Sông Đông Êm Đềm
Tác giả: Mikhail Sholokhov
Dịch giả: Nguyễn Thụy Ứng
Nhà Xuất Bản Văn Học - 2005 (xuất bản lần
thứ 6)
Phần VI
61
Chỉ trong một ngày, tất cả các đơn vị của
quân phiến loạn và dân chạy nạn đã được đưa sang bờ bên trái sông Đông. Các đại
đội kỵ binh của trung đoàn trấn Vosenskaia thuộc sư đoàn Một của Grigori
Melekhov sang sau cùng.
Cho đến lúc hoàng hôn xuống, Grigori đã
cùng mười hai đại đội kỵ binh tinh nhuệ ngăn chặn sức tấn công của sư đoàn Hồng
quân Kubanskaia số 33. Khoảng năm giờ thì nhận được thông tri của Kudinov cho
biết các đơn vị quân đội và dân chạy nạn đã được đưa sang sông. Mãi lúc đó
chàng mới ra lệnh rút lui.
Theo kế hoạch đã thảo từ trước, từng đại đội
quân phiến loạn thuộc vùng ven sông Đông phải sang sông rồi bố trí đại đội của
thôn nào ngay trước mặt thôn ấy. Đến giữa trưa thì bộ tư lệnh bắt đầu nhận được
báo cáo của các đại đội. Phần lớn các đại đội ấy đã bố trí xong dọc theo bờ bên
trái trước mặt thôn của mình.
Ở các nơi có thừa những khoảng cách giữa
các thôn, bộ tư lệnh đã điều tới đó những đại đội của dân Cô-dắc dải đồng cỏ
ven sông. Các đại đội kỵ binh Krugilinskaia, Marxaevo, Xighinskaia,
Karginskaia, các đại đội kỵ binh Latysepskaia, Likhovidovskaia, và Grachevskaia
chiếm lĩnh các khoảng cách giữa Pegarevskaia, Vosenskaia, Lebirgiensky,
Karanoiasky. Các đại đội còn lại thì rút về hậu phương, tới các thôn vùng bên
kia sông Đông, Dubrovka, Cher, Gorokhovka, và theo ý kiến Xafonov, sẽ phải được
tổ chức thành một đội dự bị mà bộ tư lệnh sẽ cần đến trong trường hợp quân địch
chọc thủng mặt trận.
Mặt trận của quân phiến loạn kéo dài một
trăm năm mươi véc-xta trên bờ bên trái sông Đông từ các thôn đầu phía tây của
trấn Kazanskaia tới Ust-Khopeskaia.
Sau khi sang sông, quân Cô-dắc chuẩn bị tiến
hành chiến tranh trận địa: chúng vội vã đào ngay chiến hào, chặt và cưa những
cây tiêu huyền, liễu, sồi để làm những hầm ẩn nấp và ổ súng máy. Tất cả những
cái túi không đựng gì lấy được của dân chạy nạn đều được đổ đầy cát và xếp
thoai thoải thành ụ phía trước một tuyến chiến hào kéo dài liên miên.
Trước khi trời tối, tất cả các nơi đều đã
đào xong chiến hào. Hai đại đội pháo số 1 và số 3 của quân phiến loạn ngụy
trang trong những khoảng trồng thông bên ngoài trấn Vosenskaia. Chỉ còn có vẻn
vẹn năm quả đạn cho tất cả tám khẩu pháo. Cả đạn súng trường cũng sắp cạn.
Kudinov đã phái những tên liên lạc cưỡi ngựa tới các nơi phổ biến mệnh lệnh
nghiêm cấm không được bắn nhau với địch.
Mệnh lệnh này dặn mỗi đại đội chọn ra một
hay hai tên bắn giỏi nhất, phát cho mỗi tên một số đạn đủ dùng, để những tay
thiện xạ đặc biệt đó tiêu diệt các xạ thủ súng máy và chiến sĩ Hồng quân xuất
hiện trên các phố của các thôn trên bờ bên phải. Những tên khác chỉ được phép nổ
súng trong trường hợp Hồng quân tìm cách vượt sông.
Mãi đến lúc hoàng hôn, Grigori Melekhov mới
đi kiểm tra xong các đơn vị thuộc sư đoàn của chàng bố trí rải rác dọc theo
sông Đông. Sau đó chàng trở về Vosenskaia để nghỉ đêm.
Đã có lệnh cấm đốt lửa trên bãi cỏ hoang
ven sông. Ngay trong trấn Vosenskaia cũng chẳng có đèn lửa gì cả. Khắp vùng bên
kia sông Đông chìm trong một làn sương mù tím ngắt.
Sáng sớm hôm sau, có những đội trinh sát đầu
tiên của Hồng quân xuất hiện trên ngọn gò ở Batski. Chẳng mấy chốc đã thấy họ
thấp thoáng trên tất cả các nấm kurgan ở bờ bên phải từ trấn Ust-Khopeskaia đến
trấn Kazanskaia. Mặt trận của Hồng quân đổ ào ào đến sông Đông như một dòng
phún thạch có sức mạnh khủng khiếp. Sau đó các nhóm trinh sát lẩn đi và cho đến
giữa trưa, các ngọn gò cứ chết lặng dưới một bầu không khí lặng tờ nặng nề của
nơi sa mạc.
Gió xoáy lên những cột bụi trắng trắng trên
con đường của các vị Ghet-man. Khói của những đám cháy vẫn còn bốc lên ở phía
nam như một màn sương đen tía. Những đám mây đen bị gió thổi tản ra đã tụ lại.
Cái bóng của một đám mây như vươn cánh trên ngọn gò. Một tia chớp loằng nhoằng
chữ chi hiện lên mờ nhạt dưới ánh sáng ban ngày. Trong nháy mắt, nó ngoằn ngoèo
viền một dải bạc quanh một đám mây màu xanh rồi loáng lên lao thẳng xuống như một
nhát giáo, đánh thốc vào bộ ngực căng phồng của nấm Kurgan xưa kia dùng làm vọng
tiêu. Tiếng sét như xé toạc đám mây lơ lửng trên không: mưa tóe ra từ giữa bụng
đám mây. Gió tạt chếch qua làn mưa, mang những đợt sóng trắng dập dờn nhảy múa
tới những sườn đá phấn của những nhánh núi mọc nhô ra sông, xuống những bông hướng
dương đang héo hon vì oi bức, những cây lúa rũ đầu xuống đất. Lá cây còn non bị
bụi xám xịt bám vào nom già hẳn đi đã được nước mưa rửa cho mới lại. Những
nhánh lộc đầu xuân mọng nước óng a óng ánh, những cây hướng dương đã ngẩng cao
đầu với những bộ mặt vàng hoe. Các vườn rau nồng nặc cái mùi mật ong của bí ngô
đang ra hoa. Mảnh đất được uống đã khát bốc hơi ngùn ngụt mãi không thôi.
Sau giữa trưa lại thấy trinh sát Hồng quân
xuất hiện trên những nấm Kurgan đắp làm vọng tiêu, nằm liên tiếp thành một chuỗi
rải rác theo đường sống của những gò núi ven sông Đông kéo dài tới biển Azov.
Đứng trên các nấm Kurgan này có thể nhìn xa
hàng chục véc-xta trên khoảng bình nguyên gợn lên vàng vàng với những cái hồ hiện
ra như những hòn đảo xanh mướt. Các nhóm trinh sát của Hồng quân bắt đầu tỏa tới
các thôn một cách thận trọng. Bộ binh đỏ ùa từ trên gò xuống theo đội hình chiến
đấu. Các đại đội pháo dừng lại sau các nấm Kurgan. Xưa kia tiêu binh của dân
Polovet và dân Brodnik thiện chiến đã cảnh giới trên các nấm Kurgan này để khỏi
bị kẻ địch đến đánh bất ngờ.
Một đại đội pháo bố trí trên núi Bologorskaia
bắt đầu bắn phá Vosenskaia. Trái lựu pháo đầu tiên nổ trên quảng trường, rồi
sau đó toàn thị trấn chìm dưới những đám khói xám của đạn trái phá và những cái
mũ màu trắng sữa tan dần trước gió của đạn ghém. Rồi lại thêm ba đại đội pháo nữa
bắt đầu bắn phá Vosenskaia và các chiến hào của quân Cô-dắc ven sông Đông.
Ở thôn Bolsoi Gromoc súng máy bắt đầu lên
tiếng một cách hung hãn. Hai khẩu “Hotkit” bắn từng loạt ngắn, còn một khẩu
“Marxim” thì với cái giọng nam trung của nó, cứ nhằm các tổ bộ binh của quân
phiến loạn chạy đi chạy lại bên kia sông mà tuôn đạn thép liên miên. Những xe vận
tải nối đuôi nhau leo lên gò. Hồng quân đào chiến hào trên những sườn núi mọc đầy
mận gai. Những chiếc xe hai bánh, bốn bánh chạy lọc xọc trên con đường của các
vị Ghet-man, mỗi chiếc đều kéo lê phía sau một làn bụi bốc lên cuồn cuộn như một
vạt váy dài.
Hỏa lực pháo binh nổ ầm ầm khắp mặt trận. Từ
các ngọn núi ven sông khống chế được toàn khu vực, các đại đội pháo của Hồng
quân bắn phá vùng bên kia sông Đông đến tối mịt. Cánh đồng cỏ hoang ven sông với
những chiến hào đào nhằng nhịt của quân phiến loạn cứ câm tiếng trên suốt một dải
từ Kazanskaia đến Ust-Khopeskaia. Những tên giữ ngựa dắt ngựa vào ẩn trong những
khu rừng vùng thấp kín đáo và rất rậm rạp, mọc đầy lau sậy, hương bồ và sa thảo.
Ở đấy ngựa không bị muỗi mòng quấy nhiễu, mà không khí thì mát rượi trong những
khoảng rừng rậm đầy hốt bố dại. Những cây liễu trắng cao ngất và các thứ cây
khác có thể đảm bảo che được con mắt của các quan trắc viên Hồng quân.
Không thấy bóng vía một người nào trên bãi
chăn nuôi xanh rờn. Năm thì mười họa mới thấp thoáng những người dân chạy nạn hốt
hoảng cúi gập lưng, cố rời thật xa bờ sông Đông. Một khẩu súng máy của Hồng
quân tằng tằng nã theo họ vài tràng, tiếng đạn ríu dài làm họ mất hết hồn vía,
xô họ nằm dúi xuống đất. Họ nằm lại trong đám cỏ rậm mãi đến hoàng hôn rồi mới
chạy tế lên trốn vào rừng, chạy không ngoái đầu lại, chỉ mong sao mau chóng tới
được vùng ao đầm đang hồ hởi mời đón với những đám xích dương và bạch dương hết
sức rậm rạp.
Thị trấn Vosenskaia bị pháo binh bắn phá dữ
dội hai ngày liền. Dân chúng không ló đầu ra khỏi các hầm nhà. Các phố trong trấn
bị đạn pháo bắn nát chỉ sống lại ban đêm.
Trong bộ tư lệnh thấy nêu lên những giả thiết
cho rằng quân địch bắn phá dữ dội như thế này không nhằm mục đích nào khác
ngoài việc chuẩn bị tấn công, chuẩn bị vượt sông. Có những ý lo Hồng quân sẽ bắt
đầu vượt sông ngay trước mặt Vosenskaia, với mục đích chiếm lĩnh thị trấn, thọc
mũi dùi vào tuyến phòng thủ kéo dài trên bờ bên phải, cắt hẳn mặt trận làm hai,
rồi sau đó mới dùng chiến thuật tấn công bên sườn từ Calat và Ust-Medvediskaia
để giáng đòn tiêu diệt hoàn toàn.
Theo lệnh của Kudinov, ở Vosenskaia đã tập
trung tới bờ sông hơn hai chục khẩu súng máy với một số băng đạn đủ dùng. Những
tên chỉ huy các đại đội pháo đã nhận được lệnh chỉ bắn những phát đạn còn lại
trong trường hợp Hồng quân tìm cách vượt sông. Cái phà và tất cả thuyền bè được
kéo về chỗ vũng sông ở phía trên Vosenskaia và một bộ phận rất mạnh được phân
công canh giữ.
Đối với Grigori Melekhov, những điều lo lắng
của bọn sĩ quan tham mưu có vẻ không có cơ sở. Trong cuộc hội nghị ngày hai
mươi tư tháng Năm, chàng đã chế giễu những điều ức đoán của Ilia Xafonov cùng
những tên chia sẻ ý kiến của hắn.
- Chúng nó sẽ dùng cái gì để vượt sông trước
mặt Vosenskaia? - Chàng hỏi. - Mà chẳng nhẽ ở đấy có địa hình để có thể vượt
sông hay sao? Các anh thử nhìn xem: ở phía bên này, bờ sông trơ thân cứ như một
cái mặt trống, thêm con bơn toàn cát phẳng, ngay ven sông không một đám cây, bụi
cỏ. Vậy có thằng ngu xuẩn nào lại rúc đầu vào địa điểm này để vượt sông? Chỉ có
một mình Ilia Xafonov với tất cả các khả năng của cậu ấy mới có thể mò vào cái
tử địa này mà thôi... Trên một bờ sông trần trùi trụi như thế này thì sẽ bị
súng máy quét bay không còn một thằng nào sống sót! Mà Kudinov ạ, anh đừng tưởng
bọn chỉ huy Hồng quân chúng nó đần độn hơn anh và tôi. Trong số chúng nó có những
thằng thông minh hơn chúng ta nhiều đấy! Chúng nó sẽ không tấn công chính diện
vào Vosenskaia đâu, vì thế chúng ta không nên chờ đón chúng nó tấn công ở đây,
mà ở một khoảng nào nông, có thể lội qua trên lòng sông toàn cát, hoặc ở chỗ
kín đáo, có địa hình, có rừng rậm. Phải theo dõi thật cẩn thận các nơi nguy hiểm
ấy, nhất là ban đêm. Cần phải báo trước cho anh em Cô-dắc biết để họ khỏi bị hố,
khỏi bị chúng nó đánh bất ngờ. Cần phải điều sẵn lực lượng dự bị đến các nơi
nguy hiểm, để còn có gì mà đem ra dùng trong trường hợp nguy cấp.
- Anh bảo chúng nó sẽ không tấn công vào
Vosenskaia à? Thế tại sao chúng nó lại đem pháo tới giã giò lên thị trấn đến
khuya mới thôi? - Gã tham mưu phó của Xafonov hỏi.
- Chuyện ấy thì anh sang bên chúng nó mà hỏi.
Nhưng có phải chúng nó chỉ bắn riêng vào Vosenskaia thôi đâu? Chúng nó nã cả
vào Kazanskaia, cả vào Erinsky, các anh xem đấy, ngay đến núi Xemenovska cũng bị
chúng nó xới lên. Còn thiếu chỗ nào mà chúng nó không đem pháo nã loạn vào? Có
lẽ cũng vì chúng nó có nhiều đạn pháo hơn bên ta một chút. Mẹ cái pháo binh của
chúng ta chứ... Vẻn vẹn năm quả đạn, mà vỏ đạn lại tiện bằng gỗ sồi.
Kudinov cười khà khà:
- Hay, phát này nã trúng đấy!
- Bây giờ không phải là lúc phê phán nhau!
- Tên đại đội trưởng đại đội pháo số 3 có mặt trong cuộc họp phát khùng. - Bây
giờ phải bàn vào việc đi.
- Cậu thử nói xem, có ai ngáng mồm ngáng miệng
cấm cậu nói không? - Kudinov cau mày nghịch nghịch cái dây lưng. - Cái bọn quỷ
dữ các cậu đã được dặn bao nhiêu lần: “Đạn thì chớ có đem dùng phí phạm vô ích,
phải dành cho những trường hợp quan trọng?”. Nhưng các cậu nào có chịu nghe, vớ
được cái gì cũng bắn, xe bò xe ngựa cũng bắn. Bây giờ đến bước như thế này thì
chẳng có cái gì mà bắn nữa. Bị phê bình còn bực bội nỗi gì? Melekhov cười cái
pháo binh gỗ sồi của các cậu thì cũng đúng đấy. Cái kiểu làm ăn của các cậu bị
người ta chê cười không oan đâu!
Kudinov đứng về phía Grigori, hắn kiên quyết
ủng hộ kiến nghị của chàng về việc tăng cường phòng thủ ở các nơi vượt sông thuận
lợi nhất và tập trung các đơn vị dự bị vào ngay sát các khu vực bị uy hiếp. Hắn
lại quyết định rút bớt một số súng máy ở ngay Vosenskaia, chuyển cho các đại đội
Bologorskaia, Merkulovskaia và Gromkovskaia. Quân địch có nhiều khả năng vượt
sông nhất ở khu vực của các đại đội này.
Hôm sau đã có ngay những sự việc chứng thực
giả thiết của Grigori nói rằng Hồng quân sẽ không tìm cách vượt sông ở trước mặt
Vosenskaia, mà sẽ chọn một địa điểm thuận lợi hơn. Sáng hôm ấy tên đại đội trưởng
đại đội thôn Gromoc báo cáo rằng Hồng quân đang chuẩn bị vượt sông. Suốt đêm từ
bên kia sông Đông vẳng sang tiếng người xôn xao, tiếng búa đập, tiếng bánh xe
rít. Vô số những chiếc xe tải chở ván gỗ không biết từ đâu tới thôn Gromoc, gỗ
được hạ ngay trên xe xuống và lập tức nghe thấy những tiếng cưa xoèn xoẹt, tiếng
rìu, tiếng búa chan chát. Căn cứ vào tất cả hiện tượng ấy thì có thể đoán rằng
Hồng quân đang sắp sửa dựng một cái gì đó.
Đầu tiên bọn Cô-dắc giả thiết rằng Hồng
quân định làm một cái cầu phao. Ban đêm đã có hai tay to gan lên quá trên chỗ
có tiếng thợ mộc làm việc nửa vec-xta, chúng cởi quần áo, lấy lá cây ngụy trang
trên đầu rồi lặng lẽ bơi xuôi theo dòng nước. Hai tên mò tới sát bờ sông, nghe
thấy ngay gần đấy tiếng nói chuyện của những chiến sĩ Hồng quân thuộc vọng tiêu
súng máy bố trí trong đám liễu. Từ trong thôn đưa ra rành rọt tiếng người nói
và tiếng rìu chan chát, nhưng chúng chẳng nhìn thấy gì trên mặt nước. Hồng quân
đích xác đang làm một cái gì đó, nhưng dứt khoát không phải là làm cầu.
Tên đại đội trưởng đại đội Gromoc tăng cường
theo dõi bên bờ có địch. Đến lúc trời rạng, mấy tên quan sát không rời mắt khỏi
ống nhòm, nhìn mãi mà chẳng thấy có gì cả. Nhưng chẳng mấy chốc, một tên được
coi là thiện xạ nhất trung đoàn ngay từ trong cuộc chiến tranh với Đức, nhìn
qua cái tranh tối tranh sáng trước lúc bình minh, đã thấy một chiến sĩ Hồng
quân dắt hai con ngựa đóng sẵn yên cương xuống sông Đông.
- Có một thằng Đỏ đang đi xuống nước, - Gã
Cô-dắc rỉ tai bạn nó rồi hạ ống nhòm xuống.
Hai con ngựa lội nước tới đầu gối, bắt đầu
uống nước.
Gã Cô-dắc lồng cái dây da nới dài khẩu súng
trường vào khuỷu tay trái, nâng khung ngắm lên rồi nhằm rất lâu, rất cẩn thận...
Phát súng nổ, một con ngựa từ từ lăn
nghiêng ra, còn con kia chạy tế lên dốc. Người chiến sĩ Hồng quân cúi xuống để
tháo lấy cái yên trên xác con ngựa bị bắn chết. Gã Cô-dắc nổ phát súng thứ hai,
khẽ mỉm cười: người chiến sĩ Hồng quân đứng phắt dậy, định chạy từ dưới sông
lên, nhưng bất thần lại ngã vật xuống. Anh ngã sấp mặt xuống để không bao giờ đứng
dậy nữa...
Grigori vừa nhận được báo cáo về việc Hồng
quân chuẩn bị vượt sông, đã thắng ngựa để tới ngay khu vực của đại đội thôn
Gromoc.
Ra khỏi thị trấn, chàng cho con ngựa lội
qua một cái hồ vừa hẹp vừa nông kéo dài tới cuối trấn, vốn là một nhánh, đã bị
ngắt khỏi sông Đông, rồi cho ngựa phi qua rừng.
Con đường chạy ngang một bãi cỏ, nhưng vượt
qua bãi cỏ thì rất nguy hiềm, vì thế Grigori chọn một đường vòng hơi dài: chàng
qua rừng tới cuối hồ Ratxokhov, men theo những đống đất mấp mô và những đám liễu
trắng đến nỗi chỗ lội Canmứtki (đây là một cái ngòi mọc đầy súng, cần dại và
lau sậy nối liền một bãi lầy trên đồng cỏ với hồ Postoilicha). Ngay sau khi qua
được chỗ lội Canmứtsky, chàng ghìm cương ngựa cho nó nghỉ ngơi vài phút.
Từ đấy ra tới sông Đông theo đường thẳng là
chừng hai vec-xta. Vượt qua bãi cỏ để ra tới các chiến hào thì có nghĩa là phơi
mình trước đạn địch. Cũng có thể chờ đến tối, trời nhá nhem rồi mới vượt qua
bãi cỏ bằng phẳng, nhưng Grigori có cái tính không thích chờ đợi chàng thường
nói: “Trên đời này không gì tồi tệ bằng chờ đợi và theo đuổi”, vì thế chàng quyết
định lập tức đi ngay. “Cứ thúc hết sức cho con ngựa phóng bạt mạng, có lẽ chúng
nó sẽ không bắn trúng được đâu!” - chàng vừa nghĩ thầm vừa mò ra khỏi những bụi
cây.
Chàng chọn một dải liễu mọc nhô ra khỏi khu
rừng ven sông như một nhánh núi rồi giơ roi. Ăn một roi cháy mông, lại nghe thấy
tiếng quát man rợ, con ngựa run bắn lên, cụp sát hai tai vào nhau, phi lên vùn
vụt mỗi lúc một nhanh và lao thẳng về phía sông Đông. Grigori chưa kịp vượt qua
năm chục xa-gien thì trên một ngọn đồi bên hữu ngạn đã có một khẩu súng máy bắn
tằng tằng những tràng dài từ phía trước mặt. “Chíu! Chíu... Chíu... Chíu...
Chíu!” - Những viên đạn rít như tiếng chuột đồng. “Cao quá đấy, chú nó ơi!” -
Grigori nghĩ thầm và kẹp chặt sườn ngựa, rồi thả lỏng dây cương, áp sát má xuống
sát đám bờm ngựa bay tán loạn dưới làn gió thổi ngược. Và như đoán ra ý chàng,
người xạ thủ súng máy Hồng quân nằm sau cái lá chắn sơn xanh của khẩu trọng
liên ở một chỗ nào đó trên ngọn gò trăng trắng, chuyển sang nhằm bắn đón đầu. Hỏa
lực của khẩu súng máy tuôn ra như một luồng nước, sà xuống thấp hơn lúc nãy và
kêu chíu chíu ngay trước chân ngựa một cách khoái trá. Những viên đạn nóng bỏng
trong khi bay rít lên như những con rắn, xuyên xuống chất đất ẩm còn chưa khô
sau khi nước lũ rút đi, làm bùn nóng phụt lên tứ tung... “Tặc! Chíu... Tặc! Tặc!”.
Rồi làn đạn bay qua đầu và bên cạnh thân ngựa: “Chiu-u-u! Chi-iu-út!
Chiu-u-u!”.
Grigori hơi rướn người trên bàn đạp và gần
như nằm rạp xuống cái cổ ngựa vươn thẳng. Rặng liễu xanh rờn lao vùn vụt từ trước
mặt tới với một tốc độ khủng khiếp. Khi chàng đã vượt được nửa chặng đường, khẩu
pháo trên ngọn gò Semenovsky bắt đầu nhả đạn. Tiếng thép rít của quả đạn làm
không khí rung lên. Phát đạn nổ quá gần nên Grigori ngồi trên yên lảo đảo. Tiếng
những mảnh đạn rú rít rên siết còn chưa lắng trong tai chàng, lau sậy gần đấy
còn chưa kịp ngỏng lên sau khi hơi nổ ồn ào như bão dúi gục xuống, thì từ trên
gò lại vẳng tới tiếng nổ khác của khẩu pháo và tiếng rú của quả đạn bay tới mỗi
lúc một gần lại đè xuống Grigori, bắt chàng phải rạp người xuống cái yên ngựa.
Chàng có cảm tưởng như tiếng rít nặng nề,
căng thẳng đến cực độ ấy nổ bùng ra trong một phần trăm giây nào đó, và trong một
phần trăm giây ấy, một đám mây đen ngòm bốc vụt lên dựng đứng trước mặt chàng,
mặt đất rung chuyển dưới đòn phá hoại khủng khiếp, hai chân trước của con ngựa
tựa như sụt xuống một cái hố.
Grigori vừa ngã xuống đã tỉnh lại ngay.
Chàng bị quật xuống đất mạnh quá, đến nỗi hai đầu gối của chiếc quần dạ màu cứt
ngựa bục ra, hai đoạn dây bên dưới ống quần cũng đứt. Làn sóng nổ bật ra mạnh
quá, ném bổng chàng bay xa con ngựa, làm chàng rơi xuống đất rồi còn tượt trên
mặt cỏ hàng mấy xa-gien, lòng bàn tay và một bên má sát xuống đất rát như bỏng.
Sau cái ngã choáng váng đầu óc, Grigori đứng
dậy. Những mảnh đất vừa to vừa nhỏ, những bụi cỏ bật rễ rơi ào ào từ trên cao
xuống như một trận mưa đen ngòm... Con ngựa nằm cách hố hình miệng phễu hai
mươi bước. Đầu nó không động đậy gì nữa, nhưng hai chân sau bê bết những đất, cặp
mông đầm đìa mồ hôi và chỗ xương đuôi thoai thoải vẫn còn khẽ giật như chuột
rút.
Khẩu súng máy ở bờ bên kia sông Đông đã
thôi bắn. Không khí lặng đi chừng năm phút. Vài con chim bói cá lông xanh biếc
cất tiếng kêu trên đám ao đầm. Grigori đi tới gần con ngựa, đầu óc chàng choáng
váng, hai chân run lẩy bẩy, nặng ra một cách khủng khiếp. Chàng có cái cảm giác
thường thấy những lúc phải đứng dậy để cất bước đi sau khi ngồi trên yên rất
lâu, rất gò bó, khi sự thay đổi cách tuần hoàn của máu làm cho hai chân trở nên
tê dại như chân người khác, mỗi bước đi làm toàn thân chấn động...
Grigori tháo lấy cái yên trên con ngựa bị
giết và vừa bắt đầu đi về phía đám lau sậy bị những mảnh đạn chém đứt nát trên
cái đầm gần nhất thì khẩu súng máy lại bắn từng đợt với những khoảng ngắt quãng
đều đặn. Chàng không nghe thấy tiếng đạn bay, biết rằng đúng là kẻ địch trên gò
đã bắt đầu bắn vào mục tiêu mới.
Một giờ sau, chàng lần được tới hầm của tên
đại đội trưởng.
- Hiện giờ chúng nó không còn cưa đẽo gì nữa
rồi. - Tên đại đội trưởng nói, - Song đến đêm nhất định chúng nó lại làm việc.
Nhưng xin đồng chí quẳng cho chúng tôi ít đạn, nếu không có thể khóc được đấy,
mỗi anh em chỉ có được hai kẹp.
- Đến tối sẽ có đạn mang tới. Nhưng không
được rời mắt khỏi bờ bên kia đấy!
- Chúng tôi vẫn quan sát đấy. Đêm nay tôi định
sẽ lấy mấy tay cảm tử bơi sang xem chúng nó đang giở cái trò gì bên ấy.
- Thế sao đêm qua không phái đi!
- Thưa đồng chí Grigori Panteleevich, cũng
đã phái đi hai thằng, nhưng chúng nó sợ không dám mò vào trong thôn. Đã bơi tới
sát bờ sông nhưng vào thôn thì sợ... Mà trong lúc này còn bắt buộc ai làm gì được
nữa. Công việc thì mạo hiểm, chạm trán với vọng gác của chúng nó là toi mạng.
Trong khi đánh nhau gần nhà, bọn Cô-dắc không tỏ ra dũng cảm lắm đâu... Hồi
đánh nhau với quân Đức, thường có biết bao nhiêu người liều mạng vì một tấm
huân chương, nhưng bây giờ, chưa nói đến chuyện mò sâu vào trận địa của địch để
đi trinh sát, ngay đến việc canh gác cũng đã khó cắt phiên rồi. Mà ở đây lại
còn đang có một cái tai họa nữa là bọn đàn bà: họ cứ bám riết lấy chồng, ngủ
đêm ngay trong chiến hào, đuổi cũng không đi nữa. Hôm qua tôi đã bắt đầu tống cổ
họ đi, nhưng bọn Cô-dắc đã đánh tiếng đe tôi. Chúng nó bảo: “Thôi đi, bảo hắn
liệu mà vừa vừa thôi, nếu không bọn mình sẽ cho nó một trận nên thân!”.
Từ căn hầm của tên đại đội trưởng, Grigori
đi ra các chiến hào. Dãy chiến hào chạy chữ chi trong khu rừng, cách sông Đông
chừng mười hai xa-gien. Những rừng sồi, những bụi ngải cứu và những đám tiêu
huyền non rậm rạp che kín không cho các chiến sĩ Hồng quân nhìn thấy dãy ụ đất
vàng. Vài đoạn hào giao thông nối liền các chiến hào với các hầm trú ẩn, nơi bọn
Cô-dắc nghỉ ngơi. Ở gần các căn hầm thấy đổ bừa bãi những đống vẩy cá khô xanh
xanh xám xám, xương cừu, vỏ hướng dương, mẩu thuốc lá và giẻ rách. Trên các
cành cây treo lung tung những thứ đã giặt: bít tất, áo lót may bằng vải gai, vải
bọc chân, áo sơ-mi và váy của đàn bà...
Grigori vừa tới căn hầm thứ nhất đã thấy một
người đàn bà còn trẻ, đầu trần, còn ngái ngủ, thò đầu ra. Người ấy dụi mắt,
lãnh đạm nhìn Grigori một cái rồi thụt ngay vào sau cái cửa hầm đen ngòm như một
con chuột đồng trong hang. Trong căn hầm bên cạnh có tiếng hát khe khẽ. Một giọng
nữ cố ghìm nén, nhưng cao và trong, đan quyện với những giọng nam. Một người
đàn bà Cô-dắc không còn trẻ lắm, nhưng ăn vận sạch sẽ, ngồi ngay ở lối vào căn
hầm thứ ba. Một gã Cô-dắc có món tóc trước trán đã hoa râm nằm gối đầu lên đầu
gối mụ. Gã nằm nghiêng, ngủ một cách thoải mái trong khi vợ gã thoăn thoắt chải
đầu cho gã. Mụ giết những con chấy đen sì trên cái lược gỗ răng rất to và đuổi
những con ruồi đậu trên mặt người bạn lòng đã luống tuổi. Nếu bên kia sông Đông
không vang lên những tiếng súng máy hung hãn, nếu dòng nước không đưa tới những
tiếng hỏa lực pháo binh nổ rất vang từ một nơi nào đó trên thượng lưu, không biết
là ở trấn Migulinskaia hay trấn Kazanskaia, thì có thể nghĩ rằng đây là một nơi
nghỉ đêm của những người cắt cỏ ven sông Đông, vì quang cảnh đại đội thôn
Gromoc của quân phiến loạn lên tuyến lửa sao mà thái bình vô sự.
Trong năm năm chiến tranh, đây là lần đầu
Grigori được chứng kiến một cảnh tượng lạ lùng như thế này trên trận địa. Chàng
không ghìm được nụ cười trong khi đi qua các căn hầm. Đến chỗ nào chàng cũng
nhìn thấy những người đàn bà đang bận phục dịch cho chồng, người thì sửa hoặc
vá những chiếc quần áo Cô-dắc, người thì giặt những đồ lót của lính tráng, người
thì nấu nướng hoặc rửa nồi niêu bát đĩa sau bữa ăn trưa đơn giản.
- Các cậu ở đây sướng thật đấy! Mọi mặt đều
đầy đủ... - Về đến hầm tên đại đội trưởng, Grigori bảo hắn.
Tên đại đội trưởng nhe răng ra cười:
- Chúng tôi sống thật sướng không đâu bằng.
- Nhưng thoải mái quá rồi đấy! - Grigori
cau mày nói. - Phải lập tức đuổi bọn đàn bà đi khỏi nơi này ngay! Đang chiến
tranh mà còn như thế này à? Chỗ các cậu đây là nơi bày hàng ra bán hay là chợ
phiên thế hử? Như thế này thì còn ra thể thống gì nữa? Bọn Đỏ chúng nó đang sắp
vượt sông đến nơi mà các cậu chẳng nghe thấy gì cả: vợ kè kè bên cạnh thì còn
lúc nào mà nghe với ngóng... Trời sâm sẩm là phải tống cổ hết cái bọn dài đuôi
này đi! Nếu không ngày mai tôi quay lại mà còn thấy một đứa mặc váy là sẽ chặt
ngay đầu cậu trước.
- Vâng, đúng là phải thế mới được... - Tên
đại đội trưởng vui vẻ đồng ý, - Chính tôi cũng chống lại cái chuyện bọn đàn bà
đến đây, nhưng đối với bọn Cô-dắc thì còn làm thế nào được? Chẳng còn kỷ luật
gì nữa... Đàn bà họ nhớ chồng, chúng ta chiến đấu đã ba tháng rồi còn gì!
Nhưng chính hắn lại đỏ bừng mặt, ngồi sụp
xuống chiếc giường ván dưới đất để che một chiếc tạp dề màu đỏ của đàn bà, rồi
hắn quay lưng về phía Grigori, lườm một cách đầy hăm dọa chỗ góc hầm được che bằng
một tấm vải thô. Chính cô vợ yêu của hắn đang từ trong đó tươi cười nhìn ra với
cặp mắt màu hạt dẻ.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét