Người Con Trai
Tác giả: Jo Nesbo
Người dịch: Thiên Nga
Nhà XB Hà Nội & Nhà Sách Nhã Nam - 2017
Phần Năm
42
Lúc 6 giờ 35 sáng, Beatrice Jonasen, nhân
viên tiếp tân tại văn phòng luật sư Tomte & Ohre, vừa nén cái ngáp vừa cố
nhớ xem người phụ nữ mặc áo choàng đứng trước mặt làm cô nhớ đến cuốn phim nào.
Cái gì đó có Audrey Hepbum. Bữa sáng ở
Tiffany? Cô này cũng quấn khăn choàng lụa và đeo kính râm, trông như từ thập
niên sáu mươi. Cô ta để một túi xách lên quầy nói là đưa cho Jan Ohre như đã
dàn xếp, rồi bỏ đi.
Nửa giờ sau mặt trời hắt bóng lên mấy cửa sổ
trên bức tường mặt tiền gạch đỏ của tòa thị chính Oslo, những chiếc phà đầu
tiên cập bến ở Aker Brygge và người đi từ Nesoddtangen, Son và Drobak tràn lên
bờ trên đường đi làm. Hôm nay sẽ là một ngày quang đãng nữa, nhưng trong không
khí có thoáng chút lành lạnh, một gợi ý cho thấy ngay cả hè này cũng sẽ không
kéo dài mãi. Hai người đàn ông đi cạnh nhau trên lối đi dạo giữa mấy hàng trụ,
ngang qua các nhà hàng có ghế dựa vẫn còn úp trên bàn, các tiệm quần áo vài giờ
nữa mới mở cửa và người bán dạo ngoài đường dọn đồ ra chuẩn bị cho đợt tấn công
cuối vào du khách thủ đô. Người trẻ hơn trong hai bọn họ mặc bộ com lê xám
thanh lịch nhưng nhàu và dính bẩn. Người lớn tuổi hơn mặc áo khoác kẻ ô mua ở cửa
hàng giảm giá tại Dressmann còn quần thì đồng bộ với áo ở mỗi khoản giá. Họ đeo
kính râm giống hệt nhau mua ở trạm xăng hai mươi phút trước, xách hai cặp giống
nhau.
Hai người đàn ông rẽ vào một con hẻm vắng.
Được năm chục thước thì họ xuống một cầu thang sắt hẹp dẫn đến cánh cửa khiêm
nhường của một nhà hàng mà, xét theo tấm biển kín đáo có vẻ như phục vụ cá và hải
sản. Người lớn tuổi hơn thử đẩy cửa, nhưng thấy là nó khóa. Ông gõ. Một bộ mặt,
méo mó như trong gương ở hội chợ, xuất hiện bên kia nhỏ tròn nơi cửa. Môi mấp
máy còn lời lẽ nghe như từ dưới nước:
- Đưa hai tay lên chỗ nào tôi nhìn thấy được.
Họ làm như hắn nói và cửa mở ra.
Tên này tóc vàng và người chắc nịch. Cả hai
nhìn xuống khẩu súng lục hắn chĩa vào họ.
- Vui gặp lại anh, - người lớn tuổi hơn mặc
áo khoác kẻ ô nói và đẩy kính râm lên trán.
- Vào đi, - thằng tóc vàng nói.
Họ bước vào rồi hai gã mặc com lê đen tức
thì vỗ vỗ họ từ đầu xuống chân trong khi thằng tóc vàng thong dong dựa cái quầy
phòng để áo khoác, nhưng không hề hạ súng xuống.
Một khẩu súng lục được lấy từ bao súng trên
vai người lớn tuổi hơn đưa cho thằng tóc vàng.
- Người này an toàn, - tên mặc com lê đen
nói, hất hàm về người trẻ tuổi. - Nhưng hắn có thứ băng gì đó quanh thắt lưng.
Thằng tóc vàng nhìn chằm chặp thanh niên.
- Vậy ra là mày, kiểu như Phật Cầm Gươm, hừ?
Thiên thần từ dưới địa ngục, hừ?
Người thanh niên không nói gì. Thằng tóc
vàng nhổ toẹt xuống sàn trước đôi giày Vass đen bóng loáng.
- Biệt danh hay đấy - trông cứ như có ai
khâu một cây thập ác khốn kiếp trên trán mày vậy.
- Trên trán mày nữa.
Thằng tóc vàng cau mày.
- Ý mày nói mẹ kiếp gì đó, Phật?
- Mày không cảm thấy à?
Thằng tóc vàng bước tới một bước và kiễng
chân nên mũi họ gần chạm nhau.
- Giờ không phải lúc đâu, - người đàn ông lớn
tuổi nói.
- Câm miệng, ông ngoại, - thằng tóc vàng
nói, vạch áo khoác và sơ mi của người thanh niên ra. Mấy ngón tay hắn từ từ lần
mò cái băng quấn quanh thắt lưng anh ta.
- Đây hả?
Hắn hỏi khi tay chạm tới sườn người thanh
niên.
Hai giọt mồ hôi xuất hiện trên trán người
thanh niên bên trên cặp kính.
Thằng tóc vàng chọt tay vào băng. Người
thanh niên há miệng, nhưng không có tiếng nào thốt ra.
Thằng tóc vàng hầm hè.
- Ừ, nó đây. - Hắn chọt mấy ngón tay vào,
véo mạnh một miếng trên da.
Một tiếng nấc khản đặc phát ra từ người
thanh niên.
- Bo, ông ấy đang chờ kìa, - một trong mấy
đứa kia nhắc.
- Rồi, rồi, - thằng tóc vàng nói khẽ, mắt vẫn
không rời thanh niên đang thở hồng hộc lấy không khí. Thằng tóc vàng ấn mạnh
hơn. Một giọt nước mắt lăn xuống gò má xanh xao bên dưới kính râm của người
thanh niên.
- Sylvester và Evgeni gửi lời hỏi thăm, -
thằng tóc vàng nói nhỏ. Rồi hắn thả tay ra quay qua bọn kia.
- Lấy cặp của chúng rồi dẫn chúng vào.
Những người mới tới giao nộp cặp rồi bước
vào phòng ăn.
Người đàn ông lớn tuổi theo bản năng bước
chậm lại.
Bóng dáng một người đàn ông, một người to lớn,
in trên ánh đèn xanh lá hắt ra từ hồ cá có con cá đủ màu lượn lờ và một tinh thể
lấp lánh trên tảng đá trắng lớn có vạt cỏ cao dập dờn trong luồng nước đầy bong
bóng. Tôm hùm càng buộc dây tua tủa nằm dưới đáy hồ.
- Như tôi đã hứa với ông... - người đàn ông
lớn tuổi nói lí nhí. - Anh ta đây.
- Nhưng còn gián điệp nhị trùng đâu? - Người
thanh niên nói.
- Cứ tin tôi hắn ta sẽ tới đây.
- Chánh thanh tra Simon Kefas, - người đàn
ông khổng lồ nói ồm ồm. - Và Sonny Lofthus. Tôi đã đợi chuyện này lâu lắm rồi.
Ngồi xuống đi.
Chàng thanh niên di chuyển khó khăn hơn người
lớn tuổi khi họ bước tới ngồi đối diện người đàn ông khổng lồ.
Một tên nữa lẳng lặng lẻn vào qua cánh cửa
xoay dẫn vào bếp. Vai rộng và cổ bò mộng như ba tên kia.
- Chỉ có bọn họ thôi, - hắn ta nói rồi đứng
vào cùng ủy ban tiếp đón tạo thành hình vòng cung sau lưng hai người mới đến.
- Mày thấy trong đây sáng quá hay sao hả? -
người đàn ông khổng lồ nói, hướng về người thanh niên vẫn đeo kính râm.
- Tôi thấy được mọi thứ tôi muốn thấy, cảm
ơn ông, - người thanh niên đáp giọng tỉnh
bơ.
- Trả lời hay - tao ước tao có cặp mắt trẻ
trung, tươi tắn của mày. - Người đàn ông khổng lồ chỉ vào mắt mình. - Mày có biết
độ nhạy ánh sáng của mắt giảm đi ba mươi phần trăm khi ta còn chưa bước qua tuổi
năm mươi không? Nếu nhìn như vậy thì cuộc sống là hành trình đi về bóng tối,
không phải ánh sáng, phải vậy không? Không định chơi chữ ám chỉ vợ ông đâu,
chánh thanh tra Kefas. Vì vậy mà ngay khi có thể, ta phải mau mau học cách đi
qua cuộc đời mà không nhìn thấy. Ta phải có được cái khả năng của gián điệp nhị
trùng là dùng các giác quan khác để thấy những chướng ngại và mối đe dọa nào nằm
trước mặt, phải vậy không?
Hắn vung hai cánh tay ra. Giống như đang
xem một xe xúc đất có hai thùng chứa.
- Hay ta có thể, tất nhiên, mua một tay
gián điệp nhị trùng để thấy giùm ta. Gián điệp nhị trùng thì có cái rắc rối là
chúng thường hoạt động ngầm, vì vậy mà dễ mất chúng. Tao đã mất thằng của tao
theo cách như vậy. Chẳng biết hắn có chuyện gì. Tao còn hiểu là cả mày cũng
đang tìm hắn, phải vậy không?
Người thanh niên nhún vai.
- Để tao đoán xem. Kefas thuyết phục mày đến
đây bằng cách hứa hẹn cho mày tên gián điệp nhị trùng, phải vậy không?
Người đàn ông lớn tuổi hắng giọng.
- Sonny tự ý đến đây vì anh ta muốn làm
hòa. Anh ta nghĩ đã báo thù cho cha rồi. Nên giờ các bên nên ai đi đường nấy
đi. Để chứng tỏ mình nghiêm túc, anh ta sẵn sàng trả lại tiền và ma túy đã lấy.
Đổi lại, việc săn lùng anh ta sẽ bị hủy bỏ. Làm ơn đưa hai cái cặp cho chúng
tôi?
Người đàn ông khổng lồ hất hàm về thằng tóc
vàng đã bày hai chiếc cặp trên bàn. Người đàn ông lớn tuổi với lấy một cặp,
nhưng thằng tóc vàng gạt tay ông ra.
- Tùy anh, - người đàn ông lớn tuổi nói,
đưa hai lòng bàn tay lên. - Tôi chỉ muốn cho ông thấy là tạm thời lúc này anh
Lofthus đem đến cho ông một phần ba ma túy và một phần ba tiền. Ông sẽ nhận phần
còn lại khi anh ta được ông hứa đình chiến và được còn sống rời khỏi đây.
* * *
Kari tắt bộ đánh lửa trong xe. Nhìn lên tấm
biển đèn nê ông của hãng tàu cũ có mấy chữ đỏ ghi rõ A-k-e-r B-r-y-g-g-e. Thiên
hạ tràn ra từ chiếc phà vừa tới.
- Ủy viên đi gặp bọn tội phạm mà không được
yểm trợ thì có an toàn thật không?
- Như một người bạn của tôi thường nói, -
Pontius Parr đáp, kiểm tra súng lục trước khi bỏ lại vào bao súng trên vai, -
không vào hang hùm sao bắt được hùm.
- Cái đó nghe giống Simon, - Kari nói và
nhìn đồng hồ trên đỉnh tháp tòa thị chính. 7 giờ 10.
- Chính xác, - Parr nói. - Mà cô biết gì
không, Adel? Tôi có cảm giác như ngày hôm nay sẽ đem lại cho ta thật nhiều
tràng pháo tay nồng nhiệt. Xong việc tôi muốn cô đi cùng tôi đến buổi họp báo. Ủy
viên và nữ sĩ quan trẻ. - Ông ta chép miệng như đang nếm cái gì đó. - Đúng vậy,
tôi nghĩ việc đó sẽ được hoan nghênh nhiệt liệt.
Ông ta mở cửa bên ghế hành khách bước ra.
Kari gần như phải chạy dọc lối đi dạo để
theo kịp ông ta.
* * *
- Sao? - Người đàn ông lớn tuổi hỏi. - Ta
có đồng ý thỏa thuận không? Ông lấy lại cái đã bị lấy của ông còn Lofthus có sự
chấp thuận chắc chắn để ra nước ngoài.
- Còn ông được khoản tiền hoa hồng nho nhỏ
cho việc môi giới thỏa thuận, phải vậy không? - Người đàn ông khổng lồ mỉm cười.
- Chính xác.
- Hừm. - Người đàn ông khổng lồ nhìn Simon
như thể đang tìm kiếm gì đó mà không tìm ra. - Bo, mở cặp.
Bo bước tới trước và cố mở cặp đầu tiên.
- Khóa rồi, thưa sếp.
- 1, - người thanh niên nói giọng nhỏ nhẹ,
gần như thì thầm, - 9-9-9.
Bo xoay mấy trục kim loại. Bật nắp lên.
Xoay cặp qua phía sếp.
- Của ta đây rồi, - người đàn ông khổng lồ
nói, cầm một túi trắng lên. - Một phần ba. Vậy phần còn lại đâu?
- Ở một chỗ bí mật, - người đàn ông lớn tuổi
nói.
- Tất nhiên là vậy. Còn mã số mở cặp tiền?
- Cũng vậy, - người thanh niên nói.
- 1999. Năm cha mày chết, phải vậy không?
Thanh niên không nói gì.
- OK? - Người đàn ông lớn tuổi nói, gượng một
nụ cười và vỗ tay. - Giờ chúng tôi đi được chưa?
- Tôi tưởng ta sẽ cùng ăn với nhau, - người
đàn ông khổng lồ nói. - Ông thích tôm hùm chứ?
Không phản ứng.
Hắn thở dài.
- Nói thật là tôi cũng không thích tôm hùm.
Nhưng ông biết gì không? Tôi vẫn ăn. Tại sao? Vì một người ở địa vị tôi thì phải
như vậy. - Hắn vung hai cánh tay, áo vest che bộ ngực vạm vỡ vạch ra sau. - Tôm
hùm, trứng cá, sâm banh. Ferrari không có phụ tùng, những cựu người mẫu đòi dàn
xếp ly dị. Cảnh lẻ loi trên du thuyền, cái nóng ở Seychelles. Chúng ta làm rất
nhiều thứ ta không thực bụng muốn, phải vậy không? Nhưng điều đó cần thiết để
duy trì động cơ. Không phải của tôi, mà động cơ của những kẻ làm cho tôi. Chúng
cần thấy những biểu tượng thành đạt này - về cái tôi đã đạt được, về cái chúng
có thể đạt được, nếu chúng lo làm việc của mình, phải vậy không? - Người đàn
ông khổng lồ đút điếu thuốc vào giữa hai môi dày. Điếu thuốc trông nhỏ kỳ lạ
nơi cái đầu to bè. - Nhưng, tất nhiên, mấy thứ tượng trưng cho địa vị này còn ở
đó để nhắc nhở những đối thủ tiềm năng và những kẻ phản kháng bạo lực và sự tàn
bạo cũng tương tự vậy. Tôi chẳng ưa gì chuyện đó. Nhưng đôi khi cần có nó để
duy trì động cơ. Khuyến khích người ta trả cho tôi cái họ nợ tôi. Khiến họ
không làm gì chống lại tôi. - Hắn châm điếu thuốc bằng chiếc bật lửa có hình dạng
khẩu súng lục. - Chẳng hạn, có kẻ từng chế lại vũ khí cho tôi. Hắn rút lui. Tôi
chấp nhận chuyện một người thà sửa mô tô hơn là chế súng. Cái tôi không chấp nhận
được là hắn bèn giao một khẩu Uzi cho một đứa mà hắn biết đã giết hại vài thuộc
hạ của tôi.
Người đàn ông khổng lồ gõ gõ lên kính hồ
cá.
Người thanh niên và người đàn ông lớn tuổi
nhìn theo ngón tay hắn chỉ.
Người thanh niên giật mình trên ghế. Người
đàn ông lớn tuổi chỉ nhìn.
Tảng đá trắng cỏ mọc dập dờn. Đó không phải
đá. Và ánh phản chiếu không phải từ một tinh thể. Mà từ một chiếc răng vàng.
- Bây giờ một số người có thể nghĩ chặt đầu
một người là quá đáng, nhưng nếu ta muốn làm thấm nhuần lòng trung thành trong
đám nhân viên, đôi khi ta phải làm thái quá. Tôi tin chắc là ông sẽ đồng tình với
tôi, chánh thanh tra.
- Xin lỗi tôi chưa nghe rõ? - Người đàn ông
lớn tuổi nói.
Người đàn ông khổng lồ nghiêng đầu chăm chú
nhìn ông.
- Tai khó nghe hả, chánh thanh tra?
Người đàn ông lớn tuổi đưa cái nhìn từ hồ
cá về lại người đàn ông khổng lồ.
- Tuổi già, tôi e là vậy. Vậy nên nếu ông
nói to lên một chút thì sẽ giúp ích.
Sinh Đôi cười ngạc nhiên.
- Nói to lên? - Hắn rít một hơi thuốc rồi
nhìn qua thằng tóc vàng. - Mày đã kiểm tra xem chúng có đeo dây nghe hay chưa?
- Rồi, thưa sếp. Chúng tôi còn kiểm tra cả
nhà hàng.
- Vậy là ông điếc rồi, Kefas. Chuyện gì sẽ
xảy ra cho vợ chồng ông khi mà... câu ngạn ngữ thế nào ấy nhỉ? Thằng mù dẫn thằng
điếc?
Hắn nhìn quanh mày nhướng lên và thế là bốn
thằng liền ồ lên cười.
- Chúng cười vì chúng sợ tôi, - người đàn
ông khổng lồ nói, hướng về người thanh niên. - Mày có sợ không, thằng nhóc?
Chàng thanh niên không nói gì.
Người đàn ông lớn tuổi liếc nhìn đồng hồ
tay.
* * *
Kari liếc nhìn đồng hồ tay. 7 giờ 14 phút.
Parr đã nhấn mạnh là họ phải đến đúng giờ.
- Nó đây rồi, - Parr nói, chỉ cái tên ở mặt
tiền. Ông ta bước tới cửa nhà hàng và mở cho Kari.
Trong phòng để áo khoác tối và im ắng,
nhưng cô nghe có giọng nói từ một phòng xa hơn cuối hành lang.
Parr rút súng lục trong bao súng trên vai
và ra hiệu cho Kari làm theo. Cô biết những câu chuyện người ta đang kháo nhau
trong Sở về màn trình diễn súng săn của cô ở Enerhaugen, nên cô đã phân bua với
ủy viên rằng, tuy biết dùng súng, cô vẫn là người học việc trong các cuộc vây
ráp có vũ trang. Nhưng ông ta đã đáp rằng Simon cứ khăng khăng là cô - và chỉ
cô mà thôi - sẽ tháp tùng ông và còn nói thêm là hết chín trong mười trường hợp
thì xuất trình thẻ cảnh sát là đủ. Và chín mươi chín trong một trăm vụ thì đưa
thẻ ra cùng một vũ khí là đủ. Dù vậy đi nữa thì tim Kari cũng đập loạn xạ khi họ
đi nhanh xuống hành lang.
Giọng nói im bặt khi họ bước vào phòng ăn.
- Cảnh sát đây! - Parr nói, chĩa súng lục
vào hai người ngồi ở bàn duy nhất đang được sử dụng. Kari đã bước qua bên hai
bước và để mắt canh chừng được người to con hơn trong hai. Trong chốc lát ở đó
im bặt chỉ còn giọng Johnny Cash và “Give My Loe to Rose” tràn ra từ cái loa
treo trên tường, ở giữa tủ đựng bát đĩa và một cái đầu con bò có cặp sừng dài.
Một nhà hàng bíp tết đang phục vụ bữa ăn sáng. Hai người ở bàn, cả hai mặc com
lê xám nhạt, ngạc nhiên nhìn họ. Kari nhận ra rốt cuộc không chỉ có họ là khách
trong căn phòng sáng trưng; ở bàn bên cửa sổ nhìn ra bến tàu, một cặp lớn tuổi
trông như đang lên cơn đau tim cùng một lúc. Hẳn mình đến nhầm chỗ, Kari nghĩ.
Đây không thể nào là nhà hàng Simon muốn họ đến. Rồi người nhỏ con hơn trong
hai gã com lê xám dùng khăn ăn lau miệng và nói.
- Cảm ơn ông đã thân hành đến, Ủy viên. Tôi
có thể cam đoan là không ai trong hai chúng tôi có vũ trang hay có ý xấu.
- Anh là ai? - Parr gầm lên.
- Tên tôi là Jan Ohre, tôi là luật sư và đại
diện cho quý ông đây, ông Iver Iversen. - Ông ta chìa tay về người cao hơn và
Kari tức thì nhận ra nét giống nhau người này với cậu con Iversen.
- Các ông làm gì ở đây?
- Tôi đoán là cũng như ông thôi.
- Thật sao? Tôi nghe nói trong thực đơn có
tội phạm.
- Và đó là một lời hứa chúng tôi định tuân
thủ, Parr.
* * *
- À, - người đàn ông khổng lồ nói, - mày
nên sợ đấy.
Hắn gật với thằng tóc vàng, tên này rút
trong dây nịt ra con dao mảnh, lưỡi dài, bước tới một bước, kẹp cánh tay trên
trán và gí dao vào cổ họng chàng thanh niên.
- Mày thật sự nghĩ tao thèm để ý chuyện mày
ăn cắp chút tiền lẻ của tao sao, Lofthus? Quên tiền với ma túy đi. Tao hứa với
thằng Bo là hắn sẽ được tùng xẻo mày, và tao xem ma túy và tiền đã mất là một
khoản đầu tư tốt. Một khoản đầu tư tốt vào động cơ, phải vậy không? Chúng tao
có vài cách để làm chuyện này, tất nhiên, nhưng mày sẽ chịu cái chết ít đau đớn
hơn nếu cho chúng tao biết mày đã làm gì thằng Sylvester để chúng tao còn chôn
cất cho hắn theo nghi lễ Cơ Đốc. Vậy, mày sẽ nói gì?
Người thanh niên thở hồng hộc, nhưng không
nói gì.
Người đàn ông khổng lồ dộng nắm đấm xuống
bàn làm mấy cái ly nẩy lên.
- Mày cũng điếc nữa sao?
- Có lẽ vậy, - thằng tóc vàng nói, gí sát mặt
xuống cái bên tai chàng thanh niên ló ra dưới cánh tay hắn. - Phật đây đang đeo
tai nghe.
Bọn kia cười.
Người đàn ông khổng lồ lắc đầu thất vọng
trong khi mày mò xoay mã số trên cặp còn lại.
- Nó là của mày, Bo, tùng xẻo nó đi. - Có một
tiếng ping khi người đàn ông to béo mở cặp ra, nhưng bọn tay chân mải chăm chú
vào con dao của Bo không nhận thấy cái chốt kim loại nhỏ từ trong cặp rơi ra nẩy
tưng trên sàn đá.
- Bà mẹ nhỏ nhắn, thông minh của mày đúng về
rất nhiều thứ, nhưng cứ động tới chuyện mày là sai ngay, - Simon nói. - Lẽ ra
bà ấy không bao giờ được để đứa con của quỷ ngậm núm vú.
- Cái q... - người đàn ông khổng lồ mở miệng.
Đám thuộc hạ quay lại. Trong cặp, cạnh khẩu súng lục và một khẩu Uzi, có một vật
màu xanh ô liu trông như tay nắm ghi đông xe đạp.
Người đàn ông khổng lồ ngước lên lại, vừa
đúng lúc thấy người đàn ông lớn tuổi kéo nhanh kính trên trán xuống.
* * *
- Đúng là tôi đồng ý với chánh thanh tra
Simon Kefas là sẽ cùng thân chủ của tôi gặp ông ở đây, - Jan Ohre nói, sau khi
cho Pontius Parr xem thẻ căn cước chứng tỏ ông ta đúng là luật sư. - Ông ấy
không nói với ông sao?
- Không, - Pontius Parr nói.
Kari thấy được vẻ bối rối và giận dữ trên mặt
Parr. Ohre với thân chủ liếc nhìn nhau.
- Tôi có nên hiểu như vậy tức là ông không
biết cả về thỏa thuận của chúng ta?
- Thỏa thuận nào?
- Chúng tôi muốn thương lượng xin giảm án.
Parr lắc đầu.
- Simon Kefas chỉ bảo tôi là tôi sẽ được dọn
sẵn trên đĩa vài tên tội phạm. Nên chuyện này là sao?
Ohre định đáp thì Iver Iversen nghiêng qua
thì thầm vào tai ông ta. Ohre gật rồi Iversen ngồi lại và nhắm mắt. Kari chăm
chú nhìn hắn. Hắn trông bạc nhược, cô nghĩ. Suy sụp, cam chịu.
Ohre hắng giọng.
- Chánh thanh tra Kefas tin rằng ông ấy có
vài, ừm, bằng chứng bất lợi cho thân chủ tôi và vợ quá cố. Nó liên quan đến một
số giao dịch bất động sản với một bên có tên Levi Thou. Có lẽ thường được người
ta biết đến với cái biệt danh, Sinh Đôi.
Thou, Kari nghĩ. Không phải một cái tên thường
gặp, vậy mà cô mới nghe đây thôi. Ai đó cô đã chào. Ai đó ở sở cảnh sát.
- Kafas còn quả quyết có chứng cứ về một vụ
giết người mà ông ấy tin là theo lệnh Agnete Iversen. Kefas nói vì chiếu cố đến
con trai của Iversen, ông ấy sẽ tránh trưng ra chứng cứ của cái sau, còn về các
giao dịch bất động sản thì thân chủ tôi sẽ được giảm án vì nhận tội và đưa ra
chứng cứ bất lợi cho Thou trong phiên tòa.
Pontius Parr tháo cặp kính hình chữ nhật ra
và dùng khăn tay lau. Kari ngạc nhiên thấy mắt ông ta xanh như mắt trẻ con.
- Nghe như một thỏa thuận chúng tôi tuân thủ
được.
- Tốt, - Ohre nói, mở cặp để trên ghế bên cạnh,
lấy ra một phong bì rồi đẩy qua bàn cho Parr. - Đây là bản in mọi giao dịch bất
động sản được thực hiện nhằm rửa tiền cho Levi Thou. Iversen cũng sẵn sàng làm
chứng chống lại Fredrik Ansgar, trước đây làm phòng Điều tra Gian lận Nghiêm trọng,
người đã bảo đảm để cho không một ai điều tra các giao dịch này.
Parr cầm lấy phong bì. Nắm lại.
- Bên trong còn gì khác, - ông ta nói.
- Thẻ nhớ. Nó chứa tập tin âm thanh mà
Kefas gửi từ điện thoại cho thân chủ tôi, và là cái ông ấy cũng yêu cầu nộp cho
ông.
- Ông có biết trong đó có gì không?
Ohre và Iversen lại liếc nhìn nhau. Iversen
hắng giọng.
- Nó là đoạn ghi âm ai đó. Chánh thanh tra
Kefas nói ông sẽ biết đó là ai.
- Tôi có mang theo máy tính phòng khi ông
muốn nghe ngay, - Ohre nói thêm.
* * *
Chiếc cặp mở ra. Vũ khí. Quả lựu đạn xanh ô
liu.
Chánh thanh tra Simon Kefas đã kịp nhắm
nghiền mắt và bịt tai. Ánh sáng lóa có cảm giác như lửa phả vào mặt ông và một
tiếng bùm như quả thoi vào bụng.
Rồi ông mở mắt ra, phóng tới, chụp khẩu
súng lục trong cặp và quay lại.
Thằng tóc vàng chết trân, như thể vừa nhìn
vào mắt Medusa [1]. Tay hắn vẫn kẹp quanh đầu Sonny và cầm con dao. Và giờ thì
Simon thấy điều đó, Sonny nói đúng: quả thực gã này có dấu thập trên trán. Một
tâm ngắm. Simon bóp cò và thấy lỗ thủng viên đạn tạo ra bên dưới những lọn tóc
vàng trước trán hắn. Khi tên này đổ vật xuống, Sonny chụp lấy khẩu Uzi.
Simon đã giải thích cho cậu ta là họ sẽ có
tối đa hai giây trước khi hết sự tê liệt tạm thời. Họ đã ngồi trong phòng khách
sạn Bismarck thao dượt chính khoảnh khắc này, chụp lấy vũ khí và nhả đạn. Họ
không thể nói trước thật chi tiết diễn tiến sự kiện, hiển nhiên rồi, và cho đến
tận lúc Sinh Đôi mở cặp, làm quả lưu đạn gây choáng phát nổ, Simon vẫn đinh
ninh là kế hoạch sẽ tiêu tan cả.
Nhưng khi ông thấy Sonny bóp cò và xoay
tròn trên một chân thì ông biết Sinh Đôi sẽ không vui vẻ ra về khi hết ngày làm
việc hôm nay. Chưa kịp nói hết một chữ, một loạt đạn đã khạc ra từ thứ vũ khí
kia. Hai tên thuộc hạ của Sinh Đôi ngã gục, còn đứa thứ ba đang xoay xở thò tay
vào trong áo khoác thì đã bị loạt đạn phun ra vạch một hàng lỗ chỗ ngang ngực.
Hắn còn đứng một lát rồi đầu gối mới nhận thông điệp là hắn đã chết, và đến lúc
đó thì Simon đã quay qua Sinh Đôi. Rồi nhìn sững vào cái ghế trống trơn. Làm
sao một người to béo như vậy lại di chuyển...
Ông phát hiện ra hắn ở cuối hồ cá, ngay bên
cánh cửa xoay mở vào bếp.
Ông nhắm rồi bóp cò thật nhanh ba phát liên
tiếp. Ông thấy áo vest của Sinh Đôi rúm lại ở một chỗ và rồi kính hồ cá vỡ ra một
chỗ. Trong một thoáng trông như nước còn giữ được hình dạng chữ nhật, do thói
quen hay những sức mạnh vô hình, rồi mới đổ sầm về phía họ như một bức tường
xanh lá. Simon cố nhảy qua một bên, nhưng ông quá chậm. Khi bước một bước, ông
giẫm nát con tôm hùm dưới chân, cảm thấy đầu gối bủn rủn rồi cả người ngập
trong cơn lũ. Khi nhìn lên lại, ông không thấy Sinh Đôi đâu, chỉ có cánh cửa bếp
đu đưa.
- Ông có sao không? - Sonny hỏi khi đưa tay
đỡ Simon đứng lên.
- Chưa bao giờ tốt hơn, - Simon rên và hất
tay Sonny đi. - Nhưng nếu giờ mà Sinh Đôi thoát được, hắn sẽ mất tiêu luôn.
Simon chạy đến cửa bếp, đá tung cửa bước
vào, khẩu súng lục cầm đưa ra trước mặt. Mùi nồng của bếp nhà hàng. Mắt ông rà
nhanh một lượt qua mấy quầy bếp kim loại mờ và lò, từng dãy nồi, môi và dao mỏng
treo thòng xuống từ cái trần thấp và cản tầm nhìn. Simon ngồi xổm xuống để tìm
những cái bóng hay chuyển động.
- Sàn nhà kìa, - Sonny nói.
Simon nhìn xuống. Những vết đỏ trên gạch
lát màu xám xanh. Mắt ông không đánh lừa ông, một viên đạn đã trúng mục tiêu.
Ông nghe xa xa có tiếng cửa đóng sầm.
- Đi thôi.
Vệt máu dẫn họ ra khỏi bếp, dọc một hành
lang tối nên Simon giật phăng kính râm ra, lên một cầu thang rồi lại xuống một
hành lang khác, rồi dừng bên một cánh cửa kim loại. Một cánh cửa có thể đã gây
ra chính tiếng động họ vừa nghe thấy. Mặc dù vậy Simon vẫn kiểm tra mọi cửa
hông dọc hành lang và nhìn vào trong. Trong mười người chạy trốn hai người đàn
ông với một khẩu Uzi thì hết chín người sẽ luôn chọn lối thoát ngắn nhất và hiển
nhiên nhất, nhưng Sinh Đôi là người thứ mười. Luôn lạnh lùng, luôn duy lý và
tính toán. Típ người sẽ sống sót sau vụ đắm tàu. Có thể hắn chỉ đóng sầm cửa để
đánh lạc hướng họ.
- Ta để xổng mất hắn rồi, - Sonny nói.
- Bình tĩnh đi, - Simon nói và mở cánh cửa
hông sau cùng.
Không thấy gì.
Và giờ thì đã trông thấy rõ vết máu. Sinh
Đôi đang ở sau cánh cửa kim loại.
- Sẵn sàng chưa? - Simon hỏi.
Sonny gật và đứng vào vị trí, nhắm thẳng khẩu
Uzi vào cửa.
Simon áp lưng vào tường, kéo tay nắm xuống
đẩy mở cánh cửa kim loại.
Ông thấy Sonny trúng đạn. Đạn nắng.
Simon bước ra ngoài. Ông cảm thấy gió trên
mặt.
- Chết tiệt...
Họ đang nhìn ra một con phố vắng nằm tắm
trong nắng mai. Đây là phố Ruselokkveien giao với Munkedamsveien và chạy tít về
hướng Hoàng Cung.
Không xe cộ, không người.
Và không có Sinh Đôi.
43
- Vết máu ngừng ở chỗ này, - Simon nói chỉ
xuống mặt đường nhựa. Hẳn Sinh Đôi nhận ra mình đang để lại vệt máu nên đã cố
ngăn nó nhỏ giọt xuống nền đất. Loại người sống sót được sau vụ đắm tàu.
Ông nhìn lên Ruselokkveien vắng tanh. Cái
nhìn lướt quá nhà thờ Thánh Paul, quá cây cầu nhỏ nơi con đường rẽ đi rồi khuất
tầm mắt. Ông nhìn trái phải khắp Munkedamsveien.
Không thấy gì.
- Thằng khốn... - Sonny thất vọng đánh khẩu
Uzi vào đùi.
- Nếu hắn còn trên đường thì ta đã kịp thấy
hắn, - Simon nói. - Hẳn hắn đi vào đâu đó.
- Đâu?
- Tôi cũng không biết.
- Hay là hắn có xe ngoài này.
- Có lẽ vậy. Này! - Simon chỉ khoảng nền đất
giữa hai giày của Sonny. - Nhìn kìa, thêm một vết máu nữa. Nếu...
Sonny lắc đầu rồi vạch áo khoác ra. Bên sườn
áo sơ mi sạch Simon đưa cậu ta có màu đỏ.
Simon rủa thầm.
- Thằng khốn đó đã làm vết thương há miệng
lại sao?
Sonny nhún vai.
Simon lại đảo mắt nhìn lên. Trên đường
không có bãi đậu xe. Chưa có tiệm nào mở cửa. Chỉ có những cánh cổng đóng dẫn
vào sân sau. Hắn có thể đi đâu được? Hãy nhìn từ một góc độ khác, Simon nghĩ.
Bù lại những điểm mù. Quan sát... ông nhìn đi hướng khác. Đồng tử ông phản ứng
lại cái gì đó. Một tia nắng lấp lánh hắt từ miếng kính nhỏ lay động. Hay kim loại.
Đồng thau.
- Đi, - Sonny nói. - Ta sẽ thử tìm lại
trong nhà hàng, có lẽ hắn...
- Không, - Simon nói thấp giọng. Một tay nắm
cửa bằng đồng thau. Một cánh cửa từ từ khép sau ta. Một nơi luôn mở. - Tôi thấy
hắn rồi.
- Thật sao?
- Cửa nhà thờ trên kia, cậu thấy không?
Sonny nhìn chăm chăm.
- Không.
- Vẫn còn đóng. Hắn trong nhà thờ. Đi.
Simon chạy. Ông đặt bàn chân này lên trước
bàn chân kia rồi xuất phát. Đó là một hành động đơn giản, ông đã làm từ ngày
còn là cậu bé con. Ông cứ chạy mãi, mỗi năm một nhanh hơn. Thế rồi, mỗi năm lại
chậm đi một chút. Đầu gối với hơi thở không còn phối hợp với nhau như ngày xưa.
Simon xoay xở theo kịp Sonny hai chục mét đầu, rồi chàng trai đi mất. Cậu ta đã
chạy trước Simon ít nhất cũng năm chục mét khi ông thấy cậu ta nhảy lên tam cấp,
mở toang cánh cửa nặng và biến mất vào trong.
Simon bước chậm lại. Chờ nghe tiếng súng nổ.
Kiểu tành tạch, nghe như đồ trẻ con khi nó đi xuyên qua một bức tường để đến
tai ta. Không thấy.
Ông bước lên mấy bậc thềm. Kéo cánh cửa nặng
mở ra và bước vào.
Cái mùi. Cảnh im ắng. Sức nặng đức tin của
hàng bao người biết suy nghĩ.
Mấy bục ghế trống, nhưng nến đã thắp trên
bàn thờ nên Simon nhớ ra là nửa giờ nữa buổi lễ sáng sẽ bắt đầu. Mấy ngọn nến lập
lòe soi Chúa Cứu thế lạc lõng trên thánh giá. Rồi ông nghe thấy tiếng thì thầm,
ngâm nga nên quay sang trái.
Sonny đang ngồi trong ngăn nhỏ để mở của
phòng xưng tội, khẩu Uzi chĩa vào bảng gỗ đục lỗ phân tách nó với ngăn bên kia
có tấm màn đen phủ gần hết lối vào bằng ván. Chỉ có một khe hẹp lộ ra giữa màn
và ván gỗ, nhưng qua đó Simon thấy một bàn tay. Và giữa sàn đá, từ bên dưới màn
một vũng máu đang từ từ lan ra.
Simon rón rén đến gần hơn; ông bắt gặp
Sonny đang lầm rầm:
- Thần thánh trên trời dưới đất đều sẽ
khoan dung và tha thứ cho tội lỗi của ngươi. Ngươi sẽ chết, nhưng linh hồn kẻ
có tội biết ăn năn sẽ được đưa lên Thiên đàng. Amen.
Theo sau là sự im lặng.
Simon theo dõi Sonny siết ngón tay quanh
cò.
Simon bỏ lại súng vào bao trên vai. Ông sẽ
không làm gì, không làm quái gì cả. Phán quyết của chàng trai sẽ được tuyên đọc
và thi hành. Xét xử của chính ông sẽ đến sau.
- Phải, chúng tao đã giết cha mày. - Giọng
của Sinh Đôi nghe yếu ớt sau tấm màn. - Chúng tao phải làm vậy. Gián điệp nhị
trùng báo cho tao là cha mày định giết hắn. Mày có đang nghe không?
Sonny không đáp. Simon nín thở.
- Hắn định làm vậy ngay đêm đó, tại tàn
tích thời Trung cổ ở Maridalen, - Sinh Đôi tiếp. - Gián điệp nhị trùng nói cảnh
sát đang nắm thóp hắn, sớm muộn gì rồi hắn cũng bị vạch trần. Nên hắn muốn
chúng tao giết sao để trông như đó là một vụ tự sát. Tạo cái ấn tượng cha mày
là gián điệp nhị trùng, để cảnh sát hủy bỏ điều tra. Tao đồng ý chuyện đó. Tao
phải che chở cho gián điệp nhị trùng của tao, phải vậy không?
Simon thấy Sonny liếm môi:
- Vậy hắn là ai, tên gián điệp nhị trùng
này?
- Tao không biết. Tao thề. Chúng tao chỉ
liên lạc qua mail.
- Vậy thì mày sẽ không bao giờ biết. -
Sonny lại đưa khẩu Uzi lên, ngón tay co lại quanh cò. - Mày đã sẵn sàng chưa?
- Chờ đã! Mày đâu cần phải giết tao, Sonny,
dù gì tao cũng sẽ chảy máu đến chết trong đây. Tao chỉ cầu xin có mỗi một điều
là được từ biệt những người thân yêu trước khi chết. Tao đã để cha mày viết thư
báo cho mày với mẹ mày là hắn yêu thương mấy người. Làm ơn, cho kẻ có tội này một
ân huệ như vậy?
Simon thấy ngực Sonny phập phồng. Các cơ gợn
lên dọc đường quai hàm.
- Đừng. - Simon thét lên. - Đừng cho hắn,
Sonny. Hắn...
Sonny quay qua ông. Trong mắt cậu có sự dịu
dàng. Sự dịu dàng của Helene.
Cậu ta đã hạ khẩu Uzi xuống.
- Simon, hắn chỉ xin…
Simon thấy có chuyển động giữa khoảng hở
nơi màn, một bàn tay đang đưa lên. Một bật lửa hình khẩu súng lục mạ vàng. Và
Simon biết không còn đủ thời gian. Không kịp báo trước cho Sonny để cậu ta phản
ứng, không kịp rút súng của mình từ bao súng trên vai, không kịp cho Else cái
cô đáng có. Ông đang đứng trên lan can cây cầu bắc qua Aker và con sông đang gầm
rú bên dưới.
Nên Simon phóng xuống.
Ông lao ra khỏi sự sống vào bàn cò quay
xoay tít tuyệt vời. Chuyện đó không đòi hỏi trí thông minh hay lòng can đảm, chỉ
cần cái điên rồ của kẻ tận số sẵn sàng đánh liều tương lai hắn không thấy quý
giá gì mấy, kẻ biết hắn có ít thứ để mất hơn người khác. Ông lao vào bên buồng
để mở giữa người con trai và tấm ván đục lỗ. Ông nghe thấy tiếng nổ. Cảm thấy
cái nhức nhối, cái nhói buốt làm tê liệt của băng hay sức nóng xé thân ông làm
đôi, những mối nối đứt rời.
Thế rồi có một tiếng nữa. Khẩu Uzi. Đầu
Simon nằm trên sàn căn buồng nhỏ và ông cảm thấy vụn ván gỗ đổ rào rào xuống mặt.
Ông nghe thấy một tiếng thét; ông ngóc đầu lên thì thấy Sinh Đôi lảo đảo rời
phòng xưng tội rồi ngả nghiêng giữa mấy bục ghế, thấy đạn châm vào lưng áo com
lê của hắn như bầy ong giận dữ. Vỏ đạn rỗng từ khẩu Uzi - vẫn còn nóng rực tuôn
xuống Simon, làm cháy sém trán ông. Sinh Đôi vấp phải hàng bục ghế, quỳ thụp xuống,
nhưng hắn vẫn cử động. Hắn không chịu chết. Chuyện đó không tự nhiên. Nhiều năm
trước, khi Simon biết ra là mẹ của một trong những kẻ bị truy nã hàng đầu Na Uy
đang làm lao công trong Sở Cảnh sát ông đã tìm bà, đó là điều đầu tiên bà nói:
Levi không tự nhiên. Bà là mẹ hắn và bà yêu thương hắn, hiển nhiên rồi, nhưng từ
lúc chào đời hắn đã khiến bà hoảng sợ, mà không chỉ bởi tầm vóc hắn.
Rồi bà kể ông nghe lần đứa con trai còn nhỏ
nhưng đã như người khổng lồ theo bà đến chỗ làm vì ở nhà không có ai trông coi,
hắn đã nhìn bóng mình trong xô nước trên xe đẩy dụng cụ vệ sinh mà nói rằng có
ai trong đó, ai đó trông giống hệt hắn. Sissel đã nói hay là chúng chơi với
nhau rồi bỏ đi đổ mấy sọt rác. Khi bà quay lại thì đầu Levi đã cắm vào xô còn
hai chân vung chới với giữa không.
Vai hắn bị kẹt trong xô nên bà phải cố hết
sức lôi hắn ra. Hắn ướt sũng còn mặt mũi xanh mét. Nhưng thay vì khóc như hầu hết
trẻ con sẽ làm, hắn cười. Rồi nói là Sinh Đôi xấu, đã cố giết hắn. Từ đó trở đi
bà thắc mắc không biết hắn từ đâu ra và mãi đến ngày hắn dọn ra bà mới cảm thấy
được giải thoát.
Sinh Đôi.
Hai lỗ xuất hiện ngay trên mấy ngấn mỡ giữa
phần gáy to bè và tấm lưng khổng lồ của hắn rồi mọi cử động dừng lại.
Tất nhiên, Simon nghĩ. Một đứa con một hết
sức bình thường.
Ông cũng biết rằng người đàn ông khổng lồ
đã chết còn trước cả khi hắn lảo đảo đổ tới trước và đập trán xuống sàn đá.
Simon nhắm mắt.
- Simon, ông bị...?
- Ngực tôi, - Simon nói và ho. Ông dám chắc
chất sền sệt trên da mình là máu.
- Để tôi gọi xe cứu thương cho ông.
Simon mở mắt. Ông nhìn xuống người mình. Thấy
vết máu đỏ thẫm trước áo sơ mi.
- Tôi không qua nổi đâu, đừng bận tâm.
- Được mà, ông sẽ...
- Nghe này. - Sonny lấy điện thoại ra,
nhưng Simon đưa tay che lại. - Tôi biết khá nhiều về vết thương do súng bắn, được
chưa?
Sonny để tay lên ngực Simon.
- Không ổn rồi, - Simon nói. - Giờ cậu sẽ
chạy một mình. Cậu tự do, cậu đã làm cái cậu phải làm.
- Không, tôi chưa làm xong.
- Vì tôi hãy chạy đi, - Simon nói, nắm lấy
bàn tay chàng trai. Nó có cảm giác thật ấm và thân quen, như thể là của ông. -
Giờ việc của cậu đã xong.
- Nằm yên đi.
- Tôi đã nói hôm nay gián điệp nhị trùng sẽ
có mặt, và hắn đã đến. Giờ thì hắn chết rồi. Vậy nên chạy đi.
- Xe cứu thương sẽ đến đây ngay thôi.
- Sao cậu không nghe...
- Chỉ cần ông không nói nữa...
- Đó là tôi Sonny. - Simon nhìn lên đôi mắt
trong vắt, dịu dàng của chàng trai. - Tôi là gián điệp nhị trùng.
Simon chờ cho đồng tử chàng trai dãn ra sửng
sốt, cho màu đen thế chỗ cái xanh tươi sáng. Nhưng không. Vậy là ông hiểu.
- Cậu biết rồi, Sonny. - Simon cố nuốt,
nhưng phải ho lần nữa. - Cậu đã biết là tôi. Bằng cách nào?
Sonny đưa cánh tay áo chùi máu trên miệng
Simon.
- Arild Franck.
- Franck?
- Khi tôi chặt ngón tay hắn thì hắn mở miệng
nói.
- Nói? Hắn chẳng biết gì về tôi cả. Không
ai biết Ab với tôi là gián điệp nhị trùng, Sonny, không ai cả.
- Đúng nhưng Franck nói tôi nghe cái hắn biết.
Rằng gián điệp nhị trùng có một bí danh.
- Hắn nói cậu vậy?
- Phải. Bí danh là Người Lặn.
- Người Lặn, phải. Đó là tên tôi dùng khi
liên lạc với Sinh Đôi. Hồi ấy một người thường gọi tôi như vậy, cậu biết đấy.
Chỉ một người. Vậy làm sao cậu biết...?
Sonny lấy gì đó trong túi áo khoác. Đưa lên
trước mặt Simon. Đó là một tấm hình. Trên hình lấm tấm những đốm máu khô và nó
cho thấy hai người đàn ông cùng một phụ nữ bên tháp đá, cả ba đều trẻ trung và
cười đùa.
- Hồi bé tôi thường xem hết mấy album ảnh
trong nhà và đó là chỗ tôi thấy tấm hình chụp trong núi này. Tôi bèn hỏi mẹ ông
ấy là ai, người chụp bí ẩn có cái biệt danh thú vị, Người Lặn. Và mẹ đã nói tôi
biết. Đó là Simon, người thứ ba trong ba người bạn thân. Rằng bà đã đặt cho ông
ấy biệt danh Người Lặn, vì ông lặn xuống nơi mà chẳng ai dám.
- Vậy là cậu cộng hai với hai...
- Franck không biết là có hai gián điệp nhị
trùng. Nhưng cái hắn cho tôi biết đã làm mọi chuyện dễ hiểu hơn. Rằng bố tôi định
vạch mặt ông. Nên ông khử ông ấy trước khi ông ấy kịp ra tay.
Simon chớp mắt, nhưng bóng tối vẫn tiếp tục
từ mép ngoài trường nhìn lan dần vào. Dù là vậy, ông thấy rõ ràng hơn bao giờ hết.
- Nên cậu quyết định giết tôi. Vì vậy mà cậu
liên lạc với tôi. Cậu muốn cho chắc là tôi sẽ tìm thấy cậu. Bấy lâu nay cậu chỉ
chờ tôi.
- Phải, - Sonny nói. - Mãi đến khi tôi tìm
thấy cuốn nhật ký và hiểu rằng bố tôi cũng tham gia trong chuyện đó. Rằng có
hai người. Hai kẻ phản bội.
- Vậy là thế giới cậu sụp đổ và cậu từ bỏ sứ
mạng của mình. Không còn lý do để giết chóc nữa.
Sonny gật.
- Vậy cái gì khiến cậu đổi ý?
Sonny nhìn ông hơi lâu.
- Điều ông đã nói. Rằng trách nhiệm của người
con trai, không phải là giống bố, mà là...
- ... tốt đẹp hơn bố. - Simon nghe thấy tiếng
còi xe cảnh sát ở xa xa. Ông cảm thấy bàn tay Sonny trên trán mình. - Vậy nên
hãy là như thế, Sonny. Hãy tốt đẹp hơn bố cậu.
- Simon?
- Sao?
- Ông đang hấp hối. Ông có mong muốn điều
gì không?
- Tôi muốn tặng đôi mắt cho cô ấy.
- Còn sự tha thứ, ông có muốn điều đó
không?
Simon lại nhắm mắt, nhắm nghiền, và lắc đầu.
- Tôi không thể... tôi không xứng với điều
đó.
- Không ai trong chúng ta xứng cả. Làm người
thì phải mắc sai lầm, tha thứ mới là thiêng liêng.
- Nhưng tôi chẳng là gì với cậu cả, tôi là
người dưng cướp mất những người cậu yêu thương.
- Ông cũng là một ai đó, ông là Người Lặn,
vẫn luôn bên họ, nhưng ông không có trong hình. - Chàng trai vén áo khoác Simon
lên đút tấm hình vào túi trong. - Hãy mang nó theo trên hành trình, họ là bạn
ông.
Simon nhắm mắt. Ông nghĩ: với mình thì chuyện
đó tốt thôi.
Lời người con trai vang vọng trong không
gian nhà thờ vắng:
- Thần thánh trên trời dưới đất đều sẽ khoan
dung và tha thứ cho tội lỗi của ông...
Simon nhìn giọt máu từ bên trong áo khoác
chàng trai nhỏ xuống sàn nhà thờ. Ông đưa ngón tay sờ lên giọt máu đỏ cam. Thấy
máu có vẻ dính vào đầu ngón tay; ông đưa lên môi và nhắm mắt. Nhìn đăm đăm vào
thác nước bọt tung trắng xóa. Nước. Một cái ôm lạnh buốt. Sự im lặng, sự cô tịch.
Và bình yên. Và lần này ông sẽ không trồi lên nữa.
* * *
Trong sự im lặng sau khi nghe lại đoạn ghi
âm lần nữa, Kari còn nghe được tiếng chim hót líu ríu ngoài ô cửa sổ mở hờ ở đầu
kia nhà hàng bíp tết.
Ủy viên ngờ vực nhìn chằm chằm máy tính.
- Thế nào? - Ohre hỏi.
- Được rồi, - Parr nói.
Tay luật sư rút thẻ nhớ ra đưa cho Parr.
- Ông có nhận ra giọng đó không.
- Có. - Parr nói. - Hắn là Arild Franck, và
hắn mới là người điều hành Nhà tù An ninh Tối đa Staten. Adel, cô kiểm tra xem
tài khoản hắn ta nói ở quần đảo Cayman có tồn tại thật không? Nếu điều hắn nói
là đúng thì ta đang đối mặt với một vụ bê bối khổng lồ đấy.
- Tôi lấy làm tiếc khi nghe vậy, - Ohre
nói.
- Không hề, - Parr nói. - Tôi cũng có những
nghi ngờ nhiều năm nay rồi. Gần đây chúng tôi được một sĩ quan cảnh sát can đảm
ở Drammen cung cấp tin cho thấy Lofthus được cấp một ngày ra khỏi Staten để anh
ta có thể chịu tội thay trong vụ án mạng Morsand. Chúng tôi định không nói ra
chuyện này cho đến khi nào chắc chắn mình có đầy đủ bằng cứ rồi mới truy
Franck, nhưng với cái này thì ắt là chúng tôi giờ đã dư dả đạn dược. Một điều
cuối trước khi chúng tôi đi...
- Vâng?
- Chánh thanh tra Kefas có nói vì sao lại
muốn các ông gặp chúng tôi thay vì đích thân đi gặp các ông?
Iversen với Ohre liếc nhìn nhau rồi Iversen
nhún vai.
- Ông ấy nói đang bận những việc khác. Và
chỉ có hai người là đồng nghiệp ông ấy tin cậy trăm phần trăm.
- Tôi hiểu rồi, - Parr nói rồi đứng lên để
đi.
- Còn một điều nữa... - Ohre nói và cầm điện
thoại lên. - Thân chủ tôi có nhắc tên tôi với chánh thanh tra Kefas nên ông ấy
đã liên lạc hỏi tôi có lo thu xếp chuyên chở và thanh toán cho cuộc phẫu thuật
mắt ông ấy đã lo liệu tại Bệnh viện Howell ở Baltimore trong ngày mai được
không. Tôi nói tôi sẽ làm. Tôi cũng đã nhận tin nhắn từ tiếp tân là một giờ trước
có một cô tới văn phòng chúng tôi trao cái túi thể thao đỏ. Trong túi có một
khoản tiền mặt đáng kể. Tôi chỉ muốn biết đây có phải chuyện gì cảnh sát muốn
theo sát hay không?
Kari nhận thấy tiếng chim bên ngoài cửa sổ
đã im bặt và thay vào đó là tiếng còi xa xa. Nhiều tiếng. Xe cảnh sát.
Parr hắng giọng.
- Tôi thấy không lý gì thông tin này lại phải
liên quan đến cảnh sát. Và bởi người yêu cầu giờ đây ắt đã được xem là thân chủ
của ông, cho nên, theo tôi biết, ông có nghĩa vụ của luật sư với thân chủ nên sẽ
không thể cho tôi thêm thông tin gì dẫu tôi có hỏi.
- Tuyệt. Vậy thì ta hiểu về tình hình như
nhau, - Ohre nói và đóng cặp.
Kari cảm thấy điện thoại trong túi rung, cô
bèn lẹ làng đứng dậy, rời bàn và rút điện thoại ra. Viên bi theo điện thoại rơi
ra đánh cạch xuống sàn gỗ.
- Adel đây.
Cô nhìn viên bi đang có vẻ lưỡng lự, không
biết nên đi hay đứng yên. Nhưng sau một lúc do dự, nó ngập ngừng lăn theo hướng
Nam.
- Cảm ơn, - Kari nói rồi bỏ điện thoại vào
túi. Cô quay qua Parr đang tính đứng lên. - Có bốn xác chết tại một nhà hàng cá
có tên Nautilus.
Mắt Parr chớp chớp bốn cái đằng sau cặp
kính và Kari thắc mắc phải chăng đó là một phản ứng ông không thể cưỡng lại, mỗi
chớp mắt cho một xác mới trong mẻ của ông.
- Chuyện đó ở đâu?
- Ở đây.
- Ở đây?
- Ở Aker Brygge này. Cách đây có vài trăm
mét. - Mắt Kari tìm được viên bi.
- Ta đi thôi.
Cô muốn chạy qua nhặt lại viên bi.
- Cô chờ gì vậy, Adel? Đi thôi!
Viên bi đang lăn theo đà và nhanh dần; nếu
không quyết ý nhanh, cô sẽ mất nó.
- OK, - cô nói rồi vội chạy theo Parr.
Lúc này còi xe cảnh sát đã to hơn, tiếng ồn
dậy lên từng chặp, xuyên qua không khí như lưỡi hái.
Họ chạy ra ngoài, ra giữa nắng mai chói
lòa, đến một buổi sáng đầy hứa hẹn, vào một thành phố xanh lơ. Họ cứ chạy và
dòng người hối hả buổi sáng trước mặt tách ra. Những gương mặt loang loáng ẩn
hiện trong tầm nhìn của Kari. Thế rồi có gì trong vô thức cô phản ứng lại một
gương mặt trong số đó. Kính râm và com lê xám nhạt. Parr đang tiến về con hẻm
mà họ vừa thấy nhiều sĩ quan cảnh sát mặc đồng phục khẩn trương chạy vào. Kari
dừng chân, quay lại thì thấy lưng áo com lê xám đã lên chiếc phà đi
Nesoddtangen sắp rời bến. Rồi cô quay lại chạy tiếp.
* * *
Martha đã hạ mui xe xuống và đang ngả đầu
trên nệm cổ. Cô nhìn con mòng biển chao lượn trong gió giữa bầu trời xanh và
con vịnh xanh. Nó cân bằng được hai sức mạnh, của chính nó và của bên ngoài,
tìm mồi. Cô thở sâu và đều, nhưng tim cô đập thình thịch khi phà sắp cập bến.
Không mấy ai đi tàu từ Oslo sang Nesoddtangen khi hãy còn sớm thế này, nên sẽ
không khó phát hiện ra anh. Nếu anh làm được. Nếu. Cô lầm rầm câu cầu nguyện lặp
đi lặp lại từ khi rời Tomte & Ohre một giờ rưỡi trước. Anh không có mặt
trong chuyến phà ba mươi phút trước, nhưng cô tự nhủ mong đợi như vậy là thái
quá. Nhưng nếu anh không đi chuyến này... Thì sẽ ra sao? Cô không có kế hoạch dự
phòng. Đã không muốn có.
Hành khách xuất hiện. Phải, cô nghĩ đúng,
không nhiều, buổi sáng người ta thường vào thành phố, không phải đi ra. Cô tháo
cặp kính gọng đồi mồi. Tim cô lỡ nhịp khi thấy bộ com lê xám nhạt. Nhưng không
phải anh.
Tim cô thắt lại.
Một bộ com lê xám nữa xuất hiện.
Anh hơi khom người như con thuyền vừa được
cho xuống nước và giờ đang lật úp.
Cô cảm thấy tim căng đầy trong lồng ngực và
phải nén những tiếng thổn thức dâng lên trong cổ. Có lẽ đó chỉ là nắng sớm xiên
ngang lên bộ com lê xám nhạt, nhưng trông anh như đang phát sáng.
- Cảm ơn anh, - cô thì thầm. - Cảm ơn anh,
cảm ơn anh.
Cô soi mình trong gương chiếu hậu, lau khô
nước mắt và vuốt lại khăn choàng. Rồi cô vẫy. Và anh vẫy lại.
Thế rồi khi anh đi lên đồi đến chỗ cô đang
đỗ xe, cô chợt nghĩ: chuyện đó tuyệt vời đến không tin nổi. Rằng thực ra cô
đang nhìn thấy một ảo ảnh, một bóng ma, rằng anh đã chết, bị bắn, rằng ngay lúc
này anh đang bị treo trên ngọn hải đăng, bị đóng đinh vào cây thập ác và cô
đang nhìn linh hồn anh.
Anh hết sức cẩn thận ngồi vào xe rồi tháo
kính râm. Anh nhợt nhạt. Và nhìn đôi mắt đỏ hoe thì cô biết anh đã khóc. Rồi
anh choàng hai tay ôm lấy cô kéo lại gần. Mới đầu cô nghĩ có lẽ mình đang run bần
bật, rồi mới nhận ra người đang run là anh.
- Mọi chuyện...?
- Ổn, - anh nói mà không buông cô ra. - Mọi
chuyện ổn cả rồi.
Họ ngồi im không nói gì, ôm nhau thật chặt
như thể người này chỉ có điểm cố định là người kia. Cô muốn hỏi, nhưng không phải
lúc này. Rồi sẽ còn rất nhiều thời gian cho chuyện đó.
- Giờ thế nào? - Cô thì thầm.
- Giờ thì, - anh nói, nhẹ nhàng buông cô ra
rồi ngồi thẳng người lên, khẽ rên một tiếng. - Giờ thì bắt đầu rồi. À mà va li
nặng đấy. - Anh hất hàm ra ghế sau.
- Chỉ mấy thứ tối cần thôi mà, - cô nhoẻn
cười, đút đĩa CD vào máy nghe nhạc rồi đưa điện thoại cho anh. - Em sẽ lái chặng
đầu. Anh làm người đọc bản đồ nhé?
Anh nhìn màn hình điện thoại khi giọng hát
đều đều, như máy cất lên: “Của anh... của mình anh...”
- 1.030 ki lô mét, - anh nói. - Thời gian
chạy xe ước tính là mười hai giờ năm mươi mốt phút.
Phần Kết
Những bông tuyết dường như từ một bầu trời
không sắc màu, sâu hun hút bay lên rồi bám lại thành những cái mái trên mặt đường
nhựa, vỉa hè, xe cộ và nhà cửa.
Kari, đứng trên mấy bậc thềm, đang cúi xuống
thắt lại dây đôi ủng ngang mắt cá chân nên cô có được cái nhìn đảo ngược của đường
phố giữa hai chân.
Simon nói đúng. Ta sẽ thấy mọi thứ khác đi
khi đổi góc nhìn và vị trí. Có thể bù lại cho mọi điểm mù. Phải một thời gian
cô mới nhận ra điều đó. Nhận ra rằng Simon Kefas đã đúng về rất nhiều thứ.
Không phải tất cả. Nhưng nhiều đến một mức độ thật bực mình.
Cô thẳng người lên lại.
- Chúc em một ngày tuyệt vời, em yêu, -
chàng trai đứng ở cửa nói và hôn lên môi Kari.
- Anh cũng thế nhé.
- Chắc đánh bóng sàn thì không phù hợp với
một ngày tuyệt vời đâu. Nhưng anh sẽ cố. Khi nào em về?
- Giờ ăn tối, trừ khi có chuyện gì.
- Tốt, dù có vẻ như vừa có chuyện gì thật.
Kari quay về hướng Sam chỉ. Chiếc xe đỗ lại
ngoài cổng trông quen quen còn bộ mặt bên trên cửa sổ hông hạ xuống còn quen
hơn.
- Có chuyện gì vậy, Asmund? - Sam gọi ra.
- Tôi xin lỗi vì không thể tự thân vận động,
tôi cần mượn vợ anh, - người thanh tra gọi ra chỗ cô. - Có chuyện rồi.
Kari nhìn Sam, anh vỗ vào sau túi quần jean
của cô. Kari đã treo váy và áo vest vào tủ từ mùa thu và, không rõ vì sao,
chúng vẫn ở đó.
- Đi mà phục vụ công chúng đi, em yêu.
Khi họ chạy theo hướng Đông trên E18, Kari
nhìn đăm đăm ra cảnh vật tuyết phủ. Nghĩ đến chuyện tuyết đầu mùa bao giờ cũng
kẻ một đường phân chia, phủ kín tất cả những gì từng có ở đó và biến đổi vạn vật
ta đang nhìn. Những tháng theo sau vụ nổ súng tại Aker Brygge và nhà thờ Thiên
Chúa giáo mọi chuyện rất hỗn loạn. Không có gì bất ngờ trước các công kích nhằm
vào cảnh sát, tính tàn bạo và sứ mệnh mất trí của một con người. Nhưng, mặc dù
vậy, Simon vẫn được ban tặng lễ tang anh hùng, ông là cảnh sát nhân dân, người
đã chiến đấu chống bọn tội phạm cho thành phố, hy sinh tính mệnh để phục vụ
công lý. Như ủy viên Parr phát biểu trong bài điếu văn, công chúng sẵn sàng bỏ
qua chuyện ông không tuân thủ hoàn toàn quy tắc nghề nghiệp. Luật pháp Na Uy
cũng vậy.
Parr không thể không có một sự uyển chuyển
nhất định về đạo lý bởi lẽ chính ông cũng đã nới rộng ranh giới luật lệ thuế Na
Uy khi bỏ tiền ra nộp vào mấy công ty vô danh đăng ký quần đảo Cayman. Kari đã
đối chất với Parr ở lễ tang vì khi cô điều tra xem ai đã trả hóa đơn điện nước
cho nhà Lofthus thì cuối cùng nó lại dẫn đến ông. Và Parr đã thừa nhận ngay, chỉ
nói thêm là không có gì phạm pháp và động cơ của ông chỉ đơn thuần là lòng trắc
ẩn; để lương tâm thanh thản bởi đã không chăm lo được cho Sonny và mẹ cậu sau
khi Ab tự sát.
Parr nói việc đó không rẻ, nhưng điều đó
nghĩa là cậu thanh niên sẽ còn căn nhà ở được mà về sống khi đã mãn hạn tù.
Một thời gian sau thiên hạ cũng đã bắt đầu
chấp nhận chuyện Đức Phật Cầm Gương biệt tăm. Có vẻ như cuộc thánh chiến của
anh ta đã kết thúc cùng với cái chết của Levi Thou, còn gọi là Sinh Đôi.
Thị lực của Else giờ đã khá hơn. Cô nói với
Kari, người đến thăm cô ít tuần sau lễ tang, rằng cuộc phẫu thuật ở Mỹ đã thành
công được tám mươi phần trăm. Rằng hầu như không có gì là hoàn hảo. Cuộc sống,
con người, Simon. Chỉ có tình yêu.
- Anh ấy không bao giờ quên được cô ấy.
Helene. Helene là tình yêu của anh ấy. - Lúc ấy vẫn còn mùa hè và họ ngồi trên
ghế dựa trong vườn nhà Else ở Disen, uống rượu Porto và ngắm mặt trời lặn. Rồi
Kari nhận ra là Else đã quyết định chia sẻ điều này với cô. - Anh ấy kể với tôi
rằng hai người còn lại theo đuổi cô ấy, Ab và Pontius, đẹp trai hơn, mạnh mẽ
hơn, thông minh hơn. Nhưng anh ấy là người thấy cô ấy đúng như con người cô ấy.
Đó là điều kỳ lạ ở Simon. Anh nhìn thấu mọi người, anh thấy được thiên thần và
ác quỷ trong họ. Tất nhiên trong khi đó anh cũng đang giao chiến với con quỷ của
mình. Simon là người nghiện đánh bạc.
- Ông ấy có kể tôi nghe.
- Anh ấy với Helene bắt đầu hẹn hò, nhưng nợ
bài bạc của anh khiến đời sống của họ hỗn loạn. Chuyện không kéo dài, nhưng khi
Simon cảm thấy mình đang kéo cô ấy chìm theo thì Ab Lofthus xuất hiện và cứu cô
ấy khỏi tay anh. Ab với Helene dọn ra ở riêng. Lòng Simon tan nát. Rồi ít lâu
sau thì anh được biết cô ấy có thai. Anh đánh bạc như điên, mất sạch và đang
trên bờ vực. Vậy là anh đi tìm gặp con quỷ dữ và dâng cho hắn thứ duy nhất anh
còn. Linh hồn mình.
- Ông ấy đến gặp Sinh Đôi ư?
- Phải. Simon là một trong ít người biết
Sinh Đôi là ai và làm sao để liên lạc với hắn. Nhưng Sinh Đôi không hề biết
Simon và Ab là ai, họ chuyển thông tin cho hắn bằng cách gọi điện hoặc gửi thư.
Cuối cùng thì là qua máy tính.
Tiếng xe cộ ì ầm từ Trondheimsveien và
Sinsenkrysset vọng tới chỗ họ trong sự im lặng theo sau.
- Simon và tôi nói cho nhau nghe mọi thứ,
nhưng anh thấy khó mà nói về chuyện này. Anh đã bán linh hồn ra sao. Anh tin rằng
trong thâm tâm anh thèm khát sự nhục nhã, hèn hạ, sự ghê tởm chính mình, rằng
nó làm tê dại được nỗi đau kia. Rằng nó là một kiểu tự hủy hoại.
Cô vuốt lại váy thẳng thớm. Cô ấy trông rất
mong manh mà cũng thật mạnh mẽ khi ngồi đó, Kari nghĩ.
- Nhưng điều tồi tệ nhất đối với Simon là
cái anh đã làm với Ab. Anh căm hận Ab vì đã lấy đi thứ duy nhất từng quý giá đối
với anh. Anh kéo Ab theo mình xuống vực. Ab và Helene đang nợ ngập đầu thì khủng
hoảng ngành ngân hàng diễn ra và lãi suất tăng vọt; chỉ một thứ có thể cứu họ
thoát cảnh không nhà không cửa, đó là tiền bẩn. Nên khi đạt được thỏa thuận với
Sinh Đôi rồi, Simon đi thẳng đến gặp Ab đề nghị mua linh hồn anh ấy. Mới đầu Ab
từ chối và dọa tố giác Simon với sếp. Simon bèn lợi dụng gót chân Achilles của
Ab. Con trai anh ấy. Anh nói thế giới thực là như vậy, rồi con trai Ab sẽ trả
giá cho niềm kiêu hãnh của cha và lớn lên nghèo túng. Simon nói đó là điều tệ hại
nhất, nhìn Ab bị hủy hoại dần, đánh mất linh hồn mình. Nhưng điều đó cũng làm
anh đỡ cảm thấy đơn độc. Mãi đến khi Sinh Đôi muốn gián điệp nhị trùng của hắn
thăng chức trong lực lượng cảnh sát, và thế là không còn chỗ cho cả hai người.
- Sao chị lại cho tôi biết những điều này,
Else?
- Vì anh ấy dặn tôi. Anh nghĩ rằng cô phải
biết trước khi lựa chọn.
- Ông ấy dặn chị vậy sao? Ông ấy đã biết
mình sẽ...?
- Tôi không biết, Kari. Anh ấy chỉ nói rằng
anh nhìn thấy rất nhiều điều ở mình nơi cô. Anh muốn cô học được từ những sai lầm
của anh với tư cách sĩ quan cảnh sát.
- Nhưng ông ấy biết là tôi sẽ không ở lại
trong lực lượng cảnh sát mà.
- Vậy sao? - Những tia nắng lung linh mờ ảo
trong cốc rượu porto khi Else nâng lên môi, cẩn thận nhấp rồi để xuống lại.
- Khi Simon nhận ra là Ab Lofthus sẵn sàng
hạ sát anh nhằm đoạt vị trí duy nhất với Sinh Đôi, anh đã liên lạc với Sinh Đôi
và nói anh phải loại Ab, rằng Ab đã biết bí mật của cả hai, rằng chuyện cấp
bách lắm rồi. Anh nói anh với Ab giống như hai anh em sinh đôi giống hệt nhau
có cùng một ác mộng: người này cố trừ khử người kia. Nên anh ra tay trước Ab.
Simon đã giết chết người bạn thân nhất của mình.
Kari nuốt khan. Cố nén nước mắt.
- Nhưng ông ấy đã hối hận, - cô thì thầm.
- Đúng, anh ấy đã hối hận. Anh không làm
gián điệp nhị trùng nữa. Anh ấy có thể tiếp tục. Nhưng rồi Helene chết. Simon tới
đường cùng, anh đã mất mọi thứ anh có. Nên không còn gì để phải sợ nữa. Thế rồi
anh dành phần đời còn lại để ăn năn. Cải tà quy chính. Anh cũng thẳng tay lùng
bắt những kẻ tha hóa, như anh ngày trước, mà điều đó không đem lại cho ta nhiều
bạn bè trong lực lượng cảnh sát. Anh trở nên đơn độc. Nhưng anh không bao giờ
thấy thương hại cho mình, anh nghĩ sự đơn độc là cái anh đáng nhận. Tôi nhớ anh
nói rằng ghê tởm chính mình là cái ta cảm thấy mỗi buổi sớm mai thức dậy nhìn
mình trong gương.
- Chẳng phải chị đã cứu rỗi ông ấy sao?
- Anh gọi tôi là thiên thần của anh. Nhưng
tình yêu tôi dành cho anh không phải là cái đã cứu rỗi anh. Trái ngược với những
gì người ta nói, tôi cho là không có ai được cứu rỗi nhờ tình yêu của người
khác. Chính tình yêu anh dành cho tôi đã làm điều đó. Anh đã cứu chính mình.
- Bằng cách đáp lại tình yêu của chị.
- Amen.
Họ ngồi ngoài trời đến nửa đêm thì Kari cáo
từ.
Trên đường đi ra, trong hành lang, Else cho
cô xem bức hình. Ba người đứng trước một tháp đá.
- Lúc nhắm mắt Simon có cái này trong người.
Cô ấy đấy, Helene.
- Tôi đã thấy hình cô ấy trong ngôi nhà
vàng trước khi bị thiêu rụi. Tôi có nói với Simon rằng cô ấy trông như ca sĩ
hay diễn viên.
- Mia Farrow. Anh ấy đưa tôi đi xem phim Đứa
con của Rosemany, chỉ để được nhìn thấy cô ấy. Dù anh cứ nói không thấy họ có
gì giống nhau.
Bức hình đã khiến Kari thấy xúc động kỳ lạ.
Cái gì đó nơi nụ cười của họ.
Sự lạc quan. Niềm tin.
- Chị với Simon không bao giờ tính chuyện
có con?
Cô lắc đầu.
- Anh ấy sợ.
- Sợ gì?
- Những thói xấu của mình sẽ truyền xuống.
Gien nghiện. Thói liều lĩnh tàn phá. Không có giới hạn. Tâm trạng u uất. Tôi
nghĩ có lẽ anh sợ nó sẽ là đứa con của quỷ. Tôi thường trêu là chắc hẳn anh có
con ngoài giá thú đâu đó nên anh sợ.
Kari gật. Đứa con của Rosemany. Cô nghĩ đến
bà già nhỏ nhắn làm vệ sinh ở sở cảnh sát mà cuối cùng cô cũng đã nhớ ra tên.
Rồi Kari tạm biệt Else mà bước ra đêm hè, một
làn gió nhẹ dịu dàng, rồi đến thời gian, nhặt lấy cô và cuốn đi cho đến khi cô
ngồi đây, trong xe, nhìn ra tuyết trắng ngần mà nghĩ rằng nó đã làm biến đổi
toàn thể cảnh vật. Mọi chuyện thường sẽ khác với những gì ta dự tính. Cô với
Sam đã cố có con. Cô đã làm bản thân thấy ngạc nhiên khi không chỉ từ chối một
đề nghị công việc thú vị từ Bộ Tư pháp mà còn cả một việc làm lương hậu ở công
ty bảo hiểm.
Mãi đến khi họ rời Oslo và chạy qua cây cầu
nhỏ lên lối đi rải sỏi cô mới hỏi Asmud đã có chuyện gì.
- Cảnh sát Drammen gọi yêu cầu ta hỗ trợ, -
Asmund nói. - Nạn nhân là chủ tàu. Yngve Morsand.
- Trời đất, đó là lão chồng.
- Phải.
- Ám sát? Tự sát?
- Tôi không được biết chi tiết.
Họ đỗ lại sau mấy xe cảnh sát, qua cổng nơi
hàng rào song sắt rồi bước tới cửa trước ngôi nhà lớn. Một thanh tra của Sở Cảnh
sát Buskerud ra đón họ. Anh ta ôm hôn Kari rồi tự giới thiệu với Bjornstad rằng
mình là Henrik Westad.
- Có thể nào là tự tử không? - Kari hỏi khi
đi vào.
- Điều gì khiến cô nói vậy? - Westad nói.
- Đau buồn vì cái chết của vợ, - Kari trả lời.
- Vì thiên hạ nghi lão sát hại, hay vì quả đúng là lão giết bà ta rồi không thể
sống với chuyện đó.
- Có thể, - Westad nói khi dẫn họ vào phòng
khách.
Các cảnh sát điều tra hiện trường bu gần
kín người đàn ông ngồi nơi ghế.
Như bầy dòi trắng, Kari nghĩ.
- ... nhưng tôi không tin là như vậy, -
Westad nói hết câu.
Kari và Bjornstad nhìn chằm chằm cái xác.
- Chết tiệt, - Bjornstad nhỏ giọng nói với
Kari. - Cô có nghĩ là anh ta...?
Kari nghĩ đến quả trứng luộc ăn trong bữa
điểm tâm. Cũng có thể cô đã có thai; biết đâu nó giải thích được sao cô cảm thấy
buồn nôn như vậy? Cô xua ý nghĩ đi mà tập trung vào cái xác. Một mắt trợn ngược,
mắt kia có miếng bịt đen, còn trên mí mắt là đường cưa đã sẻ lăm dăm, vết cưa của
phần đỉnh đầu đứt rời.
Hết
Nhìn cái list mà lè lưỡi. Nể bạn thiệt. Suy luận là đang rảnh rỗi.
Trả lờiXóaLâu lắc lâu lơ mới vào lại nhà blog.
Một thời gian dài không dùng máy tính, laptop, nay mới vào lại blog đây, bạn à.
Trả lờiXóa