Sông Đông Êm Đềm
Tác giả: Mikhail Sholokhov
Dịch giả: Nguyễn Thụy Ứng
Nhà Xuất Bản Văn Học - 2005 (xuất bản lần
thứ 6)
Phần VI
51
Ngày hôm sau trước khi ra đi, Grigori đã phải
có vài lời biện bạch với Natalia. Nàng gọi chàng ra một chỗ rồi khẽ hỏi:
- Đêm qua anh đi đâu thế? Anh ở đâu mà về
muộn thế?
- Làm gì mà muộn?
- Không muộn thì còn gì nữa? Em tỉnh dậy
lúc gà gáy đợt đầu vẫn chẳng thấy anh đâu...
- Kudinốp đã đến đây. Anh phải đến chỗ hắn
dự cuộc họp về công việc quân sự của anh. Đó không phải là chuyện đầu óc đàn bà
các em lo được.
- Nhưng tại sao hắn không lại nhà ta nghỉ
đêm?
- Hắn vội đi ngay Vosenskaia ngay.
- Thế hắn vào ở nhà ai?
- Nhà Abosenkov. Hình như nhà này có họ xa
với hắn thì phải.
Natalia không hỏi thêm gì nữa. Có thể thấy
là nàng có phần xiêu xiêu, nhưng ánh mắt vẫn kín dáo, vì thế Grigori vẫn không
thể biết được rằng nàng có tin mình hay không.
Chàng ăn vội vã bữa sáng. Ông Panteley
Prokofievich ra thắng ngựa, còn bà Ilinhitna thì làm dấu phép, hôn Grigori và
khẽ nói rất nhanh:
- Con, con ơi... mày đừng quên mất Chúa đấy!
Người ta đồn rằng mày đã chém những người lính thủy... Lạy Chúa tôi! Nhưng
Griska ạ, mày phải tỉnh ngộ lại mới được! Mày hãy xem kìa, mày còn có hai đứa
con phải nuôi cho khôn lớn, và có lẽ những người bị mày chém chết cũng để lại
những đứa con thơ... Chao ôi, sao lại có thể làm như thế được? Hồi còn bé mày dịu
dàng, mày đáng yêu như thế, mà bây giờ mày cứ sống với cặp lông mày nhíu lại
như thế này. Mày hãy cẩn thận, khéo không tim mày biến thành tim lang tim sói mất
đấy. Mày phải nghe lời mẹ, Griska ạ? Mày cũng chẳng phải là có bùa phép gì, lưỡi
gươm của kẻ ác rồi cũng có thể tìm thấy cái cổ của mày thôi...
Grigori mỉm một nụ cười chẳng có gì vui vẻ,
chàng hôn bàn tay khô héo của mẹ rồi bước tới trước mặt Natalia. Nàng ôm hôn
chàng một cách lãnh đạm rồi quay đi ngay. Trong cặp mắt ráo hoảnh của nàng,
Grigori không nhìn thấy một giọt lệ nào mà chỉ nhận thấy một vẻ chua chát và nỗi
căm uất thầm kín... Chàng chia tay với hai con rồi lên đường...
Chàng đưa chân giữ bàn đạp, nắm lấy đám
lông bờm ngựa cứng như rễ tre và không hiểu sao tự nhiên có ý nghĩ: “Chà, thế
là cuộc đời mình lại chuyển theo hướng mới rồi, nhưng trái tim mình vẫn cứ lạnh
lẽo và trống rỗng như cũ... Xem ra thì cả Acxinhia cũng không lấp nổi chỗ trống
ấy đâu...”.
Bố mẹ, vợ con đứng túm tụm bên cạnh cổng
nhà, chàng cũng chẳng ngoái nhìn lại, cứ cho ngựa đi bước một theo dọc phố. Khi
đi qua nhà Astakhov, chàng liếc nhìn vào trong cửa sổ thấy Acxinhia đứng trong
cái khung cửa sổ trên bức tường phía sau ở phòng trong.
Nàng mỉm cười giơ một chiếc khăn thêu vẫy
chàng, nhưng lại lập tức vo chiếc khăn áp lên miệng, lên cặp mắt thâm quầng sau
một đêm mất ngủ...
Grigori cho con ngựa chạy một nước kiệu rất
nhanh dùng trên đồng không. Đến lúc con ngựa lên dốc, chàng nhìn thấy trên con
đường mùa hè có hai người cưỡi ngựa và một chiếc xe bò đang từ từ tiến từ phía
trước lại. Chàng nhận ra hai người cưỡi ngựa là gã Anchip, con lão “Vua nói
phét” và Stremiannhikov, một gã Cô- dắc còn trẻ, đen thủi, nhỏ bé nhưng táo tợn,
ở đầu thôn. “Chúng nó lại mang xác những thằng bị giết về rồi”, Grigori nhìn
chiếc xe bò, đoán như vậy. Chưa tới chỗ hai gã Cô- dắc, chàng đã hỏi:
- Các cậu chở ai thế?
- Aleksey Samin, Tomilin Ivan và Yakov
“Móng lừa”.
- Chết trận à?
- Ngỏm rồi!
- Bao giờ thế?
- Hôm qua trước lúc mặt trời lặn.
- Đại đội pháo còn nguyên vẹn chứ?
- Còn nguyên. Bọn Đỏ đã bao vây các pháo thủ
của chúng ta trong nhà chúng nó ở tại Kalinovyi Ugol. Còn Samin thì bị chúng nó
chém chết một cách hết sức... ngớ ngẩn!
Grigori bỏ mũ, tụt trên ngựa xuống. Người
đàn bà Cô-dắc đã nạ dòng, dân vùng sông Tria, đang đánh chiếc xe bèn cho hai
con bò đứng lại. Grigori còn chưa kịp bước tới chỗ chiếc xe thì một làn gió hiu
hiu đã đưa tới mũi chàng một mùi nhạt nhạt lợm lợm. Aleksey Samin nằm giữa, cái
áo trermen cũ rích màu lam của hắn mở phanh, bên tay áo rỗng xếp dưới cái đầu bị
bổ đôi. Bọc trong một miếng giẻ bẩn thỉu, mẩu còn lại của cái tay cụt từ lâu lắm
rồi, trước kia vẫn hay động đậy như thế, bây giờ nằm áp chặt trên lồng ngực nở
nang không còn chút hơi thở nào nữa. Một vẻ phẫn nộ rất là man rợ mãi mãi ngưng
đọng trên cái miệng của Aleksey với hai hàm răng trắng nhởn nhe ra trong lúc chết,
nhưng hai con mắt he hé vẫn nhìn bầu trời xanh ngắt, nhìn những đám mây bập bềnh
trôi trên đồng cỏ một cách bình thản, và tựa như âu sầu, mơ mộng...
Mặt Tomilin thì không còn nhận ra được nữa.
Thật ra đó không còn là một bộ mặt mà chỉ là một cái gì đỏ lòm chẳng ra hình
thù gì cả với vết một nhát gươm róc chéo. Yakov “Móng lừa” nằm nghiêng, mặt
vàng như nghệ, cổ vẹo hẳn đi vì đầu gã đã bị chém gần lìa khỏi cổ. Chiếc áo
quân phục cổ chui mầu cứt ngựa mở phanh cho thấy cái xương quai xanh bị chém đứt,
và trên trán, phía trên con mắt một chút có một vết đạn bê bết những máu nom
như hình một ngôi sao đầy những tia đen xịt. Có lẽ một người nào đó trong đám
chiến sĩ Hồng quân thương gã Cô-dắc chết quá đau đớn, đã bồi thêm cho gã một
phát đạn gần sát miệng súng, vì thế trên mặt gã Yakov “Móng lừa” đã chết vẫn
còn in một vết bỏng và những điểm thuốc đạn đen đen.
- Thôi anh em ạ, chúng ta hãy hút điếu thuốc
để tưởng nhớ ba anh em cùng thôn, cầu cho hương hồn các cậu ấy được yên nghỉ. -
Grigori nói rồi bước sang bên cạnh, tháo cái dây đai bụng lồng dưới yên ngựa, mở
dây buộc mõm và cuốn dây cương vào chân trước bên trái của con ngựa, mặc cho nó
đi ăn những lá cỏ xanh rờn, bóng nhoáng như lụa, lên thẳng vút như những mũi
tên.
Anchip và Stremiannhikov vui vẻ xuống ngựa,
buộc hai chân sau hai con ngựa và thả cho ăn cỏ. Cả ba nằm xuống. Họ hút thuốc.
Grigori ngắm con bò mộng đầy những tụm lông
bết lại từng đám còn chưa rụng, đang vươn cổ tới những khoảng cỏ xa tiền ngắn củn.
Chàng hỏi:
- Thế Samin đã chết như thế nào?
- Anh Panteleevich ạ, anh có thể tin rằng hắn
đã chết do một sự ngớ ngẩn của chính hắn hay không?
- Sao thế?
- Anh thử xem, câu chuyện như thế này này,
- Stremiannhikov bắt đầu kể. - Hôm qua, lúc trời xế chiều, chúng tôi ra đi
trinh sát. Chính Platov Riaptrikov đã phái chúng tôi đi dưới quyền chỉ huy của
một tay quản... Anchip nhỉ, cái tay quản đi cùng với chúng mình hôm qua tên là
gì nhỉ?
- Ôn dịch nào biết được!
- Cũng chẳng sao, mặc mẹ hắn! Hắn ở một đại
đội khác, chúng tôi không quen. Pha-a-ải... Thế là chúng tôi ra đi, tất cả có
mười bốn thằng Cô-dắc, Samin cũng có trong số đó. Hôm trước đó hắn phởn suốt
ngày, vì thế xem ra trong lòng hắn cũng chẳng cảm thấy trước điều gì cả! Trên
đường đi hắn cứ ngọ nguậy mẩu tay cụt, ném dây cương lên mũi yên và bảo: “Chà,
không biết bao giờ cái anh chàng Grigori Panteleevich của chúng mình mới về nhỉ?
Chỉ mong được cùng với anh chàng ấy túy lúy và ca hát một chầu thôi!”. Thế là hắn
cứ cất cái giọng cao như giọng con nít của hắn mà hát cho đến khi tới gò
Latysevsky:
Như
hoàng trùng
Ta sà
xuống núi đồi
Súng
Berdanca nào ta bắn!
Toàn
thể anh em Cô-dắc sông Đông!
Thế là chúng tôi cứ cho ngựa đi như vậy tới
khoảng đất trũng gần khe Tovkaia. Đến đấy tay quản bảo. “Các cậu ạ, chẳng thấy
bóng vía bọn Đỏ đâu cả. Có lẽ chúng nó còn chưa mò ra khỏi làng Axtakhovaya
đâu. Bọn mu-gích chúng nó lười chảy thây, đâu có chịu dậy sớm, có lẽ đến bây giờ
mới đang rán gà của bọn khô-khon để ăn bữa trưa. Bọn mình hãy nghỉ một lát đã,
kẻo con ngựa nào cũng đẫm mồ hôi rồi”. Chúng tôi bảo: “Được thôi, cũng chẳng
sao”. Thế là chúng tôi xuống ngựa, nằm xuống cỏ và cắt một cậu lên ngọn gò cảnh
giới. Chúng tôi nằm đấy một lát. Tôi nhìn ra thì thấy anh chàng Aleksey đã yên
nghỉ đây, luẩn quẩn giờ lâu bên cạnh con ngựa của hắn và tháo cái đai bụng. Tôi
bèn bảo hắn: “Aleksey này, cậu đừng tháo đai bụng ra thì hơn, nếu không, cầu
Chúa tránh cho cái tội đó, nhỡ chúng mình phải tức tốc đi ngay thì sao? Mà cậu
thì làm thế nào buộc lại đai bụng với cái tay tàn tật của cậu được?”. Nhưng hắn
vẫn nhăn nhăn nhở nhở: “Mình làm những việc ấy còn nhanh hơn cậu nhiều! Một thằng
nhãi ranh như cậu mà dám lên mặt dạy mình à?”. Thế là hắn tháo đai bụng, tháo cả
dây buộc mõm ngựa. Chúng tôi nằm đấy, cậu thì hút thuốc, cậu thì kể chuyện cổ
tích, có cậu lại thiu thiu ngủ. Trong khi đó cái cậu cảnh giới của chúng tôi
cũng ngủ. Hắn nằm ở đấy, dưới chân một cái kurgan nhỏ rồi ngủ khuấy đi mất.
Nhưng tôi chợt nghe thấy như đằng xa có tiếng ngựa thở phì phì. Tôi ngại chẳng
muốn dậy chút nào, nhưng cuối cùng vẫn cứ đứng dậy rồi mò từ dưới chỗ lòng chảo
lên ngọn gò. Lên đến trên ấy nhìn xuống thì thấy chỉ cách chúng tôi chừng một
trăm bước có một bọn Đỏ đang cưỡi ngựa đi dưới khe. Đi đầu là thằng chỉ huy của
chúng nó cưỡi con ngựa màu hạt dẻ. Con ngựa của nó đúng là một con sư tử. Chúng
nó mang theo cả một khẩu súng máy loại băng tròn. Tôi bèn chạy lao ngay xuống
lòng chảo, kêu rầm lên: “Có bọn Đỏ! Lên ngựa!”. Và có lẽ chúng nó cũng trông thấy
tôi. Lập tức chúng tôi nghe thấy bên chúng nó có tiếng ra lệnh, bèn nhảy ngay
lên ngựa. Tay quản rút gươm, muốn xông lên xung phong. Nhưng xung phong xung
phiếc cái gì, vì bên ta chỉ có mười bốn, còn chúng nó thì đến nửa đại đội, lại
có cả một khẩu súng máy! Chúng tôi bèn cưỡi ngựa bỏ chạy. Chúng nó nã súng máy
bắn quét theo. Song cái khe đã cứu chúng tôi, vì tuy chúng nó có trông thấy
chúng tôi, song khẩu súng máy không bắn tới được. Khi đó chúng nó bèn đuổi theo
chúng tôi. Nhưng ngựa của chúng ta tốt hơn, chúng tôi chạy thoát. Sau khi chạy
đã khá xa, chúng tôi lăn từ trên ngựa xuống, bắt đầu bắn lại. Mãi lúc ấy mới thấy
rằng Aleksey Samin không còn có mặt trong số chúng tôi nữa. Như thế tức là
trong lúc mọi người đang nháo cả lên, hắn cũng ra lấy ngựa. Nhưng có lẽ khi hắn
đưa bên tay lành ra nắm lấy mũi yên, chỉ có một chân lồng vào bàn đạp, còn cái
yên thì tuột xuống dưới bụng ngựa. Samin chưa nhảy được lên lưng ngựa thì đã chạm
trán với bọn Đỏ. Nhưng con ngựa vẫn chạy theo chúng tôi, hai lỗ mũi như phụt lửa,
cái yên vẫn lủng lẳng dưới bụng. Nó sợ hết hồn hết vía, không để cho ai lại gần
và cứ thở phì phì như một con quỷ dữ! Aleksey đã toi mạng như thế đấy! Nếu hắn
không tháo cái đai luồn qua đệm yên thì có phải vẫn còn sống không? Đằng này...
- Stremiannhikov mỉm một nụ cười sau hàng ria đen đen, kết thúc câu chuyện. -
Hôm kia anh chàng cứ luôn miệng hát:
Này hỡi
ông gấu,
Bò
tôi ông xơi,
Đầu
lâu tôi ông moi sạch...
Bây giờ thì đúng là đầu lâu hắn đã bị chúng
nó moi sạch... Mặt hắn không còn nhận ra được nữa! Ở chỗ ấy, máu trong người hắn
chảy ra nhiều như một con bò bị chọc tiết ấy... Sau đó, khi đã đánh lui bọn Đỏ,
chúng tôi quay về chỗ lòng chảo thì thấy hắn vẫn còn nằm đấy. Bên dưới người hắn
có một vũng máu lênh láng, xác hắn cứ như nổi lên trên ấy.
- Thế nào, sắp đi chửa? - Người đàn bà đánh
xe sốt ruột, kéo chiếc khăn bịt đầu che nắng ra khỏi miệng rồi hỏi.
- Cái nhà thím này, đi đâu mà vội mà vàng.
Sắp về đến nơi rồi đấy!
- Không vội thế nào được? Những cái xác này
xông lên cái mùi nặng đến lảo đảo cả người đây này.
- Làm thế nào mà có một mùi nhẹ nhàng được?
Mấy thằng vừa chết đây trước kia vừa nhai thịt lại vừa mò đàn bà. Mà thằng nào
đã làm những trò ấy thì chưa chết cũng đã bắt đầu có mùi rồi. Thiên hạ đồn rằng
chỉ những ông thánh thì chết đi mới có mùi thơm, nhưng theo tôi thì cái chuyện ấy
là láo toét. Thành gì thì thánh, chứ đã chết rồi thì theo qui luật tự nhiên,
anh chàng nào cũng đều thối hoăng như một chuồng xí công cộng. Thánh gì thì
thánh cũng vẫn phải tọng thức ăn vào bụng và lòng ruột cũng vẫn dài đủ số ba
mươi ác-sin mà Chúa đã ban cho con người... - Anchip nói có vẻ tư lự.
Nhưng không hiểu sao Stremiannhikov tự
nhiên phát khùng lên, gã quát to:
- Nhưng cậu cần đến các ông thánh làm cái
quái gì? Dính dáng với thánh với thần làm cái gì? Thôi ta đi đi!
Grigori chia tay với hai gã Cô-dắc rồi bước
tới gần chiếc xe bò từ biệt ba gã đồng hương vừa qua đời. Mãi lúc này chàng mới
nhận thấy rằng cả ba đều chân không và dưới chân chúng có lót những cái ống của
ba đôi ủng.
- Sao lại tháo ủng của người chết như thế
này?
- Anh Grigori Panteleevich ạ, đó là anh em
Cô- dắc chúng tôi làm bậy đấy. Ủng của mấy cậu vừa chết đều còn tốt. Anh em
trong đại đội bèn bàn nhau tháo những đôi ủng tốt ra, cho mấy cậu đang phải đi ủng
xấu, còn ủng xấu thì đem về thôn. Vì người chết cũng còn có gia đình. Để cho
con cái mấy cậu này đi thừa ủng xấu cũng được. Cậu Anikey đã bảo thế này: “Người
chết thì không phải đi bộ, cũng không phải cưỡi ngựa nữa. Các cậu hãy cho mình
đôi ủng của Aleksey, đế còn tốt lắm. Nếu không mình chờ đến khi lột được đôi bốt-tin
của một thằng Đỏ thì đã chết cóng rồi”.
Grigori bỏ đi. Chàng đi rồi còn nghe thấy
hai gã Cô- dắc cãi nhau rất hăng. Stremiannhikov quát lên bằng một giọng nam
cao lanh lảnh:
- Cậu chỉ nói láo, Brekhovich ạ! Chính vì
thế mà ngay ông già cậu cũng đã được gọi là “Vua nói phét” rồi đấy! Dân Cô-dắc
làm quái gì có ông thánh nào? Tất cả các ông thánh đều xuất thân mu-gích cả.
- Không, có đấy chứ?
- Nói láo như con chó dái ấy!
- Không, có đấy!
- Thế ai nào?
- Thánh Egori Vô địch thì sao?
- Xi- i- ì? Thôi im đi, đồ ôn dịch? Ông
thánh ấy mà là dân Cô-dắc?
- Chính cống dân sông Đông đấy, sinh ở một
trấn miền dưới, hình như là Xemicara Korskaia thì phải.
- Chà, lại còn cố nói liều! Đầu tiên phải
suy nghĩ cho kỹ rồi hãy nói. Ông ấy không phải là dân Cô-dắc đâu!
- Không phải là dân Cô-dắc ấy à? Thế tại
sao người ta lại vẽ ông ấy với một ngọn giáo?
Sau đó Grigori không còn nghe thấy gì nữa.
Chàng thúc ngựa chạy nước kiệu, xuống một cái khe nhỏ, và khi vượt qua con đường
của các vị Ghet-man, chàng lại nhìn thấy chiếc xe bò và hai gã cưỡi ngựa từ từ
xuống dốc về thôn.
Cho tới khi về gần tới Karginskaia, Grigori
vẫn cho con ngựa chạy nước kiệu. Ngọn gió hiu hiu giỡn trong bờm con ngựa không
đổ mồ hôi một lúc nào. Vài con chuột đồng lông nâu nâu, mình dài ngoẵng chạy
qua đường, chúng sợ hãi kêu chi chí. Tiếng chuột rít nghe chọc vào tai như báo
trước điều gì và phù hợp một cách lạ lùng với bầu không khí trầm mặc hùng vĩ
đang ngự trị trên đồng cỏ. Vài con gà nước đực bay vụt lên trên những ngọn gò,
những đường gờ hai bên đường. Một con gà nước nhỏ hối hả đập cánh rất nhanh,
bay lên cao, bộ lông trắng muốt như tuyết phát ra những tia lấp lánh dưới nắng.
Khi lên đến đỉnh trời, nom nó như nổi dập dờn trên khoảng mênh mông xanh ngắt,
cổ nó vươn thẳng ra trong đà bay vun vút với cái vòng màu nhung đen đánh đai
chung quanh như một cái vòng cưới. Con gà nước bay mỗi lúc một xa, nhưng sau
khi bay được chừng một trăm xa-gien, nó bắt đầu xuống thấp, cánh vỗ càng gấp
hơn, và có vẻ như đứng yên một chỗ. Đến khi nó xuống tới sát mặt đất hai đám
lông cánh sáng rực lóe lên lần cuối như ánh chớp trắng lóa trên cái nền xanh rờn
của đủ mọi thứ cỏ, và con gà nước bị làn cỏ nuốt mất, không để lại tăm tích gì
nữa.
Chỗ nào cũng nghe thấy cái tiếng “tơ-rrgi”
của những con gà nước đực kêu gọi đắm đuối, sôi nổi. Khi lên đến đúng đỉnh một
ngọn gò ven sông Tria, Grigori ngồi trên yên nhìn thấy cách đường cái vài bước
có một chỗ gà nước đạp mái; một khoảng đất tròn bằng phẳng, đường kính rộng tới
một ác-sin rưỡi, đã bị dẫm rất chắc dưới chân những con đực đánh nhau để tranh
cướp con mái. Bên trong chỗ đạp mái này không thấy còn sót sợi cỏ nào: khắp mặt
là một lớp bụi màu xám rất phẳng lấm tấm những vết chân chim nom như những chữ
thập nhỏ. Nhưng chung quanh cái khoảng đó, trên những cành cỏ dại và ngải cứu
khô còn bám đầy những cái lông phấp phới trước gió, với những nét lằn vằn rất
nhạt trên một cái nền hồng hồng.
Đó là lông lưng và lông đuôi của những con
gà nước đánh nhau. Gần đấy có con mái xấu xí, lông xám xịt nhảy ra khỏi tổ. Nó
gù gù cái lưng như một bà cụ, lon ton đạp rất nhanh hai cái chân nhỏ xíu, chạy
xuống dưới một bụi cỏ đôn-nhích héo quắt còn lại từ năm ngoái rồi trù trừ không
muốn vỗ cánh bay lên, lủi ngay vào trong bụi.
Do hơi xuân, một sức sống hừng hực, mãnh liệt,
tràn trề, dồn dập như tiếng tim đập sôi nổi, nhưng mắt người không nhìn thấy,
đang tràn ngập đồng cỏ. Cỏ tốt bời bời. Chim muông cũng như những con thú lớn
nhỏ đã thành đôi thành lứa đều lẩn tránh con mắt hau háu tàn bạo của con người
để trốn đi yêu nhau trong những cái tổ kín đáo trên đồng cỏ. Hằng hà sa số những
mầm lúa mọc lên nhọn hoắt trên những khoảng đất cày. Chỉ có loại cỏ dại “bay
theo gió” mọc năm ngoái đã sống hết đời cỏ là ủ rũ gục đầu trên sườn những nấm
Kurgan xưa kia dùng làm vị trí cảnh giới rải rác khắp đồng cỏ và áp mình xuống
đất như xin được che chở. Song những làn gió nhẹ mát rượi và đầy sức sống vẫn
tàn nhẫn bẻ gãy tận gốc những đám cỏ khô giòn và thổi lăn đi ngang dọc trên khắp
vùng đồng cỏ vừa sống lại dưới ánh nắng chói chang.
*
* *
Grigori về tới Karginskaia trước khi trời
hoàng hôn. Chàng cho ngựa chạy qua sông Tria, và trong tàu ngựa gần một trang
trại Cô-dắc, chàng đã tìm thấy Riaptrikov.
Sáng hôm sau chàng nhận lại từ tay
Riaptrikov quyền chỉ huy các đơn vị của sư đoàn Một hiện đang đóng rải rác ở
các thôn. Chàng đọc qua mấy bản tin tóm tắt mà bộ tư lệnh vừa gửi tới, trao đổi
ý kiến với tham mưu trưởng sư đoàn Mikhail Kopylov rồi quyết định tấn công về
phía nam tới làng Axtakhovo.
Các đơn vị thiếu đạn tới mức nguy ngập. Muốn
kiếm được đạn thì phải chiến đấu để cướp lấy. Đó cũng là mục đích chủ yếu của
trận tấn công mà Grigori quyết định tiến hành.
Trước khi trời hoàng hôn, ba trung đoàn kỵ
binh và một trung đoàn bộ binh được điều về Karginskaia. Trong số hai mươi hai
khẩu vừa trung liên vừa trọng liên hiện có trong sư đoàn, chỉ quyết định mang
theo sáu khẩu, vì các khẩu kia không có băng đạn.
Sáng hôm sau sư đoàn xuất phát tấn công.
Trên đường đi, Grigori để sư đoàn bộ ở lại một nơi nào đó, nắm quyền chỉ huy
trung đoàn kỵ binh số Ba, phái những đội trinh sát kỵ binh thăm dò phía trước,
rồi tiến quân về phía nam, theo hướng làng Ponomanov theo đội hình hành quân.
Theo tin của trinh sát, hai trung đoàn bộ binh Hồng quân 101 và 103 đang tập
trung ở làng này. Chính hai sư đoàn này cũng đang sửa soạn tấn công
Karginskaia.
Chàng rời khỏi trấn ba vec-xta thì có một
tên liên lạc đuổi kịp, trao cho chàng bức thư của Kudinov:
“Trung
đoàn Xerdovsky đã đầu hàng chúng ta! Tất cả những thằng lính hạng bét ấy đều bị
tước vũ khí. Trong số chúng nó, chừng hai mươi thằng chống cự lại đã bị
Bogatyrev cho về với ông bà ông vải: hắn đã ra lệnh chém chết hết. Chúng nó đã
nộp cho bên ta bốn khẩu pháo (nhưng các khóa hậu đã bị bọn pháo thủ cộng sản khốn
kiếp tháo vứt kịp), 200 quả đạn pháo và 9 khẩu súng máy. Quân ta mừng hết chỗ
nói! Chúng ta sẽ phân tán bọn lính Hồng quân về các đại đội bộ binh, bắt chúng
nó phải đánh lại bè lũ chúng nó. Tình hình ở chỗ cậu như thế nào? Mà còn việc
này nữa, thiếu chút nữa thì quên mất: có bắt được hai thằng cộng sản đồng hương
với cậu: Kotliarov, Kosevoi cùng nhiều thằng khác ở trận Elanskaia. Tất cả những
thằng ấy sẽ bị khử trên con đường đi Vosenskaia. Nếu cậu quá cần đạn thì cứ bảo
thằng cầm giấy này, bọn mình sẽ gửi cho khoảng 500 viên.
Kudinov”.
- Liên lạc! - Grigori quát to.
Prokho Zykov lập tức cho ngựa chạy tới.
Nhưng nhìn thấy mặt Grigori mất hết thần sắc, hắn sợ quá, thậm chí đưa tay lên
vành mũ:
- Anh ra lệnh gì ạ?
- Gọi Riaptrikov! Riaptrikov đâu?
- Ở cuối đội hình.
- Phóng ngay đi! Gọi ngay lên đây!
Platon Riaptrikov cho ngựa chạy nước kiệu,
vượt lên trước đội hình hành quân hàng dọc, tới ngang Grigori. Gió thổi làm mặt
hắn bong cả da, bộ ria và hai hàng lông mày bị nắng xuân thui cháy đỏ lấp loáng
như lông cáo. Hắn mỉm cười, vừa cho ngựa chạy vừa phì phèo điếu thuốc. Hắn cưỡi
một con ngựa được cho ăn đầy đủ, lông màu hạt dẻ sẫm, không bị sút đi chút nào
sau những tháng mùa xuân. Con ngựa chạy một nước kiệu nhẹ rất vui, những bắp thịt
trên ngực nhấp nhoáng.
- Có thư từ Vosenskaia đấy à? - Từ xa
Riaptrikov nhìn thấy gã liên lạc bên cạnh Grigori bèn kêu lớn.
- Có thư, - Grigori trả lời, giọng dè dặt.
- Cậu hãy nhận lấy trung đoàn và sư đoàn. Mình phải đi đây.
- Được thôi, chẳng sao cả, anh cứ đi đi.
Nhưng có gì mà vội vã thế? Thư viết gì đấy? Của ai thế? Của Kudinov à?
- Trung đoàn Xerdovsky đã đầu hàng ở
Ust-Khop...
- Sa-a-ao? Chúng ta vẫn còn sống được à?
Anh đi ngay bây giờ à?
- Đi ngay bây giờ.
- Thôi, cầu Chúa che chở cho anh. Anh trở lại
sư đoàn thì chúng tôi đã có mặt ở Axtakhovo rồi!
“Làm thế nào cướp lại Miska và Kotliarov...
Sẽ được biết đứa nào giết Petro... và cứu Kotliarov, Miska khỏi bị giết! Phải cứu
mới được. Giữa hai bên đã có đổ máu, nhưng có phải là người dưng nước lã đâu!”
- Grigori vừa nghĩ thầm vừa quất tới tấp, cho con ngựa phi như bay từ trên gò
xuống.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét