Sông Đông Êm Đềm
Tác giả: Mikhail Sholokhov
Dịch giả: Nguyễn Thụy Ứng
Nhà Xuất Bản Văn Học - 2005 (xuất bản lần
thứ 6)
Phần VI
60
Con đường đi Bolsoi Gromoc có chỗ chạy qua
một đoạn tường bao xếp bằng đá xám, sau đó nó rẽ ngoặt về phía sông Đông, trườn
xuống một cái khe khô không sâu lắm, trên khe có bắc một chiếc cầu làm bằng gỗ
tròn. Mùa hanh, cát vàng và đá củ đậu ngũ sắc nhấp nhoáng dưới lòng khe, nhưng
sau trận lũ mùa hạ, những dòng nước mưa đục ngầu chảy ào ào từ trên gò xuống
khe, hợp lại với nhau. Nước đổ thẳng từ trên xuống như bức tường, rửa sạch những
tảng đá rồi ầm ầm nhập vào sông Đông.
Trong những ngày đó, cái cầu thường bị ngập
nước, song cũng không bao lâu. Chỉ một hai giờ sau, nước đổ như điên từ trên
núi xuống, phá tan hoang các vườn rau và nhổ cả những đoạn hàng rào lẫn những cọc
chống đã rút xuống, dưới lòng khe bị phơi trần lại nhấp nhoáng lớp đá củ đậu mới
được rửa sạch còn ẩm ướt, nặc mùi đá phấn và mùi nước. Phù sa mới bồi cũng sáng
bóng lên hai bên bờ với những ánh nâu nâu:
Tiêu huyền và liễu mọc rất rậm trên bờ khe.
Dù những ngày hè nóng nhất, dưới bóng cây bao giờ cũng mát rượi.
Bị cám dỗ bởi bóng mát, vọng tiêu của đội
nghĩa dũng dân ngụ cư trấn Vosenskaia đã đến bố trí bên chiếc cầu. Vọng tiêu
này gồm mười một gã. Khi xe cộ của dân tị nạn chưa xuất hiện trong thôn, bọn
lính nằm dài dưới gầm cầu đánh bài, hút thuốc. Có những tên cởi trần ra, lần
trong các đường chỉ của áo sơ-mi và đồ lót, tiêu diệt những con rận hút máu
lính tráng không biết chán. Hai tên xin phép viên trung đội trưởng ra sông Đông
tắm.
Nhưng bọn lính được nghỉ ngơi cũng không
bao lâu, chẳng mấy chốc xe cộ đã kéo ùn ùn đến cái cầu, những chiếc xe nối tiếp
nhau thành một dòng liên tục và ngay lập tức cái ngõ râm mát và lặng tờ như
ngái ngủ đã trở nên nhộn nhịp, ồn ào, tức thở tựa như bầu không khí ngột ngạt,
hắc hắc trên đồng cỏ đã cùng với đoàn xe ập vào trong thôn từ trên ngọn gò ven
sông Đông.
Chỉ huy vọng gác chính là tên trung đội trưởng
trung đội ba của đội nghĩa dũng, một hạ sĩ quan cao lớn, gầy khô, có bộ râu
hung hung xén tỉa ngay ngắn và hai cái tai rất to vểnh ra như tai một thằng bé.
Hắn đứng ngay giữa cầu, một tay đặt trên cái bao đã cũ mòn của khẩu Nagan. Hắn
để cho khoảng hai chục chiếc xe được yên ổn đi qua, nhưng khi nhìn thấy trên một
chiếc xe bò có một gã Cô-dắc còn trẻ, tuổi trạc hai mươi nhăm, hắn ra lệnh gọn
lỏn:
- Đứng lại!
Gã Cô-dắc kia ghìm cương, cau mày.
- Đơn vị nào? - Tên trung đội trưởng bước tới
sát chiếc xe, hỏi bằng một giọng nghiêm khắc.
- Nhưng các anh muốn gì?
- Tôi hỏi anh thuộc đơn vị nào? Nói đi!
- Đại đội thôn Rubezyn. Còn các anh là ai?
- Xuống xe!
- Nhưng các anh là ai đã?
- Xuống xe, nghe rõ chưa?
Hai cái vành tai tròn như vỏ ngao của tên
trung đội trưởng đỏ ửng lên. Hắn mở nắp bao súng, rút khẩu Nagan rồi chuyển
sang tay trái.
Gã Cô-dắc nhét dây cương vào tay vợ, nhảy
trên xe xuống.
- Tại sao không ở lại đơn vị? Đi đâu? - Tên
trung đội trưởng hỏi vặn.
- Tôi đã bị ốm. Bây giờ đi Batski... Đi
cùng với gia đình.
- Có giấy chứng nhận là ốm không?
- Lấy đâu ra mà có được? Đại đội làm gì có
y sĩ.
- À không có à? Thế thì được, Karpenko, giải
hắn ra trường học!
- Nhưng các anh là ai mới được chứ?
- Đến đằng ấy chúng tôi sẽ cho anh biết
chúng tôi là ai!
- Tôi còn phải về đơn vị! Anh không có quyền
giữ tôi lại!
- Chúng tôi sẽ đưa anh về. Có vũ khí mang
theo không?
- Chỉ có một khẩu súng trường.
- Lấy xuống, mau lên, nếu không tôi cho một
trận bây giờ! Đồ chó đẻ, còn trẻ như thế nầy mà cứ núp dưới váy vợ, chui rúc lẩn
trốn! Muốn chúng tôi phải bảo vệ cho anh có phải không? - Rồi hắn nói với thêm
bằng một giọng khinh bỉ. - Cô-dắc, Cô-diếc!
Gã Cô-dắc lôi khẩu súng trường ra từ bên dưới
đệm ghế rồi nắm lấy tay vợ, nhưng trước mặt người khác mà hôn nhau thì không tiện,
vì thế hắn chỉ giữ bàn tay cứng cồm cộm của vợ trong bàn tay mình một lát, rỉ
tai vợ không biết những gì và theo tên lính nghĩa dũng về trường học của thôn.
Những chiếc xe ùn lại trong ngõ ầm ầm đổ xô
qua cầu.
Trong một tiếng đồng hồ, vọng gác đã giữ lại
được chừng năm mươi tên đào ngũ. Trong số đó, vài tên thấy mình bị giữ lại có
chống cự, đặc biệt là một tên Cô-dắc nhỏ bé người thôn Hạ Kripsky trấn
Elanskaia. Hắn không còn trẻ lắm, có bộ ria dài xễ, vẻ người hùng dũng. Nghe thấy
tên đội trưởng vọng gác ra lệnh xuống xe, gã quất luôn cho con ngựa một roi.
Hai tên lính nghĩa dũng nắm lấy dây hàm thiếc của hai con ngựa, giữ lại được
thì chiếc xe đã sang tới bên kia cầu. Lúc đó gã Cô-dắc kia không cần nghĩ ngợi
gì cả, rút luôn dưới tà áo ca-pốt ra một khẩu Winchester Mỹ, giương lên vai.
- Tránh ra cho tao đi! Tao thì giết, quân
khốn nạn!
- Xuống ngay, xuống ngay! Chúng tôi đã được
lệnh bắn những kẻ không phục tùng mệnh lệnh. Chúng tôi sẽ cho anh ăn kẹo đạn
ngay bây giờ đấy!
- Cái bọn người mu-gi-i-ích! Hôm qua còn đi
theo bọn Đỏ mà hôm nay đã ra lệnh cho người Cô-dắc à? Thối không chịu được! Xéo
ngay, ông bắn cho bây giờ!
Một tên lính nghĩa dũng quấn một đôi xà cạp
mùa đông còn mới đứng chặn ngay ở chỗ bánh trước của chiếc xe bốn bánh. Sau một
cuộc vật lộn ngắn ngủi, hắn đã giằng được khẩu Winchester trong tay gã Cô-dắc.
Gã kia cong lưng như một con mèo, luồn tay xuống dưới áo rút thanh gươm ra khỏi
vỏ. Gã quỳ xuống, vươn người qua cái sàn treo sơn sặc sỡ buộc trên xe và thiếu
chút nữa thì đâm được mũi gươm vào đầu tên lính nghĩa dũng, nhưng tên này đã kịp
nhảy lùi lại.
- Anh Timosa, thôi đi, anh Timosa yêu quý!
Chao ôi, anh Timosa! Không nên làm như thế mà! Đừng gây chuyện làm gì? Họ giết
mất anh bây giờ. - Mụ vợ gày gò, mặt mũi xấu xí của gã Cô-dắc phát điên đó vặn
hai bàn tay vào nhau, khóc lóc kêu lên.
Nhưng gã kia vẫn đứng thẳng người trên xe,
múa loang loáng rất lâu lưỡi gươm sáng xanh, không cho những tên lính nghĩa
dũng lại gần, vừa vung gươm vừa văng tục khàn khàn, hai con mắt rồ dại long lên
nhìn khắp chung quanh. Bộ mặt xạm đen của gã giật giật như chuột rút, nước bọt
phì ra dưới hàng ria dài vàng vàng, hai cái lòng trắng xanh xanh mỗi lúc một
thêm ngầu máu.
Bọn kia chật vật mãi mới tước được vũ khí của
gã, vật gã xuống, trói gô gã lại. Xem ra nguyên nhân làm cho gã Cô-dắc nhỏ bé
này dũng cảm hùng hổ như vậy cũng đơn giản thôi: chúng lục soát trong xe, tìm
thấy một cái hũ đựng một thứ rượu nấu lấy, nồi đầu, nặng vào hạng nhất...
Cái ngõ bị tắc nghẽn. Những chiếc xe đỗ sát
nhau như nêm, phải tháo bò tháo ngựa, rồi dùng tay lôi những chiếc xe lên cầu.
Những gọng xe, càng xe gãy răng rắc, những con ngựa tức tối hí rầm lên, những
con bò bị những đàn mòng vây kín, lại bị chen chúc nên tức điên lên, không nghe
theo lệnh của chủ nữa, cứ xô tới những dãy hàng rào. Tiếng chửi rủa, kêu la, tiếng
roi quất đen đét, tiếng đàn bà than vãn kể lể còn vang lên rất lâu bên cạnh chiếc
cầu. Những chiếc xe cuối cùng đỗ ở những chỗ có thể quay đầu được đã lộn trở lại,
lên đường cái để qua sông Đông ở Batski.
Những tên đào ngũ bị bắt giữ đều bị giải đi
Batski, nhưng vì tất cả bọn chúng đều có vũ khí, nên những tên áp giải cũng
không quản được. Lập tức đã nổ ra một cuộc đánh lộn giữa hai bên áp giải và bị
áp giải ở ngay bên kia cầu. Một lúc sau tốp nghĩa dũng quay trở về còn những
tên đào ngũ thì tự đi tới Vosenskaia, hàng ngũ có tổ chức hẳn hoi.
Prokho Zykov cũng bị giữ lại ở Gromoc,
nhưng hắn đưa trình giấy phép do Grigori Melekhov cấp nên bọn kia cho hắn đi
ngay, không gây phiền phức gì cả.
Hắn tới Batski thì trời đã sắp hoàng hôn.
Hàng ngàn chiếc xe tải đổ tới từ những thôn vùng sông Tria, đỗ đầy tất cả các
phố và các ngõ.
Quang cảnh bên sông Đông không thể nào dùng
lời mà tả được. Xe cộ của dân chạy nạn chiếm hết một khoảng bờ sông dài hàng hai
vec-xta. Chừng năm vạn con người tản vào trong rừng, chờ qua sông.
Phía trước mặt Vosenskaia, những đại đội
pháo, những ban chỉ huy và những đồ quân nhu đã được chở qua bằng phà. Bộ binh
qua sông trên những chiếc thuyền nhỏ. Vài chục con đò qua lại như mắc cửi mỗi
chiếc chỉ chở được bốn, năm người. Ở bến đò, ngay sát mặt nước, diễn ra một cảnh
chen chúc thật là đáng sợ. Song vẫn còn chưa thấy bóng vía số kỵ binh để lại
làm hậu vệ. Từ vùng sông Tria vẫn đưa tới tiếng hỏa lực pháo binh nổ như sấm và
cái mùi nồng nồng, hắc hắc của các đám cháy cũng mỗi lúc một gắt, một chọc vào
mũi.
Cuộc vượt sông kéo dài đến lúc trời rạng.
Khoảng mười hai giờ đêm thì có những đại đội kỵ binh đầu tiên tới nơi. Các đại
đội này sẽ phải bắt đầu vượt sông lúc trời bình minh.
Prokho Zykov được biết các đơn vị kỵ binh
thuộc sư đoàn Một vẫn còn chưa tới nơi, bèn quyết định ở lại Batski để chờ đại
đội của hắn. Hắn cầm dây cương dắt con ngựa đi len lỏi rất khó khăn giữa những
chiếc xe đỗ sát sin sít bên cạnh dãy tường bao của nhà thương Batki. Hắn không
tháo yên, buộc con ngựa vào càng một cái xe bò không biết của ai, nới đai bụng
ngựa, còn mình thì sục trong đám xe tìm người quen.
Khi đến gần cái đập, hắn nhận ra Acxinhia từ
xa. Nàng đang đi ra sông Đông, chiếc khăn gói nhỏ áp trước ngực, trên vai khoác
một chiếc áo ấm. Sắc đẹp lộng lẫy, đập ngay vào mắt của nàng đã làm những tên bộ
binh đứng tụ tập trên bờ sông phải chú ý. Chúng nói với nàng không biết những
câu gì tục tĩu, những hàm răng trắng nhởn nhe ra cười trên những khuôn mặt đầy
bụi, đẫm mồ hôi. Những tiếng cười khoái trá, nghe như tiếng hí của những con ngựa
đực, vẳng đến tai Prokho. Một gã Cô-dắc cao lớn ôm lấy nàng từ phía sau, và ghé
môi lên cái cổ ngăm ngăm, tròn lẳn của nàng. Thằng cha có bộ tóc trắng phếch,
áo sơ-mi không thắt dây lưng, cái mũ lông hất ra sau gáy. Prokho thấy Acxinhia
xô mạnh gã kia ra, nhe nanh hung dữ, khẽ nói với gã không biết những gì. Những
tên chung quanh phá lên cười, còn gã kia thì ngả mũ, trầm giọng xuống nói khàn
khàn: “Chà, nhà thím này, chỉ chút xíu thôi mà!”.
Acxinhia rảo bước đi qua trước mặt Prokho,
một nụ cười khinh bỉ rung rung trên cặp môi mọng. Prokho không gọi nàng, vẫn đảo
mắt sục trong đám người, cố kiếm một bà con cùng thôn. Hắn đi lững thững giữa
những chiếc xe chết lặng giương càng lên trời và bỗng nghe thấy những tiếng cười
nói say sưa. Ba lão già đang ngồi trên một mảnh vải thô trải dưới gầm một chiếc
xe. Giữa hai chân một lão có đặt một thùng rượu. Ba lão già đã say lè nhè lần
lượt múc rượu ra uống bằng một cái ca đồng làm bằng vỏ đạn, vừa uống rượu vừa
ăn cá khô. Mùi rượu nồng và mùi cá muối mặn mặn bắt anh chàng Prokho đang đói bụng
phải đứng lại.
- Này thầy quyền! Hãy vào đây uống với
chúng tôi cho mọi sự đều được tốt lành! - Một lão già gọi hắn.
Prokho không khách khứa gì cả, ngồi luôn xuống,
làm dấu phép và mỉm cười nhận trong tay lão già mến khách ca rượu thơm phức.
- Nào uống đi, còn sống được ngày nào thì cứ
uống đi! Cá chép đây cứ chén đi. Này chàng thanh niên, anh đừng coi thường kẻ
già cả nhé. Người già mới là những người thông minh! Bọn trẻ trai các anh còn
phải học ở chúng tôi về cách sống và, hừ... về cả cách uống rượu nữa. - Một lão
già khác nói ồm ồm giọng mũi. Mũi của lão không còn nữa, cả môi trên cũng bị ăn
mất đến hở cả chân răng.
Prokho vừa tợp một hớp vừa lo lắng nhìn lão
già không có mũi. Uống xong ca thứ hai, sắp đến ca thứ ba thì hắn không nhịn được
nữa, bèn hỏi:
- Thế nào bố già, bố đã chơi bời đến mất cả
mũi rồi à?
- Đâu có thế, anh bạn thân mến ạ! Đó là vì
lạnh đấy. Hồi còn con nít, có một lần tôi bị lạnh một trận đến phát ốm nên mới
hỏng mất cái mũi đấy.
- Thế mà tôi thật có lỗi với bố, cứ ngỡ bố
mắc cái bệnh thổ tả ấy nên bị rụng mất mũi? Thật chẳng dại gì mà lây cái của tội
của nợ ấy! - Prokho thành khẩn thú nhận.
Hắn thấy lão già nói rõ như thế nên đã yên
tâm ghé luôn miệng vào cái ca nốc thẳng một hơi cạn sạch, trong bụng không còn
lo lắng.
- Cuộc đời đã đến chỗ mạt vận rồi! Bây giờ
thì tội gì mà chẳng uống? - Người có rượu, một lão già khỏe mạnh, thân hình chắc
nịch, gào lên. - Tôi chỉ mang theo đây hai trăm pút lúa mì, còn một ngàn pút nữa
phải quẳng lại ở nhà. Đánh theo năm đôi bò mà phải vứt tất cả ở đây vì làm thế
nào mà lôi theo với mình qua sông Đông cho được? Mình dành dụm kiếm được bao
nhiêu thế là bây giờ mất hết! Tôi đang muốn có ca hát đây! Hãy chơi cho thỏa
đi, các bạn đồng hương ạ! - Mặt lão đỏ bừng lên, mắt lão ướt ướt vì những giọt
nước mắt.
- Thôi đừng kêu la làm gì, bác Trofim
Ivanovich ơi. Moskva, họ không tin nhiều lắm ở những giọt nước mắt đâu. Còn người
thì còn của. - Lão già ồm ồm giọng mũi khuyên bạn.
- Nhưng tôi không kêu làm sao cho được? -
Lão già kia nói càng to hơn, nước mắt làm mặt hắn méo hẳn đi. - Thóc thì mất!
Bò sẽ chết hết! Nhà cửa sẽ bị bọn Đỏ đốt trụi! Có một thằng con trai lại bị
chúng nó giết dạo mùa thu rồi! Thử hỏi tôi không kêu làm sao cho được? Kiếm tiền
cho ai bây giờ? Thường là mỗi mùa hạ mục mất trên vai mười chiếc áo sơ-mi, thế
mà bây giờ người không áo, chân không giầy... Thôi uống đi!
Prokho vừa lắng nghe những lời trao đổi vừa
ăn con cá chép to bằng cái nắp đậy lò và uống hết bảy ca rượu. Hắn kễnh cả bụng,
phải cố gắng hết sức mới đứng dậy được.
- Này thầy quyền! Cứu tinh của chúng ta! Có
muốn lấy thóc cho ngựa không? Muốn bao nhiêu?
- Một túi! - Prokho lúng búng. Bây giờ thì
xung quanh xảy ra chuyện gì hắn cũng chẳng cần biết.
Lão già đổ lúa yến mạch thượng hảo hạng vào
đầy một cái bao cỏ rồi giúp hắn khiêng lên vai.
- Nhớ mang trả cái túi nhé! Đừng quên nhá,
hãy vì Chúa! - lão vừa dặn Prokho vừa ôm lấy hắn và khóc với những giọt nước mắt
của một kẻ say rượu.
- Không, tôi không mang trả đâu. Tôi đã bảo
không mang trả là không mang trả... - Không hiểu sao Prokho cứ khăng khăng
không nghe.
Rồi hắn lặc lè rời khỏi cái xe bò. Túi thóc
đè oặt lưng hắn xuống, xô hắn sang một bên, Prokho có cảm giác như mình đang đi
trên một khoảng đất láng băng trơn, hai chân vừa tượt vừa run như một con ngựa
chưa đóng móng rụt rè bước lên băng. Hắn chập chững bước thêm vài bước rồi đứng
lại. Hắn chẳng làm thế nào nhớ được rằng cái mũ trên đầu có còn hay không? Một
con ngựa thiến lông hạt dẻ, trán trắng buộc bên một chiếc xe bốn bánh ngửi thấy
mùi yến mạch bèn vươn cổ về phía cái túi, cắn vào một góc. Thóc lạo xạo chảy từ
trong lỗ thủng ra. Prokho cảm thấy nhẹ hơn, lại cất bước.
Chưa biết chừng hắn cũng có thể mang chỗ yến
mạch còn lại về đến chỗ con ngựa của hắn, nhưng khi hắn đi qua một con bò mộng
rất to, con bò bất thình lình đá ngang cho hắn một cái. Cái thói của loài bò vốn
thường là như thế. Nó đang bị muỗi mòng cắn khổ sở, lại điên tiết vì nóng nực
và cảnh chen chúc chật chội nên không để ai lại gần. Hôm ấy Prokho đâu phải là
vật hy sinh đầu tiên trước cơn thịnh nộ của con bò. Hắn lạng sang một bên, đập
đầu vào một cái chốt bánh xe và lập tức đánh luôn một giấc.
Đến nửa đêm hắn tỉnh dậy. Trên đầu hắn, những
đám mây xám xịt như chì quay lộn, bay vùn vụt về phía tây trên bầu trời xanh
cao ngất. Cái lưỡi liềm của vành trăng non chỉ ngó qua kẽ mây trong nháy mắt rồi
bầu trời lại bị mây phủ kín mít như trong một cái gối, và gió lạnh thổi mạnh
trong bóng tối cũng tựa như càng mạnh thêm.
Một đội kỵ binh tiến qua rất gần ngay cạnh
cái xe, chỗ Prokho nằm. Mặt đất than vãn rên siết dưới vô số những vó ngựa đóng
móng sắt. Đánh hơi thấy cơn mưa đã đến rất gần, những con ngựa thở phì phì.
Lách cách tiếng gươm đập vào bàn đạp. Những đốm lửa ở đầu những điếu thuốc hiện
lên đo đỏ. Từ chỗ đại đội tiến qua đưa tới mùi mồ hôi ngựa và cái mùi chua loét
của các đồ trang bị bằng da.
Cũng như tất cả những tên Cô-dắc đã từng đi
lính, qua những năm chiến tranh Prokho đã rất thân thuộc với cái mùi hỗn hợp
này chỉ có thể có ở kỵ binh. Quân Cô-dắc đã mang cái mùi ấy qua tất cả các nẻo
đường từ Phổ và Bucuvin về tới các đồng cỏ của vùng sông Đông và cái mùi ấy,
cái mùi không gì đánh tan được của một đơn vị kỵ binh đã trở nên thân thiết và
quen thuộc chẳng khác gì cái mùi của ngôi nhà thân yêu. Hai lỗ mũi hin hin của
Prokho phập phồng hít lấy hít để, rồi hắn ngẩng cái đầu nặng như chì.
- Đơn vị nào đấy, các anh em?
- Kỵ binh... - Trong bóng tối có một giọng
trầm trả lời tinh nghịch.
- Nhưng tôi hỏi là đơn vị của ai cơ mà?
- Của Petliura ... - Vẫn cái giọng trầm vừa
nãy trả lời.
- Chà cái thằng chết tiệt! - Prokho chờ một
lát rồi nhắc lại câu hỏi, - Trung đoàn nào đấy, các đồng chí?
- Bokovsky.
Prokho muốn đứng dậy, song những mạch máu
trong đầu hắn cứ giật thình thịch, trong họng lờm lợm buồn nôn. Hắn bèn nằm yên
một lát rồi lại thiếp đi. Lúc trời sắp rạng, gió từ sông Đông đưa vào vừa ẩm vừa
lạnh.
- Đã chết chưa? - Trong lúc mơ màng, hắn
nghe thấy phía trên có tiếng người nói.
- Vẫn còn ấm... nhưng say bí tỉ! - Một người
nào đó trả lời ngay bên tai Prokho.
- Lôi mẹ nó ra chỗ khác! Nằm thẳng cẳng như
một cái xác chết ấy! Nhưng thôi, cậu hãy cho nó một cái vào ngực!
Một tên cưỡi ngựa lấy cán giáo thúc vào sườn
Prokho một cái rất đau trong lúc hắn còn chưa tỉnh. Có những bàn tay không biết
của ai cào vào chân hắn, kéo hắn xềnh xệch sang bên cạnh.
- Lôi hết xe cộ đi! Chúng nó ngủ như chết cả!
Kiếm được một lúc như thế này mà ngủ với ngáy? Bọn Đỏ đánh đến đít rồi mà còn
ngủ, làm như ở nhà không bằng! Đẩy hết xe cộ sang bên cạnh, đại đội pháo sắp
qua đây rồi! Quàng quàng lên! Chúng nó chặn hết cả lối đi! Chà cái quâ-â-ân
này! - Một giọng hách dịch gầm lên.
Những người dân chạy nạn đang ngủ trên các
xe và dưới gầm xe bắt đầu cựa quậy. Prokho đứng chồm lên. Trên người hắn chẳng
còn gươm súng gì nữa, cả chiếc ủng bên chân phải cũng đã biến đâu mất, tất cả đều
do hắn tự tìm cách quẳng bớt sau bữa rượu bí tỉ hôm qua.
Hắn ngơ ngác nhìn quanh, định tìm dưới gầm
xe, song những gã giữ ngựa và pháo thủ của đại đội pháo vừa kéo tới đã nhảy
trên ngựa xuống, thẳng tay lật đổ chiếc xe cùng với tất cả các hòm xiểng chất
trên đó, và chỉ nháy mắt đã dọn xong đường cho khẩu pháo tiến qua.
- Ti-i-ến!
Những tên giữ ngựa đã lại lên yên. Những đoạn
dây thắng khâu rất rộng bị kéo thẳng căng rung lên. Những bánh xe rất cao của
khẩu pháo có lồng áo ngoài vấp lạch xạch ở những chỗ ổ gà. Cái trục của một hòm
đạn pháo vướng vào một cái gọng xe, làm gãy cả cái gọng xe.
- Bỏ mặt trận phải không? Lính với tráng, mẹ
chúng mày chứ! - Lão già ồm ồm giọng mũi uống rượu tối qua với Prokho quát to từ
trên xe.
Bọn lính pháo binh đang vội tiến ra chỗ vượt
sông cứ lặng thinh đi qua. Prokho mò mẫm trong cảnh tranh tối tranh sáng lúc trời
sắp rạng, cố tìm khẩu súng trường và con ngựa. Nhưng hắn chẳng thấy đâu cả. Ra
tới gần một chiếc thuyền nhỏ, hắn tháo nốt chiếc ủng còn lại, quẳng xuống sông
rồi nhúng rất lâu cái đầu đau ê ẩm như bị đánh đai sắt xuống nước.
Mặt trời vừa ló thì kỵ binh bắt đầu vượt
sông. Bọn Cô-dắc xuống ngựa, dồn một trăm năm mươi con ngựa đã tháo yên cương của
đại đội Một xuống sông Đông, hơi phía trên chỗ khuỷu sông, nơi con sông rẽ ngoặt
về phía đông thành một góc vuông. Tên đại đội trưởng có bộ râu chổi sể đỏ như
râu ngô mọc rậm rì lên tới mắt và cái mũi quặp. Tướng mạo hắn hung dữ, nom giống
con lợn lòi một cách lạ lùng. Tay trái hắn được đeo lên cổ bằng những sợi băng
bẩn thỉu đầy máu, tay phải luôn luôn quất quất chiếc roi ngựa.
- Không được cho ngựa uống nước! Đuổi đi!
Đuổi chúng nó xuống nước đi! Mà tại sao mày... mẹ... mẹ... mẹ mày chứ, mày sợ
nước à? Lội ngay xuống! Con ngựa của mày không phải là bằng đường, nó không thấm
nước đâu! - Hắn quát bọn Cô-dắc đang xua những con ngựa xuống nước, những cái
răng nhọn hoắt của hắn nhe cả ra dưới hàng ria đỏ lòm.
Những con ngựa cứ rúc vào nhau thành một
đám, không muốn lội xuống nước lạnh. Bọn Cô-dắc vừa quát tháo vừa cầm roi quất
tới tấp. Con ngựa đầu tiên bơi ra khỏi bờ là một con ngựa huyền mũi trắng, trên
trán có ngôi sao màu hồng rất lớn. Xem ra nó bơi lần này không phải là lần đầu.
Hai cái mông xuôi của nó chìm xuống nước, cái đuôi to sợi ngoặt sang một bên,
nhưng cổ và lưng đều nhô lên khỏi mặt nước. Những con khác đều rẽ dòng nước ùa
theo nó, rồi vừa kêu hồng hộc thở phì phì, vừa bơi trong làn nước sủi ngầu. Bọn
Cô-dắc sang theo trên sáu chiếc thuyền. Một trong những tên đi theo đàn ngựa đứng
trên mũi một cái thuyền, lăm lăm trong tay một cái dây thòng lọng, để phòng có
chuyện gì xảy ra.
- Đừng sang thẳng! Cho bơi chếch ngược dòng
nước! Đừng để bị dòng nước cuốn đi.
Cái roi trong tay tên đại đội trưởng lại hoạt
động. Nó vẽ một vòng tròn, quật đánh đét xuống một bên ống ủng bê bết những
vôi.
Dòng nước chảy xối cuốn đàn ngựa đi. Con ngựa
huyền bơi dễ dàng phía trước những con khác, bứt xa tới hai thân ngựa. Nó là
con đầu tiên leo lên bãi cát ở bờ bên trái. Trong khi đó mặt trời đã ló ra sau
những cành hắc dương lồm xồm, ánh sáng hồng hồng dội xuống con ngựa huyền làm bộ
lông đẫm nước bóng nhoáng sáng bừng lên trong giây lát như một đám lửa đen cháy
rực:
- Chú ý con ngựa cái của Mrykhin! Giúp nó với!
Đeo dây mõm vào cho nó. Nhưng chèo đi chứ! Chèo mạnh lên! - Tên đại đội trưởng
tướng lợn lòi quát lên giọng khàn khàn.
Đàn ngựa đã bơi qua sông được an toàn. Bọn
Cô-dắc đã chờ sẵn ở bờ bên kia. Chúng tìm nhận ngựa, mắc dây hàm thiếc. Những
chiếc yên bắt đầu được chở từ bờ bên này sang.
- Hôm qua cháy ở đâu thế? - Prokho hỏi một
gã Cô-dắc đang khiêng một cái yên ngựa lên thuyền.
- Dọc theo sông Tria.
- Cháy vì đạn pháo à?
- Đạn với điếc gì? - Gã Cô-dắc trả lời, giọng
đau khổ.- Bọn Đỏ đốt đấy.
- Đốt tất cả à? - Prokho kinh ngạc hỏi.
- Khô-ô-ông đâu... Chúng nó chỉ đốt nhà của
những kẻ có của, những nhà mái tôn hay những cơ ngơi bề thế thôi.
- Đã có những thôn nào bị cháy rồi?
- Từ Vitlôguzov đến Grachev.
- Thế sư đoàn bộ sư đoàn Một, cậu có biết
hiện giờ ở đâu không?
- Ở Trukarinsky.
Prokho quay về chỗ đoàn xe của dân chạy loạn.
Khu vực nghỉ tạm ngoài trời kéo dài liên miên, chỗ nào cũng thấy gió thổi tạt
những làn khói đắng hắc bốc mù mịt trên những đống củi đốt bằng cành khô, bằng
hàng rào bị phá, bằng phân bò, ngựa khô: cánh đàn bà đang sửa soạn bữa sáng.
Ban đêm còn đến thêm vài ngàn dân chạy loạn
từ dải đồng cỏ bên hữu ngạn. Tiếng người nói nghe rào rào như ong vỡ tổ quanh
những đống lửa và trên những chiếc xe lớn nhỏ:
- Không biết bao giờ mới đến lượt mình được
qua sông nhỉ?
- Chao ôi, chờ đợi mãi sốt cả ruột!
- Lạy Chúa cứ trừng phạt tôi, tôi sẽ đổ thóc
xuống sông Đông cho khỏi lọt vào tay bọn Đỏ!
- Ở bến phà những người là người, cứ như một
đám mây đen!
- Em yêu của anh, chúng mình làm thế nào mà
ném hòm xiểng ở lại trên bờ được?
- Cứ dành dụm mãi đi, cứ dành dụm mãi đi...
Lạy Chúa tôi, cứu tinh của chúng tôi!
- Đáng là phải qua sông ngay ở thôn nhà...
- Chao ôi, mất bao nhiêu hơi sức mới đến được
cái trấn Vosenskaia này!
- Nghe nói Kalinov Ugol đã bị đốt quang.
- Vốn chỉ mong mò được tới bến phà...
- Thôi đi, nếu không chúng nó sẽ tha chết
cho phải không?
- Bên chúng nó đã có lệnh: chém chết hết
dân Cô-dắc từ đứa trẻ sáu tuổi đến những người già nhất.
- Nếu chúng nó tóm được bà con ta ở bờ bên
này... Nếu thế thì sao nhỉ?
- Thịt đây tha hồ mà băm!
Một lão già lông mày bạc phơ, thân hình cân
đối, đang phô tài hùng biện bên chiếc xe bốn bánh sơn lòe loẹt kiểu Tavria. Cứ
nhìn vẻ người và dáng điệu oai vệ của lão thì có thể nhận ra một tên ataman
thôn đã từng giữ nhiều năm cái gậy ataman bịt đồng.
- Tôi hỏi: “Chẳng nhẽ để mọi người đều phải
bỏ mạng trên bờ hay sao? Vậy thì bao giờ chúng tôi mới có thể đem nồi niêu quần
áo sang bên kia sông được? Phải biết rằng bọn Đỏ sẽ chém chết hết chúng tôi đấy!”.
Nhưng vị quan lớn ấy đã bảo tôi: “Bố già ạ, bố đừng lo! Nhân dân còn chưa sang
sông hết thì chúng tôi còn giữ vững trận địa để bảo vệ nhân dân. Chúng tôi thà
bỏ xác ở đây chứ không chịu để vợ con, bố mẹ già bị giết hại đâu!”.
Những lão già và những người đàn bà đứng
vây quanh lão ataman lông mày bạc. Họ hết sức lắng nghe lão nói rồi cùng nhao
nhao kêu lên:
- Thế thì tại sao đại đội pháo lại chuồn
đi!
- Chúng nó phóng như bay ra chỗ qua sông,
thiếu chút nữa thì chẹt chết người ta!
- Cả kỵ binh cũng đã kéo đến rồi...
- Nghe nói Grigori Melekhov đã bỏ mặt trận.
- Như thế này thì còn ra quy củ gì nữa? Bỏ
mặc nhân dân ở lại, còn bản thân chúng nó...
- Quân đội lại rút đi trước!
- Lấy ai bảo vệ chúng ta bây giờ?
- Cứ xem đấy, kỵ binh đã bơi qua sông rồi!
- Anh nào cũng chỉ biết lo cho cái thân xác
của mình...
- Đúng là như thế đấy!
- Mọi người chung quanh đều đã phản bội
chúng ta!
- Mất mạng đến nơi rồi, còn gì nữa!
- Phải cử vài cụ bô lão đem bánh mì và muối
đến chỗ bọn Đỏ. May ra chúng nó sẽ tha chết, không đem ra hành hình.
Một gã kỵ binh bỗng xuất hiện ở lối vào ngõ,
ngay cạnh ngôi nhà gạch đồ sộ của bệnh viện. Khẩu súng trường của gã đeo trên
mũi yên, cái cán giáo sơn xanh lá cây lắc lư bên cạnh sườn gã.
- Nhưng thằng Mikiska nhà tôi đây mà! - Một
người đàn bà đầu trần, đã có tuổi, sung sướng kêu lên.
- Mikiska! Con yêu của mẹ! - Người đàn bà
có tuổi kêu lên, giọng xúc động. Làn tóc đen lẫn những món hoa râm lõa xõa trước
khuôn mặt hân hoan. Bà áp sát người vào bàn đạp, vào con ngựa đầm đìa mồ hôi, hỏi
với nụ cười run run trên môi. Bà già nhảy qua những gọng xe, chạy len qua những
chiếc xe và những con ngựa, đến trước mặt gã cưỡi ngựa. Người ta nắm lấy bàn đạp
giữ gã lại. Gã giơ một chiếc phong bì màu xám có đóng dấu xi lên khỏi đầu, kêu
lên:
- Có báo cáo lên tổng tư lệnh đây! Bà con
tránh cho tôi đi!
- Mày có về thôn nhà chứ?
- Có về. Bây giờ bọn Đỏ đang ở đấy rồi...
- Nhà ta thì sao?
- Nhà ta vẫn còn nguyên. Nhưng nhà Fedortov
bị đốt rồi. Gian nhà kho của nhà ta bắt lửa, nhưng chính chúng nó đã đến dập tắt.
Con Fechixka ở trong ấy chạy ra kể lại rằng thằng quan của bọn Đỏ có bảo:
“Không được để cháy một căn nhà nào của người nghèo, nhưng nhà của bọn tư sản
thì đốt hết đi”.
- Chao ôi, thật nhờ ơn Chúa! Cầu Chúa cứu
thế gia ơn cho họ? - Người đàn bà làm dấu phép.
Một lão già có vẻ mặt nghiêm khắc nói giọng
phẫn nộ:
- Sao bà lại thế nhỉ, bà mẹ thân mến? Chúng
nó đốt nhà láng giềng mà bà lại còn “thật nhờ ơn Chúa” à?
- Quỷ dữ bắt họ đi. - Người đàn nói rất
nhanh, giọng sôi nổi. - Họ còn có thể xây được nhà khác. Còn như nhà tôi mà bị
chúng nó đốt thì còn lấy quái gì mà dựng lại được nữa? Lão Fedot, nhà lão có
chôn một hũ vàng, còn tôi... tôi thì quanh năm suốt đời đi làm mướn cho người
ta, ăn bữa hôm lo bữa mai.
- Thôi buông ra, mẹ! Con có công văn, còn
phải vội. - Gã cưỡi ngựa khom người trên yên, van mẹ gã.
Bà mẹ đi bên cạnh con ngựa, vừa đi vừa hôn
bàn tay rám nắng đến đen sạm của thằng con trai, rồi chạy về chiếc xe của bà,
còn gã cưỡi ngựa kia thì lại gào lên bằng một giọng nam cao rất trẻ:
- Tránh ra nào! Có công văn đến tổng tư lệnh
đây! Bà con tránh ra nào!
Con ngựa của gã hăng máu, ngoáy mông loạn xạ,
vừa đi vừa nhảy. Dân chúng miễn cưỡng tránh sang hai bên. Gã cưỡi ngựa có vẻ
như chỉ tiến được rất chậm, nhưng chẳng mấy chốc gã đã bị lấp sau những chiếc
xe, sau những cái lưng bò lưng ngựa, chỉ còn trông thấy ngọn giáo lắc lư bên
trên rừng người, mỗi lúc một ra gần bờ sông.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét