Sông Đông Êm Đềm
Tác giả: Mikhail Sholokhov
Dịch giả: Nguyễn Thụy Ứng
Nhà Xuất Bản Văn Học - 2005 (xuất bản lần
thứ 6)
Phần VII
6
Ngay sau khi những tên ở Vosenskaia được
tin về cuộc rút lui hấp tấp của các đơn vị Hồng quân, Grigori Melekhov đem hai
trung đoàn kỵ binh bơi qua sông Đông. Rồi chàng phái những đội trinh sát mạnh sục
sạo phía trước và tiến về phía nam.
Chiến đấu đang diễn ra sau ngọn gò ven
sông. Tiếng hỏa lực pháo binh rền như sấm hòa lẫn vào nhau, nghe cứ như âm từ
dưới đất lên.
- Xem ra bọn Kadet này không cần phải dè sẻn
đạn pháo! Chúng nó tổ chức cả một màn hỏa lực di động! - Một tên chỉ huy cho ngựa
tới gần Grigori, nói đầy vẻ thán phục.
Grigori chỉ nín thinh. Chàng cưỡi ngựa tiến
trên đầu đội hình hành quân hàng dọc, và luôn luôn chú ý quan sát chung quanh.
Từ bờ sông Đông tới thôn Batsky, suốt trên chặng đường dài ba vec-xta, dân phiến
loạn đã để lại hàng ngàn chiếc xe vận tải lớn nhỏ. Khắp khu rừng, chỗ nào cũng
có những đồ đạc vứt bỏ ngổn ngang: hòm xiểng, ghế dựa gãy nát, quần áo, đồ thắng
ngựa, máy khâu, những túi thóc, tất cả những gì lòng tham lam tiếc của của các
chủ hộ đã bắt họ phải vơ vét và mang theo trong khi rút lui ra sông Đông. Có những
chỗ trên đường cái, thóc vàng bị đổ tung tóe ngập đến đầu gối. Ngay đấy còn
còng queo những xác bò ngựa thối hoăng, trương phềnh, rữa ra không còn hình thù
gì nữa.
- Làm ăn thế này thì khá thật đấy! -
Grigori sửng sốt kêu lên.
Chàng bỏ mũ, cố nín thở, cho con ngựa đi rất
cẩn thận vòng qua một đống thóc kết thành bánh như một nấm kurgan nhỏ, bên trên
có một lão già nằm dang chân dang tay với cái mũ cát két Cô-dắc và chiếc áo
choàng bằng dạ thô đẫm máu.
- Lão già đã giữ của đến cùng! Ma nào dẫn lối,
quỷ nào đưa đường lão đến bỏ xác nơi đây? - Một tên trong đám Cô-dắc nói giọng
thương hại.
- Có lẽ tiếc quá không muốn bỏ lúa mạch lại...
- Nào thôi, cho chuyển sang nước kiệu đi!
Lão khắm lên không chịu được nữa rồi. Nào! Đi đi kìa! - Những hàng phía sau có
giọng phẫn nộ kêu lên.
Thế là đại đội chuyển sang nước kiệu. Không
ai chuyện trò gì nữa. Trong rừng chỉ còn nghe thấy tiếng rầm rập của hàng ngàn
vó ngựa vang lên rất hòa hợp với tiếng đồ trang bị gọn ghẽ của lính Cô-dắc đập
vào nhau lách cách.
Trận đánh đang diễn ra rất gần trang trại
nhà Litnhitki. Những người lính Hồng quân chen nhau chạy theo cái khe khô cạnh
Yagonyoe. Đạn ghém nổ tung tóe trên đầu họ, súng máy nhả đạn sau lưng họ. Trong
khi đó làn sóng xung phong của trung đoàn kỵ binh Kalmys tỏa ra trên ngọn gò,
chặn đường rút lui của họ.
Grigori cùng hai trung đoàn của chàng tới
nơi thì trận chiến đấu đã kết thúc. Hai đại đội Hồng quân yểm hộ cho những đơn
vị rời rạc và đoàn xe vận tải của sư đoàn 14 rút lui theo đèo Vosenskaia đã bị
trung đoàn Kalmys số 3 đánh tan và tiêu diệt toàn bộ. Từ trên gò Grigori đã
trao quyền chỉ huy cho Ermakov. Chàng bảo hắn:
- Ở đây không có chúng ta họ cũng đã làm
xong việc rồi. Cậu cứ đến chỗ tập kết. Để mình tạt vào trang trại một lát.
- Anh có việc gì mà cần thế? - Ermakov ngạc
nhiên.
- Chà, nói thế nào với cậu bây giờ. Hồi còn
trẻ mình có sống ở đây, đã làm công cho nhà chúng nó, vì thế cũng muốn nhìn qua
nơi cũ một cái.
Grigori gọi Prokho rồi rẽ ngựa về hướng
Yagonyoe. Sau khi đi được nửa vec-xta, chàng nhìn thấy bên trên đại đội đi đầu
có một lá cờ trắng giơ rất cao đập phần phật trước gió. Không biết có gã Cô-dắc
nào lo xa đã kéo nó lên.
“Cứ như đi đầu hàng để làm tù binh!” -
Grigori nhìn đội hình kỵ binh hàng dọc trườn xuống cái khe khô chậm chạp như miễn
cưỡng, bất giác nghĩ thầm với cả một tâm trạng lo lắng, và không hiểu sao cảm
thấy khổ não. Trong khi đó binh đoàn kỵ binh của tên tướng Sekrechev đang cho
ngựa chạy nước kiệu qua đồng cỏ tiến thẳng từ phía trước lại.
Một cảm giác âu sầu và trống rỗng tràn ngập
tâm hồn Grigori khi chàng cho ngựa đi qua cái cổng đổ nát tiến vào sân trang trại
cỏ dại um tùm. Yagonyoe đã khác hẳn xưa, không thể nhận ra được nữa. Bất cứ chỗ
nào cũng in rõ dấu vết khủng khiếp của tình trạng thiếu người trông nom và sự
tàn phá. Ngôi nhà xưa kia đẹp đẽ nhường nào bây giờ nom ảm đạm hẳn đi và như thấp
xuống. Cái mái nhà lâu lắm không sơn lại hiện lên vàng vàng với những đám hoen
rỉ, vài đoạn máng nước gãy rơi xuống nằm lăn lóc bên thềm nhà, những cánh cửa
chớp tuột bản lề thõng xuống xiêu vẹo, gió rú vù vù lùa vào những khung kính vỡ
trên các cửa sổ và từ bên trong đã xông ra cái mùi mốc meo hăng hắc của một nơi
không có người ở.
Góc nhà phía đông và thềm nhà đã bị một quả
đạn pháo ba điu-im phá nát. Ngọn cây phong bị pháo bắn đổ chui qua một khung cửa
sổ kiểu Vơnidơ trên dãy hành lang. Người ta vẫn để cái cây nằm như thế, gốc cây
bị vùi dưới một đống gạch lở từ trên nền nhà xuống. Một cây hốt bố dại mọc
nhanh như thổi đã bò lan quanh những cành khô của cây phong, bám lên những miếng
kính cửa sổ còn nguyên thành những hình kỳ lạ và đã men tới đường gờ trang trí
dưới mái nhà.
Thời gian và mưa nắng đã cho thấy kết quả
công việc của nó. Các căn nhà quanh sân xiêu vẹo hẳn đi, nom cứ như nhiều năm rồi
không có bàn tay con người chăm sóc. Bức tường đá trong tàu ngựa bị nước mưa
xuân xối vào đã đổ, một cơn bão đã tốc mái nhà để xe, chỉ vài chỗ còn vương những
đám rơm lợp nhà mục nát trên những vi kèo và những cái dầm trắng bệch như mặt
người chết.
Ba con chó săn đã mất thói quen sống với
người, nằm ngoài nhà đầy tớ. Vừa thấy có người, cả ba nhẩy chồm dậy, khẽ gầm gừ
lẩn vào phòng ngoài. Grigori cho ngựa đi tới khung cửa sổ mở toang ở đầu chái
nhà. Chàng khom người trên yên, hỏi to:
- Trong nhà có ai còn sống không?
Trong chái nhà lặng thinh giờ lâu, rồi một
giọng đàn bà khê đặc:
- Chờ một chút nhé, lạy Chúa tôi! Tôi ra
ngay đây.
Mụ Lukeria già sọm lệt sệt kéo lê hai bàn
chân đất, bước ra hàng hiên. Bị chói nắng, mụ nheo nheo hai con mắt, nhìn
Grigori rất lâu.
- Thím không nhận ra tôi nữa à, thím
Lukeria? - Grigori xuống ngựa hỏi.
Mãi lúc ấy khuôn mặt rỗ nhằng rỗ nhịt của mụ
Lukeria mới có cái gì run run động đậy, và một vẻ hết sức xúc động đã thay thế
cái thẫn thờ đần độn vừa nãy. Mụ khóc òa lên, mãi chẳng nói được nên Grigori buộc
ngựa, kiên nhẫn đứng chờ.
- Tôi thật chẳng còn hồn vía gì nữa. Cầu
Chúa đừng cho chúng nó dẫn xác tới đây... - Mụ Lukeria đưa chiếc tạp dề bẩn thỉu
bằng vải thô lên lau nước mắt trên má, kể lể. - Tôi cứ ngỡ chúng nó lại kéo đến...
Chao ôi, anh Griska yêu quý, những chuyện xảy ra ở đây... kể thế nào cho hết được!
Chỉ còn một mình tôi ở lại...
- Thế cụ Xaska đâu? Rút lui theo nhà chủ rồi
à?
- Nếu rút lui thì may ra đã còn sống...
- Chẳng nhẽ cụ chết rồi sao?
- Chúng nó đã giết ông cụ... Nằm dưới hầm
nhà đến nay đã được ba ngày... Đáng là phải đem ông cụ đi chôn, nhưng tôi lại
đang ốm... Phải cố lắm mới đứng dậy được... Mà xuống dưới ấy, xuống chỗ người
chết thì tôi sợ chết đi được...
- Vì sao mà chúng nó giết? - Grigori hỏi giọng
âm thầm, mắt cứ dán xuống đất.
- Chúng nó đã giết ông cụ vì con ngựa
cái... Cụ chủ và ông bà chủ của chúng ta đã cuống cuồng rút chạy. Chỉ mang theo
tiền nong, còn bao nhiêu của cải đều để lại gần hết cho tôi giữ. - Giọng mụ
Lukeria chuyển sang thầm thì. - Tôi đã giữ cẩn thận từng cái kim sợi chỉ! Các
thứ chôn dưới đất đến bây giờ vẫn còn nguyên đấy... Ngựa thì chỉ mang theo con
ngựa giống giống Orlovsky, các con khác đều trao cho cụ Xaska. Cuộc phiến loạn
vừa nổ ra thì cả bọn Cô-dắc lẫn bọn Đỏ đều đến lấy ngựa. Con Vikho, con ngựa giống
lông màu huyền ấy, có lẽ anh còn nhớ chứ gì? Nó đã bị bọn Đỏ lấy đi mất hồi đầu
mùa xuân. Chúng nó hì hục mãi mới đóng được yên. Vì từ lúc lọt lòng nó có bị
đóng yên bao giờ đâu. Nhưng bọn kia cũng chẳng được cưỡi nó, chẳng được nhởn
nhơ nghênh ngáo trên lưng nó bao lâu. Một tuần sau anh em Cô-dắc trấn
Karginskaia có qua đây kể chuyện lại. Họ đã chạm trán với bọn Đỏ trên một ngọn
gò, hai bên bắt đầu bắn nhau. Bên Cô-dắc có một con ngựa cái nhỏ, cũng thường
thôi, giữa lúc đó con ngựa cái tự nhiên hí lên. Thế là anh có biết không con
Vikho đã đưa luôn thằng Hồng quân sang chỗ đám Cô-dắc! Nó cứ chạy lao tới với con
ngựa cái, còn cái thằng cưỡi trên lưng nó thì chẳng làm thế nào ghìm lại được.
Đến khi thằng ấy thấy rằng nó không làm thế nào trị nổi con ngựa giống, nó bèn
nhảy xuống giữa lúc con Vikho đang phi như bay. Nhảy thì cũng có nhảy, nhưng một
chân lại không rút được khỏi bàn đạp. Thế là con Vikho đã lôi nó tới nộp cho
anh em Cô-dắc.
- Cừ thật! - Prokho thích thú kêu lên.
- Bây giờ một ông “chủng (chuẩn) úy” ở
Karginskaia đang cưỡi con ngựa giống ấy đấy. - Mụ Lukeria chậm rãi kể tiếp. -
Ông ấy hứa rằng hễ cụ chủ trở về là sẽ đem con Vikho trả về tàu ngựa. Thế là có
bao nhiêu ngựa đều bị lấy đi sạch, chỉ còn độc một con ngựa cái chạy nước kiệu
Strelka, con của con Xugienaia lấy giống con Prime ấy mà. Nó đang có mang, vì
thế chưa bị đứa nào động tới. Nó vừa đẻ con chưa được bao lâu. Cụ Xaska thương
con ngựa con lắm, thương ơi là thương, không thể nào nói được cụ thương nó như
thế nào đâu! Ông cụ nâng niu nó trên tay, dùng bình sữa cho nó bú sữa và một thứ
thuốc sắc bằng một thứ cỏ gì ấy, cho bốn chân nó thêm cứng cỏi. Nhưng rồi tai họa
ập tới... Con ngựa vừa sinh được ba ngày thì có ba thằng cưỡi ngựa tới lúc trời
vừa sẩm tối. Ông cụ đang cắt cỏ trong vườn. Chúng nó quát rầm lên gọi cụ: “Này
cái lão kia, lại đây!”. Ông cụ quẳng cái hái đấy, bước tới chào chúng nó. Nhưng
chúng nó chẳng thèm ngó qua cụ một cái, vẫn cứ uống sữa và hỏi: “Có ngựa
không?”. Ông cụ trả lời: “Cũng có một con nhưng đối với công việc chiến trận của
các bác nó chẳng được tích sự gì đâu. Nó là ngựa cái, vừa sinh nở còn cho con
bú”. Thằng hung hãn nhất trong bọn quát rầm lên: “Việc này không cần đến đầu óc
của lão! Dắt con ngựa cái ra đây, thằng quỷ già này! Con ngựa của tôi bị loét cả
lưng rồi, phải thay con khác ngay đây”. Đáng lẽ ông cụ phải nghe theo chúng nó
và đừng cố giữ lấy con ngựa cái, nhưng chính anh cũng biết tính khí ông cụ như
thế nào rồi chứ gì... Ngay đối với cụ chủ, ông cụ cũng thường chẳng chịu lép nữa
là. Chắc hẳn anh còn nhớ đấy chứ?
- Thế ông cụ nhất quyết không cho à? -
Prokho hỏi xen vào câu chuyện.
- Chà, trong chuyện này thì không cho thế
nào được? Ông cụ chỉ nói với chúng nó: “Trước các bác, đã có nhiều tay kỵ binh
tới đây, dắt đi hết cả ngựa, nhưng họ đều biết thương con ngựa này, còn như các
bác...”. Bọn kia đều đứng cả dậy và làm ầm lên: “À mày làm tay sai cho thằng địa
chủ, mày cố giữ nó cho thằng địa chủ phải không?”. Thế rồi chúng nó lôi ông cụ
ra chỗ khác... Một thằng dắt con ngựa cái ra, bắt đầu đóng yên, nhưng con ngựa
con cứ sán tới vú mẹ. Ông cụ bèn van chúng nó: “Các bác làm ơn làm phúc, đừng
có lấy đi! Còn con ngựa con thì làm thế nào bây giờ?”. “Làm thế này này!” - một
thằng khác nói xong đuổi luôn con ngựa con ra khỏi con ngựa mẹ, rồi hạ khẩu
súng trường trên vai xuống, bắn nó một phát. Ngay đến tôi cũng chảy cả nước mắt...
Tôi bèn chạy đến van xin chúng nó và nắm lấy ông cụ, định kéo cụ ra chỗ khác để
khỏi xảy ra việc gì chẳng lành. Nhưng cụ cứ nhìn con ngựa con, nom thật đáng sợ:
râu cụ rung lên, mặt trắng bệch như bức tường. Cụ bảo: “Nếu thế thì mày bắn cả
tao nữa đi, đồ chó đẻ!”; Rồi cụ xông đến chỗ thằng kia, bám chặt lấy nó, không
để cho nó đóng yên. Thế là chúng phát khùng, gìết mất ông cụ trong cơn tức giận.
Thấy chúng bắn chết ông cụ, tôi hóa điên hóa ngộ... Đến lúc này tôi vẫn còn
chưa biết nên làm thế nào với ông cụ bây giờ. Đáng là phải đóng cho cụ một cái
quan tài hẳn hoi, nhưng việc ấy đâu phải là đàn bà làm được!
- Lấy cho tôi hai cái xẻng và một tấm vải
thô. - Grigori nói.
- Anh định đem ông cụ đi chôn à? Prokho hỏi.
- Phải.
- Đúng là anh cứ tự mình làm nhọc thân
mình, anh Grigori Panteleevich! Cứ để tôi đi kiếm ngay mấy thằng Cô-dắc. Chúng
nó sẽ vừa đóng quan tài vừa đào hố chôn ông cụ cho thật chu đáo...
Xem ra Prokho không muốn bận tay đi chôn cất
một ông già mà hắn cũng chẳng biết là ai, nhưng Grigori kiên quyết gạt phắt ý
kiến của hắn.
- Chúng mình sẽ tự tay đào huyệt chôn ông cụ.
Cụ già này là một người rất tốt. Cậu cứ ra vườn, chờ mình bên bờ ao, để mình
vào thăm ông cụ vừa mất...
Cụ Xaska đã kiếm được nơi yên nghỉ cuối
cùng ngay dưới cây tiêu huyền cành đâm ngang dọc, bên cái ao mọc đầy súng, nơi
trước kia cụ đã chôn đứa con gái nhỏ của Grigori và Acxinhia. Hai người liệm
cái thân hình khô quắt của cụ trong một tấm vải thô sạch sẽ nặc mùi hốt bố, đặt
cụ xuống huyệt rồi lấp đất lên. Bên cạnh nấm mồ nhỏ xíu đã thấy mọc thêm một nấm
mồ nữa, chất đất sét ẩm mới đào lên được nện chắc bằng đế ủng sáng nhấp nhoáng
nom rất vui mắt.
Trong lòng bị đè nặng bởi những hồi ức,
Grigori nằm lên lớp cỏ, ngay gần cái nghĩa địa nhỏ xiết bao thân thương và ngắm
giờ lâu bầu trời xanh ngắt trải rộng một cách hùng vĩ bên trên. Gió lang thang ở
một chỗ nào đó trên khoảng không mênh mông, cao ngất, những đám mây lạnh giá thấp
thoáng dưới ánh mặt trời đang chập trờn trôi đi. Nhưng sự sống vẫn diễn ra sôi
sục trên mảnh đất vừa tiếp nhận con người yêu đời, yêu ngựa và yêu rượu là cụ
Xaska: trên cánh đồng cỏ lan tới sát khu vườn như làn nước lũ xanh mướt, trong
những bụi gai mọc um tùm bên dãy cọc hàng rào đóng quanh cái sân đập lúa cũ,
luôn luôn vang lên tiếng những con cun cút đánh nhau loạt xoạt, tiếng chuột đồng
kêu chi chí, tiếng ong đực bay rùng rùng, tiếng cỏ xào xạc dưới làn gió ve vuốt,
tiếng sơn ca hót ngân trong lớp sương mù tuôn cuồn cuộn, và ở một nơi rất xa có
một khẩu súng máy nổ trầm trầm, dai dẳng và hung hãn để khẳng định cái vĩ đại của
con người trong thiên nhiên.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét