Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2019

Cuộc Chiến Đi Qua - Phần 2

Cuộc Chiến Đi Qua

Tác giả: Kanta Ibragimov
Người dịch: Đào Minh Hiệp
Nhà xuất bản Văn Học 2017

Phần Hai

Ông Arachaev Tsanka quỳ trong lòng nguồn nước đã cạn khô và than khóc rất lâu. Cuối cùng Goisum bước lại gần, khẽ chạm vào vai ông.
- Ông Tsanka, đứng lên, đi thôi. - Goisum nói to.
Ông già vẫn không nhúc nhích.
- Đứng lên đi, ông Tsanka, - Goisum lại nhắc. - Chúng ta còn phải chôn cất bà Dakoza nữa.
- À, à, - ông Tsanka như bừng tỉnh. - Phải, đúng rồi.
Ông Tsanka muốn đứng lên nhưng hai chân tê cứng không chịu nghe theo. Ông cố đứng dậy một lần nữa nhưng bất lực ngã vật ra. Khi đó Goisum dùng hai cánh tay khỏe mạnh xốc ông già ngồi dậy rồi giúp ông leo lên bờ dốc không cao lắm.
Họ đi theo triền núi thoai thoải quay về ngôi làng ruột thịt vào một ngày xuân sớm. Xung quanh tĩnh lặng như trong mồ. Không nghe thấy tiếng chim hót, thậm chí ngay cả lũ quạ và ác là luôn miệng kêu la cũng khiếp sợ bay đi, tránh xa những tiếng đại bác chết chóc và những con người đang phát rồ lên. Ngọn gió ẩm ướt từ hướng tây thổi thốc vào lưng hai người. Sương mù tan dần, bò theo khe núi xuống các vực sâu. Trên làng Duts-Khote, bầu trời đang chậm chạp hửng dần thành màu sữa xanh nhạt, thăm thẳm. Trên đỉnh ngọn núi Ertan-Kort, giữa những đám mây dày màu lam xám đã hiện lên vầng mặt trời mùa xuân màu vàng nhạt.
Dưới những cơn gió giật dữ dội, các tán cây tiêu huyền xơ xác lắc qua lắc lại. Sườn núi phía nam trông trơ trụi vì tuyết phủ, những chiếc lá rụng từ năm ngoái màu nâu sẫm nổi lên dưới ánh nắng mặt trời yếu ớt. Đây đó, ở những chỗ tuyết đã tan, những chồi xanh yếu ớt bắt đầu rụt rè nhú lên.
- Giờ chính là mùa đi nhổ củ hành gấu. - Goisum nói.
- Hành gấu cái gì, - ông Tsanka buồn bã thốt lên. - Chẳng lẽ cháu không biết những kẻ độc ác đã ném từ máy bay xuống núi rừng của chúng ta bao nhiêu là mìn hay sao? Thậm chí không còn chỗ để chăn bò nữa. Bao nhiêu người và gia súc đã tan xác ở ven làng. Chỉ có thể đi lại trên những con đường mòn quang đãng, nhưng lúc nào cũng phải nhìn xuống, chỉ cần sẩy chân một cái là bay lên trời.
Họ lại lặng lẽ bước. Con bò cái cô độc rống lên thảm thiết. Một con chó già lông lá bù xù không biết của nhà ai chạy về phía họ, ngoan ngoãn ve vẩy cái đuôi cộc, yếu ớt rên ư ử, chạy lăng xăng quanh hai người thành những vòng tròn kỳ lạ. Phía dưới, những ngôi nhà bỏ hoang, ảm đạm, lộn xộn của làng Duts-Khote đang sẫm lại. Ngôi làng hoang vắng trông thật buồn thảm, u sầu và xa lạ. Một không khí ma quái, thậm chí độc địa trùm lên khắp ngôi làng. Hình dạng côi cút của ngôi làng quê hương gây nên những cảm giác cay đắng.
Đột nhiên Goisum bỗng khựng lại, ra hiệu cho người bạn đường cũng đứng lại, chăm chú lắng nghe, miệng há hốc vì căng thẳng.
- Ông Tsanka, máy bay trực thăng, - Goisum sợ hãi nói, cả hai cùng lắng tai nghe. -
Đúng, máy bay trực thăng. - Anh kêu lên, cặp mắt mở to hoảng sợ đảo liên tục. Chúng đang bay đến. Chạy về làng, nhanh lên! Họ sẽ bắn chúng ta. Phải tìm chỗ nấp.
- Chạy đi, Goisum, chạy nhanh lên! - Ông Tsanka đẩy vào vai Goisum. - Ta nói với cháu đấy, chạy đi! Còn ta, chẳng còn chỗ nào để chạy nữa, mà cũng chẳng để làm gì. Ta đã phải trốn chạy suốt cả cuộc đời rồi. Còn cháu, chạy đi, nhanh lên, ta ra lệnh cho cháu đấy.
Goisum vội vàng chạy về phía làng. Do chạy quá nhanh, anh ta trượt chân ngã hai lần, đất bẩn từ dưới ủng văng lên tung tóe. Cuối cùng, Goisum cũng vào trốn trong làng. Bây giờ ông Tsanka đã nghe rõ những tiếng động báo hiệu điềm dữ. Rất xa, từ phía các khe núi Makhketa, những chấm đen đang hiện ra trong màn sương xám. Vì mắt kém nên ông Tsanka trông chúng như những con nhặng. “Phải, chúng đã đánh hơi được xác chết”, - ông Tsanka lẩm bẩm.
Trực thăng càng bay đến gần, cảm giác lo âu, sợ hãi và bất lực càng lớn dần lên, làm người ta chỉ muốn chạy trốn, hay ít ra thì cũng phải giấu cái đầu hoảng loạn vào chỗ nào đó. “Càng sống lâu bao nhiêu, con người lại càng ham sống bấy nhiêu”. - Ông già thầm nghĩ với nụ cười cay đắng, rồi rẽ khỏi con đường lầy lội đi về phía những bụi mận gai, sơn trà và hồng dại rậm rạp. Nhưng vừa ra khỏi bụi cây trơ trụi ông bỗng dừng lại, thầm nghĩ: “Mình thật là hèn! Ngay cả bây giờ, sau bao nhiêu năm cuộc đời, sau bao nỗi bất hạnh đắng cay, kể cả sự biến mất của nguồn nước, vậy mà mình vẫn còn tiếc rẻ cái cuộc đời vô tích sự này, vẫn cố bám víu vào nó, vẫn còn phải lẩn trốn kẻ thù trong các bụi cây, vẫn còn muốn sống, còn mơ ước về một điều gì đó... Thật đáng nhổ toẹt vào mặt con lừa già này, - ông già tự nguyền rủa bản thân. - Thật hạnh phúc nếu như những kẻ ác độc kia bắn ta chết đi. Lẽ ra ta chỉ nên mong ước điều đó thôi. Chẳng lẽ đó là sự kết thúc? Chỉ có điều phải nhanh lên và thật gọn ghẽ... Nào, chúng mày đang ở đâu, bay đến đây đi, lũ khốn kiếp, tất cả hãy bay hết lại đây. Bắn đi, ném bom đi, khai hỏa đi, đào bới đất đá lên đi. Các ngươi đã làm tất cả những gì có thể, còn bây giờ hãy bắn đi và hãy sống trong tự do, hạnh phúc. Bay đến đây đi, đến đây đi”, - ông lão cương quyết vung hai tay lên.
Trong lúc đó, những chiếc máy bay trực thăng đã bay đến làng. Tiếng động cơ khủng khiếp gầm rú như điên, tràn ngập khắp thung lũng Vashandaroi bốn bề là núi cao. Tiếng rú ầm ĩ của máy bay dội lại rền vang, càng gây nên cảm giác khiếp sợ đối với tất cả mọi sinh vật trong vùng. Những cỗ máy bằng thép chậm chạp lượn quanh làng, đôi lúc treo khá lâu tại một điểm. Đột nhiên, một chiếc trực thăng tách khỏi phi đội, lao nhanh về phía ông Tsanka. Khi cái cỗ máy khổng lồ kia tiến đến gần thì tất cả những ý nghĩ anh hùng rơm của ông lão đã bị cái cánh quạt to tướng kia thổi bay đi mất.
Hai đầu gối của ông già run bắn lên một cách phản trắc, rồi từ từ khụy xuống, bất lực, đôi tay dài buông thõng, hướng về phía mặt đất cứu sinh, vai sệ xuống, cái lưng dài cong lại, cái cổ khẳng khiu chằng chịt những nếp nhăn sâu hoắm cùng với cái đầu hoang tưởng gục xuống. Một nỗi khiếp sợ và hoảng loạn không kìm lại được choán ngợp tâm trí ông. Giờ đây, toàn bộ tấm thân còm cõi của ông run bắn lên. Hàm răng giả trong miệng đập vào nhau lập cập. Ông loạng quạng lùi lại, cảm thấy ngạt thở như thiếu không khí. Tiếng gầm rú ầm ầm như chui vào từng tế bào cơ thể, đập vào màng nhĩ mỗi lúc một to hơn, choáng váng hơn. Chiếc trực thăng bay thẳng đến, có cảm giác như nó sắp ép ông già xuống mặt đất xốp. Trong cơn hoảng loạn, ông Tsanka mở to đôi mắt già nua màu xanh xám đã bạc phếch của mình. Ông muốn nheo mắt lại để không phải nhìn thấy nỗi kinh hoàng kia, nhưng cặp mắt lại không chịu nghe theo, dù sợ chết khiếp chúng vẫn cứ hướng vào cái cỗ máy khổng lồ ma quỷ kia. Đột nhiên, qua đôi mắt kính dày, ông Tsanka nhìn thấy trong ca bin của con quái vật đang treo trên đầu có hai khuôn mặt đang cười hô hố. Đôi mắt ông già chớp liên tục, cố nheo lại, thể hiện những tâm trạng khác nhau rồi cháy lên vì tức giận. Một dòng điện xấu hổ và buồn bực như bùng lên xuyên qua đầu ông, chạy dọc theo sống lưng, đến tận ngón chân. “Hừ, - ông Tsanka cay đắng nghĩ, - Mình đúng là đồ mọi rợ già cỗi, vì ham sống mà bây giờ phải run bắn lên trước những trò đê tiện. Mình sợ chết! Mình là đồ hèn nhát, nô lệ, súc sinh!”
Ông Tsanka bước lên. Một bước, rồi bước thứ hai. Khuôn mặt già nua của ông trở nên méo mó vì căm tức. Trong cơn giận dữ điên cuồng, ông có cảm giác như có vật gì chẹn ngang họng, quai hàm cắn chặt, vẻ bướng bỉnh, cương quyết, hai bàn tay to lớn nắm chặt lại, vung lên, đe dọa.
- Ta-ta-ta-đây! - Ông hét to lên như muốn át tiếng máy bay gầm rú. - Ta sẽ không quỳ gối trước các ngươi đâu! Không! Đừng trông mong điều đó, đồ khốn nạn! Nào, bắn đi! Bắn đi, đồ cặn bã!
Chiếc trực thăng lượn một vòng rồi lại treo trên đầu ông già. Giờ đây, ông Tsanka nhìn thấy vẻ mặt các phi công trở nên nghiêm túc hơn, thậm chí có vẻ bối rối nữa. Chiếc trực thăng hạ thấp dần, cơn gió cuồng phong quạt trên người ông, đè ông xuống mỗi lúc một mạnh hơn, nhưng ông không định đầu hàng, bướng bỉnh cố choãi chân ra, đứng im không nhúc nhích. Chỉ có cái mũ lông cao và cặp kính là bay đi mất, cơn gió mạnh như muốn xé rách vạt áo choàng dài của ông.
- Đồ khốn nạn lừa bịp! Mày không thể đánh gục ta bằng không khí đâu! Ta cũng không tệ hại đến mức phải gục ngã trước mặt ngươi bằng một cơn gió đâu. - Ông Tsanka hét to. - Mày còn âm mưu cái gì nữa? Tìm được kẻ hiến sinh tương xứng với sức mạnh của mày chưa?.. Ngay cả đối với ta, mày cũng không khuất phục được đâu, đồ đê tiện. Nào, hãy bắn đi, bắn đi... Mày định nhạo báng ta chứ gì? Ở tuổi mày, ta đã từng tay không lao vào xe tăng. Còn mày?...
Cỗ máy khủng khiếp lại bay sang bên, lượn một vòng nhỏ nữa, rồi bỗng nhiên nó hướng thẳng về phía ông Tsanka, đột ngột dừng lại, cánh quạt khổng lồ treo ngay trên đầu ông, quạt gió ầm ầm. Ông Tsanka bị ngợp thở trong vòng xoáy như điên, dẫu vậy ông vẫn nhìn thấy, hay là ông có cảm giác như nhìn thấy khuôn mặt biến dạng vì tức giận của người phi công.
Ông già không trụ nổi. Trận cuồng phong như vũ bão quật ông ngã vật xuống đất. Ông cố chống hai tay định đứng lên, nhưng không thể. Sức mạnh sắt thép khủng khiếp đè bẹp ông xuống đất, không cho ông thở, không cho ông sống. Lấy hết sức lực cuối cùng, ông chỉ có thể lật người, úp mặt xuống đất, đưa hai tay lên che mái đầu già nua của mình lại. Ông hình dung, những người lính của quân đội liên bang sẽ mở cửa máy bay ra, nhìn ông cười hô hố, thậm chí nhổ bọt nữa. Thậm chí ông còn có cảm giác, một bãi nước bọt rơi trúng vào cái gáy rụng hết tóc của ông. Ông cảm thấy rất rõ điều đó, chỉ có điều ông không thể nhấc đầu lên hay làm cái gì đó. Ông không còn sức mạnh, nghị lực, ý chí, không còn mong muốn gì nữa. Ông đã kiệt hết sinh lực... Ông chỉ có thể ứa nước mắt, rồi sau đó tuyệt vọng khóc than, ấn cái mũi dài của mình vào đống bùn của mảnh đất quê hương... Trong lúc đó thì họ vẫn tiếp tục ép ông nằm bẹp dưới đất bằng chiếc cánh quạt, còn nhạo báng ông một lát nữa, nhưng vì lòng nhân đạo và phẩm chất cao đẹp của quân đội nên họ đã không bắn một ông già...
Khi những chiếc trực thăng bay đi, Goisum mới tìm được ông Tsanka vẫn còn nằm nguyên trong tư thế đó. Goisum đỡ ông ngồi dậy, tìm nhặt trên mặt đất bẩn chiếc mũ lông cao và cặp kính của ông. Cả hai chậm chạp lê trên con đường xuống ngôi làng bỏ hoang.
Phải khó khăn lắm ông Tsanka mới về được đến nhà mình. Cả người ông đau như dần, còn trong lòng, có một cái gì đó đang diễn ra rất khó lý giải và hỗn loạn. Một con người đã được tôi luyện qua những thử thách và tai ương nặng nề, vững vàng như thế, vậy mà có cảm giác như tinh thần ông đã bị bẻ gãy hoàn toàn. Ông đã sống sót sau những thất bại đau đớn và những mất mát không gì bù đắp nổi. Chẳng những thế, dân tộc ông đã bị ép phải rời khỏi mái ấm tổ tiên, rồi thêm vào đó một điều khủng khiếp nữa là nguồn nước đã bị cạn khô. Nhưng nỗi thống khổ chưa phải đã hết. Vào cái tuổi xế bóng, ông còn bị đè xuống bùn, bị cười nhạo và nhổ vào đầu. Sống thế đã đủ chưa! Mà cũng có thể chúng là con cháu của các đồng đội và bạn bè cũng nên?
Với những ý nghĩ cay đắng đó, ông Tsanka mặc cả quần áo bẩn lên phản nằm, mệt mỏi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.
- Ông Tsanka, ông Tsanka, dậy đi. - Goisum đánh thức ông dậy lúc trời chạng vạng. - Dậy đi, ông Tsanka, ông ngủ như chết ấy.
- Lẽ ra ta nên chết rồi mới phải, - ông Tsanka rên rẩm, giọng còn ngái ngủ.
- Ông không nghe thấy gì à? - Goisum hoảng sợ hỏi.
- Thế có chuyện gì vậy? - Ông Tsanka lo lắng.
- Làng ta bị bao vây rồi. Xe tăng đứng đầy trên ba ngả đường ra vào làng. Nhiều lắm.
Ông Tsanka vừa rên rỉ vừa chống tay đứng dậy. Ông vẫn chưa mở to mắt được vì còn ngái ngủ, rút từ túi áo ngoài ra chiếc khăn tay bẩn thỉu, lau mãi vào mắt rồi đến đôi kính.
- Goisum, nguồn nước đã hồi sinh lại chưa? Nước đã về chưa? - Ông Tsanka hỏi, le lói niềm hy vọng.
Nhưng Goisum chỉ buồn bã lắc đầu.
- Thôi được rồi, - bằng một giọng hưng phấn giả tạo, ông già tiếp. - Thượng đế biết rõ hơn ta. Ôi, ngày hôm nay ta cũng quên đọc kinh... Goisum, tốt hơn là cháu nhóm lò lên rồi đặt ấm nước đi, sẽ ấm áp hơn và vui vẻ hơn. Rồi ta sẽ là người chủ trì bữa tiệc cưới của cháu.
- Tốt hơn là ông hãy nghĩ đến bà Dakoza ấy. - Goisum ngắt lời ông.
- Ôi, ta quên mất. - Ông Tsanka bối rối. - Thật lòng mà nói, tốt hơn là ta nên ở vào vị trí của bà ấy.
Ông Tsanka cầu kinh rất lâu, rồi uống trà. Sau đó ông nói:
- Goisum, giờ là chiến tranh. Một thời kỳ nặng nề, khủng khiếp. Không thể khuyên bảo ai được điều gì cả. Trong những hoàn cảnh như thế này, anh em cũng chẳng còn là anh em, bạn bè cũng không còn là bạn bè. Một thời kỳ nặng nề! Chính cháu cũng thấy rồi đấy. Cháu là một người bất hạnh, và trong hoàn cảnh này mà giải thích để cháu hiểu thì quả là ngu ngốc. Nhưng dẫu số phận đã an bài như vậy thì đến phút cuối vẫn phải sống cho xứng đáng là một con người... Ta già yếu rồi. Trước hết cháu hãy giúp ta mai táng bà Dakoza, rồi sau đó, chắc là cháu sẽ mai táng ta... Tim ta đau lắm, đè nặng như hòn đá nung đỏ vậy. Ngực ta như muốn vỡ tung ra... Ôi, ta mệt mỏi lắm rồi. Đến khi nào thì tất cả sẽ kết thúc?... Goisum, ta xin cháu, đừng bỏ ta lại như con chó, hãy chôn cất ta tử tế như con người... Có thể, ít ra thì ta cũng xứng đáng với điều đó...
Khi trời đã tối hẳn, cả hai cùng ra nghĩa trang. Goisum đi trước, cõng trên vai cái xác của bà Dakoza. Ông già Tsanka lê lết theo sau.
- Cháu có hình dung được không, Goisum, - ông già ngạc nhiên. - Suốt ba mươi sáu năm cuối cùng sống ở Duts-Khote, lần đầu tiên ta không ra nghĩa trang. Có lẽ đó là điềm báo gì đó, chắc là ta đã qua cơn bĩ cực? Đến hồi kết rồi.
Bầu trời trên khu làng thỉnh thoảng lại bừng sáng lên bởi những quầng lửa. Khi đó hai người vội ném cái cơ thể bất động xuống đất rồi nằm xuống bên cạnh. Từ trên cao nhìn thấy rất rõ các trại lính của quân đội. Thỉnh thoảng từ đó vọng lại tiếng nổ loạn xạ của súng tiểu liên và trung liên.
Đến nguồn nước, ông Tsanka lại ngồi trong lòng suối khô khốc cầu nguyện và lặng lẽ khóc rất lâu.
Đến nghĩa trang, ông già bảo Goisum đào hai nấm mồ.
- Hai để làm gì? - Goisum ngạc nhiên hỏi.
- Một cái cho bà ấy, một cái cho ta.
- Không ai đào sẵn mồ cho người sống cả.
- Có đấy, có đấy, Goisum ạ, rất nhiều nữa là đằng khác... Kia kìa, những kẻ đang bao vây chúng ta ở dưới chân núi ấy, chẳng phải họ đang chôn sống chúng ta hay sao? Đó chỉ là những kẻ thù nhìn thấy được, còn biết bao nhiêu kẻ thù giấu mặt và với những khuôn mặt tươi cười?
Đến nửa đêm thì ông Tsanka và Goisum mới về đến làng, mệt rã người. Cảnh vật tĩnh lặng. Hai người quyết định cùng ngủ ở nhà ông Tsanka. Chỉ đến khi đi nằm, những sự việc bất thường không ai có thể hình dung nổi mới bắt đầu diễn ra. Bên dưới sườn núi, nơi các đơn vị quân đội liên bang đóng quân lại nổ ra một trận đánh. Hai người chạy ra sân, nhìn thấy rất rõ những quầng sáng bùng lên trong khe núi Vashandaroi. Cuộc giao tranh rất quyết liệt nhưng không kéo dài. Ở bên dưới vẫn tiếp tục bắn nhau, một số bóng đen xuất hiện trong các ngõ ngách làng Duts-Khote.
- Các anh là ai? - Goisum hét lên.
Hóa ra họ là các phiến quân Chechnya. Tất cả chỉ vẻn vẹn tám người. Họ không lẩn trốn mà chạy đến gặp người làng, chào hỏi qua quýt, rồi sau vài câu xã giao, họ nói:
- Cả chúng tôi và các ông phải nhanh chóng rời làng ngay. Chúng tôi đã khai hỏa... Hãy chỉ cho chúng tôi đường đi tiếp lên núi.
Ông Tsanka chỉ cho họ đường đi qua hang núi, còn chính mình thì cương quyết không chịu rời làng. Goisum thì lúc đầu cũng định đi theo các phiến quân, nhưng sau đó đã nghĩ lại.
Một giờ sau, các khẩu trọng pháo bắt đầu nã dữ dội vào làng Duts-Khote. Họ bắn trực diện với một sự tức giận không thương tiếc để trả thù. Cuộc pháo kích vào ngôi làng nhỏ kéo dài gần một giờ. Ông Tsanka và Goisum nấp dưới tầng hầm.
Sáng sớm, Goisum về kiểm tra ngôi nhà của mình. Năm phút sau anh chạy lại, gào thảm thiết:
- Ông Tsanka, ông Tsanka ơi, nhà của cháu, nhà của cháu, bọn khốn bắn sập rồi. Sập hoàn toàn. Cháu phải làm gì bây giờ? Sao lại như thế được? Phải vất vả lắm cháu mới xây được. Làm sao cháu có thể lấy vợ được nữa?
Những giọt nước mắt cay đắng to tướng chảy ra từ cặp mắt như đang cháy lên của Goisum. Anh ta cứ kêu gào, khóc lóc, sùi cả bọt mép vì tức giận. Khuôn mặt vốn đã méo mó, nay lại càng thêm méo mó, man dại.
- Cháu sẽ tiêu diệt hết bọn chúng, sẽ tự tay bóp chết bọn chúng. - Goisum gào lên trong cơn giận dữ điên cuồng.
Đột nhiên, Goisum chộp lấy cây nạng gảy rơm bên đống rơm, tuyệt vọng khua lên rồi chạy xuống núi, nơi đóng quân của kẻ thù, điên cuồng hét lên, đe dọa, nguyền rủa và cả cầu xin “thánh Allah” nữa.
- Đứng lại! - Ông Tsanka gọi theo Goisum, nhưng mọi việc đã trở nên vô ích.
Đến giữa sườn dốc, một loạt tiểu liên dài quật ngã Goisum. Sau đó thêm một vài loạt pháo nữa, bắn thẳng ra từ xe tăng vào cái xác nằm trên mặt đất. Một lúc sau, ông Tsanka lần theo sườn dốc đến chỗ đó. Người ta không bắn ông già. Ông Tsanka tìm kiếm rất lâu trong vô số các hố đạn thi thể người đồng hương. Phải khó khăn lắm ông mới gom được những mảnh rời rạc. Sau đó ông quay về làng rồi đi ra với chiếc bao tải. Bây giờ bước chân của ông có vẻ nặng nhọc, mệt mỏi, lúc nào cũng phải dựa lên chiếc gậy chống.
Sau khi nhặt được khoảng nửa bao những gì còn lại của cơ thể một con người, ông Tsanka đặt bao lên vai, cố gắng chậm chạp leo lên dốc. Mới được mươi bước, ông đã phải dừng lại thở hổn hển, đứt quãng. Ông lão quá mệt vì con dốc và vật nặng trên vai. Ông cúi xuống, dồn toàn thân vào cây gậy chống, đứng như thế khá lâu, thở lấy hơi. Đột nhiên, một tiếng rắc đơn độc, khô khốc vang lên: cây gậy chống bằng gỗ của ông gãy làm đôi, ông già đổ vật ra, đập mặt xuống đất, mắt kính vỡ tan, cứa vào mặt tóe máu.
Ông Tsanka phải khó khăn lắm mới đứng dậy được, quay đầu lại.
- Đồ súc sinh! - Ông điên cuồng hét lên rồi chạy xuống dưới, định lao vào trận đánh phục thù, nhưng mới chỉ được năm, sáu bước, ông bị trượt chân, lại ngã vật ra, lần này ông còn phải nằm khá lâu mà không đứng lên được. Ông chỉ còn đủ sức rên khe khẽ, nhỏ lên mảnh đất quê hương những giọt nước mắt hiếm hoi của mình. Ông có cảm giác như nghe thấy rất rõ những người lính đang cười cợt, chế nhạo ông...
Mặc dù vậy, ông già vẫn cố đứng lên, gom nhặt chiếc bao, lần về tới nhà, tìm được chiếc kính dự phòng rồi đi tiếp về hướng nghĩa trang. Đến trưa thì ông chôn cất xong những gì còn lại của Goisum.
- Thế đấy, Goisum ạ, - ông Tsanka ngồi bên nấm mồ mới đắp, khẽ nói. - Hóa ra là cháu đã đào nấm mồ này cho mình... Cầu xin thượng đế phù hộ cho cháu! Trên mặt đất này cháu là người bất hạnh, có thể ở đó cháu sẽ được hạnh phúc. Còn ta, lại chỉ còn một mình, ta lại gặp may một cách đáng sợ, thậm chí rất đáng sợ nữa... Hừ, - ông cay đắng nhếch mép. - Đã bao nhiêu lần ta gặp may kiểu như thế này?! Nhớ lại mà thêm sợ. - Và trong đầu ông Tsanka như hiện lên rất rõ những cảnh tượng không thế nào quên của những đoạn đời và những cuộc chiến đã đi qua...
* * *
Mùa hè năm 1935. Quá trình tập thể hóa diễn ra hết sức sôi động. Nạn đói, nghèo và dịch bệnh như đã bẻ gãy cuộc sống trên vùng đất Ukraina, Povolzhe và miền Trung Nga. Như mọi khi, làn gió biến động thổi tới Chechnya muộn hơn một chút so với nơi khác. Đã có nhiều kinh nghiệm sau công cuộc công hữu hóa, những người Bolsevich tích cực khai thác thêm những vùng lãnh thổ mới.
Cuối những năm hai mươi, các cuộc tập thể hóa liên tục diễn ra trên vùng đồng bằng Chechnya. Với các biểu ngữ của những người Bolsevich và người Chechnya đang bị đói, một số lượng lớn những người lánh nạn đói ăn từ Ukraina đổ xô về Chechnya. Họ kể về những cuộc tập thể hóa khủng khiếp. Tuy nhiên, dù không có những câu chuyện họ kể thì mọi người đều rõ tầm quan trọng của công cuộc tập thể hóa, bởi lẽ từ xa xưa người Chechnya đã có câu thành ngữ: “Cha chung không ai khóc”.
Bất chấp sự phản đối của dân chúng, công cuộc tập thể hóa vẫn được ép buộc tiến hành, không ai có thể ngăn lại được. Trong khoảng thời gian bảy, tám năm tồn tại của chính quyền Xô viết, nhiều người dân ở Chechnya đã bị thiệt mạng, mất tích hoặc đưa đi phát vãng ở Sibir, Bắc Ural. Hệ tư tưởng của những người Bolsevich dựa trên thành phần bần cố nông đã mang lại kết quả. Sự tố giác và sự đối đầu trở thành bắt buộc. Tôn giáo bị cấm. Thuốc lá và rượu trở nên phổ biến. Thoạt đầu là tịch thu ruộng đất. Các khoảnh ruộng đất tư nhân nằm ngoài các điểm dân cư cũng bị thu. Sau đó đến lượt các vật nuôi trong gia đình. Tất cả ngựa, gia súc có sừng, cừu, thậm chí cả gà nữa đều bị đưa vào nông trang tập thể. Một thời gian sau, những con gà sống dở chết dở được trả về cho các gia đình, nhưng họ không được phép ăn thịt những con gà đó mà chỉ được chăm sóc chúng thôi. Nếu một con gà bị mất mà hàng xóm tố giác là chủ nhà ăn thịt nó thì chủ nhà sẽ bị trừng phạt hoặc phải nộp phạt. Một thời kỳ nặng nề và khủng khiếp đang diễn ra.
... Sau khi mãn hạn tù trở về, Tsanka Arachaev xây một ngôi nhà ở xóm trại, cách ngôi làng ruột thịt Duts-Khote khoảng một dặm. Mãi sau này, khi làng phát triển thì nhà của Tsanka nằm ở vùng ven ngôi làng miền núi, còn đến năm 1935 nó chỉ là một khu trại hẻo lánh.
Vị trí để xây dựng tổ ấm được Tsanka lựa chọn rất thuận lợi. Khoảnh đất trên sườn núi này khá bằng phẳng. Cạnh đó, trên phần đất được cấp có con suối chảy ngang qua. Cao hơn một chút theo dòng chảy là cối xay nước của ông Baki-Haji. Vào thời gian đó, cây cối trên sườn núi còn rất rậm rạp. Dọc theo suối là những bụi cây kim anh, hồng dại, sơn trà, còn xa hơn nữa là rừng, càng vào sâu càng rậm, chủ yếu là sồi và dẻ gai. Lên cao hơn, về phía đỉnh núi, rừng thưa hơn, ở đây có thể bắt gặp các loại cây lạc diệp tùng và bồ đề cổ thụ.
Chếch về phía tây khu trại Tsanka, hướng đỉnh núi là nghĩa trang cổ của người Chechnya, nghĩa trang Gazavata. Người dân miền núi cổ xưa đều được chôn cất ở đây. Có rất nhiều tấm bia mộ theo phong cách đa thần giáo. Trong khuôn viên nghĩa trang có ba cái tháp canh đã đổ nát của người Vainakh cổ. Thời gian đã tàn phá, hủy hoại chúng nhưng vẫn không thể bắt chúng phải khuất phục. Những ngôi tháp canh ấy vẫn còn đứng đó quan sát tất cả những gì đang diễn ra xung quanh.
Nhưng thật trớ trêu đối với các tháp canh và nền văn hóa cổ xưa, ngay trước khu nghĩa trang cổ, thấp hơn một chút trên sườn núi, quân đội đã xây dựng trại gia súc, đi xuống một chút nữa, gần cối xay nước là trại ngựa, toàn bộ ngựa đều được dồn về nuôi ở đây. Tất cả những cơ sở này thuộc nông trang tập thể mang tên Lenin. Nông trang được đánh giá là tiên tiến mặc dù không bao giờ hoàn thành kế hoạch sản xuất bởi lẽ chỉ tiêu được giao quá cao. Ngày công lao động của nông trang viên được thanh toán vào dịp cuối năm bằng trái phiếu nhà nước dài hạn, khoảng mười năm. Chủ tịch nông trang thay đổi hàng năm. Nhiều người trong số họ bị tống giam vì tội hoạt động phá hoại.
Đến mùa hè năm 1935 thì chẳng còn ai muốn làm chủ tịch nông trang nữa, thậm chí nông trang viên bình thường cũng không muốn, vì chẳng ai muốn làm không công. Đàn gia súc chết dần chết mòn vì đói và dịch bệnh, thức ăn dự trữ cho mùa đông không có. Dịch bệnh bắt đầu bùng phát. Mùa hè, mùi hôi thối nồng nặc từ xác và phân gia súc tràn ngập khắp triền núi. Khu trại của Tsanka cũng không thể sống nổi. Mùi hôi thối không chỉ lan trong không khí mà còn ngấm vào cả nguồn nước, trên cây cỏ và ở khắp nơi. Xung quanh, cuộc sống như ngưng trệ. Thậm chí lũ quạ cũng bay khỏi vùng đất này, chỉ có những con nhặng mập ú no nê là lười nhác bay từng đàn khắp vùng.
Dòng nước phân hôi thối, nhớp nhúa chậm rãi chảy thẳng từ khu trại gia súc vào nguồn nước. Trước kia, sáng sáng, từng đàn cá hồi núi lấp lánh nhảy qua các tảng đá lăn nhỏ, nô giỡn trong làn nắng sớm, bơi ngược lên thượng nguồn. Giờ đây, cuộc sống trong nguồn nước không tồn tại nữa. Và cuộc sống trong ngôi nhà của Tsanka cũng đang lịm đi. Vì cái mùi hôi thối không sao chịu đựng nổi ấy mà gia đình Tsanka phải quay trở về nhà bà con trong làng.
Chỉ có trong trại ngựa là cuộc sống vẫn còn được duy trì. Có thể thấy đó là nhờ tình yêu sâu nặng của người miền núi đối với loài ngựa vẫn còn được giữ gìn cho đến tận ngày nay. Những chiếc xe chở thức ăn cho ngựa vẫn còn chạy đến đây, sáng và chiều các nông trang viên vẫn xuất hiện Chỉ có trong trại ngựa là cuộc sống vẫn còn được duy trì. Có thể thấy đó là nhờ tình yêu sâu nặng của người miền núi đối với loài ngựa vẫn còn được giữ gìn cho đến tận ngày nay. Những chiếc xe chở thức ăn cho ngựa vẫn còn chạy đến đây, sáng và chiều các nông trang viên vẫn xuất hiện trên đường đến khu trại.
Từ làng, chỉ có một con đường dẫn đến khu trại gia súc và trại ngựa. Con đường chạy ngang qua nhà Tsanka rồi rẽ đôi. Một đường chạy lên cao về phía trại gia súc, đường kia dẫn đến trại ngựa.
Ngày hôm đó, từ xa Tsanka nhìn thấy ba người cưỡi ngựa đang tiến lại gần. Một người đi trước, hai người đi sau. Lát sau, Tsanka nhận ra người đi trước là Umar, người làng Duts-Khote. Trước khi chính quyền Xô viết thành lập ở đây, trong làng không có gia đình nào nghèo hơn gia đình Umar, nay anh ta làm trong cơ quan Dân ủy nội vụ. Giờ đây, khi không một người Chechnya nào được phép tàng trữ vũ khí trong nhà, nhất là mang theo người, thì trên thắt lưng Umar móc lủng lẳng một khẩu súng ngắn to tướng, cấp riêng cho anh ta. Đám đàn ông trong vùng đồn đại chiếc bao da màu vàng của Umar là da thật. Thời gian làm cho các mép của nó bị sờn mòn, chỗ thì ngả nâu, chỗ thì đỏ, còn ở giữa vẫn vàng. Dù Umar đi bộ hay đi ngựa, lúc nào anh ta cũng cố ngạo mạn trương bao súng ra. Ngay cả bây giờ, anh ta đang cưỡi ngựa và tỏ ra rất thích thú với bao súng.
Vừa nhìn thấy các vị khách không mời mà đến, Tsanka vội lui vào nhà. Trong nhà, không khí dễ chịu hơn ngoài đường dù mặt trời mùa hè đang thiêu đốt mái nhà, trong nhà nóng như nhà tắm hơi. Tsanka quan sát các kỵ sĩ qua ô cửa sổ nhỏ, thầm nghĩ, chắc họ đến trại ngựa hoặc trại gia súc. Tuy nhiên họ ngoặt về phía khu trại của anh. Khu trại của Tsanka được bao quanh bằng hàng rào bện bằng cành cây, nhưng không có cổng, thay vào đó là hai thanh gỗ gia, gắn móc sắt. Umar đứng trước hai thanh gỗ, bỏ khăn bịt mũi ra, gọi Tsanka. Gọi đến lần thứ hai Tsanka mới bước ra.
- Salam alleikum, Tsanka. Cầu chúc sức khỏe cho anh và hòa bình cho ngôi nhà.
- Vo-alleikum salam. Chúc các anh hòa bình và sức khỏe, xin mời.
Một khoảng lặng. Umar gõ gõ ngón tay đẫm mồ hôi vào bao súng, vẻ hài lòng.
- Tsanka, thế gia đình anh đâu? - Cuối cùng, Umar hỏi.
- Tôi đưa họ về nhà bà con ở trong làng rồi, tránh mùi hôi thối ở đây.
- À, à, - Umar kéo dài giọng, lắc lắc cái đầu da bánh mật. - Đã lâu không gặp anh, lâu rồi. Anh đã trưởng thành, cứng cáp lên đấy. Người khác chết rục xương trong tù, còn anh lại phát tướng ra.
- Phải, có lẽ là nhờ anh chiếu cố đến. - Tsanka đáp.
- Thôi đừng nói bậy nữa. Tôi chẳng liên quan gì cả. Thời thế như vậy. Hãy cám ơn thánh Allah cho ta cuộc sống và sức khỏe.
Con ngựa của Umar lắc lắc đầu để xua lũ ruồi đang bu đầy trên bẹn nó hút máu.
- Anh có con ngựa đẹp đấy, Umar, thật tuyệt. Giống ngựa thuần chủng từ đàn ngựa của Magomed. - Tsanka lùi lại một chút, ngắm nghía con ngựa.
- Thôi đừng tán nhảm nữa. Anh còn ấu trĩ lắm, Tsanka ạ... Đàn ngựa Magomed, đàn ngựa Magomed, - Umar ngọ ngoạy trên yên, bực bội nhại lại, - Magomed của anh bây giờ ra sao, anh có biết không? Cả đàn ngựa của ông ấy nữa? Rồi anh sẽ thấy. Suốt đời cứ cưỡi lên đầu nhân dân, giờ sẽ bị trừng phạt. Chính quyền Xô viết là chính quyền của nhân dân và rất công bằng.
Những câu cuối, Umar nói rất to để những người đi cùng đều nghe được. Từ “Chính quyền Xô viết” anh ta nói bằng tiếng Nga còn mắt thì liếc xéo về phía sau để xem phản ứng của đồng đội.
- Dĩ nhiên, anh nói đúng, - Tsanka nói bằng một giọng mềm mỏng hơn. - Có thể thấy rõ là chính quyền Xô viết rất tốt bụng. Chẳng qua là tôi chỉ nghĩ, khi chính quyền Xô viết xuất hiện, tất cả chúng ta sẽ sống như Magomed, nhưng hóa ra Magomed lại phải sống như chúng ta.
- Đừng nói bậy nữa, đồ ngốc ạ. Hai người kia cũng biết tiếng Chechnya đấy... Mà nói chung, tôi đến gặp anh vì công việc, Tsanka ạ. Sáng mai, đúng tám giờ anh phải có mặt ở huyện lỵ. Tôi sẽ đón anh ở đó. Chỉ có điều đừng gây chuyện ngu ngốc đấy. Đùa bỡn với chính quyền chỉ có hại thôi. Anh quá biết rồi.
Nói xong, Umar quay ngựa về phía làng, những người kia cũng đi theo. Umar ghìm dây cương, quay đầu lại, lườm Tsanka bằng đôi mắt đen của mình, nói:
- Phải, quả thật là anh đã phổng phao lên rồi đấy.
Umar lắc đầu vẻ ngạc nhiên rồi giật dây cương và quất cho con ngựa một roi.
Thời gian còn lại trong ngày và suốt cả đêm hôm ấy, Tsanka cảm thấy bất an. Bị triệu tập đến cơ quan Dân ủy nội vụ thì chẳng trông mong điều gì tốt đẹp. Buổi tối, Tsanka vào làng trao đổi với người thân. Chẳng ai góp được điều gì cụ thể. Chính quyền Xô viết đã vững mạnh, chẳng thể trốn đi đâu được. Mẹ và vợ khóc lóc, còn những người đàn ông thì rầu rĩ nhìn xuống đất.
Sáng hôm sau, Tsanka phờ phạc, chậm chạp lần xuống trung tâm huyện. Giờ đây, thế giới xung quanh đối với Tsanka bỗng trở nên đẹp đẽ vô cùng. Thậm chí cả cái mùi bốc ra từ khu trại gia súc cũng không đến nỗi khó chịu như trước. Trời còn rất sớm, mặt trời chưa nhô lên khỏi rặng núi, còn bầu trời thì xanh biếc, trong veo và cao vời vợi. Trên nền trời sáng, cánh rừng trông có vẻ sẫm màu hơn bình thường.
Cuối cùng, mặt trời đã nhô lên sau rặng núi, chiếu ánh sáng chói lòa lên mặt Tsanka, ve vuốt làn da. Cánh rừng dẻ gai hùng vĩ thay đổi màu sắc liên tục: thoạt đầu cánh rừng xa xa phía tây sáng dần lên, sau đó ánh nắng mặt trời và hơi ấm bao trùm lên cánh rừng phía đông, cuối cùng toàn bộ vùng thung lũng trong núi được mặt trời chiếu sáng rực rỡ. Một ngày hè mới, nóng nực bắt đầu.
Buổi sáng làm cho Tsanka cảm thấy sảng khoái, và khi gặp lại Umar, Tsanka đã gần như bình thường. Họ cùng vào ngôi nhà hai tầng, lên tầng hai. Tsanka được đưa vào căn phòng rộng rãi, Umar ngồi chờ ở phòng tiếp đón. Tsanka nhận thấy Umar tươi cười với tất cả mọi người, vừa đi vừa nghiêng mình chào hỏi. Trong phòng tiếp đón, anh ta bị tách khỏi Tsanka ngay.
Trong căn phòng rộng bàn ghế sơ sài, có một người đàn ông khoảng năm mươi tuổi, má đỏ au, mập mạp. Trên tường treo tấm bản đồ thế giới, chân dung Lenin và Stalin.
Cuộc trò chuyện ngắn gọn, và Tsanka chỉ hiểu được một việc - từ nay anh sẽ là chủ tịch nông trang tập thể mang tên Lenin, và phải nhanh chóng bắt tay ngay vào việc. Chỉ đến lúc đó, người đàn ông mập mạp mới đứng dậy khỏi bàn, bước lại gần Tsanka và chìa bàn tay béo núc ra. Tsanka, sau cơn sửng sốt, bắt đầu phản đối, rằng anh không thể làm chủ tịch được vì còn trẻ, ít học, chưa có kinh nghiệm
- Không sao, không sao, - người đàn ông má đỏ nói, giờ đã mỉm cười vỗ vỗ vào vai Tsanka. - Điều quan trọng nhất, đồng chí Arachaev ạ, là mọi người phải sợ mình. Đồng chí phải hiểu, chính quyền Xô viết, có thể đối với một số người là đáng sợ, nhưng khi có chính quyền trong tay thì đó là hạnh phúc.
Tsanka lãnh đạo nông trang được gần một năm. Sự bắt đầu và kết thúc đoạn đời nông trang của Tsanka diễn ra bằng các đám cháy. Đám cháy thứ nhất xảy ra khi chính Tsanka tự đổ dầu hỏa vào trại gia súc và đốt nó. Đó là lối thoát duy nhất để thoát khỏi mùi hôi thối nồng nặc. Đám cháy thứ hai xảy ra hoàn toàn khác.
Buổi tối, Tsanka bị vợ đánh thức dậy. Trại ngựa bị cháy. Có những bóng đen nào đó lảng vảng xung quanh. Khi Tsanka đến nơi thì nhìn thấy Umar và năm người, cả Nga lẫn Chechnya, tất cả đều mặc thường phục. Họ thậm chí cũng không thèm giấu giếm là đã đốt trại ngựa. Hai mươi chín con ngựa - đó là tất cả những gì còn lại của nông trang tập thể - đều bị nhốt chặt ở bên trong. Lũ ngựa hoảng loạn, hí ầm ĩ. Nghe rất rõ tiếng chúng gõ móng và tiếng hí điên loạn.
- Umar, xin anh hãy thương tiếc những con ngựa, hãy thả chúng ra, xin anh. - Ông già bảo vệ trại ngựa chạy quanh Umar, kêu gào.
- Này, ông già, đứng tránh ra. Việc gì đến ông. Có phải ngựa của ông đâu, ngựa của nông trang đấy chứ. Mà nói chung, nếu ông còn lảm nhảm nữa, chúng tôi sẽ thiêu ông luôn đấy. Hiểu chưa?
Tsanka đứng cạnh chứng kiến mọi chuyện. Toàn bộ nỗi khiếp sợ và cơn ác mộng hằn rõ trong đôi mắt mở to, chúng như đang cháy lên, còn những giọt nước mắt thì ứa ra.
... Vài ngày sau Tsanka bị bắt, chỉ đến lúc đó anh mới hiểu rõ toàn bộ sự việc. Theo bản quyết toán gửi cho huyện trước khi Tsanka được bổ nhiệm làm chủ tịch thì nông trang có cả thảy 159 con ngựa đã được thống kê theo năm sinh, giống, màu lông, thậm chí cả tên gọi nữa. Dĩ nhiên, số lượng ngựa như vậy ở nông trang chưa bao giờ có. Chẳng qua chỉ là những số liệu để báo cáo. Bất ngờ, một thời gian sau, lãnh đạo huyện nhận được một bức điện của cấp trên, yêu cầu nông trang tiên tiến mang tên Lenin phải giao nộp một trăm con ngựa cho Hồng quân. Sau đó huyện lại nhận được một công văn hỏa tốc, ghi rõ tuổi, giống, màu lông, tên gọi của từng con ngựa phải được giao nộp tại thành phố Grozny vào giữa tháng Sáu.
Một thời gian sau, thành phố Grozny nhận được báo cáo, những tên phú nông culắc và những người miền núi Arbek chống đối đã đốt trại ngựa của nông trang Lenin nhằm phá hoại chính quyền Xô viết. Ngay sau đó có công văn trả lời, yêu cầu phải trừng trị thích đáng những kẻ phạm tội. Những kẻ phạm tội liền bị bắt và bị trừng trị ngay. Ông già bảo vệ bị bắt rồi mất tích như một người Arbek chống đối, còn chủ tịch nông trang Arachaev Tsanka, do thiếu tinh thần trách nhiệm đối với công việc được giao và âm mưu phá hoại nên bị kết án năm năm tù giam.
Khi biết mình không bị giam nhà tù ở Grozny mà bị đưa đến nhà tù ở Gudermes và được đưa vào một bãi nhốt khổng lồ không mái che, Tsanka mới ý thức được tình hình của mình tồi tệ đến mức nào và mọi việc sẽ không kết thúc ở nhà tù địa phương. Trong bãi nhốt, theo cách gọi của chính những tù nhân, có rất nhiều người. Ngày cũng như đêm, từ bên ngoài hàng rào lúc nào cũng vọng đến tiếng la hét của người thân với đủ các thứ tiếng khác nhau. Ở đây, ưu thế chủng tộc của Tsanka ngay lập tức được thừa nhận - đó là giọng nói oang oang của anh. Một mình Tsanka cũng có thể hét thay cho tất cả mọi người trong khi còn chưa bị khàn tiếng.
Sang ngày thứ ba thì mẹ Tsanka đến. Người mẹ ném qua hàng rào cho anh pho mát, bánh mì dẹt bằng bột ngô, miếng mỡ cừu và rất nhiều tỏi. Tsanka cười luôn miệng, bảo với mẹ, lâu lắm rồi, ngay cả khi còn tự do ở nhà, anh cũng chưa bao giờ nhìn thấy nhiều thức ăn đến thế.
Vài ngày sau, vào lúc sáng sớm, người ta xua tất cả tù nhân ra nhà ga đường sắt, đẩy tất cả lên con tàu hàng vừa chạy tới. Các toa tàu đã chật như nêm, nhưng họ vẫn được nhét lên hết.
Thật đen đủi là Tsanka và một số đồng chí của anh cùng bị đưa lên một toa tàu.
Tsanka, không phải lần đầu bị giam, ngoài ra còn trẻ và khỏe nên tỏ ra tự tin hơn, thậm chí còn có vẻ bất cần nữa. Sự tự tin của Tsanka chinh phục được tất cả những kẻ yếu đuối, nhất là những người già Chechnya.
Ở giữa toa có một chiếc lò sưởi nhỏ bằng sắt tạm bợ. Một người đàn ông, hình như là dân Kavkaz, hay Gruzia, Armenia gì đó, vóc dáng mập mạp, râu tóc bờm xờm ngồi chễm chệ.
Tsanka không rành lắm về chủng tộc, nhưng biết chắc một điều, ngày đầu tiên đứng ở vị trí nào, thì những ngày sau sẽ mãi như vậy. Tsanka đưa mắt quan sát xung quanh, sau đó nói bằng tiếng Chechnya để mọi nguời che chắn sau lưng cho mình.
Sau đó, không thèm nói một lời, Tsanka nhảy một cú đến sát chiếc lò, nhún hai chân khỏi sàn lấy hết sức túm chặt vào cổ áo của tên béo. Mọi việc chỉ diễn ra trong tích tắc, tên béo bay ngay xuống dưới, thậm chí cũng không kịp kêu một tiếng. Tsanka ngồi ngay lên ngai vàng và vẫy người của mình lại gần. Mọi người vội dãn ra, và những hành khách mới của toa tàu, người thì hếch cằm lên, người thì bối rối nhìn quanh, chiếm ngay một chỗ gần “lò sưởi”.
Đêm thứ hai, đoàn tàu dừng lại giữa thảo nguyên. Dù là một đêm tháng Sáu nhưng tiết trời vẫn lạnh, gió rít qua các khe hở mang theo cả cát bụi.
Xung quanh tĩnh lặng, ai đó đang ngáy, người khác nhìn qua khe hở với hy vọng bắt gặp một điều gì đó thân thuộc.
Hừng đông sôi động hé lên. Nghe rõ cả tiếng vó ngựa, tiếng ra lệnh của chỉ huy, các toa tàu được mở ra, tất cả được đưa xuống xếp thành một hàng dài, dẫn đi trên con đường làng lầm bụi về hướng đông đón ánh mặt trời.
Vóc dáng Tsanka cao hơn tất cả mọi người trong đoàn. Chưa bao giờ Tsanka được nhìn thấy một khoảng không gian thoáng đãng và trơ trọi đến thế, nơi những ngọn gió có thể rong chơi tự do với cát bụi. Khắp nơi là thảo nguyên mênh mông, đơn điệu và không có sinh khí. Tsanka nhìn quanh bốn phía, cố tìm một ngọn núi hay một cái gì đại loại có thể làm cho bức tranh thêm sinh động, có thể gieo niềm hy vọng nào đó để thay đổi, ít ra là sự chuyển động.
Mặt trời nhanh chóng lên cao, thời tiết nóng đến mức không thể chịu đựng nổi, cơn khát giày vò khủng khiếp. Ai đó ở hàng trước, hình như xin nước uống. Đoàn người dừng lại, từ phía trước vọng lại tiếng la hét, rồi một phát súng ngắn, sau đó một loạt đạn vang lên, tất cả lại trở nên tĩnh lặng, đoàn người lại đi tiếp. Tất cả tù nhân mới đều nhìn sang bên trái, ở đó có mấy xác người đẫm máu bị hất sang bên đường. Tsanka có cảm giác một cái xác vẫn còn động đậy. Một sự chán nản và im lặng bao trùm. Tsanka cúi gằm mặt nhìn xuống chân, mồ hôi từ trên mặt rỏ ròng ròng xuống ủng, tạo nên những cái phễu nhỏ trên lớp bụi dày.
Đến chiều thì họ tới nơi. Theo danh sách, họ được phân thành từng khối khoảng một trăm người, thẩm vấn gì đó, ghi chép gì đó. Một trong số các sĩ quan đến gần Tsanka. Có thể thấy rõ nếu không phải là người chỉ huy cao nhất thì ít ra người đó cũng nằm trong ban lãnh đạo, vẻ mặt quan trọng, vóc dáng khỏe mạnh. Người chỉ huy quan sát Tsanka từ xa, đứng sang một bên, rồi lại nhìn nữa, sau đó ông đến gần, phả ra mùi vodka và mùi tỏi.
- Quê quán? - Người chỉ huy hỏi.
- Grozny ạ, - Tsanka đáp.
- Họ tên, bao nhiêu tuổi rồi?
- Arachaev ạ, ba mươi tuổi.
Chỉ đến lúc này người chỉ huy mới nhận ra giọng của Tsanka.
- Dân tộc nào? Có phải Chechnya không?
Tsanka chỉ cắn môi, gật đầu đáp lại.
- Tôi không biết Chechnya lại có những người như thế này.
Một người đàn ông đeo kính, nhỏ con, gầy gò, mặc quần soóc thường phục, đi đi lại lại bên người sĩ quan. Ông ta cầm trên tay một cuốn vở to, sờn cũ, ố vàng, khi cần thiết lại mở ra, ghi chép gì đó.
- Xin lỗi đồng chí Bezuglov. - Ông ta lắp bắp. - Tôi đọc trong từ điển bách khoa toàn thư, người Chechnya phần lớn tóc sáng, mắt xanh, đó không phải là do bạch tạng mà là một đại diện cổ xưa của người miền núi Chechnya.
- Phải, một người miền núi khỏe mạnh, - người sĩ quan nói rồi đi dọc theo hàng người.
Chỉ mãi đến nửa đêm, Tsanka và những người đồng hành với anh mới đến được khu vực được quây bằng dây thép gai. Người ta giải thích cho họ biết, đây là trại tập trung. Gần đấy có giếng, nước hơi lợ một chút nhưng uống được.
Vì quá mệt mỏi, hai chân như rũ ra, mắt díp lại, mọi người nằm la liệt trên mặt đất ẩm ướt, lạnh lẽo dưới bầu trời rộng mở. Tuy nhiên tai họa lớn nhất lại từ những con muỗi: chúng bay từng đàn, châm đốt trên tất cả phần da thịt hở ra - từ tai đến gót chân.
Tsanka nằm xuống đất. Mặt đất phả lên làn hơi lạnh, những ngôi sao nhấp nháy trên bầu trời thăm thẳm.
 “Tại sao? Tại sao mình lại bị nhạo báng đến thế này? Mình đã làm gì?” - Tsanka nhìn lên bầu trời tối đen thầm nghĩ. Những ý nghĩ nặng nề, buồn bã choán ngợp tâm trí.
Anh nhớ đến mẹ, những người thân yêu ruột thịt, những rặng núi và ngôi nhà của mình. Tsanka cảm thấy một nỗi đau trĩu nặng trong lòng, có cái gì như đè lên ngực, anh nhắm mắt lại và thiếp đi lúc nào không hay. Tsanka mơ những giấc mơ khủng khiếp, người ta siết cổ anh, lấy những vật nặng gì đó đè lên lưng, giữa cơn mơ anh khát nước kinh khủng, đồng thời lại muốn đi vệ sinh.
Đúng lúc ấy, những tiếng la hét, chửi rủa vang lên xung quanh, ai đó giẫm mạnh lên tay. Tsanka hét lên vì đau, tỉnh giấc, ngồi dậy, không hiểu mình đang ở đâu và có chuyện gì đang xảy ra. Trong khi Tsanka đang tỉnh lại thì xung quanh lặng dần. Hóa ra là có kẻ nào đó định cướp chiếc ba lô đựng toàn bộ lương thực, thực phẩm của Tsanka và các bạn tù ở Gudermes.
Trời sáng hẳn. Một buổi sáng trong trẻo và tươi tắn. Tsanka đứng lên, vươn vai. Phía đông mặt trời đang ló dạng. Anh nhìn thấy rất rõ trên cái nền đen của mặt đất bắt đầu hiện lên một số nhánh sông màu lam thẫm, còn xa hơn một chút là khoảng không màu xanh tím trải dài đến vô cùng.
- Đây là dòng sông Volga vĩ đại của nước Nga, còn phía bên phải là biển Caspi. Cậu đã bao giờ nghe nói chưa? - Ông Aleksandr Petrovich Shapovalov đứng bên cạnh nói.
Ông Shapovalov, cũng như Tsanka từng là chủ tịch nông trang, nhưng ở huyện Grozny. Ông nhận ra Tsanka là nhờ vóc dáng của anh trong một cuộc họp ở Grozny. Số mạng của ông cũng giống như Tsanka. Ông lớn tuổi hơn Tsanka nhiều, và có thể thấy, sức khỏe không được tốt lắm.
- Cậu biết không, Tsanka, tất cả những dòng sông lớn nhỏ chảy trên vùng đất Chechnya đều đổ vào cái biển này. Từ cái biển này có thể bơi thẳng đến nhà cậu. Cạnh nhà cậu cũng có con suối hay con sông nhỏ chứ?
Tsanka gật đầu. Mặc dù chưa bao giờ anh nhìn thấy một lượng nước khủng khiếp như thế và thậm chí cũng không biết bơi nữa, nhưng đột nhiên Tsanka bỗng muốn biến thành một con cá tung tăng trong cái biển nước mênh mông này, rồi bơi theo những dòng sông lớn nhỏ cho đến tận nguồn nước quê hương, đến ngôi nhà ruột thịt. Thậm chí Tsanka còn hình dung ra, mình sẽ bơi theo dòng nước mát lạnh, bơi rất lâu, rất khó nhọc, nhưng thật dễ chịu và thoải mái, vì đó là con đường về nhà, dẫu gian nan nhưng hạnh phúc. Với sự nỗ lực của mình, Tsanka có thể vượt qua bất cứ trở ngại nào, sẵn sàng không ăn, không uống, miễn là về tới nhà, về tới quê hương! Tsanka bị cuốn hút đến mức, bắt đầu nhẩm tính sẽ mất bao nhiêu ngày để về đến nhà, bắt đầu ước lượng vận tốc bơi tương đương như cá hồi bơi trong nguồn nước quê hương. Anh đắm mình trong mộng tưởng với những hồi ức tươi đẹp tràn ngập trong lòng, anh lại muốn sống, muốn về nhà. Tsanka mở mắt ra đón ánh bình minh đang chiếu thẳng vào mặt, cầu nguyện Thượng đế cứu giúp. Anh muốn sống, muốn sống ở nhà, sống tự do.
Chỉ đến khi ông Shapovalov chạm vào người, Tsanka mới thoát khỏi cơn mê sảng. Ông nắm lấy khuỷu tay Tsanka, nói:
- Chúng ta sẽ ở đây trong bao lâu, không rõ. Chúng ta sẽ được nuôi như thế nào, mà nói chung có được cho ăn uống hay không, cũng không rõ. Chính vì vậy phải giữ gìn cẩn thận chiếc ba lô, rất có thể những con chó núi ấy sẽ quay lại... Thêm một điều nữa, chuyện đấm đá và thái độ bất cần ở đây là không được. Người ta bảo, từ trên tháp canh, họ có thể bắn thẳng bằng súng máy, không phân biệt đúng sai. Chính vì vậy phải hết sức thận trọng. Chúng ta phải luôn sát cánh bên nhau. Cậu hãy cảnh báo cho những người Chechnya của mình.
Một lát sau họ ngồi xuống ăn. Thay cho lũ muỗi khát máu, bây giờ là lũ ruồi cũng khát máu và lì lợm không kém. Chúng trơ tráo bay vào mọi ngóc ngách và cắn rất đau, nhiều đến mức, nếu không cẩn thận chúng sẽ bay luôn vào mồm cùng với thức ăn.
Tsanka và các đồng hương của mình chỉ vừa mới chuẩn bị ăn thì có hai người xuất hiện: một người nhỏ bé, vai so, khuôn mặt méo mó, người kia cao ngồng, tóc hung, khuôn mặt đờ đẫn.
- Bọn trấn lột đến đấy. - Ông Shapovalov đẩy vào khuỷu tay Tsanka.
Không ai đứng dậy, thậm chí cũng không nhúc nhích, tất cả đều chờ sự phản ứng của Tsanka. Anh cẩn thận lấy từ trong ba lô ra gói mỡ cừu, mở lớp giấy báo thấm đầy mỡ ra.
- Phải nộp tất cả những thứ đó cho ông chủ. - Tên nhỏ con nói. - Nhanh lên. Ông chủ sẽ phân chia công bằng trên tình đồng chí.
Nói xong, hắn cười nham hiểm rồi nhìn lên tên tóc hung cao kều.
- Đúng thế! - Tên kia phụ họa theo.
Một tràng chửi rủa, văng tục, cả tiếng Nga và tiếng Chechnya vang lên nhằm vào những kẻ vừa đến. Có thể thấy rõ là chúng chỉ chờ có vậy, liền quay người, lầm bầm cái gì đó rồi bỏ đi. Nhưng không lâu, vài phút sau, năm, sáu tên khác xuất hiện, dáng vẻ tự tin, thậm chí xấc xược. Đi đầu là một tên da ngăm, giống như người Digan, vóc dáng cao lớn, khỏe mạnh, tóc quăn màu đen. Nếu không tính đến cái bụng thì vóc dáng của hắn có thể coi là lý tưởng, nhìn vẻ ngoài, khoảng ba lăm - bốn mươi tuổi. Chẳng thèm khách sáo, hắn bước qua một người, lấy chân đạp một người khác, đứng ngay ở giữa. Mọi người bất giác đều đứng cả lên, chỉ trừ Tsanka và ông Shapovalov. Một khoảng im lặng.
- Có lẽ tốt hơn là nên chia cho họ. Chẳng nên gây rắc rối làm gì, ở đây hầu hết là người Nga. - Một người Chechnya dè dặt nói bằng tiếng mẹ đẻ.
- Không ba hoa nữa. - Thủ lĩnh mới đến cắt ngang bằng một giọng sặc mùi thuốc lá. - Gom tất cả lại rồi bỏ vào đây. - Vừa nói hắn vừa lấy chiếc ủng to bóng láng đá cái ba lô về phía Tsanka.
Tsanka vẫn ngồi im, cúi đầu. Vì quá tức giận nên cổ và mặt anh đỏ bừng lên rồi tái đi, các mạch máu hai bên thái dương và trên trán như phồng lên, hai cánh tay bắt đầu run lên. Cảm giác hoảng sợ, đau đớn, căm giận choán ngợp tâm trí Tsanka, đứng trước mặt là kẻ thù, cái bóng dáng cao lớn của hắn như trùm lên khắp người anh. Tsanka thầm nghĩ, chính cái bóng này đã đưa mình tới đây, đến vùng thảo nguyên xa xôi và rộng lớn này, và giờ đây đang tiếp tục nhạo báng anh, không cho anh ăn uống, không cho anh được sống tự do...
Như một tia chớp, Tsanka bật dậy, giận dữ điên cuồng giơ hai cánh tay dài nổi đầy gân xanh túm vào cái cổ to tướng của tên kia, lấy hết sức vừa siết chặt hai tay vừa hét lên một tiếng man rợ, mắt nhắm lại, mặt biến dạng. Tsanka nhấc kẻ thù lên khỏi mặt đất, vừa bóp vừa rung lắc dữ dội theo nhịp đập. Một cơn run nhẹ chạy khắp cơ thể cao ngồng của Tsanka, từ chân lên tới đỉnh đầu, qua đôi tay và truyền vào người kẻ thù. Tên kia đưa hai tay bóp vào cổ Tsanka, muốn đẩy ra, nhưng chân hắn bị nhấc lên khỏi mặt đất, bất lực giẫy đạp trong không khí. Vì đau hay vì lý do nào khác, hắn cũng tuyệt vọng hét lên bằng một giọng khàn khàn, sau đó thở khò khè, khuôn mặt méo mó trong cơn đau đớn khủng khiếp, hai tay tuột xuống, buông thõng, rồi lặng im, lịm đi.
Đúng lúc ấy, đôi chân của Tsanka cũng khụy xuống, ngã đè lên người tên kia. Tsanka thở nặng nhọc, khạc nhổ ra khỏi miệng cả máu lẫn dãi, đau đớn từ từ rút tay ra, chệnh choạng đứng dậy. Các bạn xúm lại đỡ anh, dìu sang một bên. Tất cả nhanh chóng tản ra, chỉ còn lại tên thủ lĩnh nằm dưới đất, cặp mắt đen lồi ra của hắn phản chiếu ánh nắng mặt trời...
Một ngày sau, mọi người trong trại bị gọi tên điểm danh từng người theo danh sách. Một không khí sôi động bao trùm khu trại. Sự lo lắng, tất bật lan từ những người bảo vệ sang cả phạm nhân. Không hiểu tại sao, tất cả mọi người đều có cảm giác hưng phấn, thậm chí hội hè nữa. Hóa ra, vào cái ngày hè đẹp trời ấy, tất cả mọi người đều đi đến một sự hiểu biết lẫn nhau, dung hòa với nhau một cách trọn vẹn. Những người tù bật cười thoải mái, ôm chầm lấy nhau, có người bật khóc, ôm hôn nhau, thậm chí còn trao đổi địa chỉ với nhau nữa.
Tsanka là một trong số những người đầu tiên bị gọi lên. Họ gọi theo từng nhóm khoảng một trăm, trăm rưởi người, bắt xếp hàng, kiểm tra theo danh sách. Ông Shapovalov và Tsanka ở cùng một đội. Hai người đứng cạnh nhau. Không hiểu tại sao tất cả mọi người đều đứng rất nghiêm. Hóa ra mọi người như muốn bày tỏ sự khâm phục, hối lỗi. Tất cả đều muốn về nhà. Họ có tội tình gì đâu!
Có một sự trục trặc gì đó đang diễn ra, mọi người lo lắng chạy ngược chạy xuôi, chỉ có một người tỏ ra dửng dưng với tất cả mọi chuyện.
Người đó chậm rãi đi qua đi lại trước hàng người, mắt nhìn xuống đất. Đến cuối hàng, ông ta xoay một vòng trên gót ủng bốc-can như trong điệu nhảy. Đó là một người đàn ông mập mạp, thấp bé, đầu tóc gọn gàng, hàng ria mép màu đen chải dầu láng bóng và đôi kính gọng tròn, tay cầm chiếc gậy nhỏ bằng nhựa ebonit. Chiếc gậy này có thể thay cho cây gậy chống hoặc cây roi, và theo thói quen, ông ta cứ đập đập chiếc gậy vào ủng, trông rất điệu nghệ.
- Ionych, - ông Shapovalov nhìn ông kia rồi nói với Tsanka.
- Là sao? - Tsanka cúi xuống hỏi lại.
- Cậu đã đọc truyện ngắn “Ionych” của Chekhov chưa?
Tsanka, mặc dù chẳng hiểu gì cả nhưng vẫn gật đầu, ông Shapovalov mỉm cười.
Tất cả đều phải đứng nghiêm và báo cáo cho “Ionych”. Ông béo chậm rãi đi về phía cuối hàng. Giờ đây, ông tỏ ra quan tâm hơn khi ngắm nhìn các tù nhân. Ông nhẹ nhàng, thậm chí dịu dàng, chọc chọc chiếc gậy đen của mình vào ngực các tù nhân, rồi vừa đi dọc theo hàng người, vừa nói:
- Rừng là vàng, là củi, rừng là vàng, rừng, củi, vàng, vàng.
Tùy thuộc vào cách ông nhấn mạnh từ nào trong dãy từ ấy thì tù nhân bị phân ra thành ba hàng. Những từ được ông nhắc đến nhiều nhất là “rừng”, từ ít nhất là “củi”. Cuối cùng, “Ionych” đến trước mặt Tsanka.
Ông gõ chiếc gậy vào ngực Tsanka mạnh hơn bình thường, rồi thích thú gõ nhẹ một cú nữa, nói:
- Vàng, vàng ròng!
Người tiếp theo là ông Shapovalov. Một thoáng im lặng. Ông béo nâng cặp kính lên, ngắm nhìn ông Shapovalov từ đầu đến chân.
- Anh bao nhiêu tuổi rồi? - Ông béo hỏi.
- Bốn tám.
- Khỏe mạnh chứ?
Ông Shapovalov im lặng nhún vai.
- Quay đằng sau xem nào... Thế... thế... Cúi xuống... nữa, nữa...đừng ngại, cúi nữa xuống, - ông béo lấy cây gậy đập đập vào mông ông Shapovalov. - Thôi... được rồi... Rừng.
Trong thâm tâm, Tsanka cảm thấy vui mừng khi người ta gọi mình là “vàng”, chỉ mãi sau này anh mới hiểu, “vàng” nghĩa là vùng đất xa xôi Kolyma, miền đất chết, lạnh lẽo và đóng băng vĩnh cửu. Còn “Rừng” nghĩa là đi khai thác rừng, còn “Củi” - chẳng cần đoán làm gì, mọi việc đã rõ...
* * *
Một cuộc sống mới bắt đầu. Chặng đường dài theo ngày, tuần, tháng. Toàn phải đi bộ, rồi trên các toa chở gia súc, đi qua biển, lúc nào cũng trong giá lạnh, nóng bức và đói khát. Đó là một cuộc sống đầy ắp bạo lực, nhạo báng, sỉ nhục và hủy diệt. Nhưng dù có thế nào đi nữa thì đó cũng là cuộc sống, bởi lẽ ngay cả trong những điều kiện tồi tệ nhất, không sao chịu đựng nổi, con người vẫn muốn sống, muốn ăn, muốn ngủ, muốn nghĩ về tổ ấm quê hương, về những người ruột thịt và về tự do... Còn con đường thì rất dài, rất dài. Người chết như ruồi. Không ai ngạc nhiên, thương tiếc điều gì cả. Chỉ đơn giản là tất cả đều muốn sống, sống nữa, kể cả phải sống như vậy, và nghĩ về đoạn cuối vô định của chặng đường, về chốn băng giá vĩnh cửu câm lặng, về miền đất Kolyma xa xôi, với hy vọng sẽ tìm được hạnh phúc, sự yên bình, tình người và tình yêu.
Từ lâu Tsanka không còn nhớ đến ngày tháng, mọi việc đều được thực hiện chỉ đơn giản xuất phát từ nỗi sợ bản năng, để không bị chết, tới được đích, và sống sót.
Con người thay đổi, các khuôn mặt thay đổi, các điều kiện thời tiết thiên nhiên thay đổi. Giá lạnh biến thành nóng bức, sau đợt hạn hán hay mưa dầm dề là những cơn gió lạnh thấu xương. Tsanka thậm chí không thể hình dung nổi trái đất lại rộng lớn đến thế, còn các thành phố và làng mạc lại nhiều đến thế, vậy mà nhìn tổng thể, thế giới lại đơn điệu đến thế: có người bị bắt giam và có người canh giữ họ. Hóa ra không có những loại người khác.
Trên đường đi, Tsanka quen dần với mọi chuyện: với cái chết - của người khác, với sự đói, khát, với mùi hôi thối, với sự sỉ nhục và xúc phạm. Chỉ có một thứ duy nhất anh không sao có thể quen được - đó là sự thèm ngủ thường xuyên. Còn sau đó, thêm một thứ nữa - thèm sự ấm áp. Tsanka thường xuyên bị lạnh, cả ngày lẫn đêm, kể cả lúc đi cũng như lúc ngủ. Mọi thứ xung quanh đều trở nên lạnh lẽo, trong suốt, giá băng.
Tsanka rất ngạc nhiên: Dẫu có bao nhiêu người chết thì trong toa lúc nào cũng chật như nêm. Họ thường xuyên được bổ sung những người mới, hết người này đến người khác. Thoạt đầu, người ta còn muốn làm quen với nhau, đôi khi còn giúp đỡ nhau. Giờ đây, không còn chuyện đó. Chẳng ai quan tâm đến ai nữa. Mối quan hệ duy nhất của Tsanka là với những người Chechnya. Anh tìm kiếm họ, đôi khi đánh mất họ - vô cùng đau khổ, khi gặp lại - vui mừng khôn xiết.
Tuy nhiên, sau khi rời khỏi thành phố Magadan, hàng ngũ của họ trở nên thưa vắng dần. Đây là chặng đường khổ ải nhất trong suốt chuyến đi. Phải đi bộ. Đi rất chậm. Đi trong im lặng.
Từng ngày, con đường lại càng trở nên khó khăn hơn, vất vả hơn. Băng giá càng ngày càng tăng, càng lạnh. Con người chết ngay trên đường đi, liền bị đẩy ngay sang vệ đường. Khi con đường đi vào trong núi hay bên núi, Tsanka vô cùng ngạc nhiên nhận thấy đoàn người dài ghê gớm, chẳng nhìn thấy đầu cuối ở đâu. Chẳng lẽ tất cả mọi người trên thế gian đều bị lùa hết đến cái nơi cùng trời cuối đất, không có sự sống này sao?
Rõ ràng đây chính là địa ngục - Tsanka thầm nghĩ. Mà cũng có thể đó là nỗi khổ ải mà tất cả đều phải trải qua, phải chịu đựng với lòng tự trọng và danh dự. Nhưng chẳng có gì liên quan đến danh dự và tự trọng ở đây cả.
Con người biến thành thú dữ. Kẻ thù đáng sợ nhất chính là người đi bên cạnh mình. Tất cả lòng căm hận đều trút lên đầu người gần nhất. Có cảm giác, chính người bên cạnh được đi trên vệt đường tốt nhất, nhận miếng bánh mì ngon nhất, ít bị đấm đá nhất.
Sau vài ngày đi đường, các tù nhân được xem xét rồi chia thành từng nhóm lớn riêng biệt.
Một số bị để lại, số khác bị dẫn đi theo hướng khác, nhóm chính còn lại tiếp tục chặng đường. Các tù nhân và cả những người canh giữ họ đều mong ước đi cho hết chặng đường. Nhưng con đường vẫn tiếp tục, đơn điệu, hoang dã, buốt giá, không có đường, không có đồ ăn, không có quần áo ấm, không có niềm tin, nhưng có nỗi tuyệt vọng và cả tình yêu đối với cuộc sống. Ngay cả trong những điều kiện như thế, con người vẫn muốn sống. Dù có thế nào thì vẫn muốn sống.
Cuối cùng thì từ cái đám người ấy, còn lại khoảng gần một ngàn. Đã vài ngày qua họ không nhìn thấy bất cứ một dấu hiệu nào của sự sống con người. Không có đường, nhưng họ vẫn phải đi, lội trong tuyết đến đầu gối. Giờ đây, những người canh giữ họ quan tâm đến chính bản thân mình nhiều hơn, số phận của họ cũng chẳng hơn gì.
Một đêm, có một nhóm nhỏ tù nhân bỏ chạy về hướng ngược lại. Tuy nhiên, đến chiều hôm sau, một số người bỏ trốn đã phải quay lại. Họ vừa chạy vừa ngã, vừa vẫy tay và kêu la cái gì đó.
Đoàn người được lệnh dừng lại. Một số người canh giữ đi về phía những kẻ bỏ trốn. Một loạt đạn vang lên, tiếp theo là một vài phát súng ngắn riêng lẻ...
Đoàn người lại tiếp tục đi về hướng tây-bắc.
Việc đi lại càng ngày càng khó khăn hơn. Đội bảo vệ, phần lớn đi ngựa, giờ đây không còn ngựa nữa, chúng đã chết vì giá lạnh và thiếu thức ăn. Con nào chết đều bị ăn thịt. Những người bảo vệ được ăn trước, xương xẩu còn lại cho tù nhân. Việc ăn uống của đội bảo vệ được thực hiện một cách từ tốn và có mức độ. Các sĩ quan ăn uống có chọn lọc, tính toán và điều độ. Họ vừa ăn vừa uống một lượng rượu đáng kể. Sau các sĩ quan đến lượt các chiến sĩ bảo vệ, họ có quyền hạn cao hơn một chút so với các tù nhân. Đặc quyền duy nhất của họ là phải mang vũ khí, nếu như coi đó là đặc quyền đặc lợi. Nếu xét về khía cạnh tinh thần thì họ đang thực hiện nghĩa vụ công dân của mình.
Cảnh vật khắp nơi trơ trọi, các sĩ quan và chiến sĩ không có chỗ nào để che giấu bản thân, chính vì vậy mọi hành động của họ đều diễn ra ngay trước hàng ngàn cặp mắt đói khát và thèm thuồng của các tù nhân. Tất cả cứ như trong một vở diễn.
Ý thức được vị thế làm chủ và toàn quyền của mình, biết rõ mình đang là trọng tâm của mọi sự chú ý, các sĩ quan hành xử như các diễn viên. Tác phong đường bệ, nói năng trịnh trọng theo quan điểm của họ.
Trong ánh sáng của đống lửa lớn được đốt bằng chiếc xe ngựa tải, họ vung tay, ngửa đầu lên trời một cách cương quyết. Sau vài cốc rượu, sự mệt mỏi như biến mất, trong bụng như có ngọn lửa đang cháy, các cử động trở nên ể oải hơn, mặc dù vậy, những người cai tù không bao giờ đánh mất sự kiểm soát trong mọi tình huống.
Ngày thu ngắn ngủi phương Bắc nhường chỗ rất nhanh cho đêm dài ẩm ướt và lạnh lẽo.
Đống lửa lớn đã tắt, đội canh gác tổ chức chỗ trú quân khá cẩn thận. Giờ đây, buổi tối họ tập trung vào việc tự bảo vệ mình.
Trong lúc đó, các tù nhân cũng lặng lẽ tiến vào gần đống lửa để nhặt nhạnh những gì còn lại của bữa đại tiệc. Những kẻ liều lĩnh nhất hoặc đói nhất, thận trọng quan sát rồi tiến dần đến đống lửa đang lụi dần như những con chó núi.
Tsanka là một trong số những kẻ liều lĩnh nhất và đói nhất đó. Tất cả đều xúm quanh những gì còn sót lại của bữa ăn chiều. Một cuộc xô đẩy chen lấn nổ ra trong bóng tối. Không ai nói gì cả. Tất cả đều lặng lẽ lao vào nhau, hai tay cào trên mặt đất trầy trụa. Nếu như trên nền tuyết trắng hiện ra cái gì đó thì ngay lập tức một bàn tay của ai đó liền chộp lấy và bỏ ngay vào mồm, nhưng những bàn tay dữ tợn và tham lam khác cũng cào vào mồm, vào mắt và vào tai kẻ may mắn kia. Với đôi chân dài của mình, Tsanka là một trong số những người đầu tiên tiến đến đống lửa. Hai cánh tay dài như hai mái chèo của anh lạnh lùng vơ tất cả những gì còn lại. Tất cả những thứ mềm mềm, không cứng đều được anh nhét vào mồm, nhưng cũng chẳng có thời gian đâu mà nhai, lại càng không nghĩ đến chuyện ngửi hít, nhìn ngắm.
Đột nhiên, Tsanka vớ được một cục to, đầu óc quay cuồng vì mùi thịt tươi nướng. Anh dùng hai tay, đưa miếng thịt còn nóng nhét vào miệng và giữ chặt bằng hai hàm răng. Ngay lúc đó, một số người vây lấy cậu, những cú đấm vang lên. Tsanka cao ngồng vội giơ cùi chỏ ra chống đỡ, tay và răng vẫn giữ chặt miếng thịt. Đột nhiên, có những ngón tay dài, xương xẩu, móng sắc và lạnh như băng của ai đó móc vào xương đòn của Tsanka. Ba ngón tay như ba gọng kìm kẹp chặt lấy dẻ xương mảnh làm cho Tsanka như bị liệt hết mọi cảm giác, kể cả cảm giác về cái đói, từ từ lôi tuột Tsanka xuống. Miếng thịt đã bị giật mất, nhưng những ngón tay lạnh giá kia vẫn cứ tiếp tục lôi anh xuống. Khi Tsanka ngã vật lên lớp tuyết bẩn, anh cảm thấy một sự nhẹ nhõm vì đã được thả ra. Mọi người giẫm, đạp, đá vào người Tsanka, và tất cả đều diễn ra không một tiếng kêu la, nhưng vẫn nghe thấy tiếng động.
Những người áp giải đứng ngoài bắt đầu la hét, mấy phát đạn vang lên, thoạt đầu còn bắn lên trời, sau đó bắn thẳng vào đám người. Tất cả đều nằm rạp xuống đất, nhưng khi đã nằm xuống rồi mà cuộc giành giật vẫn tiếp tục. Lại thêm một loạt đạn nữa. Tsanka nghe thấy tiếng đạn rít đâu đó ngay bên cạnh. Những tiếng kêu la, rên rỉ bắt đầu vang lên.
Tsanka cố nằm ép xuống đất và cứ nằm mãi như thế khá lâu. Sau đó, anh nhìn thấy một bóng đen rời khỏi mặt đất rồi bước đi, anh vội bước theo ngay cái bóng đó. Họ đến gần chỗ đoàn người, giẫm lên cả những người đang nằm ngồi nhấp nhổm để chen vào giữa hàng, trùm lên người chiếc áo bông mỏng dính rồi nằm xuống mặt tuyết.
Chỉ đến lúc này Tsanka mới cảm nhận được miếng thịt còn lại trong mồm mình. Anh bắt đầu nhai một cách chậm rãi, tận hưởng sự khoái lạc.
- Ngon không! - Tsanka nghe sát bên tai tiếng thì thào của cái bóng vừa rồi, - Phải chia chứ.
Theo phản xạ Tsanka định xoay người, nhưng chưa kịp xoay thì những ngón tay lạnh như băng lại móc vào xương đòn của anh.
- Đưa đây! - Người bên cạnh rít lên, cơn đau càng mạnh.
Nhưng Tsanka đã nuốt xong miếng thịt, và trong cơn tức giận điên cuồng anh đấm tới tấp vào người đối thủ. Tên kia văng ra, nhổm dậy, chậm chạp bỏ đi, loạng choạng giữa những tù nhân đang nằm la liệt rồi mất hút trong bóng đêm.
Tsanka nằm ngửa trên tuyết thở hổn hển. Lần đầu tiên trong những ngày gần đây anh cảm thấy ấm áp, thậm chí nóng nực nữa.
Trận quyết đấu làm Tsanka bừng tỉnh. Hóa ra, trong cơ thể anh vẫn còn sự sống, vẫn còn sức lực. Tsanka nhìn thấy ngay trên đầu mình, bầu trời đen với hàng tỷ, hàng tỷ ngôi sao. Anh cứ nhìn mãi lên trời, thiếp đi. Ý nghĩ của Tsanka phiêu diêu về một nơi nào đó rất xa - rất xa. Thì cũng chính bầu trời đầy sao này anh vẫn thường nhìn thấy trên những rặng núi ở Chechnya quê hương mình. Chẳng lẽ anh phải đi bao chặng đường, chịu đựng bao khổ ải, vậy mà bầu trời và những ngôi sao ở đây cũng chẳng khác gì ở quê nhà. Nhưng đất đai thì khác hẳn, khí hậu cũng khác hẳn, xung quanh không có cuộc sống, không có hơi ấm, không có những con người nhân hậu, thế nhưng bầu trời và những ngôi sao thì y như vậy.
“Nhiều sao quá, - Tsanka thầm nghĩ, - có lẽ sau khi chết, linh hồn của chúng ta sẽ nhập vào những ngôi sao ấy. Dù là thiên đàng hay địa ngục thì điều đó cũng không phụ thuộc vào cách hành xử của chúng ta trên mặt đất. Miễn sao không có người Nga ở đó là được. Ôi, lạy thánh Allah, họ là những người gì vậy! Họ có bao nhiêu đất đai, cũng có sông, có biển, có núi. Cả thế giới là của họ! Nhiều đến thế! Vậy mà đối với họ vẫn còn ít. Chúng ta đã bị tiêu diệt, đất đai bị xâm chiếm, vậy mà vẫn còn ít. Bây giờ họ đang nắm trong tay tất cả. Một dân tộc kỳ lạ... Nếu như ở đây thánh Allah tạo nên các ngôn ngữ và các dân tộc, thì có nghĩa là ở đó các dân tộc phải sống tách biệt nhau ra. Người Chechnya sẽ có ngôi sao nhỏ của mình... Mà nói chung, nếu như ở đây chúng ta cùng sống trên một quả đất, có nghĩa là ở đó chúng ta cũng sẽ sống chung với nhau. Chỉ có điều, người tốt ở riêng, người xấu ở riêng. Có nghĩa là những người bị bắt giam sẽ sống với nhau, còn những người cai tù sẽ sống riêng. Có lẽ, đó chính là con đường để đi tới chốn Vĩnh hằng!”
Với những ý nghĩ cao siêu đó, Tsanka ngồi dậy, nhìn quanh:
- Ôi, lạy thánh Allah, - anh thốt lên, - chẳng lẽ tất cả cái đám vô lại này cũng sẽ lên đó với mình ư?!
Anh lại nhìn ra bốn phía, rồi nhìn xuống, đầu cúi gục.
- Nhưng bản thân mình thì hơn gì? Có thể thấy rõ, số phận của mọi người đã được sắp đặt giống nhau như vậy. Tốt hơn là hãy quên đi và chết đi, - vừa nghĩ, Tsanka vừa đưa tay ôm đầu gối và gác cằm lên đó. Những giọt nước mắt to tướng ứa ra từ đôi mắt đã nhắm lại...
Còn lâu lắm trời mới sáng, Tsanka cùng với một số tù nhân lang thang giữa những xác người bị bắn chết đêm qua và nhặt nhạnh cho mình những gì còn dùng được.
- Anh cho tôi chiếc áo len, tôi sẽ đổi cho anh đôi ủng. - Một người đàn ông nói với Tsanka.
Tsanka nhận ra giọng nói đêm qua. Đó là một người đã kiệt sức, chỉ có cặp mắt sâu hoắm màu xanh xám là lộ ra chút sức sống còn lại trong cơ thể.
- Có phải chính anh hôm qua đã cố bám lấy tôi?
- Thôi quên chuyện ấy đi. Tôi xin lỗi... Cuộc sống là một cuộc đấu tranh sinh tồn. Đôi ủng của anh nhỏ lắm. Chúng ta sẽ thỏa thuận thế này: tôi đổi ủng cho anh, nó rất vừa chân anh, còn anh đưa áo len cho tôi. Đằng nào thì chiếc áo len cũng ngắn đối với anh.
Tsanka đồng ý. Anh quẳng đôi ủng đã há mõm phải buộc dây nhợ chằng chịt của mình đi. Đôi chân sây sát đến tứa máu, các kẽ chân đầy những ổ nhiễm trùng.
- Ôi, ôi, anh bạn trẻ ơi! Đối với chúng ta bây giờ, đôi chân là quan trọng nhất. Không phải cái đầu, cũng không phải đôi tay, chỉ có đôi chân mới cứu được chúng ta thôi. Ban ngày, khi trời sáng hơn, tôi sẽ kiểm tra kĩ lưỡng đôi chân cho anh. Còn bây giờ, trước hết hãy lấy tuyết lau chùi thật sạch sẽ, rồi sát trùng lại bằng nước tiểu của mình... Phải, phải, bằng nước tiểu ấy. Sau đó, nhổ nước bọt vào những chỗ bị nấm, rồi cọ xát cho kĩ... Không, không, tôi không phải là bác sĩ đâu, chẳng qua là cha mẹ tôi và vợ tôi từng là bác sĩ... Lạy chúa tôi, chuyện gì đã xảy ra thế này?!
Lát sau, Tsanka xỏ chân vào đôi ủng còn khá tốt, đứng lên, ngắm nghía món đồ mới.
- Thế nào? Tốt hơn nhiều chứ? Tôi cũng cảm thấy ấm hơn. Này, tôi là Andrei Moiseevich, - người đàn ông chìa tay ra. - Bushman Andrei Moiseevich. Còn tên anh?
Tsanka giữ trong tay mình khá lâu bàn tay mềm và thon mảnh với những ngón dài của người đàn ông.
- Là Tsanka ạ. - Cuối cùng anh đáp.
- Cái gì? - Bushman hỏi lại và cố rút bàn tay về.
- Tsanka ạ.
- Xin lỗi vì câu hỏi không được tế nhị cho lắm, anh quê ở đâu?
- Tôi là người Chechnya.
- Nhưng ở đâu?
- Vùng Kavkaz. Bắc Kavkaz.
- Rõ rồi. Các suối nước khoáng nóng, Pyatigorsk. Người ta đồn, vùng đất ấy rất đẹp. Còn tôi là người Moskva, Tôi là nhà khoa học, nhà vật lý. Anh nói tiếng Nga cũng được đấy.
- Trước kia tôi đã ngồi tù ở Grozny. Trong phòng giam có nhiều người Nga, họ dạy tôi. Nhưng sao anh lại gọi tôi là “anh”, hay là anh xuất thân từ tầng lớp quý tộc?
- Ồ không, không, chẳng qua là thói quen trong gia đình tôi, một gia đình trí thức truyền thống. Chúng tôi xưng hô với cha mẹ phải có thưa gửi, còn cha mẹ gọi chúng tôi là anh, chị. Thôi, bây giờ chúng ta phải hòa vào đám đông ngay trong khi còn chưa muộn.
Trời vừa rạng, đoàn người tiếp tục lên đường. Họ đi, càng lúc càng chậm. Hầu như chẳng có gì để ăn nữa. Có thể thấy rõ, những người bảo vệ cũng đã mệt mỏi. Trời còn rất sớm nhưng đoàn người đã phải dừng lại để nghỉ đêm. Càng ngày thời tiết càng lạnh, rất lạnh.
Đến chỗ nghỉ, Tsanka lại tìm Bushman.
- Đây là Kolyma, vùng cực băng tuyết. Anh đã nghe nói đến bao giờ chưa?
- Chưa ạ, - Tsanka đáp. - Chẳng thà không biết còn hơn.
- Nhưng bây giờ mới chỉ là khúc dạo đầu thôi, chớm thu mà đã thế này, thì mùa đông còn khủng khiếp thế nào? Nhưng tôi cần phải sống! - Rồi Bushman nhìn Tsanka như để đánh giá. - Chúng ta cần phải sống. Anh phải luôn ở bên tôi, với hai người chúng ta sẽ vượt qua được.
Sau câu nói đó, Tsanka sực nhớ lại cú móc tay của anh ta.
- Nhưng bằng cách nào, chẳng lẽ bằng các ngón tay?
- Miếng đó ông nội tôi dạy đấy. Ông ấy cũng là bác sĩ. Cả gia đình tôi đều là bác sĩ, chỉ có tôi thành nhà vật lý.
- Nhà vật lý là thế nào? - Tsanka hỏi.
Nhà khoa học thậm chí phải nhăn mặt lại, thở dài, lẩm bẩm điều gì đó và biến ngay vào trong đám đông. Khi trời tối hẳn, Bushman lại xuất hiện.
- Tsanka, anh trẻ hơn tôi nên anh phải nghe tôi. Nếu đơn thương độc mã, chúng ta sẽ tiêu đời. Tôi cần một người đồng chí đáng tin cậy.
- Nhưng chẳng lẽ anh cứ phải gọi tôi bằng “anh” hay sao?.. - Tsanka cắt ngang nhà bác học.
- Thôi, anh muốn thế nào cũng được. Nhưng tôi già hơn. Tôi nghĩ như vậy là rất phù hợp.
- Trong ngôn ngữ của chúng tôi, không có kiểu xưng hô khách sáo, với tất cả mọi người, chúng tôi chỉ có một cách gọi.
- Chẳng lẽ với người lớn hay với lãnh đạo, cũng mày tao hay sao?
- Chúng tôi tôn trọng người lớn và lãnh đạo. Nhưng trong tiếng Nga, từ “anh” muốn dùng thế nào cũng được.
- Phải, rất logic. Anh khá lắm, Tsanka ạ. Tôi bắt đầu thích anh rồi đấy.
Bushman khẽ nắm khuỷu tay Tsanka đẩy sang bên.
- Nói nhỏ thôi, - Bushman thì thầm.
- Tôi quên mất tên anh rồi - Tsanka bối rối khẽ thốt lên. - Andrei phải không?
- Andrei Moiseevich, họ là Bushman. Chỉ có điều đừng nghĩ tôi là người Do Thái. Các cụ cố của chúng tôi là người Đức. Mà có thể... - Bushman phẩy tay. - Điều đó thì có gì quan trọng? Tất cả chúng ta đều là những kẻ bất hạnh và sinh vào thời khó khăn.
- Thế người Do Thái là ai? - Tsanka ngoảnh lại hỏi.
- Anh không biết người Do Thái à? - Bushman hỏi lại, rồi sau một lát ngẫm nghĩ, anh ta mỉm cười, có lẽ là lần đầu tiên sau nhiều ngày tháng qua. - Anh là người hạnh phúc, Tsanka ạ.
Những người bảo vệ chuẩn bị chỗ nghỉ đêm rất cẩn thận.
Trại của họ, như mọi khi, dựng ở trước đoàn người và chia thành hai nhóm. Trong nhóm trại tốt hơn là bộ phận chỉ huy, nhóm kia là của chiến sĩ và bộ phận hậu cần. Trong trại này có một không khí sôi động, nghe cả những tiếng trò chuyện vui vẻ.
- Hôm nay họ sẽ ăn con ngựa cuối cùng. Có nghĩa là ngày mai, hoặc chậm lắm là ngày kia chúng ta sẽ đến nơi, - Bushman nói nhỏ vào tai Tsanka, - Hôm nay chúng ta sẽ phải hành động khác hôm qua.
- Khác thế nào? - Tsanka ngạc nhiên.
- Trong mọi trường hợp, cần phải hành động một cách khôn ngoan. Anh hiểu chứ? Đó là nguyên tắc thứ nhất. Nguyên tắc thứ hai là kiên nhẫn.
- Có nguyên tắc thứ ba không? - Tsanka hỏi.
- Rất tiếc là có. Đó là sự may mắn.
Mọi việc diễn ra giống như hôm qua. Những người bảo vệ bắn gục con ngựa cuối cùng, đốt đống lửa to. Các tù nhân kiệt quệ vì khói và lạnh, chăm chú theo dõi bữa đại tiệc. Khi những người bảo vệ đã no nê, thỏa mãn, bố trí người ở lại canh gác rồi tản về các lều trại, thì những người tù tuyệt vọng nhất, kẻ thì khom người chạy, kẻ thì bò tới chỗ thức ăn thừa. Tsanka, cố nuốt nước bọt cũng muốn chạy về hướng đó, nhưng Bushman đã cương quyết giữ anh lại.
- Hãy cố chờ. Đằng nào thì bây giờ chúng ta cũng không kiếm được cái gì đâu. Mà họ sẽ bắn như vãi đạn vào lũ gà gô vậy. Đối với họ, cuộc sống của chúng ta chẳng có nghĩa lý gì.
- Nhưng tôi chết đói đến nơi rồi, tôi muốn ăn. Cho họ bắn. Tôi sẽ bò đến.
- Ngồi yên đấy, Tsanka, chúng ta phải hành động khôn ngoan. Anh hãy tin tôi.
Trên nền trời bợt bạt có thể nhìn thấy các hình bóng đen đen chạy lung tung quanh đống lửa sắp tàn. Những người tù không còn bò từng người nữa mà lao từng tốp vào cái chỗ từng là một bữa ăn. Những tiếng la hét, rên rỉ, ồn ào bắt đầu vang lên. Càng có thêm nhiều người mới, kiệt sức vì đói lao vào tranh giành miếng ăn. Đến lúc đó thì những phát đạn rít lên. Một cảnh tượng xô đẩy nhốn nháo, cùng những tiếng thét, tiếng rên rỉ và những câu chủi bới như xé toạc sự tĩnh lặng vĩnh cửu và không có sự sống hàng ngàn năm nay. Cái khối đen đen chạy dạt trở ra. Lát sau, một sự im lặng chết chóc bao trùm khắp cảnh vật, chỉ duy nhất một giọng mảnh mai yếu ớt, gần như là trẻ con kêu lên: “Mẹ ơi, mẹ ơi, cứu con! Hãy cứu con!”.
Khi Bushman ra hiệu hành động thì Tsanka đã thiếp đi, người cuộn tròn vì lạnh.
- Dậy đi. Tỉnh dậy đi. Đêm còn dài lắm, chúng ta sẽ ngủ trong chăn ấm nệm êm.
- Như thế nào? - Tsanka ngạc nhiên.
- Im lặng, đi theo tôi.
Cả hai lặng lẽ ép sát đất, nối đuôi nhau bò về phía đống lửa đang tàn. Đến nơi, Bushman phân công:
- Anh lấy bộ da ngựa, tôi sẽ lấy hai ống xương chân.
- Để làm gì? - Tsanka sửng sốt.
- Không có thời gian giải thích đâu. Làm đi, nhanh lên.
Họ cuộn bộ da ngựa còn dính máu lại, thu nhặt các ống xương vứt gần đấy rồi quay lui. Tấm da nặng đến nỗi Tsanka phải cố gắng lắm mới bước đi nổi. Hai lần anh bị ngã rồi lại đứng lên. Mấy cái xác tù nhân bị bắn chết nằm lộn xộn. Đột nhiên có ai đó dùng tay tóm chặt lấy hai chân Tsanka. Hoảng hồn vì bất ngờ, Tsanka ngã ngửa lên người Bushman bám sát theo sau.
- Người anh em ơi! Người anh em ơi, xin đừng bỏ tôi! Xin hãy cứu tôi! Tôi xin anh! - Một người tù bị thương vừa năn nỉ vừa ôm chặt lấy chân Tsanka.
Tsanka lặng lẽ cố gạt ra, nhưng anh không đứng dậy được và cũng không thể thoát khỏi con người đáng thương đó. Vừa lúc ấy Bushman kịp tới, vung khúc xương ống chân lên giáng vào đầu người bị thương một cú.
- Anh làm gì thế? - Tsanka hoảng hồn.
- Thế còn anh, anh định vác cả người này nữa hả?! Trong khi còn chưa muộn, hãy cố mà ăn uống và sưởi ấm đi. Thể hiện tình người hả, - nhà bác học rít vào tai Tsanka, - Sáng mai những kẻ khốn nạn này cũng sẽ bị bắn hạ nếu như họ không tiếc đạn. Chẳng lẽ anh chưa bao giờ để lộ ra, mình cũng là con thú hay sao?! Tất cả đều là thú dữ hết. Nếu muốn, anh có thể ngồi lại mà khóc than... Còn bây giờ, đứng lên, đi mau.
Một lát sau họ đã ngủ, cả người cuộn tròn trong tấm da ngựa. Lâu lắm rồi, Tsanka chưa được hưởng một cảm giác hoan lạc đến như thế. Anh cảm thấy ấm áp, chỉ có đôi chân phải ngọ ngoạy trong giá lạnh. Lần đầu tiên sau nhiều tháng, Tsanka có một giấc mơ ngọt ngào, về nhà, mùa hè, ấm áp, có mẹ, bà con họ hàng, vợ và các con. Tất cả đều tươi đẹp và dễ chịu... Bushman lay vai, đánh thức Tsanka dậy.
- Dậy đi, dậy đi. Nếu họ nhìn thấy chúng ta với tấm da ngựa này, thì cả phe này lẫn phe kia cũng sẽ giết chúng ta ngay.
Tsanka hoàn toàn không muốn rời xa cái chỗ ấm áp như thế này.
- Anh có muốn ăn không? - Bushman hỏi.
Câu hỏi ngay lập tức làm Tsanka tỉnh hẳn.
- Có. Nhưng ăn cái gì?
- Tôi có một cái cưa nhỏ. Chúng ta sẽ cưa cái xương ống ra rồi hút tủy. Anh đã bao giờ ăn tủy xương chưa?
- Dĩ nhiên rồi, - Tsanka đáp, - Ở chỗ chúng tôi, đó là món ngon đấy.
- Nếu vậy thì dậy và làm đi. Tôi đã mất hai mươi phút rồi mà vẫn chưa xong, chỉ cắt vào tay thôi. Có thể anh làm được. Dù sao thì anh cũng trẻ khỏe hơn. Nào, nào... Còn cái tấm da kia thì quẳng đi.
Mọi sự nỗ lực của họ chẳng mang lại kết quả gì. Chiếc cưa bé tí rất cùn. Đến sáng, họ đành phải quay về chỗ đoàn người với hai bàn tay bị thương tóe máu.
- Có cần phải lấy nước đái sát trùng tay không? - Tsanka châm chọc.
Bushman lặng lẽ bỏ đi.
- Bây giờ tốt nhất là anh nên lấy nước đái sát trùng cái đầu của mình ấy. - Tsanka hét theo nhà bác học.
Trời sáng, đoàn người được dẫn đi tiếp. Phải khó khăn lắn họ mới vượt qua nổi một con dốc cao, và khi đi xuống, trước mắt họ hiện ra một thung lũng trắng toát, tĩnh lặng và mênh mông. Một nhánh sông nhỏ chia thung lũng ra làm hai phần. Tuyết phủ trên băng trông tối hơn, và từ trên cao có thể nhìn rõ lớp băng đã đóng rất chắc ở khắp nơi. Cách xa con sông, thấp thoáng hình dạng bé xíu của những công trình gì đó. Trông chúng chẳng ăn nhập chút nào với quang cảnh hùng vĩ nơi đây. Có cảm giác, những công trình đó như từ trên trời rơi xuống, xiêu vẹo và không có sự sống. Nhưng đoàn người đang hướng về phía đó, và theo dự đoán của họ, đó không thể là cái gì khác mà chính là chỗ ở.
Hàng năm, vào mùa xuân, dòng sông Sibir nhỏ bé biến thành một dòng sông lớn. Nước tuyết tan từ phương nam chảy qua bao núi đồi, thung lũng tiến về phương bắc, đổ ra biển. Ở phương bắc, trời vẫn còn rất giá lạnh, khi đó dòng nước từ miền nam mang theo sự sống, sức mạnh và khát vọng đổ xuôi về khoảng không gian mênh mông. Hai sức mạnh thiên nhiên đập vào nhau như hai kẻ thù, như hai anh em, như trắng và đen, như cuộc sống và cái chết, như tiếng động và sự tĩnh lặng. Và như mọi khi, cuộc sống luôn ca khúc khải hoàn: tất cả vạn vật đều bừng tỉnh, hít thở và đơm hoa kết trái.
Trải qua nhiều thế kỷ, sức mạnh thiên nhiên của dòng nước đã khai phá cho mình con đường đến với biển cả, xuyên qua các thung lũng và hẻm núi. Những hẻm núi ấy ngày càng được mở rộng hơn, sâu hơn và mênh mông hơn. Mặt trời sáng chói thấp lè tè chiếu sáng khắp vùng thung lũng rộng lớn này. Không khí lạnh lẽo và trong veo. Ở khoảng cách rất xa có thể nhìn thấy rất rõ những đỉnh núi phủ đầy băng tuyết, xa nữa vẫn còn nhiều dãy núi khác, nhiều kinh khủng. Vùng đất này không có giới hạn và bến bờ. Và trong cái khoảng không mênh mông này không có sự sống. Chỉ có tuyết, băng giá, lạnh lẽo và sự tĩnh lặng... Và đột nhiên con người xuất hiện. Những con người kiệt sức, lạnh cóng và đói lả, những con người không có tự do, những con người bị săn đuổi.
Bất chấp gió lạnh, mọi người đều dừng lại quan sát. Tất cả đều hiểu, đây chưa phải giới hạn, sau quả núi này sẽ bắt đầu con dốc, một con dốc dựng đứng, trơn tuột, đối với ai đó thì ngắn, nhưng với người khác thì dài, còn với người khác nữa thì đó là con dốc cuối cùng của cuộc đời. Họ ngoái lại phía sau với chút hy vọng.
Nhưng phía sau chỉ là sự tĩnh lặng, một sự tĩnh lặng vô tận, lạnh lẽo, nặng nề. Nhưng dù sao thì phía sau vẫn tạo cho họ cảm giác về quê hương thân yêu và ấm cúng.
Tsanka nhớ về những ngọn núi quê hương. Chúng đẹp làm sao, gần gũi và ấm áp làm sao. Chúng biến đổi nhịp nhàng, uyển chuyển: đầu tiên là những rặng núi thấp màu đen, sau đó là những rặng cao hơn, sáng hơn, được che phủ bởi những cánh rừng sồi và dẻ gai, xa nữa là những đồng cỏ trên dãy Alpes, và cuối cùng là những đỉnh núi cao, nhọn, thân thuộc, đầy kiêu hãnh và phủ đầy tuyết trắng. Đằng sau những đỉnh núi ấy, sự sống lại bắt đầu. Ở đó cũng có những con người như họ. Còn ở đây, sau các đỉnh núi chỉ thấy đỉnh núi, tất cả đều giống nhau, lạnh lẽo, phủ đầy băng tuyết, tròn tròn. Phía trước không có sự sống!...
Một giọng nói khàn khàn, thô lỗ ra lệnh:
- Đi đi! Nhanh lên, mẹ mày!
Đoàn người lại nặng nề chuyển động về phía những công trình xa tít đang sẫm lại. Một lát sau mọi người đã bắt đầu nhìn thấy rõ hơn. Từ hai, ba cái ống, một làn khói mỏng manh màu lam xám bốc lên. Chẳng lẽ đó là nhà ở? Không, đây là chốn khổ sai khắc nghiệt. Nhưng dù sao thì đó cũng là nhà ở. Trong đó chắc hẳn phải ấm áp và tiện nghi hơn là dưới bầu trời trống trải...
Từ rất lâu rồi, những kẻ tìm vàng đều biết vùng đất này có rất nhiều vàng sa khoáng. Thượng đế biết rất rõ, mình đã chia không công bằng mảnh đất này cho người hạ giới nên để bù lại, ngài đã ném xuống đây vô số các mạch vàng. Từ bấy đến nay, người đời đã mất ăn mất ngủ, xéo nát vùng đất bao la này trong cuộc tìm kiếm những mảy vàng.
Tuy nhiên, mùa hè ngắn ngủi và mùa đông khắc nghiệt đã không cho phép người ta khai thác dễ dàng vùng đất chết này. Mảnh đất Kolyma đã giết chết nhiều người, mặc dầu vậy, từng đoàn người mới, ham thích sự phiêu lưu và một cuộc sống giàu sang vẫn đổ xô đến vùng đất khác thường này.
Nhưng với sự xuất hiện của chính quyền Xô viết, tất cả đã thay đổi. Vàng và tất cả những thứ còn lại phải thuộc về những người được chọn lọc. Trong số “những thứ còn lại” ấy có cả cuộc sống con người và số phận của họ.
Chính quyền đã biến một công việc lãng mạn, khát vọng hiểu biết và tinh thần dũng cảm của con người thành công việc lao động cưỡng bức. Những người nhiệt tình, và không chỉ có họ, được gọi chung là các cán bộ thăm dò địa chất được đưa đến Kolyma để tìm vàng. Ngay cả ở đây, trong vùng đất băng giá vĩnh cửu này, con người cũng phải làm việc dưới sự giám sát và kiểm tra của Ban bảo vệ chính trị quốc gia.
Vậy là đã có một đoàn tìm kiếm thăm dò địa chất phát hiện ra các điểm có vàng dọc theo nhánh sông nhỏ. Một nghị quyết về việc khai thác mỏ vàng được ban hành. Vào mùa hè, khi dòng sông đầy nước, người ta chặt gỗ trên thượng nguồn, đóng bè thả xuôi xuống, xây dựng cơ sở để khai thác thứ kim loại quý đó. Việc đầu tiên là xây dựng hàng rào cao và những cánh cổng kiên cố. Đồng thời chở đến đây những vật dụng sinh hoạt cho lãnh đạo và bộ phận phục vụ. Công việc cuối cùng là lực lượng nhân công, tức là những người tù. Để phục vụ cho đối tượng này, ban đầu người ta cho xây dựng ba cái lán gỗ khổng lồ, nhưng vẫn chưa xong. Chính vì vậy mà đoàn tù vừa được đưa đến đã được tổ chức lại, thậm chí chưa kịp cho ăn, chưa kịp nghỉ ngơi đã phải bắt tay ngay vào việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các khu lán trại.
Tsanka và các bạn tù của anh là những người tù đầu tiên được đưa đến vùng đất này. Không có một trật tự và tổ chức nào hết. Cũng không có bất cứ điều kiện làm việc nào chứ chưa nói đến điều kiện sống. Những người tù, trút hết mọi nỗi bực tức và căm giận của mình lên đầu nhau. Suốt ngày đêm, không lúc nào không có chuyện va chạm, đánh nhau, giết người.
Sáng hôm sau, tất cả bị lùa vào nhà tắm. Trong căn phòng nhỏ tối tăm, lạnh lẽo, không thể nào tắm nổi, họ bị bắt cởi hết quần áo ra và thay quần áo khác. Giờ đây, nhìn bề ngoài họ giống nhau như đúc. Quần áo, kích cỡ được thiết kế cho người có vóc dáng trung bình, vì vậy mà trông Tsanka thật đáng sợ trong bộ trang phục đó: tất cả đều ngắn ngủn, chật cứng và bó sát vào người.
Tsanka cứ nghĩ, điều kiện sống cũng giống như ở nhà tù Grozny, nhưng giờ đây anh mới hiểu, đây là một nơi hoàn toàn khác, thời buổi cũng đã khác, ở đây có luật lệ riêng, trật tự riêng. Những người tù được phân ngay theo các nhóm tù chính trị và thường phạm. Mặc dù Tsanka, theo hồ sơ vụ án là tù chính trị, nhưng mọi người đều biết anh chẳng liên quan gì đến chuyện chính trị. Ngay từ ngày đầu, Tsanka chọn cái vị thế độc lập.
Nguyên nhân quan trọng nhất gây nên mọi nỗi hiềm khích chính là cái lò sưởi bằng sắt nằm ở giữa lán. Các tù thường phạm chiếm ngay chỗ nằm bên lò sưởi, sau đó mới bắt đầu làm sáng tỏ một cách tàn khốc mối quan hệ để hành xử với nhau. Những vụ đánh nhau diễn ra thường xuyên, chuyện giết người xảy ra như cơm bữa. Ban đêm, trong bóng tối không ai có thể biết trước được điều gì, chủ yếu là những vụ đánh lén sau lưng. Tất cả, chẳng khác gì những chú gà trống hăng máu, chọi nhau không phải để sống mà để chết. Mỗi một lời nói ám chỉ, một cái nhìn hằn học, một cử chỉ đều có thể gây nên sự bùng nổ và tức giận điên cuồng.
Ngay từ ngày đầu tiên, Bushman đã tìm chỗ nằm bên cạnh Tsanka. Chỉ đến tận bây giờ Tsanka mới có điều kiện ngắm nhìn kĩ cái con người nhỏ bé và yếu ớt bẩm sinh này. Ánh mắt cận thị của Bushman lờ đờ, hoảng hốt quan sát mọi ngóc tối trong lán. Tuổi anh ta khoảng ba lăm-bốn mươi, cái đầu hói dài, đôi tai vểnh ra trông như được dán vào đầu, chẳng những thế chúng còn rất to và mũm mĩm nữa, còn cặp mắt màu cánh dán vừa lồi vừa to.
- Tsanka, chẳng lẽ chúng ta sẽ phải ngủ ở đây, ngay sát vách? Chỉ sáng mai thôi là chúng ta đã ngoẻo rồi.
Tsanka không nói gì cả. Tình trạng bế tắc và tuyệt vọng choán ngợp tâm trí. Anh cảm thấy đau đớn, nặng nề và sợ hãi: anh hiểu, mình sẽ không trụ nổi ở đây trong năm năm. Tsanka đánh mất niềm tin vào chính bản thân mình, vào cuộc sống, vào tương lai, hoàn toàn rơi vào tâm trạng tuyệt vọng. Lúc nào Tsanka cũng bị lạnh. Chút đồ ăn ít ỏi, tồi tệ đã đầu độc cái cơ thể vốn suy kiệt của anh. Tsanka dửng dưng với tất cả, làm mọi việc một cách vô thức, và cũng như mọi người khác chỉ chờ đêm xuống. Đến tối, phải khó khăn lắm Tsanka mới mò về được chỗ của mình, đổ vật xuống và thiếp đi ngay, không kịp cởi tháo bất cứ thứ gì trên người, chẳng những thế, còn lôi những tấm giẻ gì đó quấn vào đầu, vào chân.
Đêm, Tsanka mơ về ngôi nhà ruột thịt, về mẹ, về vợ con và dòng họ. Giấc mơ chính là cứu cánh duy nhất của anh trong cuộc sống kinh tởm này. Tuy nhiên, như thế vẫn chưa đủ. Cái cơ thể rã rời của anh không thể nào bình phục nổi. Không có ngày nào, không có giờ nào được nghỉ ngơi. Tất cả mọi việc phải làm theo mệnh lệnh. Mà Tsanka, cũng như những người Chechnya khác, đều không muốn đi theo hàng, sống trong các ngăn. Tuy nhiên, thế giới nội tâm của Tsanka chẳng làm ai bận tâm. Bất cứ sự chống đối nào cũng bị trừng trị nghiêm khắc. Những người vi phạm sẽ bị tống vào xà lim. Chỉ sau một tuần, người ta lôi từ xà lim ra con người sống dở chết dở, tê cóng, không đứng nổi trên hai chân, không thể đi lại, thậm chí cũng không thể ăn uống gì được nữa. Chính vì vậy mà Tsanka phải kìm nén những cảm xúc của mình lại, phải sống như đám đông bị tù tội, bị mất mọi quyền, như nhưng con người-nô lệ bình thường khác.
Hai tuần đầu họ tập trung vào việc ổn định chỗ ở: tiếp tục xây dựng và hoàn thiện những chỗ còn dang dở. Trong thời gian này, mối quan hệ của họ cũng bắt đầu thay đổi. Người nào có nghề nghiệp chuyên môn, hay tháo vát, có học như Bushman thì được xếp vào chỗ ấm hơn. Bushman may mắn hơn tất cả mọi người - anh ta gần như trở thành người kế toán - thư ký cho những người làm thuê tự do. Những người này cũng sống trong khu vực của trại, nhưng điều kiện sống tốt hơn nhiều so với đội bảo vệ và dĩ nhiên là cả người tù. Những người làm thuê phải trực tiếp sàng lọc từ số quặng mà các tù nhân đào lên để tách ra vàng.
Bushman muốn tìm cách bố trí cho Tsanka một chỗ nằm ấm hơn, nhưng sự thất học và nguồn gốc xuất thân từ vùng Kavkaz của Tsanka không tạo được niềm tin đối với lãnh đạo. Hơn thế nữa, như lời một vị lãnh đạo trại, những kẻ như Tsanka mà được “ngủ ấm” thì ai sẽ đào quặng.
Lãnh đạo trại, theo như cách đoàn khảo sát gọi ông trong năm đầu tiên, là một người dân sự, cũng giống như Bushman, là dân Moskva và cũng là nhà vật lý. Bushman đã khôn ngoan thiết lập được mối quan hệ với ông kia và nhận được không ít ân huệ, bất chấp sự phản đối từ phía các cán bộ quân sự. Một tháng sau, Bushman trở thành người phụ trách gian nồi hơi và không còn ngủ trong lán chung nữa mà ngủ riêng trong một phòng xép, nhưng vẫn phải ăn chung với các tù nhân.
Thời gian này, Tsanka, cũng như hầu hết các tù nhân, bắt đầu được thả “tự do”.
Nhiệm vụ của tù nhân là phải đào được một giỏ đất đóng băng và mang về trại. Việc đào quặng được tiến hành bằng phương pháp lộ thiên. Đối với lớp đất đá đóng băng, cuốc chim cũng chẳng nghĩa lý gì. Với đôi tay tê cóng, mỗi nhát cuốc dội vào cơ thể một cơn đau âm ỉ.
Sáng sáng, những người tù kiệt sức phải vất vả lắm mới tha nổi những chiếc giỏ to tướng, thô kệch và nặng trịch đến nơi làm việc. Quặng đá được đào dọc theo vách khe. Ở đây, theo đánh giá của các nhà địa chất, có một vỉa quặng vàng rất giàu chạy ngang qua. Vỉa quặng có chiều dày hơn ba mét. Có thể đào từ bên dưới, dọc theo vách khe, hay đào sâu vào trong vách. Chỉ có điều không nên leo lên trên vỉa quặng, mà cũng chẳng ai muốn và có thể leo lên nổi.
Những ngày đầu, các tù nhân còn bị vài người bảo vệ canh gác tại chỗ làm và hai cán bộ địa chất là những người làm thuê hướng dẫn cho cách đào vỉa. Sau đó, lãnh đạo nhận ra rằng, việc bảo vệ các tù nhân bên ngoài khu trại là không cần thiết, chỉ cần xua các tù nhân ra khỏi cánh cổng mở toang là đủ. Ỏ đây không có chỗ nào để chạy trốn cả. Những người tù chỉ mong một điều duy nhất là trời mau tối để quay về cái trại hôi thối đầy rận của mình.
Mặc dù vậy vẫn có hai vụ bỏ trốn. Nhóm thứ nhất có bốn người, sau này được tìm thấy vào mùa xuân, cách khu trại khoảng hai mươi cây số, cơ thể của họ đã bị thú dữ gặm sạch. Nhóm thứ hai có hai người, nhưng ngay trong đêm họ đã phải quay lại. Những kẻ bỏ trốn chết cóng vì lạnh, la hét ầm ĩ, đập rầm rầm vào cổng để xin được vào. Những người lính gác leo lên chòi canh nhìn họ. Mệnh lệnh được ban ra, không được bắn và cũng không cho họ vào. Sáng sớm, khi mở cổng ra, hai người tù đã chết cứng trong tư thế ngồi xổm co quắp, ôm chặt lấy nhau ngay bên cánh cổng. Mấy người lính phải lấy xà beng và báng súng mới tách được hai khối thịt đóng băng ấy ra rồi mang đi đâu đó.
Trên vùng đất đáng sợ này, điều quan trọng nhất không phải là cuộc sống, cũng chẳng phải là cái chết, lại càng không phải là danh dự và lương tâm, mà chính là chỉ tiêu kế hoạch. Kế hoạch được trình lên lãnh đạo, sau đó được phổ biến đến từng đội và cuối cùng đến từng người tù. Dù giá lạnh khủng khiếp hay bão tuyết, mỗi sáng cánh cổng vẫn mở ra để những con người bất hạnh, kiệt quệ, bị hủy hoại tinh thần phải mang về trại những giỏ quặng vàng.
Buổi chiều, cánh cổng hé ra một chút, đủ để từng người tù lách vào. Ở đây, ngay lối vào có lính gác và nhân công làm thuê tự do, họ kiểm tra mức độ đầy vơi của giỏ quặng. Nếu số lượng quặng mang về không đủ theo định mức kế hoạch, người tù sẽ bị tống vào xà lim lạnh lẽo cho đến sáng hôm sau và không được ăn chiều. Đây là hình phạt nặng nề nhất trong năm đầu tiên.
Đến cuối tháng Mười một, gió không còn thổi nữa. Vào lúc giữa trưa, mặt trời mới bắt đầu chậm chạp nhô lên ờ đường chân trời cứ như là cố tình trêu tức con người vậy. Băng giá mỗi ngày một mạnh. Trong các lán trại trống hoác, vào lúc gần sáng khi lò sưởi đã tàn, cái lạnh không sao có thể chịu đựng nổi. Mọi người ốm đau, chết dần chết mòn.
Những người tù như biến thành thú dữ, tất cả đều căm ghét lẫn nhau. Chẳng ai thèm quan tâm đến ai, mỗi người chỉ nghĩ về bản thân. Tuy nhiên Bushman, đôi khi trong lúc ăn sáng hay ăn chiều cũng tìm gặp Tsanka và cho anh một ít thuốc lá sợi hay khúc bánh mì. Một lần Bushman đưa Tsanka về cái buồng xép của mình, cho anh uống trà nóng, sưởi ấm, và điều quan trọng nhất là cho anh một mảnh vải bạt. Tsanka dùng miếng vải ấy để đắp hàng đêm, nó đã giúp anh chống chọi với giá lạnh. Tuy nhiên, chỉ sau vài ngày, mảnh vải biến mất, và Tsanka phát hiện ra nó ở chỗ tên thủ lĩnh tù thường phạm có biệt danh là “Phệ”. Chỗ nằm quan trọng nhất là ngay bên lò sưởi, một bên là trưởng lán do lãnh đạo trại bổ nhiệm, bên kia là tên Phệ với con chó cái của mình đắp chiếc chăn không biết lấy ở đâu ra, bên trên lại thêm tấm vải bạt nữa.
Vào thời gian này Tsanka đã thích nghi với hoàn cảnh, nỗi tuyệt vọng và bế tắc, cùng với những ý nghĩ màu hồng về quê nhà cũng biến mất dần. Tsanka có cảm giác, cuộc sống ở đâu cũng chỉ như thế này, anh không thể hình dung nổi một cuộc sống khác. Tsanka chỉ chờ đợi một điều - mùa hè tới, thời tiết ấm áp và được ăn no hơn. Tsanka tin chắc, nếu sống qua mùa đông, đến mùa hè anh sẽ được trả tự do, tất cả sẽ được thả. Các cấp lãnh đạo cao nhất không hề biết về tình trạng lộn xộn và vi phạm luật pháp ở đây. Đến mùa hè thì mọi việc sẽ được sáng tỏ, tất cả sẽ được trả tự do, còn những kẻ bóc lột họ sẽ bị trừng trị. Giờ đây, Tsanka cũng như mọi người khác, ban ngày thì cố làm theo sức của mình, còn ban đêm thì cố bò đến chỗ nằm và chìm vào giấc ngủ mê mệt. Tận dụng tuổi trẻ và sức lực, trong mọi trường hợp Tsanka đều biết cách hành động một cách khôn ngoan. Anh đã hoàn toàn định hướng được trong mọi hoàn cảnh.
Tsanka biết, xung quanh tên Phệ có các bạn tù thường phạm của hắn và chúng sẽ không để yên nếu thủ lĩnh của chúng bị xúc phạm. Tsanka không dại gì mà hành động một cách mạo hiểm, lộ liễu. Anh biết, vào bất cứ lúc nào chúng cũng có thể bóp cổ hoặc cắt cổ anh. Tsanka chờ đợi, đồng thời dùng ánh mắt và cử chỉ khiêu khích tên tù thường phạm kia vào cuộc ẩu đả, nhưng mọi việc đã diễn ra khác hẳn.
Một lần vào buổi chiều, khi Bushman mang vào trong nhà ăn cho Tsanka một ít thuốc lá sợi, đám tù thường phạm liền vây lấy họ.
- Này, cái đồ lang thang rác rưởi kia, mày định câu kết với thằng mọi rợ này hả?
Chúng gây sự với nhà vật lý.
- Đưa đây! - Tên Phệ xấc xược giật gói thuốc sợi khỏi tay Bushman.
Trong cơn giận dữ điên cuồng, Tsanka lao vào tên cầm đầu. Cuộc ẩu đả kéo dài không lâu, ngay từ cú đánh đầu tiên Tsanka đã quật tên Phệ ngã lăn xuống đất, tuy nhiên một tên tù khác đã kịp tròng vào chiếc cổ dài của Tsanka một chiếc thòng lọng và siết chặt. Tsanka đã gần như ngất xỉu, khi đó sự việc lại kết thúc một cách rất bất ngờ. Mấy người bảo vệ đột nhiên xuất hiện và vây lấy họ. Bushman vội biến ngay, còn hai tên tù Trong cơn giận dữ điên cuồng, Tsanka lao vào tên cầm đầu. Cuộc ẩu đả kéo dài không lâu, ngay từ cú đánh đầu tiên Tsanka đã quật tên Phệ ngã lăn xuống đất, tuy nhiên một tên tù khác đã kịp tròng vào chiếc cổ dài của Tsanka một chiếc thòng lọng và siết chặt. Tsanka đã gần như ngất xỉu, khi đó sự việc lại kết thúc một cách rất bất ngờ. Mấy người bảo vệ đột nhiên xuất hiện và vây lấy họ. Bushman vội biến ngay, còn hai tên tù thường phạm và Tsanka bị lôi ra sau nhà ăn và bị đánh cho một trận. Đến tối, Tsanka lại bị đánh một trận nữa, bốn người đánh rất dã man, không thương tiếc, thừa sống thiếu chết.
Nhưng Tsanka đã sống sót. Sáng hôm sau anh vẫn còn đủ sức lê tới nhà ăn, cố tìm Bushman, ánh mắt họ gặp nhau. Bushman liền bỏ bữa sáng, đi ra, mười phút sau quay lại cùng với hai y sĩ trong số các tù nhân.
- Arachaev, đi ra. - Họ gọi, và Tsanka sống dở chết dở được đưa vào trạm y tế.
* * *
Hàng loạt những sự cố bi thảm đã đưa đẩy Tsanka đến hoàn cảnh sung sướng. Thậm chí anh cũng không ngờ trên vùng đất đã bị Thượng đế lãng quên này lại có một góc thiên đường. Tsanka được tận hưởng sự yên tĩnh, ấm áp, việc điều trị cho anh được tiến hành một cách chậm rãi.
Lãnh đạo trạm y tế là ông Semisastny Oleg Leonidovich, một bác sĩ chuyên nghiệp dân sự làm thuê. Cũng giống như Bushman, bác sĩ là người Moskva, nhiệt tình và khá lãng mạn. Theo tiếng gọi của Đảng, ông xung phong đi về những vùng xa xôi hẻo lánh để tìm kiếm những cuộc phiêu lưu và những phát minh mới. Hàng năm, vào mùa xuân ông đều chuẩn bị về Moskva, về nhà, thăm mẹ, nhưng cứ mỗi lần như thế lại xảy ra một chuyện gì đó giữ chân ông lại. Đầu tiên, dĩ nhiên là chuyện rượu chè, chính vì thế mà một người độc thân như Semisastny, không bị ràng buộc bởi một gánh nặng nào thế mà đã mười lăm năm lang bạt trên khắp các vùng đất Sibir và Viễn Đông mênh mông.
Khi Semisastny nhận được thư mẹ, hoặc là ông hôn lá thư hoặc là khóc, rồi viết thư trả lời mẹ với những lời lẽ ấm áp, biết ơn nghĩa sinh thành, và ông cương quyết rũ bỏ tất cả để quay về nhà, về Moskva. Nhưng năm nào chuyến đi của ông cũng bị trì hoãn, còn ông thì càng ngày càng lún sâu vào rượu. Tay nghề điều trị của ông thuộc vào loại sơ khai nhất đến mức ông sợ phải quay về đại lục. Tuy nhiên, nỗi buồn nhớ về Moskva, về những con phố thân yêu vẫn còn nguyên vẹn trong tim, và giờ đây, tình cờ gặp Bushman giữa chốn này, họ kết bạn ngay lập tức. Bushman kể cho bạn nghe rất nhiều và rất chi tiết về Moskva, về công cuộc xây dựng thành phố và cả những thay đổi. Hầu như những cuộc trò chuyện của họ đều diễn ra vào ban đêm với những cuộc nhậu đã đời. Bushman, ngay lập tức nắm bắt được bản chất sự việc, liền vẽ ra một cuộc sống ở thủ đô như người ta mong ước, đôi khi cũng nhầm lẫn lung tung trong những câu chuyện phiếm của mình. Ngay cả khi Semisastny phát hiện ra những chi tiết vô lý nào đó thì cũng chẳng làm cho Bushman lúng túng. Anh ta lại dễ dàng chuyển đề tài sang lĩnh vực nhà hát, dạ hội, hòa nhạc, khi đó cả hai lại chìm đắm vào sự quên lãng, bắt đầu mơ mộng, rồi đọc thơ, khe khẽ hát các ca khúc về thủ đô.
Hai người trạc tuổi nhau, chính vì vậy mà họ dễ dàng nhanh chóng kết thân. Lãnh đạo đoàn thăm dò địa chất biết được điểm yếu của người phụ trách y tế, nhưng vì là một trí thức dân sự nên ông cũng tỏ ra rộng lượng đối với những hành động của Semisastny.
Chính nhờ cái tình bạn ấy mà Tsanka được đưa vào trạm y tế trong điều kiện được ưu đãi đặc biệt. Việc điều trị không vội vàng và hết sức cẩn thận. Khi Tsanka đã bình phục và có thể đi lại, anh được giao phụ trách công tác sưởi ấm. Công việc chẳng dễ dàng chút nào. Do việc xây dựng nhà ở được tiến hành một cách vội vàng nên ngôi nhà không giữ được nhiệt, bởi vậy mà Tsanka lúc nào cũng phải để mắt đến củi lửa trong các lò sưởi. Tuy nhiên công việc này chẳng thể so nổi với với những công việc ngoài trời. Chỉ nghĩ đến chuyện phải quay về khu lán trại tập thể là Tsanka đã run bắn lên vì sợ. Mỗi khi có dịp gặp Bushman, Tsanka đều cám ơn anh ta vì chốn thiên đường này.
Cuộc sống trong trại đã làm thay đổi Bushman. Giờ đây Bushman gọi Tsanka bằng “cậu”, tính cách trí thức và nguyên tắc của anh ta cũng biến đâu mất. Bushman kiếm được đôi kính ở đâu đó, quần áo và giày ủng thuộc loại khá tốt đối với tù nhân.
- Tsanka, cậu đừng lười biếng quá đấy. Nên nhớ là ở đây chúng ta không phải là thánh thần, và chẳng có ai yêu quý chúng ta đâu: kể cả cái đám thô bỉ kia, - anh ta hất đầu về phía trại lính, - và cả cái lũ súc sinh quái thai kia nữa, - Bushman quay đầu về phía các lán tù. - Còn tôi cũng phải chạy hết hơi như con sóc trong bánh xe.
Có lần, vào lúc đêm khuya, Bushman vào trạm y tế. Ông bạn Semisastny đã uống say và đang ngủ. Bushman cố gắng gọi bạn dậy nhưng vô ích, khi đó Bushman liền gọi Tsanka vào phòng riêng của trưởng trạm y tế. Tsanka không dám uống nhiều, chỉ nhấp từng tí một vì sợ xảy ra chuyện rắc rối.
- Nào, uống đi, - Bushman nói với Tsanka và rót rượu cồn nguyên chất vào cốc của anh. - Cậu có biết nhiệt độ ngoài trời là bao nhiêu không? Âm sáu mươi độ! Âm sáu mươi độ đấy! Vậy mà con người vẫn bị xua đi làm việc... Tất cả chúng ta sẽ chết hết ở đây. Tất cả sẽ chết rũ ở đây.
Bushman bẻ một miếng bánh mì đưa cho Tsanka.
- Ăn đi.
Cả hai im lặng nhai. Im lặng rất lâu, mỗi người chỉ nghĩ về mình.
- Tại sao cậu bị tống đến đây? - Cuối cùng Bushman phá vỡ sự im lặng.
Tsanka kể vắn tắt cho Bushman nghe về vụ việc cay đắng và phi lý của mình.
- Thế đấy, chuyện của tôi cũng vậy, - Bushman gật gật đầu. - Chỉ có điều tôi bị ai đó tố giác. Tôi là nhà vật lý... là nhà khoa học, yêu thích công việc của mình. Tôi đã đến gần cái phát minh của mình. Cả thế giới chắc chắn sẽ phải nói về tôi... Mọi thứ đã xong xuôi. Tất cả. Mà tôi kể cho cậu nghe chuyện này làm gì nhỉ, cậu có hiểu gì đâu... Những kẻ đố kị, tất cả chỉ vì những kẻ đố kị. Tôi đã đặt chân lên bậc cửa của một phát minh vĩ đại. Lý thuyết của tôi sẽ làm nên một cuộc cách mạng, một bước ngoặt quan trọng trong vật lý và trong khoa học nói chung.
Tsanka lặng lẽ nhai bánh mì và gật đầu liên tục. Anh nhìn thấy trong đôi mắt kính dày của Bushman ngọn lửa đèn dầu đang nhảy múa, có cảm giác đó không phải là hình ảnh phản chiếu của ngọn lửa mà chính đôi mắt Bushman đang cháy.
- Tôi là nhà khoa học, nhà vật lý. Chỗ của tôi không phải ở đây. Tôi cần cho khoa học, tôi cần cho đất nước. Tại sao họ lại không hiểu điều đó nhỉ? Lý thuyết của tôi là một tư duy hoàn toàn mới, một cái nhìn hoàn toàn mới.
- Thế tại sao anh lại rơi vào đây, Bushman? - Đến lượt Tsanka hỏi nhà vật lý bằng một giọng kính nể.
- Tố giác. Một vụ tố giác sơ đẳng. Mà lại từ một người bạn đồng khóa, Leshka Pashkevich... - vừa nói Bushman vừa nhổ một bãi nước bọt, vẻ kinh tởm. - Đúng là đồ súc sinh! Nhưng chính tôi là người có lỗi trong mọi chuyện. Chẳng những thế, hắn còn quyến rũ vợ tôi nữa, hắn sống với vợ tôi và tống cổ tôi đến đây.
- Quyến rũ là thế nào? - Tsanka ngạc nhiên. - Thế mà anh để yên cho hắn à?
- Phải, phải, để yên. Thậm chí tôi còn vui mừng nữa. Đồ chó cái vô lại, tham lam! Chắc là cô ta đã đưa hết công trình của tôi cho hắn... Thật ghê sợ! Tôi đã đến gần một phát minh vĩ đại. Mọi việc đã sẵn sàng.
- Thế anh có con không?
- Cái gì? À, có, có, con gái. Đến tháng Hai này là mười tuổi. - Một nụ cười thoáng qua bên khóe miệng Bushman.
Tsanka vô cùng ngạc nhiên. Lần đầu tiên anh nhìn thấy Bushman cười.
Từ một người cận thị khô khan, Bushman biến thành một người chất phác, nhân hậu.
- Con gái tôi đáng yêu lắm. Tên nó là Anetska. Tôi chỉ nhớ nó và mẹ tôi thôi.
- Mẹ anh năm nay bao nhiêu tuổi rồi?
- Mùa hè này là năm mươi sáu.
- Khi anh ra tù, bà ấy đã ngoài sáu mươi, còn con gái anh sẽ thành cô dâu.
- Đồ ngốc. - Bushman lại nổi nóng. - Cậu chẳng hiểu cái quái gì cả. Cậu có biết là chúng ta đang ở nơi lạnh nhất trên trái đất không? Cậu có biết là chúng ta không có bất cứ một mối dây liên lạc nào với phần còn lại của thế giới không? Chỉ đơn giản là vì lũ chó địa chất đã phát hiện ra rất nhiều vàng ở đây, vậy là chúng ta bị lùa đến đây như những tên nô lệ. Họ chỉ cần vàng, chỉ vàng thôi, - bằng một giọng đã nhừa nhựa, Bushman thì thầm vào tai Tsanka và giơ một ngón tay chỉ lên trời. - Chẳng ai thèm quan tâm đến cuộc sống của chúng ta. Cậu hiểu chưa?
Bushman lại với tay về phía chai rượu, rót cho đến giọt cuối cùng.
- Chẳng bao lâu nữa cái của quý này cũng không còn. Ở chỗ lãnh đạo có một thùng. Họ bảo cũng gần hết rồi, may ra chỉ cầm cự đến mùa hè. Cậu có hình dung nổi không, thậm chí gửi thư từ đây cũng không được. Tất cả chúng ta ở đây đều bị cầm tù, ngay cả những người kia cũng vậy. - Vừa nói Bushman vừa chỉ vào vị bác sĩ đang ngủ.
Cả hai lại lặng lẽ uống. Bushman lấy thuốc lá ra, cuộn hút.
- Cậu đã ngồi ở đây lâu rồi nên không biết chuyện gì đang xảy ra ở đấy đâu.
- Tôi biết, - Tsanka nói. - Tôi nhìn thấy những người bệnh được đưa tới đây trong tình trạng như thế nào.
- Cậu chẳng biết gì hết. Ở chỗ cậu và chỗ tôi, củi sắp hết rồi, bởi vậy mà sáng mai họ sẽ bắt hai bệnh nhân đi lấy củi cùng với chúng ta. Nhân tiện, cậu có biết, người ta không cấp củi cho các lán trại tù nhân nữa? - Nhà vật lý hỏi rồi đứng dậy.
- Sao lại không cấp? Thế họ sẽ đốt lò sưởi bằng cái gì?
- Hàng ngày đi làm họ nhặt nhạnh những bụi cây, mang về.
- Bụi cây gì? - Tsanka ngạc nhiên.
- Cậu đã đi đào quặng rồi, cậu phải biết rõ hơn tôi chứ.
Tsanka lặng lẽ cúi đầu, thở dài.
- Không sao đâu, anh bạn trẻ ạ, sáng mai đi lấy củi, tôi sẽ chỉ cho cậu thấy.
Hôm sau họ phải đi đến tận ranh giới của khu vực khai thác. Nơi này tù nhân không được đến. Có hai người lính áp giải đi theo. Ngoài trời băng giá rất mạnh, lạnh đến mức Tsanka phải vất vả lắm mới nhấc nổi chân, không thể đi nhanh được. Mọi người quấn kín trong quần áo, chỉ để hé ra đôi mắt để nhìn đường. Con đường tưởng như dài vô tận. Cuối cùng họ cũng đến nơi. Một đống gỗ tròn bám đầy băng tuyết nằm lăn lóc, rất khó tách chúng ra. Mọi thao tác đều ể oải, yếu ớt, chẳng mang lại kết quả gì. Không thể làm việc được.
- Nếu chúng ta không lấy được củi thì sẽ phải quay lại khu trại để đi đào quặng. Cậu hiểu chứ? - Bushman rít vào tai Tsanka.
Dốc hết sức lực, vận dụng tất cả xương khớp đã bị tê cóng, Tsanka đè mạnh lên một cây gỗ. Cây gỗ to tướng bị gãy ngay ở giữa như một que diêm. Họ phải vất vả lắm mới nhấc nó lên nổi và khiêng đi. Làn không khí giá lạnh như đốt cháy đôi mắt và lớp da quanh mắt, nước mắt ứa ra, thở rất khó khăn.
Ngày hôm ấy họ phải đi năm chuyến, chuyến cuối cùng không có lính áp giải nữa. Khi đó Bushman kéo Tsanka đi theo mình. Họ đi vòng qua đống củi và trước mắt họ mở ra một bức tranh kinh hoàng: xác người chất thành đống, những cái xác còn nguyên vẹn hoặc bị đứt gãy, có thể nhìn rõ những cái tay, chân, nửa thân người riêng biệt. Mặc dù đã quen với những cái chết của người khác, nhưng Tsanka vẫn bị chấn động mạnh. Quên cả giá lạnh, anh đứng như hóa đá. Cuối cùng, khi Bushman lấy tay đẩy, Tsanka đổ vật xuống như cây gỗ cứng đơ. Chuyến cuối cùng mọi người phải khiêng Tsanka về thay cho cây gỗ để làm củi... Trên nóc nhà ăn, một làn hơi nước bốc lên, các tù nhân ăn uống sau một ngày làm việc, mùi thức ăn nồng nặc.
Suốt cả tuần, ngày nào họ cũng phải đi vác gỗ, sau đó nhiệt độ hạ thấp xuống âm sáu mươi hai độ. Đó chính là giới hạn sức chịu đựng của con người, với nhiệt độ lạnh như vậy, tất cả vạn vật đều ngừng hoạt động hoàn toàn. Không ai dám bước ra ngoài trời, nói cho đúng hơn là không ai dám đi làm. Ngay cả lãnh đạo cũng cho rằng, trong băng giá ác liệt như vậy mà bắt con người phải làm việc là vô nhân đạo.
Cuộc sống như chết lịm, tất cả đều bị tê cứng. Trong các lán trại, mọi người bị lạnh và đói. Những người tù phải đốt cả phản nằm của mình và tất cả đồ đạc vặt vãnh để sưởi. Nhà ăn không làm việc. Người ta phải ăn đủ thứ: chó, mèo, chuột. Nghe đồn, những người tù còn ăn thịt lẫn nhau nữa. Trong khi đó, băng giá càng ngày càng dữ dội, tất cả đều biến thành băng, đều bị kết tinh. Vạn vật xung quanh chỉ còn lại một màu trắng toát, tinh khôi, trong suốt, không có sự sống, chỉ có trong các lán trại ọp ẹp là trái tim của những con người bất hạnh vẫn còn đập. Họ muốn sống, họ muốn đấu tranh để sinh tồn, họ căm thù tất cả, nhất là những người bên cạnh.
Từ trước khi xảy ra đợt băng giá dữ dội, trưởng trạm y tế Semisastny và nhà vật lý Bushman đã có một cuộc nhậu rồi cãi nhau kịch liệt. Họ uống vào buổi tối, tranh luận ầm ĩ về cái gì đó, cuối cùng Bushman gọi bác sĩ là một nhân cách nông cạn và nhỏ nhen. Trưởng trạm ý tế tức điên lên, dọa sáng hôm sau sẽ viết báo cáo yêu cầu lãnh đạo đoàn thăm dò địa chất chuyển ông bác học-bất hạnh đi khỏi bộ phận nồi hơi về lại khu trại để đào quặng. Lời đe dọa ngay lập tức làm Bushman tỉnh rượu, anh ta vội quỳ xuống xin lỗi, khóc lóc, hôn hít bác sĩ. Nhưng khi Bushman càng ăn năn hối lỗi thì Semisastny lại càng tức giận: vị bác sĩ hét toáng lên, đạp chân, nhổ cả nước bọt lên người nhà vật lý.
- Anh mà là nhà khoa học? Anh, nhà bác học vĩ đại? Đồ hèn mạt phản cách mạng. Ngày mai, ngay ngày mai, khi rạng đông, không khí trong lành, tôi sẽ nghe anh hót. - Trưởng trạm y tế đã say hét lên bằng một giọng the thé. - Đồ súc sinh, đồ chó chết trí thức.
Nghe tiếng ồn, hai y sĩ trong số các tù nhân chạy lại, tiếp theo là Tsanka, nhưng mọi người đều sợ, không dám thò đầu vào phòng riêng của trưởng trạm.
- Anh Semisastny, anh Semisastny! Xin anh hãy xá tội! Tôi rất xin lỗi! Anh hiểu nhầm tôi rồi, mà cũng có thể là do tôi diễn đạt không chính xác. - Bushman rên rỉ ai oán, bất kể mọi cú đạp và nhổ bọt, giống như một con chó trung thành đang liếm chân xin lỗi chủ.
- Tống cổ nó ra khỏi đây! Quẳng nó đi. - Semisastny hét lên với các y sĩ.
Không để bác sĩ phải nhắc lại lần thứ hai, các nhân viên cấp dưới trung thành nhảy vào, thô bạo tóm lấy cổ nhà vật lý thảm hại kéo ra cửa, vừa kéo vừa lấy hết sức đấm đá cho anh ta một trận. Tsanka đứng bên cửa, ngây người như khúc gỗ, há hốc miệng, mắt trợn ngược vì khiếp hãi, không dám thốt một lời.
- Còn mày, đứng đấy làm gì?! - Trưởng trạm y tế quay về phía Tsanka, - Cái sào chọc cứt này, sáng mai cũng quay về trại. Hiểu chưa?
Sau khi đã giải quyết xong với Bushman, hai y sĩ quay lại phòng trưởng trạm, khúm núm chờ đợi lệnh mới. Một người đến gần Tsanka, lạnh lùng chính thức tuyên bố:
- Mày còn đứng đấy làm gì nữa? Không hiểu người ta nói gì à? Thu dọn giường bệnh đi, sáng mai xuất viện.
Trưởng trạm y tế vẫn còn hăng, bắt đầu đập phá lung tung. Các y sĩ, để làm vừa lòng bác sĩ, chạy loăng quăng theo anh ta, nhặt những thứ bị ném và bị đập vỡ lên.
- Chúng mày còn ở đây làm gì nữa? Bọn do thám chưa bị lộ mặt kia! Đồ phản bội Tổ quốc! Tất cả chúng mày lẽ ra phải bị xử bắn, bị treo cổ hết mới phải. Sáng mai, tất cả chúng mày cũng phải ra ngoài không khí trong lành làm việc... Hiểu chưa? Thôi cút đi! - Một chiếc ca nhôm cùng với rượu bay vào đầu một y sĩ.
Tsanka đứng cách phòng bác sĩ chỉ hai bước chân, khuôn mặt tái ngắt, cả người run bắn lên, đất dưới chân như biến mất, hai tay nắm chặt vì kinh hãi. Tình cờ Tsanka đã chứng kiến tất cả, cậu nới lỏng nắm đấm ra và khẽ nhếch mép. Khi các y sĩ như những con chó con bị đòn đi ngang qua, Tsanka nắm lấy cổ áo một người, quật mạnh vào tường, bóp chặt cổ, ngón cái ấn mạnh vào yết hầu.
- Thế nào, sáng mai chúng ta sẽ cùng quay về lán chứ? - Tsanka rít lên, nhìn chằm chằm vào cặp mắt ướt lồi ra vì đau và hoảng sợ của người y sĩ.
Thật may cho tất cả mọi người là trạm trưởng y tế còn say một ngày một đêm nữa trong phòng mình: anh ta đang trong cơn thèm rượu. Nếu không có chỉ đạo bằng văn bản của trưởng trạm, không ai có quyền cho xuất viện hay nhập viện. Qua một ngày nữa, thời kỳ băng giá ác liệt bắt đầu xảy ra. Mọi hoạt động đều ngừng trệ. Mỗi khu nhà phải sống bằng cuộc sống tự trị của mình. Bushman không dám ló mặt ở trạm y tế nữa.
Theo thông lệ, cứ sau mỗi cơn nghiện, bác sĩ Semisastny lại trở nên lặng lẽ và niềm nở. Bác sĩ cảm thấy không được khỏe, bị bệnh. Nỗi buồn chán như gặm nhấm cơ thể ông. Vốn là một người năng động, nhiệt thành, bác sĩ yêu thích sự lãng mạn và không gian thoáng đãng, còn giờ đây, bị giam hãm không chỉ trong khu vực khai thác, mà cả trong bốn bức vách của trạm y tế, bác sĩ như đánh mất chính bản thân mình và sự yên bình. Một lần vào buổi sáng, bác sĩ định đến nhà các sĩ quan, nhưng băng giá dữ dội đã bắt ông phải quay về. Hai ngày sau, xảy ra điều đáng sợ nhất - rượu cồn trong trạm y tế đã hết. Khi đó, Semisastny cho gọi một trong số các y sĩ của mình tới.
- Cần phải kiếm được rựợu ngay lập tức! Tôi đã viết sẵn đơn cho lãnh đạo đoàn đây. Nhanh lên, nhanh lên.
- Nhưng thưa bác sĩ, xin anh xem lại. Ngoài trời băng giá khủng khiếp, tôi không thể đi tới nơi được. Mà có tới, người ta cũng không cho tôi vào khu vực dân cư, người y tá phân bua. - Vì tôi là tù nhân mà.
- Chạy đi! Chạy đi! Hiểu chưa? Bệnh nhân cần phải thay băng. Về chuyên môn, anh là nhà y, anh đã tuyên thệ rồi. Băng giá thì có liên quan gì ở đây? - Bác sĩ tức giận. - Nếu anh không thể đến được khu dân cư thì hãy quay về khu lán trại, ngay lập tức... Chuẩn bị đi, nhanh lên, đừng quên mang theo bình đựng đấy.
Người y sĩ không quay về, vài ngày sau, người ta tìm thấy xác anh ta đóng băng cứng ngắc cách trạm y tế khoảng một trăm mét, gần cổng kiểm tra, ranh giới phân chia giữa khu vực tù nhân với khu vực nhân công thuê mướn và binh lính. Hôm sau, Semisastny cho gọi Tsanka tới, bắt cậu đến gặp Bushman.
- Cái lão lang bạt ấy chắc là vẫn còn rượu. Tôi quá biết nhà bác học ấy. - Bác sĩ nói. - Một tên trộm vặt bất hạnh, một thiên tài không gặp may, một con người vĩ đại, một tài năng bẩm sinh bốc mùi thối hoắc. - Bác sĩ tiếp tục xỏ xiên.
- Nhận tiện, cậu lôi hắn về đây, bắt hắn mang hết rượu tới, nếu không chúng tôi sẽ phải vây bắt đấy. Cứ nói với hắn như thế... Nào, nhanh lên, nhanh lên, - bác sĩ tống Tsanka ra cửa với một chiếc chăn.
Cánh cửa vừa hé ra, một làn hơi lạnh trắng toát ùa ngay vào hành lang.
- Mang hết về đây. - Bác sĩ đẩy người tù ra khỏi cửa, gọi với theo, rồi sập cửa lại.
Dù chỉ để hé ra một khe nhỏ cho đôi mắt, Tsanka vẫn cảm thấy hơi lạnh như thiêu đốt toàn bộ lớp da tay và da mặt đã được quấn kín. Nước mắt ứa ra, dường như không thể thở được nữa. Tsanka đi rất chậm. Đoạn đường ngắn biến thành con đường xa tít. Cuối cùng Tsanka cũng đến được khu nồi hơi với đôi chân tê cứng. Bushman sống trong buồng xép trên tầng hai. Chiếc cầu thang bằng gỗ dẫn lên trên phủ đầy băng tuyết rất trơn và nguy hiểm. Đôi chân và đôi tay tê cứng không tuân theo ý muốn nữa. Tsanka phải vất vả lắm mới leo lên được vài bậc, nhưng không trụ nổi, ngã lộn nhào xuống đất. Anh cố ngồi dậy và lại leo lên. Đôi chân tê cóng như của người khác, không chịu nghe theo, đôi tay quấn kín trong các lớp giẻ cũng chẳng giúp được gì, và Tsanka lại bị rơi xuống, đập vào tay vịn cầu thang làm nó gãy răng rắc, văng ra tứ tung.
Tsanka cứ nằm mãi trên tuyết, không đứng dậy nổi, hơi thở đứt quãng, tim đập thình thịch. Anh nghĩ, có lẽ phải quay về, rồi đưa mắt nhìn quanh, nước mắt ứa ra, mọi vật như nhòe đi, bồng bềnh. “Vậy là kết thúc. Thế là hết?! Chẳng lẽ mình sẽ nằm lại trong cái đống xác chết này sao? Chẳng lẽ không có ai mai táng mình? Cầu nguyện cho mình? Thật khốn nạn! Mình sẽ chẳng có nổi một nấm mồ, dù ở đây hay ở nhà... Nhưng mình muốn sống. Muốn sống!” - Vừa nghĩ, Tsanka vừa chậm chạp dồn hết nghị lực vào hai nắm tay, bám vào vách tường đứng lên một lần nữa, tiến lại gần cầu thang. Đúng lúc đó Tsanka nghe thấy có tiếng đập gì đó ở phía trên.
- Tsanka, có phải cậu không? Cố lên! - Giọng nói yếu ớt của Bushman vọng xuống. - Cánh cửa bị kẹt cứng rồi.
Giọng nói của người sống đã khích lệ tinh thần Tsanka, anh cố bò lên nhưng không nổi, chỉ nằm vật ra trên các bậc cầu thang đóng băng lạnh ngắt. Từ phía trên bỗng vang lên tiếng kẹt, những viên băng nhỏ xíu bay tung tóe, cánh cửa mở ra và Bushman xuất hiện. Anh ta không cố kéo Tsanka lên trên mà bằng một động tác dứt khoát xô đổ cánh cửa phòng nồi hơi ở tầng dưới rồi lôi Tsanka vào. Trong phòng ấm hơn ngoài trời, Bushman cố xoa bóp, chà xát cơ thể, mặt mũi, chân tay Tsanka. Sau đó, khi Tsanka đã tỉnh lại họ mới thận trọng leo lên trên, vào cái phòng xép của nhà vật lý.
Lửa trong lò sưởi đã tắt từ lâu, nhưng trong phòng dù sao cũng ấm cúng hơn bên ngoài. Bushman châm cây đèn dầu, Tsanka ngạc nhiên quan sát xung quanh. Tất cả đều ngăn nắp và sạch sẽ: trên tường có các giá sách tự làm bằng gỗ với một số sách vở và giấy in, trong góc có chiếc bàn nhỏ phủ tấm vải trải bàn cũ nhưng sạch sẽ, góc bên kia có chậu rửa tay, bên trên treo bức tranh cổ động với câu khẩu hiệu gì đó, cạnh đấy có chiếc khăn mặt của lính móc trên cái đinh, còn ở chỗ trang trọng và dễ thấy nhất là bức chân dung Stalin lồng trong khung gỗ.
- Cái này lấy ở đâu ra vậy? - Tsanka ngạc nhiên hỏi.
Bushman đang loay hoay bên bếp lò, đáp:
- Tôi đổi cho bọn lính. - Anh ta đáp và bật diêm lên.
Một ngọn lửa nhỏ bắt đầu nhảy múa trong chiếc lò sưởi bằng sắt. Căn phòng trở nên sáng sủa hơn và sinh động hơn. Tsanka nở một nụ cười thích thú, cảm thấy một không khí ấm cúng gia đình, anh thả lỏng người nằm xuống chiếc phản gỗ được phủ bằng hai chiếc chăn dày, đôi chân dài chạm vào vách tường, hai tay kê dưới đầu. Tsanka hít một hơi dài, hai mắt díp lại lúc nào không hay.
- Tsanka, dậy đi, dậy đi. - Bushman khẽ lay vai. - Dậy uống trà.
Tsanka tỉnh dậy, cảm thấy rất thoải mái và dễ chịu. Lần đầu tiên trong nhiều tháng qua, anh mới cảm thấy mình được an toàn đến thế. Tsanka khoan khoái vươn vai, ngáp thật to, từ trong lồng ngực phát ra một tiếng rên thích thú: “A-a-a!” - Cậu ngáy như tráng sĩ vậy! - Bushman cười mỉa.
- Tôi ngáy? - Tsanka hỏi lại, đứng lên đưa cặp mắt đói khát nhìn khắp bàn.
Trên chiếc bàn nhỏ, trong mấy chiếc cốc thủy tinh nhiều cạnh lấp loáng màu nâu đỏ của trà đậm, cạnh đó, trong chiếc đĩa kim loại có khoanh bánh mì đen sấy khô, miếng đường nhỏ màu trắng và mùi rượu cồn thoang thoảng.
- Nào, trước hết hãy uống một chút đã. - Bushman chìa cho Tsanka chiếc ca nhôm.
Cả hai im lặng uống. Một dòng hơi ấm bổ ích của rượu chạy khắp cơ thể dài thượt và gày nhom của Tsanka.
- Uống trà đi, trong khi còn chưa nguội, cả đường nữa, trong khi vẫn còn, hãy tận hưởng sự tự do, - Bushman nở một nụ cười hà tiện, nói.
Cốc trà nóng như thiêu đốt bàn tay tê dại của Tsanka, anh thích thú nắm chặt cốc trà trong tay, nhấp từng ngụm nhỏ để kéo dài sự khoan khoái.
- Dùng đường đi, dùng đường đi. - Bushman lấy đầu ngón tay khẽ đẩy miếng đường về phía Tsanka.
- Không, không, cám ơn anh. Tôi không muốn. Tốt hơn là tôi ăn chút bánh mì.
- Ăn nữa đi. - Nhà vật lý cúi xuống gầm phản lôi bình rượu ra, rót vào cốc.
Họ thích thú uống một lượt nữa, phà hơi rượu vào lòng bàn tay khá lâu, rồi hít miếng bánh mì sấy. Trong lò, cái gì đó kêu lách tách, ngọn lửa lụi dần, bên miệng lò ấm nước đang sôi, tay ấm bị gãy được thay bằng sợi dây thép.
- Cho thêm củi nữa chứ? - Tsanka đề nghị.
- Hiện giờ thì không, cứ để nó cháy hết đã, - vừa nói nhà vật lý vừa cúi xuống gầm phản lôi ra hai, ba thanh củi đặt cạnh cạnh lò.
Chỉ đến bây giờ, Tsanka mói nhận ra phần bên dưới gầm phản được che bằng một tấm vải hoa. Bushman không bỏ qua ánh mắt ngạc nhiên của Tsanka, liền nói:
- Cậu biết rồi đấy, ở đây có thể kiếm được mọi thứ, chỉ trừ tự do.
Họ uống thêm trà, nước thứ hai, dẫu vậy vẫn nóng và ngon vô cùng. Tsanka chậm rãi kéo dài sự sung sướng, nhấm nháp bánh mì đen với trà đặc, sự khoan khoái hiện rõ trên nét mặt. Sau đó, không kìm nổi, Tsanka tránh ánh mắt nhà vật lý, dùng mấy ngón tay thô kệch của mình chộp miếng đường trắng, thèm khát cắn một miếng. Cậu mút mút mẩu đường, nhai nhóp nhép rồi chiêu ngụm trà nhỏ, mắt vẫn không dám nhìn lên.
Tsanka bị đánh gục hoàn toàn, đôi vai, hai cánh tay thõng xuống bất lực, chiếc cằm càng gục thấp hơn nữa, và òa khóc như một đứa trẻ... Bushman lấy thuốc lá ra, cuốn một điếu, châm vào ngọn đèn dầu hút. Những đốm lửa trong lò chỉ còn le lói, Tsanka bước lại gần, ném một thanh củi vào lò, thanh thứ hai, với tay định lấy thanh thứ ba.
- Đủ rồi đấy, - Bushman khẽ nói, - cần phải tiết kiệm củi. Không biết đến bao giờ thì đợt băng giá này mới tan. Nhưng dù có cầm cự đến đâu thì cậu cũng thấy rồi đấy, củi ở trong khu vực chúng ta hết rồi. Không còn lấy ở đâu được nữa. Hoặc là chúng ta phải đốt hàng rào, hoặc là phải sang quả núi bên kia để lấy củi...- một khoảng lặng nặng nề, cả hai đều thở dài nặng nhọc. - Chắc là phải sang quả núi thứ hai. Cậu không đến đấy nữa phải không, số lượng củi càng ít thì số xác chết càng nhiều.
- Tại sao họ không chôn cất? Tại sao không mai táng?
- Lúc đầu người ta cũng định lấy đá lấp lại, nhưng công việc rất nặng nhọc, còn bây giờ thì không thể làm được nữa rồi, cậu thừa biết, đất bị đóng băng còn cứng hơn sắt nữa. Suốt một ca làm việc mà các cậu cũng không đào nổi ba cân quặng. Còn bây giờ, sau đợt băng giá này, lại càng ít hơn... Mà nói chung, ai quan tâm đến chuyện chôn cất chúng ta? Cậu tưởng, người ta mang chúng ta đến đây là để mai táng trong danh dự và âm nhạc hả? - Bushman bực bội nhếch nửa miệng cười cay độc. - Trong các lán trại đang xảy ra bệnh hoại huyết. Cậu có biết đó là gì không?
Tsanka im lặng gật đầu. Một sự im lặng nặng nề kéo dài. Thanh củi trong lò đột nhiên bùng lên, ngọn lửa soi rõ những khuôn mặt rầu rĩ, xám ngắt. Những đốm sáng nhảy nhót trong đôi mắt kính dày của nhà vật lý thu hút sự chú ý của Tsanka. Anh có cảm giác như có một lớp da được căng bên ngoài chiếc xương sọ, rồi móc lên đó cặp kính dày gọng nâu. Tsanka cứ nhìn chằm chằm vào nhà vật lý, và chỉ đến lúc này mới nhận ra, cặp kính này là của một kẻ bỏ trốn, sau đó phải quay về chết cóng sau cánh cổng khu trại. Tsanka lại hình dung ra đống xác người, anh cảm thấy kinh tởm căn phòng này và tất cả mọi thứ trên thế gian. Ngay lập tức tình yêu và mối thiện cảm đối với Bushman bỗng biến mất, anh ta trở nên đáng sợ và đáng ghét đối với Tsanka. Tuy nhiên, Tsanka không nói gì cả, chỉ im lặng ngẫm nghĩ về việc gì đó xa lắc xa lơ mà giờ đây anh sẽ không bao giờ đạt được. Một nỗi buồn sâu sắc choán ngợp tâm trí, Tsanka đứng dậy, khom người bước lại tấm phản, nằm ngửa lên đó và bắt đầu hát bằng một giọng ai oán. Anh hát bằng tiếng Chechnya, hát về những ngọn núi quê hương, về người thân, về gia đình, về tình yêu và nỗi buồn, bài hát buồn thảm và ai oán đến mức Bushman phải lắc đầu, rồi khóc nức lên, một giọt nước mắt đơn độc chảy theo gò má nhô cao rồi đông lại... Sau đó hai người lại uống tiếp, rồi uống tiếp nữa, rồi ép sát vào nhau, thiếp đi mê mệt trên tấm phản nhỏ. Ngọn đèn dầu phừng lên và lụi dần, ngọn lửa yếu ớt trong lò hắt ánh sáng lên bức vách như chơi trò trốn tìm.
Xung quanh tĩnh lặng, tĩnh lặng.
* * *
Tsanka tỉnh dậy vì quá lạnh. Bushman đang loay hoay bên lò, hút thuốc, phả ra những đụm khói lam đọng thành từng lớp trong phòng. Ngọn đèn dầu đang cháy, tỏa ra một quầng sáng đỏ quạch. Tsanka ngồi trên phản, đôi chân dài ngoằng, khẳng khiu xếp lại, đầu đau nhức, miệng đắng ngét.
- Đái ở chỗ nào? - Cậu hỏi.
- Trong góc kia, dưới tấm phản có cái xô.
Tsanka gạt tấm vải giường ra, nhìn thấy một chiếc xô méo mó, bẩn thỉu trong góc tối, anh ghê sợ lấy chân định kéo nó ra nhưng không được.
- Cậu làm trò gì vậy, anh bạn ưa sạch sẽ kia? Cậu đã quên cái hố xí trong khu lán trại rồi hả? - Bushman bực tức.
Tsanka vội lấy tay kéo xô ra đái ngay.
- Thế còn đại tiện, anh phải đi đâu? - Vừa hỏi Tsanka vừa đẩy chiếc xô hôi thối vào chỗ cũ.
- Tầng một.
- Còn cái này, đổ đi đâu? - Vừa hỏi, Tsanka vừa hất đầu về phía cái xô.
- Đi đâu cái gì? - Bushman vặc lại. - Dĩ nhiên, ra ngoài cửa.
Tsanka bật cười to.
- Bây giờ tôi hiểu rồi, tại sao trên cầu thang của anh chỗ nào cũng đóng băng.
- Tôi cố tình làm như vậy để những kẻ như cậu không mò đến đây lần nữa.
Giờ đến lượt Bushman cũng bật cười.
- Tôi phải quay về trạm y tế, nếu không, ông Semisastny sẽ chết mất.
- Có chuyện gì với anh ta vậy? - Bushman hỏi bằng một giọng cay độc.
- Hết rượu rồi. Vừa rồi anh ta đã cử một y sĩ đến gặp lãnh đạo, nhưng y sĩ không quay về. Thậm chí chúng tôi cũng không biết số phận anh ta ra sao nữa.
- Số phận của cậu chắc chắn cũng sẽ như vậy nếu tôi không nghe thấy những cú ngã hiển hách của cậu. Nhân đây, cậu đã làm gãy cầu thang của tôi, bây giờ tôi kiếm đâu ra ván? - Bushman lấy chiếc bình nhỏ bằng kim loại cạnh lò, đổ nước từ bình vào ấm nước, vài giọt nước rớt ra vui vẻ sôi xèo xèo. - Nước còn lại rất ít, phải đi lấy tuyết.
Bushman đi ra cửa, cúi xuống xem xét cái gì đó.
- Theo tôi, hình như băng giá đã giảm chút ít. Hôm nay cánh cửa ít đóng băng hơn hôm qua. Cậu lấy chiếc xà beng đục lớp băng này ra nếu không cánh cửa không mở được. Chỉ có điều nhẹ tay thôi, hôm qua tôi đã suýt làm gãy cánh cửa vì vội ra cứu cậu đấy.
- Làm sao anh biết đó là tôi? - Tsanka vừa hỏi vừa lấy chiếc xà beng nhỏ và nhìn vào vết nứt dài dọc theo cánh cửa.
- Tôi cũng không biết nữa, - vừa nói nhà vật lý vừa sửa lại sợi dây thun buộc vào gọng kính to tướng của mình, - Nói chính xác hơn là tôi biết cậu sẽ đến. Tôi chỉ chờ có mỗi mình cậu. Những người khác tôi không cần.
Tsanka ngạc nhiên nhìn nhà bác học.
- Vậy là hết rượu? - Bushman quay lại câu chuyện.
- Thì người ta nói vậy, - Tsanka đáp và bắt đầu cạy băng. - Nước nấu từ loại băng này có tốt hơn tuyết không?
- Không, nó có mùi khó chịu lắm. Có thể vì nó ngấm mùi không khí hôi hám trong phòng.
- Mùi ở đây mà hôi hám à? Mùi trong các lán trại của chúng tôi mới khiếp chứ. - Tsanka nói.
Cả hai lại im lặng. Tsanka đục mạnh vào lớp băng cứng.
- Thế cậu y sĩ ấy không có rượu hay sao?
- Chắc là không.
- Lũ khốn kiếp ấy nói láo đấy. Tôi thừa biết, chúng đã ắn cắp như thế nào, - nhà vật lý nhéch mép cay độc. - Chính lòng tham đã giết chết thằng ngốc ấy. Lẽ ra nó phải nộp rượu của mình cho bác sĩ. Cậu cũng biết là chúng có rượu của mình chứ?
Tsanka im lặng.
- Thế cậu có rượu không? - Bushman hỏi thẳng.
- Không.
- Cậu nói láo cái gì thế, chẳng lẽ không có à?
- Tôi thề, không có.
Bushman chỉ cười bằng cái mồm.
- Cậu là thằng ngu. Chẳng lẽ cậu không dự trữ cái gì cho mình sao?
Tsanka không đập băng nữa, anh ngồi xuống, quay mặt về phía Bushman. Trên khuôn mặt xám ngoét của anh thoáng chút ửng đỏ, bối rối.
- Tôi chỉ có một ít thuốc lá sợi và bánh mì khô thôi.
Sau vài cú đập nữa, cánh cửa bật ra, một khoảng không gian mênh mông, bồng bềnh hơi nước và băng giá trắng toát hiện ra. Bushman thành thạo hắt nước bẩn ra ngoài rồi đóng kín cửa lại. Sau đó họ chỉ ngồi uống nước nóng, không có bữa đại tiệc như hôm qua.
- Không ai biết chắc chắn thời tiết băng giá này sẽ kéo dài bao lâu, trong cái vùng đất đáng nguyền rủa này mọi chuyện đều có thể xảy ra... - ngừng một lát, Bushman nói tiếp: - Tôi nghe thông tin từ các cán bộ dân sự, họ bảo trong khu vực của chúng ta còn rất ít lương thực thực phẩm dự trữ. Rất ít. Mọi việc được tiến hành rất cập rập, vội vã. Thật khốn nạn! Trong khi đó, không liên lạc được với đại lục. Cậu cũng biết, phải mất bao nhiêu ngày mới có thể tới được khu dân cư gần nhất. Chúng ta chỉ sống được đến mùa xuân. Chỉ cần sống đến mùa xuân, sau đó, đến đâu thì đến.
Nói xong, Bushman bật dậy, lôi từ dưới gầm phản ra cuốn sách dày, rồi cuốn vở cũ ghi chép kín hết.
- Cậu nhìn đây, Tsanka, đây là bản đồ, bản đồ địa lý. Cậu có biết bản đồ là cái gì không?
Tsanka im lặng lắc đầu.
- Ôi, cậu đúng là đồ u mê! Cái này gọi là bản đồ địa lý. Đây là Moskva, đây là ngôi làng của cậu, còn chúng ta thì đang ở chỗ này, đại khái thế.
- Làng tôi ở đâu? Chỉ lại đi. - Tsanka năn nỉ.
- Ở đây, - Bushman đưa ngón tay dài với cái móng bẩn thỉu chỉ vào tờ bản đồ.
Tsanka thận trọng đẩy tay nhà vật lý ra và bắt đầu nhìn ngắm tờ bản đồ xa lạ. - Còn chúng ta đang ở đâu? - Tsanka ngước mắt lên hỏi tiếp.
- Chúng ta đang ở đây. Đây là Magadan, chúng ta đi theo đường này. Cậu thấy không, đây là ký hiệu của dòng sông. Chúng ta đang đứng trên đó hoặc là dòng sông nhỏ của chúng ta hòa vào đó.
- Làm sao anh xác định được? - hai người cùng cúi xuống tờ bản đồ.
- Tôi là nhà vật lý, nhà toán học, ngoài ra tôi còn rất am hiểu về thiên văn. Chỉ cần nhìn lên các ngôi sao tôi có thể xác định tương đối chính xác vị trí của chúng ta.
- Ở làng tôi có một ông linh mục, ông ấy cũng xác định được vị trí bằng các ngôi sao.
- Đồ ngốc, - Bushman bực mình dè bỉu, - Cả cậu lẫn ông linh mục của cậu thì biết cái gì?
Bushman đứng lên, rót nước sôi vào cốc, hai người cùng hút chung một điếu thuốc lá.
- Nói tóm lại là thế này, Tsanka ạ, chúng ta phải chạy trốn. Chạy trốn khỏi đây. Cậu hiểu chứ? - Nhà vật lý nghiêng người về phía Tsanka thì thào, các mạch máu hằn lên trên cái cổ gầy nhẳng của anh ta.
Quá bất ngờ, Tsanka bật người ra sau. Cậu kinh ngạc nhìn Bushman như lần đầu nhìn thấy anh ta, đôi mắt mở to, điếu thuốc dính chặt trên môi.
- Bằng cách nào? Chạy đi đâu? - Tsanka cáu kỉnh cười nhạo, giơ hai tay lên rồi đập xuống bàn làm đổ cốc nước, ướt cả sách vở. - Chạy đi đâu? Anh quá biết, điều gì đã xảy ra với những kẻ chạy trốn? Xác họ chất đống ngoài kia. Chẳng có gì dễ dàng hơn là bỏ chạy khỏi đây. Nhưng đi đâu? Bằng cách nào? Bên ngoài hàng rào chỉ có cái chết. Chẳng ai canh giữ chúng ta cả, muốn chạy đi đâu thì chạy! Cứ chạy đi, xin mời!
- Đừng có hét lên như thế, đồ ngốc ạ, cậu làm ướt hết các ghi chép của tôi rồi, - Bushman cắt ngang. - Cậu hãy im đi và nghe tôi nói đây. Cuộc chạy trốn sẽ được tiến hành vào mùa xuân, khi thời tiết ấm hơn. Hiểu chưa?
- Chẳng lẽ ở đây có lúc nào ấm áp hay sao? - Tsanka ngạc nhiên.
- Có. Sau ba tháng nữa. Tôi đã tính rồi. Mọi việc gần như đã được chuẩn bị sẵn sàng. Tất cả.
- Chỉ vô ích thôi. Không có kết quả gì đâu. Chúng ta biết đi đâu trong hình dạng như thế này, giấy tờ tùy thân không có, khắp nơi chỗ nào cũng có quân lính. Sớm hay muộn họ cũng sẽ bắt được chúng ta rồi bắn chết.
- Nhưng đây là cơ hội cuối cùng, nếu không thì xác chúng ta sẽ bị chất đống ngoài kia và sẽ làm củi đốt cho các lán trại. Chẳng lẽ cậu cũng không biết điều đó? - Bushman nói xong, ngồi phịch xuống phản, thở dài, - Chỉ cần Semisastny tỉnh rượu, anh ta sẽ tống cổ chúng ta về trại ngay, ra làm việc ngoài trời. Tôi có thể tìm cách xoay xở kiếm một chỗ làm nào đó, không nằm dưới quyền của anh ta. Mặc anh ta la lối. Còn cậu, trong ba giây, anh ta có thể tống cậu về trại. Mà ở đấy lại phải đi đào quặng với bọn tù hình sự, lại đói và lạnh.
- Tôi không sợ tù hình sự. Giờ đây tôi còn đáng sợ hơn cả lũ hình sự ấy. - Tsanka cay độc nói.
Cả hai ngoảnh mặt đi, không nói gì nữa, một sự im lặng bao trùm, chỉ nghe tiếng thở gấp, tiếng khò khè. Cuối cùng, Tsanka ngẩng đầu lên, nhìn mãi vào tấm bản đồ, lấy tay chạm khẽ và xoa xoa vào cái chỗ là ngôi làng của mình, rồi không ngoảnh đầu lại, anh hỏi:
- Chúng ta sẽ chạy đi đâu? Chạy như thế nào?
Bushman như bị con gì đốt, bật ngay dậy, nhảy tới sát bàn.
- Có vài phương án, nhưng tôi chọn phương án tốt nhất để không bị ai lùng bắt. Đây là thành phố Magadan, chúng ta đã đi ngang qua. Có thể đi bộ đến đấy, đó là một thành phố lớn. Nếu có tiền chúng ta có thể lên tàu thủy.
- Tiền ở đâu ra? - Tsanka cắt ngang.
- Việc ấy tôi lo. Trong kế hoạch này phải có sự chuẩn bị rất kĩ lưỡng.
- Ở đây thì kiếm đâu ra tiền, hay anh định vẽ ra?
- Cậu còn trẻ người non dạ lắm. Chúng ta đến đây để làm gì? Khai thác vàng. Vàng nhiều vô kể.
- Vậy mà tôi chẳng nhìn thấy mảy vàng nào ở đây cả.
- Cậu không nên nhìn thấy làm gì, - Bushman nói, - Nhưng cậu đã nhìn thấy quặng vàng... Còn phương án thứ hai, có tính khả thi hơn. Chúng ta sẽ đi đến thành phố Yakutsk. Đây là lục địa rồi, ở đấy cái gì cũng có. Để đến được thành phố này, chúng ta chỉ cần có sức khỏe, sức khỏe và sức chịu đựng. Đi đường này, chưa chắc người ta đã đi lùng, mà cũng không thể lùng được. Đường này không có người sinh sống. Còn phương án cuối cùng, phương án tốt nhất và có triển vọng nhất, không ai có thể đoán ra được, không ai cả. Chúng ta sẽ đi đến đây, theo hướng đông-bắc.
- Thế là sao? - Tsanka nín thở.
- Đây là eo biển Bering. Xa hơn nữa là Alaska, là nước Mỹ, là tự do.
Bushman bật dậy, mỉm cười thích thú, cứ như là mọi việc đã xong. Anh ta cúi xuống gầm phản, lấy chai rượu và một ít bánh mì sấy khô ra. Họ không nói thêm gì nữa, chỉ vội vàng uống. Giờ đây Tsanka nhìn Bushman bằng ánh mắt say mê.
- Mọi việc rất đơn giản, - nhà vật lý tiếp tục, - Tôi đã tính toán hết rồi. Khi mùa xuân đến là chúng ta sẽ trốn ngay. Chặng đường của chúng ta không ai có thể ngờ được. Chúng ta sẽ đi lên phương bắc. Không ai có thể đoán ra điều đó. Nếu họ truy đuổi, họ sẽ đuổi theo hướng đông-nam, về phía Magadan, hay theo hướng nam, về phía Yakutsk. Một sự suy đoán logic, trong khi chúng ta lại đi lên phương bắc. Chúng ta sẽ mang theo địa bàn, rìu, dao, diêm, một ít rượu, bánh mì sấy cho thời gian đầu, nếu thuận lợi, mang theo giày tốt và vàng, mang được bao nhiêu thì cố mang.
- Nhưng chúng ta lấy đâu ra tất cả những thứ ấy? - Tsanka hỏi.
- Đó là việc của tôi. Ngoài giày ủng và vàng ra, những thứ khác chúng ta đã có rồi.
- Ủng, ta sẽ đổi cho lính tráng, còn vàng... Việc này, tôi sẽ tìm cách giải quyết. Chúng ta sẽ nghiên cứu kĩ hơn về việc này. Trong trường hợp xấu nhất, không có vàng cũng được... À, nhân đây, làm cách nào có thể kiếm được giày ủng cho đôi chân to tướng của cậu bây giờ? - Bushman nhấc kính lên nhìn xuống hai bàn chân to bè, choãi ra của Tsanka. - Phải, phải! Chuyện này cũng khốn nạn đây, nhưng chưa phải là chuyện quan trọng nhất.
Họ lại rót thêm ít rượu nữa và uống tiếp. Bushman kéo chiếc đèn dầu lại, vặn bấc, căn phòng trở nên sáng sủa, ấm cúng và vui tươi hẳn lên. Một tia lửa sinh động và nhiệt tình lóe lên trong mắt nhà vật lý, bàn tay thon nhỏ của anh ta nắm chặt lại vẻ hài lòng, toàn thân run lên, cuồng nhiệt.
- Nào, tiếp tục. Điều quan trọng nhất... Cậu đừng lo lắng, tôi đã tính toán đến từng chi tiết nhỏ nhặt nhất vì tôi là nhà vật lý. Tôi không mất công đi giải những bài toán vớ vẩn. Tôi sẽ còn chứng minh cho cậu thấy điều đó. Cả thế giới này sẽ còn nghe và còn nhắc đến tên tôi. Cả thế giới! - Bushman xỉa xỉa ngón út ngay trước mũi Tsanka cứ như anh còn nghi ngờ điều đó. - Cậu hãy nghe đây! Chúng ta sẽ đi theo hẻm núi, dọc theo con sông nhỏ cho đến khi nó nhập vào con sông lớn. Tôi dự kiến, khoảng một trăm rưởi, tối đa là hai trăm cây số. Sau đó, chúng ta sẽ bơi theo con sông lớn khoảng hai trăm cây số về phương bắc. Chúng ta sẽ bơi bằng bè, tôi còn nghĩ, có thể chúng ta sẽ kiếm được ở đâu đó một chiếc thuyền bỏ không, hay trong trường hợp xấu nhất chúng ta sẽ ăn trộm của người bản xứ. Nếu không tìm được phương tiện để bơi thì chúng ta sẽ đi bộ, cách này thậm chí còn an toàn hơn. Điều duy nhất cản trở là ở đấy lúc nào trời cũng sáng. Nhưng nói chung, ở những nơi như thế chưa chắc chúng ta đã gặp ai, họa may chỉ có thổ dân. Mà họ thì biết gì, có thể làm được gì, thông báo cho ai... Trên tuyến đường này, chúng ta sẽ không gặp khó khăn về chuyện ăn uống. Tôi tin chắc, mùa hè cá nhiều vô kể, còn tôi là một tay đánh cá lão luyện.
- Cái gì anh cũng tài giỏi cả, anh Andrei ạ! - Tsanka muốn nịnh nhà vật lý, nhưng hiệu quả ngược lại.
- Phải, phải, “giỏi”, - nhà vật lý tức giận, rồi sau một lát im lặng, cuối cùng anh ta hỏi: - Anh có đồng ý chạy trốn không? - Bushman lại gọi Tsanka bằng “anh”, câu hỏi vang lên một cách cương quyết và nghiêm túc. - Đây là vấn đề thuộc về nguyên tắc. Đồng ý hay không?
- Rồi chúng ta sẽ đi đâu nữa? - Tsanka né câu trả lời.
- Nếu anh không chính thức trả lời đồng ý thì chẳng có nghĩa lý gì mà nói nữa... Tôi biết, vấn đề rất phức tạp, đòi hỏi phải suy nghĩ. Nhưng khác đi, chúng ta sẽ chết. Chúng ta cần phải đấu tranh cho cuộc sống của mình. Cần phải! Tôi nhổ toẹt vào việc tất cả sẽ phải chết rũ trong trại. Đó chỉ là một đám tầm thường. Còn tôi cần phải sống, tôi muốn sống! Cậu cũng biết, trong lúc ngồi đây, tôi đã gần như hoàn thiện xong lý thuyết của mình. Nó sẽ làm thay đổi toàn bộ nền khoa học.
Bushman đưa tay lên giá sách, lấy mấy cuốn vở xuống, lật lật vài trang ngay trước mặt Tsanka.
- Đây, cậu nhìn đi, nhìn đi. Chẳng qua là tôi chỉ quên vài công thức, nhưng nhìn chung, mọi việc đã xong. Đây là một cuộc cách mạng. Hàng ngàn nhà bác học chỉ mong ước điều này. Còn cậu, chẳng hiểu gì cả, cậu là thằng ngố vô học. - Nhà bác học ném mạnh cuốn vở lên bàn.
Lại một khoảng im lặng, hai tay Bushman run run, chiếc kính tuột khỏi sống mũi. Cuối cùng anh ta cũng bình tâm trở lại, cương quyết ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào mắt Tsanka.
- Tôi đồng ý. - Tsanka mạnh dạn đáp, - Còn ai biết việc này nữa?
- Không ai cả, không ai biết và cũng không nên biết. - Nhà bác học sửa lại đôi kính, chuyển sang nói thì thầm.
- Vậy tại sao anh lại chọn tôi?
- Tôi cũng không biết nữa. Có thể là do số phận sắp đặt. Số phận đã liên kết chúng ta lại từ khi còn đi trên đường... Mà tôi còn có thể chọn ai nữa? Cái đám tù hình sự thì cậu biết rồi đấy, một lũ quái thai, còn cái đám trí thức, một bọn điếm. Bushman nhổ toẹt một bãi về phía lò sưởi.
- Nhưng theo tôi hiểu, thì chính anh cũng là trí thức?
- Trí thức cái gì! Tôi mà là trí thức à? Mà nói chung cái từ trí thức ấy nghĩa là gì, cậu có biết không? Đấy, ngay cả tôi cũng không biết nữa. - Bushman hớp một ngụm trà đã nguội ngắt. - Thật ra mà nói, tôi chỉ nếm mùi cay đắng của cuộc đời thôi. Ông nội tôi, một nửa là người Nga, một nửa là Do Thái, nửa nữa là Ba Lan, còn mẹ tôi là người Nga. Họ của tôi và tên bố tôi là Do Thái mặc dù tôi chẳng có chút Do Thái nào trong người. Chính vì lý do đó mà ở Ukraina suýt nữa thì chúng tôi bị giết. Dạo ấy tôi còn nhỏ, nhưng tôi vẫn nhớ cuộc trốn chạy kinh hoàng, các tầng hầm, những câu xúc phạm, đánh đập. Sau đó chúng tôi chạy sang Moskva. Tôi đã nói với cậu rồi, cha mẹ tôi đều là bác sĩ, nên lúc nào cũng kiếm được mẩu bánh mì nuôi thân. Còn tôi thì học vật lý, ngay từ bé tôi đã thích môn này. Nhưng suốt đời, tôi cứ bị hành hạ bởi ý nghĩ, mình là dân lang bạt, là dân Do Thái mặc dù tôi vẫn cho mình là người Nga. Và tất cả những cái đó gọi là trí thức. Theo cậu, trí thức là ai? Đó là những kẻ nhu nhược! Nô lệ! Những người yếu đuối và bạc nhược. Đặc điểm trí thức của họ chỉ là sự luồn cúi. Họ không có lòng dũng cảm và chí can trường. Tôi không biết nữa, có thể trước kia thì có, còn bây giờ thì không, - Bushman chán chường phẩy tay. - Nếu không có họ thì những người này đã không giành được chính quyền, - vừa nói anh ta vừa đưa mắt nhìn vào bức chân dung Stalin treo trên tường.
- Nhưng sau đó chúng ta sẽ đi đâu nữa? - Tsanka hỏi.
- Sau đó là khi nào?
- Thì khi chúng ta đã lên phương bắc, bơi đến nơi, rồi đi đâu nữa?
- Đi theo... - Bushman cất mấy cuốn vở đi rồi mở tờ bản đồ ra. - Sau đó chúng ta sẽ đi theo vĩ độ sáu mươi tư về phía đông, khoảng ba trăm cây số đến sông Omolon, vượt qua sông, rồi đi khoảng ba, bốn trăm cây số nữa đến eo biển Bering. Vùng này không có người sinh sống, tôi dự kiến sau ba tháng chúng ta sẽ tới nơi. Điều quan trọng nhất bây giờ là chúng ta giữ gìn sức khỏe.
Bushman đứng dậy, bỏ một thanh củi vào lò, thổi lửa, rót hết chỗ nước còn lại vào ấm rồi đặt lên trên ngọn lửa, quấn một điếu thuốc, châm vào ngọn đèn dầu và rít một hơi dài.
- Điều quan trọng là trong ba tháng phải đến được eo biển Bering. Khi đó mùa đông sẽ bắt đầu, mùa đông ở đấy dễ chịu hơn ở đây. Đúng ra thì nhiệt độ cao hơn, nhưng bão tuyết lại mạnh hơn, - Bushman nhổ bãi nước bọt rồi đưa điếu thuốc cho Tsanka. - Dĩ nhiên là tại eo biển có các chiến sĩ biên phòng của ta bảo vệ. Nhưng tôi tin chắc, ở đấy, với không gian rộng lớn và khoảng cách xa xôi như thế, chúng ta sẽ dễ dàng vượt qua được. Chúng ta sẽ chờ cho đến khi bắt đầu đóng băng, khi mùa thu đến sẽ có bão tuyết, nhưng chúng ta sẽ đi theo la bàn về phía tây... Chà, chỉ mong sống được đến ngày đó... Sẽ là Alaska, là nước Mỹ, là tự do.
- Nhưng tôi sẽ làm gì ở đấy? - Tsanka ngạc nhiên hỏi.
- Cậu đừng lo, ở đấy dân chúng sống rất thoải mái và giàu sang. Những người như tôi, các nhà bác học vật lý ít lắm. Chúng ta sẽ có tất cả, tiền bạc, vinh quang. Rồi phụ nữ, nhà hàng, chúng ta sẽ mua những căn nhà sang trọng. - Bushman bật dậy, vung tay lên, vẻ mãn nguyện.
- Tôi không muốn sang nước Mỹ. Tôi chỉ muốn về nhà thôi, về Kavkaz, về ngôi làng của mình, nhà mình. Tôi cần gì cái nước Mỹ ấy của anh?
Sự thích thú của Bushman liền biến mất, anh ta bối rối nhìn Tsanka từ đầu đến chân, nhưng việc ấy chỉ kéo dài trong tích tắc, nét mặt Bushman lại sáng lên, anh ta thích thú vỗ vỗ vào vai Tsanka:
- Chúng ta sẽ làm được hết, làm được tất cả, - Bushman bật cười thích thú, nhại lại Tsanka, - “Kavkaz” này, “ngôi làng này”, ha, ha, ha, - anh ta khoái chí cười đến mức mất thăng bằng, ngã kềnh lên phản, vừa nằm vừa tiếp tục cười và nói: - Chúng ta làm được cả lừa, cả cừu, ha, ha, ha, cả ông linh mục của cậu, cả nhà chiêm tinh nữa, chúng ta làm được tất.
Bushman còn cười rất lâu, chảy cả nước mắt vì khoái chí. Tsanka tự ái đứng lên rót nước nóng cho mình. Anh tức giận không nói gì, chỉ nắm chặt và thổi phù phù vào cốc nước nóng. Bushman ngừng được một lát rồi lại cười tiếp. Cuối cùng anh ta bình tâm lại, đứng lên.
- Ôi, tôi xin lỗi, ít ra là suốt một năm nay tôi không được cười. Tôi không cười cậu đâu. Tôi chỉ nghĩ đến lúc chúng ta đến đó. Tôi hỏi thật nhé, có đúng là cậu muốn quay về nhà không?
- Anh hỏi thế là sao? - Tsanka không hiểu.
- Ở đấy mọi người ăn mặc ra sao? Có trang phục truyền thống không?
- Có. Bộ quần áo papakhi, cherkeska.
- Đi lại bằng cái gì? - Đôi mắt Bushman vẫn còn cười, dù vẻ mặt đã tỏ ra nghiêm túc.
- Bằng ngựa, ngựa đua.
- Vậy là rõ. Cậu sẽ quay về nhà trong bộ trang phục papakhi trắng, bộ cherkeska trắng và trên lưng con ngựa trắng... nhà bác học ngẩng cao đầu, làm như đang cưỡi nữa, nói thêm: - Không, chúng ta sẽ cùng đi với nhau. Tôi sẽ đi cùng với cậu. Các cậu có mến khách không?
- Chechnya là dân tộc mến khách nhất. - Cảm thấy trong giọng nói của Bushman có ý giễu cợt, Tsanka nói thêm: - Chỉ có điều không phải những loại khách như anh, mặc cherkeska lang thang ở đấy.
- Hiểu rồi. Vậy chúng ta sẽ làm thế này: đoàn khách sẽ gồm tám chú ngựa ô, và cậu sẽ mặc áo cherkeska đen, đi với một người đẹp Hoa Kỳ, con gái nhà triệu phú.
Bushman lại không nhịn được, bật cười hô hố. Khi đó, Tsanka phát khùng lên, nhảy tới đấm một cú vào mặt Bushman. Cặp kính văng sang một bên, Bushman ngã sang hướng khác, làm đổ chiếc bàn cùng tất cả mọi thứ nằm trên đó.
- Đưa tay đây, đỡ tôi dậy. - Bushman tức giận nói với Tsanka rồi lặng lẽ đứng lên, sửa lại quần áo. Khi mọi thứ đã đâu vào đấy, anh ta đứng quay lưng về phía Tsanka, châm lại mẩu thuốc hút dở gắn lên tường, rồi nói thêm: - Tôi hứa với cậu, tôi sẽ làm tất cả những gì cậu muốn. Nếu muốn, cậu sẽ về nhà một cách chính thức, nếu muốn, họ sẽ đến đón cậu.
- Cái gì, cả làng sẽ đến đón tôi? - Tsanka châm chọc.
- Đừng lo, đồng chí Arachaev ạ, chúng tôi sẽ làm tất cả bằng con đường ngoại giao. Cậu không biết đâu, chỉ cần sau nửa năm là tôi sẽ có tất cả, kể cả sự kính trọng cùng danh tiếng và tiền bạc. Còn cậu, sẽ như miếng pho mat chìm trong bơ. Tôi đã phải làm quần quật cả ngày lẫn đêm, suốt cả cuộc đời, không phải để chết thối ra ở đây. Và cậu hãy nhớ, Tsanka ạ, gieo gì thì gặt nấy.
- Nhưng tôi, hình như chưa bao giờ làm điều gì xấu cho ai, tại sao tôi lại ở đây?
- Đó chỉ là sự thử thách tạm thời. Tương lai của chúng ta sẽ rất xán lạn. Tôi và cậu còn trẻ, nhất là cậu.
- Nhưng tôi cần gì cái sự thử thách và tương lai xán lạn đó?
- Ôi, Tsanka, Tsanka! Cậu không hiểu vật lý rồi. Mất bao nhiêu thì sẽ tìm lại được bấy nhiêu. Tương lai của chúng ta còn ở phía trước!
Bushman thèm thuồng rít những hơi dài cho hết điếu thuốc, không cho Tsanka hút nữa, cẩn thận xem xét mẩu thuốc, rồi sau khi tin chắc mẩu thuốc đã cháy hết mới ném vào lò.
- He, he, - Bushman nhếch miệng, xoa tay vẻ mãn nguyện, - Hai tháng nữa thôi. Ngon lắm, đồ khốn ạ... Chính lãnh đạo cho tôi đấy... Thôi được! Cậu đã hiểu hết rồi chứ? Còn với cái tay bác sĩ Semisastny quái thai ấy, cậu phải cẩn thận hơn, tôi có cảm giác, hắn không chỉ nghiện rượu mà còn là một tên đồng tính nam nữa, ít ra thì tôi cũng nghe người ta nói thế sau lưng hắn.
- Anh nói là tên gì, tên gì? - Tsanka cắt ngang nhà vật lý.
- Tôi chỉ nói vậy thôi. Còn cậu, uống hết nước nóng rồi về đi.
- Còn rượu? Anh ấy còn dặn tôi phải đưa anh tới nữa.
- Rượu không có và cũng chưa bao giờ có. Hiểu chưa. Cứ nói như thế với trưởng trạm y tế. Còn đi với cậu, tôi không đi được đâu, tôi còn phải chăm sóc nồi hơi.
- Làm sao tôi có thể quay về mà không có rượu và không có anh?
- Cậu làm sao thế, điếc à? Tôi không có rượu. Có bao nhiêu thì tôi và cậu đã uống hết rồi. Nhưng tôi biết, ai có.
Tsanka không biết nói gì nữa chỉ ngạc nhiên nhìn cái con người bé nhỏ và xấu xí kia.
- Trong phòng các y sĩ, dưới chiếc tủ nhỏ trong góc, họ có cái hầm chứa nhỏ ở đấy. Tìm là có ngay. Nói cho đúng hơn là cậu không tự tìm mà chỉ cần nói cho Semisastny biết.
- Làm sao tôi có thể làm như vậy được?
- Làm được, làm được. Nếu cậu muốn sống, cậu phải sống như mọi người. Hừ, định làm một người trung thực và có nguyên tắc cơ đấy. Nếu không có tôi, từ lâu cậu đã phải sống ở chỗ khác và trong tình trạng khác hẳn.
Bushman rót thêm ít rượu và nước nóng vào trong cốc.
- Chúng ta đã dự tính một việc chẳng đơn giản chút nào, một việc vĩ đại. Có thể thấy, số phận đã bắt chúng ta phải trải qua những thử thách đó. Cố lên. Hãy giữ gìn sức khỏe... Nào, hãy uống một lần nữa vì sự thành công của ý tưởng, - hai người chạm cốc, uống vội vàng, - Điều quan trọng, không được hé răng với ai, dù chỉ một lời. Tôi sẽ cố gắng để cậu vẫn được làm ở trạm y tế cho đến mùa xuân. Cho tôi gửi lời hỏi thăm Semisastny, bảo với anh ta là tôi đang bệnh. Thôi được rồi, đi đi, trời sắp tối rồi.
- Tôi không thể đi được, Anh hãy để tôi ở lại đây. Ở đấy lạnh kinh khủng.
- Không được, không được, anh bạn yêu quý ạ. Uống thêm nước nóng, rồi lên đường đi.
Khi Tsanka bị lạnh cóng lần về được đến trạm y tế thì gặp ngay trưởng trạm Semisastny đã uống say. Người y sĩ thứ hai đã đưa rượu cho bác sĩ và bảo đấy là rượu dự trữ của Tsanka. Chính vì vậy mà chỉ sau vài ngày, khi băng giá đã giảm bớt, Tsanka bị cho xuất viện, nhưng thay vì trả về khu lán trại thì anh bị tống vào xà lim.
Cánh cửa xà lim nặng nề rít lên và sập lại sau lưng Tsanka. Một nỗi tuyệt vọng và hoảng sợ choán ngợp tâm trí. Bóng tối và sự lạnh lẽo tràn ngập khắp nơi, xà lim bốc mùi kinh khủng. Sau những ngày sáng sủa, ấm áp và no đủ ở trạm y tế như ở thiên đường - theo khái niệm ở đây, thì chỗ này đối với Tsanka chẳng khác gì một cơn ác mộng thực sự. Ở phía bên phải và bên trái, có ai đó đang cựa quậy trong bóng tối. Mãi một lúc, cặp mắt của Tsanka mới có thể phân biệt được những hình bóng mờ mờ. Bên trái có mấy tấm phản hẹp, một người đang nằm trên đó, bên phải có hai người đang ngồi xổm, do quá lạnh họ thu người lại như những cuộn len câm lặng. Người đang nằm, không ngồi dậy, quay đầu ra phía cửa, hỏi bằng một giọng khàn khàn, xấc láo:
- Ai đấy? Lại đây! Có thuốc lá không?
Giọng nói làm cho Tsanka như bừng tỉnh, anh nhớ đến kế hoạch chạy trốn, anh cần phải sống, phải sống, cần phải giữ gìn sức khỏe và lòng can đảm. Tsanka không nói gì cả, kiên quyết bước lên một bước về phía người đang nằm, nhưng sàn nhà đóng băng mấp mô làm anh trượt chân suýt ngã, phải lấy tay trái bấu vào mép phản. Người đang nằm, nhìn thấy những hành động quá đột ngột của kẻ mới đến, cố ngồi dậy. Khi hắn vừa ngồi lên thì cũng vừa lúc Tsanka chẳng thèm tính toán, dùng tay phải giáng một cú, sau đó là những cú đấm tiếp theo: âm thầm, dữ dội và quyết liệt. Khi đối thủ gục xuống, Tsanka nâng anh ta lên, ngạc nhiên vì sự nhẹ nhõm của cơ thể, và ném xuống sàn nhà đóng băng. Có một cái gì đó bằng kim loại rơi xuống sàn phát ra tiếng động - một con dao. Tsanka ngồi lên giữa phản.
- Bò lên đây. - Tsanka ra lệnh cho hai con người kiệt quệ, rồi hỏi: - Tại sao các anh bị tống vào đây?
Hai người lặng lẽ đến ngồi cạnh Tsanka, ép sát vào người nhau để cố giữ chút hơi ấm, không đáp gì cả và Tsanka cũng tự hiểu. Những con người sống dở chết dở này chỉ đơn giản là không thể làm việc được nữa, họ bị tống vào xà lim để bị đánh cho chết luôn, và điều quan trọng là làm tấm gương để răn đe những người khác. Tsanka cho mỗi người một miếng bánh mì sấy khô, rồi cả ba cùng hút thuốc.
- Giá mà có chút nước nóng, - một người mấp máy cái miệng không răng.
Một sự im lặng bao trùm. Tên nằm dưới sàn nhà cựa quậy, rên rỉ, nằm ngửa ra, ngoẹo đầu sang phải rồi cứ nằm im như vậy.
Sau khoảng một ngày đêm, cánh cửa kêu kẹt kẹt rồi mở ra.
- Arachaev, còn sống không? - Một giọng trầm, khàn vang lên. - Bước ra.
Chân tay tê cứng không thể co duỗi nổi, Tsanka phải khó khăn lắm mới đẩy được những người nằm bên ra để đứng dậy. Người ngồi bên phải không thấy động tĩnh gì nữa, từ người anh ta phả ra làn tử khí lạnh ngắt.
Tsanka, như một nhân công khỏe mạnh nhất, ngay lập tức được chỉ định làm đội trưởng, và ngay sau bữa cơm sáng đạm bạc nhưng nóng hổi, anh phải dẫn đội của mình đi làm ngay. Với tư cách là đội trưởng, Tsanka không phải đào quặng mang về, tuy nhiên anh phải theo dõi công việc của đội và phải đảm bảo chất đốt cho trại. Để làm được điều đó, cuối ngày làm việc, Tsanka phải lấy vài người trong số những người khỏe mạnh nhất để chặt ít nhất mỗi người một bụi cây bị lấp trong tuyết giữa các khe xói của hẻm núi.
Ngày đầu tiên Tsanka cố tìm tên cầm đầu tù hình sự - tên Phệ, nhưng hắn không đi làm. Buổi tối, sau khi ăn xong, Tsanka tìm thấy hắn nằm cạnh lò sưởi. Con chó cái của hắn nằm bên cạnh, nép sát vào người hắn. Tsanka kinh tởm nhìn cái cơ thể sống dở chết dở của hắn khá lâu. Bên dưới mảnh áo choàng bằng vải bạt, vốn là một cơ thể khỏe mạnh, giờ không còn lại dấu vết gì. Khuôn mặt hắn sạm như màu đất, mí mắt nhắm nghiền, phủ một lớp nhầy nhầy màu xanh lục, cặp môi sưng vù, lở loét.
- Hắn bị giang mai, lại hoại huyết nữa. - Ai đó nằm cạnh, nói.
Tsanka vội đứng né sang một bên.
- Ném hai cái của nợ này ra ngoài đường. - Tsanka ra lệnh, sau đó ngoắc ngón tay, gọi một trong số những người chăm chỉ, nửa nông dân nửa thường phạm lại gần rồi nói: - Anh nằm ở đây, gần bếp lò, nhưng anh và anh kia nữa phải trông coi củi lửa cho ấm.
Vậy là một cuộc sống nặng nhọc và đơn điệu của Tsanka bắt đầu. Mặc dù không phải trực tiếp lao động chân tay, nhưng Tsanka vẫn cảm thấy sức lực mỗi ngày một yếu dần. Cảm giác lúc nào cũng bị lạnh và đói đeo đẳng suốt ngày đêm. Sau đó, một nỗi bất hạnh mới lại ập đến: đêm đêm Tsanka hay bị thức giấc và không ngủ lại được. Tình trạng này là nỗi đau khổ khủng khiếp nhất đối với anh.
Giấc ngủ đêm - lối thoát duy nhất đối với những người tù - đã rời bỏ Tsanka. Trong đầu anh, ý tưởng về một cuộc chạy trốn lại xuất hiện thường xuyên. Mọi ý nghĩ kỳ quái nhất lại nảy sinh trong đầu mà Tsanka không thể nào có thể xua đi, quên đi được. Ý tưởng về cuộc chạy trốn hành hạ và chế ngự anh.
Đến giữa tháng Ba, khi đợt băng giá đã bớt thì gió mạnh lại nổi lên. Đêm đêm, không khí trong các lán trại lại càng lạnh hơn so với những ngày băng giá dữ dội. Làn không khí lạnh buốt luồn qua các khe hở rồi thoải mái rong chơi trong lán trại mà giờ đây đã trống vắng một nửa. Những người tù gần như kiệt sức. Khẩu phần ăn càng ngày càng tệ, ốm đau quặt quẹo, chết dần chết mòn. Buổi sáng, phải khó khăn lắm người ta mới có thể đánh thức tù nhân dậy để đi làm. Suốt cả ngày họ bất lực cắm đầu xuống đất đào quặng, nhưng lớp đất đá đóng băng không chịu khuất phục dễ dàng. Buổi chiều, mong ước về bữa ăn, về giấc ngủ và chút hơi ấm đã kéo họ cố lê về đến khu trại. Đội trưởng là người đầu tiên phải chịu trách nhiệm về những chiếc giỏ chứa quặng, phải đảm bảo sản lượng khai thác. Để làm được điều đó, thay vì quặng, họ chỉ tha về những thứ đất đá bẩn thỉu gì đó, trộn với quặng và băng tuyết.
* * *
Trong thời gian đó, Bushman đã thay đổi chỗ làm việc, anh ta trở thành y sĩ.
Trong thực tế, toàn bộ nhân sự của trạm y tế đều nằm dưới quyền của Bushman. Hóa ra, Bushman có những khả năng xuất chúng trong lĩnh vực y học, ít ra là anh ta cũng giỏi hơn bác sĩ trưởng trạm Semisastny. Thậm chí ngay cả các chiến sĩ trong đội bảo vệ và số lao động tự do cũng chỉ đến nhờ Bushman. Tình trạng này cũng chẳng làm Semisastny bận tâm. Bác sĩ thừa biết, mình là lao động làm thuê tự do, thực chất là chủ nhân ở đây, nên mọi công việc làm thêm khác chỉ làm anh ta mệt thêm. Trong các lán trại, lan truyền tin đồn, mối quan hệ giữa bác sĩ Semisastny và Bushman đang có vấn đề.
Tuy nhiên, những chuyện này chẳng làm Tsanka bận tâm, anh mừng cho bạn mình. Hai tuần một lần, Tsanka ghé lại trạm y tế. Lúc gặp nhau, họ chẳng nói gì cả, chỉ nhìn vào mắt nhau với bao niềm hy vọng. Mỗi lần gặp, Bushman rót cho Tsanka nửa cốc rượu nguyên chất, cho anh ít thuốc lá sợi và bánh mì, và họ, chỉ siết chặt tay nhau rồi chia tay. Sau những cuộc gặp như vậy, Tsanka thường ngủ say như chết, còn sáng hôm sau anh cứ nhìn mãi về phương bắc như để nhẩm tính chặng đường phải chạy trốn. Trong một lần gặp nhau, Bushman đưa Tsanka vào phòng y sĩ, rót rượu ra rồi hai người cùng uống và cùng hút thuốc. Tsanka lặng lẽ nín thở chờ xem nhà vật lý nói gì. Bushman nhón chân lên, nhìn qua cửa, rồi thì thào:
- Mọi chuyện gần như đã sẵn sàng. Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ đưa cậu vào trạm y tế để bồi bổ sức khỏe. Hãy kiên nhẫn chờ đợi. Hãy làm tất cả những gì người ta yêu cầu. Cậu hiểu chứ? Phải hết sức cẩn thận! Nhanh thôi! - Bushman nắm chặt khuỷu tay bạn.
Tháng Tư tới. Ngày trở nên dài hơn. Giờ đây đi làm phải có người áp giải. Đội của Tsanka được coi là đội lao động tiên tiến nhất. Tsanka luôn tìm cách giúp đỡ mọi người: giảm bớt chỉ tiêu kế hoạch, lắp đặt trong trại hai chiếc lò sưởi, chọn điểm khai thác quặng gần nhất, đôi khi anh cũng làm việc như mọi người. Tuy nhiên ý nghĩ của Tsanka vẫn cứ phiêu diêu đâu đó rất xa với cuộc sống hiện tại.
Ngày cũng như đêm, anh chỉ nghĩ đến cuộc chạy trốn, tối ngủ mơ thấy hai người đang đi ở vùng cực bắc mênh mông không bến bờ. Tsanka cảm thấy vất vả vô cùng, đôi chân rũ ra không chịu nghe theo, miền đất này không có điểm kết thúc, cũng không có giới hạn.
Khi tỉnh dậy, Tsanka hoảng sợ toát mồ hôi hột, trằn trọc mãi cho đến sáng với ý nghĩ, tại sao mình lại phải chạy trốn, mình cần gì cái nước Mỹ ấy. Tsanka biết, đối với Bushman thì sống ở đâu cũng được, Moskva hay nước Mỹ cũng thế thôi, đối với anh ta cả thế giới này là Tổ quốc.
Thậm chí ngay cả trong những câu chuyện dài lê thê, Bushman cũng không bao giờ nhắc đến mẹ, đến mái nhà tổ tiên, nói gì đến vợ. Anh ta chỉ nghĩ đến cái môn vật lý của mình, đến những phát kiến quan trọng, đến tài năng và sự vĩ đại của mình. Bushman chẳng yêu ai, ngoài bản thân...
Thế còn Tsanka khốn khổ, anh định chạy đi đâu? Tsanka chỉ cần mỗi Tổ quốc của mình, những rặng núi quê hương mình, chỉ muốn được nhìn thấy mẹ, cùng bà con họ hàng và con cái. Làm sao anh dám nhìn thẳng vào mắt họ nữa? Họ sẽ bảo anh là thằng hèn, là kẻ chạy trốn. Mà trong cái làng nhỏ xíu của mình thì Tsanka biết trốn vào đâu được? Sớm hay muộn thì công an cũng sẽ đến và tóm cổ anh lần nữa. Tốt hơn là anh nên cố gắng ngồi cho hết thời hạn, có thể họ sẽ thả trước thời hạn cũng nên...
Với những ý nghĩ nặng nề như thế, lúc gần sáng Tsanka lại thiếp đi, khi giấc mơ đang ở đoạn ngọt ngào và dễ chịu nhất thì anh nghe thấy tiếng búa gõ vào cái kẻng bằng thanh sắt đường ray. Phải khó khăn lắm Tsanka mới ngồi dậy nổi và anh lại nhìn thấy những khuôn mặt đáng ghét của đám tù nhân, cái bệ xí, khu nhà ăn bốc mùi tởm lợm, những khuôn mặt vô cảm và ngây dại của những người bảo vệ, lại nhìn thấy bệnh tật và những cái chết, là sự dửng dưng với tất cả mọi chuyện. Bóng đêm, sự bế tắc, nỗi tuyệt vọng lại vây lấy Tsanka, anh lại muốn chạy trốn, chạy đi đâu cũng được, chạy với ai cũng được, miễn là không phải nhìn thấy bạo lực, độc ác và vô cảm.
Cuối tháng Tư, băng giá đã yếu hơn, gió mạnh không còn thổi nữa, thế giới như lặng đi để chia tay với mùa đông và chuẩn bị đón mùa xuân và mùa hè. Không khí thẫm đẫm niềm vui sống và trong tâm hồn Tsanka cũng vậy. Anh sống trong sự chờ đợi một cái gì đó sáng sủa, rõ ràng sau bao lâu chờ đợi, mong ước. Anh chờ mong một ngày hội, ngày hội của cuộc đời. Tsanka không muốn chờ đợi nữa, anh muốn sống, khát khao sống, đấu tranh để sống.
Giữa tháng Năm, Tsanka đến trạm y tế, người ta nói với anh, Bushman đã được chuyển vào khu dân cư của những người làm thuê tự do, bây giờ, hình như anh ta đang lãnh đạo phòng thí nghiệm nào đó về tinh chế vàng. Tsanka vui mừng khôn xiết. “Cái thằng cha vật lý này giỏi thật, thông minh thật. - Anh hân hoan thầm nghĩ, - Dĩ nhiên rồi, ở đấy anh ta sẽ có điều kiện tổ chức mọi việc. Anh ta sẽ làm tất cả những gì cần thiết. Giỏi thật, khôn ngoan thật!”
Ngày tháng trôi qua. Ngày nào cũng dài vô tận, nặng nhọc và đơn điệu như những ngày đã qua.
Không có tin tức gì của Bushman cả, Tsanka cảm thấy rất lo lắng, trở nên cáu bẳn, bối rối, mỗi khi có dịp lại chạy đến trạm y tế. Một lần Tsanka chạm trán với Semisastny. Ông trưởng trạm hôm ấy lại tỉnh táo một cách khác thường.
- Sao ngày nào cậu cũng chạy đến đây thế? - Bác sĩ hỏi.
- Tôi bị bệnh, bác sĩ ạ. Viêm lợi. Chắc là bị hoại huyết. - Tsanka nói, vẻ hối lỗi.
- Vậy thì vào đây, vào đây. Tôi sẽ xem cho... Mà thật ra chẳng có gì phải xem cả,mọi việc đã rõ. Rất tiếc là thuốc men hầu như chẳng còn gì. Mà cậu, chắc cũng biết, đường dây liên lạc với đại lục đã được khôi phục. Hôm nay, chuyến hàng đầu tiên đã đến, vài này nữa sẽ có thuốc, khi ấy cậu ghé lại. Còn bây giờ, hãy uống cái này, - bác sĩ rót một thứ nước gì đó màu xanh nhạt, bốc mùi khó chịu. - Uống đi, uống đi.
Tsanka nhăn mặt uống cạn, cảm thấy lợm giọng, buồn nôn.
- Ha, ha, ha, - bác sĩ bật cười, - cái ấy rất tốt đấy, họ bảo rất tốt đối với bệnh hoại huyết. Dĩ nhiên là cậu muốn uống rượu, nhưng không có, cậu đã ăn cắp hết rồi còn gì.
Tsanka im lặng. Do cái thứ chất lỏng vừa uống, Tsanka cảm thấy như nghẹt thở, cậu chỉ còn đủ sức lắc lắc đầu, hai tay ôm chặt cổ họng và ngực.
- Tôi biết, tôi biết, cậu không ăn trộm. Bây giờ thì tôi biết rồi... Thôi được... Nhân tiện, hôm qua tôi nhìn thấy Bushman, - bác sĩ dừng lại, chăm chú quan sát Tsanka. - Bushman hỏi thăm cậu. Anh ta muốn tôi cho cậu nhập viện. Nhưng nếu vậy thì ai sẽ làm việc? - Trưởng trạm nhếch mép cay độc. - Còn anh ta thì sống ở đấy như bọn tư sản. Hắn đã thu xếp ổn thỏa cho mình, đồ chó đẻ.
Khi Tsanka bước ra, bác sĩ nói theo bằng một giọng rất nhỏ như nói với chính mình:
- Mà nói chung, hắn là đồ đê tiện láu cá. Thằng súc sinh ấy sẽ còn leo cao nữa nếu thoát ra khỏi đây! Leo cao nữa!
* * *
Mùa hè đến tự lúc nào không hay. Chẳng có mưa, cũng chẳng có một dấu hiệu nào của sự chuyển mùa. Mặt trời lên cao, ngày dài như bất tận và sáng sủa. Chim chóc ca hát, ruồi, muỗi bay từng đàn. Thung lũng mênh mông bên sông như sống lại: hàng ngàn loại hoa cỏ tỏa hương thơm ngát. Bầu trời trong xanh, cao vời vợi. Có cảm giác, ở đây chưa từng bao giờ có băng tuyết và không thể có được.
Đất vẫn còn lạnh, chai và cứng.
Nhưng điều làm người ta ngạc nhiên nhất chính là dòng sông. Cái dải nước nhỏ bé, mỏng manh, lúc nào cũng sẫm màu dưới lớp tuyết dày bỗng biến thành một dòng sông rộng. Nước trong sông vẫn còn lạnh, có màu nâu sậm và mờ đục.
Dòng sông kêu réo vui vẻ, chảy qua các bãi nông, sủi bọt, xoáy tròn, những con sóng nhỏ tinh nghịch của nó đập vào dãy hàng rào của khu trại, như cố gột rửa những vết nhơ của người đời, dẫu chỉ là một chút. Hàng đêm, tiếng chảy rì rào, đều đặn của nó nghe như vỗ về. Tsanka lúc nào cũng so sánh tiếng động của nó với bản nhạc của dòng suối quê hương: tiếng nguồn nước của anh vang xa hơn, sinh động hơn, như tiếng vó con ngựa đực nhanh nhẹn và sôi nổi.
Tin tức từ Bushman vẫn không có gì. Tsanka đã đào sâu chôn chặt ý định về cuộc chạy trốn vào tận nơi sâu thẳm của tâm hồn, thậm chí còn cảm thấy mừng vì điều đó. Còn cuộc sống vẫn sôi réo cuồn cuộn. Đoàn tù nhân mới được đưa đến, cùng với họ là vô số binh lính. Ở đâu đó, rất xa bên kia đèo, tuyến đường đã được hoàn thành. Trên con đường đó, một số lượng lớn hàng hóa đã được chở đến: nào là thiết bị, lương thực thực phẩm, quần áo và đủ thứ khác nữa. Suốt ngày đêm, binh lính phải vận chuyển số hàng hóa đó bằng tay hoặc xe kéo đến khu vực khai thác. Tù nhân không cho tham gia công việc này. Thực phẩm trong nhà ăn đa dạng hơn và ngon hơn nhiều.
Các bè gỗ đã bắt đầu xuôi xuống theo dòng sông. Đội của Tsanka được điều ra sông, công việc của họ là vớt những cây gỗ tròn từ sông lên rồi xếp thành từng đống. Dù Tsanka đã cố công đi tìm đống xác người mà anh đã nhìn thấy từ mùa đông năm ngoái, nhưng không thể tìm ra. Tsanka không dám hỏi những người bảo vệ. Điều quan trọng là chính mình vẫn còn sống.
Công việc trên sông là công việc dễ chịu nhất trong tất cả những ngày ở tù. Sông có rất nhiều cá, bắt rất dễ. Cá bơi ngược dòng hàng đàn. Những ngày đầu, mọi người ăn cá sống. Sau đó, khi đã chán cá sống, họ bắt đầu nấu canh cá, nướng cá. Chiều nào họ cũng mang cá về trại: để dành, cho bớt, đổi lấy đủ thứ đồ dùng, thức ăn, thuốc lá với những người tù mới được đưa đến.
Cuộc sống no đủ ấy kéo dài không lâu. Đội của Tsanka, cũng như các đội khác bị đưa đi làm đường. Việc làm đường được tiến hành suốt ngày đêm. Họ sống, ăn uống và làm việc ngay bên con đường. Sau mười hai tiếng làm việc, con người chỉ còn đủ sức bò về lán của mình. Thậm chí đôi khi cũng không còn đủ sức để ăn, mà cũng không muốn ăn nữa, chỉ muốn chui vào cái lều hôi hám, đầy rận và muỗi để ngủ, để quên, để trốn.
Vào những ngày đó, Tsanka lại thường nhớ đến Bushman, nguyền rủa Vào những ngày đó, Tsanka lại thường nhớ đến Bushman, nguyền rủa anh ta, nhưng lại muốn gặp để nện cho anh ta một trận. Vài lần anh đã định bỏ trốn một mình, nhưng không biết chạy đi đâu, mà thật ra, trong con người anh cũng chẳng còn sức mạnh tinh thần cũng như thể xác để làm một việc gì đó.
Tsanka đã bị đè bẹp và bẻ gãy. Sức khỏe gần như cạn kiệt. Tsanka thường hay gây sự với mọi người, đánh nhau với bất cứ ai, xúc phạm họ chỉ vì những chuyện vặt vãnh.
Bất chấp mọi nỗi thống khổ và tai ương, ngay cả trong những lúc tuyệt vọng nhất, cuộc sống vẫn cho Tsanka những giây phút sung sướng và hạnh phúc.
- Arachaev, Arachaev. - Có lần, một trong số những người tù đến từ khu trại gọi Tsanka. - Người ta vừa đưa tới một đoàn tù mới, trong số họ có một người đồng hương của cậu đấy. Nghe nói từ làng cậu và có biết cậu.
- Ai thế, tên anh ta là gì? - Tsanka ngạc nhiên hỏi lại.
- Tôi không nhớ, quên mất rồi. Một cái tên lạ lắm, tôi không nhớ.
Sau đó, Tsanka tìm mọi cách quay về khu trại nhưng không được. Lúc nào anh cũng bị dằn vặt bởi ý nghĩ, đó là người nào trong số tất cả những người quen cùng làng, mà hầu như chẳng có ai là không quen, ngôi làng bé tẹo, mọi người đều biết nhau.
Tuyến đường được xây dựng khá nhanh, trước mặt chỉ còn một con đèo nữa. Suốt ngày đêm, tiếng nổ mìn phá đá lúc nào cũng vang lên. Thợ bắn mìn giật nổ tung những ngọn núi đá, sau đó hàng ngàn tù nhân, mỗi người chỉ cần vác một viên trong hai ca làm việc là dọn xong con đường. Mặc dù vậy, tuyến đường vẫn chưa hoàn thành. Vào đầu tháng Chín, gió mạnh thổi từ hướng đông-bắc tới, mây đen vần vũ trên trời, tuyết rơi.
Ngay lập tức cả thế giới trở nên trắng toát. Chẳng còn thấy mùa lá rụng, cũng chẳng còn mùa hè nóng nực, chẳng còn gì nữa. Chỉ đơn giản là sau một ngày, mùa đông đã đến. Trong cái thế giới mênh mông và giá lạnh này chẳng ai có thể quan tâm đến ai được nữa: mùa hè vậy là chỉ đến một lát rồi đi mất, còn mùa đông, vẫn là mùa đông, ở lại rất lâu, dai dẳng, lì lợm. Và cũng không thể hiểu nổi, tất cả lũ chim chóc, ruồi muỗi bay từng đàn khắp nơi, giờ biến đâu mất. Một cuộc sống ngắn ngủi sôi động, ồn ào, đầy màu sắc và hoa trái ấy cũng biến đi đâu? Tất cả đều mang một màu trắng toát. Một sự tĩnh lặng bao trùm. Mùa đông dài và khắc nghiệt đã bắt đầu. Chỉ sau một ngày đêm nó trùm lên cả không gian rộng lớn một tấm màn tĩnh lặng và trắng toát. Có cảm giác, tình trạng đó là vĩnh viễn ở mọi chốn, mọi nơi.
Họ còn làm việc thêm vài ngày nữa, chủ yếu là dọn tuyết. Những cây số cuối cùng đành phải thực hiện trong điều kiện mùa đông, gọi là những con đường trên tuyết. Chỉ đến khi đó thì chiếc xe ô tô đầu tiên mới có thể chạy thẳng đến khu vực đoàn địa chất, hay như bây giờ người ta gọi là khu di dân, khi đó những người tù mới được quay về nhà mình - những chiếc lán trại hôi hám và đầy rận.
Khi Tsanka, cùng với đoàn người băng qua đèo và đi xuống thung lũng bên sông, anh vô cùng ngạc nhiên. Khu trại bé nhỏ của đoàn địa chất trước kia giờ đây chẳng còn lại dấu. Chỉ sau ba, bốn tháng mùa hè ngắn ngủi, cả một khu dân cư to lớn đã mọc lên. Những tháp canh mới, những khu lán trại mới, khu vực của các sĩ quan và của lao động làm thuê tự do đã được mở rộng, nhà máy phát điện đã đi vào hoạt động, đôi chỗ đã thấy bóng đèn điện chiếu sáng. Nhưng điều làm mọi người ngạc nhiên nhất là dọc theo dãy hàng rào bằng gỗ trước kia là dãy hàng rào dây thép gai cũng cao như vậy. “Bây giờ thì không thể chạy đi đâu được nữa”, - Tsanka cay đắng thầm nghĩ.
* * *
Việc đầu tiên khi trở về là các tù nhân được đưa ngay đến khu vực nhà tắm hơi mới được xây dựng lại. Mặc dù nhà tắm vẫn nhỏ và lạnh nhưng nước thì nhiều hơn. Tsanka được tắm riêng, cạnh lò hơi, uy tín của anh không ai có thể phủ nhận. Tắm xong, đoàn người được đưa vào nhà ăn. Mùi bắp cải muối và mùi ẩm mốc tràn ngập khắp nơi.
- Ở đây có ai là người Vainakh không? - Tsanka hỏi to bằng tiếng Chechnya.
Cả nhà ăn như lặng đi. Giọng nói oang oang của Tsanka lại vang lên. Một người nào đó vui vẻ thốt lên, phá tan sự im lặng:
- Có, có tôi đây.
Họ ôm chầm lấy nhau trước mắt tất cả mọi người, nhìn vào mặt nhau, không tin vào mắt mình, rồi lại ôm chầm lấy nhau. Đó đúng là người làng của Tsanka, Bochkaev Madar.
Madar không có họ hàng với Tsanka, hai người thuộc hai họ khác nhau, nhưng Tsanka nói với mọi người, Madar là họ hàng gần, thậm chí là anh. Ngay trong đêm đó, Tsanka xin được cho Madar đến ở cùng trại với mình, nằm cạnh mình. Hai người nói chuyện đến tận sáng. Madar khóc nức nở. Tsanka biết, Madar từ lâu đã vào sống trong thành phố Grozny, anh ta xuất thân trong một gia đình nghèo mới đến định cư trong làng. Ngay sau khi cách mạng nổ ra, Madar tham gia vào lực lượng Bolsevich như nhiều người khác có hoàn cảnh tương tự - không họ hàng thân thích và nghèo đói. Thời gian cuối, Madar ít khi xuất hiện trong làng, nhưng mỗi khi về đều cưỡi ngựa đẹp, quần áo tề chỉnh và mang theo vũ khí. Người ta đồn, Madar đã nhiều năm tham gia xây dựng chính quyền Xô viết ở vùng Turkestan xa xôi. Dân chúng còn đồn đại một giai thoại về sự tàn nhẫn của Madar: để tiết kiệm đạn, anh ta bắt những người bị bắt xếp thành hàng dọc rồi bắn trực diện, sau đó kiểm tra đạn xuyên qua được mấy người.
Giờ đây, người Bolsevich kỳ cựu cũng bị bắt, và như những người có tội và không có tội khác phải đi đào vàng cho đất nước. Chắc hẳn đây là nhiệm vụ tiếp theo của Madar.
Tuy nhiên, Tsanka không bao giờ nhắc lại những thành tích cũng như tội lỗi của Madar. Ở đây, Madar chỉ đơn giản là một người thân, có thể thoải mái trò chuyện với nhau bằng tiếng mẹ đẻ. Họ nói chuyện với nhau rất lâu, rồi cùng hát. Madar thường hay khóc lóc, Tsanka thì chẳng còn sức đâu mà khóc nữa: từ lâu anh đã trở nên chai sạn với tất cả. Giữa cơn mơ, Tsanka nghe thấy Madar than vãn về sự bất công, về số phận hẩm hiu của mình.
Buổi sáng, sau khi giao phó công việc của đội và Madar cho người trợ lý, Tsanka không kịp ăn sáng chạy ngay đến trạm y tế. Cũng giống như toàn bộ khu di dân, trạm y tế được xây dựng lại to hơn. Tsanka rất ngạc nhiên khi vừa vào cửa đã gặp ngay Semisastny. Bác sĩ, dáng vẻ tươi tắn, râu ria nhẵn nhụi, mặc áo choàng trắng đang vung tay la hét cái gì đó.
- A, chào anh bạn trẻ! Sao lâu rồi không thấy? Đi làm đường à? Mới quay về hôm qua hả? - Bác sĩ tuôn ra một tràng, - Đến đây làm gì sớm thế? Vẫn là chuyện đó à?
- Vâng và không ạ, thưa cán bộ.
- Thôi đi, tôi biết tỏng cái “vâng và không” của cậu rồi. Chỉ muốn ngồi mát ăn bát vàng chứ gì? Thế nào, anh bạn Bushman đã bỏ rơi cậu phải không? - Trưởng trạm cười ngất. - Thôi được rồi, vào phòng tôi đi.
Phòng riêng của trạm trưởng, cũng như toàn bộ trạm y tế đều mang hình hài mới. Tất cả đều được sơn lại, chiếc tủ gỗ, bàn, ghế mới tạo cho căn phòng một sự ấm cúng. Thoang thoảng mùi rượu, mùi thuốc tây, từ trần nhà thòng xuống một bóng đèn có chao đang chiếu sáng. Đồ vật duy nhất còn lại từ căn phòng cũ là chiếc đi văng bọc vải dầu màu xanh đã bạc phếch. Trong góc có chậu rửa mặt với chiếc thau trên đó có hàng chữ “đã sát trùng”.
- Chắc cậu không biết, ở đây đã có nhiều thay đổi. Thứ nhất và cũng quan trọng nhất, chúng ta có lãnh đạo mới, đó là một sĩ quan an ninh lâu năm. Có lẽ cậu cũng thấy sự thay đổi?
- Vâng, có thấy, - Tsanka gật đầu, - Trên đường về chúng tôi đã nhận ra điều đó trước tiên.
Tsanka đứng ở cửa, Semisastny đi đi lại lại trong phòng, nhìn mình trong gương, khệnh khạng ngồi xuống ghế, vắt chân lên.
- Thứ hai, chúng tôi có thêm ba y sĩ mới. Một người, có thể cậu đã biết. Tất cả đều là tù nhân... Dĩ nhiên, tôi rất hiểu cậu, nhưng thời buổi bây giờ nghiêm ngặt lắm. Cậu thấy đấy, chúng tôi vẫn chưa kịp xây xong trạm y tế, mùa đông đến gấp quá. Lãnh đạo sẽ đến đây kiểm tra.
Semisastny đứng lên, nhìn ra cửa sổ vẻ lo lắng.
- Hiện giờ anh Bushman ở đâu? - Cuối cùng Tsanka bật ra câu hỏi làm anh quan tâm nhất.
- Bushman của cậu là thằng súc sinh! Là cái xác thối chưa chết. Hừ, bây giờ hắn hết đời rồi. Cậu có biết, lãnh đạo cũ của chúng ta đã bị bắt ở Moskva không, hóa ra ông ta là kẻ phản bội, đúng hơn là tên gián điệp. Ông ta là ô dù của Bushman. Đúng là đồ chó đẻ khốn nạn! Chính vì hắn mà tôi phải ở lại đây thêm một năm nữa. Một năm nữa trong cái chốn thâm sơn cùng cốc này... Mới đây, tôi có nhìn thấy hắn ở đấy, hắn hỏi thăm cậu... Này, Tsanka, giữa cậu và hắn có gì chung thế?
Tsanka nhún đôi vai gầy, giờ đây anh chẳng còn nghĩ đến trạm y tế và Bushman nữa mà chỉ nghĩ về bữa sáng đã bị mất, về một ngày mới, về cái công việc đáng nguyền rủa của mình.
- Dù sao thì giữa cậu và cái thằng khốn ranh ma Bushman của cậu cũng có cái gì đó. Thôi, không sao, chẳng bao lâu nữa hắn sẽ phải về trại đi làm với cậu... Dù sao, cái đầu của hắn cũng khá đấy. Họ bảo, hắn đã nghĩ ra cái máy mới để đãi quặng. Một đoàn cán bộ từ Magadan đến đây, rồi người ta đưa hắn đi đâu đó... Nhà bác học! - Semisastny lại ngồi xuống, rót nước vào cốc. - Họ bảo, hắn quan hệ trai gái với vợ của đại đội trưởng... Mà hắn tìm được cái gì ở con mẹ ấy thế không biết? Cái con ngốc kháu khỉnh ấy.
Semisastny uống hết cốc nước, lấy ống tay áo lau miệng.
- Chắc là cậu muốn nhập viện phải không? Đừng ngốc nghếch thế.
- Anh Semisastny, thưa cán bộ, xin cán bộ hãy cho tôi nhập viện, Tôi đang bệnh, tôi kiệt sức rồi. Ở đây tôi sẽ giúp được cho anh, tôi sẽ làm tất cả những gì anh yêu cầu. Anh biết rõ tôi mà! - Tsanka năn nỉ.
- Cậu có biết gì về công việc xây dựng không?
- Tôi có thể làm được mọi việc - Tsanka vội đáp.
- Thôi được rồi, cậu sẽ làm công tác xây dựng, sưởi ấm như bình thường. Nói ngắn gọn, trong trạm y tế lúc nào cũng phải ngăn nắp, trật tự. Trong phòng cuối, có hai tù thường phạm, cậu sẽ làm việc với họ... Việc khác, tính sau. À, trong phòng thứ hai có một tên, cậu đừng dây dưa với hắn. Tên hắn là Mirokhin.
Vốn đã rất thông thạo mọi việc không chỉ trong trạm y tế mà trong cả khu trại, Tsanka như được chắp thêm cánh. Anh không chút khách sáo, cương quyết thiết lập nên một trật tự mới trong trạm y tế, nhanh chóng tìm được những người có trách nhiệm phụ trách công tác xây dựng, sưởi ấm, tạp vụ và các việc khác. Trong thực tế, tất cả người bệnh đều phải làm việc.
Trong trạm y tế, không có cái gọi là tù thường phạm, lao động tự do hay các loại nhân viên khác, mà chỉ có trưởng trạm Semisastny và trưởng phòng quản trị hành chính Tsanka. Đã có kinh nghiệm từ trước, nên ngay trong ngày đầu tiên, Tsanka đã ép tất cả y sĩ vào chân tường, và giờ đây họ sợ trưởng phòng còn hơn là trưởng trạm.
Mặc dù vậy vẫn có một chuyện rắc rối, đó là mối quan hệ khó hiểu giữa trưởng trạm với một kẻ đang chết thối ra là Mirokhin. Mirokhin có thể đi lại thoải mái khắp trạm y tế, tận hưởng hầu như tất cả mọi ưu đãi của trạm. Tsanka né tránh anh ta, công khai tỏ thái độ khó chịu, song không biết làm cách nào để tống khứ hắn đi. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau Tsanka đã chộp được thời cơ.
Một lần Tsanka và trưởng trạm cùng ngồi với nhau trong phòng riêng của ông. Bác sĩ đã uống say, Tsanka không bao giờ uống khi có mặt trưởng trạm và luôn tỏ ra gương mẫu trong công việc cũng như sinh hoạt.
Đúng lúc đó, cánh cửa mở ra, Mirokhin ló đầu vào, nở nụ cười gượng gạo, để lộ ra cái miệng không răng cùng với cái vành răng giả bằng kim loại đã rỉ sét ở hàm dưới. Mọi người im lặng, bối rối, khi đó trưởng trạm liền bật dậy, chạy ra cửa đẩy nhẹ cái khuôn mặt trơ tráo kia ra ngoài. Mirokhin nhăn cái mặt vốn đã rất kinh tởm của mình lại, chỉ hấp háy mắt mà không nói gì cả. Khi đó, Semisastny vội quay lại, rót nửa cốc rượu rồi đưa cho Mirokhin. Tên kia nhanh chóng uống cạn rồi biến ngay.
- Cậu có uống một chút không? - Cuối cùng trưởng trạm phá vỡ sự im lặng kéo dài giữa hai người.
- Nếu anh cho phép, tôi xin được làm bạn rượu của anh.
Cả hai cùng uống, lại một khoảng im lặng ngượng ngùng.
- Mà nói chung, anh Semisastny này, trong đội của tôi có một thanh niên khá lắm, còn trẻ, khỏe mạnh, đẹp trai, có học nữa.
- Thì sao? - Trưởng trạm rít lên.
- À, vậy thôi... Chẳng qua là cái lão già quái thai kia đã ba hoa khá nhiều, bịa đặt đủ chuyện bậy bạ.
- Chẳng lẽ cậu phải chịu trách nhiệm về công tác tổ chức của trạm à?
- Đúng thế, thưa cán bộ.
- Vậy thì hãy chịu trách nhiệm đi. Hãy làm những gì cần thiết... Thằng thanh niên kia tên gì?
- Phomenko ạ. Cậu ta cũng là người Moskva, là nhà thơ hay là vũ công, nghệ sĩ gì đó, đại loại như thế.
- Người Moskva? Đồng hương với tôi? Nếu vậy thì làm ngay đi. Cẩn thận đấy, tôi không ưa những kẻ bẻm mép đâu.
Sáng hôm sau, Mirokhin phải xách gói ra khu lán trại và mất hút luôn ở đó, còn một ngày sau, trong trạm có thêm hai người, một người là tù thường phạm gần như kiệt sức Phomenko, người kia thì quá quen thuộc, Madar. Hình như mọi người đều biết, Madar vốn là cựu nhân viên an ninh.
Bochkaev Madar nhiều tuổi hơn Tsanka. Sau thời gian được nằm trong trạm y tế, anh ta đã khỏe lên, quen dần với công việc và bắt đầu răn dạy lại chú em. Madar khuyên, cần phải xử sự ra sao, hành động như thế nào trong các tình huống, nói tóm lại, phải biết cách sống.
Tsanka đã biết về quá khứ của Madar, tuy nhiên, với tư cách là người đồng hương duy nhất, anh cố quan tâm và bảo vệ Madar, còn những lời khuyên bảo của anh ta thì bỏ ngoài tai.
Buổi tối, họ cùng đến ngủ ở căn phòng xa nhất, hút thuốc lá, khi kiếm được rượu thì cùng uống, cùng nhớ lại mảnh đất quê hương và khẽ hát những bài hát Chechnya. Có lần vào ban đêm, Madar, sau khi đã uống khá nhiều, liền hỏi Tsanka:
- Ở đây, phía nào là phương Nam, phía nào là phương Bắc?
- Anh hỏi để làm gì? - Tsanka ngạc nhiên.
- Chúng ta cần phải cầu nguyện. Cần phải nghĩ đến Thượng đế!
- Anh biết không, Madar, trong cái chốn đáng nguyền rủa này, lẽ ra Thượng đế phải nhớ đến chúng ta. Còn chúng ta, lẽ ra phải cầu nguyện và nhớ đến Thượng đế từ trước mới phải.
Bất chấp mọi nỗ lực của Tsanka, một tháng sau Madar phải xuất viện. Sau đó, Madar còn chạy đến trạm y tế đôi lần nữa, cơ thể tàn tạ, tiều tụy. Vào một đêm, Tsanka phải lần đến khu lán trại, chấn chỉnh lại trật tự ở đó.
Mùa đông thứ hai hóa ra khắc nghiệt hơn nhiều. Hai, ba tuần liền bão tuyết gầm rít. Sau đó, gió lặng, nhưng băng giá lại trở nên dữ dội. Năm đó tuyết rơi dày đến mức suốt ngày đêm phải dọn tuyết trên đường đi trong khu di dân, tuyết nhiều đến mức các tù nhân rất dễ dàng dùng tuyết đắp kín bốn phía lán trại. Đây là vật liệu giữ nhiệt duy nhất bảo vệ chắc chắn các tù nhân tránh khỏi những cơn gió buốt lạnh và băng giá. Thật ra, được cái này thì mất cái kia, trong lán trại không khí rất ngột ngạt, ẩm ướt và hôi hám.
Mới vào đầu tháng Chạp nhưng nhiệt độ đã xuống tới âm sáu mươi độ. Mọi sự liên lạc với đại lục bị gián đoạn. Trong thời tiết giá lạnh như thế, trạm phát điện tại chỗ cũng không thể hoạt động được. Những đêm đông kéo dài bao trùm bóng tối lên toàn bộ thung lũng.
- Âm sáu mươi độ. - Sáng sáng, người lính gác trên tháp canh được sưởi ấm, gõ chiếc búa vào thanh sắt đường ray làm kẻng, hét to.
Cánh cổng mở ra, tù nhân được xua ra ngoải để hít thở không khí trong lành.
- Âm sáu mươi mốt độ. - Người lính canh lại hét lên và lại gõ kẻng.
Âm sáu mươi hai độ và thấp hơn nữa thì người ta khỏi cần thông báo. Chiếc kẻng bằng thanh sắt đường ray cũng không kêu lên nữa. Điều đó có nghĩa là cuộc sống trong vùng đã ngưng lại.
* * *
Lãnh đạo mới của khu trại là một người độc ác và tàn nhẫn. Kỷ luật càng trở nên nghiêm khắc và nặng nề hơn, những hành động bạo lực càng trở nên bừa bãi. Buổi sáng, đoàn người ốm yếu, sống dở chết dở bị xua ra ngoài trời giá lạnh kinh khủng. Buổi chiều, mỗi người, kể cả đội trưởng phải tha về khu trại ít nhất là một nửa giỏ quặng vàng. Ngay lối ra vào bên cổng có một chiếc cân lớn, tù nhân phải đặt giỏ quặng của mình lên đấy. Nếu cái cân báo không đạt trọng lượng quy định thì người tù không được vào khu trại: anh ta không đáng được ăn ở trong trại, anh ta không phải là người lao động vì đã không mang đủ vàng về cho nhân dân.
Khi băng giá trở nên dữ dội hơn, hằng đêm có tới năm, sáu người yếu ớt nhất phải ở lại ngoài cánh cổng. Trước kia, những người này bị tống vào xà lim để cải huấn, nay việc ấy không cần thiết nữa. Trước mắt những con người đó, cánh cổng mở vào cái nơi kinh khủng nhất trên trái đất đã đóng lại, nhưng họ lại bất lực muốn nhào vào cái chốn ấy: họ điên cuồng la hét, tay chân đập loạn xạ vào cánh cổng, cầu xin Thượng đế và những người lính mở cổng ra. Nhưng điều đó đã không xảy ra, và họ, trong nỗi tuyệt vọng ôm chặt vào nhau thành một búi với hy vọng giữ được chút hơi ấm còn lại. Sáng hôm sau, cánh cổng mở ra, những người lính phải dùng xà beng để nạy từng người ra rồi mang đến một nơi khá xa bên sông, được khoanh vùng riêng trong lãnh thổ khu di dân.
Những người tù tận mắt chứng kiến tất cả những cảnh đó, sợ đến lượt mình, đành phải cúi đầu cam chịu trong công việc lao động khổ sai. Tsanka biết rõ kỷ luật tàn nhẫn đó nên cố gắng hoàn thành vô điều kiện mọi sai bảo của trưởng trạm Semisastny. Trạm y tế chật cứng bệnh nhân, người bệnh nằm la liệt: ngoài hành lang, trong phòng bệnh, trong các lều bạt, trong các gian buồng xép, trong cả phòng y sĩ. Nơi duy nhất được tự do là phòng của trưởng trạm, nhưng ở đó cũng có hai y sĩ ngủ cùng với bác sĩ.
Cùng với những điều đó, trong khu trại cũng có một số cải tiến dễ chịu. Những người tù được trả tiền công, và một cửa hàng được khai trương trong địa phận khu di dân. Dĩ nhiên, số tiền rất thảm hại, nhưng có thể mua được bánh mì, ít thuốc lá, rất ít bơ và đường. Tsanka còn trẻ, lại có uy tín nên lãnh đạo khu di dân định bổ nhiệm làm bảo vệ cửa hàng, tuy nhiên trưởng trạm y tế Semisastny đã thuyết phục được lãnh đạo từ bỏ ý định đó.
- Cậu ra đó làm gì? Nếu cửa hàng bị mất gì đó thì cậu sẽ là người có lỗi, còn ở đây, cậu chẳng phải mạo hiểm cái gì, lại được sống như quý ông.
Tuy nhiên, có những điều không ai có thể lường trước được. Vào một đêm tháng Giêng, trong trạm y tế xảy ra một đám cháy, một phần nhà cửa bị cháy rụi, một số tù nhân bị bỏng nặng. Sáng hôm sau, lãnh đạo khu di dân đến trạm y tế để kiểm tra. Trưởng trạm y tế phải khó khăn mới qua được cơn nghiện rượu định kỳ, các y sĩ thì lúng túng không biết làm gì, chỉ có mỗi Tsanka là đang cố gắng dọn dẹp.
Vị lãnh đạo im lặng đi kiểm tra tất cả các phòng ốc của trạm, không bỏ qua chỗ nào, vài y sĩ đi theo.
- Đưa tất cả ra đường. Không loại trừ một ai.
Ngay cả các bệnh nhân sống dở chết dở cũng bị đưa ra ngoài. Nhiều người ngã gục, những người đi bên cạnh đỡ lên, chỉ còn lại vài người nặng nhất mới được để lại trong phòng. Semisastny đã tỉnh rượu, hai mắt sưng húp, như bóng ma vật vờ lặng lẽ theo dõi mọi động tĩnh của lãnh đạo, xum xoe gật đầu lia lịa.
- Chẳng khác gì thời chế độ nông nô, và chắc hẳn sẽ mãi như vậy, - một người nào đó đứng cạnh Tsanka, khẽ nói.
Ngoài trời rất lạnh, những người tù đã quen với điều kiện ấm áp trong trạm y tế, giờ đây run lên bần bật vì giá lạnh.
- Những người này có bệnh án không? - Vị lãnh đạo hét lên.
- Dạ, dĩ nhiên là có ạ. - Trưởng trạm y tế mau mắn đáp. - Có cần mang lại không ạ?
- Không cần, chúng ta sẽ xem xét ngay tại chỗ. Cái anh chàng cao ngồng kia cũng là bệnh nhân à? - Lãnh đạo chỉ ngón tay chuối mắn vào ngực Tsanka? - Nếu vậy thì ai sẽ đi làm? Hay là tôi đưa anh đi? - Ông nhìn trưởng trạm đang co rúm người bằng ánh mắt khinh bỉ.
Ngay trong ngày hôm ấy, Tsanka bị xuất viện, sang ngày hôm sau anh bị tống ra ngoài trời để đào vàng. Đội trưởng đã được chỉ định người khác, nhưng trong khu trại, Tsanka đã xác lập được vị trí của mình.
Anh không phải là tù hình sự, mà cũng chẳng phải tù chính trị, anh là một người tù khác thường theo kiểu của mình.
Tsanka không biết luật lệ của bọn trộm cắp, cũng không hiểu và coi khinh cái thói xu nịnh và xu thời của tù chính trị, anh chỉ là anh.
Những người tù, những người lính bảo vệ đều biết rõ tính cách ngang ngạnh của Tsanka, nên có người nhìn anh với ánh mắt sợ sệt, người khác căm ghét, có người lại quý trọng, còn những người bảo vệ thì nhìn anh qua kẽ ngón tay.
Tất cả những điều đó đều không làm Tsanka thích thú. Rõ ràng là cuộc sống của Tsanka thuộc loại có đặc quyền: chỗ nằm cạnh lò sưởi như được đặt sẵn vĩnh viễn, một suất ăn đầy đủ hơn trong nhà ăn, quà cáp như là lẽ đương nhiên từ bọn trộm cắp, và cuối cùng, một chế độ làm việc được ưu đãi. Từ sáng sớm, việc đầu tiên các thành viên trong đội phải làm là chất đầy quặng vào giỏ của Tsanka và của đội trưởng, sau đó họ mới đào quặng cho chính mình.
Tuy nhiên, Tsanka không nhìn thấy điều đó, dẫu có thể nào thì anh vẫn cảm thấy nặng nề, lạnh lẽo, đau đớn và mất tự do. Tsanka không thể chịu đựng hơn được nữa, anh muốn về nhà, muốn được tự do, lúc nào cũng thầm nguyền rủa Bushman, chỉ mong được gặp anh ta và nện cho anh ta một trận.
Tsanka cố gắng tìm một công việc gì đó để lãng quên. Ban ngày, trong lúc làm việc, Tsanka đi lượm cành khô, bụi cây để đốt một đống lửa. Lán của anh là chiếc lán duy nhất có hai lò sưởi và được sơn trắng bên trong (các bệnh nhân ở trạm y tế đã làm điều đó khi Tsanka còn ở trạm).
Ngay từ dạo đầu thu, Tsanka đã lo trước chuyện củi đốt. Trong nhà ăn, đội của Tsanka ngồi ở chỗ tốt nhất, ấm áp, bánh mì cũng được phát nhiều hơn các đội khác. Và cuối cùng, quan trọng nhất: không ai dám xúc phạm Tsanka, anh là người bảo vệ cho tất cả những con người ốm yếu, mà họ lại chiếm số đông.
Hầu như suốt cả tháng Hai, nhiệt độ thấp hơn sáu mươi hai độ. Không ai làm việc. Tù nhân ngồi trong các lán trại. Nhà ăn không làm việc. Mọi người ốm đau, đói lả và chết ngay trong lán. Suốt ngày đêm, chỉ cần một lời nói, một ánh mắt là có thể nổ ra các cuộc đụng đột khốc liệt, đôi khi là những vụ đánh nhau tập thể.
Trong bóng tối không ai nhìn thấy gì, nhưng mọi thứ đều có thể được sử dụng: dao, gậy, thòng lọng. Những kẻ yếu nhất chui tọt xuống gầm phản. Vào những lúc như thế, uy tín của Tsanka chẳng có nghĩa lý gì, mọi người đều chống lại mọi người. Tất cả đều muốn sống sót.
Thông thường, sau những vụ đánh nhau tập thể khốc liệt như vậy, sẽ có một khoảng thời gian yên bình. Khi đó, một người nào đấy, kiếm được một cái gì đấy rồi nấu nướng trên bếp lò. Đồ ăn đủ cho tất cả. Tsanka không bao giờ hỏi, ăn cái gì, anh cũng như mọi người, đều lặng lẽ ăn. Tsanka và đội trưởng được cho ăn riêng. Điều quan trọng nhất về chất của món ăn chính là nó nóng, những chuyện khác chẳng ai thèm quan tâm. Một lần, các tù nhân nấu cái gì đó, tất cả đều lặng lẽ ăn. Một không khí im lặng bao trùm.
- Bốc mùi như bồ hóng. - Ai đó từ trong bóng tối thốt lên.
- Còn gì nữa, cái thằng khốn ấy hút đủ thứ kinh tởm, thậm chí cả cứt khô nữa.
Tsanka sặc một cái, tức giận ném cái đĩa với món canh thịt nóng sốt ấy vào góc lán rồi bật dậy, vừa chửi bới ầm ĩ vừa vung hai nắm đấm lên. Lại một cuộc ẩu đả tàn khốc nổ ra trong bóng tối, tuy nhiên sức lực của mọi người còn lại rất ít, nên sau cú bùng lên dữ dội, mọi người đều thở dốc ra, và sự cuồng nhiệt tan đi rất mau. Chỉ còn lại nỗi tức giận và căm thù tất cả, nhất là những người bên cạnh.
Đến tháng Ba thì băng giá đã giảm hơn, nhưng những cơn bão tuyết lại bắt đầu nổi lên. Tuyết rơi nhiều đến mức, sáng sáng mọi người phải dọn tuyết trên đường đến chỗ làm việc, và khi đến nơi rồi thì phải đào một lớp tuyết dày nữa.
Vào cái ngày không thể nào quên đối với Tsanka đã xảy ra một cơn bão tuyết.
Tất cả như lịm đi. Không ai có thể làm việc nổi. Càng ngày, các tù nhân yếu ớt lại càng đào được ít hơn cái thứ quặng vàng xui xẻo ấy, còn lãnh đạo lại càng tức giận. Chỉ tiêu kế hoạch không thực hiện được. Đã mấy tuần nay, Tsanka không đốt đống lửa, và cũng như tất cả mọi người, hai cánh tay tê cứng như gỗ của anh cũng phải đào quặng.
Cuối cùng, những người tù kiệt sức không muốn và cũng không thể làm việc cho ai được nữa. Lớp đất đóng băng cứng như sắt không chịu khuất phục trước những nhát cuốc yếu ớt. Chỉ đào được một nửa cái sọt to tướng cũng đã quá vất vả.
Trời tối, mọi người vội vã quay về trại, về nhà ăn ấm áp, sau đó về lán để ngã vật xuống không cần cởi quần áo, và thiếp đi cho đến sáng mai để quên đi cơn ác mộng khủng khiếp. Một số người đào được đủ số quặng. Không ai muốn làm việc, tất cả chỉ chờ hiệu lệnh của đội trưởng, đoàn người lộn xộn bắt đầu kéo lê trên con đường mòn nhỏ chạy về phía khu trại cùng với giỏ quặng của mình. Tsanka đi sau đội trưởng.
- Tsanka, Tsanka, dừng lại đã. - Madar đi sau, tuyệt vọng gọi với lên bằng tiếng Chechnya.
- Cái gì? Có chuyện gì thế? - Tsanka vẫn không quay đầu lại, vừa đi vừa hỏi.
- Tôi không có gì cả, giỏ tôi không có gì.
Madar còn nói câu gì đó nữa, nhưng những từ cuối bị cuốn theo cơn gió vừa nổi lên. Tsanka lạnh lùng bước tiếp, những ngón tay tê dại của anh càng nắm chặt hơn vào quai giỏ.
- Tsanka, Tsanka, xin cậu hãy cứu tôi. Cậu có nghe tôi nói không? Hãy cứu tôi! Xin đừng bỏ tôi. - Madar tuyệt vọng hét lên.
Cuối cùng, khi thấy Tsanka không có phản ứng gì cả, Madar liền ném chiếc giỏ và dụng cụ đào quặng của mình đi, gạt mọi người ra, lao lên trên con đường hẹp.
- Tsanka, dừng lại đã, xin hãy giúp tôi! Cầu xin Thượng đế và tất cả các nhà tiên tri! Hãy giúp tôi! Hãy cứu tôi! Giỏ của tôi không có gì cả. - Madar nói bằng tiếng Chechnya, túm chặt hai tay vào chiếc áo khoác ngắn của Tsanka.
- Thôi đi. - Vẫn không quay lại, Tsanka hẩy vai, Madar ốm yếu bay vào bờ tuyết bên đường, nhưng anh ta lại bật dậy, gần như bò trên bốn chân đuổi theo người đồng hương, ngã xuống, lại đứng lên, hai tay bấu chặt vào chiếc giỏ của Tsanka.
Tsanka dừng lại, quay đầu. Madar ngã gục xuống chân anh. Đoàn người cũng dừng lại, tất cả đều nín thở chờ đợi. Trời tối, bão tuyết càng dữ dội hơn, như xé nát tất cả các sinh vật sống.
- Tsanka. Tsanka yêu quý ơi, xin hãy cứu tôi! Hãy giúp tôi! Lần cuối cùng tôi van xin cậu! Cầu xin Thượng đế, hãy cứu giúp con!
- Chẳng lẽ tôi phải cõng anh trên vai suốt đời sao? Tôi giúp anh bằng cách nào đây? Bằng cách nào?
- Hãy lấy bớt của ai đó, hãy cướp của những tên người Nga súc sinh kia. - Madar rên rỉ bằng tiếng Chechnya. - Hãy giúp tôi! Hãy cứu tôi!
Tsanka nghiêng người xuống, như là sợ anh ta không nghe rõ, nói:
- Anh hãy tự lấy đi, hãy tự cướp đi. Tôi có khác gì anh đâu?
- Tôi không thể. Tôi không thể.
- Anh có thể, nếu thấy cần, - Tsanka rít qua kẽ răng bằng tiếng Chechnya, rồi giật mạnh chiếc giỏ của mình khỏi tay người đồng hương đang nằm dưới đất.
Đoàn người lại tiếp tục bước, Tsanka không quay đầu lại lần nào nữa, nhưng anh vẫn nghe tiếng Madar la hét ở phía sau.
Họ đến cổng.
Người đầu tiên đi vào bao giờ cũng là đội trưởng, tiếp theo là Tsanka. Anh quẳng chiếc giỏ của mình chỉ chứa một nửa quặng lên cân, chiếc kim khẽ nhúc nhích rồi hơi nghiêng đi một chút. Không chờ phản ứng của người lính, Tsanka hoảng sợ nín thở bước qua.
Những người lính cũng im lặng, Tsanka thở phào nhẹ nhõm, tim như thắt lại.
- Tsanka, Tsanka, đứng lại, đừng đi. - Madar tuyệt vọng hét lên ở phía sau. - Xin hãy giúp tôi, cứu tôi!.. Đồ đáng nguyền rủa!
Tsanka bất giác quay đầu lại, anh dợm bước về phía người đồng hương. Nhưng đội trưởng liền nắm lấy khuỷu tay Tsanka, còn các tù nhân khác cản đường lại. Tsanka nhìn thấy Madar hét cái gì đó, hai tay vung lên, lao về phía khe cổng hẹp, trong bóng tối lóe lên chiếc báng súng bằng gỗ vécni lấp loáng, một cú đánh khô khốc, tất cả lặng đi.
Bị chấn động mạnh, Tsanka không thể đến nhà ăn, anh về lán và đổ vật xuống phản. Buổi tối, Tsanka bị những cơn ác mộng hành hạ, lên cơn sốt và mê sảng. Lúc gần sáng, Tsanka chạy ra cổng.
- Madar, Madar! - Tsanka hét lên. - Ma-da-ar!
Mãi một lúc cánh cổng mới mở ra. Một đống tuyết không lớn lắm nằm ngay giữa đường... Tsanka đổ vật xuống bất tỉnh.
Tsanka không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua, trong cơn mê sảng anh chỉ nhớ như nghe thấy một giọng nói từ rất xa vọng lại. Cuối cùng anh nhận ra giọng nói đớt của Bushman. Tsanka mở mắt ra: có ba người đang đứng ngay bên giường, hai người mặc áo choàng trắng, một người mặc thường phục.
- Nhờ ơn Thượng đế! Hình như cậu ta đã qua khỏi.
Bàn tay lạnh ngắt của ai đó cởi áo Tsanka ra, luồn ống nghe vào bộ ngực lép kẹp đầy lông. Sau đó hai người mặc áo choàng trắng đi ra, chỉ còn lại Bushman ngồi trên chiếc ghế đẩu. Anh ta sửa lại gối, đắp lại chăn cho Tsanka.
- Nào, hãy cố gắng bò ra đi, bình phục nhanh lên. - Vừa nói Bushman vừa lấy miếng gạc ở trên bàn nhẹ nhàng chùi mắt cho Tsanka.
- Thế nào, cậu nhìn thấy tôi chứ?
Tsanka ngước mắt lên, giờ đây anh đã nhìn thấy Bushman rõ hơn: khuôn mặt đang cười, làn da sáng, mịn màng, cặp kính mới, tóc chải ngay ngắn.
- Tsanka, tôi không nghĩ cậu lại yếu đuối và đa cảm đến thế. Anh ta là ai, có phải anh trai cậu không? Hai người không cùng họ, nghĩa là cũng chẳng phải bà con.
Tsanka nhắm mắt và nhớ lại tất cả.
- Thôi được rồi, được rồi, cậu cứ bình tĩnh. Nhờ ơn Chúa mà ở đây có y sĩ mới trong số tù nhân. Một người rất thông minh lại có đôi tay vàng nữa! Nếu không có ông ấy, chắc cậu đã ngoẻo rồi. Một chuyên gia về các bệnh phổi. Cậu biết đó là gì không? Nói ngắn gọn là phổi... Bây giờ tôi phải đi, tối tôi sẽ ghé lại... Tôi lại được điều về đây, phụ trách nồi hơi.
Tsanka định ngồi dậy, muốn hỏi một việc.
- Không, không, cứ nằm đi. Giờ cậu phải nằm im. Tối chúng ta sẽ gặp lại, sau đó sẽ nói chuyện. Bình phục nhanh lên.
Bushman lặng lẽ biến mất. Tsanka mở mắt ra nhìn lên trần nhà ám khói, bất giác ứa nước mắt. Anh cảm thấy yên lòng: giờ đây, Tsanka không còn nghĩ về Madar nữa, anh chỉ nghĩ về bản thân. Anh đã sống sót, và anh muốn sống.
Sau vài ngày, Tsanka đã có thể ngồi dậy, chậm chạp đi lại trong trạm y tế. Ngày nào Bushman cũng ghé lại, chăm sóc Tsanka như người thân. Không chỉ trong trạm y tế mà trong toàn bộ khu di dân, không ai có được những thứ như Tsanka: mật ong nguyên chất và mỡ gấu nữa.
- Ăn đi, ăn đi. Ăn nhiều nữa vào, - Bushman vừa nói vừa chìa thìa mật ong vào miệng Tsanka. - Tôi phải đặt mua riêng thứ này từ thành phố Magadan đấy. Cậu may thật, không bị lao phổi. Y sĩ Ivanov Iakov Petrovich là một thày thuốc rất giỏi. Rất tiếc là sắp tới ông ấy lại bị điều đến bệnh viện khu vực ở Magadan.
Một lần vào buổi sáng, trong giờ thăm bệnh hàng ngày, trưởng trạm y tế Semisastny và y sĩ Ivanov cùng đến chỗ Tsanka. Trưởng trạm mỉm cười vui vẻ, từ người anh ta tỏa ra mùi rượu.
- Công dân Arachaev ạ, cậu là người đầu tiên nằm ở trạm sau khi trạm đã xây dựng xong. Dĩ nhiên ốm đau chẳng ai muốn, nhưng còn hơn là ở đằng kia.
Trưởng trạm hất đầu để Tsanka hiểu.
Tsanka vẫn nằm trên giường. Y sĩ Ivanov nhanh nhẹn dùng đôi tay xương xẩu thành thạo lật chăn ra, bắt đầu khám. Ông đưa chiếc ống nghe lạnh ngắt lên ngực Tsanka, khám rất lâu và kĩ.
Đôi mắt lờ đờ của ông nhìn xuống đất, khuôn mặt già nua, đầy vết nhăn.
“Lạ thật, không biết ông già này bị bỏ tù vì tội gì nhỉ?”, - Tsanka thầm nghĩ.
- Thở đi, thở sâu vào. Nữa... Thở nữa... Thở nữa.
Sau đó y sĩ cất ống nghe đi, đắp chăn lại cho Tsanka.
- Tôi nghĩ, cần phải cho bệnh nhân chuyển viện. Chỉ cần chế độ điều trị bị trục trặc một chút là bệnh nhân sẽ bị biến chứng ngay.
- Được rồi, được rồi. Ông hãy chuẩn bị đầy đủ bệnh án cho anh ta. Vậy là thế này, Tsanka yêu quý ạ, dĩ nhiên là cậu biết cách sắp xếp trật tự, nhưng cậu cũng biết đấy, không có xấu thì lấy đâu ra tốt. Chúng tôi sẽ chuyển cậu đến bệnh viện khu vực với tư cách một tù nhân danh dự. Cậu hãy cảm ơn y sĩ Ivanov. Ông ấy đã cứu cậu một lần rồi và bây giờ lại cứu cậu một lần nữa... Thế đấy, hai người sẽ đi bằng xe cấp cứu vào thứ năm này.
Tsanka không biết phải làm gì, trong lòng vô cùng sung sướng nhưng không dám để lộ ra. Anh lặng lẽ đi lại trong bệnh xá, cố giấu ánh mắt hạnh phúc của mình. Chỉ còn hai ngày nữa Tsanka sẽ rời bỏ mảnh đất đáng nguyền rủa này, cái khu trại khủng khiếp này. Anh luôn miệng cầu nguyện và cám ơn Thượng đế. Buổi tối, Tsanka chia sẻ niềm vui với Bushman và cũng cám ơn anh ta. Tsanka nhận thấy có sự thay đổi trên nét mặt Bushman, và anh hiểu tại sao. Dĩ nhiên là Tsanka đã gặp may, quá may. Còn điều gì sẽ đến với Bushman, hiện tại vẫn chưa rõ. Nhưng đó là việc của anh ta. Anh ta sẽ không sao, “Điều quan trọng là mình thoát khỏi đây. Hạnh phúc quá!”, - Tsanka thầm nghĩ.
Buổi tối ngày thứ tư, Tsanka thu dọn số đồ đạc ít ỏi cả mình để chuẩn bị lên đường. Anh nằm trong bóng tối phòng bệnh, hai tay đặt dưới đầu, mắt mở to. “Mình thật hạnh phúc. Bushman nói đúng thật: cần phải khổ đau bao nhiêu mới hiểu được thế nào là hạnh phúc. Dĩ nhiên, không biết điều gì đang chờ đợi mình ở phía trước, ở Magadan? Nhưng mình sẽ rời khỏi vùng đất đáng nguyền rủa này. Mình sợ sẽ phải nằm trong đống xác chết. Mình sẽ được thả. Mình sẽ làm tất cả để đạt được điều đó. Chỉ cần đến được Magadan, sau đấy sẽ tính... Chỉ mong trời sáng mau lên để nhanh chóng rời khỏi đây... - Tsanka thầm nghĩ. - Thượng đế thật công minh! Con xin cám ơn người, thánh Allah”.
Với những ý nghĩ đó, Tsanka nằm trong phòng bệnh của mình cho tới sáng.
Điều duy nhất làm Tsanka hơi lo lắng một chút là không có ai nhắc nhở anh gì cả, không ai nói gì, ngay cả Bushman cũng không thấy xuất hiện.
“Có thể hiểu được Bushman, anh ta phải ở lại, còn mình thì ra đi. Dĩ nhiên, trong khu di dân, Bushman có một vị trí đặc biệt. Nhưng dù có là ai, ngay cả người lãnh đạo cao nhất cũng không thể sống ở đây được. Dĩ nhiên, hiện giờ Bushman rất đau khổ. Mình cũng hơi buồn vì phải chia tay với anh ta... Cầu xin Thượng đế cho anh ta sớm được thả ra... Trời sáng nhanh lên”, - Tsanka vui sướng ngẫm nghĩ.
Trời sáng, có tiếng động cơ ô tô bên ngoài cửa sổ trạm y tế. Nhưng Tsanka ngủ thiếp đi, mãi đến khi trời sáng bạch mới bật dậy, chạy vào phòng trưởng trạm, nhưng ông trưởng trạm không có mặt. Một không khí tất bật vội vã đang diễn ra. Mọi người như đang chờ đợi điều gì đó. Cuối cùng, một sĩ quan bảo vệ đi theo xe nói to:
- Các tù nhân Ivanov Iakov Petrovich, Shaldai Vladimir Ivanovich, Tepnov Andrei Iosiphovich, bước ra! Nhanh lên!
Tsanka sượng sùng đứng im, bất lực chớp mắt lia lịa. Sau vài giây, anh đuổi theo người sĩ quan.
- Còn tôi ạ?.. Có tên Arachaev trong danh sách không ạ?
- Không, - người sĩ quan đáp gọn lỏn.
Tsanka run bần bật, lao về phía y sĩ Ivanov, đứng trước mặt ông.
- Còn tôi? Còn tôi nữa? Chính ông đã nói...
- Tôi đã làm tất cả những gì có thể. Tôi không hiểu. - Người y sĩ vung tay, bất lực.
Suốt cả ngày thứ năm Tsanka nằm úp mặt trên giường. Anh tuyệt vọng ôm chặt chiếc gối nhỏ, tiếng rên rỉ bật ra từ lồng ngực. Vài lần Tsanka chạy đến phòng trưởng trạm y tế, mãi sau bữa trưa Semisastny mới xuất hiện. Tsanka chẳng thèm khách sáo chạy thẳng vào phòng ông, thở hổn hển, nóng nảy vung tay lên nhưng không thể nói gì được, chí có đôi mắt màu xanh mở to là vằn vện những tia máu và nỗi căm giận.
- Tôi không có lỗi. Chính anh bạn Bushman của cậu đã không đồng ý đưa cậu đi. - Trưởng trạm Semisastny thản nhiên nói.
Đêm đến, lợi dụng bóng tối, Tsanka ra khỏi trạm y tế. Theo con đường quen thuộc anh lần đến gian nồi hơi của Bushman. Tháng Năm, băng giá ngoài đường đã yếu, không khí mát mẻ, dễ chịu, tuyết kêu lạo xạo dưới chân. Bầu trời đầy sao trong veo, cao vời vợi. Vầng trăng non treo trên rặng núi, ánh vàng yếu ớt của nó xuyên qua những đám tinh thể sương muối biến thành những tia sáng rực rỡ sắc màu.
Tsanka bước thận trọng, chậm rãi, nép vào bóng các công trình xây dựng. Đã lâu anh không ra ngoài trời. Sau những ngày tù túng, ngột ngạt, toàn mùi thuốc thang và bệnh tật ở trạm y tế, Tsanka cố hít sâu làn không khí trong lành ngoài trời. Làn không khí tươi mát cùng với nỗi lo sợ bị phát hiện làm Tsanka bình tâm trở lại.Anh tỉnh táo khẽ nhón chân bước lại gần chiếc cầu thang quen thuộc, trèo lên. Tsanka nhận thấy cầu thang rộng hơn trước, tay vịn mới, chắc chắn hơn, bậc thang khô ráo. Lên cao, hơi thở càng dồn dập, Tsanka cảm thấy một sự yếu ớt không chỉ trên đôi chân mà lan khắp cơ thể. Anh đẩy cửa. Cửa đóng. Đẩy lần nữa. Có tiếng loạt soạt sau cánh cửa.
- Ai đấy?
- Tôi đây - Tsanka khẽ đáp.
- Tsanka, cậu đấy à?
Nghe tiếng Bushman lục sục trong phòng, tiếng cái gì rơi. Cuối cùng cánh cửa mở ra. Tsanka nhào vào trong căn phòng nhỏ.
- Sao anh lại làm thế? - Anh hỏi.
Tsanka cứ nghĩ, gặp Bushman, anh sẽ nện cho anh ta một trận ra trò, cho đến chết, nhưng khi nhìn thấy Bushman, Tsanka chỉ thốt ra câu hỏi ấy rồi đẩy Bushman sang bên còn mình thì ngồi xuống phản, đôi chân rũ ra, mềm oặt, không thể đỡ nổi cái cơ thể dài ngoằng, gầy guộc của mình nữa.
- Đằng nào thì cậu cũng không thể đi đến nơi được. Cậu nghĩ xem, mấy ngày liền ngồi trên chiếc xe tải lạnh buốt, xóc nảy người, gió lạnh thổi lồng lộng. Cậu phải bình phục đã. Tốt hơn là hãy uống đi, nào, cho nóng người.
Buổi sáng, trong giờ thăm bệnh, bác sĩ trưởng trạm ghé lại, vung tay lên:
- Tôi thậm chí cũng không biết cái tay Bushman ấy muốn gì nữa ở cậu nữa? Dĩ nhiên, tốt hơn là cậu nên đi.
Nhân ngày sinh nhật của trưởng trạm, mùng tám tháng Năm, Bushman, Semisastny và Tsanka cùng ngồi trong phòng riêng của ông uống rượu. Rèm cửa sổ buông xuống. Như mọi khi, Bushman không biết kiếm được ở đâu đó chả lụa, thịt xông khói, tỏi và thuốc điếu. Khi đã ngà ngà, Bushman nói:
- Chẳng lẽ Tsanka có thể đi nổi tới Magadan? Băng giá như thế, lại còn đang bệnh nữa. Chắc chắn là không tới được.
- Thì bây giờ đang ở đây, mùa đông băng giá sắp tới, càng ngày càng lạnh hơn. - Trưởng trạm nói.
- Trước khi mùa đông đến còn mùa hè nữa...Mùa hè là thời gian của những biến động, dịch chuyển, xáo trộn! Nào, chúng ta hãy uống vì mùa hè! - Bushman đứng dậy vui vẻ nâng chiếc cốc thủy tinh nhiều cạnh lên.
Cơ thể trẻ trung của Tsanka dần dần hồi phục. Anh đi lại nhiều hơn, cảm thấy ngon miệng và cảm nhận được sức mạnh trên chân, tay. Những tố chất di truyền của Tsanka lại được đánh thức dậy: anh không thích tụ tập, bè phái, chỉ thích tự do, độc lập, tự chủ, và sự thận trọng của người thủ lĩnh. Trong trạm y tế, một trật tự nghiêm túc lại được thiết lập. Mặc dù Tsanka chưa bao giờ gia nhập quân đội, nhưng bằng bản năng anh cảm nhận được tính chất thứ bậc trong công tác tổ chức. Mỗi một bệnh nhân, trừ những bệnh nặng, đều được giao một công việc cụ thể. Hàng ngày, trạm y tế đều được quét dọn, lau chùi, cọ rửa sạch sẽ. Trong thời gian làm vệ sinh, Tsanka đi dọc hành lang, đưa ra những mệnh lệnh và những nhận xét khác nhau: quát mắng, biểu dương, trêu chọc hay chế giễu người này, người kia. Nhìn chung, Tsanka có khả năng hình thành nên trong trạm y tế một không khí kỷ luật cùng với sự ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau. Anh làm tất cả những việc đó với lòng hăng say và thích thú. Ông trưởng trạm Semisastny, thờ ơ với mọi việc, rất hài lòng với những sáng kiến của Tsanka, thậm chí còn tỏ ra tôn trọng anh nữa.
Sau chưa đầy hai năm ở Kolyma, Tsanka đã hoàn toàn thích nghi với điều kiện sống ở đây: anh nhanh chóng hiểu rõ mọi người, ít nói, né tránh lãnh đạo, nhưng lại gần gũi với nhà ăn, trạm y tế, và điều quan trọng nhất là không trở thành “đại bàng”, tù chính trị lại càng không, và như Tsanka vẫn thường nói với chính mình anh là người Chechnya. Mặc dù vậy, cuộc sống này không thể nào thích hợp với Tsanka. Anh sợ lạnh, sợ binh lính, sợ thời hạn tù quá dài. Tsanka chỉ muốn về nhà, về với những rặng núi cao của mình, uống dòng nước trong vắt và sạch sẽ từ nguồn nước quê hương. Suốt ngày đêm, niềm mong ước ấy chưa bao giờ nguôi ngoai, lúc nào Tsanka cũng mong cho đến thời điểm ấy, nhưng không biết làm cách nào.
* * *
Vào thời gian đó, bác sĩ trưởng trạm y tế Semisastny và nhà vật lý Bushman kết thân trở lại. Số phận của họ có nhiều điểm chung: đồng tuổi, đồng hương Moskva, cùng là dân trí thức, cùng buồn nhớ về một thành phố, về những con phố quê hương và các bậc sinh thành. Cả hai đều muốn rời bỏ vùng đất bất hạnh này, chỉ có điều, một người thì không có ý chí, người kia thì ý chí yếu ớt. Họ kết thân với nhau như người tù và người làm thuê có thể kết thân với nhau khi cùng lâm vào những điều kiện sinh hoạt và thời tiết phức tạp.
Bushman có khả năng bẩm sinh về thôi miên. Sau lưng anh ta, mọi người có thể căm ghét, chửi bới, nguyền rủa, nhưng chỉ cần Bushman xuất hiện là những ý nghĩ kia liền chuyển xuống hàng thứ yếu. Về Bushman, không thể nói anh ta là người học vấn cao, Bushman không am hiểu lịch sử, văn học, không yêu thích các môn khoa học xã hội nhân văn, coi đó chỉ là công việc của những kẻ ba hoa và trộm cắp. Là người theo chủ nghĩa thực dụng, Bushman chỉ yêu sự chính xác và các phép tính. Ngay cả với môn khoa học yêu thích của mình - vật lý - Bushman cũng chỉ tiếp cận từ các góc độ hợp lý. Ngay từ năm thứ ba, trong khi lên lớp, nghe thầy giáo nói, tương lai nằm ở sóng điện từ, và thế là chàng sinh viên trẻ Bushman liền bỏ hết các môn học khác, kể cả vật lý, mà chỉ vùi đầu vào các tài liệu liên quan đến dao động và sóng điện từ. Cuối khóa học, Bushman không thể nêu chính xác một ngày tháng lịch sử nào, ngoại trừ cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917, chẳng những thế, Bushman còn nhầm lẫn lung tung về các định luật vật lý đơn giản nhất, nhưng để bù lại, anh ta nắm rất rõ tất cả, hay hầu như là tất cả các lý thuyết về sóng. Trình độ kiến thức của Bushman hơn hẳn vốn kiến thức của một vài giáo viên. Bushman nổi bật lên như một ngôi sao sáng chói, như một chuyên gia đầu ngành không thể không biết đến. Bushman nhanh chóng trưởng thành trong môi trường khoa học.
Bushman có một cuộc sống rất rõ ràng và cụ thể. Ngay từ khi còn học phổ thông, Bushman đã hiểu, một cuộc đời hoạt động chính trị và xã hội không làm cậu bận tâm. Trong sinh hoạt, Bushman là một người dễ dãi, nhưng lại là một kẻ khó chịu đối với những người xung quanh. Bài học nặng nề nhận được từ khi còn bé về việc bị truy đuổi do chủng tộc, nên suốt cả cuộc đời, Bushman chỉ nghĩ đến bản thân, và biết rõ, kết quả cuối cùng chỉ phụ thuộc vào chính bản thân mình mà thôi. Bushman có một câu thành ngữ ưa thích: “Gieo gì, gặt nấy”.
Đôi mắt đen, lồi, nước da ngăm ngăm, tóc xoăn đen nhánh luôn làm cho Bushman nổi bật lên trong số bạn bè đồng trang lứa. Như sau này chính Bushman đã nói, mọi người xung quanh đã biến anh ta thành người Do Thái. Cha mẹ Bushman là những người nghèo cả trong nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, mong ước đứa con trai duy nhất sẽ trở thành bác sĩ như họ, ít ra thì lúc nào cũng có thể kiếm được miếng bánh mì nuôi thân. Ngay từ nhỏ, họ đã chuẩn bị cho Bushman thi vào trường y, nhưng khi lớn lên, cậu con trai đã làm theo ý mình.
- Con không muốn lúc nào cũng phải nhìn thấy người bệnh. Mà bác sĩ là một người trung hòa, - Bushman nói với mẹ. - Chính mẹ cũng thấy: khi người bệnh bình phục, họ sẽ cảm ơn số phận, còn khi chết, họ sẽ nguyền rủa bác sĩ. Mà những đồng tiền nhận từ tay người bệnh là những đồng tiền khổ đau dù chúng có nhiều đến đâu... Mẹ hãy nêu ra cho con thấy, ít ra là tên một bác sĩ vĩ đại? Không có. Bởi lẽ, ai cũng bảo, tất cả đều nằm trong tay Thượng đế và trong chính tay người đó, còn bác sĩ, chỉ là tên lừa đảo, chữa được thì tốt, không chữa được thì thôi.
Khi cha mẹ Bushman giới thiệu cho cậu những ngành nghề khác, từ luật cho tới hội họa, âm nhạc, nhưng Bushman chỉ chọn vật lý. Bushman có mục đích của mình và đến với nó một cách kiên trì, cương quyết. Bushman đạt được mục đích của mình bằng sự lao động cực nhọc, hằng ngày, hằng đêm. Bushman không có bạn, chỉ có người quen và đồng nghiệp. Anh ta không biết cách nghỉ ngơi và cũng không thể nghỉ. Ngày lễ, ngày nghỉ đối với Bushman là những cơn ác mộng, anh ta chỉ thích làm việc, chốn yêu thích nhất của Bushman là thư viện, mặc dù vậy anh ta cũng không thích phòng thí nhiệm, không thích bị bẩn tay. Sau này, khi đã đạt được những thành công đầu tiên, Bushman nói: “Thí nghiệm là công việc của các kĩ thuật viên, còn chúng ta phải tư duy. Khoa học là tư duy”. Và đúng như thế, Bushman đã gặp may: cùng với khả năng làm việc, anh ta còn có một cái đầu biết tư duy.
Bushman đã công bố và thuyết giảng nhiều công trình khoa học, nhưng không bao giờ tranh cãi với lãnh đạo, biết cách lấy lòng cấp trên và coi thường cấp dưới. Nói cách khác, Bushman lừng lững tiến đến đích trên con đường của mình. Điều duy nhất cản trở Bushman chính là tuổi trẻ của anh ta. Theo tuổi tác, Bushman chưa được xếp vào hàng ngũ các đoàn chủ tịch và hội đồng già lụ khụ. Nhưng Bushman có khả năng chịu đựng và lòng kiên nhẫn. Anh ta chờ thời khắc của mình sẽ điểm. Tuy nhiên, số phận lại sắp đặt khác hẳn. Đầu tiên là cô vợ không được yêu chiều đã bỏ đi cùng với cô con gái để đến với người đồng chí, đồng khóa của Bushman. Tuy nhiên điều đó cũng không làm Bushman bận lòng cho lắm, dù anh ta cố tỏ ra giận hờn và tìm kiếm sự chia sẻ, thậm chí thông cảm từ phía lãnh đạo.
Với đầu óc thực dụng, Bushman cố gắng tìm trong hoàn cảnh đó những điều mà anh ta cho là có lợi cho mình. Thứ nhất, người từng là đồng chí của Bushman, một đối thủ cạnh tranh đã phải xin nghỉ việc theo nguyện vọng cá nhân. Thứ hai, Bushman thoát khỏi cô vợ rỗng tuếch đã làm anh ta phát ngán. Và cuối cùng, thứ ba, Bushman với tư cách là nạn nhân được hưởng trọn phần diện tích nhà ở rộng rãi và vô số thời gian tự do vì không phải bận tâm về những công việc gia đình nữa.
Tuy nhiên, Bushman không phải là một nhà bác học khô khan. Đôi khi anh ta cũng thích đi dạo, nhấm nháp bia rượu, nhưng điều Bushman thích nhất là phụ nữ. Không thể nói Bushman có nhiều cuộc tình và nhiều thành công trong lĩnh vực đó, nhưng nếu trên con đường đời của mình Bushman gặp người phụ nữ xinh đẹp thì anh ta sẽ mất bình tĩnh ngay. Vẻ ngoài thấp bé, ốm o, xấu xí, Bushman luôn có xu hướng vươn tới các người đẹp. Đây là niềm đam mê duy nhất mà Bushman có thể hy sinh cả ngày, cả tuần, cả tháng. Với phụ nữ, Bushman tỏ ra rất hào phóng, chu đáo, lịch thiệp. Sau khi đã đạt được mục đích, Bushman nhanh chóng quẳng đi và không bao giờ quay lại nữa. Tuy nhiên, không phải lúc nào Bushman cũng đạt được mục đích. Có lần, sau khi đã đổ không ít thời gian và tiền bạc cho một người phụ nữ, Bushman mới nhận ra, chừng đó chưa đủ để chinh phục trái tim người đẹp, nhưng người đẹp thì đã nhận xong phần của mình. Bushman đành phải tự an ủi, hiện tại anh ta không thể lãng phí thời gian và tiền bạc thêm nữa, rằng anh ta còn nhiều việc quan trọng hơn, và nói chung, còn có nhiều phụ nữ khác xinh đẹp hơn.
Sau khi ly dị vợ, Bushman tận hưởng sự yên tĩnh được vài tháng cho đến khi đột nhiên anh ta nhận ra rằng, toàn bộ tập bản thảo viết tay của mình - những nghiên cứu quan trọng nhất của công trình khoa học - bỗng biến mất. Đây là những nội dung cơ bản của luận văn tiến sĩ mà Bushman chưa công bố lần nào chỉ vì một lý do duy nhất: chưa tìm được đồng tác giả ưng ý. Cuối cùng thì trong danh sách của Bushman chỉ còn lại hai cái tên quan trọng - cả hai đều là viện sĩ, là các nhà bác học nổi tiếng. Nhận cả hai người là đồng tác giả thì không hợp lý, nhưng Bushman chưa thể xác định được người nào có triển vọng hơn... Vậy là tập bản thảo viết tay biến mất. Bushman tức điên lên khi biết chỉ có một người duy nhất có thể làm được điều đó: chính là người vợ cũ. Bushman bắt đầu hành động, nhưng người ta đã ra tay trước. Lần đầu tiên trong đời Bushman đã tính sai, không lường hết được đặc điểm của hoàn cảnh xung quanh. Bushman sống trong một thế giới khác, trong những hệ đo lường khác và đã xem nhẹ hiện thực lịch sử của chế độ Xô viết, nói một cách chính xác hơn, là hiện thực và truyền thống của nước Nga. Bushman chẳng hề yêu và cũng không am hiểu lịch sử nước Nga cùng các nhà văn - những người đại điện cho ngôn từ của nó. Bushman chỉ nghiên cứu các định luật tự nhiên, biết chúng không bao giờ thay đổi, không phụ thuộc vào con người, nhưng Bushman không am hiểu các định luật xã hội, không biết được vai trò của cá nhân đối với lịch sử... Chỉ cần một vụ tố giác sơ đẳng cũng đủ để đưa Bushman vào tù.
Những ngày đầu sau khi bị bắt, Bushman không hiểu mô tê gì cả, anh ta nghĩ, đó chẳng qua chỉ là một sự hiểu lầm. Nhưng chẳng bao lâu sau, Bushman đã tận mắt chứng kiến tất cả, và sau khi phân tích, anh ta đã hiểu ra tất cả. Đó là một cơn ác mộng, một nỗi tuyệt vọng và một kết cục khủng khiếp. Nhưng cái kết cục ấy chưa tới, mỗi ngày đều bắt đầu một cách bình thường, nhưng mỗi ngày lại có những khó khăn và nỗi lo âu mới. Mỗi ngày là một cuộc đấu tranh mang tính trực giác để giành sự sống. Không phải là một người hăng say, cuối cùng Bushman cũng bình tâm lại. Anh ta hiểu, không được đầu hàng.
Giờ đây Bushman có nhiều thời gian để suy ngẫm, phân tích toàn bộ đoạn đời đã qua của mình. Bushman nhận định, anh ta còn trẻ, tràn đầy sinh lực, bởi vậy mà bất chấp tất cả, anh ta phải thoát ra khỏi hoàn cảnh này để sống tiếp. Dù đã quên ít nhiều, nhưng Bushman vẫn thường xuyên nghĩ về công trình nghiên cứu lý thuyết của mình. Cuối cùng, vào một buổi tối trong toa tàu ngột ngạt, Bushman bỗng có một linh cảm: anh ta sẽ thực hiện được phát minh của mình. Sợ sẽ quên hết các công thức, nên Bushman phải thường xuyên lẩm nhẩm thành lời các công thức đó. Anh ta hiểu ra rằng những nghiên cứu trước kia của mình, kể cả công trình bị đánh cắp chỉ là những trò chơi non dại. Những ý tưởng cũ phải được trình bày theo cách mới. Giờ đây Bushman hiểu ra rằng, những nỗi khổ đau nặng nề đã đưa anh ta đến những phát minh vĩ đại. “Ai đó từng nói rất đúng, chỉ có thông qua khổ đau mới nhận chân được sự thật”, - Bushman thầm nghĩ. Khi đó, Bushman đã đi đến một kết luận cho chính mình - anh ta là một thiên tài, và những nỗi khổ đau ấy là đúng quy luật. Tất cả những con người vĩ đại đều trải qua đau khổ - Bushman không trực tiếp đọc được câu đó, nhưng đã từng nghe nói ở đâu đó.
Nhưng những nỗi thống khổ hóa ra là quá khắc nghiệt. Tuy nhiên, bất chấp vóc dáng nhỏ bé và cơ thể còm cõi, Bushman đã kiên cường vượt qua số phận. Có thể trong con người Bushman có một nghị lực sống và khát vọng sống mãnh liệt, một cuộc tìm kiếm bất tận, không phải là một cuộc tìm kiếm trìu tượng, duy tâm hay tinh thần, mà là cuộc tìm kiếm con đường để đạt đến một mục đích cụ thể, con đường tối ưu nhất, không phân biệt phương pháp và phương tiện.
Từ bé đã phải chịu nhiều thiệt thòi và nhiều cú chấn động tâm lý, tâm hồn Bushman đã được trui rèn để đối mặt với những ngang trái của số phận. Những ngày đầu sau khi bị bắt, Bushman chỉ ngạc nhiên mà không bị chấn động. Khi hiểu ra, đó không phải là sự nhầm lẫn, và không chỉ có mình rơi vào hoàn cảnh đó, Bushman xác định được đó là lỗi hệ thống và anh ta đã bị cuốn vào guồng máy chung. Bushman không tuyệt vọng và cũng chẳng có những giọt nước mắt vắn dài và những lời van xin. Dĩ nhiên, vẫn có nỗi khiếp sợ trước những điều không biết, trước cỗ máy khổng lồ của những người Bolsevich, trước hệ tư tưởng mà từ trước đến nay Bushman chưa bao giờ quan tâm.
Bộ óc có khả năng phân tích của Bushman đã nhanh chóng tìm ra những khiếm khuyết và những lỗ hổng của quá khứ, đã rút ngay ra được những kết luận phù hợp, xác định được những mục đích mới, quá độ và hoàn toàn bất ngờ cho cuộc sống. Bushman hiểu, giờ đây, điều quan trọng nhất là phải sống sót - sống sót bằng mọi cách, và sau đó sẽ không sống trong xã hội này nữa, quốc gia này nữa. Bushman cảm thấy tiếc vì cha mẹ anh ta, khác với bạn bè và người thân, trong lúc bị xua đuổi ở Ukraina đã không chạy sang châu Âu mà chạy đến Moskva. Bushman có thế sống ở châu Âu không thua kém người khác. Điều quan trọng là Bushman có ý tưởng, có kiến thức khoa học, và anh ta không đi chung đường với những người Bolsevich. Tuy nhiên, số phận đã trớ trêu sắp đặt để giờ đây, hàng ngày, hằng đêm Bushman phải chia sẻ với đám đông kia cái đói, cái lạnh, cái nóng, cùng chấy rận và cả cuộc sống nữa.
Bushman nhìn thấy những người đàn ông khỏe mạnh, cường tráng, từng trải chuyện đời, có sự nghiệp, bạn bè và bà con họ hàng, cũng bị rơi vào vòng lao lý, đánh mất nghị lực, ý chí, lòng kiên nhẫn và tự chủ. Bushman nhìn thấy, những người đàn ông khỏe mạnh nhưng lại khóc rống lên, run lẩy bẩy, quỳ mọp xuống trước mặt giám thị van xin lòng thương hại, còn sau đó lại cố tự tử trong cơn tuyệt vọng. Tất cả những điều đó, Bushman không sao hiểu nổi và không thể chấp nhận được. Bushman can trường, kiên nhẫn chịu đựng tất cả mọi nỗi đau, mọi mất mát, đồng thời không từ bất cứ thủ đoạn nào: ăn cắp, lừa đảo, xu nịnh cách gì cũng được, miễn là sống sót. Tuy nhiên, trong khi đó, Bushman không chịu hạ mình trước bất kỳ ai và cũng không cầu xin ai điều gì.
Một lần, vào ngày nóng nực oi bức, mọi người chen chúc trong toa tàu chật cứng trên ga xép nào đó ở giữa Sibir. Sáng và chiều, họ được cấp ít thức ăn và nước uống. Thức ăn chỉ có bánh mì và cá trích, nước thì rất ít. Chẳng những thế, bọn tù “đại bàng” giành hết cho mình. Sáng chiều, có ba, bốn chiến sĩ trẻ mang theo vũ khí đến các toa, hé cửa toa ra. Trong các toa chật cứng, mỗi toa có khoảng hơn một trăm người đàn ông khỏe mạnh đang lả đi vì khát và nóng bức, nhưng không ai trong số họ dám kêu ca. Họ tự cho mình là những người có văn hóa, số khác lại cho rằng đối với họ sống trong tù còn tốt hơn là ngoài tự do.
Cuối cùng, chán ngấy cái cuộc sống như gia súc ấy, Bushman công khai kêu gọi mọi người nổi loạn.
- Chúng ta có một trăm người trong toa, một ngàn người trong cả đoàn tàu, vậy mà chúng ta phải cam chịu trong suốt chặng đường. Ba người lính trẻ so với một trăm người đàn ông đang nổi giận!
Ngày hôm sau, nhà bác học vật lý bị lôi từ giữa toa ra ngoài và bị đá cho một trận thừa sống thiếu chết ngay trước mặt mọi người. Sau đó, không thèm nói một lời, người ta lại ném Bushman vào toa. Trong toa, bọn tù hình sự lục tung mớ hành lý thảm hại và lộn hết túi quần túi áo của Bushman ra. Đây là bài học cuộc đời cuối cùng đối với Bushman, anh ta bị mất sức khỏe và cặp kính, nhưng bù lại đã thu được một niềm tin chắc chắn rằng, sống với những kẻ tôi đòi phải hành xử theo kiểu tôi đòi.
Vụ việc này không thể đánh gục nhà bác học, Bushman càng ngày càng khinh miệt và căm ghét tất cả mọi người xung quanh. Anh ta càng trở nên cứng rắn hơn, không thèm khách sáo với bất cứ ai, nhưng cũng không bao giờ công khai tham gia vào các vụ xô xát mà chỉ hành động một cách lén lút và khôn ngoan. Tất cả những điều đó đã giúp Bushman sống sót để đi đến các lán trại trên vùng đất Kolyma xa xôi và khắc nghiệt.
Khi đến trại, Bushman cũng không tỏ ra bị hụt hẫng. Trong khi tất cả những người tù khác - mệt mỏi, đói khát và lạnh run lên - đang cố tìm hiểu xem mình bị đưa đến đâu và sẽ bị đối xử thế nào, thì Bushman đã nhanh chóng lấy lòng lãnh đạo và thể hiện khả năng xuất chúng của mình. Mặc dù trong hồ sơ cá nhân chỉ ghi, Bushman là nhà khoa học vật lý, nhưng Bushman vẫn tuyên bố, anh ta còn là nhà y, kế toán, thợ cắt tóc và thợ đốt lò giỏi giang.
Không một ngày phải làm việc ngoài trời, tức là đi đào vàng, Bushman ngay lập tức trở thành người phụ trách khu nồi hơi. Với công việc này, Bushman có nửa ngày để làm những việc mình ưa thích mà anh ta đã tự giới thiệu. Khả năng tiến thân của Bushman không dừng lại trên vị trí công việc này. Tận dụng mọi cơ hội thuận tiện, Bushman tuyên bố, mình là chuyên gia thực hành duy nhất trong cả nước về kim loại quý, am hiểu các phương pháp hiệu quả nhất để tách vàng ra khỏi quặng. Những lời đồn đại này cũng như những lời đồn khác nhanh chóng đến tai lãnh đạo. Khi công việc liên quan đến công nghệ tách vàng lâm vào ngõ cụt, trong khi đường dây liên lạc với đại lục chưa có, lãnh đạo trại phải nhờ đến sự giúp đỡ của Bushman.
Vào thời gian này, Bushman đã làm y sĩ ở trạm y tế và cùng với và cùng với Tsanka chuẩn bị cho chuyến vượt ngục, chính vì vậy mà Bushman tìm mọi cách được ở lại vị trí cũ. Lãnh đạo trại lại coi đó là sự khiêm tốn của nhà khoa học nên vẫn cương quyết chuyển Bushman sang khu trại của các lao động làm thuê tự do. Cuộc sống ở đây lại càng thoải mái hơn so với khu nồi hơi. Chỉ có điều, Bushman không có phòng riêng, và thêm một bất tiện nữa là anh ta hoàn toàn chẳng biết gì về việc khai khoáng.
Mặc dù vậy, nền tảng kiến thức khoa học phong phú của Bushman cộng với khả năng thiên phú đã giúp cho anh ta nhanh chóng nắm được vấn đề.
Chỉ sau một tuần, Bushman đã hoàn thiện xong quy trình công nghệ sản xuất: nhiều công đoạn đã được cơ khí hóa, giảm bớt lao động chân tay, một số công đoạn bị loại bỏ hoàn toàn, toàn bộ cơ cấu tổ chức sản xuất cũng thay đổi. Một tháng rưỡi sau, khi Bushman đã nắm được toàn bộ bí quyết khai thác vàng, anh ta đã thay đổi cơ bản công nghệ khai thác. Nhờ đó sản lượng vàng sa khoáng được tách ra khỏi quặng tăng lên đáng kể.
Tiếng tăm của Bushman nổi như cồn. Anh ta làm mọi cách để hàng ngày người ta phải cần đến mình. Bushman cố tình không làm việc gì cho xong hoàn toàn. Bất kỳ một sự cố hay hỏng hóc đều phải cần đến nhà khoa học. Trong thực tế, Bushman lãnh đạo một nhóm nhỏ nhân viên. Công việc cũng khá vất vả nhưng cũng rất dễ chịu. Dễ chịu là vì Bushman rất yêu bản thân và quyền lực, vất vả là vì anh ta biết rõ bản chất kiêu ngạo của mình và rất sợ để lộ điều đó ra. Ở đây, giữa những người làm thuê tự do, Bushman không sa vào rượu chè, ít hút thuốc, rất sợ những biểu lộ thái quá và phục hồi được ít nhiều tình trạng sức khỏe đang sa sút của mình. Nói chung, với tư cách là một người lao động trung thực và một công dân rất cần cho Tổ quốc, Bushman đã làm tất cả để được thả trước thời hạn.
Nhà vật lý trẻ có thể che đậy những điểm yếu cũng như những thế mạnh của mình, ngoại trừ một thứ - trong người anh ta lại bắt đầu xuất hiện niềm ham thích phụ nữ. Nói chính xác hơn, đó không phải là niềm ham thích, cũng chẳng phải tình yêu mà chỉ đơn giản là sắc dục, là bản năng đàn ông. Chỉ đơn giản là cặp mắt lồi, to, màu đen của Bushman hàng ngày nhìn thấy một cơ thể đàn bà quá cỡ, một thân thể khổng lồ, da trắng, mông to với bộ ngực đồ sộ.
Trong khu phạm nhân cũng có đàn bà, nhưng Bushman không thèm để mắt đến ai. Còn người đàn bà to lớn này, với đôi má hây hây, đôi mắt nâu lúng liếng màu cánh gián đã thu hút sự chú ý của Bushman, nhất là khi họ cùng làm việc trong một phòng.
Tên của người phụ nữ là Datsuk Polina Matveevna, vợ của trung đội trưởng Datsuk, một người đàn ông Ukraina tóc hung, khỏe mạnh, lúc nào cũng say xỉn. Bản thân Polina Matveevna là người vùng Kuban. Từ nhỏ, người ta đã nói với Polina rằng lớn lên chị sẽ ế chồng, bởi lẽ trong khắp vùng không có người đàn ông nào có thể ôm nổi chị. Tuy nhiên cô con gái của ông chủ tịch nông trang lớn nhất vùng, trong một cuộc họp Đoàn thanh niên Komsomol ở huyện lỵ, đã gặp một học viên quân sự cao lớn, tóc hung. Chính Polina đã bắt chuyện với anh ta trước và là người đầu tiên mời anh ta khiêu vũ trong buổi dạ hội. Ngay trong đêm ấy, hai người đi xe ngựa về làng trình diện với cha mẹ Polina, một tuần sau, đám cưới sang trọng được tổ chức, sau đó đôi vợ chồng trẻ rời làng.
Vậy là nhiệm vụ của một quân nhân đã đưa họ đến vùng đất hẻo lánh này. Tất cả bạn học cùng trang lứa với Datsuk đều nhanh chóng trưởng thành, thăng quan tiến chức, được phân căn hộ, trong khi đó chồng của Polina vẫn dẵm chân tại chỗ. Tính cách chậm chạp, giọng nói đặc sệt phương ngữ Ukraina, mái tóc dày màu hung, cộng với nét mặt đã biến Datsuk thành đối tượng bị trêu chọc và nhạo báng. Chẳng những thế, Datsuk còn uống rượu như hũ chìm. Datsuk yêu vợ, ghen tuông với tất cả mọi người, nhưng lại sợ vợ và nghe lời vợ vô điều kiện. Còn Polina thì lúc nào cũng thượng cẳng chân hạ cẳng tay với chồng, gọi anh ta là con chó xồm lông vàng, không thèm bận tâm đến sự có mặt của anh ta và luôn miệng than phiền về số phận của mình. Thêm vào đó, Polina còn làm thơ tình, đọc cho tất cả mọi người cùng nghe và luôn mơ tưởng về một chàng hoàng tử trong mộng.
Dạo còn trẻ, Polina Matveevna tốt nghiệp ngành kế toán, nên chị được giao công tác kế toán cho toàn bộ khu di dân. Tuy nhiên, cái cơ thể to tướng của Polina chẳng mấy khi nghĩ đến các con số và các phép tính mà chỉ nghĩ về chuyện thơ phú, về tình yêu sét đánh và một cuộc sống tươi đẹp. Chỉ sau một tháng là Polina đã nhầm lẫn lung tung mà sau đó không cách nào có thể gỡ ra được. Khi đó người ta phải điều Polina sang phòng sản xuất để tính toán lượng vàng sa khoáng. Việc khai thác mới chỉ bắt đầu, sản lượng chưa có nên cũng chẳng có gì để tính toán. Suốt ngày Polina lang thang trong các phân xưởng lạnh lẽo rồi lại về ngồi trong căn phòng nhỏ của mình và tha hồ sáng tác thơ. Sau đấy, Polina sẽ tóm được một người nào đó, rồi vừa vung hai cánh tay to tướng lên, ôm vào người hay ép vào bộ ngực đồ sộ của mình và đọc sáng tác mới nhất. Đôi khi, cảm hứng sáng tạo cũng hạ cố ghé thăm Polina nên những dòng thơ của chị cũng có giai điệu. Khi đó Polina vừa giậm chân bành bạch vừa nhảy chồm chồm, vừa hát rống lên khắp phân xưởng.
Đồng nghiệp sợ Polina, cười nhạo sau lưng chị, kể đủ chuyện tiếu lâm về chị, nhưng chẳng ai dám nói thật trước mặt chị. Lúc tức giận, Polina rất lạnh lùng và đáng sợ. Mọi người đều nhớ vụ chị ta hành xử với kẻ đã xúc phạm mình ra sao: Polina giáng vài cú đấm mạnh như búa bổ đến mức một người đàn ông khỏe mạnh cũng phải liêu xiêu. Nếu ai đó rơi vào tay Polina sau cơn cảm hứng sáng tạo thường lệ, thì anh ta cần phải chăm chú im lặng lắng nghe cho hết bài thơ tứ tuyệt (may là Polina ít khi làm dài hơn, trừ những ngày đặc biệt lãng mạn), và sau đó phải dành ra khoảng năm phút để tán dương tác phẩm thiên tài một cách nghiêm túc nhất. Chỉ cần một tiếng cười phát ra là ngay lập tức vị khán giả kia sẽ phải nghe một tràng chửi bới thậm tệ đến mức phải run bắn lên. Tuy nhiên, nữ thi sĩ không có tính để bụng, sang ngày hôm sau, rất có thể vị khán giả bất tài kia lại rơi vào đôi tay hộ pháp của Polina, nhưng giờ đã trở nên khôn ngoan hơn nhờ kinh nghiệm.
Khi những bài thơ và chính tác giả của chúng đã làm mọi người phát ngán thì cũng là lúc Bushman xuất hiện ở phân xưởng - một người đàn ông nhỏ thó, gày gò, nước da tái ngắt theo kiểu nhà giam với đôi mắt kính to tướng. Bushman trở thành khán giả tiếp theo để nghe những tác phẩm lãng mạn của Polina. Nhưng Bushman không phải là vị khán giả bất đắc dĩ, mà ngược lại, anh ta vừa nghe vừa ngắm nhìn nhà thơ rất chăm chú. Kích thước khổng lồ cùng với những đường nét rõ ràng, mạnh mẽ của cơ thể, với cặp môi to, ướt và đôi má hồng hồng của Polina gây cho Bushman ấn tượng mạnh.
Trong mọi nơi, mọi lúc, Bushman luôn là một người tỉnh táo, lạnh lùng và thực dụng. Nhưng Bushman cũng biết mình có một nhược điểm - dễ bị những người đàn bà đẹp hút hồn. Những người đàn bà không đẹp, Bushman không để ý. Tuy nhiên, nói một cách chính xác hơn, không bao giờ Bushman coi đó là nhược điểm của mình, anh ta cho rằng, đó chỉ là tình cảm thông thường của đàn ông, thậm chí là ưu điểm nữa. Cứ sau mỗi lần gặp một phụ nữ đẹp, Bushman lại phải lòng người đó. Đấy không chỉ là lòng ham muốn mà là một tình yêu đích thực, có thể chỉ thoáng qua hay tức thời, nhưng luôn đi kèm với nỗi đau khổ và niềm si mê dịu dàng. Bushman hoàn toàn đánh mất sự tự chủ, quên tất cả, kể cả công việc.
Hoàn toàn bị chi phối bởi những tình cảm tốt đẹp, Bushman trở thành một người bạn tình chân thành và hào phóng cực kỳ. Trong những phút giây đó, Bushman sẵn sàng hy sinh tất cả cho người yêu: có thể li dị vợ, đi đến cùng trời cuối đất, vay mượn, chi tiêu hoang phí. Rất may cho Bushman, những phút giây như vậy cũng qua nhanh, và anh ta lại chìm đắm vào công việc khoa học của mình, chỉ có điều sau đó Bushman cảm thấy một sự trống rỗng ở ngay trong lòng và ở khắp xung quanh...
Vậy là sau bao nhiêu thời gian Bushman mới gặp được người phụ nữ to lớn, mập mạp, khỏe như vâm ấy, và liền si mê say đắm. Nhà khoa học Bushman ngay lập tức hiểu ra bản chất con người Polina Matveevna và mê mẩn đến phát cuồng. Bushman yêu ngay lập tức, mãnh liệt, vĩnh viễn và bằng cả cơ thể. Trước đó, Bushman chưa bao giờ để ý đến những người phụ nữ đồ sộ như vậy, chỉ đến bây giờ, anh ta mới nhận ra rằng, họ cũng đẹp làm sao! Những kích thước khổng lồ! Bushman rất muốn ôm chúng trong vòng tay! Vùi đầu vào đó! Quên hết và dâng hiến tất cả! Ôi, tại sao cái cơ thể khồng lồ, trắng nõn và mềm mại kia lại không thuộc về ta? Bushman cảm thấy trong con người mình có một sức mạnh khủng khiếp! Hóa ra là chỉ nên yêu những người phụ nữ như vậy thôi! Thật là tuyệt! Thật là hạnh phúc! Đó mới là những người phụ nữ đích thực! Chỉ có như vậy thôi! Ta sẽ trao cho cô ấy tất cả! Tất cả!.. Sau này dẫu có thể nào cũng được! Giờ đây ngay cả vật lý, cũng chỉ là chuyện nhảm nhí...
Tuy nhiên, Bushman sực nhớ ra mình đang ở đâu và mình là ai. Phải khó khăn lắm Bushman mới kiềm chế được mồm miệng, chân tay để không nhảy bổ vào Polina, nhưng đôi mắt đã để lộ ra tất cả. Bushman nhìn Polina bằng ánh mắt thèm thuồng như muốn nhai nghiến ngấu cái cơ thể đồ sộ kia. Mọi người xung quanh đều nhận ra điều đó và công khai mỉm cười. Những lời đàm tiếu lan đi rất nhanh, đến tai lãnh đạo đoàn thăm dò địa chất và chồng Polina. Người ta còn đồn, họ đã quan hệ với nhau mỗi khi có dịp. Lời đồn đại càng ngày càng nhiều, càng không thể tưởng tượng nổi. Người ta cười mỉm, cười hô hố khi so sánh họ với nhau, lời đồn đại còn lan đến cả những người tù. Chỉ có mỗi Bushman là chẳng nghe thấy gì, chẳng biết gì, nếu không anh ta đã phải xử sự khác.
Người chồng ghen tuông của Polina, cuối cùng không thể chịu đựng hơn được nữa, và với chút hơi men, anh ta tặng cho cô vợ vài quả đấm. Nữ thi sĩ không thể chấp nhận sự xúc phạm vô lý, liền cào móng tay vào khuôn mặt xám ngoét của chồng. Vậy là một cuộc ẩu đả tàn khốc đã diễn ra: cùng với tiếng gào thét ầm ĩ, bàn ghế, chén bát và tất cả mọi thứ đều văng đi hết. Hàng xóm không thể vào can hai người ra, tất cả dân làm thuê tự do, kể cả lãnh đạo cũng đổ xô đến. Chỉ sau tiếng hét của lãnh đạo, đôi vợ chồng mới rời nhau ra. Ngay lập tức mọi việc được phân xử, ai đúng, ai sai. Khi đó Polina Matveevna mới la toáng lên:
- Làm sao mà anh ta có thể nghĩ như thế chứ? Ở đâu? Với ai? Làm thế nào? - Vừa nói, Polina vừa đưa tay chỉ vào cái rốn của mình để ám chỉ - Làm sao mà anh ta có thể nghĩ như thế chứ? Ở đâu? Với ai? Làm thế nào? - Vừa nói, Polina vừa đưa tay chỉ vào cái rốn của mình để ám chỉ vóc dáng của Bushman.
Mọi người xung quanh cười ầm lên, phẩy tay rồi tản ra, không thèm bận tâm đến ánh mắt đam mê lộ liễu của nhà vật lý nữa.
Nếu Bushman hiểu được toàn bộ diễn biến xung quanh cuộc tình của mình, chắc hẳn anh ta sẽ thay đổi mối quan hệ với Polina, nhưng Bushman chẳng nhìn và cũng chẳng nghe thấy gì vì quá chìm đắm trong niềm đam mê. Sau cuộc đánh nhau, các công nhân trong phân xưởng không thèm bận tâm đến những cuộc trò chuyện dài lê thê giữa hai người nữa, thậm chí người ta còn mừng vì nữ thi sĩ đã tìm được đôi tai rảnh rang. Giờ đây, mỗi khi hai người ngồi với nhau, thì người nói không phải là Polina nữa mà chủ yếu là Bushman. Bằng một giọng đơn đớt, dịu dàng, Bushman chinh phục cái thân thể khổng lồ kia bằng những lời lẽ ngọt lịm. Bushman kể về Moskva, về phố xá, về cuộc sống vương giả ở thủ đô, về nhà hàng, nhà hát, các buổi biểu diễn và các nghệ sĩ. Bushman khẳng định, chẳng bao lâu nữa hồ sơ của anh ta sẽ được xem xét lại, và người ta sẽ thả anh ta ra, rằng anh ta là một nhà bác học lớn, là một thiên tài, rằng những kẻ thù cùng con vợ cũ tham lam xảo quyệt của anh ta sẽ bị đày đến đây. Khi Bushman ra tù, anh ta sẽ cho xuất bản tập thơ của Polina, trên sân khấu người ta sẽ hát các ca khúc của
Polina, và chị sẽ trở nên nổi tiếng, được mọi người tìm đọc. Bushman còn bảo, Polina đang tự làm thui chột tài năng, tuổi trẻ và cả cuộc đời mình.
Bushman nói như vậy và chính bản thân mình cũng chân thành tin chắc như vậy, thậm chí nhầm lẫn lung tung, không còn phân biệt đâu là sự thật, đâu là giả dối, đâu là vở diễn và đâu là hiện thực. Chính bản thân Bushman cũng tin vào tất cả những gì mình nói - chân thành, trong sáng và đẹp đẽ, rằng anh ta chỉ mong muốn điều đó và tất cả đều đúng như thế.
- Polina Matveevna, chẳng lẽ cô muốn sống suốt đời ở cái chốn thâm sơn cùng cốc này hay sao? Với người đàn ông thô lỗ ấy? - Bushman hỏi với sự chân thành không chút giả tạo. - Cô là một phụ nữ tuyệt vời! Là một nhân cách sáng tạo! Cô sẽ chết rũ ra ở đây mất! Khi ấy thì đã muộn!
Khuôn mặt hồng hào bẩm sinh của nữ sĩ lại càng ửng đỏ hơn, Polina buồn rầu gục mái đầu to tướng của mình xuống, những giọt nước mắt bắt đầu tuôn như suối trên đôi má căng mọng.
“Ôi, cô ấy tuyệt vời làm sao! Thánh thiện làm sao!”, - Cuối cùng, nhà bác học cũng cảm thấy xúc động.
Những tình cảm mới mẻ choán ngợp tâm trí Bushman mỗi lúc một nhiều. Giờ đây, thay vì dục vọng và đam mê, trong người Bushman lại xuất hiện một tình cảm dịu dàng và một tình yêu chân thật. Bushman muốn gắn bó với Polina, mãi mãi, vĩnh viễn! Thậm chí ngay ở đây... Không, một người phụ nữ như cô ấy, xứng đáng với những điều tốt đẹp hơn nhiều! Mình sẽ sống vì cô ấy! Mình sẽ làm rạng danh cho cô ấy! Mình sẽ làm cho cô ấy hạnh phúc!
- Ôi, Polina Matveevna yêu quý! Thật lòng mà nói, quả là khó xử nhưng tôi không thể chịu đựng hơn được nữa!... Tôi yêu em! Yêu em! Tôi sẵn sàng quỳ xuống dưới chân em, chỉ có điều là ở đây nhiều người quá, bao nhiêu cặp mắt đang nhìn chúng ta. Tất cả bọn họ là một lũ đần độn nhẫn tâm. Họ không phải là người mà là thú dữ. Họ không hiểu chúng ta, họ... - Bushman ngừng lời, đưa mắt nhìn bốn phía, thận trọng đặt bàn tay gày guộc, trắng bệch và lạnh ngắt như con ếch của mình vào cái hông to của Polina, - Ôi, Polina Matveevna, tôi yêu em! Xin em hãy trở thành vợ tôi! Xin em đừng từ chối!... Chúng ta sẽ đi khỏi đây, thật xa!... Tôi sẽ bế em trên tay.
Bushman nói và chân thành tin vào những gì mình nói. Anh ta yêu người phụ nữ tuyệt vời này, sẵn sàng hôn lên khắp người chị, yêu chị và sống một cuộc đời hạnh phúc với chị. Giọng Bushman run run chân thành, anh ta không còn làm chủ được bản thân mình nữa, và có lẽ chỉ trong tích tắc, anh ta sẽ quỳ xuống dưới chân Polina, nhưng chị đã ngăn lại. Tấm thân to lớn của Polina đứng lên, đôi mắt đỏ ửng vì khóc nhìn Bushman từ trên xuống, chị lấy tay xoa mặt rất điệu nghệ, sau đó xoay tấm thân sang bên, xúc động khẽ nói:
- Đừng nói thế, xin anh đừng nói thế. Anh sẽ làm tổn thương trái tim tôi!.. Vĩnh biệt!
Polina thõng tay xuống, nhón chân bỏ đi. Polina có cảm giác như mình đang ở trên sân khấu. Đã bao nhiêu lần Polina mơ ước được nghe những câu tỏ tình như thế, nhưng không có ai nói với chị như thế, chưa bao giờ. Thậm chí nếu điều đó là dối trá đi nữa thì nó cũng tuyệt vời làm sao! Những ngôn từ tuyệt vời! Giọng nói tuyệt vời! Không, đó là sự thật!... Những tràng vỗ tay vang lên! Vang lên! Khán giả đang đứng lên vỗ tay chúc mừng chị, còn chị, tràn ngập hạnh phúc đang rời sân khấu. Đấy, người đàn ông ái mộ chị! Phong thái tuyệt vời làm sao! Ngôn từ tuyệt vời làm sao... Mình hạnh phúc quá!!! Hạnh phúc quá!!! Ta sẽ đến Moskva! Ta sẽ vào nhà hát! Chính ta!..
Trong lúc ấy, Bushman ngồi lại, buồn rầu ngẫm nghĩ về người phụ nữ tuyệt vời đó. “Cô ấy trong sáng như pha lê! Chỉ có trong những miền đất trinh bạch như thế này mới có thể gặp được một người phụ nữ như thế! Mình sẽ sống suốt đời với cô ấy! Không để ai xúc phạm đến cô ấy!”
Sau cảnh đó, Polina Matveevna bước đi như được chắp thêm cánh, nét mặt rạng rỡ. Thật lạ, khi hạnh phúc đến với Polina, thì ngược lại, niềm cảm hứng sáng tạo biến đâu mất. Giờ đây Polina không thể viết hay hát được nữa, chị trở thành một người khác - người được yêu. Phong thái của Polina cũng thay đổi. Chị làm ra vẻ hoàn toàn không để ý đến nhà vật lý si tình, nhưng lại mặc chiếc áo cánh trắng bên trong chiếc áo bông bẩn thỉu, thay vì đi đôi ủng dạ to tướng chị đi đôi ủng da màu đỏ và xịt chút nước hoa rẻ tiền. Polina bắt đầu tập hút thuốc, chị bảo những người hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo văn học nghệ thuật đều phải hút thuốc, và rằng thuốc lá sẽ giúp cho các ý tưởng trở nên sâu sắc hơn. Mọi người rất ngạc nhiên khi thấy Polina Matveevna trở nên chăm chỉ làm việc: chị kiểm tra, giám sát, ghi chép, cân đong đo đếm cẩn thận. Tất cả những việc ấy, Polina đều làm một cách thầm lặng, với vẻ quan trọng và tinh thần trách nhiệm.
Như hầu hết phụ nữ, Polina cũng muốn cả thế giới này phải biết có người đang yêu mình, khổ đau vì mình, khâm phục mình. Polina lại càng muốn, ông chồng tóc hung của mình cũng biết điều đó, phải ghen tuông, phải đánh đập chị và có thể phải đánh nhau với nhà vật lý gầy nhom kia nữa. Tuy nhiên, anh chồng, sau vụ đánh nhau vừa rồi với vợ, đã nhổ toẹt vào tất cả, thậm chí còn mừng vì không phải dây dưa với “con bò cái” kia nữa. Mọi người xung quanh, dĩ nhiên là nhìn thấy tất cả - họ rất tò mò và nóng lòng chờ đợi diễn biến tiếp theo của câu chuyện. Nhưng thật trớ trêu là Polina Matveevna lại tạm dừng vở diễn hơi lâu, kịch tính trôi qua mất. Mọi người lại bắt đầu quen với chiếc áo cánh trắng, đôi ủng đỏ và mùi nước hoa rẻ tiền. Chỉ có một mình Bushman là vẫn chưa bình tâm trở lại. Là một người có chí hướng rõ rệt, Bushman không thể không đạt được mục tiêu đã đặt ra. Thái độ lạnh lùng của Polina lại càng làm Bushman bị lôi cuốn hơn. Nhưng biết thân biết phận chỉ là một kẻ tù tội, Bushman sợ phải đối đầu trực diện, anh ta quyết định sử dụng chiến thuật mềm mỏng và kiên trì, mặc dù đối với Bushman cách thứ hai rất khó thực hiện.
Kẻ si tình thực sự Bushman rất đau khổ. Đêm đêm anh ta không ngủ được, chỉ nghĩ về Polina, muốn chiếm đoạt cái cơ thể to lớn ấy. Bushman cố quên đi, tập trung toàn bộ sức lực tinh thần của mình vào công việc. Được tác động bởi mối tình tuyệt vọng, nhà khoa học trẻ đã nghĩ ra khá nhiều ý tưởng mới. Bằng chứng quan trọng nhất cho sự sáng tạo của Bushman là sản lượng vàng đã tăng lên đáng kể.
Ban lãnh đạo đoàn thăm dò địa chất rất vui mừng. Những gì họ không làm được trong cả năm, thì với những ý tưởng của Bushman họ đã hoàn thành chỉ trong vòng bốn tháng. Lãnh đạo khu di dân và kĩ sư trưởng là những người dân sự và có học, rất tôn trọng kiến thức của nhà vật lý, cố gắng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho công việc của Bushman. Mà ý tưởng của Bushman thì không bao giờ vơi cạn: mỗi ngày anh ta đều nghĩ ra cái gì đó mới mẻ. Có thể thấy, nỗi đau tâm hồn đã có ảnh hưởng tốt đến sự sáng tạo của nhà bác học. Những đề xuất hợp lý của Bushman nhiều đến mức, ban lãnh đạo phải giấu chúng trong hộc bàn, trên giá sách, tránh xa tầm nhìn của mình. Trong khoảng thời gian này, những sáng kiến của nhà bác học không chỉ giới hạn trong lĩnh vực sản xuất cơ bản mà còn trong các lĩnh vực đời sống khác.
Cuối cùng, khi biết những đề xuất của mình không còn được mọi người quan tâm nữa, với tính cách của một người thực dụng chỉ nghĩ đến hiệu quả kinh tế, nên Bushman không tập trung vào việc sản xuất nữa. Đêm trở nên dài, cô đơn và đầy mộng tưởng. Thế rồi đột nhiên, nữ thần thi ca bỗng ghé thăm cái tâm hồn đang si tình của Bushman. Vậy là chỉ trong một đêm, Bushman viết xong một bài thơ tràn ngập tình yêu thương, nỗi khổ đau và lòng thủy chung vĩnh viễn. Tất cả những tình cảm thiên tài ấy, Bushman đã khéo sắp đặt thành một bài thơ tứ tuyệt. Thật ra Bushman có thể viết thêm hai dòng nữa, nhưng không thể nghĩ ra được một từ nào. Sau khi đã quyết định dứt khoát ngắn gọn là chị của tài năng, nhà bác học cẩn thận chép lại sáng tác của mình lên tờ giấy trắng rồi đọc đi đọc lại đến thuộc lòng. Dĩ nhiên, âm vận trong bài thơ không có, nhưng bù lại, tên người yêu được nhắc tới hai lần: lần đầu được nhắc đầy đủ, thậm chí chính thức là Polina Matveevna, còn ở cuối bài nó được nhắc lại một cách trìu mến - Poliuska! Bất chấp sự góc cạnh trong bức thông điệp bằng thi ca của Bushman, nhưng với nội dung của mình, nó hơn đứt toàn bộ các sáng tác của Polina Matveevna.
Sáng hôm sau, khi người phụ nữ bệ vệ đến nơi làm việc, bất giác mở cuốn sổ chấm công ra, chị ta bỗng sững người lại. Trước mặt chị là bức thông điệp tình yêu ngắn gọn, chứa chan tình cảm và khổ đau, và điều quan trọng nhất là trong đó đã hai lần nhắc đến tên chị với một tình cảm dịu dàng đến mức không sao chịu nổi, nên khi đọc lại lần thứ ba, đến từ “Poliuska”, chị có cảm giác như có vật gì rất lạ và dễ chịu chẹn ngang họng, cặp mắt bất giác ươn ướt, toàn thân trở nên rạng rỡ! Tình cảm đã lên tới cực đại. Chị sẵn sàng làm tất cả vì tình yêu, tất cả!
Polina Matveevna vung vẩy đôi tay to tướng, vẻ mặt trang nghiêm, bước thẳng đến chỗ nhà vật lý. Vào trong phòng, Polina tiến đến gần, căn phòng nhỏ hẹp trở nên chật chội. Nhà vật lý hoảng sợ ngồi bên bàn không dám ngước mắt lên nhưng vẫn cảm nhận được sự đụng chạm của cái bụng khổng lồ bên vai. Cuối cùng, cánh tay nặng chịch của Polina nhẹ nhàng đặt lên cái đầu hói vừa mới cắt trọc của nhà bác học, vuốt ve nó rồi vuốt xuống đôi vai gầy. Polina ép cả người vào nhà bác học.
- Ôi, anh yêu, Andriusha! Em yêu anh lắm! - Polina khóc nấc lên. - Em sẽ mãi mãi là của anh. Em sẽ cứu anh ra khỏi đây! Em sẽ làm tất cả vì anh!
- Ôi, vì Chúa, xin em hãy bình tĩnh lại. - Bushman hoảng hồn vì cách xử sự của Polina. - Mọi người có thể nhìn thấy chúng ta. Xin hãy thôi đi.
Bằng một động tác dứt khoát, Bushman bật dậy và đẩy người phụ nữ đang run rẩy ra.
- Lạy Chúa, xin đừng làm hại tôi. Xin em hãy ra đi, ra đi.
Cánh cửa mở ra, Polina bước ra ngoài, nhưng vẫn quay đầu về phía nhà vật lý:
- Buổi tối em sẽ đến với anh nhé? - Polina năn nỉ.
Bushman chết sững như trời trồng. Câu nói của người đàn bà đã làm tê liệt mọi cử động của Bushman, chỉ có đôi mắt sau cặp kính dày là đảo qua đảo lại liên tục. Cuối cùng, Bushman túm lấy đôi tay đẫm mồ hôi của Polina, giật giật:
- Được, được. Nhất định em phải đến. Tôi sẽ chờ em... Tôi sẽ để cửa mở ở phân xưởng... Chỉ xin em hãy cẩn thận.
Ngày hôm đó có cảm giác dài như bất tận. Cuối cùng màn đêm cũng buông xuống. Bushman nằm trong phòng mình, lắng nghe mọi động tĩnh. Những tình cảm trái ngược nhau đang hành hạ anh ta. Bushman sợ sẽ bị bắt, khi đó anh ta sẽ toi đời, dẫu vậy, Bushman vẫn khát khao Polina. Đột nhiên có tiếng kẹt cửa: Bushman lặng người, miệng há hốc. Lại tiếng kẹt nữa, lần này dài hơn. Cánh cửa! Bushman bật dậy lao ra. Họ gặp nhau, ôm chầm lấy nhau, môi chạm môi, không thốt một lời. Bushman cảm nhận được toàn bộ khát vọng từ lâu đã bị quên lãng.
Với những nụ hôn cuồng nhiệt kéo dài không dứt, họ đi dần đến tấm phản.
Bushman nhanh nhẹn đặt Polina nằm xuống rồi nằm lên trên. Giờ đây Bushman mới có dịp hôn lên mặt, lên cổ, lên tai Polina. Mùi xà phòng giặt tỏa ra từ mái tóc dày vừa gội của Polina làm Bushman ngây ngất, đôi hoa tai lạnh ngắt xước vào mặt nhưng anh ta vẫn cảm thấy vô cùng dễ chịu. Bushman quên hết mọi thứ trên đời, hoàn toàn chìm đắm trong cơn đam mê!..
Mọi việc kết thúc. Một sự tĩnh lặng, chỉ còn nghe tiếng thở hổn hển.
- Em ngồi dậy và đi đi, - Bushman thì thào bên tai Polina.
Giọt mồ hôi dễ chịu đã khô, Bushman cảm thấy lạnh liền vội vàng mặc quần áo vào. Trong bóng tối, Bushman bắt đầu thu nhặt quần áo của Polina vung vãi khắp phòng.
- Nhanh lên. Nhanh lên.
- Ôi, anh yêu, khoan đã!.. Có chuyện gì vậy? Anh nhỏ bé thế, vậy mà!.. Anh dịu dàng với em quá! Để em nằm tí nữa! Em thích lắm!
- Em yêu ơi, dậy đi. Dậy đi, xin em, đêm ngắn lắm, sắp sáng rồi.
Bushman giúp Polina mặc quần áo vào, ra đến cửa còn hôn lên má, vỗ vỗ vào cái mông to bè của chị rồi đóng chặt cửa lại.
Sáng hôm sau Bushman bị đánh thức dậy bởi tiếng động trong phân xưởng. Anh ta nặng nề ngồi dậy, bỏ thõng chân xuống phản, đôi mắt còn ngái ngủ nhìn vào một điểm nào đó. Tất cả xương khớp của cái cơ thể còm nhom đau ê ẩm, đôi chân mệt mỏi dễ chịu. Đột nhiên Bushman nhìn thấy trên sàn một chiếc lược phụ nữ hình bán nguyệt, anh ta liền tỉnh hẳn. Và phút sau, Bushman đã chạy lăng xăng khắp phân xưởng, lấm lét nhìn vào chỗ của nữ kế toán. Cả ngày hôm ấy Polina không đi làm. Bushman run rẩy chờ đợi từng giây những người lính sẽ đến bắt anh ta dẫn đi, nhưng cho đến chiều, Bushman vẫn chỉ có một mình.
Đêm đó, dù rất mệt nhưng Bushman không ngủ được, cứ lật qua lật lại, trằn trọc mãi, cảm thấy hối tiếc vì những gì đã diễn ra. Mọi việc cứ như thế cho đến khi Bushman gặp lại Polina. Người phụ nữ xuất hiện nơi làm việc, dáng vẻ quan trọng, hồng hào và mãn nguyện. Bushman rất ngạc nhiên khi Polina không nói gì cả, mãi đến chiều mới bất ngờ đến chỗ nhà vật lý:
- Đêm nay em sẽ đến. - Polina khẽ nói.
- Không. Không được đâu. - Bushman giãy nảy.
- Nếu vậy thì đêm mai.
- Không.
- Em cứ đến.
Và như đã hứa, Polina lại đến. Lại một đêm mây mưa, nhưng sáng hôm sau Polina vẫn đi làm bình thường, lại la hét, chửi mắng, cười cợt.
Trái hẳn với ý muốn của Bushman, cứ cách một ngày Polina lại đến. Nhà vật lý tức điên lên, không muốn dính tới phụ nữ nữa: Polina trở nên đáng ghét đối với anh ta.
- Chẳng lẽ em muốn vì em mà tôi phải chết rũ ra ở đây hay sao? - Bushman tức giận nói và ngoảnh mặt khỏi cái miệng bốc mùi khó chịu của Polina.
- Anh yêu ơi, Andriusha yêu quý ơi! Giá như anh biết được em yêu anh thế nào, đau khổ vì anh thế nào! Em sẵn sàng làm tất cả vì anh!.. Anh là một người đàn ông thực sự! - Polina vừa nói vừa ghì chặt nhà vật lý ốm o vào lòng.
Cuối cùng Bushman đành phải chịu thua, cái cơ thể nặng nề kia đã ép hết cả lục phủ ngũ tạng anh ta ra. Bushman đuối sức, ngọ ngoạy một cách bất lực, còn Polina thì vẫn cứ hôn tới tấp vào mặt, vào ngực và vào tấm thân gày guộc của Bushman. Đột nhiên, một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu Bushman: khi có tình yêu, niềm đam mê và khát vọng, thì bất cứ trọng lượng nào cũng nhẹ như lông hồng, còn nếu không có những cái đó, thì tất cả đều trở nên chán ngán và nặng nề đến mức không thể chịu đựng nổi. Bushman phải khó khăn lắm mới chui ra khỏi tấm thân của Polina, kinh tởm mùi mồ hôi trộn lẫn với mùi son phấn, băng phiến, xà phòng giặt và mùi nước hoa rẻ tiền của chị. Anh ta cảm thấy ngạt thở, khó chịu và chỉ mong cho đến lúc Polina ra về.
Cách một ngày Polina lại đến, nhưng cửa ra vào phân xưởng được gài chặt. Bushman nhìn thấy cái bóng to như con gấu đi đi lại lại bên cửa sổ, gõ vào cửa ra vào, đẩy cọt kẹt, nhưng nhà vật lý vẫn kiên định. Ngày hôm sau, Bushman bị lãnh đạo gọi lên. Vậy là xong, mình đã thua. Bushman tin chắc cuộc gọi này sẽ chẳng mang lại điều gì tốt đẹp. “Mình ngốc quá đi mất!” - Bushman vừa nghĩ vừa bước vào gian phòng lớn, sáng sủa. Lãnh đạo không đứng dậy, chỉ ngước cái đầu to với những đường nét thô kệch lên, bỏ kính xuống, nhìn Bushman giây lát như để đánh giá người tù xấu xí.
- Anh là chuyên gia về sóng điện từ phải không?
- Thưa cán bộ, vâng ạ.
- Được rồi, tôi đang chuẩn bị hồ sơ để xin thả anh ra trước thời hạn. Sắp tới tôi sẽ trực tiếp mang về Moskva. Bây giờ anh hãy viết bản báo cáo theo mẫu này... Còn sáng mai, người ta sẽ đưa anh sang khu khai thác khác để áp dụng kinh nghiệm tiên tiến đó.
Suốt ba tháng, hết cả mùa hè, người ta dẫn Bushman đi hết chỗ này đến chỗ khác. Bushman phải sống trong các khu lán trại tập thể, thường bị bỏ quên và bỏ đói, bạ đâu ngủ đấy và nói chung cũng không ngủ được. Cuộc sống rất khổ, nhưng nhờ bị ám ảnh bởi ý nghĩ sắp được thả nên Bushman cố cắn răng chịu đựng mọi nỗi thống khổ của một kẻ tù đày. Trong lúc di chuyển, Bushman đã tận mắt chứng kiến được nhiều chuyện.
Khi tuyết bắt đầu rơi, Bushman được đưa về chỗ cũ. Lãnh đạo khu di dân vẫn chưa quay về, còn Polina Matveevna thì một tháng nay đã đi Magadan vì lý do sức khỏe. Trong dịp hè người ta đã chuyển đến đây một số lượng lớn máy móc thiết bị cần thiết và không cần thiết, cùng nhiều tù nhân, lính tráng và sĩ quan bảo vệ. Bushman phải làm việc từ mười hai đến mười bốn tiếng một ngày để lắp đặt máy móc tại các điểm khai thác cũ và mới.
Khi đợt băng giá đầu tiên tràn tới thì những hy vọng tốt đẹp của Bushman cũng sụp đổ hoàn toàn. Khu di dân có lãnh đạo mới nguyên là sĩ quan an ninh. Một người học vấn không cao, nhưng nghiêm khắc và nguyên tắc. Cùng đến với ông là một tin đồn làm Bushman rụng rời tay chân: người lãnh đạo cũ đã bị bắt ở Moskva vì làm gián điệp cho Nhật và đã bị xử bắn. Mấy ngày liền, nhà vật lý khốn khổ tuyệt vọng, thẫn thờ. Tất cả mọi niềm hy vọng về việc được trả tự do trước thời hạn đã tan biến hoàn toàn. Chân tay Bushman rũ ra, không thể làm việc và suy nghĩ được nữa. Chỉ có sự xuất hiện của Polina Matveevna trong phân xưởng với nụ cười trên môi là có thể làm cho Bushman tỉnh lại. Sau bữa trưa, khi công nhân trong phân xưởng còn lại rất ít, họ mới có cơ hội gặp nhau. Bất chấp mọi chuyện đã xảy ra, Bushman vẫn rất vui vì cuộc gặp gỡ. Họ ngồi trong góc, nói rất ít: cuộc trò chuyện chẳng mấy mặn mà, mỗi người đều theo đuổi những ý nghĩ của riêng mình.
- Anh Andrei, em có mang rồi, - cuối cùng Polina vui vẻ nói.
- Vậy à? Tôi xin chúc mừng cô! Tuyệt quá! - Bushman đáp như máy.
- Bốn tháng rồi, - Polina tiếp tục.
- Tốt lắm. Thậm chí rất tốt nữa! Xin chúc mừng! Chắc hẳn cô vẫn mong có con. Hơn nữa tuổi tác cũng không còn trẻ. - Nhà vật lý lơ đãng nói.
- Vậy anh có biết ai là cha đứa bé không?
- Còn ai nữa? - Cuối cùng Bushman bừng tỉnh. - Ai?
- Anh đấy, anh Andrei ạ.
- Thôi đừng nói bậy nữa... Cô là phụ nữ có chồng. Cô không thấy xấu hổ sao?
Bushman bật dậy định bỏ chạy, nhưng Polina Matveevna đã túm lấy tay anh ta, ấn ngồi xuống chỗ cũ.
- Anh Andrei yêu quý ạ! Anh không biết là em rất biết ơn anh! Em yêu anh vô cùng! Em sẽ không ràng buộc anh điều gì đâu, anh đừng lo. Anh đã mang lại hạnh phúc cho em. Hiện giờ em đang hoàn tất giấy tờ, thanh toán mọi thứ và sẽ ra đi. Vì em có mang nên chồng em được điều về thành phố Magadan. Vài ngày nữa em sẽ đi. Nhưng em sẽ không sống với chồng nữa, em không thể... Sinh con xong em sẽ về nhà với cha mẹ, ở Kuban... Thế đấy, vĩnh biệt anh, anh Andrei yêu quý! Cám ơn anh nữa! Em sẽ yêu anh mãi mãi!
Đêm ấy Bushman không sao ngủ được, những ý nghĩ khác nhau cứ ùa vào trong óc. Anh ta ngồi dậy, châm đèn, hút thuốc rất lâu, nhìn vào cuốn sách gì đó rồi viết.
Suốt cả buổi sáng, Bushman đi tìm Polina Matveevna nhưng chị ta không đến. Bushman hỏi đám bạn gái của Polina - họ bảo chị ấy đã xin nghỉ việc và đang thu dọn đồ đạc. Không còn cách nào khác, nhà vật lý nhờ chuyển cho Polina lời hẹn gặp. Ngày hôm sau, họ gặp nhau. Cả hai đều im lặng, bối rối. Polina Matveevna, đôi má ửng đỏ, âu yếm nhìn người yêu.
- Em yêu tôi chứ? - Cuối cùng Bushman hỏi thẳng.
- Ôi, anh Andriusha! - Polina đặt hai tay lên ngực xoa xoa, vẻ thích thú.
- Chẳng lẽ em bỏ tôi ở lại đây hay sao? Chẳng lẽ chúng ta chia tay nhau vĩnh viễn? - Nhà vật lý lạnh lùng khẽ hỏi.
- Nhưng em biết làm gì bây giờ? Em chẳng biết nữa, - những giọt nước mắt bắt đầu lăn trên gò má Polina.
- Chỉ có điều, xin em đừng khóc. Hãy cứng rắn lên, - Bushman nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay to bè của Polina, vuốt ve. - Em có muốn sống suốt đời với tôi không?.. Chúng ta sẽ hạnh phúc! Em sẽ là người phụ nữ hạnh phúc nhất! Chúng ta sẽ có rất nhiều con!.. Tôi yêu em, yêu em. - Bushman xúc động thì thào, nắm chặt tay Polina.
Polina Matveevna nhắm mắt lại, thân thể đồ sộ của chị khẽ rung rung, không biết có phải từ đôi tay của nhà vật lý hay vì một lý do nào khác. Polina không nói gì cả.
- Em sẵn sàng giúp tôi chứ? Không có gì nguy hiểm đâu. Nhưng sau đó chúng ta sẽ sống rất hạnh phúc, sung sướng. Cả thế giới sẽ biết đến em, đến tài năng của em. Tôi sẽ làm được điều đó... Em có yêu tôi không?
- Có, có! Nhưng em có thể làm gì được?
- Đêm nay em hãy đến gặp tôi.
- Anh Andriusha, lãnh đạo mới rất nghiêm khắc... Ngoài ra, chồng em hiện giờ không đi trực nữa.
- Thế anh ta không còn uống nữa à? - Bushman cắt ngang.
- Không, vẫn uống như hũ chìm ấy.
- Vậy thì chuốc cho anh ta uống say vào. Còn kỷ luật ở đây thì bao giờ chẳng nghiêm. - Rồi bằng một giọng nhẹ nhàng hơn, Bushman tiếp: - Chẳng lẽ em quên những giây phút âu yếm bên tôi rồi sao?
- Ôi, Andriusha! Em sẽ đến, sẽ đến! Họ có giết em, em cũng sẽ đến!
- Chỉ có điều đừng làm cái gì ngu ngốc đấy. Hãy cẩn thận và hãy nhớ: chúng ta sẽ luôn ở bên nhau. Tôi sẽ làm cho em trở thành người phụ nữ hạnh phúc nhất... Hẹn tối gặp lại!
Buổi tối, hai người gặp nhau, run bắn lên vì sợ. Như đêm đầu tiên, họ yêu nhau say đắm, nhưng mọi việc diễn ra nhanh hơn, vội vàng hơn. Sau đó, họ lặng lẽ mặc quần áo, Bushman hút thuốc.
- Em phải đi, - cuối cùng Polina Matveevna nói.
- Khoan đã, - Bushman đứng lên, hít một hơi dài. - Anh có thể tin em được không?
- Được.
- Vậy thì hãy nghe cho kĩ đây.
Bushman chậm rãi, mạch lạc tiết lộ cho Polina biết kế hoạch của mình. Một kế hoạch chạy trốn mới. Polina im lặng lắng nghe, gật gật đầu, rân rấn nước mắt.
- Bây giờ em hãy nhắc lại cho tôi nghe, em phải làm những gì? - Cuối cùng Bushman hỏi.
Polina nhắc lại bằng một giọng run run.
- Không, không phải vậy, - nhà vật lý sửa lại, - Nhắc lại một lần nữa đi.
Polina nhắc lại.
- Em thấy chưa, mọi việc rất đơn giản. Em hoàn toàn không gặp bất cứ một sự nguy hiểm nào. - Bushman lại đốt thuốc. - Em hãy nói lại lần cuối, em có đồng ý không?
Polina lặng lẽ gật đầu.
- Anh không nghe thấy gì cả.
- Có. Vì anh, em đồng ý tất cả. Chỉ có điều, em có làm được không?
- Dĩ nhiên, em làm được. Em sẽ không phải mạo hiểm gì cả. Em hãy suy nghĩ cho kĩ một lần nữa và trả lời anh: em có đồng ý không?
- Có. Em đồng ý.
- Nhắc lại một lần nữa.
Polina nhắc lại.
- Đúng rồi. Chúa sẽ phù hộ chúng ta! - Bushman hôn vào trán Polina.
Bushman chui xuống gầm bàn, dịch chuyển cái gì đó khá lâu, cuối cùng bước lại gần Polina Matveevna.
- Đây là bước đầu tiên, công việc nặng nhọc nhất đối với em trong toàn bộ chiến dịch này, về nguyên tắc, đây là sự nguy hiểm nhất đối với em.
- Cái gì thế này? - Polina vừa cầm chiếc bọc nặng vừa hỏi.
- Vàng đấy.
- Nhiều thế cơ à?
- Cũng không nhiều lắm đâu. Chúng được đổ thành từng thoi một kilogam. Một phần em mang trên người, một phần bỏ vào hành lý.
- Một nửa có đủ không? Nặng lắm.
- Một nửa hay tất cả, cũng nguy hiểm như nhau cả thôi. Sau này, mọi việc sẽ khác. Mối nguy hiểm nhất đối với em chính là lúc này. Em phải về đến chỗ ở mà không ai để ý. Thôi, đi đi. Anh yêu em. - Bushman ôm hôn thắm thiết Polina.
Để cố lãng quên, Bushman lao vào làm việc suốt ngày đêm. Vì quá xúc động, tay chân Bushman run lẩy bẩy, mọi việc cứ tuột khỏi tay. Tuy nhiên không có một vụ ầm ĩ nào xảy ra cả. Chẳng những thế, hai ngày sau Polina Matveevna lại xuất hiện, hơi có vẻ hốc hác, má sệ xuống, mắt thâm quầng.
- Mọi việc đâu vào đấy cả... Em đã làm đúng như anh dặn. Anh hãy cẩn trọng. Em sẽ chờ anh. Tạm biệt anh! - Polina khẽ nói rồi buồn rầu đi ra, sau đó quay lại hỏi: - Tên con đặt là gì?
- Em muốn đặt thế nào cũng được, miễn là nó khỏe mạnh.
- Nhưng anh muốn con trai hay con gái?
- Con trai. Nhưng điều đó cũng chẳng quan trọng.
- Anh sẽ chúc phúc cho mẹ con em chứ?
- Phải, phải! Anh chúc phúc cho em và con! Cầu Chúa cứu giúp! Nhớ những gì anh dặn và hãy cẩn trọng. Anh tin em.
Họ chia tay nhau. Bushman nhìn mãi theo Polina. Ra khỏi phân xưởng, Polina quay đầu lại, sợ sệt vẫy vẫy tay và biến mất sau cánh cửa.
Ngay trong buổi chiều hôm ấy, Bushman đến gặp người lãnh đạo trực tiếp của mình - một kĩ sư dân sự, và xin chuyển ra khỏi phân xưởng.
- Anh làm sao thế, điên rồi à? - Người kĩ sư ngạc nhiên. - Chẳng lẽ anh lại muốn quay về với cái bệ xí ở khu lán trại?
- Không ạ, chẳng qua là ở đây, đằng nào thì lãnh đạo mới cũng không tin dùng tôi. Tôi là tù chính trị, rất có thể lại bị đưa về khu trại. Nếu được anh giúp, tôi có thể được bố trí làm ở đâu đó. Ở đây tôi cũng đã làm được nhiều việc rồi.
- Thôi được. Vậy anh muốn đi đâu?
- Tôi muốn về trạm y tế hay là khu lò hơi ạ. Trước kia tôi đã từng làm ở đấy.
- Được rồi, để xem.
Vài ngày sau Bushman được điều về khu nồi hơi quen thuộc của mình. Sang ngày hôm sau, Bushman đến thăm người quen cũ - trưởng trạm y tế Semisastny, với nụ cười thân thiện, chân thành và thắm thiết đến mức làm Semisastny phải bối rối. Bác sĩ dè dặt chào hỏi, hờ hững hỏi thăm tình hình công việc. Nhà vật lý lúng túng đổi hết chân nọ sang chân kia, trả lời qua quýt bằng một giọng đơn đớt. Dáng vẻ thiểu não, ánh mắt nhìn xuống sau cặp kính dày ít nhiều cũng làm dịu bớt nỗi tức giận trước kia của trưởng trạm. Họ làm lành với nhau, tán tụng nhau, rồi lại uống với nhau để nhớ về Moskva với những câu chuyện tiếu lâm, kể cho nhau nghe những câu chuyện bịa cũng như chuyện thật, chế nhạo tỉnh lẻ và dân tỉnh lẻ, coi Moskva và người Moskva là một nền văn minh đặc biệt, một nhà nước đặc biệt.
* * *
Sau buổi kỷ niệm sinh nhật của trưởng trạm y tế, vài ngày liền không thấy Bushman ló mặt ở trạm. Mùa hè ngắn ngủi ở Kolyma bắt đầu. Trong không khí đã cảm nhận được sự ấm dần lên và những thay đổi về mọi mặt. Thông thường, mùa xuân đánh thức những niềm hy vọng cùng những kế hoạch và triển vọng mới. Và cũng như mọi mùa hè trước, bác sĩ Semisastny quyết định chia tay dứt khoát với cuộc sống hoang dã này để về với đại lục, với Moskva và với mẹ.
Mấy ngày trước, bác sĩ nhận được một bức thư rất tình cảm và xúc động của mẹ, trong đó, bà xin đứa con trai hãy quay về. Từ những câu chữ của mẹ, bác sĩ hiểu ra mẹ mình đang lâm bệnh và cần sự giúp đỡ. Bức thư làm Semisastny rất bối rối, thậm chí anh ta còn sợ, sẽ chẳng bao giờ được gặp mẹ nữa. Ngoài ra, người mẹ còn viết, nếu bà qua đời thì căn hộ cũng sẽ mất.
Chi tiết cuối cùng này đã tác động mạnh đến tận tâm can vị bác sĩ vốn là dân gốc Moskva. Hóa ra, bác sĩ Semisastny rất có thể sẽ mất chỗ ở và cả hộ khẩu ở Moskva và trở thành kẻ vô gia cư. Khi đó, Moskva thành phố thủ đô mà bác sĩ đã từng sống và từng tự hào sẽ trở thành một thành phố xa lạ đối với anh ta.
Lần đầu tiên sau nhiều năm sống ở đoàn thăm dò địa chất, bác sĩ Semisastny trở nên tỉnh táo và bắt đầu ngẫm nghĩ về quá khứ cũng như tương lai của mình những ý nghĩ chẳng mấy sáng sủa và đầy lo âu.
Người mẹ già nua của bác sĩ, căn hộ ở Moskva, toàn bộ hậu phương vững chãi của bác sĩ có thể sụp đổ chỉ sau một giờ. Những ý nghĩ nặng nề và đáng sợ cứ dằn vặt người bác sĩ đáng thương suốt ngày đêm.
Cuối cùng Semisastny nhận ra rằng những chuỗi ngày tồn tại một cách vô lo của mình đã chấm dứt. Thậm chí bác sĩ cũng không tìm được niềm an ủi trong rượu nữa. Semisastny muốn chia sẻ với ai đó về nỗi lo âu của mình, nhưng không có ai bên cạnh có thể hiểu và chia sẻ với anh ta. Và thật trớ trêu, sau một thời gian khá lâu không thấy xuất hiện, cuối cùng Bushman lại ló mặt ra.
Semisastny nồng nhiệt đón tiếp bạn cũ, ôm chặt vào lòng, thậm chí còn hôn lên má nữa.
Trưởng trạm y tế đọc cho nhà vật lý nghe bức thư của mẹ để tìm kiếm sự đồng cảm chân tình. Khi đọc lại lá thư, bác sĩ lại bị xúc động một lần nữa, thậm chí chính mình cũng rất ngạc nhiên khi ứa cả nước mắt. Bushman khuyên trưởng trạm xin nghỉ việc và về nhà ngay.
Cuối cùng, Bushman hỏi thăm về Tsanka.
- Tôi phải chịu thua cái thằng mọi rợ ấy. - Bác sĩ chân thành đáp. - Khá lắm, làm trưởng phòng quản trị hành chính.
Cả hai bật cười thích thú.
- Dù sao thì tôi cũng đề nghị anh cho gọi nó tới đây, - nhà vật lý mềm mỏng. - Tôi thích cái tính cách thô kệch của nó... Ít ra thì chúng ta cũng được giải trí một lát.
- Thôi được, anh đã thuyết phục được tôi. Chỉ có điều, không được ngồi lâu, nếu không nó sẽ lên mặt với anh đấy.
Tsanka đang co ro ngủ yên trong hai chiếc chăn thì bị y sĩ đánh thức dậy.
- Trưởng trạm gọi.
Tsanka ngái ngủ dụi mắt ngồi dậy, bỏ thõng đôi chân gầy, dài ngoằng xuống nền đất lạnh, chẳng hiểu gì cả.
- Có chuyện gì thế?
- Tôi không biết. Ở đấy còn một người đeo kính ở khu nồi hơi nữa.
- À, à... Được rồi, tôi đi ngay.
Không chỉ một lần, Tsanka đã nghe nói về hai cư dân Moskva này, cứ uống say là quay ra dè bỉu dân tỉnh lẻ, coi thường những người không phải là dân Moskva, và dĩ nhiên, Tsanka cũng biết thái độ của họ đối với anh - không chỉ là một tên tỉnh lẻ mà còn là một kẻ mọi rợ, vô học từ trên núi xuống - một sự ngạo mạn và trịch thượng. Tsanka để ý thấy, phải khó khăn lắm họ mới giấu nổi vẻ tự cao tự đại và sự kinh tởm đối với đồ dùng sinh hoạt và bạn bè của anh. Mặc dù vậy, lần nào gặp nhau, Bushman vẫn cứ muốn có mặt đông đủ cả ba người. Vào thời gian này, Tsanka nhận thấy Bushman đang chơi một trò chơi hai mặt nào đó: anh ta muốn lấy lòng trưởng trạm y tế, nhưng vẫn không quên để mắt đến Tsanka. Anh nhận ra sự quan tâm của Bushman đến sức khỏe của mình với những thứ thực phẩm vô giá, nhưng đồng thời, Tsanka cũng biết được vai trò hèn hạ của anh ta khi cản trở anh chuyển viện về thành phố Magadan. Tsanka không tin nhà vật lý, cảnh giác và thận trọng với bất cứ lời nói hay lời đề nghị nào của anh ta, nhưng Tsanka cũng không có cách lựa chọn nào khác. Dù có thế nào đi nữa, cũng phải tìm cho mình một điểm tựa, dẫu không đáng tin cậy nhưng cũng là một chỗ dựa. Tsanka không còn chỗ nào khác. Với những ý nghĩ mâu thuẫn đó, Tsanka đứng dậy, hít một hơi dài rồi bước đến phòng lãnh đạo.
Tsanka gõ nhẹ, khom người bước qua khung cửa thấp, bối rối bước vào phòng trưởng trạm.
- Ngồi đi, ngồi đi, - Semisastny đã ngà ngà say ra lệnh bằng một giọng ngạo mạn.
Bushman đứng dậy đón anh, không chìa tay ta nhưng lại nắm chặt khuỷu tay Tsanka kéo lại ngồi cạnh mình.
- Nào, chúng ta hãy uống vì sức khỏe người mẹ yêu quý của anh, bác sĩ ạ. - Bushman vừa nói vừa rót cho mỗi người một cốc rượu đầy. - Vì các bậc sinh thành, chúng ta phải đứng lên và cạn cốc. Mời anh uống trước đi.
Họ chạm cốc, bác sĩ trưởng trạm làm một hơi, mãi một lúc mới thở được, sau đó bưng xô nước lạnh lên uống rồi ho sặc sụa. Trong lúc đó, Bushman kéo đầu Tsanka về phía mình, thì thầm:
- Bây giờ cậu đi đi. Còn tôi, sau khi chuốc cho anh ta say tôi cũng sẽ về. Khi mọi người đã ngủ, cậu hãy đến chỗ tôi. Có việc đấy.
- Y sĩ trực đến sáng vẫn chưa ngủ, đồ chó chết.
- Anh ta là tù nhân?
Tsanka gật đầu.
- Nếu vậy cậu hãy thỏa thuận với hắn. Chúng ta không còn nhiều thời gian đâu... Thôi, về phòng mình đi.
Vào lúc nửa đêm, sau khi đã hứa mang thuốc lá về cho y sĩ trực, Tsanka lần đến chỗ Bushman. Vừa bước vào phòng, Tsanka vô cùng ngạc nhiên thấy khắp nơi vương vãi bản thảo viết tay của Bushman. Trong căn phòng được chiếu sáng yếu ớt bằng ngọn đèn dầu, tràn ngập khói thuốc lá màu lam xám, hắt lên tường thành những bóng hình chuyển động kỳ quái. Chỉ có mỗi bức chân dung lãnh tụ Stalin là vẫn nhìn từ trên xuống bằng ánh mắt nghiêm khắc, lạnh lùng.
- Vào đi, vào đi. Ngồi xuống. - Nhà bác học vừa nói vừa dọn cho Tsanka một chỗ trên tấm phản, bên cạnh chiếc bàn tự đóng chất đầy giấy tờ và sách vở. - Hôm qua, người ta vừa đến đây khám xét. Có ai đó đã tố giác, mà cũng có thể là kiểm tra thường kỳ... Họ không nói gì cả rồi bỏ đi... Tuy nhiên, cũng chẳng nên trông đợi điều gì tốt đẹp từ chuyện này. Cậu uống trà chứ? Tôi có trà ngon đấy.
Bushman loay hoay bên bếp lò. Ngọn lửa bùng lên, nhảy nhót, thè ra những chiếc lưỡi lửa rực rỡ, củi nổ lép bép, không khí tĩnh lặng, ấm cúng.
- Cái này là do tôi sắp đặt như vậy, - nhà vật lý vừa nói vừa cẩn thận xếp lại đống giấy tờ. - Về nguyên tắc, tất cả đã xong rồi. Chỉ còn lại vài dòng cuối, tiểu tiết nữa thôi... Chỉ có điều cậu đừng chạm vào cái gì... Hút thuốc đi.
Tsanka thèm thuồng rít một hơi dài. Cả hai đều im lặng, đều biết rõ cuộc nói chuyện sẽ rất quan trọng, nặng nề và liên quan đến số phận của họ. Bushman lăng xăng bên ấm trà.
- Tsanka này, cậu không thể hình dung nổi, cuối cùng tôi đã làm xong mọi việc. Đây là những nghiên cứu lý thuyết hoàn toàn mới, chưa từng có. Chắc là cậu không tin tôi phải không? Chẳng qua là cậu không hiểu gì về việc này!.. Xin lỗi vì tôi nói như vậy. Tôi không hề muốn xúc phạm cậu.
Bushman đặt mấy chiếc cốc lên bàn, lấy từ dưới gầm phản ra miếng bánh mì khô, rồi rót trà nóng. Mùi trà thơm ngào ngạt tràn ngập căn phòng.
- Lâu lắm rồi tôi không được uống loại trà như thế này, - Tsanka thốt lên, nắm chặt cốc trà nóng trong hai bàn tay to, xương xẩu của mình.
Tsanka đưa cái mũi to và dài của mình lên miệng cốc - chi tiết duy nhất trên mặt anh không bị biến dạng trong thời gian đi tù - hít hít mùi hương tỏa lên từ cái chất lỏng màu đỏ sẫm trong cốc.
- Từ từ đã, tôi còn một thứ nữa để dành cho cậu. - Nói xong, nhà vậy lý lại chui xuống gầm phản, loay hoay rất lâu ở dưới đó, cuối cùng lôi ra một cái gói nhàu nhĩ dính đầy mỡ, cẩn thận mở ra và chìa cho Tsanka một mẩu đường trắng. - Nói thật, tôi để dành cho cậu đấy. Ăn đi.
- Cám ơn anh.
Tsanka thận trọng cầm cục đường hình dạng méo mó với nhiều góc nhọn đặt lên lòng bàn tay to và thô của mình. Sau đó anh lấy con dao đã hoen rỉ và bằng một nhát cắt mạnh chia đôi cục đường ra. Phần to hơn anh đặt trước mặt Bushman, phần của mình anh cầm trên tay rồi liếm mấy cái vào những mẩu đường còn lại trên lòng bàn tay kia.
- Tôi không cần đâu, Tsanka ạ, đây là tôi để dành cho cậu. - Nhà vật lý khẽ nói và đẩy cục đường về phía Tsanka.
- Chừng này đối với tôi là đủ rồi, cám ơn anh. - Tsanka cương quyết đẩy cục đường về chỗ cũ.
Lát sau Tsanka đưa cục đường vào miệng, định cắn một miếng. Hàm răng nghiến ken két, nhưng không được. Sau vài lần cố sức nhưng không thành, Tsanka đành phải nhè cục đường ra và rất ngạc nhiên nhìn thấy một vệt đỏ bầm tại chỗ vết cắn. Tsanka muốn giấu điều đó nên bỏ cả cục đường vào miệng.
- Cậu bị hoại huyết rồi. - Bushman lắc đầu, khẽ nói.
Cả hai đều không nói gì nữa, mỗi người đắm chìm vào những ý nghĩ của mình, một khoảng tĩnh lặng, chỉ có những lưỡi lửa nhảy nhót trong lò và tiếng củi nổ lách tách. Tsanka chép môi, thích thú đưa cục đường chạy trong khoang miệng, nó nhanh chóng tan mất. Sau đó anh thổi vào cốc trà rồi nhấp một ngụm nhỏ nghe đánh soạt, khoan khoái nhắm mắt lại.
- Tsanka, chúng ta phải chạy trốn. - Bushman phá vỡ sự im lặng.
Tsanka không nói gì cả, chỉ nhấp một ngụm trà nữa.
- Cậu làm sao thế, điếc rồi à? Chúng ta cần phải chạy trốn. Chúng ta không thể sống sót qua một mùa đông nữa ở đây.
- Trong năm nay tôi và anh đã chạy một lần rồi. Chẳng lẽ thế là chưa đủ?
- Mọi việc diễn ra như vậy, chẳng lẽ tôi là người có lỗi? Tất cả chúng ta ở đây đều là những kẻ bị lệ thuộc. - Nhà vật lý vội vàng phân trần. - Không có ai hỏi tôi, rằng tôi muốn gì, muốn đi đâu. Chỉ đơn giản là người ta bắt tôi, rồi muốn đưa tôi đi đâu thì đưa.
- Nhưng ít ra, anh cũng phải cho tôi biết tin để tôi không phải nhảy dựng lên chứ.
- Tôi không thể. Tôi không thể. Vấn đề là ở chỗ tôi không thể.
Bushman đứng lên, đi đi lại lại trong căn phòng nhỏ, dừng lại trước lò sưởi, ném vài que củi vào trong ngọn lửa đã gần tàn.
- Về chuyện củi đuốc, tôi thấy ở chỗ anh mọi việc đều tốt cả. - Tsanka nói để đưa đẩy câu chuyện.
- Ở chỗ tôi “mọi việc đều tốt”, chỉ có cuộc sống là chẳng ra làm sao, cuộc sống của một kẻ sắp chết, - vừa nói những từ cuối, Bushman vừa quay đầu về phía bàn và trong đôi mắt kính dày của nhà vật lý như lóe lên những sắc đỏ nhấp nháy không đều. Tsanka có cảm giác như có một chiếc đầu lâu với đôi mắt cháy như lửa đang nhìn anh, làm anh sởn gai ốc.
- Anh Andrei, cho tôi xin ít trà nữa, nếu còn. - Tsanka sợ hãi run run chìa chiếc cốc về phía đôi mắt đang cháy.
Bushman lặng lẽ đứng lên, đến gần bình trà, rót thêm trà cho mình và cho Tsanka rồi lại ngồi xuống, đối diện. Ngọn lửa trong đôi mắt biến mất, chỉ còn lại một Bushman yếu ớt thảm hại với cặp kính to trên chiếc mũi khoằm.
- Chúng ta sẽ uống một chút, - giọng Bushman đã vui vẻ hơn.
Như thường lệ, Bushman lại chui xuống gầm phản, lấy ra một cái bình y tế không to lắm, lấy từ trên giá xuống hai chiếc ca nhôm của lính, lấy trong cái bọc bằng vải lanh bẩn thỉu ra một miếng bánh mì khô, bẻ nhỏ ra.
Rượu được rót ra, không pha, uống cạn. Mãi một lúc hai người mới thở được.
Bushman rót nước từ chiếc sô để cạnh cửa vào ca, uống vài ngụm rồi đưa cho Tsanka. Lát sau, hai người lại sớt rượu từ bình ra, lại uống tiếp, nhấp từng tí một, lại khà lên thích thú. Sau đó họ im lặng ngồi sát bên nhau cạnh bàn, cùng hút thuốc và ngắm nhìn ngọn lửa đang tinh nghịch nhảy nhót vui vẻ trong lò như một thời trai trẻ.
- Nói chung, rất tốt là năm ngoái chúng ta đã không chạy trốn, - Bushman lên tiếng phá vỡ sự im lặng, nhưng vẫn không nhìn về phía Tsanka. - Kế hoạch đó với chặng đường đó sẽ dẫn chúng ta đến cái chết. Đằng nào thì chúng ta cũng không thể thực hiện được, xương cốt của chúng ta đã nằm đâu đó dưới lớp băng vĩnh cửu... Đó là một điều không tưởng. Lỗi của tôi.
- Thế còn bây giờ, anh có kế hoạch khác à?
- Phải. Một kế hoạch hoàn toàn khác, và điều quan trọng nhất, nó đã được nghiên cứu và hoàn thiện kĩ lưỡng.
- Cụ thể thế nào? - Tsanka vừa hỏi vừa nhìn nhà vật lý.
- Trước khi trình bày cho cậu nghe, tôi muốn biết cậu có đồng ý hay không. Cậu có sẵn sàng chạy trốn với tôi, chia sẻ với tôi tất cả những gì xảy ra trên đường.
- Anh không tin tôi à? - Tsanka làm ra vẻ cười mỉa hỏi.
Một khoảng lặng ngắn ngủi trôi qua.
- Nếu không tin cậu, tôi đã chẳng gọi cậu đến đây. Cậu có tin hay không thì tùy, Tsanka ạ, nhưng hiện giờ cậu là người thân duy nhất đối với tôi trên trái đất này. Tôi không chỉ tin cậu, mà tôi còn yêu thương cậu nữa, - sau câu đó, Bushman lại im lặng, lát sau anh ta mới tiếp: - Ngoài cha mẹ ra, tôi chẳng còn ai. Tôi không có anh chị em, bà con họ hàng, và bây giờ tôi gặp cậu. Tôi không biết việc ấy diễn ra như thế nào, nhưng tôi đã gắn bó ngay với cậu, yêu thương cậu, quý mến cậu. Và điều quan trọng nhất, tôi hoàn toàn tin tưởng cậu, thậm chí còn tin hơn chính bản thân mình nữa. Nếu cậu không đồng ý chạy trốn với tôi, đó là sự lựa chọn của cậu, còn tôi đã quyết định dứt khoát. Hoặc là tôi sẽ chạy trốn và tìm mọi cách để đấu tranh cho cuộc sống của mình, hoặc là tôi sẽ âm thầm, lặng lẽ chết dần chết mòn ở đây như hàng ngàn người khác. Cậu hãy tin tôi, vấn đề không phải ở chỗ, tôi là một người vĩ đại hay thiên tài, đó là điều vô nghĩa, nhưng lý thuyết của tôi là một phát minh, và tôi cần phải mang nó đến với khoa học. Dĩ nhiên, không có tôi người ta cũng có thể phát minh ra nó, nhưng chẳng lẽ tôi không có quyền để lại tên tuổi xứng đáng của mình trên trái đất này hay sao?.. Tôi đã đổ bao công sức để đạt tới điều đó... Tôi chẳng cần sự vinh danh, lòng kính trọng hay sự thừa nhận, tôi chỉ muốn người ra đánh giá đúng công sức của tôi, sự đóng góp của tôi... Ôi, mà tôi ba hoa cái gì thế nhỉ! Chẳng lẽ trong cái chốn xa xôi hẻo lánh này còn có ai nghĩ đến điều đó, ngoài tôi ra, một thằng ngốc.
- Anh Andrei ạ, có hai nguyên nhân giữ tôi ở lại đây.
- Nào, nguyên nhân gì? - Không kìm nổi, nhà vật lý liền cắt ngang. - Chỉ có một nguyên nhân duy nhất thôi, đó là sự hèn nhát.
- Tôi không phải là kẻ hèn nhát, - Tsanka tức giận nói.
- Thôi được, tôi xin lỗi, xin lỗi. Thần kinh căng thẳng quá, thần kinh.
Bushman lại đứng dậy, đi vòng quanh lò sưởi.
- Nào chúng ta uống trà nữa, trà mới. - Bushman vừa nói vừa rót thêm nước vào chiếc ấm trà méo mó bám đầy bồ hóng.
- Xin lỗi tôi đã cắt ngang, vậy hai nguyên nhân đó là gì?
Tsanka ngẫm nghĩ một hồi, cuối cùng, anh khẽ nghiêng đầu, nói:
- Cứ cho là chúng ta sẽ chạy trốn thành công. Anh có thể sống trên khắp trái đất này. Đối với anh, sống ở đâu cũng thế, kể cả nước Mỹ. Còn tôi, tôi không có chỗ nào để đi cả, tôi chỉ có thể về với núi rừng của mình thôi. Ở đấy, tôi mãi mãi chỉ là một người Arbek, cho đến khi các cán bộ an ninh tìm ra tôi.
- Chúng ta sẽ luôn ở bên nhau, mãi mãi bên nhau. Tôi rất quý cậu và rất cần cậu. - Bushman ngắt lời.
- Anh sẽ cùng sống với tôi trong rừng hoang chứ?
- Nếu cần, tôi có thể sống ở đâu cũng được, miễn là không phải ở đây, mà ở đây cũng được miễn là được tự do.
- Những người Arbek ít tự do lắm, anh Andrei ạ.
- Chúng ta sẽ sống với nhau một năm, hai năm, có thể mười năm. Chỗ các anh không giá lạnh như Kolyma chứ. Còn khi chết, ít ra cũng được vùi thây xuống đất như mọi người.
- Anh sẽ không tin nổi đâu, tôi chỉ cầu mong Thượng đế xin được chết ở nhà, được chôn cất theo đúng nghi lễ ở nghĩa trang quê hương. Tôi sẵn sàng đi bộ đến tận núi rừng quê hương để được nằm vào nấm mộ của mình... Tôi chỉ mong ước điều đó. Tôi sợ phải sống giữa cái đám đông này quá!...
- Nếu vậy thì còn phải nghĩ ngợi gì nữa? Cậu chẳng còn sự lựa chọn nào khác. Cậu đồng ý chạy trốn với tôi, rồi khi đã tự do cậu muốn thế nào cũng được, miễn là chúng ta không đầu hàng như những con chó chết. Thế nào, cậu đồng ý chứ? - Bushman đã ngà ngà say, hét lên.
- Được rồi, tôi đồng ý, đồng ý! - Tsanka hét lại. - Thế nào cũng được! Tôi chẳng sợ gì cả. Chẳng sợ cái gì và cũng chẳng sợ ai! Tôi sẵn sàng ngay bây giờ! Nào, đi!
- Khẽ thôi, khẽ thôi, đừng làm ồn. - Nhà vật lý thì thào, đặt chàng thanh niên miền núi đang bị kích động ngồi xuống phản. - Cậu hãy bình tĩnh lại. Vội vã chẳng đi đến đâu. Trong mọi việc cần phải tính toán một cách tỉnh táo và chính xác. Đừng có hét lên như thế, giọng của cậu cứ oang oang như lệnh vỡ vậy... Tốt hơn là cậu hãy cho tôi biết nguyên nhân thứ hai đi!
Tsanka đập đập vào đầu gối mình, nhìn thẳng vào mắt nhà vật lý đang đứng ngay trước mặt:
- Anh Andrei ạ, tôi không còn đủ sức nữa, không còn sức khỏe. Tôi cảm thấy mình rất yếu và bất lực. Thậm chí chỉ leo lên cầu thang với anh, tôi cũng phải cố gắng lắm mới nổi.
- Phải, sức khỏe của chúng ta quả là rất kém, nhưng điều đó cũng có - Phải, sức khỏe của chúng ta quả là rất kém, nhưng điều đó cũng có lợi, vì chúng ta sẽ không thể trụ nổi một mùa đông nữa ở đây. Đúng thế.
- Nhưng chạy trốn cũng cần phải có sức khỏe. Lấy ở đâu ra? Chỉ sau nửa ngày là họ đã đuổi kịp chúng ta và bắn chết ngay.
- Đừng yếu đuối thế, Tsanka! Lòng dũng cảm của cậu đâu rồi? Cậu vừa trải qua cơn bệnh nặng và vẫn còn chưa bình phục hẳn, chúng ta vẫn còn hai, ba tuần dự phòng nữa, trong thời gian đó cậu sẽ bình phục hoàn toàn. Tôi thấy, cậu khỏe lên từng ngày, giọng nói đang hồi phục, có nghĩa là phổi của cậu không sao.
- Nếu như anh không ngăn cản tôi chuyển viện đến Magadan, thì mọi việc đã khác. - Tsanka cay độc cắt ngang.
- Cậu giận tôi thế cơ à? - Bushman châm chọc. - Tôi làm tất cả những điều đó là thực lòng muốn giúp cậu. Sau đợt viêm phổi đó, cậu yếu đến mức không thể gượng nổi, thế mà cậu lại muốn đi sáu, bảy ngày ròng rã trong băng giá âm hai, ba mươi độ trên chiếc xe tải không mui, giơ thân ra ngoài gió tuyết. Ai sẽ chăm sóc cậu, cho cậu ăn, sưởi ấm cho cậu? Cậu chẳng biết cái gì cả! Chẳng qua là tay bác sĩ Semisastny muốn tống khứ cậu đi khi biết cậu không thể làm việc ở bãi khai thác quặng được nữa. Cậu sẽ không đến được Magadan... Ở đấy, ai cần đến cậu? Chỉ có lao phổi và đủ thứ bệnh khác nữa. Kết quả là cậu sẽ như cái đám đông kia, thậm chí có khi còn tệ hơn nữa, vào nhà thiêu xác để sưởi ấm những khúc xương dài ngoằng của cậu... Đúng là đồ ngu.
Bushman bực bội chắp tay sau đít, đi đi lại lại trong căn buồng hẹp.
- Cậu nghi ngờ tôi à? Tôi biết cậu không tin tôi! Cậu muốn nghĩ gì thì nghĩ, - nhà vật lý tức giận. - Tôi chỉ biết một điều, tôi thành thực mong cậu bình phục. Tôi sợ mất cậu... Cậu hãy tin tôi!
- Tôi biết anh rất quan tâm đến tôi, tôi vẫn còn nhớ, nào thuốc, nào thức ăn, nào mật ong. Ở đây kiếm đâu ra mật ong! Tôi rất biết ơn anh!
- Thôi được rồi, - Bushman vội cắt ngang, - Nói tóm lại, cậu cứ làm những gì cậu muốn, còn tôi đã chọn.
Bushman ngồi xuống ghế đẩu, uống nốt cốc trà đã nguội ngắt.
- Tôi cũng đã chọn. Tôi sẽ đi với anh. Còn sau đó, thế nào cũng được. - Tsanka nói bằng một giọng cương quyết.
- Chắc chắn chứ? - Nhà vật lý nhìn Tsanka chằm chằm trên đôi mắt kính, hỏi.
- Phải. - Tsanka đáp.
Và cả hai, như theo một mệnh lệnh cùng đứng lên, bước lại, bắt tay nhau rất chặt, không nói gì cả, chỉ nhìn thẳng vào mắt nhau và càng siết chặt tay nhau.
- Từ nay chúng ta sẽ luôn ở bên nhau, phải vậy không, Tsanka? - Nhà vật lý ngước lên nhìn Tsanka, hỏi.
- Vâng.
- Nếu vậy thì hãy cố lên. Chúng ta sẽ không hôn nhau đâu, còn ít thời gian lắm, mà đêm thì rất ngắn. - Bushman bước lại gần bàn. - Nào, giúp tôi một tay, nhanh lên.
Họ dọn tất cả mọi thứ trên bàn đi rồi Bushman trải ra tấm bản đồ nhàu nát, ghi chú nhằng nhịt.
- Tôi đã ăn cắp tờ bản đồ này của một nhà địa chất ở làng Ozerny vào mùa hè năm ngoái.
Bushman vặn bấc đèn cao lên, ném thêm vài thanh củi vào lò. Căn phòng sáng hơn. Cả hai, trong tâm trạng hưng phấn, thở hổn hển, cùng cúi đầu xuống tờ giấy đủ màu sắc, bốc lên đủ thứ mùi khác nhau.
- Đây là Magadan. Nơi chúng ta gặp nhau lần đầu tiên. Cậu nghĩ mà xem, mới đấy mà đã hai năm rồi! Thời gian trôi qua nhanh quá, còn hiện tại và tương lai thì rất nặng nề, - nhà vật lý đưa cây bút chì lên tấm bản đồ. - Người ta dẫn chúng ta từ Magadan đến Susuman. Từ Susuman chúng ta phải đi bộ theo tuyến đường dọc sông Aian-Oriakh, sau đó ngoặt sang hướng tây-nam theo sông Biachela. Đêm đó chúng ta đánh nhau ở chỗ này. Cậu nhớ chứ? Sau đó chúng ta đi dọc theo sông Biachela trái, chỗ này tôi và cậu ngủ trong tấm da ngựa. Nhớ chưa?
- Cứ như là mới xảy ra hôm qua vậy, - Tsanka khẽ thốt lên như nói với chính mình.
- Chúng ta vượt qua dãy núi Khalkhan ở chỗ này, rồi đến đây, nơi chúng ta đang có mặt. Dòng sông chỗ chúng ta gọi là sông Kentrenkan phải.
- Gọi là gì ạ?
- Kentrenkan phải. Năm ngoái tôi và cậu đã định chạy đến eo biển Bering. Một cái chết không tránh khỏi. Từ đây đến đấy khoảng hai ngàn rưởi kilomet. Dẫu có được trang bị đầy đủ như cán bộ địa chất cũng không thể thực hiện nổi một tuyến lộ trình như vậy. Chẳng qua là Chúa đã tha cho ta.
- Phải, phải... - Tsanka kéo dài giọng, định lấy gang tay đo khoảng cách.
- Từ chỗ chúng ta, con đường ngắn nhất đến Magadan, nếu theo đường chim bay, khoảng bốn trăm rưởi kilomet, còn nếu đi theo đường vòng qua các chướng ngại, khoảng năm, sáu trăm. Nhưng chúng ta không đi theo đường này, ở đó toàn là rừng, mùa hè đầy các trạm kiểm soát của quân đội, tất cả đều được bảo vệ chặt chẽ. Năm ngoái tôi đã nhìn thấy họ bắt những người chạy trốn. Đi theo đường đó là vô nghĩa. Mà trong thành phố Magadan đầy rẫy cán bộ an ninh và lực lượng mật báo. Chúng ta chẳng có việc gì làm ở đó cả. Mà người ta cũng chỉ tìm kiếm chúng ta theo hướng này. Nói như Lenin, chúng ta sẽ đi theo con đường khác.
- Đường nào? - Tsanka không giấu nổi sự nôn nóng.
- Chúng ta đi theo hướng mà sẽ không có ai đi tìm chúng ta cả. Đến thành phố Yakutsk. Không ai nghĩ là chúng ta có tờ bản đồ chi tiết này. Ở đây tất cả đều được ghi rõ, thậm chí cả trạm dừng chân của những người nuôi hươu, của các nhà địa chất nữa, tất cả những gì cần thiết cho chúng ta. Chúng ta sẽ chạy xuôi theo dòng sông này. Nó sẽ nhập vào dòng Kentrenkan, rồi vào dòng Ylbaia, sau đó là đến sông Tarym-Iuriakh, khi chảy gần đến ngôi làng Kuranakh-Sala nó sẽ đổ vào một dòng sông lớn có tên là Indigirka. Chúng ta sẽ đi dọc theo sông Indigirka cho đến Oimiakona, sau đó đi theo đường cái cho đến Kiubelia, đi tiếp đến Pazvilka, đến Teply Kliuch và Khandyga. Từ đây đến Khandyga khoảng sáu trăm kilomet. Tôi nghĩ, nếu chúng ta lên đường vào cuối tháng Năm thì khoảng giữa tháng Tám chúng ta sẽ đến đây, Khandyga.
- Sáu trăm kilomet trong hai tháng? Chẳng lẽ mỗi ngày chúng ta chỉ đi được có mười kilomet? - Tsanka ngạc nhiên.
- Tính bình quân là như vậy! Sức khỏe chúng ta không nhiều. Thêm vào đó, còn phải tìm kiếm thức ăn nữa, săn bắn hoặc bắt cá. Ngày rất dài, đêm hầu như không có, và chúng ta cần phải lẩn tránh mọi người, kể cả dân địa phương. Để làm được điều đó, tôi có cái ống nhòm.
- Anh nói, họ đã lục soát ở đây mà không tìm thấy gì?
- Tất cả đều được cất giấu ở bên dưới, trong gian nồi hơi, kể cả tờ bản đồ này nữa.Tôi chỉ lấy ra trước khi cậu đến. Nào, tiếp tục. Trong thành phố Khandyga, hay tốt hơn là trước khi đến đó, chúng ta phải cải trang thành các nhà địa chất. Tôi nghĩ, cậu đã hình dung được mọi việc... - Bushman rời mắt khỏi tờ bản đồ rồi nhìn vào cặp mắt xanh của Tsanka, ánh mắt họ gặp nhau, không chớp, như một cuộc đối thoại không lời, - Nếu không, chúng ta sẽ chết thối ra ở đây. - Nhà vật lý thở hắt ra.
- Chúng ta chẳng còn lối thoát nào khác. Mà nói chung, cứ đi rồi tính. Ở đấy sẽ rõ hơn. Tiếp theo thế nào?
- Tiếp theo à? Tiếp theo, ta có hai phương án. Hoặc là chúng ta sẽ như những công dân hợp pháp, nhà khoa học - địa chất và người giúp việc của ông ấy, chính là cậu, chúng ta sẽ bơi theo sông Aldan trên tàu thủy hay xà lan, đến đấy sẽ rõ. Chúng ta sẽ bơi đến sông Lena, từ đấy đến Yakutsk chỉ còn một đoạn nữa. Còn phương án thứ hai, có nhiều triển vọng hơn. Chúng ta sẽ băng qua sông Aldan ở đoạn gần thành phố Khandyga, rồi đi bộ đến Yakutsk. Ở đây, thoạt nhìn có vẻ an toàn hơn nhưng lại có rất nhiều điểm dân cư, hơn nữa đằng nào chúng ta cũng phải vượt sông Lena, vì thành phố Yakutsk nằm ở bờ bên kia. Nói tóm lại, mọi chuyện sẽ rõ trên đường đi, chẳng nên đoán trước làm gì. Đến thành phố Khandyga khoảng sáu trăm kilomet, còn từ Khandyga đến Yakutsk thêm bốn trăm kilomet nữa, đó là theo đường chim bay, còn đi dọc theo sông Aldan và sông Lena, năm trăm. Tổng cộng, chúng ta phải đi khoảng một ngàn hay một ngàn mốt kilomet.
- Chà, chặng đường chẳng ngắn chút nào. Trong đôi giày này, chắc gì tôi đã đi xa được. - Tsanka nhìn đôi giày của mình, nói.
- Về chuyện đó, cậu khỏi lo, - Bushman vui vẻ nói, - Tôi đã đặt sẵn cho cậu một đôi ủng giả da số bốn mươi sáu, gần như mới tinh.
- Ở đâu? - Tsanka ngạc nhiên hỏi.
- Tất cả đều ở dưới kia, trong gian nồi hơi. Tạm thời cứ để đấy. Tôi đã bôi mỡ sẵn sàng cho việc lên đường. Nào, chúng ta hãy uống thêm chút nữa trong kho dự trữ chiến lược của mình.
Sau đợt rượu họ lại hút thuốc, hai người hút chung một điếu để tiết kiệm.
- Thôi được rồi, coi như chúng ta đã đến Yakutsk, sau đó làm gì nữa? - Tsanka kéo dài giọng hỏi, - Đấy đâu phải Grozny hay Moskva.
- Tiếp theo, đây là điều thú vị nhất. Trong thành phố Yakutsk có một người phụ nữ đang đợi chúng ta.
- Phụ nữ nào? - Tsanka ngạc nhiên.
- Chi tiết sẽ biết sau. Cụ thể, đó là người phụ nữ yêu dấu của tôi, chính xác hơn, đó không phải là người phụ nữ yêu dấu của tôi, mà tôi là người tình yêu dấu của cô ta. Nhưng điều đó không quan trọng.
- Không quan trọng là thế nào? Đó là điều quan trọng nhất đấy.
- Hiện giờ không có thời gian để kể hết. Phải, cô ta đã từng làm việc ở đây, trong phòng xét nghiệm, chồng là sĩ quan quân đội. Giữa tôi và cô ta có một mối tình.
- Mối tình thế nào? - Tsanka vẫn không chịu.
- Là tình yêu. Một tình yêu lớn.
- Phụ nữ và tình yêu là những thứ không đáng tin cậy. Cho đến giờ, mọi chuyện dường như có vẻ trôi chảy. Hay ít ra, mọi việc chỉ phụ thuộc vào mỗi mình anh. Còn bây giờ, bỗng xuất hiện một người phụ nữ nào đó, lại còn tình yêu nữa. Tình yêu sẽ qua nhanh thôi. - Tsanka vừa nói vừa chuyền mẩu thuốc lá cho Bushman.
- Có thể cậu nói đúng, nhưng đây là một trường hợp đặc biệt, cô ta yêu tôi, rất yêu.
- Có nghĩa là quanh chị ta chẳng còn thằng đàn ông nào khác? - Tsanka châm chọc rồi bật cười vui vẻ.
Bushman không hề tự ái và cũng bật cười theo. Cả hai cùng cười rất lâu.
- Cô ta đã có thai với tôi, - giữa tràng cười, Bushman thốt lên.
- Có thai? - Tsanka hỏi lại. - Hóa ra anh cũng biết cách thu xếp đấy nhỉ, không tệ lắm. Nếu tôi ở vào địa vị của anh, tôi sẽ sống suốt đời ở đấy... Thôi được rồi, chúng ta sẽ làm gì ở Yakutsk?
Bushman bỏ kính ra, lau nước mắt vì cười. Trên khuôn mặt anh ta thoáng một nụ cười mãn nguyện, nhờ vậy mà trông Bushman có vẻ trẻ ra và tươi tắn hơn.
- Bao nhiêu năm rồi, tôi chưa được cười thoải mái như thế này.
- Cầu xin Thượng đế, mọi chuyện sẽ tốt đẹp. - Tsanka nghiêm trang nói.
- Thôi được... Nói ngắn gọn, trong thành phố Yakutsk ấy, người phụ nữ đó sẽ chờ chúng ta từ ngày mùng một tháng Chín cho tới mùng một tháng Mười một. Hàng ngày, từ tám giờ sáng, cô ta phải đi đi lại lại trước cổng bưu điện trung tâm thành phố Yakutsk. Cô ta có rất nhiều tiền. Tiền của tôi, nói cho đúng hơn, giờ đây là tiền của chúng ta.
- Chị ta lấy đâu ra tiền?
- Sau này tôi sẽ kể cho cậu rõ hơn, bây giờ không có thời gian. Với số tiền đó, chúng ta có thể mua được bất cứ giấy tờ tùy thân nào và sẽ đi tiếp.
- Thế chúng ta sẽ mua giấy tờ ấy của ai và ở đâu?
- Tsanka, đó không phải là việc của cậu. Với số tiền đó, chúng ta có thể mua cái gì cũng được. Chẳng qua là cậu không hiểu, công an và an ninh của chúng ta là những người dễ bị mua chuộc nhất. Có những người sẵn sàng không chỉ bán cả Tổ quốc mà cả cha mẹ, vợ con, miễn là với cái giá xứng đáng và phải bí mật... Từ Yakutsk, chúng ta sẽ đến Irkutsk, sau đó sẽ đi Moskva và Grozny. Cụ thể, mục đích của tôi là sẽ ra nước ngoài. Cậu sẽ đi với tôi... Đừng lo, mọi việc sẽ rất tốt đẹp. Tôi hứa, cậu sẽ trở về nhà như một hoàng tử giàu có, kiêu hãnh, bảnh trai. Tôi thề, mọi việc sẽ đúng như thế! Tôi tin chắc như vậy! Cậu hãy nhớ lời tôi! Số phận của chúng ta sẽ giống nhau. Dĩ nhiên là tôi sẽ chết trước cậu vì tôi già hơn, còn nhìn chung, từ giờ trở đi, chúng ta đã ràng buộc với nhau vĩnh viễn. Cậu hãy nhớ điều đó!
- Cầu xin Thượng đế phù hộ mọi chuyện sẽ tốt đẹp! - Tsanka nói. - Thế khi nào chúng ta lên đường, và ra đi bằng cách nào? Xung quanh chăng đầy dây thép gai, còn câu cả điện nữa.
- Chúng ta sẽ lên đường khi sông tan băng. Không thể đi trên tuyết được, họ sẽ phát hiện ra ngay. Một tuần hoặc mười ngày nữa băng trên sông sẽ tan, chúng ta sẽ đi trên bờ đá dọc sông, không nhất thiết phải chờ cho đến khi tuyết ngừng rơi.
- Phải, đi trên tuyết không được. Năm nay tuyết rơi nhiều đến mức không thể đi nổi. Rõ ràng là chúng sẽ tan rất lâu. Vậy là chúng ta sẽ đi theo dòng chảy?
- Phải, - nhà vật lý đáp.
- Nhưng chúng ta rời khu trại bằng cách nào?
- Cậu có nhớ, chỗ đống củi và đống xác chết dạo mùa đông không?
Tsanka gật đầu.
- Chúng ta sẽ đi qua đấy. Tôi đã nghiên cứu kĩ rồi. Cậu phải sẵn sàng vào bất cứ lúc nào.
- Chúng ta sẽ mang gì theo?
- Cậu cố gắng kiếm một cái túi chườm nóng đổ rượu vào đấy. Tôi đã có một túi rượu đầy. Chúng ta sẽ mang theo la bàn, diêm, rìu, dao, ống nhòm, bánh mì sấy khô, thế thôi. Ngoài ra, tôi mang theo hai cuốn vở và vài thứ nữa. Không nên mang cái gì thừa. Tôi có hai chiếc ba lô. Khi sông tan băng, tôi sẽ cho cậu biết, tập trung ở đây rồi lên đường. Còn bây giờ, cậu về đi. Tận dụng mọi cơ hội để nghỉ ngơi và tẩm bổ. Không còn gì để nói nữa đâu.
Trước khi chia tay, hai người ôm nhau rất chặt: họ hiểu, số phận đã gắn kết họ lại thành một, và giờ đây, cả hai đều chỉ nghĩ về một việc.
* * *
Những ngày dài và nặng nề kéo lê thê. Tsanka tỏ ra bối rối và lo lắng, va chạm với tất cả mọi người, còn buổi tối thì không sao chợp mắt được. Anh cứ nghĩ đi nghĩ lại mãi về tất cả những gì sẽ xảy ra, lúc nào cũng hồi hộp lo âu, thậm chí run bắn cả người lên. Hàng ngàn lần Tsanka đã quyết định sáng hôm sau sẽ đến gặp Bushman và từ chối tham gia, nhưng sáng dậy, nhìn thấy những gì đang diễn ra xung quanh, anh lại nóng lòng muốn chạy trốn, đi đâu cũng được, miễn là nhanh lên. Khổ sở, mệt mỏi vì tâm trạng dằn vặt đó, mãi đến gần sáng Tsanka mới thiếp đi trong cơn mộng mị. Anh mơ thấy mình chạy trên bờ sông, đôi chân mềm oặt lê lết, thở không ra hơi, còn phía sau là cuộc truy đuổi - những con chó becgie lông đen, to cao, dữ tợn bám theo sát gót chỉ chực nhảy lên ngoạm vào cái cổ gầy, dài ngoằng. Tsanka co rúm người lại, đưa tay lên ôm đầu, ôm cổ, còn những chiếc răng nhọn hoắt của lũ chó thì cắm sâu vào cái cơ thể gầy nhom của anh. Một người lính cao to, tóc sáng túm mạnh vào vai anh, hét to: “Dậy!”.
Tsanka kinh hoàng bật dậy, ngay cạnh là ông trưởng trạm y tế tóc sáng, mặt mũi đỏ gay vì rượu.
- Dậy ngay! Ngày nào cũng ngủ ườn ra cho tới bữa trưa hả? Muốn về khu lán trại à? Buồn nhớ không khí trong lành hả?
Tsanka vã mồ hôi lạnh, chân tay run rẩy vì lạnh và bối rối, vội vàng xỏ chân vào đôi giày làm việc, cố vượt qua sự mệt mỏi và khó chịu trong người để bắt tay vào nghĩa vụ của người phụ trách công tác quản trị hành chính.
Vài ngày như thế trôi qua. Không có chuyện đó thì cái cơ thể suy kiệt của Tsanka cũng phải khó khăn lắm mới mang nổi cái gánh nặng quá mức về tinh thần. Cặp mắt màu xanh của Tsanka giờ đây trở nên vàng xạm, vằn vện những tia máu và hõm sâu xuống. Quanh hốc mắt nổi hằn những vệt thâm trông như trái mận núi đã chín nẫu. Những ý nghĩ trái ngược nhau hành hạ Tsanka không dứt, và điều khốn khổ nhất chính là ý nghĩ anh không thể tự do và kiêu hãnh trở về ngôi làng và ngôi nhà thân thuộc của mình. Số phận của một kẻ trốn chạy, một tên tội phạm, một kẻ bị mãi mãi săn đuổi làm cho Tsanka vô cùng hoảng sợ. Nhưng ở lại đây vĩnh viễn, trong cái đống xác chết kia lại càng đáng sợ hơn. Cuối cùng, sau nhiều ngày đau khổ, dằn vặt, một buổi chiều, Tsanka đã đi đến một quyết định dứt khoát: anh phải đấu tranh cho cuộc sống của mình, cần phải chạy khỏi cái chốn đáng nguyền rủa này. “Nếu mình chạy về đến ngôi làng ruột thịt, - Tsanka nghĩ, thì điều tệ hại nhất chờ đón mình ở đấy chính là cái đám tang có tình người trong nghĩa địa quê hương của dòng họ. Còn gì hạnh phúc hơn thế nữa! Chẳng phải tất cả rồi cũng sẽ kết thúc như vậy sao!”
Yên lòng với những ý nghĩ ấy, ngay trong đêm đó Tsanka ngủ một giấc say như chết. Cũng trong đêm đó anh mơ một giấc mơ tuyệt đẹp: Anh cưỡi ngựa đi trong núi rừng quê hương, đó là ngày hội của làng tổ chức bên cạnh nguồn nước, có khiêu vũ, hát hò vui vẻ, anh nhảy với người con gái yêu thương - Kesyrt, cha mẹ, anh chị em, con cái, thậm chí cả cô vợ nữa cũng đều nhiệt tình vỗ tay khuyến khích họ trong điệu nhảy Lezginka. Cuối cùng Tsanka chỉ còn lại một mình, nằm lên đám cỏ rậm tỏa hương mùa hè thơm ngát, lũ kiến bò lên cổ áo, lên chân buồn buồn, lũ châu chấu cào cào nhảy lách tách, đâu đó trong bụi rậm lũ chuột kêu chí chóe chơi trò trốn tìm. Nguồn nước chào đón mùa hè nhẹ nhàng chảy qua những tảng đá lăn và ghềnh thác. Lũ chuồn chuồn tỏ ra lăng xăng bận rộn trên mặt nước, hối hả tranh đua nhau trong những vòng lượn đẹp mắt.
Đột nhiên, có một cái gì đó to lớn, lặng lẽ, nặng nề đang tiến lại gần. Từ dưới đồng bằng, gió lạnh và ẩm ướt thổi mạnh từng cơn. Trời đổ mưa. Tất cả tối sầm... Tsanka mở mắt ra. Trước mặt là trưởng trạm y tế no nê, say khướt đang đứng chắn ngay luồng sáng từ phía cửa sổ. Trưởng trạm không nói gì cả, chỉ mỉm cười độc địa rồi bỏ đi. Những tiếng xào xạc khe khẽ rất dễ chịu vang lên, chẳng khác gì tiếng mẹ hát ru. Ngoài cửa sổ mưa đang rơi. Tsanka khoan khoái nhắm mắt lại và ngủ một giấc dài.
- Tsanka dậy đi, dậy đi. - Người láng giềng cùng phòng gọi. - Đến giờ phát cơm trưa rồi.
Tsanka vẫn còn nằm trên phản, không mở mắt ra, khoan khoái vươn người, lật bên này sang bên kia, miệng phát ra tiếng rên thích thú, ngáp một cái rõ to như dạo còn ngủ trên bếp lò ở nhà, mỉm cười nhìn người láng giềng.
- Dậy đi, Tsanka, dậy đi, có tin đồn anh bị điều đi chỗ khác đấy.
Tsanka chậm chạp ngồi dậy, lần đầu tiên trong nhiều tháng qua, thậm chí nhiều năm qua anh có được một giấc ngủ ngon và cảm thấy trẻ trung, sảng khoái. Sức mạnh nội tâm và sự tự tin như được đánh thức dậy trong cơ thể.
- Gọi y sĩ lại đây, - Tsanka ra lệnh. - Hôm nay ai trực?
- Thằng gù Mironyk.
- Gọi anh ta lại đây.
Một phút sau anh ta quay lại.
- Anh ta sợ ạ. Anh ta bảo trưởng trạm đang tức giận.
- Thôi được rồi, đất không chịu trời thì trời phải chịu đất vậy, - vừa nói Tsanka vừa đập hai tay vào nhau rồi làm một điệu nhảy khởi động. Khuôn mặt xám ngoét không còn chút sinh khí của người láng giềng như thoáng một nụ cười ngây ngô trong cái miệng không còn răng.
- Điệu nhảy gì vậy? - Anh ta hỏi.
- Anh chưa bao giờ thấy à? Đây là điệu Lezginka vùng Kavkaz.
- Có chuyện gì vui nên anh nhảy điệu đó à?
- Phải! Vui vì chúng ta vẫn còn sống, vì ngoài trời đang mưa, vì mùa hè đã đến rồi.
- Vâng, mưa to lắm, - người láng giềng nói, ngừng một lát anh ta tiếp: - Lúc thì băng giá dữ dội, lúc thì mưa tầm tã, cái chốn khốn nạn này là chốn gì không biết nữa... Mọi việc sẽ lại tồi tệ nếu anh bị đưa đi. Chúng tôi không thể sống nổi với bọn tù hình sự.
- Mọi việc rồi sẽ ổn cả thôi, anh đừng lo. - Tsanka vỗ vỗ lên vai anh ta rồi đi theo hành lang đến phòng lãnh đạo, vừa đi vừa lẩm nhẩm một giai điệu vui vẻ bằng tiếng dân tộc.
Trong phòng y sĩ, Tsanka nhìn thấy y sĩ trực Mironyk ngồi một mình bên bàn.
- Anh làm sao thế, đồ súc sinh, điếc rồi hả? Anh tưởng nếu tôi bị điều đi thì tôi không tìm được anh à? - Tsanka dùng đôi tay dài xương xẩu tóm chặt chiếc cổ gầy của người đàn ông, đập mạnh đầu anh ta xuống bàn mấy cái. - Khi nào thì người ta đưa tôi đi?
- Ông ấy muốn ngay hôm nay nhưng chưa kịp làm xong giấy tờ. Bắt đầu từ ngày mai, khẩu phần ăn của anh sẽ phát trong nhà ăn tập thể... Thậm chí họ còn muốn tống anh vào xà lim nữa.
Tsanka bỏ tay ra khỏi cổ người y sĩ, lùi lại và hỏi bằng một giọng thân thiện hơn:
- Tại sao ông ta lại làm vậy? Có chuyện gì xảy ra với ông ta thế?
- Người ta tìm thấy rượu trong kho quần áo, giấu dưới gầm tủ.
- Rượu gì?
- Tôi không biết. Họ bảo rượu của anh.
- Theo như tôi biết, trưởng trạm không bao giờ bước vào kho quần áo. Ai đã làm chuyện đó? - Tsanka cau mặt tức giận lại đến gần bàn.
- Tôi không biết, tôi không biết. - Người y sĩ bật dậy khỏi ghế chạy vào trong góc, đưa hai tay che mặt.
Tsanka vươn tấm thân dài của mình, thậm chí không cần dùng tay, lấy cả thân mình ép Mironyk vào bức vách trơn tuột.
- Có nghĩa là mày, đồ chó cái? - Tsanka tức giận hét sát bên tai.
- Không, không phải tôi ạ. Tôi xin thề, không phải tôi...
- Vậy thì ai? Nhanh lên!
- Chính là tên đồng tính nam của ông ấy ạ... Cái thằng nghệ sĩ ấy.
Không nói một lời, Tsanka chạy ra hành lang. Bầu không khí trong trạm y tế có vẻ sôi động. Cửa ra vào mở toang, làn gió nam lùa vào mang theo hơi lạnh tràn trề sự sống. Tù nhân ùa ra bậc thềm như lần đầu tiên trong đời nhìn những giọt mưa bay xiên xiên tạo thành những cái phễu nhỏ trên lớp tuyết dày đã ngả màu. Người nào cũng muốn chìa tay ra hứng nước mưa, xoa ướt tay và ngạc nhiên nhìn làn nước từ trên trời chảy trên làn da khô nẻ của mình.
- Người ta bảo, chưa bao giờ có cơn mưa đầu mùa sớm như thế này.
- Ở đây, suốt cả mùa hè chỉ có vài cơn mưa.
- Cơn mưa này mang lại điều lành đây, - đám đông bình luận.
- Im lặng, cán bộ đến đấy.
Đám đông liền im bặt, chen lấn, xô đẩy nhau, tản về từng phòng. Ông trưởng trạm Semisastny cả người ướt sũng, vẻ tức giận, vừa chửi vừa chạy vào phòng mình, để lại sau lưng những vết chân bẩn đầy bùn nước. Tsanka lặng lẽ đến gần cửa phòng trưởng trạm, đôi mắt anh lại chuyển sang màu xanh xám, lóe lên nét ngang ngạnh, khóe môi toát lên sự táo bạo. Tsanka nghe ngóng, chờ đợi giây phút thuận tiện, nhẹ nhàng gõ cửa rồi giật mạnh ra.
- Xin phép cán bộ ạ.
Semisastny vừa uống xong cốc rượu và đang tráng miệng bằng nước lã. Sự xuất hiện bất ngờ của Tsanka làm anh ta bị sặc, cong người lại ho mấy cái, khuôn mặt như mọi khi vẫn béo múp và hồng hào, giờ đỏ ửng.
- Cút ngay ra khỏi đây, đồ khốn nạn mọi rợ. - Bác sĩ vừa ho vừa hét lên. - Tao sẽ cho mày chết rũ trong xà lim. Tao sẽ cho mày thấy, ăn cắp rượu là thế nào! Đồ con lừa bẩn thỉu!
Tsanka không nói gì, bước ra ngay. Tâm trạng trở nên tồi tệ, nhưng anh ngạc nhiên nhận ra, mình không còn cảm giác buồn nản và tuyệt vọng như trước nữa, bộ óc của anh suy nghĩ rất nhanh và cương quyết. Bất cứ lúc nào, những người lính cũng có thể ập đến, bắt anh tống vào xà lim. Mối dây liên hệ với đơn vị quân đội chỉ có một - đó là những vết chân của trưởng trạm y tế. Chỉ có một mình trưởng trạm mới có quyền ra khỏi trạm y tế, và chỉ vào ban ngày.
Không cần nghĩ ngợi lâu, Tsanka chạy đến phòng gã nghệ sĩ Phomenko. Vừa đúng giờ ăn trưa, từ nhà ăn tỏa ra mùi cá ươn và mùi thuốc sát trùng. Gã nghệ sĩ đang vô tư huýt sáo liền chạm trán với Tsanka ngay cửa ra vào. Tsanka túm vào ngực anh ta đẩy vào phòng, dùng mắt ra hiệu cho hắn đi về phía giường. Phomenko hoảng sợ ngồi lên giường, hàng mi dày màu đen hấp háy liên tục, làm cho đôi lông mày dài như cánh chim cũng lên xuống theo.
Những người cùng phòng với Phomenko ngồi im không nhúc nhích. Tsanka vẫy tay ra hiệu cho họ đi ra ngoài.
- Nào, đồ chó má bẩn thỉu, có nghĩa là chính mày đã ton hót. - Tsanka rít lên, nhào về phía tên nghệ sĩ đang co rúm người lại. - Mày đã quên ai là người đã đưa mày về đây à?
- Không phải tôi, không phải tôi! - Phomenko van vỉ.
Tsanka dùng tay trái túm cổ áo Phomenko, hắn ngửa mặt lên, nheo mắt lại, khuôn mặt đau đớn khổ sở. Phomenko cố tìm cách thoát ra khỏi bàn tay đáng sợ, nép sát vào bức tường lạnh ngắt và bị Tsanka đẩy dần lên. Ngay lúc ấy, một cú đấm như trời giáng vào bụng làm Phomenko khẽ kêu lên một tiếng rồi ngoẹo đầu, toàn thân mềm oặt, đổ vật xuống giường, co rúm lại, không thở được nữa.
- Bây giờ đi ăn nhanh lên rồi đi chiều lòng trạm trưởng, - Tsanka ghé sát tai Phomenko đang quằn quại ra lệnh. - Cẩn thận đấy, nếu hôm nay mà trưởng trạm đến chỗ đơn vị quân đội thì coi như bài hát của mày đã kết thúc. Hiểu chưa? Hãy chuốc rượu cho ông ấy.
Phomenko vội vàng gật đầu, nước mắt ứa ra từ trong cặp mắt nhắm nghiền của anh ta.
Sau bữa trưa, Tsanka quẩn quanh rất lâu trong hành lang bên lối ra vào, anh sợ bác sĩ Semisastny thực hiện lời đe dọa của mình. Đang là giờ nghỉ trưa trong trạm y tế, mưa vẫn gõ trên mái nhà. Tsanka ép tai vào tường nghe ngóng mọi động tĩnh trong phòng trưởng trạm, nhưng anh chỉ nghe thấy tiếng tim mình đập lùng bùng trong tai. Không chịu đựng nổi, Tsanka thận trọng mở cửa hành lang, thò hẳn người ra ngoài. Trời đã ngả về chiều, mưa đã ngớt. Một mẩu trời xanh hé ra qua lớp mây mù dày đặc đang vần vũ. Mặt trời đang hạ xuống, chiếu vầng lửa đỏ rực của mình lên đỉnh những dãy núi xa xa phủ đầy tuyết trắng. Không khí trong lành, tươi mát làm người ta muốn chạy nhảy, ca hát. Thời kỳ của băng giá vĩnh cửu, đói khát, sỉ nhục và chết chóc đã chấm dứt. “Chúng ta sẽ sống”, Tsanka thầm nghĩ.
Buổi chiều trước giờ nghỉ, với một sự hăng hái chưa từng có, Tsanka chăm sóc kĩ lưỡng lò hơi, rồi quét dọn sạch sẽ. Đột nhiên y sĩ trực Mironyk bỗng xuất hiện, ngồi xổm xuống bên cạnh Tsanka, nhìn mãi vào ngọn lửa mới nhen đang nhảy nhót trong lò.
- Trưởng trạm khóa trái cửa ra vào. Chìa khóa ông ấy giữ - cuối cùng Mironyk nói.
- Thì sao? - Tsanka làm ra vẻ ngạc nhiên, trong ánh sáng ngọn lửa, ánh mắt của cậu lóe lên như con thú.
- Ông ấy bảo tôi phải theo dõi tình hình của trạm và cả anh nữa.
- Ông ấy muốn gì?
- Tôi không biết. Chỉ lạ là từ trước đến giờ ông ấy chẳng bao giờ quan tâm đến chuyện cửa nả. Có chuyện gì đó làm ông ấy lo lắng.
- Vẫn uống chứ? - Tsanka cắt ngang.
- Như mọi khi.
- Thế còn con gà trống của ông ấy, đang ở đâu?
- Ông ấy đã tống cổ hắn đi rồi, nhưng lúc nãy tôi lại nhìn thấy hắn mò vào với ông ấy.
Hai người không nói gì nữa.
- Anh cứ về phòng mình yên tâm ngủ đi. - Tsanka vừa nói vừa ném thêm củi vào lò. - Tôi cũng đi ngủ đây.
Mironyk đứng dậy, xương khớp trong người kêu lục cục, đi về phía cửa, cùng với anh ta là cái bóng méo mó và đáng sợ trên vách cũng chuyển động theo. Đến cửa Mironyk quay đầu lại nói:
- Anh Tsanka ạ, anh hãy cẩn thận. Dù sao thì anh cũng chưa bình phục hẳn đâu.
- Chúc anh ngủ ngon, Mironyk ạ. - Tsanka cố nở một nụ cười và cứ nghĩ mãi, không hiểu người y sĩ này muốn gì?
Đêm chậm chạp trôi qua. Tsanka nằm trên giường, mắt mở thao láo, dỏng tai nghe ngóng. Ai đó ngáy rất to sau bức vách. Ngoài cửa sổ, cơn mưa đầu mùa hoặc là đã ngớt hoặc là lại mưa nữa. Cuối cùng Tsanka nghe thấy bước chân chậm chạp, tiếng kẹt cửa khe khẽ ở phòng bên.
“Phomenko”, - Tsanka thầm nghĩ.
Tsanka nằm thêm khoảng hai mươi phút nữa, lẩm nhẩm đọc kinh cầu nguyện. Sau khi cầu xin lần nữa sự giúp đỡ và tha thứ của Thượng đế, Tsanka tay phải cầm con dao to tự làm, tay trái cầm đôi giày, nhón chân đi về phía lối ra vào. Tất cả các cánh cửa trong trạm y tế đều kêu cót két, chỉ có cánh cửa phòng Tsanka, kho quần áo và cửa ra vào là không kêu do được anh chăm sóc kĩ lưỡng. Tsanka dừng lại bên phòng trưởng trạm, lắng tai nghe ngóng khá lâu, đối diện là phòng y sĩ trực. Tất cả các cửa đều đóng, xung quanh tĩnh lặng.
Đến chỗ ngoặt, Tsanka bước vào phòng đợi tối om. Ở đây, ngay cả ban ngày cũng tối và lạnh. Tsanka mò mẫm đi dọc theo tường, khuỷu tay chạm vào vách tường nhơn nhớt, lạnh ngắt. Đến gần cửa ra vào, anh khẽ khom người xuống để đi giày rồi đứng lên, thọc tay vào túi quần. “Người phụ trách quản trị hành chính nào mà không có chìa khóa dự phòng”, - Tsanka sực nhớ lại câu nói đùa của Bushman, và đúng lúc ấy anh ngửi thấy mùi rượu và mùi thuốc lá ngay bên cạnh.
Tsanka đột ngột quay ngoắt lại, hú họa vung tay trái về phía trước, lưng tựa vào cánh cửa ra vào hy vọng sẽ mở được nó, đôi mắt bất lực đảo qua đảo lại trong bóng tối như bưng. Thiếu chút nữa thì Tsanka đã la toáng lên vì quá sợ hãi: một bóng đen đang rời khỏi bức tường tiến thẳng về phía anh. Tsanka run bắn cả người, đôi chân như muốn khuỵu xuống, hai tay như hóa đá, chỉ một tích tắc nữa là anh sẽ ngã gục, nhưng đúng lúc ấy anh nghe thấy giọng nói lè nhè của trưởng trạm y tế:
- Thế nào, đồ con dê, định chạy trốn hả?
Có tiếng kim loại gì đó đột ngột phát ra, và trưởng trạm chọc thẳng nòng súng lạnh ngắt vào giữa ngực Tsanka.
- Tao đã chờ đợi cái giây phút này từ lâu rồi! Tao đã biết hết! - Semisastny phả hơi rượu vào mặt Tsanka. - Bây giờ tao sẽ bắn mày, rồi sau đó đến lượt thằng bạn Bushman của mày. Lũ súc sinh hút máu, cứng đầu, khốn nạn!
Semisastny điên cuồng ấn mạnh nòng khẩu súng ngắn vào người tù hồn xiêu phách lạc. Một tiếng cạch vang lên, một tiếng nữa, cánh tay của trưởng trạm y tế giật lại, đúng lúc ấy Tsanka vung cánh tay phải đang nắm chặt con dao lên đâm một cú hú họa. Một khoảng lặng ngắn ngủi, tiếng khẩu súng ngắn rơi xuống sàn nhà bằng đất khô khốc, thân hình nặng nề của trưởng trạm y tế đổ vào người Tsanka.
Mọi việc tiếp theo diễn ra cứ như trong một giấc mơ. Tsanka không nhớ mình đã dùng chìa riêng mở khóa cánh cửa ra sao, rồi cắm đầu cắm cổ chạy một mạch dưới trời mưa tầm tã đến chỗ Bushman. Tsanka chỉ hoàn hồn khi Bushman đặt anh ngồi xuống phản và đưa cho anh ca nước lạnh.
Bushman hiểu ngay toàn bộ sự việc.
- Cậu có mang theo hành lý của mình không? - Cuối cùng Bushman hỏi.
Tsanka chỉ biết xua tay.
- Hiểu rồi. Nếu vậy thì chẳng còn đường lui nữa. Có nghĩa là chúng ta phải chạy trốn ngay bây giờ. - Bushman đi đi lại lại trong phòng. - Việc đầu tiên là phải lấy những cuốn vở của tôi và tờ bản đồ.
Sau đó Bushman leo xuống dưới, vài phút sau anh ta quay lên, thở hổn hển.
- Tỉnh hẳn chưa?
- Rồi ạ.
- Nếu vậy thì nhanh chóng đi ủng vào. Đây, vải quấn chân, quấn trước. Đừng quên đấy... Cậu có mang rượu theo không?
- Không ạ.
- Thôi được rồi, nhanh lên... Nào, chúng ta hãy ngồi xuống trước khi lên đường... Thôi, cầu Chúa phù hộ...
- Cậu lẩm nhẩm cái gì thế? Cầu Chúa phù hộ à? Đúng rồi. Bây giờ chỉ còn trông mong vào mỗi ông ấy thôi. Đi nào.
* * *
Mưa mỗi lúc một nặng hạt. Hai người thận trọng leo xuống đất, đi vòng qua nhà ăn và đứng sựng lại trước khoảng không gian mênh mông mà họ phải vượt qua.
- Mưa rất có lợi cho chúng ta, - nhà vật lý thở lào phào vào tai Tsanka. - Đã hai ngày nay máy phát điện không làm việc, chắc là hết nhiên liệu. Có nghĩa là không có điện ở hàng rào. Điều quan trọng là chúng ta phải băng qua cánh đồng này mà không để lại dấu vết... Phải bám sát nhau để không bị lạc. Điều quan trọng là không gây nên tiếng động vì đằng nào họ cũng chẳng nhìn thấy gì... Đi thôi.
Vì mưa nên lớp tuyết bị nén chặt giờ kêu lép nhép dưới chân rất khó chịu, đi rất trơn và vất vả. Họ đến sát lớp hàng rào dẫn điện. Bushman lấy chiếc kìm bấm ra cắt. Hai người chui qua, lại một lớp rào nữa, lại cắt, lại lặng lẽ đi, lúc nào cũng phải cúi lom khom sát đất, nghe tiếng mưa rơi lộp độp và tiếng tim đập thình thịch trong lồng ngực.
Sau lớp hàng rào dây thép gai khoảng hai mươi, hai mươi lăm mét là dãy hàng rào bên ngoài rất cao. Những cây gỗ thông thẳng đứng cao khoảng sáu mét cắm sâu khoảng mét rưỡi, hai mét san sát nhau trên nền đất đá ở cửa sông.
- Không biết những kẻ bất hạnh nào đã đào đá thành hào để dựng lên cái hàng rào này. - Bushman thở hổn hển cố nói.
- Ai có thể làm được? Trước khi chúng ta đến đây, nơi này không có tù nhân. - Tsanka vừa nói vừa đặt tay vào cái công trình đồ sộ ngăn cách họ với thế giới bên ngoài.
- Trước và sau chúng ta vẫn sẽ có tù nhân. - Nhà vật lý buồn rầu đáp. - Trong đất nước này, chính quyền luôn duy trì một nền chuyên chế và tận dụng nhân lực không thương tiếc... Nếu không phải là tù nhân thì là binh lính, thậm chí cả các nhà địa chất nữa... Đi thôi, hình như chúng ta phải rẽ - Trước và sau chúng ta vẫn sẽ có tù nhân. - Nhà vật lý buồn rầu đáp. - Trong đất nước này, chính quyền luôn duy trì một nền chuyên chế và tận dụng nhân lực không thương tiếc... Nếu không phải là tù nhân thì là binh lính, thậm chí cả các nhà địa chất nữa... Đi thôi, hình như chúng ta phải rẽ trái. Đừng tụt lại đấy.
Mưa lớn, hạt to như những hạt mưa đá thấm vào áo bông đè nặng lên người những kẻ trốn chạy.
Ngay sát hàng rào hiện ra một đống hỗn độn. Bushman đi trước, không nói một lời liền leo lên. Tsanka định làm theo nhưng ngay lập tức bật ra sau như bị điện giật. Anh ngã xuống, lẩm bẩm cái gì đó, bò lồm cồm sang bên, cảm thấy nghẹt thở, từ trong cổ phát ra những tiếng khò khè. Phút sau, Bushman quay lại, lay lay vai, lấy tay bịt miệng Tsanka lại, bắt phải im lặng.
- Cậu rống cái gì mà như đàn bà thế, - nhà vật lý tức giận rít lên. - Cái gì, lần đầu tiên nhìn thấy xác chết à? Ơn Chúa là chúng ta không phải nằm lại đây. Đứng lên! Nhanh lên! Đi thôi.
Tsanka không đứng lên nổi. Cơn buồn nôn qua đi, nhưng anh vẫn phải bò trên bốn chân, đầu gục xuống, bất lực.
- Đi thôi, đi thôi, Tsanka. - Bushman năn nỉ. - Họ có thể đuổi theo chúng ta bất cứ lúc nào, khi đó họ sẽ hành chúng ta đến mức cậu sẽ chỉ mong được nằm ở đây thôi... Đứng lên đi. Cho đáng đàn ông chứ! Sao cậu mềm oặt ra như đàn bà thế?
Câu cuối cùng đã chạm đến lòng tự ái của Tsanka. Anh lặng lẽ đứng dậy, bực bội đẩy nhà vật lý ra rồi bước về phía cái đống kia, hai tay ôm mặt, miệng lẩm nhẩm lời cầu nguyện gì đó bằng tiếng Chechnya.
- Nhanh lên, Tsanka, - Bushman vẫn không chịu buông tha. - Nếu cậu định xin xá tội cho tất cả mọi người ở đây, thì cả đời cũng không đủ thời gian đâu.
Tsanka sửa lại chiếc ba lô trên lưng rồi cương quyết leo lên. Cả hai cùng bò lên. Tsanka vừa nheo nheo mắt vừa bò, cảm thấy ngay bên dưới tay chân mình là những phần thân thể khác nhau chất đống, còn dòng nước mưa tuôn xuống dính nhớp nháp như máu.
Môi cắn chặt, không nhìn nhau và không nhìn xuống dưới, họ leo một mạch lên đỉnh cái kim tự tháp. Từ đây tới nóc hàng rào còn khoảng hai mét nữa. Một người khỏe mạnh có thể dễ dàng nhảy lên, leo qua đầu các cột gỗ đã bị mục do mưa nắng. Tuy nhiên những kẻ trốn chạy lấy đâu ra sức khỏe. Tsanka cố nhảy lên, nhưng đôi tay bất lực tuột xuống. Anh tiếp đất không tốt nên một chân lọt vào cái lỗ và theo quán tính văng ra, đập mặt vào một đám tóc ngắn, cứng. Tsanka tức tối chửi rủa thậm tệ, rồi như đứng trên một đống rơm cao, anh lại lần đến sát hàng rào.
- Dừng lại, - Bushman giật tay Tsanka. - Cách ấy không được đâu. Nắm lấy cái này.
Như theo một mệnh lệnh, họ cùng nắm lấy một xác người, chật vật đẩy đến sát hàng rào. Rồi cái thứ hai, thứ ba. Sau rất nhiều nỗ lực họ mới làm được một cái giống như cái bục, sau đó hai người lần lượt leo lên hàng rào. Bên dưới là một bãi tuyết rộng khoảng vài mét, xa hơn nữa là dải nước đen thẫm, cong cong của dòng sông đang hồi sinh.
- Nhảy dọc theo hàng rào, ở đó tuyết dày hơn. - Bushman ra lệnh, ném cái rìu và ba lô của mình xuống trước.
Bushman định xoay người, bám vào hàng rào rồi treo người xuống, như vậy sẽ giảm được độ cao phải nhảy, tiếp đất nhẹ nhàng hơn, nhưng việc ấy không thành, nhà vật lý ngã lộn nhào xuống đất. Nghe một tiếng đập khô khốc, cơ thể của Bushman nằm im, bất động.
Tsanka hoảng hồn, chẳng kịp nghĩ ngợi, cũng lao theo. Cú nhảy của anh được tính toán khá tốt nên tiếp đất nhẹ hơn. Tsanka nhanh chóng ngồi dậy chạy lại chỗ người bạn đường bên cạnh, lay lay vai Bushman.
- Anh Andrei! Andrei... - Tsanka chưa nói hết câu, Bushman đã ngóc đầu lên.
- Tôi không sao chứ? - Bushman hỏi.
- Hình như thế, chỉ có điều bay mất cái gì đó. - Tsanka bật cười vui vẻ.
Bushman nặng nề đứng lên, nhìn khắp người và cũng bật cười.
- Xong rồi. Giờ đây chúng ta đã được tự do, nhưng để đạt được điều đó không dễ dàng chút nào. Bây giờ, tất cả mọi việc chỉ phụ thuộc vào chính bản thân chúng ta.
- Và cả Thượng đế nữa, - Tsanka nói thêm.
Hai người thu nhặt ba lô, tìm mãi mới thấy chiếc rìu.
- Chú ý. - Bushman thì thào. - Cậu có nghe thấy gì không?
Xung quanh tĩnh lặng, mưa đã bớt, làn nước mưa đầu mùa như một cô bé đang thì thầm về một tình yêu lớn, về lòng chung thủy dịu dàng. Nhưng hai kẻ trốn chạy, gầy như hai cây sào chẳng hơi sức đâu mà nghĩ đến tình yêu, họ chỉ nghĩ đến một cuộc sống bình thường và bước tiếp về nơi vô định trên mảnh đất mênh mông xa lạ.
Họ đi suốt đêm trên bờ đá mấp mô dọc theo con sông đang bắt đầu tan băng, vấp ngã liên tục, phải khó khăn lắm mới đứng lên nổi rồi đi tiếp với nỗi lo sợ bị đuổi theo cứ bám sau lưng. Những hạt mưa dầm dề như xuyên thấu qua người, nước lạnh đầy trong ủng, kêu ộp oạp.
Tsanka, trên đôi chân dài, gầy nhom của mình như đôi cà kheo, đi trước, đầu cúi xuống, hai tay giữ quai ba lô như vác quả tạ nặng, càng lúc càng đè nguời anh xuống mặt đất. Bushman bị tụt lại sau, vấp ngã nhiều hơn, lúc đầu sau mỗi lần bị hít đất còn văng tục rất to, sau đó vì quá mệt, anh ta chỉ còn thở khò khè, lấy tay lau đôi kính nhòe nước mưa, chỉ sợ lạc mất người bạn đường cao ngồng trông như bù nhìn ruộng rau.
Điều duy nhất giúp họ cảm thấy nhẹ nhõm hơn đôi chút là tuyến đường xuôi theo dòng sông nên chỉ xuống dốc. Một số đoạn, dốc đến nỗi cơ thể họ cứ tự lao xuống cho đến khi đôi chân yếu ớt không chạy theo kịp thì ngã dập mặt xuống đất đá lổm nhổm, máu me đầm đìa trên mặt, trên tay. Tại một chỗ, Tsanka bị ngã lộn nhào xuống dưới, khi vừa mới cố ngồi dậy thì Bushman lại ngã đè lên người, cả hai lại lộn thêm mấy vòng nữa. Hai người nằm vật ra, chân tay vung loạn xạ, nguyền rủa lẫn nhau. Bao nhiêu lần họ ngã vào nhau, vập mặt xuống đất đá cứng.
Đột nhiên Tsanka lên cơn ho. Cơn ho khan dữ dội như muốn lộn hết cả gan ruột ra. Tsanka co rúm người lại, cơ thể run bắn lên cùng với mỗi cơn ho, mỗi lúc một mạnh. Khi đó Bushman cố đứng dậy, nặng nề rên ư ử, đá đá vào người Tsanka:
- Ăn vạ thế đủ rồi, đứng lên đi.
Cơn ho dừng lại, nghe rõ cả tiếng những giọt mưa to tướng rơi lộp bộp trên chiếc áo bông đã ướt sũng của Tsanka.
- Đi thôi, - Bushman lạnh lùng nói và đá thêm một cú khá mạnh nữa vào người bạn đường đang nằm im rồi biến mất trong bóng tối.
Sau khi nằm im một lát, Tsanka duỗi người, nằm ngửa ra, màn mưa lạnh ngắt tạt vào mặt, chảy xuống cổ, xuống người. Anh muốn ngồi dậy, cố mở mắt ra kêu cứu, nhưng màn đêm như ép chặt cái thân hình gầy còm của anh xuống mặt đất cứng lạnh ngắt. Bên hông, những vật dụng bằng kim loại gì đó trong ba lô chọc vào lưng đau điếng không chỉ muốn bẻ gãy chút nghị lực cuối cùng mà cả cái xương sống của anh nữa.
Có thể Tsanka sẽ nằm mãi như thế, nếu như cơn ho tiếp theo không ập đến làm anh ho sặc sụa đến mức phải co gập người lại, bật dậy, nhờ thế mà anh mới ngồi lên được. Bây giờ, cùng với cơn ho là cục đờm đắng nghét trong họng, Tsanka cố hết sức khạc nhổ nó ra và cảm thấy dễ chịu hơn đôi chút.
Tsanka cố đứng lên. Xung quanh tối om, chẳng nhìn thấy gì.
- Anh Andrei! - Anh khẽ gọi.
Tiếng kêu của Tsanka chìm nghỉm trong tiếng mưa rơi rào rào.
- Anh Andrei! - Anh gọi to hơn.
Giờ đây, cùng với mọi nỗi thống khổ còn có thêm nỗi sợ cô độc nữa. Tsanka loạng choạng chạy qua chạy lại, chẳng nhìn thấy gì, bị vấp ngã liên tục. Đột nhiên đôi chân rơi vào một khoảng không tối đen, Tsanka ngã nhào xuống nước. Dòng nước lạnh ngắt chảy xiết trùm lên người và cuốn Tsanka trôi nhanh xuống dưới. Anh tuyệt vọng la hét ầm ĩ, cố vùng vẫy để nhao vào bờ. Dòng nước đẩy anh đập vào một tảng đá lớn rồi vào một mô đất cao, lượn theo xoáy nước, xói vào bờ đất để tìm chỗ thoát thoáng đãng. Tsanka phó mặc theo dòng chảy cho đến khi nghe tiếng nước gầm réo ầm ĩ ở chỗ xoáy nước anh mới tuyệt vọng ngoi lên, ngực đập vào một bờ đất không cao lắm. Con sóng tiếp theo tràn qua người làm Tsanka bị hụt chân, chới với bám vào một mô đá nhọn tóe cả máu tay. Anh cố sức leo lên và nằm úp mặt xuống đất lạnh một lúc lâu... Tsanka hiểu ra rằng, anh vừa thoát chết, anh cần phải quyết tâm đấu tranh để giành lấy sự sống. Anh lại muốn sống.
Tsanka cương quyết đứng dậy, cả người ngấm nước lạnh ướt sũng, run lên bần bật, hai hàm răng răng đánh lập cập nhói lên tận thái dương. Chiếc mũ bị trôi mất để lộ ra cái đầu trọc và cái cổ cao ngẳng. Tsanka buỗn rầu nghĩ về chiếc giường ấm của mình trong trạm y tế, bất giác đôi chân theo bản năng bước lên dốc, quay về hướng khu trại. Nhưng ngay lập tức, Tsanka nhớ đến dãy hàng rào cao với đống xác chết và trưởng trạm y tế Semisastny, anh vội quay ngoắt lại và chạy xuống phía dưới, về hướng dòng sông mùa xuân đang sôi réo sùng sục và tràn lên bờ.
Một lát sau, Tsanka nhận thấy tiếng mưa rơi nghe như tiếng trống gõ trên cái đầu trần của mình giờ như yếu hơn rồi tạnh hẳn. Không khí trong lành, thoáng đãng, gió thổi mạnh, bầu trời cao dần lên, hửng sáng. Trên đỉnh núi, mặt trăng e thẹn lấp ló sau những đám mây mỗi lúc một sáng hơn. Cuối cùng, màn sương mù lùi dần ra sau dãy núi, vầng trăng khuyết hiện rõ trên khe núi sâu hoắm.
Tsanka đưa mắt nhìn bốn phía và lặng người đi. Anh có cảm giác suốt từ nãy đến giờ anh nằm trong chiếc chăn ướt và bây giờ có ai đó đã cẩn thận bỏ nó ra.
Tuyết đã tan hết, chỉ còn một vài vệt trắng dọc theo sườn núi. Dòng sông trở nên sẫm màu hơn, chảy cuồn cuộn, đập ầm ầm vào các tảng đá và tung lên vô vàn bọt nước biến thành dải cầu vồng dưới ánh trăng.
Ánh trăng màu xanh lục nhợt nhạt, không chút sinh khí tỏa xuống khe núi sâu. Có cảm giác như dòng sông lắm lời với những tiếng la hét và nỗi tuyệt vọng của mình đang bị nuốt chửng vào cái mõm khổng lồ tối đen của khe núi, nơi tận cùng của ánh sáng và sự sống.
Tsanka cứ đứng mãi trong tâm trạng lưỡng lự, run lên vì sợ và vì lạnh, không dám nhấc chân ra khỏi chỗ. Đôi lúc mặt trăng bị sương mù che khuất rồi lại xuất hiện. Xa xa trong bóng tối lấp ló một hình bóng gì đó làm anh vừa tò mò vừa sợ. Khi mặt trăng hiện ra lần nữa có một cái gì đó bỗng lóe lên. “Đôi kính của Bushman”, Tsanka sực nghĩ ra rồi la lên:
- Anh Andrei! Anh Andrei!
- A-a-a-a-a, - tiếng vọng kéo dài trong khe núi.
- Kêu cái gì thế? - Tiếng Bushman vang lên gần như ngay bên cạnh.
Tsanka vui mừng lao về phía cái bóng vừa làm mình hoảng sợ, muốn ôm chầm lấy anh ta. Anh có cảm giác như họ đã xa nhau hàng thế kỷ, và trên mặt đất này chỉ còn họ là những kẻ sống sót duy nhất.
- Này, uống đi.
Tsanka chộp vào cánh tay vừa chìa ra, mùi rượu mạnh phả ngay vào mặt. Sau khi uống một ngụm to Tsanka mới dứt cặp môi đã tím tái của mình ra khỏi cái bi đông rượu.
- Thôi đủ rồi, đưa đây. - Bushman cương quyết giật chiếc bình lại, lắc lắc.
Chất lỏng dễ chịu như đốt cháy khoang miệng và cổ họng rồi chạy xuống bụng, mang theo hơi ấm và sự sảng khoái.
- Cho tôi chút nữa - Tsanka năn nỉ.
- Không... Cần phải tiết kiệm. - Nhà vật lý vừa đáp vừa làm thêm một ngụm nữa. - Đường còn dài lắm, cần phải tiết kiệm... Cậu đã không kiếm được rượu mặc dù làm ở trung tâm y tế... Chiếc mũ của cậu đâu rồi? Sao, nóng quá à?
- Trôi mất... trong sông rồi.
- Hừ, lẽ ra cậu phải trôi cùng với nó mới phải... Thôi được, đi thôi, trời sắp sáng rồi.
Bushman cương quyết bước đi, Tsanka còn đứng lại giây lát, cảm nhận cho hết sự khoan khoái vì hơi ấm đang lan khắp cơ thể rồi cũng vội bước theo người bạn đường, sợ lạc mất anh ta. Mới chưa qua một đêm trong cuộc chạy trốn, nhưng Tsanka đã nhận ngay ra sự vô nghĩa hoàn toàn trong ý tưởng của họ, hai người không đủ sức để vượt qua một chặng đường dài như thế. Tuy nhiên, dừng lại một mình giữa chốn không người này cũng rất đáng sợ, và còn đáng sợ hơn khi nghĩ đến việc họ có thể bị bắt và hậu quả khủng khiếp đang chờ họ ở phía trước.
Với những ý nghĩ buồn bã đó, Tsanka bước theo Bushman và nhìn thấy người bạn đường của mình đang bước loạng choạng ở phía trước, đôi tay quều quào. Có thể thấy rõ, rượu đã chế ngự cả thể xác lẫn tinh thần của Bushman.
Bushman dừng lại nhìn quanh quất, chửi rủa ầm ỹ, rồi vừa lảo đảo bước vừa hát một bài hát cổ nào đó bằng một giọng đơn đớt.
- Tsanka, Tsanka! Đi nhanh lên! - Bushman vung tay loạn xạ, hét to bằng một giọng đã ngà ngà. - Chúng ta đã được tự do! Kế hoạch của tôi thật thiên tài! Tôi đã đạt được mục đích! Tiến lên! Chỉ có tiến lên!
Vấp một cú, Bushman ngã sóng xoài, không đứng lên nổi, tự cười nhạo mình rồi nói:
- Đứng lên! Đứng lên đi, Bushman! Mày phải đi tiếp! Tương lai đang nằm trong tay mày. Cả thế giới sẽ phải ngưỡng mộ mày!
Tsanka đứng nhìn mãi cái vở diễn của người bạn đường, quay đầu nhổ một bãi nước bọt rồi chậm chạp đi theo dòng chảy.
Những đám mây đen vần vũ trong hẻm núi, cảnh vật xung quanh lại chìm trong bóng tối, trời lại mưa như lúc nãy: to, nặng hạt và lạnh buốt. Cũng như lớp tuyết năm ngoái đang tan ra, một đêm dài vô tận cũng đang tan dần. Cảnh vật xung quanh bắt đầu trở nên sáng rõ hơn: Những tảng đá màu xanh-nâu to nhỏ khác nhau như số phận con người nằm lộn xộn dưới chân, dòng nước sông nhờ nhờ trong khe núi vẫn tuôn chảy ào ạt, sủi bọt, kêu réo bất tận, hai bên bờ là những vách đá cao sừng sững không thể vượt qua nổi với các khe xói mọc đầy bụi cây rậm.
Ban ngày đi lại dễ dàng hơn. Nước mưa xối thẳng vào lưng, vào gáy, tự do chạy dọc theo cột sống xuống dưới. Tsanka bước như máy, đầu óc nghĩ về những dãy núi Kavkaz xa xôi, về mẹ, về vợ con và họ hàng ruột thịt. Đã bao lần anh mong ước được tự do như thế này! Anh có cảm giác mình sẵn sàng đi bộ đến tận cùng trời cuối đất, miễn là được tự do. Nhưng giờ đây Tsanka mới nhận ra sự yếu ớt trong cơ thể, đôi chân chỉ chực khuỵu xuống, không muốn bước nữa, anh chỉ muốn ngã vật ra và thiếp đi không còn biết gì, để không bao giờ phải tỉnh dậy và trải qua những nỗi khốn khổ này nữa. Những cơn lạnh run bắn cả người không sao kìm lại được.
- A-a-a, - tiếng kêu vọng đến tai Tsanka.
Tsanka đứng lại, lắng nghe. Ngay lúc đó tiếng kêu lặp lại, giờ đã rõ hơn, cả tiếng vọng nữa. Mưa vẫn quất ràn rạt vào mặt, chẳng nhìn thấy gì trong màn mưa dày đặc.
- Tsanka-a-a! - Tiếng kêu lại vang khắp hẻm núi.
Tsanka miễn cưỡng quay đầu lại. Anh muốn quẳng chiếc ba lô nặng chịch, ướt sũng và vô tích sự trên lưng đi, nhưng sau khi cân nhắc, anh kéo lê nó đi theo. Con dốc không cao nhưng Tsanka phải vất vả lắm mới leo lên được, hy vọng tìm thấy ngay Bushman. Anh vừa thở hổn hển vừa nghĩ: “Nếu có muốn quay về, mình cũng không thể đi nổi”.
Bushman ngồi lên chiếc ba lô trên mặt đất, cặp mắt lóe lên, vằn vện những tia máu đỏ của người say, quanh hốc mắt sâu hoắm hiện rõ những quầng thâm. Không có kính trông chúng có vẻ kỳ lạ và yếu đuối.
- Tsanka, lại đây nhanh lên, - nhà vật lý lấy tay xoa xoa chân.
- Có chuyện gì vậy?
Bushman im lặng một lát rồi ngước cặp mắt màu cánh dán không nhìn thấy gì lên trời, nói:
- Vậy là xong. Tôi nghĩ, việc này rất nghiêm trọng.
- Chuyện gì vậy? - Tsanka vẫn chưa hiểu.
- Tôi bị trẹo chân... đau lắm, thật đáng nguyền rủa... Lại bị vỡ kính nữa.
Tsanka nhìn quanh, tìm được chiếc kính chỉ còn một mắt.
- Chỉ cần một mắt kính chúng ta vẫn đi được. - Tsanka vừa đưa chiếc kính vỡ cho nhà vật lý vừa động viên.
- Một mắt thì vẫn có thể đi được, nhưng một chân thì không thể nào - Bushman rên rỉ.
- Anh thử đứng lên xem nào, cẩn thận đấy.
Tsanka giúp Bushman đứng lên, nhưng mới chỉ bước được một bước anh ta đã ngã vật xuống, chửi bới ầm ĩ vì đau.
- Sẽ còn đau lâu. - Bushman buồn bã thốt lên.
- Anh đau ở đâu? - Tsanka hỏi.
- Ở đây, - nhà vật lý chỉ tay vào xung quanh phía trên đế ủng, khắp cả bàn chân.
- Anh tháo ủng ra đi, chúng ta sẽ xem. - Tsanka vẫn không chịu.
Phải vất vả lắm hai người với bốn bàn tay mới tháo được chiếc ủng ướt ra. Da chân bị ngâm nước nhăn nheo, tái ngắt, mu bàn chân sưng lên.
- Không sao đâu. - Tsanka an ủi.
Tsanka vắt khô miếng vải bọc chân ướt sũng bốc mùi khó chịu, dốc hết nước trong ủng ra rồi đưa cho Bushman.
- Nào đi vào. Chúng ta cần phải đi. - Tsanka nói như dỗ dành một đứa bé.
- Không. Không thể đi vào được nữa đâu. Tôi đau lắm.
- Thôi đi. Đi vào, nhanh lên.
Đột nhiên cả hai cùng quay đầu sang bên. Nước ở đâu không biết bỗng ập đến chỗ họ, tràn cả lên bờ.
- Đứng dậy, nhanh lên! - Tsanka ra lệnh, chộp lấy cả hai chiếc ba lô.
Hai người vịn vào nhau lùi lại. Nước trong sông tràn lên rất nhanh. Một khối nước khổng lồ màu nâu sậm sôi réo cuồn cuộn, tràn tới ngay trước mắt họ, nhấn chìm tất cả mọi thứ ngay bên cạnh. Từ một dòng sông nhỏ, rụt rè ngày hôm qua, giờ không còn lại dấu vết gì nữa. Khối nước khổng lồ chứa đầy bùn đất điên cuồng tràn vào khoảng không gian trống trải.
- Tsanka, cơn lũ sẽ còn tràn tới nữa, phải tránh xa hơn. - Bushman kêu lên, đau đớn nhảy lò cò một chân.
Đi được khoảng hai chục mét họ đứng dựa vào vách đá trong hẻm núi.
- Tsanka, cậu tính xem chúng ta có thể leo lên vách đá được không?
Tsanka ném ba lô xuống, đi về phía dưới rồi mất hút một lúc lâu. Bushman rất lo.
- Tsanka, Tsanka, cậu ở đâu? - Bushman bực bội hét lên.
Cuối cùng Tsanka xuất hiện, thở hổn hển, kéo theo một khúc cây.
- Anh kêu cái gì thế? - Tsanka bực tức. - Rìu đâu?
- Tôi cũng chẳng biết nữa. Hình như rơi mất rồi. - Nhà vật lý bối rối thú nhận.
- Hừ, - Tsanka nhăn nhó, hai gò má nổi u lên. - Giá mà anh uống ít hơn.
- Không phải việc của cậu. - Bushman độp lại.
- Anh còn lảm nhảm cái gì nữa - Tsanka sẵng giọng, - Chính anh đã lôi kéo tôi vào cái trò vô vọng này.
- Thôi cậu cút đi cho rồi. Đồ hèn nhát...
Bushman còn lảm nhảm câu gì đó nữa, nhưng chỉ một cú đẩy nhẹ của Tsanka, anh ta đã ngã lăn ra đất.
- Đồ súc sinh! - Nhà vật lý rên rỉ. - Đồ khốn nạn!
Tsanka cầm chiếc ba lô của Bushman lên, lấy bình rượu ra, hớp một ngụm to, rồi nhăn mặt lại, thở mãi vào lòng bàn tay.
Bushman ngồi bệt dưới đất lặng lẽ nhìn, rồi van vỉ:
- Cho tôi uống với.
Tsanka chìa cho Bushman bình rượu chỉ còn một nửa. Bushman chỉ hớp một ngụm nhỏ, khổ sở nhăn mặt rồi đưa lại cái bình cho Tsanka, mắt không nhìn lên.
- Ở bên dưới tôi tìm thấy một chỗ giống như cái hang. Chúng ta có thể nghỉ tạm ở đấy... Chờ tạnh mưa rồi sẽ tính sau. - Tsanka nói, giọng làm lành.
Tsanka lấy con dao của mình ra bắt đầu đẽo gọt khúc cây làm cái nạng.
Họ phải đi một đoạn khá xa nữa mới đến chỗ trú chân. Đó không phải là cái hang mà là một hõm đá to, giống như đầu lâu của một con quỷ khổng lồ lăn từ trên vách núi xuống. Trong khối đá khổng lồ đó, nhiều năm qua, có thể là hàng thế kỷ nước sông đã đục thủng một cái lỗ, và từ chỗ họ nhìn vào, trông nó giống như cái mõm con tắc kè khổng lồ đang há ra.
Cả hai đều rất ngạc nhiên khi thấy chỗ trú chân khá khô ráo, nhưng lạnh lẽo. Lớp băng vĩnh cửu ở trên và dưới cái hang đã hút hết chút hơi ấm còn lại. Hai người lạnh run cầm cập. Tsanka lại bị lên cơn ho dữ dội như xé nát lồng ngực, cổ họng và cả cơ thể.
- Cậu hãy uống một chút đi, - Bushman khẽ nói.
Hai người ngồi xổm, mỗi người hớp một ngụm nhỏ.
- Cần phải đốt lửa, - nhà vật lý đề nghị.
- Có diêm không?
- Tôi có đây. - Bushman mỉm cười bí hiểm.
- Hộp diêm của anh giờ có lẽ chỉ còn lại que gỗ.
- Để xem xem, - Bushman lập cập thò tay vào cái túi bí mật trong người lấy ra một vật nhỏ hình quả trứng màu vàng xám. - Từ dạo mùa xuân tôi đã bọc nó trong miếng giẻ rồi đổ sáp bọc xung quanh... Đưa dao đây.
Sau một vài động tác, cái vỏ bọc bên ngoài được tách ra, và trong bàn tay bẩn thỉu của nhà vật lý hiện ra một bao diêm khô ráo còn mới tinh như trong cửa hàng. Hai người nín thở, thận trọng mở hộp diêm ra như mở một kho báu vĩ đại: những que diêm trắng tinh, khô ráo xếp hàng ngay ngắn phả ra mùi diêm sinh.
- Trong ba lô của tôi còn một hộp như thế này nữa, - Bushman thông báo như tiết lộ một điều bí mật quan trọng, - Những thứ khác, có lẽ ướt hết cả rồi... Chỉ cần củi rồi vảy tí rượu vào là chúng ta sẽ có ngay một đống lửa.
- Nhỡ có người đang truy đuổi? - Tsanka khẽ hỏi.
- Ôi, anh bạn yêu quý ơi! Trong điều kiện thời tiết như thế này, nếu có ai đuổi theo chúng ta thì cứ để họ tìm thấy. Chắc chắn là họ phải cần đến chúng ta... Nhưng chẳng có ai truy đuổi đâu.
- Cạnh đây, trên núi có một cái khe xói, có bụi cây... Tôi sẽ quay lại ngay.
Tsanka cởi chiếc áo bông ướt sũng ra, cầm con dao rồi mất hút ngay trong làn mưa xối xả.
Khi Tsanka quay lại với bó cành cây, anh nhìn thấy một cảnh tượng hãi hùng: khắp nơi la liệt những tờ giấy ố vàng, ướt nhẹp, Bushman nằm úp mặt xuống đất, hai tay ôm mặt khóc thảm thiết.
- Có chuyện gì thế? - Tsanka chạy lại hỏi.
Nhà khoa học không đáp lại chỉ càng khóc to hơn. Tsanka nhặt một trong số những tờ giấy vương vãi dưới đất lên, chữ viết đã nhòe hết, chỉ còn lại những vết mực.
- Thế là hết! Phá sản hoàn toàn!
- Anh đừng lo. Chúng ta sẽ sống và sẽ viết lại. Cứ yên tâm.
- Những thứ như thế này chỉ viết được một lần thôi! - Nhà vật lý bật dậy ngồi lên chiếc áo bông của Tsanka, bực bội hét lên. - Thế là hết. Hết rồi! Tôi chỉ sống vì nó, chạy trốn cũng vì nó... Bây giờ thì hết rồi... Tất cả đã kết thúc.
Nhà vật lý ôm đầu gối, gác cằm lên và lại khóc nức nở, giọng đã nhỏ hơn nhưng lại thảm thiết hơn.
Một lát sau, đống lửa được nhen lên, nổ lép bép vui vẻ, kéo theo sự sống và niềm hy vọng cũng được nhen lên. Tsanka còn phải đi lấy củi thêm hai lần nữa. Khi đã có than, anh cào đống lửa sang một bên và cùng với Bushman ngồi lên cái chỗ đã được đốt nóng như ngồi trên bếp lò.
- Ôi, nóng quá, - Bushman là người phá vỡ sự im lặng trước.
Hai người khoan khoái tận hưởng sự ấm áp, ánh mắt sáng lên, khóe miệng như có cái gì đó giống như nụ cười.
- Quả thật, con người có cần gì nhiều lắm đâu, - Bushman buồn rầu nói, - Chỉ một điều đơn giản thế này thôi mà cái đám khốn nạn ấy cũng không cho chúng ta được hưởng.
Hai người ngồi dựa lưng vào nhau.
- Anh nói cái gì thế? - Tsanka hỏi.
- À, chuyện của tôi, thế thôi... Tsanka này, nếu cậu sống sót, đừng sống với những kẻ vô đạo đáng nguyền rủa ấy nữa, ở đây không bao giờ có cuộc sống đâu. Cậu hãy ra nước ngoài.
- Tôi sẽ không đi đâu cả, anh Andrei ạ. Tôi chỉ có một Tổ quốc thôi, đó là ngôi làng của tôi.
Cả hai lại im lặng rất lâu.
- Cậu nghĩ cái gì thế, Tsanka? - Nhà vật lý lại phá vỡ sự im lặng.
- À, chẳng nghĩ gì cả... Giá mà được chết ở quê nhà, được chôn cất trong nghĩa trang quê hương, có nấm mồ tử tế, bà con họ hàng đều biết tôi nằm ở đâu.
- Còn tôi thì bây giờ chẳng cần cho ai cả. Muốn chôn tôi ở đâu cũng được, đằng nào thì cũng chẳng có ai đến viếng mộ tôi.
- Không có ai là thế nào? - Tsanka ngạc nhiên. - Thế còn con gái anh?
- Con gái tôi đã có một ông bố khác... - Bushman cười chua chát. - Này, có một người đàn bà đã có mang với tôi đấy, có thể cô ấy sinh con trai cũng nên?
- Chẳng lẽ tất cả những chuyện ấy là thật sao?
- Cái gì?
- Thì chuyện thành phố Yakutsk, chuyện người phụ nữ và những chuyện khác nữa.
- Dĩ nhiên đó là sự thật. Cậu không tin à? Thôi, tốt hơn là chúng ta xem bánh mì sấy hiện giờ ra sao.
Hai người lục trong ba lô. Tất cả đã biến thành một mớ nhão nhoét. Mặc dù vậy họ vẫn cố moi hết những gì còn lại trong chiếc ba lô của Tsanka ra bằng đôi tay bẩn thỉu.
- Với đôi tay hộ pháp của mình, cậu chỉ cào một cái là hết. - Bushman vừa nhai nhồm nhoàm, vừa lầu bầu, cố nhét cho bằng hết số thực phẩm dự trữ vào mồm.
- Không nên ăn hết, - Tsanka thèm thuồng nhìn người bạn đường, nói. - Phía trước, đường còn dài lắm.
- Tôi chẳng đi được nữa. - Bushman bực bội gắt, - Hẳn là cậu vừa đi vừa nhai hết bánh mì sấy rồi còn gì. Thảo nào mà tôi thấy cậu cứ tụt lại sau trên đôi chân cà kheo của mình.
- Bỏ thức ăn xuống. - Tsanka hét lên, ra lệnh.
Tsanka tiến lại gần, nhà vật lý liền lấy người che chỗ thực phẩm dự trữ lại rồi dùng lòng bàn tay đẩy một cái thật mạnh vào cằm Tsanka làm anh ngã lăn ra. Tsanka bật ngay dậy, tức giận lao tới và lại bị một cú đạp nữa vào xương bánh chè. Tsanka ngồi phịch xuống, rên rỉ, chửi rủa Bushman, định tiếp tục lao vào cuộc ẩu đả nhưng ngay lúc ấy một lưỡi dao to lóe lên ngay trước mặt.
- Nào, lại đây, lại đây, đồ quái thai! Đồ ngoại lai đáng nguyền rủa! Cậu nghĩ, cậu có thể hành xử với tôi như với Semisastny hả... Cậu sẽ phải ra tòa về việc đó, đồ súc sinh! - Nhà vật lý cong người lại, lao tới như một con rắn.
Lưỡi dao to tướng xẹt qua tai làm Tsanka hoảng sợ bật dậy, đập đầu vào cái trần đá thấp và ngã sóng xoài ra ngoài cửa hang dưới trời mưa như trút.
Bushman, quỳ trên một chân trong tư thế phòng thủ, đầu đảo lia lịa hết bên này sang bên kia.
- Nào lại đây! Lại đây! Mày đâu rồi, đồ súc sinh? Sợ rồi hả, đồ khốn kiếp? Chỉ còn chúng ta ở đây thôi... Mày muốn một nấm mồ ở quê hương hả... vòng hoa hả, bà con họ hàng hả... Không đâu... Đồ chó chết ạ! Mày sẽ phải chết rũ ra, chết thối ra như con vật! Không chỉ chết thôi đâu, mày sẽ còn bị hành quyết nữa! Mày sẽ phải ân hận vì không nằm chung trong đống xác chết kia với bọn chúng. - Bushman điên cuồng hét lên, sùi cả bọt mép, cặp mắt lồi trợn ngược, man dại, có cảm giác như tròng mắt sắp văng ra ngoài, hàm dưới nhô ra như con thú, sẵn sàng ngoạm vào cổ bất cứ ai. - Mày lại còn ăn bánh mì của tao, uống rượu của tao, sưởi ấm bên đống lửa của tao! Đồ rác rưởi! Mày sẽ phải chết thối ra ở dưới mưa ấy! Này, lấy đi. - Vừa nói, Bushman vừa ném chiếc áo bông của Tsanka vào đống lửa.
Chiếc áo bông nặng thấm nước làm tắt ngay ngọn lửa, một vạt áo phủ lên đống lửa, vạt kia trùm ra ngoài. Trong hang trở tối om và lạnh lẽo. Bushman lò cò trên một chân, bất lực loay hoay bên đống lửa, cố gom những que củi cháy dở lại, bật hết que diêm này đến que diêm khác. Cuối cùng, anh ta sực nhớ đến bi đông rượu, với tay về phia bi đông thì ngay lúc ấy nhìn thấy Tsanka đang đứng ngay sau lưng mình, hai tay nắm chặt hai tảng đá cuội to.
Tsanka từ từ giơ tay phải lên, ước lượng cú đập của tảng đá. Khi bàn tay giơ lên tới điểm cao nhất bỗng sựng lại, có vẻ thích thú bởi sức mạnh và quyền lực. Một khoảng lặng kéo dài giữa hai người - kẻ hành quyết và nạn nhân.
- Đánh đi! Đánh đi! - Bushman ngã xuống chân Tsanka.
Một khoảng lặng nữa, rồi đột nhiên Bushman nghe tiếng hai tảng đá cuội đập mạnh xuống nền đá trong hang, vỡ tan ra thành từng mảnh nhỏ.
Bushman nằm dưới đất, co rúm người lại, khóc rống lên.
Tsanka không nói gì cả, cầm con dao của mình lên gài vào thắt lưng, phủi phủi những chỗ bị cháy sém trên chiếc áo bông, rồi loay hoay bên đống lửa đã tắt. Một làn khói xám chậm chạp bốc lên trên nóc hang, không tìm thấy lối ra, nó lười biếng bò vòng quanh. Lát sau các cành cây ướt bắt đầu kêu xèo xèo, nổ lách tách, tỏa vào trong cái nơi trú ẩn thảm hại của những kẻ trốn chạy làn hơi ấm và hương vị của mùa hè và của mặt trời.
- Tôi đi lấy củi nữa, - Tsanka vừa nói vừa đứng lên khỏi đống lửa, đi về phía cửa hang.
Khi Tsanka quay lại, Bushman đã ngủ, quay lưng về phía đống lửa đã gần tàn. Tsanka bỏ thêm củi vào rồi cũng nằm xuống ở phía đối diện và cũng thiếp đi ngay.
Hơi lạnh thấm vào tận xương tủy đánh thức Tsanka dậy. Đống lửa tắt từ lâu, lớp tro dày và mấy hòn than chỉ lưu lại được chút hơi ấm. “Chẳng bao lâu nữa thì mình cũng sẽ chết cháy như thế này”, - Tsanka thầm nghĩ.
Người bạn đường của Tsanka vẫn nằm nguyên trong tư thế ban đầu. Hơi thở đứt quãng như đẩy sự sống ra khỏi cơ thể qua cái miệng xám ngắt. Mưa vẫn trút tầm tã. Những cơn gió giật lạnh buốt mang theo hơi ẩm và bụi nước vào trong hang. Những que băng nhọn hoắt như răng thú xỉa ra từ khắp vách hang. Bóng tối dày đặc.
Tsanka tìm thấy bi đông rượu bên cạnh Bushman, nhẹ bỗng, trống rỗng. Anh vội vàng vặn nắp ra, dốc hết những gì còn lại vào miệng. Lát sau Tsanka lại dốc ngược chiếc bình lên, cố liếm cho hết những giọt rượu cuối cùng.
Nghe tiếng động, Bushman thức giấc, rên khừ khừ ngồi dậy, co người lại. Khuôn mặt anh ta như nhão ra, tái ngắt.
- Có nước không? Tsanka, lấy cho tôi ít nước, - Bushman năn nỉ, đưa bàn tay bẩn lên lau dãi nhớt và nhọ than trên mặt.
- Nước thì bao nhiêu cũng có, - Tsanka cố đùa nhưng không thành.
Tsanka bước ra gần cửa hang, chìa chiếc bình ra dưới làn mưa, nhưng sáng kiến này không hiệu quả, chỉ làm ướt tay.
- Tốt hơn là cậu hãy lấy cái ca trong ba lô của tôi, - Bushman nói bằng một giọng khàn khàn.
- Ca của lính? - Tsanka ngạc nhiên. - Sao anh không nói trước, chúng ta có thể nấu nước sôi... Anh có trà không?
- Trà cũng có và cả một miếng đường, một ít thuốc lá nữa, cái gì cũng có. Chỉ có điều, có lẽ bây giờ tất cả đều chua loét rồi.
- Ở đâu?
- Trong đó, - Bushman hất đầu về phía chiếc ba lô của mình. - Nhưng đằng nào thì lửa cũng tắt rồi.
- Sẽ có lửa, - vừa nói Tsanka vừa lao ra ngoài.
Mãi đến khi trong hang tối hẳn Tsanka mới quay về mang theo một bó cành cây với đôi tay trầy xước, chảy máu.
- Trong khi trời vẫn còn chưa tối hẳn, tôi sẽ đi lấy thêm một bó nữa.
Mãi một lúc lâu Tsanka mới quay về, thở hổn hển, cả người ướt sũng.
- Lẽ ra cậu nên lấy cái mũ của tôi mà đội, - Bushman nói, giọng thông cảm.
- Anh Andrei! - Tsanka vội cắt ngang, - Nước lũ trong sông dâng lên cao lắm, có thể sẽ tràn lên đến đây, đoạn khe núi này rất hẹp.
Bushman nhìn quanh chiếc hang.
- Rất có thể. Cậu nghĩ cái hang này được tạo nên bằng cách nào?
- Toàn bộ chỗ trú này của chúng ta cũng đã từng bị ngập.
- Thung lũng ở bên dưới rộng lắm, nhưng ai mà biết được... Mà cậu lo cái gì cơ chứ? - Nhà vật lý cười mỉa.
Tsanka không nói gì, chỉ lặng lẽ nhóm lửa.
- Năm nay, suốt cả mùa hè chưa có cơn mưa nào to như thế này, nhưng tuyết rơi rất nhiều. - Bushman lẩm nhẩm tính toán.
- Chúng ta phải nhanh chóng rời khỏi đây. - Tsanka vừa ném củi vào đống lửa vừa giục.
- Đừng hốt hoảng quá, Tsanka ạ, - người bạn đường trấn an. - Chúng ta biết đi đâu bây giờ... Nhìn kia, mưa trút như thế.
- Cạnh đây, gần chỗ tôi chặt củi có một cái khe xói bằng phẳng, có thể men theo khe lên đỉnh vách đá.
- Rồi ngồi trên đá nhọn giữa trời mưa tầm tã, - Bushman cắt ngang.
- Sao lại ngồi? Chúng ta sẽ đi tiếp. - Tsanka không chịu.
- Làm sao cậu có thể đi trên núi, trong khi đi dưới đồng bằng còn không nổi? Còn tôi, tôi không thể đi được nữa, - Bushman buồn bã nói. - Tốt hơn là chúng ta hãy nhấm nháp chút rượu rồi dùng trà, nhân tiện hút thuốc lá nữa.
- Hết rượu rồi.
- Tôi có tất cả, chỉ thiếu sự may mắn thôi, - vừa nói Bushman vừa thò tay vào cái túi bên hông ba lô lấy ra chiếc túi chườm nhỏ. - Nửa lít đấy. - Nói xong Bushman giơ cao vật báu lên ngắm nhìn vẻ mãn nguyện lắm.
Với lòng hăng say của tuổi trẻ, Tsanka cũng bị phấn khích theo, thích thú uống một ngụm. Lát sau đống lửa đã cháy sáng rực, họ còn uống trà, rồi lại uống rượu, thèm thuồng rít điếu thuốc lá ướt nhẹp.
- Tsanka này, cậu hãy nghe tôi nói đây, - đột nhiên Bushman nói bằng một giọng nghiêm túc. - Chỉ nghe thôi và đừng ngắt lời tôi... Tôi không biết mình có thể đi tiếp được nữa hay không, nhưng cậu hãy nhớ, ở Yakutsk, có một người phụ nữ đang đợi chúng ta... Ở đâu và khi nào, thì tôi đã nói cho cậu biết rồi. Tên cô ấy là Datsuk Polina Matveevna... Cậu đã nhớ chưa? Cô ấy là người Kuban. Cha mẹ cô ấy sống ở làng Giaginskaya, trong nông trang cũng có tên như vậy. Cha cô ấy tên là Matvei, làm chủ tịch nông trang, mà có thể không còn làm nữa. Nếu đúng là cô ấy có mang với tôi, thì cô ấy đang chuẩn bị sinh con ở nhà cha mẹ.
Bushman hớp một ngụm trà nóng rồi tiếp:
- Tôi đã đưa cho cô ấy sáu kilogam vàng. Tôi không biết, cô ấy có chờ chúng ta ở Yakutsk hay không, nhưng cậu cần phải lấy lại ở chỗ cô ấy đúng một nửa số vàng đó. Cậu hiểu chưa?
- Nhưng sao lại là tôi? - Tsanka ngạc nhiên. - Chúng ta sẽ cùng lấy... Nói thật, từ trước đến nay tôi chưa bao giờ nhìn thấy vàng và cũng chẳng biết phải làm gì với nó.
- Sao lại không nhìn thấy? - Nhà vật lý cười khẩy. - Thế ai đã đi khai thác vàng suốt hai năm qua? Hay là cậu đã quên rồi?
- Chẳng lẽ đấy là vàng, một đống bẩn thỉu.
- Vàng cũng bẩn lắm, nhưng khi được tự do nó rất có giá trị.
- Anh Andrei ạ, anh hãy thôi đi. Anh cần phải biết, nếu không có anh tôi sẽ không đi đâu cả và tôi cũng không thể làm được cái gì. Mưa sẽ tạnh, chân anh sẽ lành, chúng ta sẽ từ từ lên đường. Nếu Thượng đế phù hộ, mọi việc sẽ tốt đẹp.
Cả hai cùng im lặng. Ngay cạnh là dòng sông đói khát đang gào thét dữ dội, át cả tiếng mưa rơi và tất cả mọi thứ khác trên thế gian. Đống lửa vui vẻ cháy đều đều, hắt lên vách hang những cái bóng cô độc, kỳ quái.
- Anh Andrei, chúng ta uống thêm chút nữa đi. - Tsanka lên tiếng, cố phá vỡ sự im lặng nặng nề.
- Được. Nào.
Bushman đã say, nhưng khác với hôm qua, anh ta tỏ ra thân thiện và ít lời.
Bushman dựa đầu vào vai Tsanka, khóc khe khẽ.
- Cậu có biết, khi tôi nhìn thấy chuyện gì đã xảy ra với công trình khoa học của mình, có cái gì đó ở đây như vỡ ra, - vừa nói Bushman vừa chỉ tay vào ngực mình.
- Tôi đau lắm... Bây giờ cơn đau đã lan ra khắp lồng ngực... Tôi biết, đó là quả tim. Nó không chịu đựng nổi, gục ngã rồi. Tôi đã nói hết...
- Thôi đi, anh Andrei, tôi xin anh! Chẳng qua vì anh quá mệt mỏi thôi. Chúng ta sẽ nghỉ thêm một đêm nữa, ngày mai tiếp tục lên đường.
- Cậu là người tốt, Tsanka ạ! Thậm chí cả thời tiết khí hậu và cái trại tù này cũng không làm hỏng được cậu. Có thể cậu đã được nuôi dưỡng trên một vùng đất tốt... Lúc nào tôi cũng cố thuyết phục cậu ra nước ngoài, đến những miền đất ấm áp, giờ đây tôi mới hiểu, đó chỉ là chuyện nhảm nhí. Điều quan trọng là Tổ quốc, là quê hương... Những thứ khác chỉ là sự dối trá.
Nói xong câu cuối, nhà vật lý nằm xuống, quay lưng vào đống lửa, gối đầu lên chiếc ba lô.
- Tsanka ạ, - như trong cơn mơ, nhà vật lý thì thầm, - trong chiếc ba lô này, có khoảng nửa kilogam vàng... Đó là lộ phí của chúng ta. Ngoài ra còn có địa bàn và bản đồ... Cậu hãy cố mà giữ chúng... Có thể cô ấy sinh con trai cũng nên?
Tsanka bỏ thêm củi vào đống lửa, rồi cũng nằm quay lưng vào. Men rượu như phủ một lớp sương mờ lên ý thức. Tsanka muốn ngủ nhưng cảm thấy có điều gì đó bất an, anh sợ nước lũ sẽ dâng lên cao hơn.
Tsanka thiếp đi lúc nào không hay. Trong mơ anh trở về những ngày còn thơ bé. Một lần mẹ dẫn Tsanka về ngôi làng ruột thịt của mình - miền Chechnya dưới chân núi. Sau một đêm mưa giông dữ dội là một ngày nắng đẹp, tinh khôi. Tsanka xuống suối tắm với các bạn. Mặt trời trên cao sưởi ấm tấm lưng trần. Đột nhiên có những tiếng động lạ từ xa dội tới: có cảm giác như ai đó đang vặn hàng trăm cây cổ thụ cùng với những tán lá xanh tươi của chúng rồi chà xuống mặt đất cứng, tạo nên một bài kinh cầu hồn ai oán trong cơn hấp hối. Cậu bé Tsanka, hoảng sợ thì ít mà ngạc nhiên thì nhiều khi thấy dân chúng tụ tập rất đông trên bờ sông, có cả mẹ cậu nữa. Mẹ cậu hoảng sợ chạy đến với cậu, kéo tay cậu chạy ngược lại, vấp ngã mấy lần. Và khi đã ngồi yên trong vòng tay mẹ, Tsanka mới nhìn thấy, từ trên núi một thác nước đen ngòm đang tràn xuống theo triền sông rộng lớn. Tsanka không muốn về, muốn ở lại xem cái cảnh tượng kỳ vĩ đó, nhưng mẹ cậu đã ôm chặt cậu vào ngực, đưa cậu về.
... Giữa cơn mơ, Tsanka nghe rất rõ tiếng mẹ gọi: “Dậy đi, Tsanka, dậy đi”. Tsanka mở mắt ra, không hiểu mình đang ở đâu. Cuối cùng vọng đến tai anh tiếng gầm réo kinh hoàng, quen quen của một thời thơ bé. Tsanka bật dậy. Nỗi sợ hãi choán ngợp tâm trí, chạy tới chạy lui trong hang tối như bưng, va phải Bushman và ngã đè lên anh ta.
- Cậu làm sao thế? Đừng! Xin hãy thương hại tôi! - Nhà vật lý hét lên trong cơn mơ.
Tiếng người làm Tsanka tỉnh hẳn. Bây giờ anh đã nghe rất rõ tiếng gào thét của thiên nhiên: thác lũ từ trên núi đang đổ xuống.
- Dậy đi, dậy đi, nhanh lên! - Tsanka điên cuồng hét vào tai người bạn đường. - Phải chạy ngay... Nhanh lên.
Tsanka túm lấy tay Bushman giật mạnh, kéo anh ta lên khỏi mặt đất và đẩy ra cửa hang.
- Ôi, ôi, - nhà vật lý kêu lên oai oái. - Cái chân của tôi. Tôi không thể.
- Chạy đi, chạy đi, nhanh lên... Thác lũ sẽ cuốn chúng ta đi bây giờ.
- Thác lũ nào? Khoan đã... Thả tôi ra, Tsanka... Cậu điên rồi... Ba lô của tôi! Ba lô của tôi còn trong hang - Bushman cố giằng ra khỏi tay Tsanka.
Nhưng Tsanka vẫn giữ chặt cổ áo nhà vật lý và lôi tuột ra ngoài. Những tiếng động khủng khiếp, kinh hoàng và man dại lan dọc theo hẻm núi.
- Tsanka, Tsanka, cái gì thế. - Bushman hét lên, nhưng tiếng hét của anh ta chìm ngay trong những tiếng động kia.
Họ chạy xuống dưới, dọc theo hẻm núi, va đập vào vách đá đau điếng, ngã dúi dụi, rồi lại đứng lên chạy tiếp. Bushman cà nhắc, hai tay cố sống cố chết đeo chặt vào người Tsanka làm cho cả Tsanka lẫn anh ta đều không chạy được.
Đợt sóng nhỏ đầu tiên của cơn lũ quét đuổi kịp họ, làn nước lạnh như băng tràn lên đến đầu gối.
- Tsanka, đừng bỏ tôi! Hãy giúp tôi! Giúp tôi với! - Bushman van vỉ.
Tsanka cặp Bushman dưới nách, tuyệt vọng kéo theo mình. Tiếng gầm réo bùng lên, cuốn theo tất cả, mỗi lúc một mạnh hơn, khủng khiếp hơn. Nước dâng lên từng giây, đã ngập đến thắt lưng.
Cuối cùng họ chạy đến một cái khe xói, chỗ Tsanka chặt củi. Do vẫn còn nhớ địa hình nên Tsanka bám vào các mỏm đá nhô và những bụi cây còn sót lại leo lên trước. Bushman loay hoay mãi bên dưới, cố tìm cách để thoát ra khỏi dòng nước.
- Đừng bỏ tôi! Giúp tôi với! Cứu tôi với, đồ súc sinh kia! - Nhà vật lý điên cuồng gào lên.
Tsanka lại nhào xuống nước, chống chọi với dòng nước chảy xiết, chui vào giữa háng Bushman rồi vừa la hét vừa cố đẩy Bushman lên khỏi mặt nước, vào bờ.
- Bám thật chắc vào! Bám vào mỏm đá! - Tsanka cố hết sức hét to.
Tiếng gào thét cuồn cuộn của cơn lũ càng lúc càng mạnh, ngay sát bên cạnh. Giờ đây thác nước không chảy xuống dưới như Tsanka nghĩ nữa mà tràn sang hai bên, dâng cao lên như muốn làm ngập hẻm núi.
Tsanka cố dùng vai đẩy Bushman lên lần nữa, còn anh ta hai chân đạp loạn xạ trong không khí, mắc kẹt lại ở đấy. Khi đó, Tsanka leo vòng qua Bushman, rồi từ bên trên cố kéo cái thân hình mềm oặt của Bushman lên. Hai chân Tsanka kẹp cứng vào mô đá, tay phải túm vào gốc cây nhỏ, tay trái nắm chặt vào cổ tay Bushman kéo lên. Hai bàn tay của họ như móc chặt vào nhau. Tsanka cố hết sức bắt đầu từ từ kéo Bushman lên. Nhưng đúng lúc ấy một tiếng động khủng khiếp vang lên ngay dưới chân, một con sóng to ập lên đến thắt lưng Bushman, đột ngột kéo mạnh Bushman xuống, tay của Tsanka cũng bị giật xuống theo. Tsanka cố giữ Bushman lại trong cái biển nước không đáy, hai chân vẫn kẹp chặt vào mô đá, cả người rung lên bần bật vì lực kéo, hai tay căng ra trong một cuộc chiến sống mái. Đột nhiên, Tsanka cảm thấy bàn tay Bushman đang lỏng dần ra, yếu dần đi: Nó không chịu đựng nổi trọng lượng của cơ thể nữa.
- Bỏ tôi ra, bỏ tôi ra, - Tsanka nghe loáng thoáng hay là anh có cảm giác nghe thấy tiếng Bushman.
Mặt nước bỗng tụt xuống đột ngột, nhưng càng chảy mạnh hơn, dòng nước băng giá cuốn vào chân Bushman, như vẫy gọi anh ta đi theo mình. Cánh tay Tsanka tê cứng.
- Thả tôi ra! Thả tôi ra! - Nghe như tiếng Bushman kêu lên hay là Tsanka lại có cảm giác như thế.
Tay Tsanka từ từ lỏng ra, và anh còn nghe rất rõ tiếng rên cuối cùng của người bạn: “A-a-a”.
* * *
...Tsanka nằm ngửa trên triền dốc của mỏm đá. Bên dưới dòng sông kêu réo ầm ầm, mưa xối xả trút vào mặt rát rạt. Anh đã bất tỉnh...
Một cơn ho ập đến như muốn xé toang lồng ngực làm Tsanka tỉnh lại. Anh muốn ngồi dậy nhưng cơn đau nhói lên làm tê liệt toàn thân: Tsanka chỉ có thể thở và mở mắt ra. Trên đầu, trời xanh cao vời vợi, chỉ có những đám mây thưa như lông vũ trôi từng đàn trong làn không khí trong veo, tận hưởng không gian thoáng đãng và sự tự do. Xung quanh tĩnh lặng và yên bình. Tiếng rì rào khe khẽ của dòng nước như ve vuốt đôi tai. Mặt trời mùa hè ở trên cao đang chế ngự thế gian, tỏa nắng vàng khắp nơi.
Tsanka ngọ ngoạy mấy ngón tay, một lần nữa định cố ngồi dậy, nhưng không đủ sức. Anh cảm thấy nóng bức, cả người như bị thiêu đốt, trong tai lùng bùng.
Tsanka lại lên cơn ho. Một cục đờm cứng mắc ngay cổ họng làm anh nghẹt thở.
Ngay bên dưới có cái gì đó đang động đậy, có tiếng lạo xạo.
- Có người nằm ở đây! Ở đây! - Tsanka nghe sát bên tai giọng nói oang oang.
Tsanka nhắm mắt lại. “Vậy là họ cũng tìm thấy, thật khốn nạn”, - Tsanka thầm nghĩ, và ý nghĩ rồi đây mình sẽ bị những người lính được ăn no, ngủ kĩ hành hạ khiến cho anh cảm thấy một nỗi đau không sao chịu đụng nổi và nỗi xót thương cho bản thân.
Một vài cánh tay khỏe mạnh nắm lấy cái thân hình gầy nhom của Tsanka kéo xuống dưới.
- Còn sống không?
- Còn ạ. Vẫn thở.
- Tù nhân phải không? - Giọng nam trầm đầy quyền uy.
- Vâng ạ.
- Chẳng lẽ không còn ai nữa sao?
- Chẳng những không còn ai, mà cũng chẳng còn lại cái gì. Xung quanh không còn lại dấu vết nào của khu trại.
- Khoảng hai kilomet phía dưới, người ta phát hiện ra dấu vết của máy phát điện. - Một giọng khác chen vào.
- Lạ thật, thế người này sống sót bằng cách nào?
- Có thể sóng đã hất anh ta lên vách đá.
- Làm sao anh ta có thể bơi được xa như thế trong dòng nước lũ băng giá? Hơn nữa đây không phải là dòng sông mà là một thác nước.
- Dẫu sao thì cũng đã trôi dạt đến đây...
- Thôi được rồi, không ba hoa nữa, - giọng nam trầm ra lệnh. - Bác sĩ đâu? Mang cáng lại đây ngay. Anh phải chịu trách nhiệm về tính mạng của anh ta đấy.
- Có thể tốt hơn là xử lý như người kia? - Một giọng the thé non choẹt. - Nước cuốn trôi hết. Nếu không chúng ta sẽ phải vất vả với anh ta.
- Cậu lảm nhảm cái gì thế, đồ ngu. Bao nhiêu cặp mắt đang nhìn kia. Cẩn thận mồm mép đấy. Cá nhân cậu phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về mạng sống của anh ta. Nếu có chuyện gì xảy ra tôi sẽ treo cổ cậu... Đây là một trường hợp đặc biệt, chưa từng xảy ra! Một thảm họa thiên nhiên!... - Rồi hạ giọng nói thêm: - Chúng ta không có liên quan gì ở đây cả. Một sự tiếp cận đúng đắn có thể trở nên nổi tiếng.
- Thưa đồng chí Pogorelov, đúng như vậy ạ! Tư duy rất đúng! Ý tưởng tuyệt vời!
- Không được để ai biết về anh ta... Chăm sóc cẩn thận đấy, hiểu chưa, đồ thối thây?
- Thưa vâng ạ! Rõ rồi ạ! Tất cả lại đây! Gọi bác sĩ nhanh lên... Nhanh lên. Đồ chết dấp!
Như một báu vật lịch sử, Tsanka được khiêng trên cáng rất lâu, sau đó chở bằng xe tải có lò sưởi đến trạm quân y. Tsanka nằm ở đây vài ngày. Tình trạng sức khỏe của anh rất nguy kịch. Suốt ngày đêm có một bác sĩ riêng và vài y sĩ trực tiếp điều trị cho anh.
Sáng nào cũng có vài người mặc thường phục vào phòng bệnh dành riêng cho Tsanka, hỏi bác sĩ:
- Anh ta thế nào rồi?
- Hiện tại chưa có biến chuyển gì đáng kể. Điều quan trọng nhất là tình trạng không xấu đi. Đây là thời kỳ ổn định, rất có triển vọng.
- Khi nào có thể đưa anh ta đến Magadan?
- Tôi nghĩ, với sự chăm sóc của bác sĩ, có thể sau vài ngày nữa.
- Nếu vậy thì chuẩn bị đi. Còn anh, với tư cách là bác sĩ điều trị trực tiếp, anh sẽ đi cùng với bệnh nhân.
- Anh đã biết tên họ của anh ta chưa?
- Hiện tại thì chưa... Chúng tôi rất hy vọng vào anh đấy.
- Anh biết không, ở đây không đủ thuốc men và những điều kiện cần thiết. Nếu được điều trị tốt, anh ta sẽ nhanh chóng bình phục. Điều quan trọng là quả tim còn trẻ, khỏe.
Ngay trong đêm ấy, người bác sĩ điều trị cho Tsanka ngồi trên chiếc ghế đẩu cạnh giường, đặt tay lên ngực anh và nhìn vào đôi mắt mờ đục của anh, nói:
- Hiện tại, tốt nhất là cậu không nên nói và không nên nhớ gì cả... Nếu có nhớ được điều gì thì cũng cố mà quên đi.
Sáng hôm sau, Tsanka được chở đến Magadan. Họ đưa anh vào quân y viện trung tâm, bố trí một phòng riêng và có một nhóm y bác sĩ điều trị riêng. Một đợt điều trị tích cực bắt đầu: Suốt ngày đêm anh được tiêm vào ven và bắp thịt. Mối nguy hiểm đã qua, Tsanka bắt đầu bình phục, cảm thấy ngon miệng và cùng với nó là khát vọng sống.
Khi cơ thể bắt đầu bình phục thì cũng là lúc bắt đầu các thủ tục không mấy dễ chịu. Hàng ngày, ngoại trừ chủ nhật, sáng và chiều Tsanka bị các cán bộ an ninh mặc sắc phục thẩm vấn khoảng hai, ba giờ.
Tsanka kể đi kể lại cho họ nghe hàng trăm lần mọi việc diễn ra, trừ những ngày cuối cùng.
Sự may mắn của mình được Tsanka giải thích vào thời điểm đó anh không ngủ mà đang đi vệ sinh. Anh kể, nghe thấy những tiếng động khủng khiếp nhưng không biết đó là cái gì, sau cú va đập, may mắn tóm được một cây gỗ, còn sau đó, không biết gì nữa. Tsanka nhớ, có mấy người cũng bị cuốn theo cơn lũ cạnh mình, nhưng sau này số phận của họ ra sao, anh không biết.
Mỗi lần thẩm vấn đều được bắt đầu bằng một câu hỏi:
- Họ?
- Arachaev.
- Tên, tên bố? Năm sinh? Bị tù theo điều luật nào?
Tsanka không nhớ mình bị kết án theo điều luật nào. Tuy nhiên, sau khi xác định được tên họ, hai tuần sau người ta nhắc lại cho anh nhớ, anh đi tù vì “hoạt động phá hoại”. Tsanka chỉ còn biết im lặng nhún vai.
Nếu không kể đến sự thô lỗ của cán bộ an ninh thì nhìn chung những thủ tục đó cũng có thể chịu đựng được. Điều duy nhất làm Tsanka lo sợ là nói hớ điều gì đó. Đêm nào anh cũng lẩm nhẩm trong đầu cho đến thuộc lòng các câu hỏi đáp ngắn gọn và chủ yếu là “tôi không biết, tôi không nhớ, tôi không thấy, tôi quên rồi”. Quá trình này chứng tỏ Tsanka biết tiếng Nga rất kém. Tsanka cố tình nói trại tiếng Nga bằng một giọng lơ lớ, điêu luyện đến mức chính anh cũng phải ngạc nhiên.
Nếu so với cuộc sống trước kia, thì cuộc sống hiện tại vô cùng sung sướng và đẩy đủ tiện nghi: Sức khỏe hồi phục tốt dù Tsanka luôn tìm mọi cách để che giấu điều đó. Anh được ăn no, ngủ ấm, đầy đủ các phương tiện sinh hoạt. Quanh anh chỉ có bốn người: bác sĩ điều trị, một người đàn ông ít nói khoảng sáu mươi tuổi, một nữ y tá lúc nào cũng im lặng khoảng bốn chục tuổi và hai cán bộ an ninh.
Điều quan trọng làm Tsanka cảm thấy hài lòng là những người quanh anh đều ăn mặc chỉnh tề, tay chân sạch sẽ. Họ không thực hiện một nghĩa vụ huyền thoại nào, mà chỉ đơn giản là đang làm việc, và công việc của họ được trả tiền, cũng như ngày công trong nông trang của Tsanka. Điều đó làm anh hài lòng, và anh cũng không gây phiền hà cho những người quanh mình. Chính vì thế mà chẳng bao lâu sau, nhịp sống ở đây đã trở nên đơn điệu, buồn chán, nhưng lại dễ chịu đối với Tsanka.
Sau một tháng, những cuộc thẩm vấn chỉ còn mang tính hình thức, thủ tục.
Giờ đây chỉ còn một người đến gặp Tsanka, đó là Averbakh Karl Samuylovich. Averbakh lặng lẽ ngồi lên ghế, không thèm để ý đến Tsanka, hoàn tất một số giấy tờ gì đó, hút hết mấy điếu thuốc, đi đi lại lại trong phòng, trầm tư trong những suy nghĩ của mình, nhìn rất lâu ra cửa sổ, thỉnh thoảng lại nhìn vào chiếc đồng hồ bỏ túi rất to. Đúng hai tiếng, không nói một lời nào, không nhìn về phía người bệnh phạm nhân, thu dọn giấy tờ của mình trên bàn rồi đi ra.
Đôi lần, tâm trạng của Averbakh có vẻ phấn chấn hơn. Anh ta đi đi lại lại trong phòng, huýt sáo một giai điệu vui vẻ nào đó, hỏi Tsanka về quê hương, gia đình, cuộc sống thường ngày ở trong núi. Vào những hôm như thế, trước khi ra về bao giờ cũng mời Tsanka vài điếu thuốc.
Chẳng bao lâu sau, Tsanka có thể tự mình ngồi dậy, đi lại, nhưng người ta vẫn không cho anh ra khỏi phòng, và anh cũng thực hiện nghiêm túc nội quy quân y viện.
Tuy nhiên mọi việc không phải đều thuận chèo mát mái. Xuất hiện những nỗi đau khổ khác. Một đêm, Tsanka bắt gặp mình với ý nghĩ, anh đang mơ tưởng tới phụ nữ, chị y tá phục vụ mình. Đó không chỉ là những ý nghĩ nữa mà là nỗi khát khao đàn ông từ lâu đã bị quên lãng. Dần dần nỗi khát khao đó chuyển thành nhu cầu.
Niềm vui như choán ngợp tâm trí Tsanka, và anh bắt đầu khao khát một tình yêu.
Hàng giờ liền, với đôi mắt xanh sâu hoắm, Tsanka ngắm nhìn một cách lộ liễu người đàn bà mà anh khao khát. Để kìm nén những khát vọng của mình, Tsanka phải cắn môi lại, nắm chặt tay, móng tay cắm sâu vào da thịt đến đau nhức, nhưng anh không thể rời ánh mắt đam mê, ngang bướng như mắt con thú khỏi người phụ nữ.
Người phụ nữ, dù đứng quay lưng lại nhưng vẫn cảm nhận được nỗi đam mê câm nín đang dán chặt vào cơ thể mình. Chị cảm thấy khó xử, lúng túng, cố gắng thoát khỏi ánh mắt như thiêu đốt ấy. Nỗi đam mê thể xác không lời của người đàn ông gây nên trong lòng chị những tình cảm trái ngược nhau: vừa ghê sợ vừa tò mò.
Tuy nhiên, dù có cố gắng đến đâu, Tsanka vẫn không kiềm chế nổi: tình yêu và niềm khao khát của anh đã lấn át tất cả sự thận trọng và cảnh giác.
- Chị tên là gì? - Cuối cùng, sau nhiều ngày được nữ y tá chăm sóc, Tsanka hỏi.
Người phụ nữ bước lại sát giường, cúi xuống nói nhỏ vào tai Tsanka:
- Tachiana Ivanovna.
Tsanka định hỏi thêm câu gì đó nữa, nhưng người phụ nữ đặt ngón tay trỏ lên môi, hất đầu về phía cửa, rồi bước ra ngay.
Ngay trong chiều hôm ấy, người phụ nữ cương quyết bước vào phòng, nói vừa đủ nghe nhưng bằng một giọng cứng rắn:
- Này chàng trai, đồng chí Arachaev, người ta theo dõi anh suốt ngày đêm, vừa quan sát vừa nghe trộm... Anh ta vừa đi vệ sinh. Anh không được thể hiện bất cứ một sự vi phạm nào. Tôi thấy, anh là người có giáo dục, nhưng chỉ cần một bước đi sai lầm, thậm chí chỉ một ánh mắt thôi cũng có thể làm thay đổi hoàn toàn số phận của anh. Mà có thể cả của tôi nữa... Vì vậy anh phải hết sức cẩn thận.
Sau lời độc thoại ấy, Tsanka phải kìm ném tất cả mọi ý định của mình lại, nhưng tự nơi sâu thẳm của tâm hồn, anh vẫn không hết yêu và càng kính trọng người nữ y tá hơn. Giờ đây, Tsanka nhìn nữ y tá bằng ánh mắt trìu mến không chút che đậy.
Họ nói chuyện với nhau rất ít, chủ yếu bằng ánh mắt. Đôi khi trong lúc thăm khám tay họ chạm nhau, khi đó Tsanka lặng lẽ vuốt ve làn da trắng mịn như nhung phủ một lớp lông tơ mềm. Vào những thời khắc ấy, hơi thở của họ trở nên nặng nhọc, khuôn mặt đỏ ửng, họ phải đưa ánh mắt xấu hổ của mình sang hướng khác.
Sau này Tsanka được biết, Tachiana Ivanovna Shukina quê ở thành phố Leningrad. Chồng chị là một giáo sư, tù nhân chính trị, chị đi theo chồng đến nơi cùng trời cuối đất này, nhưng chồng chị đã chết trong trại. Tsanka còn biết thêm, ở Leningrad, Tachiana còn mẹ già, cô con gái là sinh viên đại học và con trai đang học phổ thông, Tachiana đã sống ở Magadan một năm rưỡi.
- Sao chị không về nhà? Chẳng lẽ chị không nhớ những người thân? - Có lần, Tsanka ngạc nhiên hỏi.
- Sao lại không nhớ! Tôi khổ sở vì buồn nhớ họ! - Tachiana thốt lên bằng một giọng run run, không giấu nổi những giọt nước mắt rồi chạy ra khỏi phòng.
Tachiana lớn tuổi hơn nhiều so với Tsanka, - chị đã bốn mươi. Cuộc sống ở Magadan đã làm tăng thêm những nếp nhăn trên khuôn mặt phúc hậu của chị, làm cho ánh mắt trong cặp mắt to màu xanh thẫm như mờ đi, nhưng vẫn không thể bẻ gẫy phong thái và cốt cách cao quý của chị. Người phụ nữ có dáng vẻ kiều diễm đặc biệt. Tachiana không đẹp lắm, nhưng từ người chị toát ra sự cuốn hút nữ tính rất mạnh. Mỗi bước đi, động tác, ánh mắt, lời nói - tất cả đều thanh cao tự trong máu thịt.
Công việc của người nữ y tá - hộ lý không phù hợp chút nào với tính cách của Tachiana. Nhưng dù không thích, chị vẫn làm tất cả mọi việc rất nhiệt tình và chu đáo. Tachiana không thích khi người ta nhìn thấy chị đang làm công việc hộ lý. Trong cái chốn thâm sơn cùng cốc này, Tachiana vẫn chăm sóc cho vẻ ngoài của mình: lúc nào chị cũng mặc chiếc áo choàng sạch sẽ, mớ tóc dày màu hạt dẻ được chải gọn ghẽ...
Tachiana trang điểm theo kiểu cũ, mái tóc không dài lắm được tết lại thành bím dày nằm ngay trên bộ ngực nhỏ như ngực thiếu nữ. Đôi mắt Tsanka không bỏ qua một chi tiết nào.
Không biết mọi chuyện rồi sẽ kết thúc ra sao, nhưng sau ba tháng, Tsanka được đưa từ phòng riêng ra phòng chung. Ở đây, Tsanka gặp lại người quen cũ, ông Ivanov Iakov Petrovich. Trong quân y viện trung tâm này, phạm nhân - giáo sư Ivanov là một chuyên gia đầu ngành về các bệnh phổi và bệnh lao.
- Ôi, Tsanka, thật không ngờ! Thật khủng khiếp! Ở đây, ngay cả những người tự do cũng không dám nhắc đến chuyện đó. Cậu phải cẩn thận đấy, đừng hé răng gì cả. - Ông Ivanov nói rồi đưa Tsanka vào phòng riêng để khám. - Người nằm bên cạnh cậu, mới được đưa đến hôm qua... là tù hình sự, người của họ đấy. Hắn chẳng đau ốm gì cả. Cậu phải cẩn thận... Tình trạng của cậu, nói chung không nghiêm trọng nữa, nhưng cần phải điều trị kĩ lưỡng... Chỉ cần một cơn cảm lạnh là sẽ biến chứng phức tạp ngay.
Tsanka nằm trong phòng chung hơn nửa năm. Các bệnh nhân nằm cạnh thay đổi thường xuyên: người này đến, người kia đi, nhưng Tsanka không bắt chuyện thân mật với ai. Anh né tránh mọi người, giữ thái độ im lặng và phục tùng. Sức khỏe dần hồi phục, tăng cân, đã có sắc hồng trên đôi má, ánh mắt có sinh khí, sáng lên.
Vào đầu tháng Hai, người ta đột ngột chuyển Tsanka về tòa nhà cũ và lại đưa vào phòng riêng.
Giữa các tòa nhà có một khoảng sân rộng khoảng năm mươi mét. Tsanka không có áo lạnh, người ta quấn vào người anh một tấm chăn, xỏ đôi tất len dày. Mặc dù vậy, Tsanka vẫn cảm thấy lạnh cóng, gió thổi mạnh, cả người run bần bật. Nỗi lo sợ bị đưa về trại lại choán ngợp tâm trí Tsanka. Suốt đêm anh nằm trong căn phòng lạnh lẽo, trống trải, mắt mở thao láo. Đến sáng, vị bác sĩ điều trị cũ đến khám, ông lại đưa cái ống nghe lạnh ngắt lên những dẻ xương sườn nhô ra của Tsanka. Sau đó, vào lúc mười giờ, cán bộ an ninh Averbakh xuất hiện: bình thản, lạnh lùng, điếu thuốc gắn trên môi.
- Sao, công việc thế nào, anh Arachaev? - Với nụ cười chế giễu, Averbakh ngồi xuống ghế, mở cái cặp da sờn cũ ra, hỏi. - À, mà trông bên ngoài, anh đã khá lên rồi đấy... Giỏi lắm! - Averbakh lại ghi chép gì đó, rồi liếc xéo Tsanka một cái, một bên lông mày hếch lên. - Tất cả những gì anh ba hoa khai báo đều là chuyện nhảm nhí, nhưng anh biết im lặng.
Sau đó Averbakh còn hỏi thêm vài câu hỏi chung chung nữa, đi đi lại lại trong phòng, nhìn ra cửa sổ, rồi không quay đầu lại, hỏi tiếp:
- Arachaev, anh có muốn về nhà... hay quay lại chỗ cũ?
Tsanka chỉ cười mát, không nói gì cả.
- Tôi chưa nghe thấy câu trả lời của anh. - Averbakh quay đầu lại.
- Tôi muốn về nhà, - người tù khẽ đáp bằng một giọng cương quyết.
- Dĩ nhiên rồi... Nhưng để đạt được điều đó, anh phải làm một việc, - người cán bộ an ninh tiến sát lại, khẽ nói bằng một giọng mềm mỏng. - Điều quan trọng là phải biết im lặng. Im lặng ở mọi nơi, mọi lúc... Anh biết làm điều đó... Đúng không?
- Tôi có làm được hay không à? Nhưng làm gì?
- Nếu chúng tôi thả anh ra, anh sẽ về nhà như một công dân bình thường, không phải bận tâm về phương tiện đi lại, chuyển đổi tàu xe, kiểm tra giấy tờ. Anh chỉ việc ngồi lên tàu thủy ở Magadan, sau một tháng rưỡi là đến Novorossiysk, quê hương Kavkaz của anh. Từ đó đến ngôi làng của anh rất gần.
Tsanka chăm chú lắng nghe, không dám ngắt lời.
- Công việc của anh là mang theo hai chiếc va li. Đến cảng Novorossiysk, người ta sẽ lấy một chiếc. Đó là những chiếc va li bình thường, giống nhau y hệt... Nhân tiện, anh có đồ đạc gì không?
- Không có gì cả. - Tsanka vung tay.
- Vậy anh đồng ý chứ?
- Vâng ạ. - Đằng nào thì Tsanka cũng chẳng có sự lựa chọn nào khác.
- Thôi được rồi. Thuốc lá đây, hút đi... Sau này sẽ nói kĩ hơn.
Hai ngày sau, người ta mang đến cho Tsanka mấy bộ quần áo cũ nhưng còn khá tốt.
Tsanka hiểu ngay đó là những bộ quần áo được đưa đến từ các nhà tắm hơi ở Magadan. Rõ ràng là có những kẻ không may nào đó vừa phải bất đắc dĩ chia tay với bộ thường phục của mình.
Tsanka rất ngạc nhiên khi nhận ra điều đó không còn làm anh phải bận lòng nữa. Điều quan trọng là anh sẽ rời khỏi cái vùng đất đáng ghét này.
- Ngày kia, sẽ có người đến gặp anh. Tàu thủy rời bến vào giữa trưa.
Tsanka thay toàn bộ quần áo. Bộ quần áo mới như treo lụng thụng trên cái cơ thể gầy nhom của anh.
- Trông anh cũng giống người hơn rồi đấy, - Averbakh mỉm cười, - giấy tờ tùy thân ngày kia sẽ được nhận. Còn bây giờ anh sẽ gặp kế toán để nhận tiền công cho mấy năm vừa qua.
Người cán bộ an ninh thò đầu ra hành lang. Một ông già đeo kính bước vào, lôi ra giấy tờ gì đó.
- Anh ký vào đây, vào đây, vào đây nữa.
- Dĩ nhiên, số tiền này chẳng nhiều nhặn gì, anh Tsanka ạ, chỉ đủ trà thuốc và bánh kẹo cho phụ nữ, - Averbakh đùa, - nhưng trên tàu, anh sẽ có một ca bin riêng với mọi tiện nghi, và sẽ có người của chúng tôi để mắt đến anh. Anh có hỏi gì nữa không?
- Có ạ.
- Cái gì?
- Ngày mai tôi có thể ra ngoài một lát được không?
- Để làm gì?
- Chút việc riêng ạ.
- Ngày mai thì không được, còn hôm nay, cho đến trước giờ ăn chiều thì được... Chỉ có điều, anh chưa có giấy tờ tùy thân, khắp nơi đều có tuần tra đấy.
Cánh cửa chưa kịp khép lại sau lưng Averbakh, Tsanka đã vội lao đến chỗ bác sĩ.
- Xin anh hãy cho tôi biết, Tachiana Ivanovna đâu ạ? - Không kịp gõ cửa, Tsanka lao vào phòng bác sĩ, hỏi.
- Tachiana Ivanovna à? - Bác sĩ hỏi lại. - Cô ấy làm ca đêm ở nhà số năm, ban ngày cô ấy dạy ở trường học, cũng gần đây thôi, ở trên đồi ấy... Nhưng hôm nay là thứ bảy. Chắc anh cũng biết, cô ấy gặp chuyện không may. Dành dụm tiền để về nhà, nhưng bị cướp sạch.
Lần đầu tiên Tsanka được bước ra ngoài tự do trong bộ quần áo thường phục. Gió lạnh thổi hun hút, đường lên dốc rất trơn và vắng hoe. Làn gió băng giá như thiêu đốt hơi thở, chà rát mặt mũi và đôi tay trần. Khó khăn lắm Tsanka mới đến được trường học. Cửa đóng. Tsanka phải gõ mãi cuối cùng cánh cửa mới rít lên, mở ra. Không nói năng gì, Tsanka lao vào hành lang mang theo làn gió lạnh giá.
- Trường học không làm việc. Hôm nay là ngày nghỉ, - một ông già rụng hết răng nói rất nhanh.
Tsanka thở lấy hơi.
- Bác có biết cô giáo Tachiana Ivanovna Shukina sống ở đâu không ạ? - Cuối cùng anh mới thốt ra được.
- Thế anh là ai với cô ấy?
- Cháu à? Cháu là bệnh nhân của chị ấy... Chị ấy điều trị cho cháu ở quân y viện.
- Tên cậu là gì? - Ông già vẫn không chịu.
- Arachaev Tsanka ạ.
- Thôi được rồi. Cậu cứ đi nữa lên, qua trường, đến chỗ ngoặt đầu tiên thì rẽ trái, ngôi nhà thứ hai. Cô ấy trọ ở đấy.
Run lập cập vì lạnh, Tsanka đến đúng ngôi nhà được chỉ. Anh đẩy cửa. Cửa đóng. Anh gõ nhẹ, rồi gõ thêm lần nữa.
- Ai đấy? - Giọng ngực, mềm mại của Tachiana Ivanovna.
- Tachiana Ivanovna, tôi đây ạ, Arachaev đây.
- Ai, ai?
- Arachaev.
Cánh cửa vừa hé ra, chẳng cần phải đợi mời, Tsanka lách vào. Trong gian phòng ngoài toát lên mùi bắp cải muối và mùi chó.
- Chị tha lỗi, - Tsanka chỉ biết nói vậy và đập đập đôi tay tê cứng vào đùi.
- Không sao, không sao. Anh vào đi, một khi đã đến đây rồi thì vào đi. Anh cứ đi thẳng, đấy là phòng của tôi.
Xung quanh chật chội, hai bên tường xếp đầy các bao, thùng, bình gì đấy. Tsanka khom người lách qua và bước vào căn phòng nhỏ, tối.
- Anh ngồi xuống đây, - Tachiana Ivanovna chỉ vào thứ đồ gỗ duy nhất trong phòng là chiếc giường, còn bản thân thì vẫn đứng. - Anh uống trà chứ? - Tachiana cố gắng phá vỡ sự im lặng lúng túng. - Ấm lò ở chỗ chủ nhà... Tôi sẽ quay lại ngay.
Tsanka chỉ còn lại một mình. Anh quan sát bốn phía. Trên tường treo những bức tranh gì đó đã bạc màu, đầy vết cứt ruồi, các cạnh cong vênh vì thời gian. Tsanka cảm thấy hối tiếc vì đã đến đây, trong bụng rủa thầm vì sự yếu đuối của mình.
- Sức khỏe của anh thế nào rồi? - Tachiana Ivanovna quay lại với cốc trà bốc khói. - Không có đường, chỉ có vài viên kẹo thôi... Mời anh, uống đi. - Tachiana Ivanovna lôi từ dưới gầm giường ra một chiếc ghế đẩu cũ xiêu vẹo, đặt cốc trà lên, còn mình vẫn đứng cạnh cửa, hai tay xoắn vào nhau.
- Chị ngồi đi, ngồi đi. - Tsanka dịch sang một bên.
Vừa uống trà Tsanka vừa vắn tắt kể cho Tachiana Ivanovna nghe toàn bộ sự việc.
- Tôi mừng cho anh. Rất mừng cho anh. Còn tôi, hiện tại vẫn chưa đâu vào đâu cả. Hy vọng mùa hè này sẽ xong.
Tachiana Ivanovna mỉm cười, nhưng đằng sau nụ cười vẫn thấp thoáng nỗi buồn trong đôi mắt.
Uống hết cốc trà, Tsanka đứng dậy, Tachiana Ivanovna cũng đứng lên theo. Họ đứng bên nhau trong căn phòng hẹp, rất lâu, hơi thở phả vào mặt nhau.
- Gửi chị một ít để đi đường. - Cuối cùng Tsanka mới thốt lên, thọc tay vào túi lấy bọc tiền ra, để lên chiếc ghế đẩu.
- Cái gì thế? - Tachiana Ivanovna tức giận. - Không, không! Không được phép! Không thể như thế được! Cái gì thế?
- Chị đừng nóng, Tachiana Ivanovna ạ. Tôi biết chị vừa gặp chuyện không may, và tôi chỉ muốn giúp chị một chút thôi.
- Tôi không cần gì hết, không cần gì hết... Anh đừng xúc phạm tôi như vậy!
- Thôi đi, Tachiana Ivanovna ạ! Tôi xin chị! Sau này chị sẽ trả lại cho tôi. - Tsanka nắm lấy tay Tachiana Ivanovna, khẽ kéo lại.
Những cảm xúc bị quên lãng từ lâu chạy khắp cơ thể.
- Anh hãy cất đi, cất đi, - Tachiana Ivanovna thốt lên, đầu cúi xuống.
Mùi tóc của Tachiana Ivanovna tỏa vào mặt Tsanka. Một tình cảm trìu mến và xót thương người phụ nữ như bừng lên trong lòng. Tsanka khẽ kéo người phụ nữ lại gần hơn, không thấy có sự chống đối, anh đặt một nụ hôn vào trán, rồi vào má, và sau đó vào môi.
Sau này, khi đã ngồi trên tàu, lênh đênh trên chuyến du hành dài ngày qua các vùng biển cả và đại dương nóng bức, Tsanka thường nhớ lại rất chi tiết cuộc gặp đó. Điều kỳ lạ nhất đối với anh là trong mọi tình huống khác nhau, phong cách của Tachiana Ivanovna bao giờ cũng dịu dàng, duyên dáng và đầy đam mê. Ngay cả trong cái chốn hoang dã ấy mà Tachiana Ivanovna cũng toát lên sự thanh cao và tươi mới.
* * *
... Sau chuyến hành trình dài và mệt mỏi, cuối cùng con tàu cập bến Novorossiysk. Tiết trời mùa xuân ấm áp và tràn ngập nắng. Thang tàu được hạ xuống và hành khách nối đuôi nhau lên bờ.
Tsanka là một trong số những người đi sau cùng. Những ý nghĩ lo âu hành hạ anh suốt cả chuyến đi, giờ như lên đến đỉnh điểm. Tsanka co rúm người lại, hít thật sâu làn không khí biển khơi để cố kìm lại cơn run rẩy. Trong hai tay anh là hai chiếc va li bằng cac tông xám giống nhau y hệt. Chỉ có một chiếc là hơi nặng hơn một chút. Tsanka cố co tay lên, ép chặt khuỷu tay lại để che giấu sức nặng của nó.
Trên bến cảng, có mấy chiếc bàn gỗ kê ngay ngoài trời. Rất nhiều quân nhân đang kiểm tra hành khách.
- Anh kia, lại đây, - một người chỉ tay về phía Tsanka, giọng lạnh như thép.
Tsanka nhúc nhích đôi chân như không chịu nghe lời, bước đến gần bàn.
- Giấy tờ của anh.
Tsanka cố kìm lại sự run rẩy trên đôi tay, chìa giấy tờ ra. Người sĩ quan đọc rất kĩ, từng chữ một, lật qua lật lại tờ giấy. Tsanka như đứng tim nhìn người sĩ quan đang kiểm tra, đồng thời nhìn thấy ngay sau lưng mình khuôn mặt của người hành khách láng giềng trên boong tàu. Ánh mắt họ gặp nhau trong tích tắc rồi lướt qua.
- Cái gì trong va li? - Người kiểm tra phá vỡ sự im lặng.
- Đồ đạc ạ.
- Mời anh mở ra.
Tsanka loạy hoay mãi mới mở ra được.
- Cái gì thế này?
- Áo bành tô của tôi ạ... Hành lý của tôi...
- Được rồi... Thế còn trong va li kia? - Người sĩ quan hất đầu về phía chiếc va li thứ hai.
- Quần áo lót và một số đồ dùng khác... Có mở ra nữa không ạ? - Tsanka hăng hái.
- Thôi, thu dọn đồ đạc rồi đi đi.
Cố che giấu niềm vui sướng, Tsanka chậm chạp thu dọn chiếc va li, cất giấy tờ, loay hoay mãi cho đến khi những hành khách tiếp theo đẩy vào lưng. Tsanka chậm rãi bước trên bến cảng rộng, đặt hai chiếc va li xuống, châm thuốc hút.
- Anh là Arachaev? - Một người đàn ông đã có tuổi đến từ phía sau, hỏi, phát âm không chuẩn nguyên âm “r”.
- Vâng ạ.
- Có xe đang chờ anh. Để tôi giúp một tay.
Tsanka chưa bao giờ đi xe con. Tất cả có bốn người. Xe chạy rất lâu. Mọi người đều hút thuốc. Không ai nói gì cả. Cuối cùng họ rẽ vào sân một ngôi nhà biệt lập, hai người xách chiếc va li nặng vào nhà. Tsanka ngồi lại với lái xe. Hai mươi phút sau họ gọi Tsanka vào nhà. Trong hành lang, người ta giữ Tsanka lại.
- Cái này là của anh, - một bọc tiền lớn được đặt vào tay, Tsanka không nói gì, xoay xoay cọc tiền trong tay.
- Chỉ để một ít trong túi thôi, còn tất cả giấu kĩ đi. Bây giờ người ta sẽ chở anh đến một nơi. Anh sẽ nghỉ đêm ở đấy, còn sáng mai sẽ có xe đưa anh đến ga Kavkaz, anh sẽ đi tàu đến Grozny... Thôi, tạm biệt.
Buổi tối, sau khi uống hết một chai vodka, Tsanka thiếp đi ngay. Sáng hôm sau, người ta đánh thức anh dậy, đưa lên ca bin chiếc xe tải và chở đi. Con đường gập ghềnh, đầy bụi. Họ nói chuyện rất ít, chủ yếu về thời tiết, khí hậu.
- Anh có biết làng Giaginskaya của người Cozak nằm ở đâu không? - Đột nhiên Tsanka hỏi người lái xe.
- Đó là vùng Kuban... xa lắm. - Người lái xe kéo dài giọng, đáp. - Phải đi qua làng Belorechie... Có chuyện gì vậy?
- À, tôi chỉ hỏi thế thôi. - Tsanka ngẫm nghĩ. - Đến đấy mất bao lâu?
- Khoảng ba, bốn tiếng.
- Anh có thể đưa tôi đến đấy được không? Tôi chỉ dừng lại năm phút thôi.
- Ồ, không, không được đâu. Lệnh điều xe của tôi chỉ là ga tàu lửa Kavkaz và quay về.
Cả hai cùng im lặng, cùng hút thuốc. Xe vẫn tiếp tục chạy.
- Thế có chuyện gì ở đấy? - Người lái xe liếc xéo Tsanka, tò mò hỏi.
- Chuyện đàn bà ấy mà. - Tsanka đáp.
- À, à! Đàn bà, dĩ nhiên rồi, chuyện quan trọng đấy, nhưng anh cũng hiểu... - Người lái xe bỏ tay ra khỏi vô lăng, vung tay.
Hai người lại im lặng, lại ngẫm nghĩ. Sau đó Tsanka thọc tay vào túi, lấy tiền ra, đếm vài tờ, chìa cho lái xe. Người kia nhìn rất lâu, ngẫm nghĩ rồi hỏi:
- Anh ở đấy có lâu không?
- Không. Tôi chỉ cần mười phút.
- Mười phút thì anh kịp làm cái gì? - Bác tài người Ukraina bật cười.
- Kịp. - Tsanka cũng cười theo, đáp.
- Tình yêu à?
- Phải.
- Ôi, cuộc đời vẫn đẹp thật. Thôi được rồi, lên đường. Tôi sẽ bảo là xe bị hỏng.
Đến chiều họ mới tới làng Giaginskaya. Xe vào làng cùng với đàn gia súc của nông trang. Lũ trẻ chạy theo, cố leo lên thùng xe.
- Ai là chủ tịch nông trang ở đây? - Lái xe thò đầu ra khỏi ca bin hỏi người chăn gia súc.
- Ông Zapashny.
- Đến nhà ông ấy chứ? - Lái xe hỏi Tsanka, anh gật đầu.
- Ông ấy sống ở đâu?
- Các anh cứ đi thẳng. Ngôi nhà bên trái có mấy con gà trống trên mái là nhà ông ấy... Hiện giờ có thể ông ấy ở văn phòng nông trang.
Họ chạy đến ngôi nhà. Cách đó không xa, một đám thanh niên đang tụ tập trên bãi cỏ. Trên chiếc ghế dài có hai người đàn bà ngồi cắn hạt hướng dương. Dân chúng trên đường đều đổ dồn mắt vào chiếc xe.
- Đây có phải là nhà của ông Zapashny không? - Tsanka hỏi một bà.
- Phải đấy con trai ạ. Phải. - Cả hai bà cùng đồng thanh đáp.
- Con gái họ, cô Polina, có sống ở đây không ạ?
- Chắc là có. Con cứ gọi đi.
Tsanka mở cổng ra. Một con chó nhỏ chạy tới. Trên thềm, con mèo đang nằm khoanh cũng quay đầu lại. Phía sau nhà, thấp thoáng những chiếc tã lót đủ màu sắc trên sợi dây phơi bay phấp phới trong gió.
- Polina Matveevna, - Tsanka khẽ gọi.
Dân chúng ngoài đường vây quanh chiếc xe, nhìn vào ca bin, bàn tán ầm ĩ.
- Polina Matveevna, - Tsanka lại gọi lần nữa.
Một người đàn bà không còn trẻ, mập mạp hiện ra từ sau nhà.
- Chị Polina Matveevna có nhà không ạ? - Tsanka không để người đàn bà kịp lên tiếng, liền hỏi trước.
- Có, anh vào đi, nó sống ở đây, sau nhà kia. Con ơi, có người đi xe... đến hỏi con đấy. Còn anh là ai?
- Người quen thôi ạ.
Với sự hướng dẫn của người mẹ, Tsanka đi vòng qua ngôi nhà chính và nhìn thấy một phụ nữ to béo, đôi má đỏ hây hây, trên tay bế đứa con nhỏ.
- Chào chị.
- Chào anh, - Polina Matveevna ngạc nhiên nhìn Tsanka.
- Tôi được anh Andrei Moiseevich Bushman gửi đến. - Tsanka nói ngay.
- Ôi, thế à?! Từ chỗ anh Andrei?
Người phụ nữ to béo trở nên bối rối, đưa tay lên miệng.
- Anh ấy đâu? - Cuối cùng chị hỏi.
Tsanka đưa mắt về phía người mẹ.
- Mẹ ơi, mẹ bế cháu vào nhà hộ con. - Polina Matveevna vội nói và đưa con cho mẹ.
- Con trai hả? - Tsanka hỏi.
- Không. Con gái, - người phụ nữ đáp. - Thế anh Andriusha ở đâu?
- Ở nơi mà lẽ ra chị phải đợi anh ấy, - Tsanka khẽ nói.
- Thế là ở đâu? - Người phụ nữ ngạc nhiên.
- Ở Yakutsk.
- Anh ấy vẫn ở đấy cho đến tận bây giờ? - Người phụ nữ há miệng, hoảng sợ.
- Phải. Sao chị không chờ anh ấy?
- Tôi bị bệnh... tôi không thể... tôi mang thai mà. - Người phụ nữ thận trọng ngồi xuống chiếc ghế dài, có lẽ đôi chân không chịu nổi sức nặng của cơ thể to lớn. - Anh ấy thế nào rồi?
- Khó khăn lắm... Anh ấy cử tôi đến, bảo chị đưa cho tôi một nửa.
- Cái gì, một nửa? - Polina Matveevna như tỉnh ra.
- Một nửa cái số mà anh ấy đã đưa cho chị.
Polina Matveevna ngẫm nghĩ gì đó trong giây lát, đôi mắt vô hồn cứ nhìn mãi vào một điểm nào đó.
- Tôi đang vội, chị Polina Matveevna ạ. Xe công vụ của nhà nước đang đợi tôi ngoài kia.
- À, được rồi. Anh đợi tôi một lát. - Polina Matveevna nặng nhọc đứng lên, bước vào nhà, đầu óc vẫn còn nghĩ về điều gì đó.
Mười lăm phút sau, Polina Matveevna quay ra, đưa cho Tsanka một cái gói.
Tsanka nhét cái gói vào trong áo. Hơi lạnh ẩm ướt của nó chạy khắp cơ thể. Tsanka cảm thấy sức nặng của cái gói đè lên vai. Anh định trả lại cái gói cho người phụ nữ, nhưng Polina Matveevna đã hỏi:
- Tôi có thể viết thư cho anh ấy được không?
- Không được. Anh ấy sẽ viết cho chị.
- Anh ấy khỏe chứ?
- Vâng.
Đêm ấy Tsanka và bác tài phải ngủ lại trong nhà của một người Cozak bên ngoài làng Belorechie. Còn hai ngày sau, Tsanka đã về đến ngôi làng ruột thịt của mình trên hai chiếc xe ngựa. Tsanka ngồi trên chiếc xe đầu, tay cầm điếu thuốc dài, còn tay kia là chai rượu Cognac. Chiếc xe thứ hai chở đồ đạc, vải vóc, hai chai dầu lửa và rất nhiều quà cáp cho bà con họ hàng.
Tsanka đã về nhà.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét