Sông Đông Êm Đềm
Tác giả: Mikhail Sholokhov
Dịch giả: Nguyễn Thụy Ứng
Nhà Xuất Bản Văn Học - 2005 (xuất bản lần
thứ 6)
Phần VIII
16
Trái với những điều Grigori chờ đợi, mười
ngày sau lại có chừng bốn mươi tên Cô-dắc đến nhập bọn. Đó là những tên còn sót
lại của nhiều toán thổ phỉ đã bị đánh tan qua các trận chiến đấu. Sau khi mất
ataman, chúng hoạt động lang thang trong khu nên rất vui lòng đi theo Fomin. Đối
với chúng thì dứt khoát đằng nào cũng thế: làm tay sai cho kẻ nào cũng được, giết
ai cũng được, miễn là có khả năng sống cuộc đời lang bạt, tự do và cướp bóc tất
cả những người nào rơi vào tay chúng. Chúng thuộc về một hạng người hoàn toàn
không còn thuốc nào cứu chữa.
Có lần Fomin đã nhìn chúng và nói với
Grigori giọng khinh bỉ: “Chà cậu Melekhov ạ, đó là rác rưởi dạt tới chỗ chúng
ta chứ không phải là những con người... Toàn những thằng đáng bị treo cổ, chẳng
đứa nào kém đứa nào!”. Trong thâm tâm Fomin vẫn còn tự coi mình là “một người
chiến đấu cho nhân dân lao động”, và tuy không còn nói luôn miệng như trước nữa,
song hắn vẫn còn nói: “Chúng mình là những người giải phóng dân Cô-dắc...”. Hắn
vẫn mang dai dẳng những hy vọng ngu xuẩn... Hắn lại bắt đầu nhắm mắt làm ngơ
trước các hành động cướp bóc của các bạn chiến đấu, vì hắn cho rằng tất cả các
chuyện đó chỉ là một điều xấu không thể nào tránh được, cần phải nhân nhượng chịu
đựng, và chờ ít lâu nữa hắn sẽ có thể trừ khử được những thằng cướp bóc và sớm
hay muộn dù sao hắn cũng sẽ trở thành chủ tướng chân chính của những đơn vị khởi
nghĩa, chứ không chỉ là tên ataman của một bầy thổ phỉ nhỏ xíu...
Nhưng Trumakov thì không gượng nhẹ chút
nào, cứ gọi toạc móng heo tất cả những tên theo Fomin là “những thằng cướp”. Hắn
còn tranh cãi đến khản cổ, cố thuyết phục Fomin rằng chính hắn, Fomin này, cũng
chỉ là một thằng cướp đường không hơn không kém. Khi không có mặt những kẻ
khác, giữa hai tên thường nổ ra những cuộc cãi vã sôi nổi.
- Mình là một người chiến đấu có lý tưởng
chống Chính quyền Xô viết! - Fomin đỏ mặt tía tai vì tức tối, hắn quát lên. -
Thế mà cậu lại dùng cái tên quỉ quái gì ấy để gọi mình! Đồ ngu, cậu có hiểu rằng
mình đang chiến đấu cho một lý tưởng không?
- Thôi anh đừng lòe bịp tôi nữa! - Trumakov
cãi lại. - Anh đừng hòng làm ngu muội đầu óc tôi. Tôi không còn là một thằng
nhãi ranh nữa đâu! Lại kiếm được một ông có lý tưởng như thế này! Anh chính cống
là một thằng ăn cướp, và chẳng có gì hơn đâu! Nhưng tại sao anh lại sợ cái tên
gọi ấy nhỉ? Tôi chẳng làm thế nào hiểu được!
- Tại sao cậu lại làm nhục mình như thế? Tại
sao mồm miệng của cậu lại nói ra những chuyện chết người ấy? Mình chống lại
chính quyền, mình đã khởi nghĩa và cầm vũ khí đánh nhau với nó. Như vậy thì mình
là thằng ăn cướp cái kiểu gì?
- Anh là một thằng ăn cướp chính vì anh chống
lại chính quyền đấy. Những thằng ăn cướp, bao giờ chúng nó cũng chống lại chính
quyền, tự cổ chí kim đều như thế cả. Cái chính quyền Xô viết ấy, dù nó có thế
nào, song nó vẫn là một chính quyền, trụ được từ năm một nghìn chín trăm mười bảy
đến nay, và kẻ nào chống lại nó thì kẻ ấy là thằng ăn cướp.
- Cái đầu óc của cậu thật là rỗng tuếch? Thế
các ông tướng Krasnov hay Denikin, các ông ấy cũng là những thằng ăn cướp à?
- Nếu không thì là gì? Chỉ khác một điều có
đeo lon thôi... Nhưng lon chỉ là chuyện vặt. Tôi và anh cũng có thể đeo lon được.
Fomin đấm tay xuống bàn, nhổ toẹt bãi nước
bọt, nhưng không tìm đâu ra lý lẽ có sức thuyết phục, đành chấm dứt cuộc tranh
cãi chẳng đi đến đâu. Thuyết phục Trumakov về điều gì thường là việc không ai
làm nổi.
Phần lớn những tên mới đi theo bầy thổ phỉ
đều có vũ khí và quần áo đầy đủ. Hầu hết đều cưỡi những con ngựa tốt, đã quen với
những chặng hành quân liên miên và có thể dễ dàng chạy mỗi ngày hàng trăm
vec-xta. Một số tên còn có hai con ngựa: một con để cưỡi, còn một con gọi là ngựa
dự phòng thì chạy không bên cạnh chủ. Những khi cần thiết, chúng có thể chuyển
từ con này sang con khác, cho hai con ngựa thay nhau nghỉ. Một tên có hai con
ngựa có thể vượt chừng hai trăm vec-xta trong một ngày đêm.
Một hôm Fomin nói với Grigori:
- Nếu ngay từ đầu bọn mình có mỗi thằng hai
con ngựa thì quỉ dữ cũng chẳng làm thế nào đuổi nổi chúng mình! Bọn dân cảnh và
các đơn vị Hồng quân thì không lấy ngựa của dân chúng được vì chúng ngại không
dám làm như thế, còn anh em mình thì tất cả mọi việc đều có thể làm được! Mỗi
thằng chúng mình phải kiếm thêm một con ngựa mới được, khi đó chúng nó sẽ đừng
hòng đuổi bắt! Các cụ có kể lại rằng thời xưa có quân Tarta, những khi chúng nó
đi tập kích, mỗi thằng thường có hai, có khi ba con ngựa đem theo. Những thằng
như thế thì ai mà đuổi theo được? Chúng ta cũng phải làm theo kiểu ấy. Mình rất
thích cái mẹo khôn ngoan của bọn Tarta.
Chẳng bao lâu bọn chúng đã kiếm được ngựa,
vì thế trong thời gian đầu, điều kiện ấy đúng là đã làm đối phương không tài
nào đuổi theo được chúng. Một đội dân cảnh cưỡi ngựa mới thành lập lại ở
Vosenskaia đã cố truy đuổi chúng mà không được. Tuy bầy thổ phỉ của Fomin ít
người, song những con ngựa dự bị đã giúp chúng dễ dàng bỏ rơi quân địch và bứt
lên phía trước đến mấy chặng đường, tránh được những cuộc chạm trán mạo hiểm.
Nhưng đến trung tuần tháng Năm, đội dân cảnh
trên, với quân số gần gấp bốn bầy thổ phỉ, đã dùng mưu dồn được Fomin tới sát
sông Đông ở thôn Bobrovsky thuộc trấn Ust- Khopeskaia. Tuy vậy, sau một trận
chiến đấu ngắn ngủi, bọn thổ phỉ vẫn chọc thủng được vòng vây và tháo chạy theo
bờ sông, chết và bị thương mất tám tên.
Sau lần đó ít lâu Fomin đề nghị Grigori làm
tham mưu trưởng.
- Chúng ta cần có một người hiểu biết để
hành động theo kế hoạch, theo bản đồ, nếu không sẽ có lúc bị chúng nó dồn vào
thế bí và bị ăn đòn thôi. Anh Grigori Pantelevich ạ, anh hãy nhận lấy công việc
ấy đi.
- Muốn tóm cổ bọn dân cảnh và chém đầu
chúng nó thì không cần phải có tham mưu tham miếc gì đâu. - Grigori trả lời với
vẻ mặt âm thầm.
- Bất kỳ đội quân nào cũng cần phải có ban
tham mưu của mình, cậu đừng nói lung tung.
- Nếu cậu không thể sống mà không có ban
tham mưu thì cứ lấy Trumakov làm việc ấy cũng được.
- Nhưng tại sao cậu lại không muốn?
- Mình chẳng hiểu gì về công việc này đâu.
- Còn Trumakov thì hiểu hay sao?
- Cả Trumakov cũng chẳng hiểu gì.
- Nếu vậy thì cậu nhét thằng ấy cho mình
làm cái của nợ gì? Cậu là sĩ quan thì phải có kiến thức, phải biết chiến thuật
và mọi trò khác chứ?
- Mình mà là sĩ quan thì cũng như cậu bây
giờ làm chỉ huy đội thôi! Còn chiến thuật thì chúng ta chỉ có một chiến thuật
duy nhất: chạy quanh chạy quẩn khắp đồng cỏ và ngoái đầu lại cho nhiều... -
Grigori nói giọng châm biếm.
Fomin nháy mắt với Grigori và giơ ngón tay
đe dọa:
- Mình đi guốc trong bụng cậu rồi! Cậu muốn
lẩn tránh cho yên thân phải không? Cậu muốn lui vào trong bóng tối có phải
không? Người anh em ạ, cái trò ấy cũng không cứu được cậu đâu! Trung đội trưởng
hay tham mưu trưởng thì cũng một giuộc. Cậu tưởng nếu thế sau này bị chúng nó bắt
thì sẽ được nhẹ tội có phải không? Cứ chờ đấy mà xem.
- Mình không nghĩ gì về chuyện ấy, cậu đoán
già đoán non như thế không đúng đâu. - Grigori nói nhưng mắt cứ dán xuống cái
dây ngù của thanh gươm. - Còn việc gì mà mình không biết thì mình không nhận
làm.
- Cũng được thôi, cậu không muốn cũng chẳng
sao, không có cậu bọn mình vẫn có cách giải quyết. - Fomin bực bội đồng ý.
Hồi này tình hình trong khu đã thay đổi hẳn:
trước kia Fomin đến nhà những tên Cô-dắc có của ăn của để thì ở đâu hắn cũng được
tiếp đón rất hậu hĩ, nhưng bây giờ bọn kia đã cài chặt then cửa, và hễ thấy bầy
thổ phỉ xuất hiện trong thôn là các chủ nhà đều bỏ chạy và trốn trong các mảnh
vườn hay các cánh rừng chung quanh thôn.
Tòa án cách mạng lưu động dến Vosenskaia lập
phiên tòa đã kết án nghiêm khắc nhiều tên Cô-dắc trước kia ân cần tiếp đón
Fomin. Tin ấy được truyền đi rộng rãi ra các trấn và đã có tác động thích đáng
tới đầu óc của những kẻ công khai tỏ thái độ đồng tình với bọn thổ phỉ.
Trong hai tuần Fomin đã chu du một vòng rất
rộng qua tất cả các trấn của vùng Đông Thượng. Bầy thổ phỉ đã có gần một trăm
ba mươi tay gươm. Song đuổi sát gót chúng không còn là một nhóm kỵ binh tổ chức
vội vã mà là nhiều đại đội thuộc trung đoàn kỵ binh Mười ba điều từ miền Nam
lên.
Những ngày gần đây, những tên mới chạy theo
Fomin phần lớn đều có nguyên quán ở những nơi xa. Chúng đã mò tới vùng sông
Đông bằng nhiều con đường khác nhau: một số tên đã lẻ tẻ bỏ chạy trong khi bị
áp giải hoặc trốn khỏi những nhà tù, trại tập trung, nhưng phần chủ yếu của
nhóm này gồm những toán chừng vài chục tay gươm mới tách ra khỏi bầy thổ phỉ
Maxlak và cũng có những tên sống sót của toán thổ phỉ Kurotkin vừa bị đánh tan.
Những tên thuộc toán Maxlak cũ sẵn sàng chịu để phân tán và có mặt ở tất cả các
trung đội, còn những tên trước kia theo Kurotkin thì không muốn bị xé lẻ. Cả bọn
chúng đã được biên chế thành một trung đội riêng, có tổ chức rất chặt chẽ và có
phần tách biệt với tất cả những tên khác. Cả trong chiến đấu lẫn trong lúc nghỉ
ngơi, chúng đều hành động rất đoàn kết, đứa nọ dựa vào đứa kia. Mỗi khi cướp một
cửa hiệu của hợp tác xã cung tiêu thống nhất hay một cái kho nào, chúng kiếm
chác được gì đều đổ tất cả vào cái nồi chung của trung đội và chia rất đều các
của cướp được, hết sức giữ đúng nguyên tắc bình quân.
Vài tên Cô-dắc vùng sông Cherek và sông
Kuban với những chiếc áo trec-ket rách tả tơi, hai thằng Kalmys người trấn
Velikoniazirskaia, một gã Ladvia với đôi ủng thợ săn ống cao đến đùi và năm thằng
thủy binh vô chính phủ mặc áo lót vằn và những cái áo vải buồm bạc phếch vì dãi
nắng càng tăng thêm cái vẻ linh tinh bát nháo của bầy thổ phỉ Fomin vốn dĩ đã
có một thành phần phức tạp, ăn mặc lung tung đủ mọi kiểu.
- Nào, bây giờ thì anh còn cãi rằng những
thằng theo anh không phải là những thằng cướp nữa hay thôi? Thế những thằng
này, chúng nó... là những chiến sỹ có lý tưởng phải không? - Một hôm Trumakov
nói với Fomin vừa đưa mắt chỉ các đội hình hành quân hàng dọc kéo dài lê thê. -
Chỉ còn thiếu một thằng thầy tu phá giới và một con lợn mặc quần là đủ nhân vật
cho một đoàn phường tuồng rồi còn gì...
Fomin lặng thinh. Nguyện vọng duy nhất của
hắn là tập hợp chung quanh hắn càng nhiều quân càng hay. Trong lúc nhận những
tên tình nguyện, hắn không cần tính toán một hai gì cả. Hễ có kẻ nào tỏ ý muốn
chịu quyền chỉ huy của hắn, hắn đều đích thân hỏi han rồi nói gọn lỏn:
- Anh có đủ điều kiện đi lính đấy. Tôi đồng
ý nhận anh. Anh hãy đến gặp tham mưu trưởng của tôi là Trumakov. Ông ấy sẽ cho
anh biết anh được phân vào trung đội nào và sẽ phát vũ khí cho anh.
Tại một thôn của trấn Migulinskaia, bọn thổ
phỉ dẫn tới trước mặt Fomin một thằng thanh niên tóc xoăn, da ngăm ngăm, ăn vận
rất diện. Tên này tỏ ý muốn đi theo bầy thổ phỉ. Sau khi hỏi han, Fomin được biết
rằng gã này là dân Rostov, gần đây bị kết án vì tội ăn cướp có vũ khí, nhưng nó
đã trốn khỏi nhà tù Rostov và sau khi nghe tiếng Fomin nó đã mò đến vùng thượng
lưu sông Đông.
- Anh là người dân tộc gì thế? Armeni hay
Bungari? - Fomin hỏi.
- Không, tôi là người Do Thái. - Thằng kia
ngập ngừng một lát rồi trả lời.
Vấn đề nẩy ra quá đột ngột làm Fomin luống
cuống đứng đực ra giờ lâu, không hiểu trong trường hợp bất ngờ như thế này thì
nên giải quyết ra sao. Hắn nặn óc mãi rồi thở dài thườn thượn và nói:
- Thôi cũng được, không sao cả. Do Thái thì
Do Thái. Chúng tôi không chê... Dù sao thêm một người cũng là đông hơn một
chút. Nhưng anh có biết cưỡi ngựa không? Không biết à? Tập thì sẽ biết! Đầu
tiên chúng tôi sẽ phát cho anh một con ngựa cái dễ cưỡi một chút, rồi anh sẽ cưỡi
được. Anh hãy lại chỗ Trumakov, ông ấy sẽ phân cho anh về đơn vị.
Chỉ vài phút sau Trumakov đã phi ngựa tới
chỗ Fomin. Hắn tức như điên:
- Anh đã biến thành một thằng dở hơi hay muốn
giở trò đùa đấy hử? - Hắn ghìm ngựa, quát lên. - Anh tống một thằng Do Thái đến
chỗ tôi làm cái quái gì thế? Tôi không nhận đâu! Hãy tống cố mẹ nó đi đâu thì
đi!
- Cậu cứ nhận lấy, cứ nhận lấy nó, dù sao
cũng làm tăng quân số. - Fomin nói giọng thản nhiên.
Nhưng Trumakov gầm lên, sùi cả bọt mép:
- Tôi không nhận! Tôi sẽ giết nó, chứ không
nhận đâu! Bọn Cô-dắc đã làm ầm lên rồi kia kìa, anh hãy ra mà lấy lại trật tự
cho chúng nó!
Trong lúc hai tên còn đang tranh cãi giằng
co với nhau, thì bên cạnh chiếc xe bốn bánh chở đồ, thằng thanh niên Do Thái đã
bị lột mất cái áo sơ-mi thêu và chiếc quần nỉ ống loe. Một gã Cô-dắc vừa ướm thử
chiếc sơ-mi vừa nói:
- Kia kìa, mày có trông thấy bên ngoài thôn
có bụi ngải cứu già kia không? Mày hãy quàng chân lên cổ chạy ra đấy và nằm xuống.
Mày sẽ nằm đấy cho đến khi chúng ông rời khỏi chỗ này. Chúng ông đi rồi thì mày
sẽ được đứng dậy và xéo đi đâu thì xéo. Đừng bao giờ vác mặt đến chỗ chúng ông
nữa, chúng ông thì giết. Cút ngay về Rostov với mẹ thì tốt hơn. Đánh đấm không
phải là việc của bọn Do Thái chúng mày. Đức Chúa trời chỉ dạy chúng mày buôn
bán chứ chưa dạy chúng mày đánh nhau. Không có chúng mày, tự chúng ông cũng làm
xong mọi việc, cũng sẽ gỡ xong cái mớ bòng bong này.
Thằng Do Thái không được nhận, nhưng ngay
hôm ấy trong những tiếng cười và những lời pha trò, bọn thổ phỉ đã ghép thằng dở
người Pasa nổi tiếng khắp các thôn của trấn Vosenskaia vào quân số của trung đội
hai. Bọn chúng bắt được nó trên đồng cỏ bèn giải về thôn rồi long trọng mặc cho
nó tất cả những thứ lột trên xác một chiến sỹ Hồng quân bị giết, lại còn bày
cho nó cách bắn súng trường và dạy nó rất lâu cách sử dụng thanh gươm.
Grigori đang đi tới chỗ hai con ngựa của
chàng buộc ở cọc buộc ngựa thì thấy ngay cạnh đấy có một đám xúm đông xúm đỏ
bèn bước tới. Những tiếng cười rộ lên từng đợt bắt chàng phải rảo bước, nhưng khi
tất cả đã lặng đi, chàng nghe thấy cái giọng căn dặn cặn kẽ, từ tốn của không
biết tên nào:
- Không phải như thế đâu, Pasa ạ! Ai lại
chém như thế? Bổ củi thì có thể làm như thế được, chứ chém người thì không thế
được đâu. Phải làm như thế này này, đã hiểu chưa? Hễ cậu tóm cổ được đứa nào
thì phải lập tức ra lệnh cho nó quì xuống, vì để nó đứng mà chém thì không tiện...
Khi nó đã quì xuống rồi, cậu sẽ đứng sau lưng nó mà chém vào cổ nó như thế này
này. Cố đừng chém thẳng, mà phải giật một cái về phía mình, để lưỡi gươm chếch
xuống.
Giữa những tên thổ phỉ vây vòng trong vòng
ngoài, thằng dở người đứng thẳng đườn đưỡn, hai tay nắm khư khư cái cán thanh
gươm tuốt trần. Nó mỉm cười nghe những lời chỉ bảo của gã Cô-dắc, cặp mắt xám
hum húp nheo lại sung sướng. Hai bên mép nó sủi trắng như mõm ngựa, nước rớt nước
rãi chảy ròng ròng từ bộ râu đỏ như màu đồng xuống ngực nó... Nó liếm cặp môi
nhớp nhúa rồi chít chớt nói ngọng nghịu:
- Tôi hiểu hết rồi, người anh em thân mến ạ,
hiểu tất cả rồi... Tôi sẽ làm đúng như thế... Tôi sẽ bắt thằng nô lệ của Thượng
đế quì xuống rồi thiến cổ nó đi... tức là sẽ thiến cổ nó đi! Các anh đã cho tôi
nào quần, nào áo sơ-mi, nào ủng. Nhưng tôi cần có áo bành-tô... Nếu các anh cho
tôi một cái áo bành-tô, tôi sẽ làm vừa ý các anh! Tôi sẽ đem hết sức phục vụ!
- Cậu hãy khử một thằng chính ủy nào đó rồi
sẽ có áo bành-tô. Nhưng bây giờ cậu hãy kể chuyện năm ngoái người ta lấy vợ cho
cậu như thế nào đã. - Một gã Cô-dắc bảo nó.
Một vẻ hoảng hốt như của loài thú vật bỗng
hiện lên trong cặp mắt của chàng dở hơi, hai con mắt mở trừng trừng như phủ một
lớp màng vẩn đục. Nó văng tục một thôi một hồi rồi bắt đầu nói không biết những
gì giữa tiếng cười rộ của cả bọn. Tất cả cái cảnh tượng ấy đáng tởm đến nỗi
Grigori run lên, vội vã bỏ đi.
“Mình đã đem vận mệnh của mình gắn liền với
những thằng như thế này đây!” - Chàng nghĩ thầm, trong lòng tràn ngập một nỗi
buồn bực, đau khổ và phẫn uất với chính mình, đối với toàn bộ cuộc sống ô nhục
này...
Chàng nằm xuống bên cạnh những cái cọc buộc
ngựa, cố tránh không muốn nghe những tiếng kêu của thằng ngớ ngẩn và tiếng cười
ầm ĩ của bọn Cô- dắc. “Ngày mai mình sẽ bỏ đi. Đã đến lúc rồi!” - Chàng vừa quyết
định như thế vừa ngắm hai con ngựa béo tốt, đã hoàn toàn lại sức của mình.
Chàng chuẩn bị rời bỏ bầy thổ phỉ một cách tỉ mỉ, có tính toán kỹ càng. Trên
xác một người dân cảnh bị chém chết, chàng lấy được những tờ giấy chứng minh
mang cái tên là Usakov rồi đem khâu vào trong lần lót áo ca-pốt. Từ hai tuần
trước chàng đã bắt đầu sửa soạn cho hai con ngựa chạy được một chặng ngắn hết sức
nhanh. Chàng cho chúng uống nước đúng giờ, tắm chải cho chúng cẩn thận hơn cả hồi
đi lính trong quân đội thường trực, và hễ đến chỗ nghỉ đêm là dùng đủ mọi cách
chính đáng cũng như không chính đáng để kiếm cho ra thóc. Vì thế cặp ngựa của
chàng nom đẹp hơn tất cả những con khác, đặc biệt là con ngựa xám đốm tròn giống
Tavria. Toàn thân nó bóng nhẫy, lông nó nhoáng lên dưới nắng như thứ bạc đen của
vùng Kavkaz.
Cưỡi những con ngựa như thế này thì có thể
can đảm tháo chạy trước mọi cuộc truy bắt. Grigori đứng dậy bước tới căn nhà gần
đấy.
Chàng lễ phép hỏi bà già ngồi trên ngưỡng cửa
nhà thóc.
- Cụ có cái hái không thưa cụ?
- Cũng có đấy. Nhưng ôn dịch nào biết được
nó ở đâu rồi. Nhưng anh hỏi làm gì thế?
- Cháu muốn cắt ít cỏ trong vườn quả nhà cụ
cho hai con ngựa. Có được không cụ?
Bà già ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Thế bao giờ các anh mới thôi không ngồi
lên đầu lên cổ chúng tôi nữa? Lúc thì đòi cái này, lúc thì đòi cái kia... Bọn
này kéo đến đòi thóc, bọn kia kéo đến lại vơ vét tất cả những thứ gì nhòm ngó
thấy. Tôi không cho anh mượn cái hái đâu! Anh muốn thế nào thì muốn, chứ tôi
không cho mượn đâu.
- Sao lại thế, bà cụ, chỉ có ít cỏ mà cụ
cũng tiếc hay sao?
- Thế chẳng nhẽ theo anh thì cỏ nó từ chỗ vô
thiên vô địa mọc lên đấy chắc? Rồi tôi sẽ lấy gì cho bò ăn bây giờ?
- Trên đồng cỏ thì thiếu gì cỏ?
- Vậy thì anh cứ ra ngoài ấy mà lấy, con
chim ưng này. Ngoài đồng cỏ nhiều lắm.
Grigori nói giọng bực bội:
- Bà cụ ạ, tốt nhất cụ hãy cho tôi mượn cái
hái thì hơn. Tôi chỉ cắt một ít thôi, còn thì để cho cụ, nếu không tôi mà cho mấy
con ngựa vào thì chúng nó sẽ dẫm nát hết cho mà xem.
Bà già nhìn Grigori với ánh mắt rất gay gắt
rồi quay đi.
- Anh tự vào trong ấy mà lấy, hình như dưới
nhà kho ấy.
Grigori xuống nhà kho tìm thấy dưới mái
hiên một cái hái cũ đã hoen rỉ và đến khi qua chỗ bà lão ngồi, chàng nghe rất
rõ thấy cụ nói: “Cái bọn đáng nguyền rủa, sao chúng mày chẳng chết tử chết tiệt
cả đi!”. Grigori vẫn chưa quen với những chuyện như thế này. Từ lâu chàng đã nhận
thấy rằng dân chúng các thôn đón tiếp bầy thổ phỉ của chàng với tinh thần như
thế nào: “Kể ra họ nghĩ cũng đúng. - Chàng vừa nghĩ thầm vừa vung cái hái rất cẩn
thận, cố cắt thật gọn không để sót chỗ nào. - Họ cần đến bọn mình làm quái gì?
Chẳng có ai cần đến bọn mình. Bọn mình quấy nhiễu tất cả mọi người, không để
cho họ yên ổn sinh sống làm ăn. Phải chấm dứt cái trò này thôi, đủ lắm rồi!”
Đầu óc chìm trong những ý nghĩ của mình,
chàng đứng bên cạnh hai con ngựa, nhìn chúng đưa những cặp môi đen mịn như
nhung ngốn lấy ngốn để những nắm cỏ non mịn màng. Một giọng trầm trầm đang vỡ
tiếng của một thằng chưa thành niên bỗng kéo chàng ra khỏi những phút trầm
ngâm.
- Con ngựa đẹp ra đẹp, thật y như con thiên
nga!
Grigori nhìn về phía có tiếng nói. Một thằng
Cô-dắc còn trẻ. Dân Alekseevkaia vừa đi theo bầy thổ phỉ chưa được bao lâu đang
ngắm con ngựa xám, đầu lắc lắc một cách thán phục. Nó chặc chặc lưỡi đi quanh
con ngựa như bị lấy hết hồn vía.
- Của bác đấy à?
- Nhưng việc gì đến mày? - Grigori trả lời
một cách thô bạo.
- Bác đổi cho cháu nhé! Cháu có một con hạt
dẻ, thuần giống sông Đông. Vật chướng ngại nào nó cũng vượt qua được, mà chạy
thì rất nhanh, nhanh ra nhanh! Cứ như tia chớp ấy.
- Cút mẹ mày đi! - Gìọng Grigori lạnh như
tiền.
Thằng kia nín lặng một lát, thở dài đau khổ
ra ngồi gần đấy. Nó ngắm con ngựa xám rất lâu rồi nói:
- Con ngựa của bác thở to quá. Nghe cứ
vương vướng thế nào đấy.
Grigori lặng thinh cầm một cuộng cỏ xỉa
răng. Chàng bắt đầu thấy thích thằng thiếu niên ngây thơ này.
- Bác không muốn đổi hả bác? - Nó nhìn
Grigori bằng cặp mắt van lơn, khẽ hỏi.
- Không đổi đâu. Đem cả mày ra cược thêm
tao cũng không đổi.
- Nhưng bác kiếm đâu ra con ngựa này thế?
- Tự tao làm ra nó đấy.
- Không, nhất định không phải thế!
- Tất cả mọi thứ đều chui từ cái cửa ấy ra
hết: ngựa mẹ lại đẻ ra ngựa con.
- Tự nhiên lại thừa hơi nói chuyện với một
thằng ngu xuẩn như thế này. - Thằng thiếu niên bực mình bỏ đi chỗ khác.
Cái thôn nằm dài trước mặt Grigori, vắng ngắt
và như đã chết rét.
Ngoài bọn lâu la của Fomin, bốn bề chẳng thấy
một ma nào. Chiếc xe bò nằm chỏng gọng trong ngõ, cái bệ bổ củi giữa sân với
chiếc rìu cắm vội trên đó và vài tấm ván đẽo dở nằm dài bên cạnh, vài con bò mộng
không có người chăn lười nhác rứt những đám cỏ thấp lè tè mọc giữa đường phố,
chiếc thùng lật ngược bên cạnh khung thành giếng, tất cả đều nói lên rằng cuộc
sống hòa bình trong thôn đang trôi như một dòng nước thì bất thần bị phá rối và
những người chủ nhà đã vứt bỏ công việc đang làm dở để lẩn trốn vào nơi nào đó.
Cái cảnh thê lương này, Grigori đã từng thấy
hồi các trung đoàn Cô-dắc tiến qua miền Đông Phổ. Nhưng bây giờ chàng lại chứng
kiến cái cảnh ấy ngay trên mảnh đất thân yêu... Hồi ấy người dân Đức đã đón tiếp
chàng với những cặp mắt âm thầm và căm hờn như thế nào thì dân Cô-dắc vùng thượng
lưu sông Đông cũng nhìn chàng với những cặp mắt như thế. Nhớ lại chuyện vừa nói
với bà già, Grigori cởi khuy cổ chiếc áo sơ-mi, buồn rầu đưa mắt nhìn quanh. Và
tim chàng lại bị một cơn đau nhói đáng nguyền rủa.
Mặt đất bị rang bỏng dưới nắng. Trong ngõ nồng
nặc mùi bụi nhạt thếch, mùi tân lê và mùi mồ hôi ngựa. Trong những vườn quả bên
cạnh thôn, có tiếng quạ kêu quang quác trên những cây liễu cao đầy những tổ
chim lờm xờm. Con sông nhỏ trên đồng cỏ được tiếp nhận những luồng nước nguồn ở
nơi nào đó trên thượng lưu, từ từ chảy qua thôn, cắt cái thôn làm hai. Những
ngôi nhà Cô-dắc rộng thênh thang như trườn tới hai bên bờ, nhà nào nhà nấy đều
có những mảnh vườn rậm rạp với những cây anh đào che các cửa sổ, những cây táo
cành đâm ngang dọc, vươn lên ánh sáng những đám lá xanh rờn và lớp quả non mới
nhú.
Grigori đưa cặp mắt như phủ một lớp mù nhìn
cái sân mọc đầy cỏ dại loăn xoăn, căn nhà mái rơm với những cửa chớp sơn vàng,
cái cần kéo nước giếng cao ngất... Bên cạnh sân đập lúa có một cái sọ ngựa cắm
trên cái cọc của dãy hàng rào cũ. Cái sọ được nước mưa rửa trắng bong, với hai
hố con mắt sâu hoắm đen ngòm. Một dây bí ngô leo trôn ốc lên đúng cái cọc ấy, cố
vươn lên ánh sáng. Dây lá leo lên tới đầu cọc, vươn những cái tay lồm xồm bám
vào những chỗ xương lồi ra, vào những cái răng của con ngựa chết, ngọn bí quá
dài thòng xuống tìm chỗ bám và vươn tới một bụi tuyết cầu mọc ở gần đấy.
Tất cả những cái ấy Grigori đã từng nhìn thấy,
trong giấc mơ hay hồi còn thơ ấu? Bất thần bị tràn ngập bởi một cơn đau khổ buồn
nhớ, chàng phải nằm sấp xuống dưới chân dãy hàng rào, đưa hai tay úp lên mặt và
chỉ đứng dậy khi từ xa có tiếng hô kéo dài: “Thắng ngư-ư-ựa!”. Đến đêm, trong
khi hành quân, chàng ra khỏi hàng, dừng lại như để sửa lại cái yên cho con ngựa.
Chàng lắng nghe những tiếng vó ngựa rầm rập xa dần, nhỏ dần rồi nhảy phắt lên
yên cho con ngựa phóng nước đại sang bên cạnh con đường.
Chàng thúc ngựa chạy một mạch chừng năm
vec-xta rồi cho nó chuyển sang bước một, lắng nghe xem phía sau có ai đuổi theo
không? Đồng cỏ vẫn lặng tờ. Chỉ có vài con dẽ giun gọi nhau ai oán trên những cồn
cát và ở chỗ nào xa lắm, xa lắm vẳng có tiếng chó sủa.
Bầu trời đen kịt lấm tấm những ngôi sao nhấp
nhánh vàng óng. Trên đồng cỏ chỉ có bầu không khí tĩnh mịch và làn gió nặc mùi
ngải cứu hắc hắc thân yêu... Grigori rướn người trên bàn đạp, hít một hơi đầy lồng
ngực, nhẹ nhõm cả người...
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét