
- Tôi sắp vào phòng mổ và đang đau thấu xương, Pontius. Không chờ được sao?
- Không. Sonny Lofthus đã bị thẩm vấn về vụ án mạng Kjersti Morsand, nhưng không nhận có dính líu gì. Có ai cho Lofthus biết rằng chồng bà ta là nghi phạm số một trước khi chúng tôi tìm thấy tóc của Lofthus tại hiện trường không? Hay rằng chúng tôi đã có chứng cứ cho thấy có thể Yngve Morsand giết bà ta?
- Làm sao tôi biết được? Ý ông là sao?
- Ồ, tôi chỉ thắc mắc. - Parr để tay lên vai Franck và hắn cảm thấy cái đau phóng thẳng xuống bàn tay. - Anh cứ chú tâm vào cuộc phẫu thuật đi.
- Cảm ơn, nhưng thực sự thì không có gì nhiều mà nghĩ đến cả.
- Phải, - Parr nói, tháo cặp kính hình chữ nhật ra. - Tôi cho là vậy. Ông ta bắt đầu lau kính vẻ lơ đãng. - Tất cả những gì anh làm là nằm đó trong khi người khác sẽ làm hết mọi chuyện.
- Vâng, - Franck nói.
- Khi có người chữa cho. Giúp anh lành lặn trở lại.
Franck nuốt ực.
- Vậy, - Parr nói, đeo kính vào lại. - Anh có cho hắn biết gián điệp nhị trùng là ai không?
- Ý ông là, tôi có bảo hắn đó là cha hắn không ư? Ab Lofthus, ông ta đã tự thú. Tôi mà ghi vậy xuống mảnh giấy, thằng nhỏ đó đã cứa cổ tôi rồi.
- Anh đã cho hắn biết những gì, Arild?
- Không gì cả? Tôi nói gì với hắn được đây?
- Chính xác đó là điều tôi băn khoăn. Tôi đang thắc mắc điều gì khiến thanh niên này chắc chắn là anh có cái thông tin mà hắn sẵn sàng đột nhập nhà tù để có như vậy.
- Nó phát cuồng rồi, Pontius. Trước sau gì rồi tên nghiện ma túy nào cũng thành tâm thần cả, ông biết điều đó mà. Gián điệp nhị trùng sao? Lạy Chúa, câu chuyện đó biến mất cùng với Ab Lofthus rồi mà.
- Vậy anh đã nói gì với hắn?
- Ý ông là sao?
- Hắn chỉ chặt của anh một ngón tay. Mấy người kia đều bị giết cả. Anh được tha, hẳn là anh đã cho hắn cái gì đó. Đừng quên là tôi hiểu anh, Arild.
Cửa mở và hai hộ lý mặc đồ xanh lá tươi cười đi vào.
- Sẵn sàng đi chưa? - Một người mỉm cười.
Parr chỉnh lại kính.
- Anh không có gan đâu, Arild.               
* * *
Simon bước xuôi đường, cúi đầu trước không khí biển đang từ vịnh tràn vào, đi qua Aker Brygge và Munkedamsveien trước khi co lại vì các tòa nhà rồi dồn tụ lại ở Ruselokkveien. Ông dừng bên ngoài nhà thờ đã bị kẹp giữa hai khối căn hộ. Nhà thờ Thánh Paul khiêm nhường hơn những nhà thờ cùng tên ở các thủ đô khác. Một nhà thờ Thiên Chúa giáo ở một xứ Tin Lành. Nó nhìn về ngược hướng, hướng Tây, và cái tháp chuông nhà thờ ở đằng trước thì chỉ một tí gọi là. Chỉ có bậc tam cấp lên cửa. Nhưng nó luôn mở. Ông biết điều đó vì ông từng đến đây, một chiều muộn giữa cơn khủng hoảng, và đã ngập ngừng trước khi bước lên ba bậc ấy. Chuyện đó là ngay sau khi ông mất sạch, mọi thứ, trước khi tìm thấy sự cứu rỗi ở Else.
Simon lên tam cấp, nhấn tay nắm bằng đồng xuống, mở cánh cửa nặng trịch bước vào. Ông muốn đóng nhanh cửa sau lưng, nhưng lò xo rít kéo trì lại. Ngày ấy nó cũng rít vậy ư? Ông không nhớ, ông đã say khướt. Ông thả cho cánh cửa khép lại đằng sau, nhích từng tí một. Nhưng ông nhớ cái mùi. Xa lạ. Kỳ quái. Một bầu không khí tâm linh. Ma thuật và huyền bí, thầy bói và rạp xiếc lưu động. Else ưa thích Thiên Chúa giáo, không phải đạo lý mà đúng hơn là thẩm mỹ học, và đã giải thích cho ông nghe là mọi thứ trong công việc xây cất nhà thờ, thậm chí cả những yếu tố cơ bản nhất như gạch, vữa và cửa sổ kính màu, đều được ban cho tính biểu tượng tôn giáo, đến gần như hài hước. Vậy nhưng cái chủ nghĩa biểu tượng đơn giản này chứa đựng một vẻ trang trọng, một ẩn nghĩa, một bối cảnh lịch sử và đức tin của hàng bao người biết suy nghĩ đến không thể nào bác bỏ. Gian phòng hẹp, sơn trắng bài trí sơ sài với từng dãy bục ngồi dẫn đến một cái bàn thờ đứng đơn độc có tượng Chúa Jesus treo trên thánh giá. Một biểu tượng chiến thắng trong thất bại. Sát tường bên trái, nửa đường tới bàn thờ, là buồng xưng tội. Nó có hai ngăn, một buông tấm màn đen trước lối vào, như buồng chụp hình. Đêm đó khi đến đây, ông không biết ngăn nhỏ nào là dành cho kẻ tội lỗi đi xưng tội rồi cái đầu óc mịt mù vì rượu mới suy ra rằng nếu cha nhà thờ không được nhìn thấy kẻ tội lỗi, hẳn cha phải ở bên buồng chụp hình. Vậy là ông ngả nghiêng đi vào ngăn không che màn rồi bắt đầu nói với tấm gỗ có đục lỗ ngăn cách hai buồng. Xưng tội. Giọng to không cần thiết. Vừa mong lại vừa sợ bên kia có người, hay một ai đó, ai cũng vậy, sẽ nghe thấy ông rồi làm điều cần làm. Tha thứ cho ông. Hay kết tội ông. Bất cứ gì ngoài khoảng chân không ngột ngạt mà ông ngồi lại với chính mình cùng những lỗi lầm. Không gì xảy ra cả. Thế rồi sáng ra ông tỉnh dậy mà không bị đau đầu như thường lệ - điều này đúng là lạ - và nhận ra rằng cuộc sống sẽ tiếp diễn như thể chẳng có gì xảy ra, rằng rốt cuộc thì có ai quan tâm đâu. Đó là lần cuối ông bước chân vào nhà thờ.
Martha Lian đứng gần bàn thờ với một người đàn bà đang khua tay múa chân sống sượng, mặc bộ com lê trang nhã và để kiểu tóc ngắn mà một số phụ nữ đứng tuổi tưởng sẽ khiến họ trông trẻ trung hơn. Bà ta đang chỉ trỏ giải thích và Simon nghe được mấy chữ như “hoa”, “lễ”, “Anders” và “khách”. Ông gần tới chỗ họ thì Martha Lian xoay lại mặt đối mặt với ông. Điều đầu tiên khiến ông chú ý là trông cô khác với lần gặp vừa rồi biết bao. Sao mà trống rỗng. Lẻ loi. Và sao mà khốn khổ.
- Chào, - cô nói giọng ủ ê.
Người đàn bà kia ngừng nói.
- Tôi xin lỗi đã tự tiện vào, - Simon nói. - Ở Trung tâm Ila họ nói là sẽ gặp được cô ở đây. Tôi hy vọng không làm gián đoạn chuyện gì quan trọng.
- Ồ không, chỉ...
- Đúng vậy, thực ra thì lúc này chúng tôi đang trù liệu đám cưới của con trai tôi với Martha. Nên nếu chuyện đó chờ được ông...?
- Kefas, - Simon nói. - Và, không, chuyện đó không chờ được. Tôi là sĩ quan cảnh sát.
Người đàn bà nhướng mày nhìn Martha.
- Đó chính là điều mẹ ngụ ý khi nói là con đang sống trong một thế giới quá thực đấy, con yêu.
- Mà bà sẽ được miễn tham gia, bà...?
- Tôi xin lỗi chưa nghe rõ?
- Cô Lian và tôi sẽ bàn riêng chuyện này. Chuyện này cần được bảo mật.
Người đàn bà lộp cộp bỏ đi trên đôi giày cao gót cứng, rồi Simon với Martha ngồi xuống bục ghế ở trước.
- Mọi người thấy cô chạy xe đi cùng Sonny Lofthus, - Simon nói. - Sao cô không nói tôi biết?
- Anh ta muốn học lái, - Martha nói. - Tôi chở anh ta đến bãi xe để tập.
- Lúc này cậu ta đang bị truy nã trên toàn Na Uy.
- Tôi có thấy trên TV.
- Cậu ta có nói gì hay cô có thấy cậu ta làm gì cho thấy lúc này cậu ta đang ở đâu không? Tôi muốn cô nghĩ thật thấu đáo điều này rồi trả lời.
Martha trông như đã thực tình suy nghĩ thật thấu đáo rồi mới lắc đầu.
- Không ư? Bất cứ gì về dự tính của cậu ta cho tương lai?
- Anh ta muốn học lái xe.
Simon thở dài rồi vuốt tóc.
- Cô hiểu rằng mình có cớ bị buộc tội đồng lõa nếu giúp cậu ta hay che giấu thông tin với chúng tôi?
- Sao tôi phải làm vậy?
Simon nhìn cô không nói gì. Cô sắp lấy chồng. Sao trông cô lại không vui như vậy?
- OK, OK, - ông nói và đứng lên.
Cô vẫn ngồi yên nhìn xuống lòng.
- Có điều, - cô nói.
- Vâng?
- Ông có nghĩ anh ta là một sát thủ điên cuồng như người ta nói không?
Simon đổi tư thế.
- Không, - ông nói.
- Không sao?
- Cậu ta không điên cuồng. Cậu ta chỉ đang trừng phạt người ta. Như kiểu đang có một mối thù truyền kiếp.
- Anh ta đang cố rửa hận cho cái gì vậy?
- Tôi nghĩ đó là vì cha cậu ta, từng là sĩ quan cảnh sát, khi ông ấy chết, thiên hạ đồn ông ấy tha hóa.
- Ông nói anh ta trừng phạt người ta... - Cô hạ giọng. - Anh ta trừng phạt có công bằng không?
Simon nhún vai.
- Tôi không biết. Nhưng cậu ta có cân nhắc.
- Cân nhắc?
- Cậu ta đã giáp mặt tên phó giám thị tại văn phòng ông ta. Chuyện đó thật táo tợn và nếu tìm đến Franck tại nhà thì sẽ dễ dàng và đỡ rủi ro cho cậu ta hơn nhiều.
- Nhưng?
- Nhưng điều đó có thể sẽ đưa vợ con Franck vào làn đạn.
- Những người ngoài cuộc vô tội. Anh ta không muốn người vô tội bị hại.
Simon thong thả gật. Ông thấy gì đó trong mắt cô. Một ánh lung linh. Một niềm hy vọng. Phải chăng chỉ là vậy thôi? Có phải cô đang yêu? Simon đứng thẳng lưng lên. Nhìn lên bức trang trí sau bàn thờ vẽ Chúa Cứu thế trên thánh giá. Nhắm mắt. Lại mở ra. Chết tiệt. Chết tiệt thật.
- Cô có biết cha cậu ta, Ab, thường nói sao không? - ông nói, xốc quần dài. - Ông ấy nói rằng thời khoan dung đã qua và ngày phán quyết đã tới. Nhưng vì Messiah tới trễ, ta phải làm giùm việc của ông. Một mình cậu ta có thể trừng phạt bọn chúng, Martha. Cảnh sát Oslo tha hóa, họ bảo vệ bọn lừa đảo. Tôi nghĩ Sonny làm chuyện này vì cậu ta cảm thấy mình phải làm vì cha, vì cha cậu ta chết cho điều này. Công lý. Kiểu công lý đứng trên luật pháp.
Ông nhìn người đàn bà lớn tuổi đứng bên buồng xưng tội thấp giọng bàn chuyện gì đó với một tu sĩ.
- Còn ông thì sao? - Martha nói.
- Tôi? Tôi là luật. Nên tôi phải bắt Sonny. Phải vậy thôi.
- Vậy người đàn bà đó, Agnete Iversen, bà ta phạm tội gì?
- Tôi không thể cho cô biết gì về bà ta.
- Tôi đọc thấy là nữ trang của bà ta bị lấy cắp.
- Thế sao?
- Trong đó có gồm một đôi hoa tai không?
- Tôi không biết. Chuyện đó có quan trọng không?
Cô lắc đầu.
- Không, - cô nói. - Không đâu. Tôi đang cố nghĩ xem có gì giúp được ông.
- Cảm ơn cô, - Simon nói rồi cài nút áo khoác. Giày cao gót cứng đang đi lại. - Tôi thấy là cô còn một điều khác trong đầu.
Martha liếc nhìn nhanh lên ông.
- Tôi sẽ nói chuyện với cô sau, Martha.
Khi Simon rời nhà thờ, điện thoại ông reo. Ông nhìn màn hình. Mã vùng cho ông biết cuộc gọi là từ Drammen.
- Kefas.
- Henrik Westad đây.
Sĩ quan cảnh sát đang điều tra vụ án mạng vợ chủ tàu.
- Tôi đang ở khoa Tim Bệnh viện Trung tâm Buskerud.
Simon có thể đoán được cái tiếp theo.
- Leif Krognaess, nhân chứng bị bệnh tim. Họ tưởng ông ta đã qua cơn hiểm nghèo, nhưng...
- Ông ấy đột tử, - Simon nói, thở dài và đưa ngón cái và ngón trỏ vắt sống mũi. - Ông ta chỉ có một mình trong phòng bệnh khi chuyện đó xảy ra. Khám nghiệm pháp y sẽ không tìm thấy gì bất thường. Và anh gọi tôi vì anh không muốn là người duy nhất tối nay không ngủ được.
Westad không đáp.
Simon bỏ điện thoại vào túi. Trời trở gió và ông nhìn lên bầu trời trên những mái nhà. Ông vẫn chưa thể thấy nó, nhưng ông biết nhờ cơn nhức đầu. Một cơn áp thấp đang tiến về phía ông.
* * *
Chiếc mô tô trước mặt Rover sắp hồi sinh. Đó là chiếc Harley-Davidson Heritage Softail, đời 1989, có bánh trước thật to, xe cục cưng của Rover. Khi gã mua, nó là một mớ hư hỏng xập xệ 1340 cc mà chủ nhân đã đối xử không thương yêu, kiên nhẫn và hiểu biết như cách mà một HD - tương phản với lũ anh em họ Nhật dễ bảo hơn - đòi hỏi. Rover đã thay, ổ trục có đầu lớn, vòng piston và mài rà lại các van, nên cái xe ban đầu đã trở thành một chiếc 1700 cc có 119 mã lực phanh cho bánh sau từng chỉ có 43. Rover đang lau dầu trên cẳng tay có hình xăm nhà thờ thì gã nhận thấy ánh sáng thay đổi. Ý nghĩ đầu tiên của gã là trời đang có mây mù như dự báo thời tiết đã báo trước. Nhưng khi nhìn lên, gã nhận thấy một cái bóng và dáng người bên khung cửa vào xưởng.
- Có gì không? - Rover gọi ra và tiếp tục chùi đầu trên cánh tay.
Người nọ bèn cất bước tới chỗ gã. Im lìm. Như con thú săn mồi. Rover biết rằng vũ khí gần nhất thì quá xa không với kịp. Mà phải vậy thôi. Gã đã đoạn tuyệt với lối sống đó. Thật nhảm nhí khi thiên hạ nói khi ra tù ta khó mà không quay lại lối sống xấu xa ngày trước; vấn đề chỉ là sức mạnh ý chí. Đơn giản vậy thôi. Nếu ta muốn thì sẽ làm được. Nhưng nếu ý định của ta chỉ là ảo ảnh, hoài mong, chỉ là cái gì ăn diện cho đẹp, đến hôm sau ta sẽ lại rơi xuống bùn.
Người này giờ đã gần đến mức Rover nhận ra được nét mặt. Nhưng chắc hẳn đó là...
- Chào, Rover.
Là cậu ta.
Cậu ta giơ lên tấm danh thiếp vàng ghi “Xưởng sửa chữa mô tô Rover”.
- Đúng địa chỉ rồi. Anh đã nói anh có thể kiếm cho tôi một khẩu Uzi.
Giờ Rover vừa chùi bàn tay vừa nhìn cậu ta. Gã có đọc báo. Thấy hình trên TV. Nhưng cái gã đang nhìn giờ đây không phải là cậu thanh niên trong xà lim ở Staten, đây là tương lai của chính gã. Tương lai như gã hình dung.
- Cậu xóa sổ thằng Nestor rồi, - Rover nói, kéo kéo miếng giẻ giữa mấy ngón tay.
Cậu thanh niên không đáp.
Rover lắc đầu.
- Điều đó nghĩa là không chỉ cảnh sát đang săn lùng cậu mà cả Sinh Đôi nữa.
- Tôi biết tôi đem lại phiền phức, - cậu thanh niên nói. - Tôi sẽ đi ngay nếu anh muốn.
Tha thứ. Hy vọng. Một sự đoạn tuyệt trong sạch. Cơ hội thứ hai. Hầu hết thiên hạ đều làm hỏng mất nó, cả đời họ cứ tiếp tục phạm phải những sai lầm ngu ngốc ấy, họ luôn tìm được cớ để làm hỏng bét mọi chuyện. Tự bản thân họ không biết điều đó, hoặc vờ như không biết, nhưng họ đã lạc lối khi còn chưa xuất phát. Vì họ không thực lòng muốn thành công. Nhưng Rover thì muốn. Không phải điều đó sẽ làm gã nhụt chí. Giờ gã đã mạnh mẽ hơn. Khôn ngoan hơn. Nhưng thiên hạ nói rồi: nếu ta định đi mà ngẩng cao đầu thì thể nào cũng có ngày té dập mặt.
- Sao ta không đóng cửa nhà xe lại nhỉ? - Rover nói. - Trông như muốn mưa.

34

Mưa quất vào kính chắn gió khi Simon rút chìa khóa và chuẩn bị chạy ào từ bãi xe đến tòa nhà bệnh viện. Ông phát hiện một dáng người tóc vàng mặc áo choàng đứng ngay trước xe. Trời mưa lớn đến mức những giọt mưa trên nắp ca pô bắn tung tóe và bóng dáng người đàn ông nhòa đi. Cửa bên tài xế mở ra rồi một người nữa, tóc đen bảo ông đi với họ. Simon xem giờ trên bảng đồng hồ: bốn giờ chiều. Là trước hạn chót hai tiếng.
Hai người này chở ông tới Aker Brygge, một khu vực nhìn ra hướng biển có các cửa hiệu, văn phòng, một số căn hộ đắt tiền bậc nhất thành phố và khoảng năm chục quán cà phê và bar. Họ bước dọc lối đi dạo bên biển và thấy phà từ bến tàu Nesoddtangen khi họ rẽ vào một con hẻm; họ tiếp tục bước cho đến khi tới một cầu thang sắt hẹp dẫn xuống cánh cửa có ô cửa kính tròn như trên tàu thủy. Cạnh cửa là tấm biển nhỏ ghi “Nhà hàng Nautilus” bằng nét chữ kín đáo khác thường. Một trong hai người giữ cửa mở và thế là họ bước vào một hành lang hẹp, giũ mưa trên áo choàng rồi cất trong phòng để áo không có người trực. Chẳng thấy bóng ai ở đó và ý nghĩ đầu tiên thoáng qua óc Simon rằng đây là địa điểm hoàn hảo để rửa tiền. Không lớn quá, nhưng với khoản tiền thuê nhà và vị trí đẹp khả năng sinh lợi là có, nhưng lợi nhuận sẽ không bao giờ bị hỏi thăm, vì đã trả tiền thuế thì còn ai hỏi thăm làm gì.
Simon bị ướt. Khi ông ngọ ngoạy mấy ngón chân trong giày, chúng tạo thành tiếng kin kít nhỏ. Nhưng đó không phải là lý do ông lạnh.
Phòng ăn ngăn đôi bằng một hồ cá lớn hình chữ nhật cũng là nguồn sáng duy nhất. Ngồi ở bàn phía trước nó và xoay lưng về hồ cá là một dáng người khổng lồ.
Hắn ta là lý do Simon thấy lạnh.
Ông chưa từng gặp hắn bằng xương bằng thịt, nhưng ông không nghi ngờ một giây nào đó là ai.
Sinh Đôi.
Gã đàn ông như choán hết cả phòng. Simon không biết liệu đây chỉ là do vóc dáng và sự hiện diện như đập vào mắt hay là những gì tất yếu đi kèm với quyền lực và của cải, với khả năng làm chủ quá nhiều số phận như vậy của kẻ này. Hay liệu mọi truyền thuyết bao quanh nhân vật này làm hắn ta đồ sộ hơn: một hành lý những cái chết, sự tàn bạo vô nghĩa và hủy diệt.
Gã này thoáng ra dấu về cái ghế đã kéo ra trước mặt hắn.
Simon ngồi xuống.
- Simon Kefas, - hắn nói, ngón tay xoa cằm.
Đàn ông to béo thường có giọng cao đến lạ lùng.
Sinh Đôi thì không.
Giọng trầm vang rền làm ly nước trước mặt Simon gợn lăn tăn.
- Tôi biết ông muốn gì, Kefas. - Các cơ dưới bộ com lê căng phồng trông như chực bục ra ở chỗ mấy đường may.
- Vậy đó là gì?
- Tiền phẫu thuật mắt cho Else.
Simon nuốt ực khi nghe tên người ông yêu dấu nơi miệng gã đàn ông này.
- Vấn đề là, ông có gì để bán, phải vậy không?
Simon rút điện thoại ra, mở hòm thư, để điện thoại lên bàn rồi bấm nút chạy.
Giọng trong tập tin âm thanh ông nhận được nghe rè rè: “...tên và số tài khoản Nestor gửi tiền vào trả cho ông? Nếu tôi là ông thì tôi sẽ suy nghĩ trước khi nói”. Một khoảng dừng, rồi một giọng khác: “Tài khoản mang tên công ty. Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Dennis, đăng ký tại quần đảo Cayman”. “Còn số tài khoản?”. Lại dừng. “Tám, ba, không”. “Chậm lại. Và nói rõ ràng hơn”. “Tám. Ba. Không. Tám...”
Simon bấm dừng.
- Tôi cho là ông biết ai đang trả lời mấy câu hỏi.
Gã đàn ông khổng lồ trả lời bằng một thoáng cử chỉ có thể nghĩa là bất cứ gì.
- Có phải đó là thứ ông bán?
- Tập tin ghi âm này gắn cho tôi từ một địa chỉ Hotmail mà tôi chưa thể hay cố tâm dò ra. Vì hiện chỉ mình tôi biết về tập tin này. Chứng cứ cho thấy giám...
- Phó giám thị nhà tù.
- ... Staten thú nhận có tài khoản đen nhận tiền Hugo Nestor gắn vào. Tôi đã kiểm tra số tài khoản thì thông tin đó chính xác.
- Mà cái này có giá trị thế nào với tôi?
- Cái có giá trị với ông là tôi không đem cái này đến cho đồng nghiệp còn ông mất đi một đồng minh quan trọng. - Simon hắng giọng. - Một đồng minh quan trọng nữa.
Gã đàn ông khổng lồ nhún vai.
- Mấy phó giám thị nhà tù thì thay thế được. Và, dù có thế nào, trông như Franck cũng đã hết chỗ dùng rồi. Ông còn gì nữa không, Kefas?
Simon trề môi.
- Tôi có bằng chứng ông rửa tiền qua kinh doanh bất động sản với Iversen. Và chứng cứ ADN gắn liền Iver Iversen với một thiếu nữ Việt Nam mà ông đã lén đưa vào nước, giết rồi bắt Sonny Lofthus lãnh đạn thay.
Người đàn ông khổng lồ đưa hai ngón tay vuốt vuốt cổ họng.
- Tôi đang nghe đây. Cứ nói tiếp đi.
- Nếu tôi có được tiền cho cuộc phẫu thuật mắt, tôi có thể bảo đảm là sẽ không vụ nào trong hai vụ này bị điều tra.
- Ta đang nói về bao nhiêu tiền đây?
- Hai triệu krone.
- Ông có thể trực tiếp tống tiền Iversen để có khoản tiền đó. Vậy sao ông lại đến đây?
- Vì tôi muốn nhiều hơn là tiền.
- Vậy nó là gì?
- Tôi muốn ông ngừng săn đuổi cậu thanh niên.
- Con trai của Lofthus? Sao tôi phải làm vậy?
- Vì Ab Lofthus là một người bạn.
Gã đàn ông khổng lồ nhìn Simon một lát. Rồi hắn ngả người ra ghế và gõ gõ ngón tay lên hồ cá.
- Nó trông như một hồ cá bình thường, phải vậy không? Nhưng ông có biết con cá xám trông như cá trích cơm giá bao nhiêu không, Kefas? Không, ông không biết đâu, vì tôi không muốn Phòng Điều tra Gian lận Nghiêm trọng biết rằng một số nhà sưu tầm sẵn lòng bỏ ra hàng triệu krone để có nó. Nó không ấn tượng hay hấp dẫn gì đặc biệt, nhưng nó hiếm không thể tưởng. Vì vậy mà giá của nó được xác định bởi giá trị của nó đối với cá nhân đó; người đấu giá cao nhất.
Simon dịch người trong ghế.
- Vấn đề là, - gã khổng lồ nói, - tôi muốn thằng Lofthus. Hắn là một con cá hiếm và có giá trị với tôi, lớn hơn bất kỳ người mua nào khác. Vì hắn đã giết thuộc hạ của tôi và trộm tiền của tôi. Ông nghĩ tôi thống trị cái thành phố này suốt hai mươi năm được sao nếu tôi để thiên hạ yên thân với những chuyện như vậy? Hắn đã tự biến mình thành con cá mà đơn giản là tôi phải có. Tôi rất tiếc, Kefas. Chúng tôi sẽ đưa ông tiền, nhưng thằng nhỏ là của tôi.
- Cậu ta chỉ muốn mỗi một thứ là gián điệp nhị trùng đã phản bội cha cậu ta, rồi cậu ta sẽ đi thật xa.
- Và, theo như tôi biết, hắn cứ việc có gián điệp nhị trùng, tôi không dùng hắn ta hay cô ta nữa, gián điệp nhị trùng đã ngừng hoạt động mười hai năm trước rồi. Nhưng ngay cả tôi cũng chưa bao giờ biết danh tính gián điệp nhị trùng. Chúng tôi trao đổi tiền và thông tin theo kiểu nặc danh, và với tôi thì chuyện đó được thôi, tôi nhận cái tôi đã trả tiền. Nên ông cũng vậy, Kefas. Thị lực của vợ ông, phải vậy không?
- Tùy ông thôi, - Simon nói và đứng lên. - Nếu ông săn đuổi cậu thanh niên, tôi sẽ kiếm tiền cách khác.
Gã đàn ông khổng lồ thở dài.
- Tôi nghĩ ông hiểu sai thương lượng của ta rồi, Kefas.
Simon thấy thằng tóc vàng cũng đã đứng lên.
- Là một tay cờ bạc lão luyện thì ông cần biết rằng ông luôn phải kiểm bài của mình cẩn thận trước khi quyết định chơi, - gã đàn ông khổng lồ nói. - Sau đó thì đã muộn quá rồi, phải vậy không?
Simon cảm thấy thằng tóc vàng để tay lên vai ông. Ông cưỡng lại cái thôi thúc hất đi. Ông ngồi xuống lại. Gã đàn ông khổng lồ chồm người qua bàn. Hắn có mùi oải hương.
- Iversen có nói tôi về mấy mẫu ADN mà vì vậy ông đến tìm ông ta. Còn giờ thì có cái tập tin ghi âm này. Điều đó nghĩa là ông liên lạc với thằng nhỏ, tôi nói có đúng không? Vậy giờ ông sẽ dẫn chúng tôi đến chỗ hắn. Hắn và bất cứ gì hắn ăn cắp của chúng tôi.
- Còn nếu tôi từ chối?
Gã đàn ông khổng lồ lại thở sượt.
- Cái chúng ta ai cũng sợ khi già đi là gì vậy, Kefas? Chết đơn độc, phải vậy không? Lý do thật sự ông làm mọi thứ có thể để phục hồi thị lực cho vợ là ông muốn cô ta nhìn ông phút ông qua đời. Vì ta tự nhủ chuyện đó khiến cho lúc lâm chung đỡ lẻ loi đi chút, phải vậy không? Chà, cứ hình dung phút cuối đời mà còn đơn độc hơn phút cuối của một lũ sống cùng một người vợ mù, nhưng còn sống...
- Sao?
- Bo, cho ông ta xem.
Thằng tóc vàng đưa điện thoại lên cho Simon. Cho ông thấy một hình chụp. Ông nhận ra phòng bệnh. Chiếc giường. Người đàn bà đang ngủ trên giường.
- Cái thú vị không phải là chúng tôi biết ngay lúc này cô ta đang ở đâu, - gã đàn ông khổng lồ nói. - Mà là chúng tôi đã tìm ra cô ta, phải vậy không? Chưa đầy một giờ từ khi Iversen liên lạc với chúng tôi. Và điều đó nghĩa là chúng tôi sẽ lại tìm ra cô ta, bất kể ông giấu cô ta ở đâu.
Simon vùng dậy khỏi ghế, bàn tay phải phóng tới cổ họng gã đàn ông khổng lồ, nhưng cuối cùng nó lại nằm gọn trong một cái nắm tay chụp lấy bàn tay ông nhẹ tênh như bắt một cánh bướm. Và giờ bàn tay kia khẽ siết lại quanh mấy ngón tay Simon.
- Ông phải quyết định xem cái gì ông quý nhất, Kefas. Người đàn bà ông cùng chia sẻ cuộc đời hay con chó hoang ông cưu mang này.
Simon nuốt nước bọt. Ông cố lờ đi cái đau, tiếng mấy khớp ngón tay nghiến vào nhau, nhưng biết những giọt nước mắt đau đớn đang tố cáo ông. Ông chớp một cái. Hai cái. Ông cảm thấy một giọt nước mắt nóng hổi lăn dài trên má.
- Cô ấy cần qua Mỹ trong vòng hai ngày tới, - ông nói nhỏ. - Tôi phải có tiền mặt lúc cô ấy lên đường.
Sinh Đôi thả tay ra và Simon cảm thấy chóng mặt khi máu ùa về lại và làm cái đau nặng nề thêm.
- Cô ta sẽ có mặt trên máy bay lúc ông giao nộp thằng đó và hàng đã lấy cắp, - gã đàn ông khổng lồ nói.
Thằng tóc vàng hộ tống Simon ra. Mưa đã tạnh, nhưng không khí vẫn có cảm giác ẩm ướt nặng nề.
- Tụi mày định làm gì cậu ta? - Simon hỏi.
- Ông không muốn biết đâu, - thằng tóc vàng mỉm cười. - Nhưng rất vui được làm việc với ông.
Cửa khép rồi khóa lại sau lưng Simon.
Ông rời con hẻm. Bóng tối đang trùm xuống. Simon cắm đầu chạy.
* * *
Martha ngồi nhìn thịt bò nướng rồi mấy cốc rượu cao, mấy cái đầu lố nhố bên kia bàn, hình chụp gia đình trên bàn hẹp trước cửa sổ, mấy cây táo sũng nước mưa trong vườn, cô đưa mắt lên bầu trời rồi vào bóng tối đang đến gần.
Bài phát biểu của Anders thật hoa mỹ. Chắc chắn rồi, cô còn hình dung được một bà dì đang chấm nước mắt.
- Martha và tôi đã quyết định mùa đông này sẽ làm đám cưới, - anh nói. - Vì chúng tôi biết tình yêu của mình có thể làm tan chảy mọi băng giá, trái tim bạn bè chúng tôi có thể làm ấm bất kỳ phòng tiệc nào và sự quan tâm, hiểu biết và dìu dắt của mọi người ở đây, gia đình của chúng tôi, sẽ là tất cả ánh sáng chúng tôi cần trên lối đi mùa đông tăm tối. Và, tất nhiên, một lý do nữa là... - Anders cầm ly rượu lên quay qua Martha khi cô vừa kịp dứt mình khỏi bầu trời chiều để mỉm cười đáp lại. - Quả là chúng tôi không thể đợi đến hè!
Tiếng cười vui vẻ và vỗ tay ngập căn phòng.
Anders đưa tay kia cầm tay cô. Anh nắm chặt, mỉm cười, đôi mắt đẹp long lanh như biển, và cô biết anh biết cái ấn tượng anh tạo ra. Rồi anh cúi người như thể choáng ngợp vì dịp này và hôn phớt lên môi cô. Cả bàn ồ lên. Anh nâng ly.
- Chúc sức khỏe chúng ta!
Rồi anh ngồi xuống. Anh bắt gặp ánh mắt cô và nhoẻn cười với cô một nụ cười riêng tư. Nụ cười cho mười hai khách ăn tối biết rằng anh và Martha có chung điều gì đó đặc biệt, cái gì đó chỉ thuộc về họ. Nhưng chỉ vì Anders đang chiều theo thị hiếu tầm thường của công chúng không có nghĩa điều đó không đúng. Đúng là họ đã có gì đó chỉ thuộc về họ. Cái gì đó tốt đẹp. Họ đã là một đôi lâu đến mức có thể dễ quên mất bao ngày tươi đẹp và những điều thú vị họ làm bên nhau. Họ cũng đã trải qua những thời khắc khó khăn và nhờ đó mà mạnh mẽ hơn. Cô có quan tâm đến Anders, thật sự là vậy. Tất nhiên là cô quan tâm, nếu không sao cô lại bằng lòng cưới anh?
Nụ cười của anh hơi gượng đi. Nó cho cô biết rằng cô cũng nên cố tỏ ra nồng nhiệt hơn chút, hợp sức với anh bởi giờ họ đã tập hợp hai gia đình lại thông báo kế hoạch đám cưới. Mẹ chồng tương lai đã yêu cầu có lời thông báo và Martha không còn hơi sức đâu mà phản đối. Nên giờ cô đứng lên vỗ vào ly. Như thể có người bấm cái công tắc ghi hai chữ “im lặng”. Không chỉ vì khách khứa háo hức chờ cái cô sắp nói mà còn bởi không ai muốn bị cái nhìn ủ ê của mẹ chú rể xiên qua người.
- Chúng tôi cũng rất xúc động vì Martha đã quyết định lễ cưới sẽ diễn ra tại nhà thờ thánh Paul.
Martha cố lắm mới không bị sặc. Cô quyết định ư?
- Như mọi người cũng biết, chúng tôi là gia đình Thiên Chúa giáo. Và mặc dù ở nhiều nước khác trình độ giáo dục và mức thu nhập bình quân giữa dân Tin Lành cao hơn Thiên Chúa giáo, ở Na Uy lại không như vậy. Ở Na Uy tín đồ Thiên Chúa giáo chúng tôi tạo nên thành phần ưu tú. Vậy nên Martha, hoan nghênh đến với đội A.
Martha cảm ơn câu đùa mà cô biết thừa không hề đùa chút nào. Cô nghe giọng mẹ chồng tương lai tiếp tục, nhưng cô lại tiếp tục lơ đãng. Vì cô phải thoát ra. Thoát đến nơi khác ấy.
- Em đang nghĩ gì vậy, Martha?
Cô cảm thấy môi Anders trên tóc và rái tai. Cô cố mỉm cười dù suýt nữa thì đã cười phá lên. Cười khi hình dung mình đứng lên nói với anh và đám khách khứa kia những điều cô đã nghĩ đến khi đang nằm trong vòng tay một sát thủ, dưới nắng, trên tảng đá trong khi sấm sét băng qua vịnh tiến về phía họ. Nhưng điều đó không có nghĩa cô không yêu Anders. Cô đã bằng lòng. Cô bằng lòng vì cô yêu anh.

35

- Em còn nhớ lần đầu ta gặp nhau không? - Simon hỏi và vuốt ve bàn tay Else để trên tấm chăn lông. Hai bệnh nhân khác trong phòng đang thiu thiu ngủ đằng sau màn riêng.
- Không, - cô mỉm cười và ông mường tượng ra đôi mắt cô xanh, trong vắt, sáng lấp lánh dưới lớp băng gạc. - Nhưng anh nhớ mà. Vậy thì kể đi, kể em nghe lại đi.
Thay vì chỉ tủm tỉm cười lại, Simon cười thành tiếng khe khẽ cho cô nghe thấy.
- Em đang làm việc trong tiệm hoa ở Gronland. Thế rồi anh vào tìm mua hoa.       
- Một vòng hoa, - cô nói. - Anh đến để mua một vòng hoa.
- Em đẹp đến mức anh cố làm sao để ta trò chuyện lâu hơn cần thiết. Dù em quá trẻ so với anh. Nhưng khi ta nói chuyện, chính anh cũng trẻ lại. Rồi hôm sau anh lại ghé mua hoa hồng.
- Anh mua hoa huệ tây mà.
- Ừ, tất nhiên rồi. Anh muốn em nghĩ đó là cho một người bạn. Nhưng lần thứ ba anh mua hoa hồng.
- Rồi lần thứ tư.
- Căn hộ anh đầy cả hoa, anh hầu như không thở nổi.
- Tất cả là cho anh.
- Tất cả là cho em. Anh chỉ chăm sóc chúng giùm cho em. Rồi anh rủ em đi chơi. Cả đời anh chưa thấy sợ như vậy bao giờ.
- Anh trông căng thẳng đến mức em không nỡ từ chối.
- Cái mẹo đó lần nào cũng được việc.
- Không đâu, - cô cười. - Anh căng thẳng mà. Nhưng em bị cuốn theo đôi mắt buồn của anh. Một đời đã sống. Nét u hoài đầy thông tuệ. Điều đó thật khó cưỡng nổi đối với một phụ nữ trẻ, anh biết mà.
- Em vẫn nói đó là vì thân hình lực lưỡng của anh và anh biết lắng nghe.
- Không, em đâu có nói vậy! - Else cười to hơn nữa và Simon cười với cô. Thật nhẹ nhõm vì giờ cô không thể thấy ông.
- Lần đầu anh mua một vòng hoa, - cô nói khẽ. - Anh viết một tấm thiếp và nhìn nó một lúc, rồi anh ném nó vào sọt rác và viết tấm khác. Khi anh đi rồi, em nhặt tấm thiếp trong sọt rác ra đọc. Nó ghi “Gửi tình yêu của đời anh”. Đó là cái làm em chú ý.
- Vậy hả? Em không thích có một người đàn ông nghĩ rằng anh ta vẫn chưa gặp được tình yêu của đời mình sao?
- Em muốn một người đàn ông biết yêu, yêu thật sự.
Ông gật. Qua nhiều năm họ thường lặp lại chuyện này đến mức lời thoại đã thành ra thuần thục, cũng như phản ứng và những gì tưởng như là ngẫu hứng nơi họ. Họ đã từng thề là có gì cũng nói cho nhau biết, tất cả mọi thứ, và sau khi làm vậy rồi, sau khi đã thử xem người kia chấp nhận được chừng nào sự thật, những câu chuyện đã thành tường thành chở che tổ ấm của họ.
Cô nắm chặt tay ông.
- Mà anh là vậy, Simon. Anh biết cách yêu.
- Vì em đã sửa đổi anh.
- Anh tự sửa mình. Anh quyết định bỏ đánh bạc, không lẽ phải em.
- Em là thuốc, Else. Không có em... - Simon hít một hơi sâu và hy vọng cô không nghe thấy giọng mình run run bởi lúc này, đêm nay ông không còn sức lực để đến chỗ đó. Không muốn lặp lại câu chuyện về thói nghiện đỏ đen và nợ nần mà cuối cùng ông đã kéo cô vào. Ông đã làm chuyện không thể nào tha thứ, lén cô đem thế chấp căn nhà của họ. Rồi mất. Và cô đã tha thứ cho ông. Cô không giận dữ hay dọn ra hay để ông lãnh hậu quả hay ra tối hậu thư nào. Cô chỉ vuốt má ông và nói cô tha thứ cho ông. Thế là ông khóc như đứa trẻ và phút đó nỗi hổ thẹn đã làm tiêu tan sự thèm khát đời sống hứng khởi tại giao điểm của hy vọng và lo sợ, nơi mọi thứ đều được đem ra đặt cược và có thể thắng thua trong chớp mắt nơi mà những ý nghĩ về sự thất bại thảm khốc, chung cuộc là gần như - gần như - cũng dụ hoặc như ý nghĩ chiến thắng. Đúng vậy, ngày hôm ấy ông đã bỏ. Và từ đó ông không bao giờ cờ bạc nữa, không cá cược dù chỉ một cốc bia, và đó là sự cứu rỗi của ông. Đó là sự cứu rỗi của họ. Điều đó và lời họ hứa kể cho nhau nghe tất cả mọi thứ. Biết rằng mình đã có khả năng tự chủ và sự can đảm để hoàn toàn trung thực với một người khác đã làm được điều gì đó cho ông, khôi phục lại ông như một người đàn ông và con người, phải, thậm chí còn khiến ông chín chắn hơn cái con người ông lẽ ra đã trở thành nếu như ông chưa từng phó mặc mình cho những tật xấu định đoạt. Có lẽ điều đó giải thích được tại sao trong những năm sau này làm sĩ quan cảnh sát ông đã đi từ chỗ thấy mọi tội phạm đều khét tiếng và không cải tạo được đến chỗ sẵn sàng cho bất cứ ai cơ hội thứ hai - trái ngược hẳn với cái mà vốn kinh nghiệm rộng lớn của ông cho ông biết.
- Ta giống như Charlie Chaplin với cô gái bán hoa, - Else nói. - Nếu ta chiếu lùi cuốn phim.
Simon nuốt khan. Cô gái mù bán hoa tưởng kẻ lang thang là quý ông giàu có. Simon không nhớ rõ, chỉ nhớ kẻ lang thang giúp cô có lại thị lực, nhưng sau đó anh ta không hề tiết lộ thân phận bởi tin chắc cô sẽ không muốn anh khi thấy thực ra anh là ai. Thế rồi, khi cô biết ra, cô vẫn yêu anh.
- Anh đi duỗi chân một lát, - ông nói, đứng lên.
Trong hành lang không có ai. Ông nhìn tấm biển trên tường mô tả một điện thoại di động có đường kẻ đỏ chạy ngang một lúc. Rồi ông lấy điện thoại ra tìm số. Một số người tưởng nếu ta gửi email từ điện thoại qua một địa chỉ Hotmail trên mạng, cảnh sát sẽ không thể dò ra số điện thoại gửi email. Sai. Dễ dàng tìm thấy nó. Ông thấy như tim nghẹn ngang cổ, như đang đập sau xương đòn. Không có lý do gì cậu ta lại nghe máy cả.
- A lô?
Giọng cậu ta. Xa lạ, nhưng vẫn quen thuộc kỳ lạ, như tiếng vọng từ một quá khứ xa xăm, không phải, một quá khứ gần. Người Con Trai. Simon phải ho hai tiếng rồi thanh quản mới phát ra một tiếng.
- Tôi cần gặp cậu, Sonny.
- Chuyện đó có lẽ cũng hay đấy...
Trong giọng cậu ta không có chút gì mỉa mai.
- ... nhưng tôi không định ở lại đây lâu.
Ở đây? Ở Oslo, ở Na Uy? Hay trên trái đất này?
- Cậu tính làm gì? - Simon hỏi.
- Tôi nghĩ ông biết mà.
- Cậu định tìm và trừng phạt mọi kẻ chịu trách nhiệm. Những kẻ cậu phải ngồi tù thay. Những kẻ đã giết bố cậu. Và rồi cậu muốn tìm ra tên gián điệp nhị trùng.
- Tôi không có nhiều thời gian lắm.
- Nhưng tôi có thể giúp cậu.
- Ông thật tử tế, Simon, nhưng điều tốt nhất ông có thể làm để giúp tôi là tiếp tục cái ông vẫn làm cho đến giờ.
- Vậy sao? Vậy đó là gì?
- Không cố ngăn tôi.
Theo sau là một khoảng dừng. Simon lắng nghe xem có tiếng động nào đằng sau tiết lộ nơi cậu thanh niên ở. Ông nghe có tiếng thình thịch khẽ, nhịp nhàng và thỉnh thoảng là tiếng gào la.
- Tôi nghĩ ta cùng muốn một thứ, Simon.
Simon nuốt ực.
- Cậu còn nhớ tôi?
- Giờ tôi phải đi đây.
- Bố cậu và tôi...
Nhưng đường dây đã tắt.
* * *
- Cảm ơn ông đã đến.
- Không dám, anh bạn, - Pelle nói, liếc nhìn lên người thanh niên trong gương chiếu hậu. - Thời gian đồng hồ taxi ít khi chạy được đến ba mươi phần trăm thời gian của một ngày làm việc nên anh gọi thì tốt quá rồi, cho cả tôi lẫn việc làm ăn của tôi. Tối nay anh đi đâu, thưa anh?
- Ullern.
Lần trước Pelle chở, người thanh niên đã hỏi xin danh thiếp của ông. Đôi lúc khách cũng làm vậy nếu thấy hài lòng, nhưng chẳng bao giờ gọi. Quá dễ kiếm taxi bằng cách vẫy một chiếc đang chạy trên đường. Nên Pelle không biết sao thanh niên này lại đặc biệt muốn ông chạy cả quãng đường từ Gamlebyen đến Kvadraturen để đón mình bên ngoài cái khách sạn Bismarck đáng ngờ.
Người thanh niên mặc bộ com lê lịch sự nên mới đầu Pelle không nhận ra. Có gì đó khang khác. Anh ta vẫn xách túi thể thao đỏ và có thêm một chiếc cặp. Một tiếng kim loại đanh sắc lanh canh phát ra trong túi khi anh ta thả nó xuống ghế sau.
- Nhìn ông hạnh phúc trong tấm hình đấy, - người thanh niên nói. - Ông với vợ?
- Ồ, cái đó hả, - Pelle nói và cảm thấy đỏ mặt. Trước giờ không ai bình phẩm về tấm hình đó. Ông đã để nó dưới thấp bên trái tay lái, để khách không nhìn thấy. Nhưng ông cảm động vì người thanh niên thấy được từ hình là họ hạnh phúc. Rằng cô hạnh phúc. Ông đã không chọn hình đẹp nhất họ có, mà hình cô trông hạnh phúc nhất.
- Tôi nghĩ tối nay vợ tôi làm món chả rán viên, - ông nói. - Sau đó có lẽ chúng tôi sẽ đi dạo trong công viên Kampen. Gió mát trên đó sẽ làm ta khuây khỏa vào một ngày nóng nực thế này.
- Nghe thú vị thật, - người thanh niên nói. - Ông thật may vì tìm được một người đàn bà để chia sẻ cuộc đời.
- Quả là vậy, - Pelle nói rồi nhìn lên gương chiếu hậu.
- Anh nói đúng quá.
Pelle chú ý để nhường khách trò chuyện. Ông thích điều đó, có được một mẩu đời sống của ai đó trong khoảng thời gian ngắn ngủi của cuốc xe. Con cái và hôn nhân. Việc làm và thế chấp. Hé nhìn những gian nan khổ ải của đời sống gia đình một lúc. Không phải là nêu ra những chủ đề ông biết quá nhiều tài xế taxi thích bàn luận. Nhưng một sự thân mật kỳ lạ đã lớn dần giữa họ; thực ra, đơn giản là ông thích được trò chuyện với người này.
- Còn anh? - Pelle hỏi. - Đã tìm được bạn gái chưa?
Người thanh niên mỉm cười lắc đầu.
- Chưa sao? Không ai rồ máy cũ sao?
Người thanh niên gật.
- Có hả? Mừng cho anh, anh bạn. Và cho cô ấy.
Đầu người thanh niên không còn gật nữa.
- Không sao? Đừng bảo tôi cô ấy không thích anh đấy nhé? Tôi thừa nhận khi anh nôn cả lên tường thì trông anh chẳng giống món bở gì cả, nhưng bữa nay, đóng bộ com lê đó rồi đủ cả.
- Cảm ơn, - người thanh niên nói. - Nhưng tôi sợ là tôi không thể có cô ấy.
- Sao không? Anh đã thổ lộ với cô ấy là anh yêu cô ấy chưa?
- Chưa. Ông thì có làm vậy không?
- Luôn ấy chứ, mỗi ngày mấy bận. Cứ nghe nó như ôxy, ta chẳng bao giờ ngừng cần nó cả. Anh yêu em, anh yêu em. Thử đi, rồi anh sẽ thấy điều tôi muốn nói.
Đằng sau im lặng một lúc. Rồi ông nghe thấy tiếng ho.
- Làm thế nào... làm thế nào để biết người đó yêu ta, Pelle?
- Ta chỉ biết thôi. Tổng hòa của những điều nhỏ nhặt ta không bao giờ thực sự chạm ngón tay vào được. Tình yêu vây bọc quanh ta như hơi nước trong vòi sen. Ta không thể thấy từng giọt riêng lẻ, nhưng ta được ấm lên. Và ướt. Và sạch. - Pelle cười, ngượng nghịu và gần như có chút tự hào về khả năng văn vẻ của mình.
- Rồi ông tiếp tục tắm trong tình yêu của cô ấy và mỗi ngày đều nói với cô ấy rằng ông yêu cô ấy?
Pelle có cảm giác là mấy câu thanh niên này hỏi không phải ngẫu nhiên, mà nó là một đề tài anh ta đã định bụng hỏi Pelle nhân bức hình ông chụp với vợ, hẳn anh ta đã phát hiện ra nó trong một cuốc xe trước đó.
- Tất nhiên, - Pelle nói và cảm thấy như có gì nghẹn trong cổ họng, một mảnh vụn hay gì đó. Ông ho mạnh và bật radio.
Chuyến xe tới Ullern mất mười lăm phút. Địa chỉ mà người thanh niên đưa Pelle nằm trên con đường chạy vòng lên tới Ullernasen, ngay giữa mấy cấu trúc nhà gỗ đồ sộ trông giống pháo đài hơn là nhà riêng. Mặt đường nhựa đã khô sau cơn mưa rào ban nãy.
- Ông làm ơn chạy lại đây một lát được không?
- Nhưng cổng ở đằng kia mà.
- Vậy được rồi.
Pelle chạy tới ven lề đường. Cơ ngơi có tường trắng trên có cắm mảnh chai bao quanh. Căn nhà gạch lớn hai tầng nằm trên một khu vườn rộng. Có tiếng nhạc vẳng ra từ thềm trước nhà và đèn sáng ở mọi ô cửa sổ. Đèn chiếu trong vườn. Hai người đàn ông to cao, vai rộng mặc com lê đen đang đứng trước cổng, một người dắt con chó to lông trắng cột dây.
- Anh định đến dự tiệc sao? - Pelle hỏi và xoa bóp bên bàn chân hư. Thỉnh thoảng, chứng chuột rút trở lại như có người quẳng nó vào ông.
Người thanh niên lắc đầu.
- Tôi không cho là mình được mời.
- Anh có quen mấy người sống ở đây không?
- Không, tôi có địa chỉ lúc tôi còn trong tù. Sinh Đôi. Có bao giờ nghe đến hắn ta chưa?
- Chưa, - Pelle nói. - Nhưng vì thấy anh không quen biết ông ta, tôi mới dám nói anh nghe là một người mà có quá nhiều như vậy thì thật không phải. Nhìn ngôi nhà đó xem! Đây là Na Uy, đâu phải Mỹ hay Ả Rập Xê-Út. Ta chỉ là một rẻo đá lạnh cóng trên phía Bắc này, nhưng ta luôn có một thứ mà mấy nước khác không có. Một sự bình đẳng nhất định. Một sự công bằng nhất định. Nhưng giờ chúng ta lại chỉ lo phá hoại nó.
Họ nghe thấy tiếng chó sủa trong vườn.
- Tôi nghĩ ông là người hiểu biết, Pelle.
- Ồ tôi không chắc chuyện đó. Anh vào trong làm gì?
- Tìm sự thanh thản.
Pelle nhìn kỹ mặt thanh niên trong gương chiếu hậu. Như thể ông đã thấy đâu rồi chứ không chỉ trong taxi của mình.
- Ta đi khỏi đây thôi, - người thanh niên nói.
Khi Pelle nhìn lại ra kính chắn gió, ông thấy tên dắt con chó lông trắng đang tiến tới chỗ họ. Cả hai dán mắt vào xe và người chúng cuồn cuộn cơ bắp đến mức chúng đi lại lắc lư.
- Phải đấy, - Pelle nói, bấm đồng hồ. - Đi đâu?
- Ông có kịp chào từ biệt cô ấy không?
- Gì cơ?
- Vợ ông.
Pelle chớp mắt. Nhìn người đàn ông với con chó tiến lại gần hơn. Câu hỏi đánh trúng ông như quả đấm thoi vào bụng. Ông lại nhìn thanh niên trong gương. Ông đã thấy anh ta ở đâu? Ông nghe tiếng thấy gầm gừ. Chắc hẳn con chó đang sẵn sàng tấn công. Ông từng chở chàng trai, đơn giản vậy thôi, hẳn đó là lý do. Ký ức về một ký ức. Như cô ấy lúc này.
- Không, - Pelle nói, lắc đầu.
- Tai nạn ư?
Pelle nuốt khan.
- Phải. Một vụ đâm xe.
- Cô ấy có biết ông yêu cô ấy không?
Pelle mở miệng, nhưng nhận ra là mình sẽ không thể nói gì nên ông chỉ gật.
- Tôi rất lấy làm tiếc vì ông đã mất cô ấy, Pelle.
Ông cảm thấy bàn tay người thanh niên trên vai. Và như thể sức nóng từ đó tỏa ra rồi lan tới ngực, bụng, hai cánh tay và hai chân ông.
- Có lẽ giờ ta đi thôi, Pelle.
Đến khi đó Pelle mới nhận ra mình đã nhắm mắt, và khi ông mở mắt ra lại thì gã có con chó đã đến cạnh xe. Pelle rồ máy và thả chân côn. Ông nghe con chó sủa theo họ dữ dội.
- Ta đi đâu đây?
- Thăm một kẻ mang tội giết người, - người thanh niên nói, kéo sát túi xách đỏ lại. - Nhưng trước tiên ta cần đưa cái này cho một người.
- Cho ai?
Người thanh niên mỉm nụ cười u hoài, kỳ lạ.
- Cho người có bức hình tôi muốn được để trên bảng đồng hồ xe mình.
* * *
Martha đang đứng ở quầy bếp, rót cà phê trong ấm vào bình thủy Thermos. Cô cố chặn giọng mẹ chồng tương lai bên ngoài. Cô cố tập trung vào cái khách khứa đang bàn trong phòng ăn. Nhưng không được, giọng bà ta khăng khăng, rất hạch sách.
- Anders là chàng trai nhạy cảm, con hiểu không. Nó nhạy cảm hơn con nhiều. Con là người mạnh mẽ. Vì vậy con phải chịu trách nhiệm và...
Một chiếc xe chạy lại dừng trước cổng. Một chiếc xe. Một người đàn ông mặc com lê thanh lịch bước ra; anh ta xách cái cặp.
Cô nghĩ tim mình sắp ngừng đập. Là anh.
Anh mở cổng rồi cất bước trên lối đi ngắn rải sỏi đến cửa trước.
- Con xin lỗi, - Martha nói, để mạnh ấm cà phê xuống chậu rửa chén và cố để không trông như đang chạy nhào ra khỏi bếp.
Khoảng cách chỉ có vài mét vậy mà cô hụt cả hơi và mở tung cửa trước khi anh kịp nhấn chuông.
- Chúng tôi đang có khách, - cô rít lên, kéo cửa lại đằng sau. - Cảnh sát thì đang tìm anh. Anh cần gì?
Anh nhìn cô bằng đôi mắt xanh lá trong veo khốn kiếp ấy. Anh đã cạo sạch lông mày.
- Tôi muốn xin tha thứ, - anh nói. Lặng lẽ, điềm đạm. - Rồi tôi muốn đưa cô cái này. Nó là dành cho trung tâm.
- Gì vậy? - Cô hỏi và nhìn cái cặp anh đưa cô.
- Cho công việc xây dựng các cô không lo nổi. Hay dù sao thì cũng phần nào...
- Không! - Cô liếc ra sau và hạ giọng. - Anh sao vậy? Anh thực sự nghĩ tôi cần tiền bẩn của anh sao. Anh giết người. Đôi hoa tai anh cố tặng tôi... - Martha nuốt, lắc đầu quầy quậy và cảm thấy những giọt nước mắt li ti, giận dữ trào ra. - Nó thuộc về... một người đàn bà anh đã sát hại!
- Nhưng...
- Đi đi!
Anh gật. Bước xuống một bước, thụt lùi.
- Sao cô không tố giác tôi với cảnh sát?
- Ai nói tôi không làm?
- Sao cô không báo, Martha?
Cô đổi tư thế. Nghe thấy tiếng ghế kéo rột trên sàn phòng ăn.
- Có lẽ vì tôi muốn nghe anh nói tôi biết vì sao anh giết mấy người đó?
- Nếu tôi nói thì có thay đổi được gì không?
- Tôi không biết. Có không?
Anh nhún vai.
- Nếu cô muốn gọi cảnh sát thì tối nay tôi ở nhà bố mẹ tôi. Sau đó tôi sẽ biến mất.
- Sao anh nói tôi biết chuyện này?          
- Vì tôi muốn cô đến với tôi. Vì anh yêu em.
Cô chớp mắt. Anh vừa nói gì vậy?
- Anh yêu em, - anh lặp lại chậm rãi và trông như đang ngạc nhiên mà nhấm nháp lời mình.
- Chúa ơi, - cô tuyệt vọng rên rỉ. - Anh điên rồi!
- Giờ tôi đi đây. - Anh quay qua cái taxi đang chờ để máy chạy không.
- Khoan đã! Anh định đi đâu?
Anh hơi quay lại, mỉm cười buồn bã.
- Có người đã kể tôi nghe về một thành phố lớn ở châu Âu. Đi một mình thì đường dài thăm thẳm, nhưng... - Anh trông như muốn nói gì thêm nên cô chờ. Rồi cứ chờ, và cầu cho anh nói điều đó ra. Cô không biết là gì, chỉ là nếu anh nói ra đúng thứ, đúng câu thần chú, nó sẽ giải thoát cho cô. Nhưng chính anh phải là người làm điều đó, anh phải biết đó là gì.
Nhưng anh cúi đầu chào cô thật nhanh, rồi quay lại cất bước ra cổng.
Martha thấy muốn gọi theo anh, nhưng cô sẽ nói gì đây? Đó là sự điên rồ. Một cơn mê đắm cuồng điên. Cái gì đó không tồn tại, không thể tồn tại trong thế giới thực. Thực tại là trong kia, trong phòng ăn sau lưng cô. Cô quay lại đi vào trong. Rồi nhìn thẳng vào gương mặt thịnh nộ của Anders.
- Tránh ra.
- Anders, đừng...
Anh xô cô qua, giật toang cửa và xồng xộc ra ngoài.
Martha đứng lên lại rồi theo anh ra lối đi đúng lúc thấy Anders đuổi kịp Sonny và đánh mạnh sau đầu anh. Nhưng chắc Sonny đã nghe thấy Anders tiến đến vì anh né người, quay ngoắt lại bằng động tác xoay tròn và hai tay ôm cứng Anders. Anders gào lên: “Tao sẽ giết mày?” và cố vùng ra, nhưng hai cánh tay anh đã bị khóa trái và thế là anh không còn làm gì được. Thế rồi, cũng bất thần chẳng kém, Sonny buông Anders ra. Mới đầu Anders nhìn sững người trước mặt, hai cánh tay thụ động buông thõng bên sườn. Rồi Anders đưa tay lên ra đòn. Đấm Sonny. Anh đưa nắm đấm lên sẵn sàng bồi thêm cú nữa. Đánh xuống. Không tạo nhiều tiếng động một tiếng bịch của mấy khớp ngón tay nện lên xương thịt.
- Anders, - Martha thét lên. - Anders, dừng lại đi!
Đến quả đấm thứ tư thì da trên xương gò má người thanh niên rách toét. Đến quả thứ năm thì anh quỳ thụp xuống.
Cửa xe phía tài xế mở ra và ông định chạy ra, nhưng người thanh niên đưa một bàn tay lên ra hiệu cho ông tránh xa chuyện này.
- Đồ khốn hèn hạ! - Anders ré lên. - Tránh xa vợ chưa cưới của tao ra thằng khốn!
Người thanh niên ngẩng đầu lên như để cho Anders một góc tốt hơn, và giơ bên má còn lành lặn ra. Anders đá anh. Đầu anh ngoặt ra sau còn người anh quỳ thụp xuống, hai cánh tay vung ra như cầu thủ bóng đá đắc thắng trượt một cú trên sân.
Đế giày sắc cạnh của Anders hẳn đã trúng trán Sonny vì máu tuôn ra từ vết cứa dài ngay dưới đường chân tóc. Khi vai Sonny quét trên sỏi còn áo khoác xổ tung, Martha thấy Anders chết trân dù lúc trước đang định bồi thêm một cú đá nữa. Thấy anh nhìn sững nơi nịt của Sonny và thấy cái cô thấy. Một khẩu súng lục. Một khẩu súng lục sáng loáng, báng súng nhét trong lưng quần; nó ở đó từ bao giờ, nhưng Sonny không động đến.
Cô để tay lên vai Anders, anh giật nảy người như vừa bị cô đánh thức.
- Vào trong đi, - cô ra lệnh cho anh. - Ngay!
Anh chớp mắt nhìn cô hoang mang. Rồi anh làm theo. Đi qua cô lên thềm, những khách khác giờ đã xúm lại đó.
- Vào trong đi! - Martha gọi cho họ. - Anh ta là người trọ ở Trung tâm Ila, để tôi lo chuyện đó. Mọi người, vào trong cả đi!
Martha ngồi xổm xuống bên Sonny. Máu từ trán anh đang tràn ra rồi xuống sống mũi. Anh thở bằng miệng.
Một giọng dai dẳng, hạch sách vọng ra từ thềm:
- Nhưng chuyện đó có thực sự cần thiết không, Martha yêu dấu? Suy cho cùng, con sẽ bỏ chỗ đó vì giờ con và Anders sẽ...
Martha nhắm mắt và rắn mình lại.
- Câu đó cũng đúng với mẹ nữa. Im lặng và vào trong đi.
Khi mở mắt ra lại, cô thấy anh đang mỉm cười. Và khi anh thều thào bằng đôi môi rướm máu, giọng anh khẽ đến mức cô phải cúi xuống mới nghe được:
- Ông ấy nói đúng, Martha. Ta có thể thực sự cảm thấy tình yêu gột rửa ta thế nào.
Rồi anh đứng lên, lảo đảo một thoáng rồi loạng choạng ra khỏi cổng vào taxi.
- Chờ chút! - Cô kêu lên và cầm lấy cái cặp vẫn nằm trên lối đi rải sỏi.
Nhưng taxi đã chạy xuôi đường về bóng tối ở cuối khu dân cư.

36

Iver Iversen nhún tới nhún lui trên gót giày và xoay xoay ly Martini đã cạn. Hắn nhìn khách khứa tụ tập từng đám trên hàng hiên sơn trắng và phòng khách bên trong. Nó cỡ bằng phòng khiêu vũ và được bày biện với khiếu thẩm mỹ của một người không phải sống trong đó. “Mấy nhà thiết kế nội thất có ngân sách không giới hạn và tài năng hạn chế”, như Agnete thường nói. Cánh đàn ông mặc đồ vest dạ tiệc như thư mời yêu cầu. Cánh đàn bà rõ ràng là đông hơn nhiều, nhưng những người ở đó thì còn nổi bật hơn. Đẹp rạng rỡ, trẻ mê người và đại diện cho một sự pha trộn chủng tộc thú vị. Váy khoét cao, lưng trần và khe ngực sâu. Trang nhã, lạ lùng, và nhập khẩu. Vẻ đẹp đích thực bao giờ cũng hiếm. Nếu có ai dắt một con báo tuyết đi khắp phòng thì ắt Iver Iversen cũng không ngạc nhiên.
- Trông như tất cả những nhà tài chính độc thân của Oslo đều ở đây cả.
- Chỉ những ai không kén chọn gì lắm thôi, - Fredrik Ansgar nói, chỉnh lại cà vạt nơ và nhấp gin pha tonic. - Hay đã đi nghỉ với gia đình.
Sai, Iver Iversen nghĩ. Nếu họ làm ăn với Sinh Đôi, họ đã phải lo chạy về thành phố. Họ sẽ không dám làm khác. Sinh Đôi. Hắn nhìn người đàn ông khổng lồ đứng bên đàn dương cầm. Ông ta có thể làm mẫu cho người công nhân lý tưởng trên các áp phích cổ động của Xô Viết hay tượng ở công viên Vigeland. Mọi thứ ở ông ta đều vững chãi, chắc nịch và như tượng đẽo: đầu, hai cánh tay, hai bàn tay, bắp đùi. Trán cao, cằm chắc, môi dày. Người đang nói chuyện với ông ta có vóc dáng nặng nề và cao trên mét tám, nhưng trông như người lùn cạnh Sinh Đôi. Iver nghĩ mình mơ hồ nhận ra ông ta. Ông ta có miếng bịt một bên mắt. Có lẽ một người có vai vế nào đó hắn đã thấy trên báo.
Iversen lấy thêm một ly martini trên khay mà người phục vụ cầm đi quanh phòng. Hắn biết rằng mình không nên, hắn say rồi. Nhưng hắn không đi chúc rượu, suy cho cùng hắn là ông chồng góa đang tiếc thương. Vậy nhưng, hắn biết uống chính xác là cái hắn không nên làm. Hắn có thể lại đi nói gì đó để sau sẽ hối tiếc.
- Anh có biết làm sao mà Sinh Đôi có cái tên đó không?
- Tôi có nghe câu chuyện, phải, - Fredrik Ansgar nói.
- Tôi nghe rằng em trai ông ta bị chết đuối, nhưng đó là một tai nạn.
- Tai nạn? Trong một xô nước sao?
Fredrik cười và cái nhìn đi theo một người đẹp da đen đang lướt qua.
- Nhìn kìa, - Iver nói. - Ở đây lại còn cả giám mục nữa chứ. Tôi không biết sao ông ta lại sa vào lưới của Sinh Đôi.
- Phải, một buổi họp mặt đầy ấn tượng. Có đúng là ông ta còn trong túi một giám thị nhà tù?
- Để tôi nói thế này, ông ta không dừng lại ở đó.
- Cảnh sát?
Iver không nói gì.
- Cao cỡ nào?
- Anh còn trẻ, Fredrik, và dù anh ở trong ruột nhưng anh chưa lún sâu đến độ không có chọn lựa rút lui. Nhưng anh biết càng nhiều thì anh càng sa lầy, tin tôi đi. Nếu tôi có cơ hội làm mọi chuyện khác đi...
- Vậy còn Sonny Lofthus? Simon Kefas nữa? Họ có được chăm sóc không?
- Ồ có chứ, - Iver nói, nhìn chằm chặp cô gái nhanh nhẹn, nhỏ nhắn ngồi một mình ở quầy bar. Thái? Việt? Trẻ măng, xinh xắn và chưng diện. Rất có giáo dục. Rất kinh hoảng và bơ vơ. Cũng như Mai. Hắn gần như cảm thấy ái ngại cho Simon Kefas. Cả ông ta cũng bị sa bẫy. Ông ta đã bán linh hồn vì tình yêu dành cho một phụ nữ trẻ hơn và, như Iver, ông ta sẽ phải nếm mùi bẽ bàng. Ít nhất thì Iver cũng hy vọng Simon sẽ kịp cảm thấy điều đó trước khi Sinh Đôi làm việc phải làm và đi trước Simon Kefas một bước. Một cái hồ ở Ostmarka? Có lẽ Kefas với Lofthus mỗi người sẽ có một hồ riêng.
Iver Iversen nhắm mắt nghĩ về Agnete. Hắn cảm thấy muốn ném ly Martini vào tường, nhưng thay vì vậy đã uống cạn một hơi.
* * *
- Tổng đài Telenor, dịch vụ hỗ trợ của cảnh sát đây.
- Xin chào, đây là chánh thanh tra Simon Kefas.
- Nhìn số ông đang gọi là tôi biết mà. Và ông đang đâu đó tại Bệnh viện Ulleval.
- Ấn tượng thật. Tuy vậy, tôi muốn cô dò một số khác.
- Ông có lệnh không?
- Đây là chuyện khẩn.
- Được. Mai tôi sẽ báo cáo lại rồi khi ấy ông sẽ phải đề cập chuyện đó với công tố viên. Tên và số?
- Tôi chỉ có mỗi số.
- Và ông muốn gì?
- Địa điểm của số điện thoại lúc này.
- Chúng tôi chỉ có thể cho ông địa điểm phỏng chừng. Và nếu điện thoại đang không sử dụng thì mất một lúc trạm cơ sở của chúng tôi mới bắt được tín hiệu. Chuyện đó tự động diễn ra cách giờ.
- Giờ tôi sẽ gọi số để cô có tín hiệu.
- Vậy chẳng phải người này không biết điện thoại của mình đang bị dò sao?
- Tôi đã gọi số này vài lần trong giờ qua mà đến nay vẫn chưa thấy trả lời.
- Được. Cho tôi số, gọi đi, rồi tôi sẽ cho ông biết chúng tôi tìm được gì.
* * *
Pelle dừng taxi trên lối đi rải sỏi vắng tanh. Bên trái ông, cảnh vật đổ dốc về dòng sông lung linh dưới ánh trăng. Một cây cầu hẹp dẫn từ lối đi đầy sỏi đá về lại đường chính mà họ chạy xe đến. Bên phải là đồng lúa mì đu đưa dưới những đám mây đen chạy dọc bầu trời trông như phim âm bản trong đêm hè êm ả. Xa hơn dưới đường, trong cánh rừng trước mặt họ, là điểm đến: một ngôi nhà lớn có hàng rào song sắt trắng bao quanh.
- Lẽ ra tôi phải đưa anh đến phòng cấp cứu để người ta băng bó lại cho, - Pelle nói.
- Tôi sẽ không sao đâu, - người thanh niên nói và để một tờ tiền có mệnh giá lớn lên tay ghế giữa hai ghế trước. - Và cảm ơn ông vì cái khăn tay.
Pelle nhìn lên anh ta trong gương chiếu hậu. Người thanh niên đã cột khăn tay quanh trán. Nó đẫm cả máu.
- Thôi mà. Tôi không tính tiền anh đâu. Tất phải có bộ phận cấp cứu đâu đó ở Drammen.
- Có lẽ mai tôi đi rồi, - người thanh niên nói, nắm chặt túi thể thao đỏ. - Tôi cần đến gặp người này đã.
- Có an toàn không? Tôi tưởng anh nói hắn ta đã giết ai đó? - Pelle nhìn về hướng nhà xe xây hẳn trong nhà. Không gian có rất nhiều nhưng lại không có nhà xe biệt lập. Chủ nhân có lẽ là người hâm mộ kiến trúc Mỹ. Bà của Pelle sống trong một ngôi làng, mà ở đó, nếu người dân không từng sống ở Mỹ thì cũng đang có gia đình sống bên đó, nơi những người nhiệt thành nhất với trào lưu chính thống cải đạo sang đất nước cưu mang họ không chỉ có nhà với hàng hiên, lá cờ Mỹ trên cột cờ và ô tô Mỹ trong nhà xe, mà còn cả những bộ đổi nguồn để họ cắm máy hát tự động, lò nướng bánh và tủ lạnh 110 vôn mua ở Texas hay thừa hưởng từ một người ông ở Bay Ridge, Brooklyn.
- Tối nay hắn ta sẽ không giết ai cả, - người thanh niên nói.
- Dù là vậy đi nữa, - Pelle nói. - Có chắc là anh không muốn tôi chờ không? Về lại Oslo mất có nửa giờ mà một taxi khác sẽ làm anh tốn cả bộn tiền vì nó sẽ phải đi cả một chặng đường tới đây. Để tôi tắt đồng hồ...
- Tôi thực sự biết ơn chuyện đó, Pelle, nhưng có lẽ sẽ tốt cho cả hai ta nếu ông không chứng kiến chuyện gì cả. Ông hiểu không?
- Không.
- Tốt.
Người thanh niên xuống xe. Anh ta nhìn Pelle. Pelle nhún vai rồi chạy đi; ông nghe tiếng sỏi lao xe dưới lốp xe khi nhìn theo thanh niên trong gương. Thấy anh ta đứng đó. Rồi bỗng chốc anh ta không còn nữa, mất hút vào bóng tối trong rừng.
Pelle dừng xe. Ông tiếp tục nhìn chằm chằm trong gương. Người thanh niên đã không còn. Cũng như vợ ông.
Thật khó mà hiểu thấu điều đó. Những người đã ở bên, làm đẹp đời ta, lại có thể cứ vậy tan biến đi và ta không bao giờ còn gặp lại họ nữa. Trừ phi là trong những giấc mơ. Những giấc mơ đẹp. Vì ông chưa từng thấy cô trong ác mộng. Trong ác mộng ông chỉ thấy con đường và đèn pha của chiếc xe đang lao tới. Trong ác mộng ông, Pelle Granerud, từng là tài xế chạy xe đường trường đầy hứa hẹn, không kịp phản ứng, không xoay xở thực hiện được một thao tác đơn giản để tránh gã tài xế say rượu chạy ngược chiều. Thay vì làm những điều ông đã làm mỗi ngày khi được huấn luyện trên đường đua mô tô, ông chết trân. Vì ông biết ông có thể mất thứ duy nhất ông không chịu nổi nếu mất. Không phải mạng sống của chính ông mà của gia đình ông: hai người là sự sống của ông. Hai người ông vừa đến bệnh viện đón, họ là cuộc sống mới của ông. Kể từ đây. Ông là cha. Ông được làm cha chỉ có ba ngày. Rồi khi tỉnh lại, ông đã về lại chính bệnh viện đó. Đầu tiên họ cho ông biết về những thương tích ở hai chân ông. Đó là do hiểu lầm, họ đã thay ca nên nhân viên mới vào không biết rằng vợ con ông đã mất trong vụ tai nạn. Phải hai tiếng sau ông mới biết. Ông bị dị ứng morphine, có lẽ là do di truyền, và ông đã nằm trong thống khổ không thể nào chịu nổi, kêu gào tên cô ngày này qua ngày khác. Nhưng cô không đến. Và giờ qua giờ, ngày qua ngày, từng tí một ông bắt đầu hiểu ra, rằng ông sẽ không bao giờ, không bao giờ còn gặp lại cô nữa. Nên ông tiếp tục kêu gào tên cô. Chỉ để nghe cái tên ấy. Họ chưa kịp chọn tên cho đứa bé. Và Pelle chỉ nhận ra rằng mãi đến đêm nay, khi thanh niên để tay lên vai ông, nỗi đau mới tiêu tan.
Pelle thấy bóng dáng người đàn ông trong ngôi nhà trắng. Hắn ta đang ngồi sau cửa sổ rộng không giăng rèm nhìn ra toàn cảnh. Phòng khách sáng trưng như thể người này đang trên sân khấu. Như thể hắn ta đang chờ ai đó.
* * *
Iver thấy người đàn ông khổng lồ đang dẫn người khách trò chuyện nãy giờ bên đàn dương cầm đến chỗ mình và Fredrik.
- Ông ta muốn nói chuyện với anh đấy, không phải tôi, - Fredrik nói nhỏ rồi lủi đi mất, sau khi đã để mắt đến cái gì đó mang chất Nga bên quầy bar đằng kia.
Iver nuốt ực. Đã bao năm rồi kể từ ngày hắn và người đàn ông khổng lồ bắt đầu làm ăn với nhau, bắt đầu cùng hội cùng thuyền, chia sẻ những thăng và họa hoằn lắm mới trầm, chẳng hạn những làn sóng khủng hoảng tài chính toàn cầu vỗ nhẹ lên bờ biển Na Uy? Vậy mà hắn vẫn căng cả người lên, gần như tê liệt khi người đàn ông khổng lồ tiến lại. Thiên hạ đồn ông ta nâng được chính trọng lượng thân mình trên ghế tập tạ. Và không chỉ một lần, mà lặp lại mười lần liền. Nhưng sự hiện diện hữu hình đầy dọa nạt như vậy của ông ta là một chuyện, còn biết rằng tuyệt đối mọi điều ta nói, mỗi lời, chút biến đổi nơi âm sắc, và nhất là bất cứ gì ta không định bụng, ông ta cũng đều đón bắt được thì lại là chuyện khác. Tất nhiên ngoài ra còn có cả ngôn ngữ cơ thể, sắc mặt và chuyển động của đồng tử.
- Iver này. - Giọng ồm ồm tần số thấp. - Anh thế nào? Agnete. Chuyện khủng khiếp, phải vậy không?
- Tất nhiên là vậy, - Iver nói, nhìn quanh tìm nhân viên phục vụ.
- Tôi muốn anh gặp một người bạn của tôi - hai người có gì đó chung. Cả hai đều mới góa vợ...
Người đàn ông có miếng bịt mắt chìa tay ra.
- ... bởi cùng một sát thủ, - người đàn ông khổng lồ nói.
- Yngve Morsand, - người đàn ông tự giới thiệu và siết chặt tay Iver. - Tôi rất lấy làm tiếc về mất mát của anh.
- Tôi cũng vậy, - Iver Iversen nói. Vậy đó là lý do hắn thấy người này trông quen quen. Là tay chủ tàu, chồng của bà vợ bị cưa gần đứt đầu. Yngve Morsand đã là nghi phạm chính của cảnh sát một thời gian cho đến khi họ tìm thấy AND tại hiện trường vụ án. Của Sonny Lofthus.
- Yngve sống ngay ngoài ngoại ô Drammen thôi, - người đàn ông khổng lồ nói. - Và tối nay chúng tôi mượn nhà ông ấy.
- Vậy sao?
- Chúng tôi dùng nó để giăng bẫy. Chúng tôi định tóm thằng đã giết Agnete, Iver. Sinh Đôi nói rất có khả năng tối nay Sonny Lofthus sẽ mưu sát tôi ở đó, - Yngve Morsand cười và nhìn quanh quất tìm gì đó. - Tôi cá tiền là hắn sẽ không làm vậy. Ông vui lòng bảo phục vụ lấy cho tôi thứ gì đó mạnh hơn martini chứ, Sinh Đôi?
- Đó là bước đi kế tiếp hiển nhiên của Sonny Lofthus, - người đàn ông khổng lồ nói. - May là hắn khá có phương pháp và dễ đoán, nên tôi nghĩ tôi sẽ ẵm tiền của ông. - Người đàn ông khổng lồ cười toét. Hàm răng trắng dưới ria mép, mắt như hai cái khe nơi bộ mặt nung núc thịt. Ông ta đặt bàn tay hộ pháp lên lưng gã chủ tàu. - Và tôi muốn ông đừng gọi tôi như vậy nữa, Yngve.
Tay chủ tàu đùa cợt nhìn lên ông ta.
- Ý ông là Sinh Đôi... ối ối.
Miệng hắn há ra còn mặt méo xệch, rúm ró lại sững sờ, tê liệt. Iver thấy mấy ngón tay người đàn ông khổng lồ siết quanh cổ Morsand buông ra rồi tay chủ tàu gập người tới trước mà ho sặc sụa. - Vậy nên tôi nghĩ ta đã nhất trí về chuyện đó rồi, phải vậy không? - Người đàn ông khổng lồ đưa tay về phía quầy bar búng tách mấy ngón tay. - Nước.
* * *
Martha lúng túng chọc thìa vào bánh pút đinh kem mâm xôi và phớt lờ những câu đang từ mọi góc bàn ném về phía cô. Phải người này từng hành hung cháu không? Hắn có nguy hiểm không? Nếu hắn là người trọ trong trung tâm, hẳn là cháu sẽ gặp lại hắn, Chúa ơi! Lỡ tên này đi tố Anders với cảnh sát vì bảo vệ cô thì sao? Ai cũng biết mấy tên nghiện ma túy này khó lường thế nào. Nhưng nghĩ lại thì có lẽ hắn đang phê thuốc nên không nhớ đươc gì. Một ông cậu thấy hắn trông giống kẻ trên TV bị truy nã vì giết người. Tên hắn là gì - hắn là người nước ngoài hả? Gì vậy, Martha, sao cháu không nói gì cả? Chắc anh đoán được vì sao mà, con bé có phận sự giữ bí mật.
- Cháu đang ăn bánh pút đinh mà, - Martha nói. - Bánh ngon đấy, cậu nên ăn thử một miếng xem. Chắc là cháu sẽ đi lấy thêm.
Anders đi lại đằng sau cô trong bếp.
- Anh nghe hắn nói rồi, - anh rít lên. - “Anh yêu em?”. Đó là gã trong hành lang ở Ila. Người em đã nói chuyện. Giữa hai người đang có chuyện gì?
- Anders, đừng...
- Em đã ngủ với hắn chưa?
- Thôi đi!
- Nhất định là lương tâm hắn đầy tội lỗi. Nếu không hắn đã rút súng chĩa vào anh rồi. Hắn làm gì đây - hắn đến để bắn anh chắc? Anh sẽ gọi cho cảnh sát...
- Để khai với họ là anh đã tấn công và đá vào đầu một người khi chưa bị khiêu khích sao?
- Vậy ai sẽ nói với họ là anh chưa bị khiêu khích? Em ư?
- Hay tài xế taxi.
- Em hả? - Anh chụp cánh tay cô và cười lớn. - Phải, em sẽ nói, đúng không? Em sẽ về phe hắn hại chồng chưa cưới. Em, đồ con...
Cô giằng ra. Một chiếc đĩa nhỏ rơi xuống sàn vỡ tan. Phòng ăn im bặt.
Martha bước ra phòng lớn, chụp lấy áo choàng rồi tiến ra cửa. Dừng lại. Ngập ngừng giây lát. Rồi cô xoay lại bước vào phòng ăn. Cô chụp lấy cái thìa, trắng xóa cả bánh pút đinh kem mâm xôi, gõ gõ lên cái ly láng cả mỡ. Cô nhìn lên thì nhận ra hành động sau cùng đó là bằng thừa, cô đã được mọi người chú ý rồi.
- Bạn bè và gia đình thân mến, - cô nói. - Tôi muốn nói thêm là Anders nói đúng. Quả thực là chúng tôi không thể đợi đến hè...
* * *
Simon chửi thề. Ông đỗ xe giữa Kvadraturen và đang nghiên cứu bản đồ khu vực này. Dịch vụ trợ giúp Telenor của cảnh sát đã cho ông biết điện thoại ở đây. Điện thoại Sonny Lofthus dùng nhắn tin cho ông. Và giờ Simon biết đó là điện thoại trả trước đăng ký tên Helge Sorensen. Chuyện đó cũng dễ hiểu, cậu ta đã dùng thẻ căn cước của chính tên quản giáo lúc trước.
Nhưng cậu ta ở đâu được?
Tọa độ chỉ bao quát được vài con phố, nhưng lại là những phố đông đúc bậc nhất Oslo. Cửa hiệu, văn phòng, khách sạn, căn hộ. Simon giật nảy người khi có tiếng gõ bên cửa hông. Ông nhìn lên thì thấy một cô gái tròn trĩnh, trang điểm lòe loẹt, mặc quần dài nóng bỏng, bộ ngực căng tròn trong một thứ áo ngực nào đó. Ông lắc đầu, cô ta xụ mặt với ông rồi bỏ đi. Simon quên rằng đây là khu đèn đỏ tấp nập nhất thành phố, nên một người đàn ông ngồi trong xe đậu giữa mấy con phố đó đương nhiên được xem là khách làng chơi. Một vụ khẩu dâm trong xe, mười phút trong khách sạn Bismarck hay dựa tường pháo đài Akershus. Ông đã từng là gã đàn ông đó. Đó không phải cái gì ông tự hào, nhưng xưa kia ông từng sẵn lòng trả cho một chút tiếp xúc với con người và một giọng nói “Em yêu anh”. Cái sau rơi vào phạm trù “dịch vụ đặc biệt” và tốn thêm hai trăm krone nữa.
Ông gọi lại số này lần nữa rồi nhìn thiên hạ xuôi ngược trên vỉa hè, hy vọng một trong số họ sẽ với tay lấy điện thoại và nhân đó tự tố giác mình. Ông thở dài rồi tắt máy. Nhìn đồng hồ. Ít ra thì ông cũng biết là điện thoại đang ở trong vùng này, và điều đó có lẽ cho thấy tối nay Sonny thúc thủ và không định làm gì tai quái.
Vậy sao Simon lại cảm giác có gì không ổn?
* * *
Bo ngồi trong phòng khách xa lạ, nhìn cửa sổ rộng mở ra toàn cảnh. Hắn ngồi trước một ngọn đèn sáng trưng hướng vào cửa sổ để từ ngoài ai nhìn vào cũng chỉ thấy dáng hắn mà không thấy nét mặt. Hy vọng là Sonny Lofthus không rõ lắm vóc dáng Yngve Morsand. Bo nghĩ Sylvester đã ngồi y như vậy khi hắn để tên này lại nhà Lofthus. Sylvester tốt bụng, ngu ngốc, trung thành, ồn ào. Thằng khốn đó đã giết gã. Thằng đó đã làm vậy như thế nào, có lẽ chẳng bao giờ chúng biết được. Bởi sẽ không có một buổi tra khảo nào để Bo được ra tay báo thù, nhâm nhi như hắn thường nhâm nhi ly rượu vang Hy Lạp có vị nhựa thông. Một số người không chịu được nó, nhưng với Bo thì nó tượng trưng cho mùi vị tuổi thơ hắn, hòn đảo Telendos, bạn bè, một con thuyền sóng sánh hắn thường nằm dưới đáy nhìn lên bầu trời Hy Lạp bao giờ cũng xanh ngắt và nghe sóng gió cùng hát khúc song tấu. Hắn nghe tiếng tách tách bên tai phải.
- Có một xe dừng dưới đường rồi vòng lại.
- Có ai xuống xe không? - Bo hỏi. Tai nghe, sợi cáp và micro kín đáo đến mức sẽ không hiện rõ trên ánh đèn chiếu ngược từ bên ngoài.
- Bọn tôi chưa kịp thấy, nhưng giờ xe đang chạy đi. Chắc là lạc đường.
- OK. Tất cả cứ sẵn sàng.
Bo chỉnh lại áo chống đạn. Lofthus sẽ không có thời gian đâu mà nhả đạn, nhưng hắn thích có những biện pháp đề phòng hơn. Hắn đã cắt đặt hai đứa trong vườn để tóm Lofthus khi gã ta đi qua cổng hay hàng rào, và một ở hành lang sau cánh cửa trước không khóa. Mọi lối khác đều đã được khóa trái. Chúng ở đây từ năm giờ chiều, chúng mệt mà đêm chỉ mới bắt đầu, nhưng những ý nghĩ về Sylvester sẽ làm hắn tỉnh. Ý nghĩ tóm được thằng con hoang đó. Dụ gã ra ngoài đây. Nếu không đêm nay, thì đêm mai, hay đêm kia. Nhiều lúc Bo nghĩ thật kỳ lạ, sao người đàn ông khổng lồ - bản thân ông ta có rất ít nhân tính - lại nhìn thấu thiên hạ như vậy. Những thôi thúc của họ, những yếu kém và động cơ, họ phản ứng lại áp lực và nỗi sợ ra sao và làm thế nào ông ta có đủ thông tin về tâm tính của họ, những xu hướng và sự thông minh, dự đoán được bước đi kế tiếp của họ với sự chính xác đáng kinh ngạc - hay như chính người đàn ông khổng lồ vẫn nói: sự chính xác đáng ngán. Đáng tiếc là người đàn ông khổng lồ đã ra lệnh phải giết gã thanh niên ngay lập tức mà không bắt giữ nên cái chết của gã sẽ nhanh chóng và hết sức nhẹ nhàng êm ái.
Bo xê dịch trong ghế khi nghe có tiếng động. Rồi khi còn chưa xoay lại thì hắn đã có một ý nghĩ thoáng qua đầu. Rằng hắn không có khả năng của người đàn ông khổng lồ là thấy trước được tiếp theo gã thanh niên này sẽ làm gì. Không khi hắn bỏ Sylvester lại trong ngôi nhà vàng, và bây giờ cũng không.
Trán gã thanh niên quấn khăn tay dính máu và gã đang đứng bên cửa hông chạy từ phòng khách vào thẳng nhà xe.
Làm thế quái nào mà gã vào được lối đó, khi mà chúng đã khóa nhà xe? Hẳn gã đi từ sau nhà, từ ngoài rừng vào. Cạy cửa nhà xe đã khóa chắc hẳn là một trong những ngón mà thằng nghiện thông minh học được. Nhưng đây không phải vấn đề cấp bách nhất của Bo. Vấn đề cấp bách nhất của hắn là gã thanh niên đang cầm thứ gì đó chẳng may lại tương tự một khẩu Uzi, cái loại có khả năng tuôn ra chín viên đạn 19 li nhanh hơn một đội hành quyết trung bình.
- Mày không phải Yngve Morsand, - Sonny Lofthus nói. - Hắn đâu?
- Hắn ở đây, - Bo nói, quay đầu qua micro.
- Đâu?
- Hắn đây, - Bo lặp lại, lần này to hơn chút. - Trong phòng khách.
Sonny Lofthus vừa nhìn quanh vừa bước tới chỗ Bo giơ cao khẩu súng máy và ngón tay để trên cò. Kíp đạn có vẻ như chứa ba mươi sáu viên. Gã dừng. Có phải gã ta đã phát hiện ra tai nghe và dây cáp từ micro?
- Mày đang nói với ai vậy, - gã thanh niên nói rồi kịp lùi lại một bước trước khi cửa vào hành lang mở toang và Stan cùng khẩu súng lục ập vào. Bo thò tay lấy khẩu Ruger thì nghe tiếng khạc khô khốc, tành tạch từ khẩu Uzi và kính đổ rào rào như thác khi cửa sổ sau lưng hắn vỡ tan. Đồ nhồi nệm trắng từ bàn ghế bọc vải tuôn ra và vụn gỗ từ sàn lát gỗ bay tung tóe. Gã ta tha hồ rải đạn mà không có mục tiêu cụ thể nào. Nhưng chuyện đó không quan trọng, một khẩu Uzi bao giờ cũng ăn đứt hai súng lục. Bo với Stan nấp vào sau xô pha gần nhất. Súng chợt im bặt. Bo nằm ngửa hai tay nắm chặt khẩu súng lục phòng khi mặt gã ló ra qua mép xô pha.
- Stan! - Hắn gào lên. - Dẫn hắn ra đây.
Không đáp.
- Stan!
- Ông làm đi! - Stan gào lên từ sau xô pha tường bên kia. - Hắn có một con Uzi chết tiệt mà, mẹ kiếp!
Có tiếng lách tách bên tai nghe của Bo:
- Có chuyện gì, sếp?
Cùng lúc đó Bo nghe thấy tiếng xe khởi động và rồ máy ầm ĩ. Morsand đã lấy chiếc Mercedes 280CE Coupe đời 1982 đường bệ đi dự tiệc của Sinh Đôi ở Oslo, nhưng chiếc xe để vợ hắn chạy việc vặt - một chiếc Honda Civic nhỏ nhắn xinh xắn - vẫn còn đó. Giờ Morsand đã giết bà ta rồi, hắn không còn người vợ có thể ngồi xe đó chạy quanh, nhưng chắc hẳn chìa vẫn còn cắm nơi bộ đánh lửa. Có lẽ ngoài vùng quê này chúng làm vậy với vợ và xe, đem ra dùng chung.
Bo nghe thấy giọng bọn đàn em bên ngoài.
- Hắn đang tìm cách tẩu thoát!
- Có người đang mở cửa nhà xe.
Bo nghe tiếng kèn kẹt khi chiếc Honda vào số. Rồi một tiếng khùng khục khi máy bị nghẹt. Gã này đúng là dân tay mơ hay sao? Hắn không biết bắn mà cũng chẳng rành lái xe.
- Tóm lấy hắn?
Xe khởi động lần thứ hai.
- Nhưng mà Uzi...
- Uzi hay Sinh Đôi, bọn bay chọn đi!
Bo lồm cồm đứng dậy tuôn qua cửa sổ vỡ tan đúng lúc chiếc xe phóng khỏi nhà xe. Nubbe và Evgeni đã thủ thế trước cổng. Nubbe với khẩu Beretta đang nhả đạn liên hồi, hết viên này đến viên khác. Evgeni đưa lên má khẩu Remington 870 cưa mất báng súng ở kíp đạn. Hắn giật búng người khi bóp cò. Bo thấy kính chắn gió nổ tung, nhưng chiếc xe vẫn tăng tốc, cái hãm xung đằng trước tông vào Evgeni ngay bên trên đầu gối, hất tung hắn lên, rồi Bo thấy hắn lộn nhào trên không trước khi chiếc Civic không còn kính chắn gió ngoạm lấy hắn như cá voi sát thủ nuốt chửng con hải cẩu. Chiếc Civic cán qua cổng và một đoạn hàng rào, chạy thẳng qua lối đi rải sỏi hẹp vào cánh đồng lúa mì bên kia. Thế rồi, không chậm lại, nó cắm xuống, kêu kín kít ở số một khi cày một đường qua những thếp lúa mì vàng ruộm đẫm ánh trăng, quành một vòng rộng rồi mới về lại lối đi rải sỏi cuối đường. Động cơ rú còn to hơn - rõ ràng tay lái đã đạp côn mà không lấy chân khỏi chân ga. Rồi gã cho xe vào số hai, máy lại muốn tắt mấy lần nữa, nhưng nó nổ lại được và vậy là xe tiếp tục chạy xuôi con đường nhỏ rải sỏi, và rồi, bởi người lái chưa kịp bật đèn pha, chẳng mấy chốc nó chìm trong bóng tối.
- Ra xe, - Bo gào lên. - Ta phải tóm được hắn trước khi hắn vào thành phố.
* * *
Pelle dõi mắt nhìn theo chiếc Honda đầy ngờ vực. Ông đã nghe mấy tiếng súng và qua gương chiếu hậu đã thấy chiếc xe lồng qua cổng, hất tung từng mảnh hàng rào song sắt trắng. Thấy xe cày qua cánh đồng trồng nông sản nhận quá nhiều trợ cấp rồi mới quành lại đường và tiếp tục hành trình đáng ngờ. Anh chàng này không phải tay lái thuần thục, điều đó thì chắc rồi, nhưng Pelle đã thở phào nhẹ nhõm khi dưới ánh trăng ông nhận ra được cái khăn tay lấm máu bên trên tay lái đằng sau tấm kính chắn gió vỡ toác. Ít ra thì chàng thanh niên vẫn còn sống.
Ông nghe tiếng quát tháo từ trong nhà.
Tiếng súng được nạp đạn trong đêm hè thanh vắng.
Một chiếc xe đang khởi động.
Pelle chẳng biết chúng là ai. Anh thanh niên đã nói với ông - dù điều đó có thật hay không - rằng người đàn ông trong nhà là kẻ giết người. Một người đàn ông, có lẽ là tài xế say rượu đã làm chết người, và giờ đã ra tù. Pelle không biết.
Ông chỉ biết mỗi một điều là sau bao năm tháng cố làm sao để chôn mình cả ngày đêm đằng sau tay lái taxi, ông đã về lại nơi ấy. Nơi ông biết phản ứng lại hay là tê liệt. Xê dịch quỹ đạo của các tinh cầu - hoặc không. Một chàng trai không có được cô gái anh ta muốn. Ông rê ngón tay dọc bức hình để cạnh tay lái. Rồi ông vào số và chạy theo sau chiếc Honda. Xuống đồi rồi chạy vào cây cầu hẹp. Trên vách đá ông thấy hai ngọn đèn pha cắt qua bóng tối. Ông nhấn ga, nhanh dần, quay nhẹ tay lái sang phải, nắm phanh tay, nhấn và thả bàn đạp thoăn thoắt và du dương như tay chơi organ trong nhà thờ và bẻ mạnh tay lái sang trái. Phần đuôi xe xê dịch đúng ý khi ông cua xe bằng phanh tay. Và khi dừng thì chiếc xe đứng theo đường chéo thật hoàn hảo chắn ngang cầu. Pelle gật đầu hài lòng về mình; ông chưa mất phong độ. Đoạn ông tắt máy, cho xe về số một, dịch qua bên ghế hành khách và ra khỏi xe. Kiểm tra để chắc là cả hai bên đều có khoảng hở tối đa hai mươi phân giữa thành cầu và xe. Bấm chìa một cái là khóa hết các cửa rồi cất bước về phía đường chính. Ông nghĩ về cô, lúc nào ông cũng nghĩ về cô. Giá mà giờ cô thấy ông. Thấy ông đang bước đi. Ông hầu như không thấy đau ở bàn chân, ông chỉ đi khập khiễng. Có lẽ các bác sĩ nói đúng. Có lẽ đã đến lúc quẳng nạng đi.

37

Lúc này là hai giờ sáng và đêm hè đang lúc tối nhất.
Từ góc nhìn vắng vẻ trong khoảng rừng thưa phía trên Oslo Simon thấy con vịnh lung linh mờ ảo bên dưới vầng trăng lớn vàng rực.
- Sao?
Simon kéo áo choàng ôm người như thể bị lạnh.
- Tôi từng đưa người con gái đầu tiên tôi yêu đến chỗ này đây. Chỉ để ngắm cảnh. Để ân ái. Cô biết đấy...
Ông thấy Kari đổi tư thế.
- Chúng tôi không có chỗ nào khác để đến. Và nhiều năm sau khi Else và tôi ở bên nhau, tôi cũng thường đưa cô ấy đến đây. Dù chúng tôi có một căn hộ và giường đôi. Có cảm giác thật... lãng mạn và ngây thơ. Cũng giống như khi yêu lần đầu.
- Simon...
Simon quay lại quan sát hiện trường lần nữa. Mấy xe cảnh sát có đèn xanh nhấp nháy, dây rào của cảnh sát và chiếc Honda Civic bị vỡ kính chắn gió và một người chết nằm một góc không được tự nhiên, ấy là nói giảm nhẹ, bên ghế hành khách. Ở đây có rất đông sĩ quan cảnh sát. Quá đông. Quá hoảng loạn.
Lần này giám định viên pháp y đã nhanh chân hơn ông một bước, phỏng đoán nạn nhân đã gãy cả hai chân trong vụ đâm xe, bị hất tung qua nắp ca pô rồi rơi vào xe, gãy cổ khi va đập với ghế ngồi. Tuy nhiên, giám định viên đã thấy thật kỳ lạ là nạn nhân không bị thương tích gì ở mặt sau khi va chạm với kính chắn gió, cho đến khi Simon nhặt được một viên đạn nơi ghế ngồi. Simon cũng đã yêu cầu phân tích máu tìm thấy nơi ghế tài xế, vì hình dạng vết máu không khớp với vết rách nơi giò nạn nhân.
- Vậy là anh ta đặc biệt yêu cầu chúng ta có mặt ư? - Simon hỏi, hất hàm về phía Asmund Bjornstad đang đứng gần một cảnh sát điều tra hiện trường và vẫy tay.
- Phải, - Kari nói. - Vì xe được đăng ký tên Kjersti Morsand, một nạn nhân của Lofthus, nên anh ta muốn...
- Nghi phạm.
- Xin lỗi tôi nghe chưa rõ?
- Lofthus chỉ bị tình nghi giết Kjersti Morsand. Đã ai báo cho Yngve Morsand biết chưa?
- Lão ta nói lão không biết gì; đêm nay lão ngủ khách sạn ở Oslo, và lần sau cùng lão thấy thì xe ở trong nhà xe. Cảnh sát Drammen nói trông như đã có nổ súng tại nhà lão. Không may là hàng xóm gần nhất cũng cách đó rất xa, nên không có nhân chứng.
Asmund Bjornstad bước tới chỗ họ.
- Giờ chúng tôi đã biết ai là gã trong ghế hành khách. Evgeni Zubov. Một tên tội phạm có tiếng. Cảnh sát Drammen còn nói có đạn Luger chín viên 19 li dưới ván sàn trong nhà, rải theo hình quạt.
- Một khẩu Uzi? - Simon nói, nhướng một bên mày.
- Ông nghĩ tôi phải nói với báo chí thế nào đây? - Asmund nói, chỉ ngón cái ra sau vai. Đám phóng viên đầu tiên đã quanh quẩn gần băng cảnh sát bên đường.
- Như mọi khi, - Simon nói. - Nói với họ điều gì đó, nhưng đừng cho họ gì cả.
Bjornstad thở sượt.
- Họ sẽ không để ta yên đâu. Vậy thì khi nào ta mới có thời gian mà làm việc đây? Tôi ghét bọn họ.
- Họ cũng có việc phải làm mà, - Simon nói.
- Báo chí đang biến anh ta thành người nổi tiếng, ông biết chuyện đó chưa?
Kari nói khi họ nhìn viên thanh tra trẻ bước tới một biển đèn nháy.
- À, anh ta là điều tra viên có tài mà, - Simon nói.
- Không phải Bjornstad. Sonny Lofthus kìa.
Simon ngạc nhiên quay qua cô.
- Thật hả?
- Họ gọi anh ta là tên khủng bố thời hiện đại. Họ nói anh ta đã tuyên chiến với tội phạm có tổ chức và chủ nghĩa tư bản. Rằng anh ta đang loại bỏ những kẻ ăn bám cho xã hội.
- Nhưng chính anh ta cũng là tội phạm.
- Chuyện đó chỉ càng làm cho mục tin rôm rả hơn thôi. Ông không khi nào đọc báo sao?
- Phải.
- Ông cũng không trả lời điện thoại. Tôi đã cố gọi cho ông.
- Tôi bận.
- Bận sao? Oslo đã bị đảo lộn lên vì mấy vụ án mạng này, vậy mà ông không ở văn phòng cũng không ở ngoài hiện trường. Ông mang danh là sếp của tôi, Simon.
- Đã nhận thông điệp và đã hiểu. Chuyện gì vậy?
Kari hít một hơi sâu.
- Tôi đã nghĩ: Lofthus là một trong rất ít thanh niên ở đất nước này không có tài khoản ngân hàng, thẻ tín dụng hay địa chỉ đăng ký. Nhưng ta biết anh ta có đủ tiền mặt từ vụ án mạng Kalle Farrisen để trọ trong khách sạn.
- Anh ta đã trả tiền mặt ở Plaza.
- Đúng vậy. Nên tôi đã kiểm tra các khách sạn. Trong số 20.000 khách trọ khách sạn hằng đêm ở Oslo, trung bình chỉ có sáu trăm người trả tiền mặt.
Simon nhìn cô chăm chăm.
- Cô tìm giúp xem trong sáu trăm này có bao nhiêu người đang ở Kvadraturen được không?
- Ơ, được. Đây là danh sách khách sạn. - Cô lấy trong túi áo khoác ra một bản in. - Sao vậy?
Simon một tay cầm bản in còn tay kia đeo kính đọc vào, mở mấy tờ giấy và lướt nhìn. Nhìn các địa chỉ. Một khách sạn. Hai. Ba. Sáu. Và vài khách sạn trong số đó có khách trả tiền mặt, nhất là những khách sạn rẻ tiền. Vẫn còn quá nhiều tên. Và ông đoán một số khách sạn rẻ tiền nhất thậm chí còn không được liệt kê. Simon chỉ ngừng đọc.
Rẻ tiền.
Cô gái đã gõ cửa xe ông. Cuộc hẹn hò của các cặp tình nhân trong xe, tại pháo đài Akershus hay... trong Bismarck. Khách sạn ưa thích của gái điếm Oslo. Ngay giữa Kvadraturen.
- Tôi hỏi ông tại sao.
- Cứ tiếp tục bám sát manh mối đó, tôi phải đi đây. - Simon cất bước tới xe.
- Chờ đã? - Kari gọi theo rồi chắn lối ông. - Lúc này ông đừng có mà bỏ trốn. Đang có chuyện gì vậy?
- Đang có chuyện gì ư?
- Ông kiểu như đang có công chuyện riêng vậy. Thật không chấp nhận được. - Kari hất mấy đọt tóc trên mặt.
Giờ Simon mới thấy; cả cô cũng kiệt sức.
- Tôi không biết chuyện này là sao, - cô nói. - Có thể là ông muốn cứu vãn tình thế, làm người hùng buổi xế chiều, chứng minh là Bjornstad và Kripos sai. Nhưng không thể được, Simon. Vụ này quá lớn không làm cuộc thi tè cho một đám anh già được.
Simon nhìn cô hồi lâu. Thế rồi, cuối cùng, ông chậm rãi gật.
- Có thể cô nói đúng. Nhưng những động cơ của tôi không phải như cô nghĩ.
- Vậy thì nói tôi nghe đó là gì.
- Tôi không nói được, Kari. Cô chỉ cần tin tưởng tôi là được.
- Khi chúng ta tới gặp Iversen, ông nói tôi phải chờ bên ngoài vì ông đang tính chuyện phạm luật. Tôi không muốn phạm luật, Simon. Tôi chỉ muốn làm việc của mình. Nên nếu ông không nói tôi biết đây là về chuyện gì... - Giọng cô run run. Nhất định là mệt, Simon nghĩ. - ... thì tôi sẽ phải đi gặp ai đó cao hơn và cho họ biết đang có chuyện gì.
Simon lắc đầu.
- Đừng làm vậy, Kari.
- Nhưng tại sao đừng?
- Vì, - Simon nói, đón cái nhìn của cô và nhìn chăm chú. - Gián điệp nhị trùng vẫn còn đó. Cho tôi hai mươi bốn giờ. Làm ơn.
Simon không chờ cô trả lời. Cũng chẳng thay đổi được gì. Ông đi qua cô tới xe. Ông cảm thấy mắt cô nhìn theo sau lưng.
Trên đường chạy xuống đồi từ Holmenkollasen Simon mở đoạn ghi âm cuộc trò chuyện điện thoại ngắn ngủi với Sonny. Tiếng thình thịch nhịp nhàng. Tiếng rên rỉ thái quá. Những bức vách mỏng ở khách sạn Bismarck. Sao ông lại không nhận ra tiếng đó?
Simon nhìn xuống cậu thanh niên ngồi sau quầy tiếp tân đang kiểm tra thẻ cảnh sát của ông. Bao năm đã qua vậy Bismarck không có gì thay đổi. Ngoài chàng trai; hồi ấy cậu ta chưa ngồi đó. Và ông thấy chuyện đó cũng được thôi.
- Phải, tôi thấy ông là sĩ quan cảnh sát, nhưng quả tình tôi không có sổ khách để cho ông xem.
- Anh ta trông thế này, - Simon nói, để tấm hình lên quầy.
Cậu thanh niên nhìn chăm chú. Cậu ta do dự.
- Một khả năng khác là chúng tôi vây ráp tòa nhà và đóng cửa toàn bộ chỗ này, - Simon nói. - Cậu nghĩ bố cậu sẽ nói sao nếu cậu làm cái nhà thổ của ông ta phải đóng cửa?
Nét giống nhau trong gia đình không đánh lừa ông, ông nghĩ đúng.
- Anh ta ở tầng hai. Phòng 216. Ông đi...
- Tôi sẽ tìm được. Đưa tôi chìa khóa.
Lần nữa, cậu thanh niên trông miễn cưỡng. Rồi cậu ta mở hộc, tháo một chìa trong chùm lớn đưa cho Simon.
- Nhưng chúng tôi không muốn có gì lôi thôi cả.
Simon đi quá thang máy rồi bước hai bước một lên cầu thang. Ông vừa bước dọc hành lang vừa nghe ngóng. Im ắng. Bên ngoài cửa phòng 216 ông rút khẩu Glock ra. Để ngón tay lên cò loại cơ cấu kép. Cố hết sức tra chìa vào ổ không một tiếng động và xoay. Đứng qua một bên cửa, tay phải cầm khẩu súng lục còn tay trái mở cửa. Đếm đến bốn thì thò đầu vào bằng một động tác nhanh. Ông thở phào.
Bên trong tối, màn khép, nhưng đủ sáng để Simon thoáng thấy chiếc giường.
Giường đã dọn và không có ai.
Ông đi vào trong kiểm tra phòng tắm. Một bàn chải và kem đánh răng.
Ông quay lại phòng ngủ, không bật đèn mà ngồi xuống ghế phụ gần tường.
Lấy điện thoại ra bấm vài phím. Một tiếng bíp bíp cất lên đâu đó trong phòng.
Simon mở tủ áo. Bên trên cặp một điện thoại sáng lên trước mặt ông và có số của ông hiện trên màn hình.
Simon bấm phím tắt rồi ngồi phịch xuống ghế.
Chàng trai đã cố ý bỏ điện thoại lại để không bị dò theo. Nhưng có lẽ cậu ta không nghĩ sẽ có người dò ra nó trong một khu dân cư đông đúc thế này. Simon nghe ngóng bóng tối. Lắng nghe một đồng hồ đang đếm lùi.
* * *
Markus vẫn còn thức khi thấy Người Con Trai đang bước trên đường.
Markus đã theo dõi ngôi nhà màu vàng từ lúc người kia đến cách đây vài giờ, cậu còn chưa thay pyjama nữa, cậu không muốn để mất thứ gì.
Cậu nhận ra Người Con Trai nhờ cách anh di chuyển khi bước giữa phố về đêm thanh vắng và đèn đường quét qua khi anh đi ngang bên dưới. Trông anh mệt mỏi, có lẽ đã đi bộ xa, vì anh đang ngả nghiêng. Markus tìm được anh qua ống nhòm. Anh mặc bộ com lê, tay nắm chặt bên sườn còn trán quấn khăn tay đỏ. Phải máu trên mặt anh không? Chẳng sao, cậu phải báo cho anh biết trước.
Markus thận trọng mở cửa phòng ngủ, rón rén xuống cầu thang, xỏ giày và chạy băng qua đám cỏ héo tới cổng.
Người Con Trai nhận thấy cậu nên dừng lại ngay trước cổng vào nhà mình.
- Chào Markus. Lẽ ra là em đang nằm trong giường chứ?
Giọng anh trầm tĩnh nhẹ nhàng. Trông anh như mới trải qua mấy cuộc chiến, vậy mà anh nói cứ như đang kể chuyện cho cậu nghe trước giờ ngủ. Markus quyết định là cũng sẽ nói giọng như vậy khi lớn lên và khi không còn biết sợ nữa.
- Anh bị thương hả?
- Anh bị người ta đụng khi đang chạy xe, - Người Con Trai mỉm cười. - Không sao đâu.
- Có ai trong nhà anh đấy.
- Vậy hả? - Người Con Trai nói, quay qua mấy cửa sổ đen bóng. - Người tốt hay người xấu?
Markus nuốt ực. Cậu đã thấy hình trên TV. Nhưng cậu cũng nghe mẹ nói rằng chẳng có gì phải sợ, rằng anh chỉ làm hại kẻ xấu. Còn trên Twitter nhiều người ca tụng anh, viết rằng cảnh sát nên để kẻ xấu trừ khử kẻ xấu, giống như dùng côn trùng ăn mồi sống để diệt trừ sâu bọ.
- Em nghĩ cả hai đều không phải.
- Vậy sao?
Martha tỉnh dậy khi có ai đó vào phòng.
Cô đã nằm mơ. Mơ thấy người đàn bà trên gác mái. Đứa bé. Cô thấy đứa bé, nó còn sống, nó vẫn ở đó tự bao giờ, bị nhốt trong tầng hầm và cứ khóc mãi chờ được thả ra. Và giờ nó đã ra ngoài rồi. Nó ở đây.
- Martha?
Giọng anh, giọng dễ thương, điềm đạm nghe có vẻ ngờ vực. Cô trở mình trên giường và nhìn anh.
- Anh đã bảo em cứ đến, - cô nói. - Không ai mở cửa cho em vào, nhưng em biết chìa khóa để đâu, nên...
- Em đến rồi.
Cô gật.
- Em chọn phòng này, em hy vọng là không sao.
Anh chỉ gật rồi ngồi xuống bên mép giường.
- Tấm nệm để dưới sàn, - cô nói và duỗi người. - Mà này, khi em để nệm lên lại thì có một cuốn sổ rơi qua vạc giường. Em để nó trên bàn đằng kia.
- OK?
- Sao mà tấm nệm...
- Anh đã nấp dưới nệm, - anh nói mà mắt không rời cô. - Khi bò ra, anh thả nó xuống sàn và để luôn đó. Em có gì đấy?
Anh đưa bàn tay đang túm chặt bên sườn lên sờ một bên tai cô. Cô không đáp. Cô để anh sờ chiếc bông tai. Một luồng gió lay động mấy tấm rèm cô đã treo lên khi tìm thấy trong rương đựng chăn. Một tia sáng trăng lẻn vào, rọi lên bàn tay và mặt anh. Cô sững người.
- Trông vậy thôi chứ không nặng lắm đâu, - anh nói.
- Không, không phải vết rách trên trán. Anh đang bị chảy máu chỗ nào khác. Đâu vậy?
Anh vạch áo khoác ra chỉ cho cô thấy. Bên phải áo sơ mi ướt đẫm máu.
- Gì vậy?
- Một viên đạn. Nó chỉ sượt qua anh thôi. Hoàn toàn vô hại, chỉ là chút máu, sẽ sớm...
- Suỵttt, - cô nói rồi vung chân hất chăn đi, dắt tay anh đến phòng tắm. Mặc kệ chuyện anh có thể thấy cô đang mặc đồ lót trong khi cô lục tìm trong tủ thuốc. Tìm được chút thuốc sát trùng cũ đã ở đây mười hai năm, hai cuộn băng, ít bông gòn và cây kéo. Cô bắt anh cởi trần.
- Em thấy rồi đấy, nó chỉ là một lỗ thủng trong lốp xe dự phòng thôi mà, - anh mỉm cười.
Cô từng thấy cái tồi tệ hơn. Cô từng thấy cái khá hơn. Cô lau mấy vết thương rồi đắp bông gòn lên các lỗ thủng mà viên đạn đã vào rồi ra. Rồi cô quấn băng quanh thắt lưng cho anh. Khi cô tháo khăn tay quanh trán anh, máu tươi từ bên dưới vết thương liền nhỏ giọt xuống.
- Mẹ anh có bộ đồ khâu nào không?
- Anh không cần...
- Em đã nói im mà.
Cần bốn phút và bốn mũi chỉ để khâu da rách lại.
- Anh thấy chiếc cặp trong hành lang, - anh nói khi cô quấn vài lớp gạc quanh trán anh.
- Đó không phải tiền của em. Mà hội đồng cũng đã phân bổ đủ cho bọn em để sửa chữa, vậy nên cảm ơn nhưng không cần đâu. - Cô dán các mép lại với nhau ngay ngắn rồi vuốt má anh. - Rồi đấy, cái đó ắt là...
Anh hôn cô. Ngay môi. Rồi anh buông cô ra.
- Anh yêu em.
Rồi anh lại hôn cô.
- Em không tin anh đâu, - cô nói.
- Em không tin là anh yêu em?
- Em không tin anh từng hôn những cô gái khác. Anh hôn vụng lắm.
Tiếng cười làm mắt anh lung linh.
- Lâu rồi mà. Làm ơn nhắc cho anh nhớ đi?
- Đừng lo làm cho đúng. Cứ để nó diễn ra. Cứ hôn em thong thả.
- Thong thả?
- Như con rắn ngái ngủ, mềm mại. Như thế này này.
Cô ôm đầu anh dịu dàng trong tay rồi đưa môi lên môi anh. Rồi cô chợt nhận ra cử chỉ này nó có cảm giác tự nhiên lạ lùng, như thể họ là hai đứa trẻ chơi một trò thú vị nhưng thơ ngây. Và anh tin cậy cô. Như cô tin cậy anh.
- Anh thấy chưa? - cô thì thầm. - Nhiều môi hơn, bớt lưỡi đi.
- Nhiều cồn hơn, bớt xăng đi?
Cô cười rúc rích.
- Chính xác. Mình vào giường đi.
- Chuyện gì sẽ xảy ra ở đó?
- Mình cứ xem xem. Sườn anh thế nào? Sẽ ổn chứ?
- Ổn để làm gì?
- Đừng làm bộ ngây thơ với em.
Anh lại hôn cô.
- Xem chắc không? - anh thì thầm.
- Không. Nên nếu mình chờ quá lâu...
- Mình vào giường đi.
* * *
Rover đứng lên, vừa ưỡn lưng vừa rên. Đang lúc hào hứng nên gã không nhận lưng đã cứng đơ, giống như khi gã làm tình với Janne, người thỉnh thoảng vẫn ghé qua để “xem gã đang làm gì”. Gã đã thử giải thích rằng lọ mọ với mô tô và lọ mọ với cô nàng có nhiều điểm tương đồng. Rằng ta có thể cứ tiếp tục trong một tư thế cố định mà không chú ý đến các cơ ê ẩm hay thời gian trôi qua. Nhưng khi ta xong thì đó là lúc trả giá. Cô ta thích thú với sự so sánh. Thật giống cô ta. Rover lau tay. Việc đã hoàn tất. Thứ cuối cùng gã vừa làm là gắn ống xả mới cho chiếc Harley-Davidson. Giống như chấm phá những nét cuối cùng. Như người lên dây đàn dương cầm dạo vài nốt cây đàn mình vừa chỉnh. Cho vui thôi. Chỉ cần chỉnh sửa lại ống xả và bộ lọc khí là ta có thể tạo ra thêm 20 b.h. p. , nhưng ai cũng biết ống xả chủ yếu là để tạo âm thanh. Làm cho nó tạo ra cái tiếng trầm rù rù, lý thú, dễ thương nghe không giống bất cứ gì Rover từng nghe. Tất nhiên gã có thể vặn chìa ngay để nghe tiếng nhạc của máy khẳng định mọi điều gã vốn đã biết. Hay gã có thể để dành đến sáng mai, như món quà cho mình. Janne vẫn nói đừng bao giờ hoãn thú vui lại, rằng không có gì bảo đảm ta còn được sống thêm một ngày nữa. Gã nghĩ đó là vì Janne là Janne.
Rover dùng giẻ chùi dầu mỡ trên ngón tay rồi đi ra phòng sau rửa tay. Nhìn mình trong gương. Dầu lấm lem đầy mặt trông như mặt nạ chiến binh da đỏ và cái răng vàng. Như thường lệ, xong việc thì gã nhận ra các nhu cầu khác lên tiếng: cái ăn, thức uống, nghỉ ngơi. Thật là một cảm giác tuyệt vời. Nhưng cả cái cảm giác trống trải kỳ lạ theo sau một thành tựu như vậy. Một câu “Giờ thì sao?” Một câu “Ích gì mọi thứ ấy?” Gã xua những ý nghĩ đi. Nhìn nước ấm từ vòi chảy ra. Rồi gã ngừng. Tắt nước. Một tiếng động tiên ngoài nhà xe vẳng lại.
Janne? Giờ này ư?
* * *
- Em cũng yêu anh, - Martha nói.
Đến một lúc anh dừng - cả hai thở hổn hển, toát mồ hôi, đỏ bừng - dùng tấm trải cô kéo nơi nệm ra lau mồ hôi giữa hai bầu ngực cô, và nói rằng họ có thể tìm thấy hai người ở đây, rằng như vậy nguy hiểm. Rồi cô đáp cô không dễ dàng sợ một khi đã quyết ý. Và rằng nhân tiện - nếu quả thực họ phải nói chuyện - cô yêu anh.
- Anh yêu em.
Rồi họ tiếp tục.
* * *
- Mày ngừng cung cấp vũ khí cho tao là một chuyện, - gã đàn ông vừa nói vừa lột chiếc găng tay mỏng ra. Đó là bàn tay to lớn nhất Rover từng thấy. - Khi mày bắt đầu cung cấp cho kẻ thù của tao thì lại là chuyện khác, phải vậy không?
Rover không vùng vẫy. Gã bị hai tên kềm chặt; đứa thứ ba đứng kế gã đàn ông khổng lồ, chĩa súng lục vào trán Rover. Một khẩu súng lục Rover biết quá rõ vì chính gã đã chế lại nó.
- Đưa thằng nhỏ đó một khẩu Uzi thì chẳng khác nào bảo tao đi chết đi. Có phải đó là điều mày muốn? Tiễn tao xuống địa ngục?
Rover trả lời thì cũng được thôi. Nói rằng xét theo những gì gã biết về Sinh Đôi thì gã nghĩ đó là nơi ban đầu hắn đã trồi lên.
Nhưng gã không đáp. Gã muốn sống. Thêm vài giây nữa thôi.
Gã nhìn chiếc mô tô sau lưng người đàn ông khổng lồ.
Janne nói đúng. Lẽ ra gã phải nổ máy chiếc xe. Nhắm mắt lắng nghe. Gã nên dừng lại thưởng thức hương hoa. Đó là một sự thật quá hiển nhiên, quá bình thường mà vẫn rất khó hiểu thấu, cho đến lúc thần chết đến đón và ta nhận ra nó thường tình thế nào: ở đời ta chỉ có một sự bảo đảm duy nhất ấy là ta sẽ chết.
Gã đàn ông để đôi găng lên quầy. Trông như mấy bao cao su dùng rồi.
- Giờ thì để tao xem... - hắn nói, liếc một vòng mấy đồ nghề treo trên tường. Hắn vừa chỉ ngón tay vào đó vừa thấp giọng ngâm nga: - Eeny, meeny, miney...

38

Bình minh vừa hừng.
Martha nằm sát bên Sonny, hai bàn chân quấn trong hai chân anh.
Nghe cái nhịp điệu ngủ đều đặn thay đổi trong hơi thở anh. Nhưng mắt anh vẫn nhắm. Cô vuốt ve bụng anh thì thấy một nụ cười thoảng trên môi anh.
- Chào buổi sáng, anh chàng tình nhân, - cô thì thầm.
Anh cười toét mang tai, nhưng nhăn mặt khi cố trở người qua nhìn cô.
- Có đau không?
- Bên sườn thôi, - anh nhăn mặt.
- Hết chảy máu rồi, đêm qua em có kiểm tra vài lần.
- Sao? Em sàm sỡ anh lúc anh đang ngủ sao? - Anh hôn bên trán cô.
- Tôi nghĩ ông cũng có sàm sỡ đôi chút đấy, thưa ông Lofthus.
- Nhớ rằng đây là lần đầu của anh, - anh nói. - Anh không biết nghĩa của từ sàm sỡ.
- Anh nói dối giỏi lắm, - cô nói.
Anh cười.
- Em đang nghĩ, - cô nói.
- Sao?
- Tụi mình đi. Đi ngay bây giờ.
Anh không đáp, nhưng cô cảm thấy người anh cứng lại. Rồi cô cảm thấy nước mắt chực trào ra, bất chợt và dữ dội như con đập đã vỡ. Anh trở người qua ôm cô.
Anh chờ cho cô nguôi khóc.
- Em đã nói gì với họ? - Anh hỏi.
- Em nói Anders với em không thể đợi đến mùa hè, - cô thút thít. - Rằng bọn em phải chấm dứt chuyện này ngay. Hay ít ra là em. Thế rồi em bỏ đi. Em ra ngoài. Chạy xuống đường lớn. Vẫy taxi. Em thấy anh ta chạy theo em còn bà mẹ quỷ quái theo anh ta sát gót. - Cô cười to, rồi lại bật khóc. - Em xin lỗi, - cô nức nở. - Em thật... thật ngu ngốc! Lạy Chúa, em đang làm gì ở đây?
- Em yêu anh, - anh thì thầm vào tóc cô. - Đó là điều em đang làm ở đây.
- Rồi sao? Loại người nào lại đi yêu một người đàn ông giết chóc, kẻ đang làm mọi cách để bị giết, và cuối cùng cũng sẽ bị như vậy. Anh có biết trên mạng người ta gọi anh thế nào không? Đức Phật Cầm Gươm. Họ phỏng vấn mấy phạm nhân cũ mô tả anh như một kiểu thánh. Nhưng anh có biết gì không? - Cô lau nước mắt. - Em nghĩ anh cũng là con người xương thịt như những người em đã thấy đến rồi đi ở Trung tâm Ila.
- Ta sẽ đi khỏi đây.
- Vậy thì anh phải đi ngay.
- Còn hai tên nữa, Martha.
Cô lắc đầu nước mắt lại dâng lên và cô đấm thùm thụp vào ngực anh giận dữ bất lực.
- Đã muộn quá rồi - anh không hiểu sao? Tất cả đều đang tìm anh, tất cả.
- Chỉ còn hai tên nữa thôi. Kẻ đã quyết định là bố anh phải chết và làm sao để trông như ông là gián điệp nhị trùng. Và tên gián điệp nhị trùng. Rồi ta sẽ đi.
- Chỉ còn hai tên nữa thôi? Anh chỉ cần giết hai tên nữa thôi rồi ta chạy trốn? Chuyện này dễ dàng đối với anh vậy sao?
- Không, Martha. Nó không dễ dàng với anh. Chẳng tên nào là dễ dàng cả. Và điều thiên hạ nói không đúng đâu, rằng chuyện đó trở nên dễ dàng hơn. Nhưng anh phải làm, không còn cách nào khác.
- Anh có thật bụng nghĩ anh sẽ sống sót không?
- Không.
- Không ư?
- Phải.
- Không? Vì Chúa, vậy thì sao anh lại nói về...
- Vì ta chỉ có thể tính đến chuyện sống sót.
Cô im bặt. Anh vuốt trán cô, má và cổ họng. Thế rồi anh bắt đầu kể. Khẽ và chậm, như thể anh phải chắc là mỗi chữ mình chọn đều đúng. Cô lắng nghe. Anh kể cô nghe về tuổi thơ của anh. Về cha anh. Về cái chết của ông và về mọi thứ xảy ra từ ấy. Cô lắng nghe và hiểu. Lắng nghe và không hiểu. Khi anh kể xong thì một tia nắng đã lẻn vào giữa mấy tấm màn.
- Hãy lắng nghe chính mình, - cô thì thầm. - Anh biết chuyện này điên rồ phải không?
- Phải, - anh nói. - Nhưng đó là điều duy nhất anh làm được.
- Điều duy nhất anh làm được là giết nhiều người?
Anh hít một hơi sâu.
- Anh từng chỉ muốn mỗi một điều là được giống bố anh. Khi anh đọc lá thư tuyệt mệnh đó, ông đã tiêu tan. Và anh cũng vậy. Nhưng rồi - trong tù - khi anh nghe câu chuyện thật là ông hy sinh mạng sống cho anh và mẹ ra sao, anh được sinh ra lần nữa.
- Sinh ra lần nữa để làm... chuyện này?
- Anh ước gì còn cách nào khác.
- Nhưng tại sao? Để thế chỗ bố anh? Vì con trai thì phải... - Cô nheo mắt, gạt những giọt nước mắt cuối cùng. Tự hứa đó sẽ là những giọt cuối. - ... hoàn thành cái bố anh ta chưa thể?
- Bố anh đã làm cái ông phải làm. Anh đang làm cái anh phải làm. Ông chết cho mẹ con anh. Khi nào anh xong chuyện này, anh sẽ ngừng. Anh hứa với em. Mọi thứ sẽ ổn cả thôi.
Cô nhìn anh hồi lâu.
- Em cần suy nghĩ, - cuối cùng cô nói. - Anh ngủ lại đi.
Anh ngủ còn cô nằm thức. Đến khi chim cất tiếng hót bên ngoài thì cô cũng ngủ thiếp đi. Và giờ cô tin chắc điều đó.
Cô điên rồi.
Cô đã như vậy từ phút giây nhìn thấy anh.
Nhưng cô không nhận ra là mình cũng điên rồ như anh mãi cho đến khi cô mở cửa bước vào ngôi và vàng này, bắt gặp đôi hoa tai của Agnete Iversen trên quầy bếp và đeo vào.
Martha thức giấc bởi tiếng trẻ con chơi ngoài đường. Những tiếng kêu mừng rỡ. Những bàn chân nhỏ xíu tung tăng. Cô nghĩ tính hồn nhiên đi cùng với sự dốt nát. Hiểu biết thấu suốt không bao giờ làm mọi sự sáng tỏ, chỉ khiến chúng rối rắm thêm. Anh ngủ bình yên bên cô đến mức trong một thoáng cô nghĩ anh đã chết. Cô vuốt má anh. Anh lẩm bẩm gì đó, nhưng không tỉnh dậy. Làm sao một người bị săn đuổi lại có thể ngủ say như vậy? Giấc ngủ của kẻ mang theo lẽ phải. Người ta nói nó ngon lành.
Cô lẻn khỏi giường, thay đồ rồi đi xuống bếp. Cô tìm thấy chút cà phê, nhưng không còn gì khác. Tủ đông cô đã ngồi ở tầng hầm, có lẽ anh có pizza để lạnh hay gì đó. Cô đi xuống mấy bậc thang tầng hầm rồi cầm tay nắm tủ đông.
Nó khóa rồi, cô nhìn quanh Mắt cô bắt gặp cây đinh trên tường và chìa khóa có ghi thẻ không còn đọc rõ chữ. Cô lấy chìa tra vào ổ. Xoay. Được rồi. Cô lật nắp lên, cúi vào thì cảm thấy cái lạnh ập vào ngực và cổ họng, rồi cô thét lên một tiếng cộc lốc, thả nắp ra. Quay lại dựa phịch ra thành tủ đông.
Cô vẫn ngồi xổm, thở hồng hộc qua mũi. Cố chớp chớp mắt xua đi cảnh tượng cái xác nhìn chằm chằm lên cô miệng há ra, trắng xóa và đá đông trên mi mắt. Mạch đập nhanh đến mức cô cảm thấy như ngất đi. Cô lắng nghe lòng mình. Và mấy giọng nói. Có hai giọng.
Một giọng thét vào tai cô là cô điên rồi, rằng anh ta là kẻ mất trí, một sát thủ, rằng cô phải chạy lên cầu thang ra khỏi nhà ngay!
Giọng kia nói với cô rằng cái xác này chỉ là bằng chứng hữu hình của cái cô đã biết và chấp nhận. Đúng, anh đã giết người. Những kẻ đáng chết.
Tiếng thét ra lệnh cho cô đứng lên. Nó át đi giọng bảo cô rằng đây là cơn hoảng loạn một lúc nào đó rồi cô tất sẽ phải trải qua. Đêm qua cô đã lựa chọn, phải không?
Không, cô không lựa chọn.
Giờ thì cô biết điều đó. Rằng nên nhảy xuống hang đuổi theo con thỏ, bước vào thế giới của anh, hay ở lại trong thế giới bình thường, quyết định của cô sẽ được tạo ra ở đây và lúc này.
Đây là cơ hội cuối cho cô bỏ đi. Vài giây kế tiếp là quãng thời gian quan trọng nhất đời cô. Cơ hội cuối cùng cho cô...
Cô đứng lên. Cô vẫn còn choáng váng, nhưng cô biết mình có thể chạy thật nhanh. Anh sẽ không bao giờ bắt được cô. Cô hít ô xy vào phổi rồi máu vận chuyển nó đến não. Cô dựa người vào nắp tủ đông, thấy bóng mình trên bề mặt bóng loáng. Thấy đôi hoa tai.
Mình yêu anh ấy. Vì vậy mà mình đang làm chuyện này.
Rồi cô mở nắp lần nữa.
Máu từ cái xác rỉ ra đã loang ra hầu hết thực phẩm. Hình vẽ trên mấy hộp Frionor dường như khá lỗi thời. Cũng phải mười hai năm rồi là ít - chuyện đó nghe có vẻ đúng.
Cô tập trung vào hơi thở, ý nghĩ, cố xua đi những gì không có ích. Nếu họ phải ăn, cô phải đến cửa hàng. Cô sẽ hỏi một đứa nhỏ xem siêu thị gần nhất đâu.
Phải, đó là điều cô sẽ làm. Trứng và thịt nguội. Bánh mì mới. Dâu. Sữa chua.
Cô đóng nắp tủ lại. Nhắm nghiền mắt. Cô tưởng mình lại sắp khóc. Nhưng cô bật cười. Tiếng cười điên loạn của kẻ rơi tự do xuống hang thỏ, cô nghĩ. Rồi cô mở mắt ra bước tới cầu thang. Đến đầu cầu thang cô nhận ra mình đang ngâm nga một giai điệu.
Tôi vẫn luôn là người yêu của nàng và tôi muốn cùng nàng phiêu du khắp chốn.
Điên.
... theo nàng thật mù quáng và tôi biết nàng vẫn tin ở tôi.
Điên, điên rồi.
... vì tâm tưởng tôi đã chạm được vào tấm thân tuyệt bích của nàng.
Markus đang chơi trò Mario bên cửa sổ để mở thì nghe thấy tiếng cửa đóng bên ngoài. Cậu nhìn ra. Đó là cô gái xinh đẹp. Hay ít ra thì hôm nay cô ấy xinh. Cô từ trong ngôi nhà vàng bước ra và đi xuống cổng. Markus nhớ mặt Người Con Trai đã sáng lên khi cậu báo cho anh biết cô đã vào và. Không phải Markus hiểu gì nhiều những chuyện như vậy, nhưng cậu có linh cảm là Người Con Trai đang yêu cô.
Cô đi lại chỗ mấy cô bé đang chơi nhảy dây và hỏi chúng một câu. Chúng chỉ vào cô mỉm cười, nói vọng lại với chúng điều gì đó rồi bước nhanh theo hướng chúng chỉ. Markus định quay lại chơi thì nhận thấy màn trong phòng ngủ kéo ra. Cậu chụp lấy ống nhòm.
Đó là Người Con Trai. Anh đang đứng bên cửa sổ mắt nhắm và bàn tay chống lên cái hông đầy cả bông băng. Anh trần truồng và mỉm cười. Anh trông hạnh phúc. Như Markus vào đêm Giáng sinh, ngay trước khi cậu mở quà.
Không, nói lại, ngày hôm sau, khi cậu thức giấc và nhớ lại những món quà cậu được tặng đêm trước.
Người Con Trai lấy khăn tắm trong tủ thấp, mở cánh cửa phòng và đang định đóng lại thì anh dừng. Anh nhìn qua bên, xuống bàn. Chụp lấy cái gì nằm ở đó. Markus phóng gần vào. Đó là một cuốn sổ. Đóng bìa da đen. Người Con Trai mở cuốn sổ và bắt đầu đọc. Rồi anh buông tấm khăn. Ngồi xuống giường đọc tiếp. Anh ngồi như vậy vài phút. Markus thấy sắc mặt anh biến đổi và người căng lên, sững sờ, tê liệt.
Rồi bất thần anh đứng lên ném cuốn sổ vào tường.
Anh chộp cây đèn bàn và cũng bắt nó chịu sự đối xử tương tự.
Anh nắm chặt bên sườn, gào lên và ngồi phịch xuống giường. Đầu cúi, hai tay gập sau gáy kéo ghì đầu xuống. Anh ngồi mà người run lên như đang trong cơn giận dữ.
Markus biết có gì đó khủng khiếp đã xảy ra, nhưng cậu không biết chuyện gì. Cậu muốn chạy qua, nói hay làm gì đó an ủi anh. Cậu biết cách. Cậu thường làm cho mẹ vui vẻ lên. Nói chuyện với mẹ, nhắc mẹ nhớ những điều thú vị họ cùng làm, mẹ còn nhớ không? Cũng chẳng có nhiều chuyện mà lựa, chỉ ba bốn sự kiện, nên mẹ luôn nhớ. Mẹ thường nhoẻn cười u hoài và vò tóc cậu. Và rồi mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn. Nhưng cậu chưa làm bất cứ điều thú vị gì cùng với Người Con Trai. Mà có lẽ Người Con Trai thích được một mình hơn, điều này Markus hiểu được, chính cậu cũng như vậy. Khi mẹ muốn dỗ dành cậu vì có người làm cậu buồn bực, cậu thường phát bực; như thể lòng tốt của mẹ làm cậu yếu đuối đi, xác nhận với mấy thằng bắt nạt rằng cậu là đứa ẻo lả.
Nhưng Người Con Trai đâu phải em bé khóc nhè. Hay là phải?
Anh vừa đứng lên và quay sang cửa sổ; anh đang khóc. Mắt anh đỏ hoe và nước mắt nhạt nhòa trên má.
Lỡ như bấy lâu nay Markus nghĩ sai thì sao, Người Con Trai cũng chỉ như cậu thì sao? Yếu đuối, hèn nhát, một kẻ bỏ chạy, lẩn trốn, sợ bị đánh? Không, không, anh không như vậy, Người Con Trai thì không đâu! Anh to cao mạnh mẽ can đảm và anh đã giúp những kẻ không được như vậy hay chưa được mạnh mẽ.
Người con trai nhặt cuốn sổ lên, ngồi xuống và bắt đầu viết.
Lát sau anh xé một trang trong sổ ra, vò nát ném vào sọt rác bên cửa. Bắt đầu một trang khác. Lần này thì không lâu lắm. Anh xé trang đó ra rồi đọc cái mình vừa viết. Thế rồi anh nhắm mắt và ghì tờ giấy lên môi.
Martha bỏ mấy túi đồ tạp hóa lên quầy bếp. Quẹt mồ hôi trên trán. Cửa hàng ở xa hơn cô tưởng nên cô gần như chạy suốt quãng đường về. Cô xả hộp đựng dâu dưới vòi, lựa ra hai trái to nhất, mọng nhất và mang theo bó hoa mao lương vàng cô hái bên đường. Một lần nữa cô cảm thấy cái tê dại ngọt ngào khi nhớ lại làn da nóng ran của anh dưới chăn. Tên nghiện heroin đã phê khi được cô chạm vào. Vì giờ anh là ma túy của cô. Nghiện sau lần chích đầu tiên. Cô đắm đuối và cô thích chuyện đó!
Trên cầu thang cô đã đánh hơi được điều đó ngay khi thấy cửa phòng ngủ mở. Có gì đó không ổn. Im ắng quá.
Phòng trống. Cây đèn vỡ toang nằm trên sàn. Áo quần của anh đã không còn. Dưới mấy mảnh đèn vỡ cô thấy cuốn sổ đen cô tìm thấy dưới vạt giường.
Cô gọi tên anh dù cô biết sẽ không có tiếng trả lời. Khi quay về vài phút trước, cô thấy cổng để mở dù cô khá chắc đã khép lại khi đi. Chúng đã đến tìm anh, như anh vẫn nói. Rõ ràng anh đã chống cự, nhưng vô ích. Cô bỏ anh nằm đó ngủ, cô đã không chăm lo cho anh được, cô đã không...
Cô quay lại thì phát hiện mẩu thư trên gối. Giấy ngả vàng và trông như đã xé từ cuốn sổ. Nó được viết bằng cây bút cũ nằm bên gối. Phản ứng đầu tiên là cô nghĩ ắt nó là bút của cha anh. Và khi chưa đọc mấy chữ ấy, cô đã nghĩ lịch sử đang lặp lại: Rồi cô đọc mẩu thư, buông rơi mấy bông hoa và đưa tay bịt miệng, một cử chỉ tự động để che cái miệng méo xệch khó coi khi nước mắt trào ra.

Martha yêu dấu, Hãy tha thứ cho anh, nhưng giờ anh sẽ biến mất. Anh yêu em mãi mãi.

Sonny.

39

Markus đang ngồi trên giường trong ngôi nhà vàng.
Người Con Trai vội vàng bỏ đi mới được hai mươi phút thì cô gái chạy ra, Markus chờ cả mười phút rồi mới nhận ra họ sẽ không quay lại. Rồi cậu băng qua đường. Chìa khóa nhà đã được để lại chỗ mọi lần. Giường đã dọn và mấy mảnh vỡ đèn bỏ vào sọt rác. Cậu tìm thấy mẩu giấy vò nhàu dưới mớ mảnh vụn. Nét chữ viết nắn nót, gần như nữ tính.

Martha yêu dấu, Có lần bố kể anh nghe ông từng chứng kiến một người chết đuối. Ông đi tuần, lúc đó đang giữa đêm và một cậu bé đã gọi từ vịnh ở Kongen. Cha cậu bé rơi xuống biển khi họ đang neo thuyền. Ông ta không biết bơi và đang bám vào mép tàu, nhưng đứa con trai không đủ sức kéo cha lên thuyền lại. Đến khi xe tuần tới thì cha của cậu bé đã chịu thua, buông tay và chìm xuống. Được vài phút thì bố anh gọi cho thợ lặn còn cậu con trai khóc nức nở tuyệt vọng. Và khi họ chờ, ông này bỗng trồi lên, mặt tái nhợt tợp không khí. Đứa con kêu lên một tiếng mừng rỡ. Thế rồi người cha lại chìm xuống. Bố anh nhảy xuống nước cứu ông, nhưng trời tối quá. Khi bố anh trồi lên lại, ông nhìn thẳng vào gương mặt còn rạng rỡ của cậu bé tưởng rằng giờ mọi chuyện đã ổn, cha cậu còn sống và cảnh sát đang ở đây. Và bố anh nói ông thấy tim như xé khỏi lồng ngực cậu bé phút cậu nhận ra Chúa chỉ đùa với cậu khi để cậu nghĩ ngài sẽ trả lại cho cậu người cha ngài đã lấy di. Bố anh nói nếu có Chúa thì ngài là một vị Chúa tàn nhẫn. Giờ anh nghĩ anh đã hiểu điều ông muốn nói, vì cuối cùng anh đã tìm thấy cuốn nhật ký của bố. Có lẽ ông muốn mẹ con anh biết. Cũng có thể ông chỉ tàn nhẫn. Nếu không thì sao ghi nhật ký mà lại giấu nó ở một chỗ sờ sờ như dưới nệm như vậy?

Em còn cả cuộc đời trước mặt, Martha. Anh nghĩ em có thể dùng nó để làm gì đó tốt đẹp. Anh không thể làm như vậy. Hãy tha thứ cho anh nhưng giờ anh sẽ biến mất.

Anh yêu em mãi mãi.

Sonny Markus nhìn bên bàn. Có cuốn sổ mà Người con trai đã đọc.
Bìa da đen, những trang giấy ngả vàng. Cậu lật xem.
Cậu nhận ra ngay đó là một cuốn nhật ký dù không phải ngày nào cũng có bài viết. Thỉnh thoảng lại cách quãng vài tháng. Đôi khi chỉ ghi mỗi ngày vài ba dòng nhật ký. Chẳng hạn, nó ghi là cuối cùng rồi “nhóm tam hùng” cũng sẽ rã đám, rằng có gì đó đã chen vào giữa họ. Một tuần sau thì ghi rằng Helene có thai và họ đã mua nhà riêng. Nhưng thật khó mà sống chỉ bằng đồng lương cảnh sát, thật tiếc là cả cha mẹ ông và Helene đều cảnh nhà sa sút đến không thể giúp họ. Sau đó thì ông thật vui khi Sonny bắt đầu đấu vật. Rồi một trang về chuyện ngân hàng tăng lãi suất, rằng không làm sao trả nổi tiền nhà, ông phải làm gì đó trước khi người ta thu hồi căn nhà.
Nghĩ ra cái gì đó. Rằng ông đã hứa với Helene mọi chuyện sẽ OK. May thay, dường như cậu bé không nhận thấy đang có gì làm bố mẹ lo nghĩ.

l9 tháng Ba Sonny nó muốn nối gót tôi trở thành sĩ quan cảnh sát. Helene nói nó bị ám ảnh về tôi, rằng nó tôn thờ tôi. Tôi bảo con trai làm vậy thì đúng thôi và tôi cũng từng như vậy. Sonny là cậu bé ngoan, có lẽ quá ngoan, cõi đời khắc nghiệt, nhưng một thằng bé như nó sẽ luôn là phúc lành cho cha nó.

Một vài trang mà Markus không hiểu lắm. Những chữ như “phá sản cá nhân đến nơi” và “bán linh hồn cho quỷ dữ”. Và cái tên “Sinh Đôi”. Markus lật sang trang kế tiếp.

4 tháng Tám Hôm nay ở Sở người ta lại bàn tán về gián điệp nhị trùng, nói là hẳn Sinh Đôi đã gài người trong lực lượng. Thật lạ là nhiều người, thậm chí cả những sĩ quan cảnh sát, lại kém trí tưởng tượng như vậy. Bao giờ cũng là một người đi diệt trừ, một kẻ phản bội. Họ không nhận ra cái tài tình trong việc có hai người? Rằng một người sẽ luôn có chứng cứ ngoại phạm trong khi người kia hoạt động, rằng bằng cách này cả hai chúng tôi sẽ hoàn toàn không bị nghi ngờ trong nhiều dịp đến mức sẽ được tự động loại ra không bị xem là nghi phạm?
Phải, đó là một cách dàn xếp tài tình. Thật hoàn hảo. Chúng tôi là sĩ quan cảnh sát tha hóa, đồi bại hoàn toàn phản bội lại mọi thứ chúng tôi tin vào để đổi lấy ít miếng bạc chẳng đáng. Chúng tôi nhắm mắt làm ngơ những chuyện mua bán ma túy, buôn người, thậm chí giết người. Chẳng có gì quan trọng nữa. Còn đường quay đầu lại không? Có cơ hội được tự thú, ăn năn và tha thứ mà tôi không phải hủy hoại mọi thứ và mọi người quanh mình không? Tôi cũng không biết nữa. Tôi chỉ biết mỗi một điều là tôi phải thoát ra.

Markus ngáp. Bao giờ đọc cậu cũng buồn ngủ, nhất là khi có quá nhiều từ cậu không hiểu. Cậu lật tới vài trang.

15 tháng Chín Tôi không biết chúng tôi có thể tiếp tục thế này được bao lâu mà Sinh Đôi không biết ra chúng tôi là ai. Chúng tôi liên lạc qua địa chỉ Hotmail từ hai máy ăn cắp “mượn” ở phòng chứng cứ, nhưng vậy không an toàn. Bên cạnh đó, nếu muốn, hắn đã có thể dàn xếp theo dõi những nơi chúng tôi thả hàng. Tuần trước nữa, khi lấy phong bì dán bên hông ghế dài tại nhà hàng Broker ở Bogstadveien, tôi tin chắc đã bị phát hiện. Một gã ở quầy bar trừng trừng nhìn tôi, ai cũng có thể thấy hắn là tội phạm. Và tôi đã nghĩ đúng về hắn. Hắn lại chỗ tôi nói là mười năm trước tôi đã bắt quả tang hắn sử dụng tài sản ăn cắp.
Nói đó là điều tuyệt diệu nhất từng xảy ra cho hắn, rằng hắn đã không còn giao du với kẻ xấu và giờ đang điều hành một trại cá với anh trai. Rồi hắn bắt tay tôi và bỏ đi. Một câu chuyện kết thúc có hậu. Trong phong bì còn có một lá thư Sinh Đôi viết rằng hắn muốn tôi - nên rõ ràng hắn không biết chúng tôi có hai người - thăng tiến trong lực lượng cảnh sát, kiếm một việc chóp bu để tôi được hữu dụng hơn; cả cho hắn và cho tôi. Tiếp cận thông tin nhạy cảm, tiền nhiều hơn. Hắn viết rằng hắn có thể giúp tôi thăng tiến, giật dây. Tôi cười to. Chắc tên này điên thật rồi, một kẻ như vậy sẽ không ngừng cho đến chừng nào làm bá chủ được thế giới. Hắn là kẻ sẽ không chịu dừng tay, nhưng phải bị ngăn lại.
Tôi đưa lá thư cho Z xem. Tôi không hiểu sao, nhưng anh ta không cười.

Markus nghe mẹ đang gọi cậu. Cậu nghĩ mẹ có việc cho cậu làm. Cậu ghét mẹ làm vậy, mở tung cửa sổ ra mà hét toáng tên cậu qua cả xóm như thể cậu là chó hay gì ấy. Cậu lật trang nữa.

6 tháng Mười Đã có chuyện gì đó. Z nói anh ta nghĩ chúng tôi nên bỏ khi đang ở trong hoàn cảnh thuận lợi, rút khi mọi chuyện đang tốt đẹp. Thế rồi mấy ngày trời Sinh Đôi không trả lời email của tôi. Chuyện đó chưa từng xảy ra. Hai người họ đã nói chuyện với nhau? Tôi không biết họ đã nói chuyện chưa, nhưng tôi biết đó không phải chuyện chúng tôi cứ vậy mà bỏ đi được. Tôi biết T2 không còn tin tưởng tôi nữa. Cũng vì lý do đó, tôi không còn tin tưởng hắn ta nữa. Chúng tôi đã lật mặt thật cho nhau thấy.

7 tháng Mười Đêm qua tôi chợt nhận ra: Sinh Đôi chỉ cần một trong hai chúng tôi và đó chính là cái hắn sẽ đạt được - một. Kẻ kia sẽ là người mình bị phụ bạc, một nhân chứng cay đắng hẳn phải bị loại. Và Z đã nhận ra điều này. Nên giờ chuyện đã rất cấp bách, tôi phải tóm được anh ta trước khi anh ta tóm tôi. Tôi đã hỏi Helene mai nàng đi cùng Sonny đến trận đấu vật được không vì tôi có việc phải làm. Tôi đã hỏi Z chúng tôi gặp nhau tại phế tích thời Trung cổ ở Maridalen lúc nửa đêm được không rằng chúng tôi có chuyện cần bàn. Anh ta nghe có vẻ hơi ngạc nhiên là tôi lại muốn gặp ở nơi hoang vắng như vậy lúc khuya khoắt như vậy, nhưng nói thế cũng được.

8 tháng Mười Im ắng. Tôi đã nạp đạn khẩu súng lục. Cảm giác thật kỳ lạ khi biết mình sắp đoạt một mạng người. Tôi cứ tự hỏi cái gì đã đưa đẩy mình đến nước này. Tôi làm vậy vì gia đình mình? Hay vì tôi? Hay phải chăng đó là sự cám dỗ muốn đạt được cái bố mẹ tôi đã không đạt được một địa vị trong xã hội, cuộc sống tôi đã thấy được dọn những thằng ngu không xứng đáng? Tôi tháo vát và can đảm - hay yếu hèn nhu nhược? Tôi có phải là người xấu? Tôi đã tự hỏi câu này: nếu con trai ở vào hoàn cảnh của mình, mình có muốn nó làm cái mình đã làm hay không? Và điều đó, tất nhiên, khiến câu trả lời thật rõ ràng.
Chốc nữa thôi tôi sẽ đi Maridalen, rồi chúng ta sẽ xem khi quay về tôi có thành một người khác không. Một kẻ giết người.
Tôi biết nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng đôi khi tôi cầu cho ai đó tìm thấy cuốn nhật ký này. Tôi nghĩ điều đó là bản tính con người.

Không còn gì thêm. Markus lật qua các trang để trống đến mấy trang cuối cùng đã bị xé. Rồi cậu để lại cuốn nhật ký trên bàn gần đầu giường và rón rén xuống cầu thang trong khi nghe giọng mẹ gọi tên mình mãi không thôi.

40

Betty bước vào hiệu thuốc đông khách, xé số bên cột ghi “Đơn thuốc” rồi tìm được một ghế trống dọc tường giữa những khách hàng đang nhìn chăm chăm khoảng không hay bất chấp tấm biển cấm sử dụng, bấm phím điện thoại.
Cô đã thuyết phục bác sĩ kê cho toa thuốc ngủ mạnh hơn.
- Đây là những loại benzodiazepine cực mạnh và chỉ để dùng trong thời gian ngắn, - ông nói và nhắc lại cái cô biết rồi; sử dụng chúng sẽ tạo ra cái vòng luẩn quẩn dẫn đến phụ thuộc mà không đến được tận gốc vấn đề.
Betty đã đáp gốc rễ vấn đề là cô không ngủ được. Nhất là sau khi cô nhận ra mình đã một mình trong phòng với sát thủ bị truy nã số một trong nước. Kẻ đã bắn chết một phụ nữ tại nhà riêng ở Holmenkollasen. Hôm nay báo nói hắn còn bị tình nghi giết vợ một chủ tàu, rằng hắn đã chọn đại một căn nhà ở ngoại ô Drammen rồi đột nhập và cưa gần đứt đầu bà. Vài ngày qua Betty lang thang quanh quẩn như thây ma, nửa thức, nửa ngủ, bị ảo giác. Đâu đâu cô cũng thấy mặt hắn, không chỉ trên báo chí và TV mà còn trên quảng cáo, tàu điện, nơi bóng hình phản chiếu ở tủ kính. Hắn là người đưa thư, ông hàng xóm, anh phục vụ bàn.
Rồi giờ cô còn thấy hắn ở đây nữa.
Hắn đang đứng bên quầy đóng khăn trắng hay có lẽ chỉ là băng quanh đầu. Hắn để mớ ống tiêm dùng một lần và kim tiêm dưới da lên quầy để trả tiền. Cái hình bị vỡ nét trên báo không giúp gì lắm, nhưng Betty để ý thấy người đàn bà ngồi ghế cạnh cô vừa nhỏ to gì đó với người bạn vừa chỉ trỏ kẻ này, nên có lẽ bà ta cũng đã nhận ra hắn. Nhưng khi người đội khăn đóng quay lại bước tới cửa, người hắn oặt sang một bên, Betty nhận ra là mình lại bị ảo giác.
Bộ mặt tái mét, dài thuỗn và đờ đẫn kia trông chẳng giống gì với gương mặt cô đã thấy trong phòng suite 4.
* * *
Kari vừa chạy chậm qua mấy tòa nhà lớn vừa cúi người tới đọc số nhà. Sau một đêm không ngủ cô đã quyết ý. Sam, cũng bị cô làm thức giấc, nói Kari không nên làm quá nghiêm túc một việc cô không định làm lâu như vậy. Điều đó đúng, tất nhiên, nhưng cuối cùng thì Kari vẫn ưa thích trật tự. Và điều này có thể ảnh hưởng đến tiền đồ của cô, nó có thể khiến mọi cánh cửa khép lại trước mặt cô. Nên cô đã đi đến cái quyết định là dùng cách tiếp cận trực tiếp.
Cô dừng xe. Đúng là số này.
Cô băn khoăn không biết có nên chạy xe qua cổng để mở và vào thẳng trong nhà, nhưng rồi quyết định đỗ ngoài đường. Cô bước lên lối xe chạy thoai thoải trải nhựa đường. Một vòi phun nước đang rào rào trong vườn; ngoài ra thì hoàn toàn im ắng.
Cô bước lên thêm bấm chuông. Nghe tiếng sủa dữ dội bên kia. Cô chờ.
Không có ai ra. Cô quay lại định bước xuống thềm thì thấy ông ta kia rồi. Ánh mặt trời hắt trong cặp kính hình chữ nhật. Hẳn là ông ta từ đằng sau nhà chính và nhà xe đi lại; chắc hẳn ông ta đã đi nhanh và khẽ.
- Có chuyện gì?
Ông ta chắp hai tay sau lưng.
- Tôi là sĩ quan Kari Adel. Tôi có chuyện muốn trình với ông.
- Vậy nó có thể là gì? - Ông ta đút hai tay sau dây nịt như để xốc quần chino màu be lên hay kéo sơ mi ra - suy cho cùng thì hôm ấy là một ngày hè nóng nực. Hay để đút súng sau nịt và kéo sơ mi phủ lên.
- Simon Kefas.
- Tôi hiểu rồi. Nhưng sao cô lại đến gặp thẳng tôi?
Kari bẻ đầu bên này sang bên kia.
- Simon làm tôi tin rằng nếu tôi làm việc theo lối thông thường thì tôi có nguy cơ làm rò rỉ thông tin. Ông ấy vẫn tin có một gián điệp nhị trùng trong hàng ngũ ta.
- Giờ ông ấy nghĩ sao?
- Vì vậy mà tôi nghĩ tốt nhất là đến gặp thẳng cấp cao nhất. Đến ông, thưa ủy viên.
- Được, được, - Pontius Parr nói, xoa xoa cái cằm hẹp. - Vậy tốt nhất là ta vào nhà, sĩ quan Adel.
Một con chó sục Airedale hớn hở nhảy chồm lên đón Kari ở tiền sảnh.
- Willoch! Ta đã nói về chuyện này...
Con chó nằm bẹp xuống và chỉ cho mình liếm bàn tay Kari còn đuôi vẫy như cái chân vịt. Khi họ bước vào phòng khách, Kari phân trần là người ta bảo cô hôm nay ủy viên ngồi nhà điều hành công việc.
- Tôi đang trốn việc, - Parr mỉm cười chìa nay về một ghế xô pha trông mời gọi và rải rác mấy gối kê. - Đáng ra tuần này tôi bắt đầu kỳ nghỉ hè, nhưng vì hung thủ này đang nhởn nhơ nên... - Ông ta thở dài và ngồi phịch xuống chiếc ghế bành đồng bộ. - Vậy chuyện về Simon này là gì?
Kari hắng giọng. Khi nghĩ trước những điều định nói, cô đã rất băn khoăn và phải tự trấn an rằng cô không đến mách lẻo, mà để bảo đảm tính chất công việc của họ. Nhưng lúc này, khi ngồi đây với Parr, người trông rất thoải mái và ân cần, thậm chí còn thừa nhận mình đang trốn việc, cô thấy đi thẳng vào vấn đề lại có vẻ tự nhiên hơn.
- Simon đang làm việc riêng, - cô nói.
Ủy viên nhướng một bên mày.
- Tiếp đi.
- Chúng tôi đang điều tra vụ này song song với Kripos, chúng tôi không làm việc với họ, và giờ ông ấy cũng không làm việc với tôi. Chuyện đó cũng được thôi, nhưng vấn đề là dường như ông ấy có một thứ động cơ nào đó. Mà tôi không muốn chìm chung với ông ấy nếu ông ấy có làm điều gì trái luật. Ông ấy bảo tôi tránh xa một vài cuộc gặp nhất định và nói khá thẳng thừng là mình không định làm theo luật.
- Tôi hiểu rồi. Vậy chuyện này là bao giờ?
Kari thuật lại tóm tắt cho ông ta nghe cuộc gặp gỡ với Iver Iversen.
- Hừmmm, - Parr nói, nán lại mãi ở “m”. - Chuyện đó không được rồi. Tôi biết Simon, và tôi ước gì được nói là điều này nghe chẳng giống gì ông ấy. Nhưng không may là có. Cô nghĩ ông ấy có động cơ gì?
- Ông ấy muốn đơn thương độc mã tóm Sonny Lofthus.
Parr tì cằm lên ngón cái và ngón trỏ.
- Tôi hiểu rồi. Còn ai biết chuyện này nữa không?
- Không ai cả. Tôi đến thẳng đây.
- Tốt. Hãy hứa với tôi là cô sẽ không nói chuyện này với ai. Đây là vấn đề tế nhị, mà tôi chắc cô sẽ đánh giá đúng. Ngay lúc này mọi con mắt đều dồn vào cảnh sát nên ta không thể để cho những sĩ quan riêng lẻ hành động thiếu chuyên nghiệp.
- Tất nhiên, tôi hiểu.
- Để tôi lo liệu chuyện đó. Chúng tôi sẽ không bao giờ nhắc là cô có dính dáng. Cuộc gặp này chưa từng xảy ra. Nghe có thể ghê gớm nhưng mà bằng cách này, cô sẽ không có cơ bị đồng nghiệp gán cho là đồ hớt lẻo. Những cái tiếng như vậy thường dai dẳng.
Thường dai dẳng. Cô đã không tính đến chuyện đó. Kari nuốt nước bọt và gật nhanh.
- Cảm ơn ông nhiều.
- Không có gì. Cảm ơn cô, Adel. Cô đã làm đúng. Giờ thì quay lại làm việc đi và cứ tiếp tục như không có chuyện gì, như người ta vẫn nói. - Ủy viên đứng lên. - Tôi phải quay lại ngồi không đây, tôi có phận sự ngồi nhà điều hành công việc.
Kari đứng lên, vui và nhẹ nhõm vì chuyện này hóa ra nhẹ nhàng hơn cô tưởng nhiều.
Parr dừng lại bên cửa.
- Giờ Simon đâu?
- Tôi không biết, ông ấy cứ vậy mà bỏ hiện trường nơi chúng tôi tìm thấy chiếc xe và cái xác đêm qua, và từ lúc ấy không ai thấy ông ấy cả.
- Hừm. Vậy cô không biết gì cả sao?
- Điều sau cùng tôi làm là đưa ông ấy danh sách những khách sạn Lofthus có thể trọ.
- Dựa trên cái gì?
- Việc anh ta trả tiền mặt. Chuyện mà thời nay hầu như chẳng ai làm.
- Thông minh đấy. Chúc may mắn.
- Cảm ơn ông.
Kari bước xuống thềm rồi khi đi qua mấy vòi phun nước, cô nghe có tiếng chân đằng sau. Đó là Parr.
- Một điều nữa thôi, - ông ta nói. - Dựa trên điều tôi đang được nghe đây thì tôi hiểu rất có thể chính cô sẽ là người lần ra Lofthus cho chúng ta.
- Vâng, - Kari nói và biết như vậy nghe có vẻ tự phụ như cô định bụng.
- Nếu chuyện đó xảy ra thì hãy nhớ rằng hắn ta có vũ khí và nguy hiểm. Rằng nếu cô hay vài đồng nghiệp của cô buộc phải tự vệ thì sẽ được thông cảm.
Kari gạt mấy đọt tóc cứ xổ ra.
- Chính xác thì điều đó nghĩa là gì?
- Một phản ứng có vũ trang nhằm ngăn chặn sát thủ này sẽ không được xem nặng. Hãy nhớ, hắn ta đã tra khảo một nhân viên công vụ.
Kari cảm nhận được làn gió thổi làm phun những tia nước li ti lên cô.
- Được, - cô nói.
- Tôi sẽ nói với chỉ huy bên Kripos một tiếng, - Parr nói. - Ý đồ là để cô với Asmund Bjornstad làm việc với nhau thành một đội trong vụ điều tra này. Tôi rất tin là hai người có cùng hiểu biết về tình hình.
* * *
Simon nhìn chăm chăm trong gương. Nhiều năm đã qua. Nhiều giờ đã qua.
Ông không còn là người đàn ông mười lăm năm trước. Thậm chí ông cũng không phải người đàn ông bảy mươi hai giờ trước. Có thời ông tin mình bất khả chiến bại. Có thời ông tin mình là đồ cặn bã. Ông đã đi đến cái kết luận mình không phải là cả hai thứ đó, rằng ông là một con người bằng xương bằng thịt, có thể có khả năng làm điều đúng. Hoặc để mình bị những bản năng hèn hạ nhất chế ngự.
Nhưng điều đó có nghĩa là ông, hay ai đi nữa, có tự do ý chí không? Chẳng phải chúng ta, được cho cùng phương trình toán học, cùng những xác suất, cùng xác suất của cái cho ra kết quả tốt đều sẽ chọn đi chọn lại một cách hay sao? Người ta quả quyết là ta có thể thay đổi những giá trị số, một người đàn bà có thể bước vào đời ta, ta có thể trở nên sáng suốt hơn và có được nhận định mới về cái thực sự quan trọng. Phải, nhưng chỉ vì mấy thứ ấy đã trở nên quan trọng, tất cả những gì xảy ra là những con số trong phương trình đã đổi, ta vẫn giải theo cách đó. Và rồi ta sẽ lặp đi lặp lại những chọn lựa mới ấy. Bị định đoạt bởi thành phần các hóa chất trong não, thông tin có được, bản năng sinh tồn, nhục dục, nỗi sợ chết, đạo lý học được và bản năng bầy đàn định đoạt. Chúng ta không trừng phạt thiên hạ bởi họ ác, mà vì họ có những chọn lựa sai, những chọn lựa có hại cho bầy đàn. Luân lý không phải ý trời hay vĩnh cửu, chỉ là một tập hợp quy định có lợi cho bầy đàn. Và kẻ nào không biết tuân theo quy tắc, mô thức hành vi đã được chấp nhận, sẽ không bao giờ tuân thủ được vì họ không có tự do ý chí; đó là một ảo tưởng. Như những người còn lại chúng ta, những kẻ phạm pháp cứ làm cái chúng làm. Vì vậy mà phải loại trừ chúng để bảo đảm chúng không sinh sôi và vì vậy mà khiến bầy đàn nhiễm những gien hành vi bất lợi.
Simon Kefas nghĩ cái ông đang nhìn trong gương là người máy. Cầu kỳ phức tạp và lắm khả năng. Nhưng vẫn là người máy.
Vậy chàng trai muốn báo thù cho cái gì? Cậu ta hy vọng đạt được điều gì?
Cứu một thế giới không muốn được cứu? Triệt tiêu mọi thứ ta sẽ không thừa nhận là ta cần? Vì ai chịu nổi việc sống trong một thế giới không có tội ác, không có sự nổi loạn ngu ngốc của kẻ ngốc, không có những kẻ dớ dẩn tạo ra phong trào, thay đổi? Không hy vọng vào một thế giới tốt đẹp hơn - hay tồi tệ hơn. Cái vọng động ma quỷ này, cái nhu cầu phải liên tục vận động để có ôxy của cá mập.
- Lúc này thì ổn rồi. Ta cứ vậy đi. Cứ thế này. - Có điều chưa bao giờ có chuyện đó.
Simon nghe thấy tiếng bước chân. Ông kiểm tra lại cho chắc là chốt an toàn đã khóa.
Chìa xoay trong ổ khóa.
Bước chân nghe có vẻ nhanh. Có người đang vội. Ông đếm từng giây mà mắt vẫn không rời mặt mình trong gương bên trên chậu rửa phòng tắm. Chàng trai, sau khi thấy mọi thứ vẫn còn nguyên như khi rời phòng, sẽ bình tĩnh và không phòng bị nữa. Cậu ta có thể vào trong này, nhưng đến lúc đó thì cậu ta đã hạ mọi vũ khí xuống rồi. Simon tiếp tục đếm.
Đến hai mươi thì ông mở cửa bước ra, tay cầm khẩu súng lục.
Chàng trai đang ngồi trên giường.
Trán cậu ta quấn băng. Trước mặt cậu ta, trên sàn, là chiếc cặp lấy ở tủ áo Cặp để mở, đầy những túi bột trắng mà Simon nhận ra ngay. Chàng trai đã đâm thủng lỗ nơi một túi. Tay trái cậu ta cầm thìa bột trắng, tay kia là chiếc bật lửa.
Trên giường là mớ ống tiêm dùng một lần và kim tiêm dưới da.
- Ai bắn trước? - Chàng trai hỏi.

41

Simon ngồi xuống ghế đối diện cậu ta. Nhìn cậu ta cầm bật lửa bên dưới cái thìa nhỏ.
- Làm sao ông tìm được tôi?
- Điện thoại của cậu, - Simon nói, mắt không rời ngọn lửa. - Và tiếng động đằng sau. Bọn gái đang hoạt động. Cậu biết tôi là ai không?
- Simon Kefas, - chàng trai nói. - Tôi nhận ra ông nhờ mấy tấm hình chụp.
Bột bắt đầu tan. Những bong bóng li ti nổi lên bề mặt.
- Tôi sẽ không chống cự nếu bị bắt. Dù gì tôi cũng định hôm nay sẽ nộp mình.
- Vậy hả? Sao thế? Cuộc thánh chiến của cậu kết thúc sớm vậy ư?
- Chẳng có thánh chiến nào cả, - chàng trai nói, cẩn thận để thìa xuống.
Simon biết làm vậy là để cho heroin lỏng nguội lại. - Chỉ có niềm tin mù quáng, những ai trong chúng ta vẫn còn tin vào những gì được dạy hồi còn nhỏ. Cho đến ngày ta nhận ra là cõi đời không phải như vậy. Rằng chúng ta là đồ bỏ đi. Ta đều là rác rưởi cả.
Simon bỏ súng xuống lòng bàn tay và nhìn.
- Tôi sẽ không giải cậu đến đồn cảnh sát, Sonny. Tôi sẽ dẫn cậu đến chỗ Sinh Đôi. Cậu, ma túy và tiền cậu lấy cắp của hắn ta.
Chàng trai vừa ngước nhìn ông vừa xé bọc ống tiêm.
- Được. Với tôi thì cũng thế cả. Hắn sẽ giết tôi?
- Phải.
- Dẹp mấy thứ rác rưởi đi. Để tôi chích đã. - Cậu ta bỏ một viên bông gòn vào thìa, cắm kim qua đó rồi rút ống bơm. - Tôi không biết loại ma túy này, có thể không được tinh khiết, - cậu ta nói, như thể giải thích chuyện dùng bông gòn để lọc.
Rồi cậu ta nhìn lên Simon xem ông có hiểu cái mỉa mai.
- Heroin lấy ở chỗ giấu của Kalle Farrisen, - Simon nói. - Cậu giữ nó bấy lâu nay mà không bị cám dỗ dùng thử?
Chàng trai cười khẩy, cay nghiệt.
- Tôi dùng từ sai rồi, - Simon nói. - Xóa chữ “cám dỗ” đi. Nhưng cậu đã cố cưỡng lại được. Bằng cách nào?
Chàng trai nhún vai.
- Tôi cũng biết đôi điều về người nghiện, - Simon nói. - Danh sách những thứ khiến ta bỏ thì không dài. Hoặc ta tìm thấy Jesus, một người con gái, con cái hay người cầm lưỡi hái. Trong trường hợp tôi thì đó là một người con gái. Còn cậu?
Chàng trai không nói gì.
- Bố cậu?
Chàng trai chỉ đưa mắt dò xét Simon như thể vừa phát hiện ra điều gì.
Simon lắc đầu.
- Hai người giống nhau lắm. Giờ tôi thấy còn rõ hơn trong hình.
- Mọi người vẫn nói ông ấy và tôi chẳng giống gì nhau.
- Không phải cậu với bố cậu. Cậu với mẹ. Cậu có đôi mắt của mẹ. Cô ấy thường dậy lúc bình minh vừa rạng, trước mấy người chúng tôi, ăn điểm tâm rồi vội đi làm. Thỉnh thoảng tôi dậy sớm chỉ để nhìn cô ấy ngồi đó, trước khi cô ấy sẵn sàng để đi ra ngoài, mệt mỏi, nhưng có đôi mắt đẹp lạ lùng.
Giờ chàng trai ngồi im phắc.
Simon lật lật khẩu súng lục như đang tìm kiếm điều gì.
- Chúng tôi là bốn người tay trắng, chung nhau một căn hộ ở Oslo, như vậy thì rẻ hơn. Ba anh chàng theo học trường Cảnh sát và thêm mẹ cậu. Ba thanh niên tự xưng là “nhóm tam hùng” và là bạn bè chí cốt của nhau, cha cậu, tôi và Pontius Parr. Mẹ cậu xem báo tìm một nơi để trọ và đã nhận phòng còn dư của chúng tôi. Tôi nghĩ cả ba chúng tôi đều phải lòng ngay từ phút giây nhìn thấy cô ấy. - Simon mỉm cười. - Chúng tôi thay phiên nhau, kín đáo làm quen cô ấy. Và chúng tôi là ba gã đẹp trai, tôi nghĩ cô ấy không rõ nên chọn ai.
- Chuyện đó thì tôi không được biết, - chàng trai nói. - Nhưng tôi biết mẹ chọn nhầm người.
- Đúng vậy, - Simon nói. - Cô ấy đã chọn tôi.
Simon ngước lên khỏi khẩu súng. Bắt gặp cái nhìn của Sonny.
- Mẹ cậu là tình yêu của đời tôi, Sonny. Tôi gần như chìm nghỉm khi cô ấy bỏ rơi tôi và bắt đầu hẹn hò với bố cậu. Nhất là khi hóa ra ít lâu sau thì cô ấy có thai. Hai người họ dọn ra, mua nhà ở Berg. Cô ấy có thai, ông ấy vẫn còn học trường Cảnh sát, họ còn chẳng có lấy cái xô mà đi tè. Nhưng lãi suất thấp và những năm ấy ngân hàng vung tiền cho ta.
Sonny không một lần chớp mắt. Simon hắng giọng.
- Đâu khoảng thời gian đó tôi bắt đầu đánh bạc thật sự. Khi bắt đầu cá ngựa thì tôi đã nợ ngập đầu rồi. Đặt cược cao. Có gì đó làm tôi thấy được giải thoát khi đứng bên bờ vực và biết dù chuyện gì xảy ra đi nữa thì nó cũng sẽ đưa tôi đi khỏi nơi tôi đang đứng. Lên hay xuống, gần như chẳng quan trọng gì. Lúc đó bố cậu và tôi đã xa cách dần. Tôi không nghĩ mình chịu nổi hạnh phúc của ông ấy. Ông ấy với Pontius thành bạn thân, nhóm tam hùng rã đám. Tôi bịa cớ nào đó khi ông ấy nhờ tôi làm cha đỡ đầu cho cậu, nhưng tôi lẻn vào sau nhà thờ khi cậu được làm lễ rửa tội. Cậu là đứa bé duy nhất không khóc. Cậu chỉ bình thản nhìn lên mỉm cười với cha xứ mới, ông ấy hơi hồi hộp như thể cậu rửa tội cho ông ấy mà không phải ngược lại. Tôi đi thẳng ra ngoài và đặt cược 13.000 krone cho con ngựa tên Sonny.
- Rồi sao?
- Cậu nợ tôi 13.000 krone.
Chàng trai mỉm cười.
- Sao ông kể tôi nghe những chuyện này?
- Vì đôi khi tôi tự hỏi liệu mọi chuyện có cần phải như thế không. Nếu tôi được chọn khác đi. Nếu Ab được chọn khác đi. Nếu cậu được chọn. Einstein nói định nghĩa sự điên rồ là làm đi làm lại một thứ mà nghĩ ta sẽ nhận được kết quả khác. Nhưng nếu có một cái gì khác nữa, nguồn khích lệ thiêng liêng, khiến lần sau chúng ta chọn khác đi thì sao?
Chàng trai cột ống cao su quanh cánh tay trên.
- Ông nói nghe như tín đồ vậy, Simon Kefas.
- Tôi cũng không biết, tôi chỉ đang hỏi. Nhưng cái tôi biết là bố cậu có ý tốt, dù cậu có nhìn nhận ông ấy khắt khe thế nào. Ông ấy muốn tạo dựng một đời sống tốt đẹp hơn không chỉ cho mình mà cho cả ba người. Tình yêu là sự tận diệt của ông ấy. Còn giờ cậu cũng tự nhìn mình khắt khe như vậy vì cậu nghĩ cậu là bản sao của ống ấy. Nhưng cậu không phải là bố cậu. Ông ấy băng hoại đạo đức thì không có nghĩa cậu sẽ như vậy. Trách nhiệm của người con trai không phải là giống bố mình, mà tốt đẹp hơn bố.
Chàng trai cắn chặt răng vào một đầu ống cao su.
- Có lẽ nhưng sao giờ chuyện đó lại quan trọng? - Cậu ta nói bằng khóe miệng, đầu ngửa ra sau để cái ống thắt chặt lại và các ven trên cẳng tay nổi lên. Cậu ta xoay ngược ống tiêm lại, ngón cái trên ống bơm còn kim tựa vào ngón giữa. Như vận động viên bóng bàn Trung Quốc, Simon nghĩ. Cậu ta cầm ống tiêm bên tay phải, dù cậu ta thuận tay trái, nhưng Simon biết dân nghiện đã học cách chích bằng cả hai tay.
- Nó quan trọng bởi lẽ giờ đến lượt cậu chọn, Sonny. Cậu có cắm mũi kim đó xuống không? Hay cậu giúp tôi tóm Sinh Đôi? Và gián điệp nhị trùng thực sự?
Một giọt lấp lánh đầu mũi kim. Từ ngoài đường vẳng lại tiếng xe cộ và tiếng cười, từ phòng bên là tiếng âu yếm thủ thỉ. Nhịp đập mùa hè êm ả của thành phố.
- Tôi sẽ dàn xếp một cuộc hẹn mà cả Sinh Đôi lẫn gián điệp nhị trùng đều có mặt. Nhưng tôi không thể làm vậy trừ phi cậu còn sống, cậu là mồi nhử.
Chàng trai không có vẻ gì là nghe thấy ông, cậu ta đã cúi đầu và gần như gập mình bên ống tiêm, sẵn sàng phê thuốc. Simon chuẩn bị tinh thần. Rồi ngạc nhiên khi nghe thấy giọng chàng trai:
- Hắn là ai, gián điệp nhị trùng ấy?
Simon cảm thấy tức ngực và nhận ra mình đã quên thở.
- Cậu sẽ biết nếu cậu có mặt, không phải trước đó. Tôi biết cậu đang trải qua điều gì, Sonny. Nhưng bao giờ cũng có một thời điểm mà mọi chuyện không thể trì hoãn thêm được nữa, khi ta không thể yếu hèn thêm một ngày nào nữa và tự hứa là ngày mai, ngày mai ta sẽ bắt đầu cái cuộc sống khác kia.
Sonny lắc đầu.
- Sẽ không còn cuộc sống nào nữa.
Simon nhìn chằm chặp ống tiêm. Và khi ấy ông mới nhận ra. Đó là một lượng quá liều.
- Cậu muốn chết mà không được biết ư, Sonny?
Chàng trai đưa cái nhìn từ ống tiêm lên Simon.
- Cứ nhìn xem cái biết đã đưa tôi tới đâu, Kefas.
* * *
- Phải đây không? - Asmund Bjornstad hỏi và cúi người trên tay lại. Anh ta đọc tấm biển trên lối vào. - Khách sạn Bismarck?
- Phải, - Kari nói và tháo dây an toàn.
- Mà cô chắc là ông ta đang ở đây?
- Simon muốn biết những khách sạn nào ở Kvadraturen có khách trả tiền mặt. Tôi đoán chắc là ông ấy biết điều gì đó, nên tôi đã gọi sáu khách sạn và gửi cho họ hình Sonny Lofthus.
- Rồi có tin tốt lành từ Bismarck?
- Nhân viên tiếp tân khẳng định người trong hình đang trọ phòng 216. Anh ta còn nói một sĩ quan cảnh sát đã đến đó rồi và đã vào phòng. Rằng khách sạn đã có thỏa thuận với sĩ quan cảnh sát này và anh ta mong ta tuân thủ.
- Simon Kefas?
- Tôi e là vậy.
- Được, ta nên bắt đầu thôi. - Asmund Bjornstad cầm radio cảnh sát lên bấm nút đàm thoại. - Delta, vào đi.
Loa kêu lách tách.
- Delta nghe. Hết.
- Tôi cho phép các anh vào. Phòng 216.
- Rõ. Chúng tôi vào đây. Hết..
Bjornstad để radio xuống.
- Họ nhận lệnh gì? - Kari nói, cảm thấy áo sơ mi mình chật cứng.
- Ưu tiên cho an toàn bản thân, bắn chết nếu cần. Cô đi đâu đấy?
- Kiếm chút khí trong lành.
Kari băng qua đường. Mấy sĩ quan cảnh sát mặc đồ đen và cầm súng máy MP5 chạy trước mặt cô; một số vào quầy tiếp tân khách sạn, số khác vào cái sân có cầu thang sau và lối thoát hỏa hoạn. Cô đi qua tiếp tân và đang lên cầu thang thì nghe tiếng cửa bị nện một cái rầm và tiếng nổ khô khốc của lựu đạn gây choáng. Cô đi tiếp lên cầu thang rồi đang đi dọc hành lang thì nghe thấy radio cảnh sát lách tách: đã giải tỏa và chiếm khu vực.
Cô rẽ vào phòng.
Bốn sĩ quan cảnh sát: một trong phòng tắm, ba trong phòng ngủ. Tủ áo và cửa sổ thấy đều mở toang. Không có ai khác. Không còn vật dụng cá nhân. Khách đã trả phòng.
* * *
Markus đang ngồi xổm, tìm ếch trong đám cỏ thì thấy Người Con Trai từ ngôi nhà vàng đi ra bước tới chỗ cậu. Mặt trời chiều sà thấp trên mái đến mức khi Người Con Trai đứng lại trước mặt Markus, trông nhưng đang tỏa sáng từ đầu anh. Anh mỉm cười và Markus mừng vì trông anh đã không còn khổ sở như hồi sáng.
- Vui được gặp em, Markus.
- Anh đi giờ ư?
- Ừ, anh phải đi.
- Sao lúc nào anh cũng phải đi vậy? - Cậu không kịp ngăn mình thốt ra câu đó.
Người Con Trai cũng ngồi xổm xuống và để tay lên vai Markus.
- Anh còn nhớ bố em đấy, Markus.
- Thật hả? - Markus nói, nghe có vẻ không tin cho lắm.
- Ừ. Và dù mẹ em có nói hay nghĩ gì, nhưng chú ấy bao giờ cũng tử tế với anh. Có lần chú ấy đuổi một con nai sừng tấm đực to sụ từ rừng đi lạc vào trong xóm.
- Vậy hả?
- Một mình.
Thế rồi Markus nhìn thấy một cảnh tượng kỳ lạ. Sau đầu Người Con Trai, bên cửa sổ phòng ngủ để mở của ngôi nhà vàng, mấy tấm màn trắng mỏng căng phồng lên. Dù không có tí gió nào. Người Con Trai đứng lên, vò tóc Markus rồi cất bước xuống đường. Tay vung một cái cặp và huýt sáo. Mắt Markus chợt thấy cái gì đó, vậy là cậu quay nhìn lại ngôi nhà. Màn cửa đang bốc cháy. Và giờ thì cậu thấy mấy cửa sổ kia cũng đã mở. Tất cả.
Một con nai sừng tấm đực ư, Markus nghĩ. Bố mình đã đuổi một con nai sừng tấm đực.
Ngôi nhà tạo ra cái tiếng động như đang hút không khí vào. Lúc đầu là tiếng ầm ầm trầm mặc, rồi đến những tiếng ngân nga, mạnh dần thành tiếng nhạc dữ dằn, đắc thắng. Và giờ thì đằng sau những cánh cửa sổ đen họ đã tung mình và xoay tít rồi, những vũ công ba lê vàng đang làm lễ mừng suy vong, Ngày Phán Quyết.
* * *
Simon cho xe về số không rồi để máy chạy không.
Phía dưới đường, bên ngoài nhà ông, còn một xe nữa. Một chiếc Ford Mondeo xanh mới. Cửa kính mờ ở sau. Một chiếc giống hệt đã đậu bên ngoài khoa Mắt tại bệnh viện. Đó có thể là sự trùng hợp tình cờ, tất nhiên, nhưng ông biết rằng năm ngoái Sở Cảnh sát Oslo đã sắm tám chiếc Ford Mondeo. Có cửa sổ mờ để ta không thấy cái đèn xanh nhấp nháy để trên miếng nệm kê đầu ghế sau.
Simon chụp lấy điện thoại nằm bên ghế hành khách.
Điện thoại chưa kịp reo lần hai đã được trả lời.
- Anh cần gì?
- Chào, Pontius. Hẳn anh rất bực vì điện thoại của tôi cứ đi suốt mà không dừng lại cho các anh dò sóng.
- Dừng cái trò điên loạn này ngay, Simon, tôi hứa anh sẽ không phải chịu hậu quả.
- Không gì cả sao?
- Phải, nếu anh hủy ngay. Anh có chịu thỏa thuận không?
- Anh bao giờ cũng muốn thỏa thuận, Pontius. Thôi được, tôi có một thỏa thuận cho anh đây. Sáng mai hãy có mặt tại một nhà hàng.
- Thực đơn gồm có gì?
- Vài tên tội phạm mà bắt được chúng sẽ là niềm tự hào cho anh.
- Cụ thể hơn đi?
- Không được. Nhưng tôi sẽ đưa anh địa chỉ và thời gian nếu anh hứa chỉ dẫn theo một người. Đồng nghiệp của tôi, Kari Adel.
Im lặng một lát.
- Anh đang cố gài bẫy tôi đấy phải không, Simon?
- Đã bao giờ tôi làm vậy chưa? Hãy nhớ, anh đồng ý để có được một thỏa thuận lớn. Hay chính xác hơn: anh mất rất nhiều thứ nếu để mấy tên này thoát.
- Anh có hứa với tôi là chúng tôi sẽ không bước vào một ổ phục kích?
- Ừ. Anh nghĩ tôi lại để chuyện gì xảy ra cho Kari sao?
Ngừng.
- Không. Không, anh chưa bao giờ là người như thế, Simon.
- Tôi đoán đó là lý do vì sao tôi chưa từng lên tới ghế Ủy viên.
- Tếu đấy. Bao giờ và ở đâu?
- Bảy giờ mười lăm. Aker Brygge, số 86. Hẹn gặp anh ở đó.
Simon mở cửa sổ hông, ném điện thoại ra và thấy nó mất hút qua hàng rào hàng xóm. Xa xa ông nghe có tiếng xe cứu hỏa.
Rồi ông gài số và rồ máy.
Ông chạy xe về phía Tây. Đến Smestad ông hướng ra Holmenkollasen. Đi quanh co lên cái chỗ điểm nhìn bao giờ cũng đem lại cho ông một cái nhìn bao quát.
Đến lúc này thì chiếc Honda đã được đưa đi và các cảnh sát điều tra hiện trường đã xong việc.
Cuối cùng thì nó đã không còn là hiện trường nữa.
Dù sao thì cũng không phải cho một vụ án mạng.
Simon đỗ xe lại để được ngắm cảnh vịnh và hoàng hôn.
Khi trời bắt đầu tối dần, Oslo trông càng thêm giống ngọn lửa sắp tàn màu đỏ rực và vàng hổ phách. Simon xốc cổ áo choàng lên và bật ghế ra sau. Ông phải cố ngủ một chút. Mai sẽ là một ngày trọng đại.
Ngày trọng đại nhất của tất cả họ.
Nếu họ gặp may.
* * *
- Thử cái này xem, - Martha nói, đưa cho cậu thanh niên một áo khoác.
Anh ta có thể được xem là người mới, cô mới thấy anh ta ở đây có một lần.
Hai mươi tuổi, có lẽ vậy, nhưng nếu anh ta còn sống để thấy tuổi hai mươi lăm thì đó đúng là người may mắn. Hay ít ra đó cũng là ý kiến chung của mấy người kia ở quầy tiếp tân Trung tâm Ila.
- Tuyệt, nó vừa với anh quá! - Cô mỉm cười. - Hay là thử mặc với cái này?
Cô đưa anh ta chiếc quần jean, gần như mới. Cô chợt nhận ra có người đứng sau lưng nên quay lại. Chắc hẳn anh theo lối nhà ăn mà vào, có lẽ anh đứng ở cửa vào phòng kho để áo quần nhìn cô được một lúc rồi cũng nên. Bộ com lê và băng gạc quấn quanh đầu là đã đủ để nhận ra anh, nhưng Martha thậm chí cũng không thấy mấy thứ ấy.
Thứ duy nhất cô thấy là cái nhìn khát khao, nồng nàn của anh.
Tất cả những gì cô không muốn. Tất cả những gì cô muốn.
* * *
Lars Gilberg trở mình trong túi ngủ mới toanh. Người bán hàng ở cửa hàng đồ leo núi đã hồ nghi nhìn tờ một ngàn krone rồi mới nhận và đưa gã cái túi ngủ diệu kỳ.
Gilberg chớp chớp mắt.
- Cậu quay lại đấy à, - gã nói. - Lạy Chúa, cậu thành người Ấn rồi à?
Giọng gã lanh lảnh vọng lại dưới vòm cầu.
- Có lẽ vậy, - thanh niên mỉm cười ngồi xổm xuống cạnh gã. - Tôi cần một chỗ để ngủ tối nay.
- Cứ tự nhiên đi. Dù trông như cậu đủ sức thuê khách sạn.
- Bọn chúng sẽ tìm ra tôi ở đấy.
- Ở đây thì chỗ đầy ra đấy mà lại không bị theo dõi.
- Ông cho tôi mượn ít tờ báo nhé? Tức là nếu ông đọc rồi.
Gilberg cười tủm tỉm.
- Cậu cứ mượn cái túi ngủ cũ đáng tin cậy của tôi này - giờ tôi dùng nó làm nệm. - Gã kéo cái túi ngủ cũ, xập xệu bẩn thỉu dưới người ra. - Mà thế không được! Tối nay cậu lấy cái mới còn tôi ngủ trong cái cũ. Trong cái cũ có nhiều tôi quá, hiểu tôi nói gì không?
- Ông chắc chứ?
- Ừ. Cái túi ngủ cũ nó nhớ tôi.
- Cảm ơn nhiều, Lars.
Lars Gilberg chỉ mỉm cười đáp lại.
Thế rồi khi ngả lưng xuống, gã cảm thấy một sự ấm áp dễ chịu không phải từ túi ngủ. Nó từ bên trong gã.
* * *
Nghe như mấy hành lang cùng thở sườn sượt khi toàn bộ cửa xà lim tại Staten đồng loạt khóa lại trong đêm.
Johannes Halden ngồi xuống giường. Ông có làm thế nào thì cũng chẳng thay đổi được gì. Ngồi, nằm hay đứng, cái đau cũng vẫn vậy. Ông cũng biết nó sẽ không hết mà chỉ ngày càng nặng hơn thôi. Căn bệnh của ông giờ đã thấy rõ.
Ung thư phổi rồi lại thêm khối u cỡ bằng trái banh golf trong bẹn.
Arild Franck đã nói sao làm vậy. Như để trừng phạt Johannes vì giúp chàng trai trốn thoát, ông sẽ bị ung thư ăn dần ăn mòn trong xà lim mà không chăm sóc y tế hay dùng thuốc giảm đau. Có lẽ Franck sẽ cho ông tới trạm xá khi cảm thấy Halden chịu đau đớn đã đủ lâu và có thể chết không biết lúc nào, chỉ để tránh phải ghi ra một trường hợp tử vong tại xà lim trong báo cáo hằng năm của hắn.
Xung quanh im lặng như tờ. Và nhất cử nhất động đều có camera giám sát.
Ngày trước các cai tù thường đi tuần sau giờ khóa xà lim nên nghe tiếng chân họ cũng thấy được an ủi. Một sĩ quan tại nhà thì Uliersmo, Havelsmo, một người lớn tuổi, ngoan đạo, thường hát trong lúc đi tuần. Những bài thánh ca xưa bằng giọng nam trung trầm. Đó là bài hát ru hay nhất một tù nhân lâu năm có thể có được, ngay cả những thằng tâm thần nhất cũng ngừng la hét khi nghe thấy Havelsmo bước dọc hành lang. Johannes ước gì lúc này có Havelsmo đây.
Ông ước gì giờ chàng trai đang đây. Nhưng ông không ca thán. Chàng trai đã cho ông điều ông muốn. Tha thứ. Lại còn cả một bài hát ru.
Ông đưa ống tiêm lên ánh sáng.
Bài hát ru.
Chàng trai đã bảo ông là cậu ta có được nó từ trong cuốn Kinh Thánh của cha tuyên úy, Per Vollan quá cố - cầu cho linh hồn giày vò của ông ta tìm thấy bình an - và rằng cái này là heroin nguyên chất nhất có được ở Oslo. Rồi cậu ta chỉ cho ông cách tiêm khi đến thời điểm.
Johannes để kim lên sợi ven xanh dày nơi cánh tay. Ông hít một hơi run run.
Vậy ra tất cả là thế này đây, đời ông là đây. Một cuộc đời có thể đã khác xa nếu như ông không bằng lòng tuồn vào hai gói từ cảng Songkhla. Kỳ lạ. Nếu là hôm nay thì ông có đồng ý không? Không. Nhưng người đàn ông ngày trước đã gật đầu. Không biết bao lần. Nên chuyện đã không thể khác đi.
Ông nhấn kim tiêm xuống da, hơi rùng mình khi thấy da trũng xuống và kim trượt vào. Rồi ông ấn ống bơm xuống. Đều đều và thong thả. Quan trọng là tiêm cho hết ống.
Điều đầu tiên xảy ra là cái đau tan biến. Như thể có phép mầu.
Rồi điều thứ hai xảy ra.
Và cuối cùng ông cũng đã hiểu được cái mấy người kia vẫn nói đến. Phê thuốc. Rơi tự do. Cái ôm. Lẽ nào chuyện đơn giản vậy ư, bấy lâu nay ông chỉ thiếu đúng một mũi chích? Có phải nàng chỉ là mũi chích bị thiếu? Vì giờ nàng ở đây, mặc chiếc váy lụa, mái tóc đeNóng, cặp mắt hạnh nhân. Và cái giọng dịu dàng thỏ thẻ những câu tiếng Anh khó nghe bằng đôi môi anh đào mềm mại.
Johannes Halden nhắm mắt lại rồi nằm vật ra giường.
Nụ hôn của nàng.
Đó là tất cả những gì ông hằng mong muốn.
* * *
Markus dán mắt vào TV.
Người ta đang nói về tất cả những người bị giết trong ít tuần qua, TV và radio cứ phát mãi chuyện đó. Mẹ đã dặn cậu đừng xem nhiều quá, nó chỉ tổ khiến cậu thấy ác mộng thôi. Nhưng cậu không còn bị ác mộng nữa. Còn lúc này, Markus thấy ông ta trên truyền hình và nhận ra. Ông ta ngồi ở một cái bàn đầy kín micro trả lời các câu hỏi và Markus nhớ ra ông ta nhờ cặp kính không gọng. Markus không hiểu tí gì cả, nó nghĩa là sao hay mọi thứ ấy liên hệ với nhau thế nào. Cậu chỉ biết mỗi một điều là ông này sẽ không phải tới để bật hệ thống sưởi trong ngôi nhà vàng vì giờ nó đã cháy rụi rồi.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét