Bẩy Hựu
Tác giả: Nguyên Hồng
Anh Hai Răng vàng không còn trẻ trung can
trường như mấy năm trước. Cảnh tù tội đầy ải đã làm yếu ớt cả phần xác và phần
hồn Hai, một người cằn cỗi, xấu xa, mất hết lương tri. Bốn tháng tù ở Hà Đông,
tám tháng ở đề lao Nam Định, hai năm ở Hỏa lò Hà Nội, và ngót mười năm ở Côn
Lôn, bao nhiêu cái trai trẻ của Hai Răng vàng đều phung phí một cách đáng tiếc,
đáng tiếc như hai cái răng vàng của anh, vì một lời khiêu khích mà anh giơ thẳng
tay bẻ, đem bán lấy tiền làm tiệc thết đãi anh em.
Bữa tiệc ấy cách đây hơn mười năm, long trọng
và vui vẻ, bữa tiệc đầy những tiếng lóng kỳ dị, tiếng hò hét ầm ĩ của một bọn “anh
chị” trong cái xã hội “chạy vỏ” (ăn cắp) không bao giờ hết người.
Đốt ngọn đèn dầu lạc, Hai Răng vàng lơ mơ
nghĩ đến thời xưa. Cái quá vãng của anh tuy nhơ nhớp nhưng mà sao khác thường
thế, khiến bây giờ tưởng tới anh chẳng khỏi thèm thuồng. Mới mười chín tuổi đầu
mà danh tiếng anh lừng lẫy khắp vùng bến tàu, bến ôtô ở Hà Nội. Anh chẳng kiêng
nể ai, trái lại, ai cũng phải kiêng nể anh vì anh táo tợn, cầm lưỡi dao sắc nhọn
đâm sâu vào ngực người, anh không hề thay nét mặt vì anh can trường, nghe tòa kết
án mình vài năm tù anh chỉ cười tràn. Cái đức tính ấy nó nâng anh lên một địa vị
cao quý, nghĩa là dân “chạy vỏ” từ “vỏ gộc” (đứa ăn cắp lớn tuổi) đến “vỏ lỏi”
(kẻ cắp nhỏ
tuổi) từ “yêu” (kẻ cắp lâu năm, can án nhiều lần) đến “tiểu
yêu” (kẻ cắp
gần được chức “yêu”) đều phải kính phục, nhường nhịn anh, gọi là “anh”
Hai Răng vàng.
Rồi những khi thua cháy cờ bạc, hết cả “bướu”
(tiền),
anh không cần phải vay mượn ai hoặc mó đến công việc gì hơi nặng nhọc, gặp đứa
ăn cắp nào quen mặt, anh túm ngay lấy, bắt nó nộp tiền “bồi” cái thuế mà “dân vỏ”
bắt buộc phải nộp cho ông “trùm vỏ” hay ông “vỏ anh chị”.
Một luồng gió qua sân rộng lùa vào nhà. Ngọn
đèn dầu lạc hơi rung rinh. Hai Răng vàng nhẹ nhích người ra vươn cánh tay khép
cảnh cửa sổ. Thấy một bóng người thấp thoáng, Hai liền cất tiếng khàn khàn gọi:
- Bảy! Bảy Hựu!
* * *
Nhưng không phải! Hai Răng vàng trông lầm.
Bảy Hựu hiện đương mải miết nghĩ cách “làm tiền” giữa những phố tấp nập. Bảy lo
sao tối nay và ngày mai bữa thuốc phiện của Hai được đầy đủ.
Chợt một bóng người vận âu phục lướt qua
trước mặt Bảy. Bảy vội ngẩng đầu lên, nhanh như cắt, Bảy đưa cặp mắt sắc sảo thầm
đếm những tờ giấy bạc mà người nọ vừa đi vừa soạn để cho vào ví. Một đồng...
hai đồng... ba, bốn, năm, sáu đồng... chín, mười đồng... rồi thì vừa đúng mười
lăm đồng.
Mười lăm đồng! Hay năm lạng thuốc phiện
chính cống! Hay bao nhiêu sự vui sướng làm hả hê lòng người mà Bảy thương yêu
vô cùng: Hai Răng vàng!
Đến đầu phố Ba Ty, người vận âu phục dừng
bước. Hắn ta đứng trước một gian hàng, yên lặng ngắm những giầy, những mũ, những
sơ mi bày rất khéo trong tủ kính sáng choang. Bảy Hựu nhẹ bước tới gần, toan
rút chiếc ví đầy bạc. Nhưng nhác thấy bóng mình nổi bật trên mặt kính, Bảy phải
vờ lảng cách xa hắn vài thước để chờ cơ hội.
Vài phút sau, một bọn thợ tan tầm lộn xộn
chen chúc nhau từ đằng xa đi lại. Bảy Hựu tiến ngay đến bên hắn, nhẹ nhàng đưa
hai ngón tay - ngón trỏ và ngón giữa - rút cái ví trong túi quần, thì... vừa
lúc chiếc ví gần ra khỏi miệng túi, hắn bước đi một bước để nhìn kỹ chiếc áo sơ
mi ở cuối tủ. Ví tiền kẹp hờ ở hai đầu ngón tay Bảy, rơi xuống vỉa hè; hào xu
vãi tung tóe; Bảy vội vàng cướp lấy ví mà không được: hắn giật mình, nhanh tay
nhặt mất rồi!
- Ăn cắp! Con ăn cắp, các ông các bà ơi!
Bảy phát uất lên, chạy như biến vào cái ngõ
hẻm gần đấy, rồi rẽ qua một ngõ hẻm nữa sang phố bên kia. Đến ngã tư, Bảy nhập
bọn với tụi phu hồ và đưa mắt trông hút người vận âu phục nọ.
Trong một phút, Bảy nghĩ đến khi xưa, Hai
Răng vàng còn trai trẻ và Bảy còn bím tóc, hai anh em cùng đi “làm tiền”. Giọng
nhớ tiếc, Bảy Hựu khẽ nói:
- Giá anh Hai đứng “cản” (đứng chắn)
cho mình “mõi” (móc)
thì “cá” (ví)
“mẻ béng” (mất
ngay) chứ còn gì!
Rồi Bảy Hựu chặc lưỡi, quả quyết đuổi theo
người vận âu phục. Bảy phải lấy cho kỳ được cái ví tiền kia để chuộc lại cái lỗi
Bảy vừa có ý tưởng chê trách người anh nghiện ngập lười nhác.
* * *
Hai Răng vàng thở xong khói thuốc phiện, duỗi
dài chân, vắt tay lên trán.
Bỗng con dao lá mạ cài trên đỉnh màn rơi cắm
phập xuống giường. Lưỡi dao rung rung, lấp lánh trước ngọn đèn tờ mờ.
Hai rùng mình.
Lưỡi dao như hãy còn đẫm máu và đương khát
máu. Mà máu, máu là hình bóng của quãng đời dĩ vãng gian ác, hung tàn của Hai.
Hai lại rùng mình.
Tiếng gió đùa rì rào trong các bụi cây vắng
vẻ tha thiết như tiếng gọi huyền bí. Hơn nữa, như tiếng trách oán của một kẻ
sôi nổi, ghen hờn.
Hai lại rùng mình và lạnh toát cả người.
Hai cảm thấy sự hổ thẹn vì đã để cho khói
thuốc phiện làm tê liệt lòng hăng hái. Và Hai lại cảm thấy mình hèn nhát nữa. Một
sự thèm thuồng, khao khát bùng lên trong tâm trí Hai, làm Hai lại thích “khai”
(móc túi, xẻo,
cắt) thích “hiếc” (ăn cắp) thích đương đầu với các “anh chị” chứ
không muốn sống một cách ươn hèn, nhờ vả người em gái “chạy vỏ”.
Không thể chịu đựng được sự kích thích, Hai
Răng vàng cởi ngay áo, nhảy phắt xuống giường, Anh đứng thẳng người lấy tấn, rồi
đi bài quyền Liên Hoa mà anh bỏ bẵng đã hai năm nay, sau khi được tha ở Côn Lôn
về.
Bây giờ Hai Răng vàng là một nhà võ sĩ!
Xong bài quyền, Hai không thấy chút mệt nhọc,
trái lại sung sướng và bồng bột. Anh liền chạy lại rút lưỡi dao cắm trên giường.
Anh đi luôn thêm bài Ngọc Trản. Lưỡi dao sáng lấp lánh vun vút dưới ánh trăng rất
nhịp với cánh tay Hai hãy còn mềm mại gân guốc.
- “Te” (đẹp) quá! “Te” mù trời anh Hai ơi!
Hai giật mình, dừng tay múa, trông lại đằng
cửa ngõ: Bảy Hựu! Bảy Hựu sung sướng, giọng run run:
- “Ken” (thuốc phiện) đây, anh Hai.
Dứt lời, nàng dúi vào tay Hai ba hộp thuốc
phiện vàng, mỗi hộp năm đồng cân. Hai cảm động cầm chặt lấy. Anh trố mắt nhìn
em, trạnh thương em bấy lâu vì mình mà phải gian nguy vất vả.
... Hai người cùng im lặng.
... Gió thu càng rì rào, to và lạnh lùng hơn
nữa.
* * *
Bầu không khí yên lặng trong nhà Hai Răng
vàng đã biến đổi. Khói thuốc phiện ở ba chiếc tẩu bốc um lên hòa lẫn với mùi rượu,
mùi các món nấu trở nên nồng nực. Muốn Hai sống lại ngày vui vẻ, oanh liệt khi
xưa, Bảy Hựu nhân dịp trùm chạy vỏ chợ Sắt bị bắt, làm một bữa tiệc thết đãi
anh em bạn bè Hai để xem bọn họ cắt máu ăn thề và cử người lên thay Xuân Rồng
làm trùm.
Một lúc lâu, thuốc phiện đựng trong những
cóng đã vơi quá nửa, thức ăn dùng gần hết, rượu đã hai lần thay chai. Ăn uống,
hút sách đã no nê, say sưa, mọi người trong bọn liền đứng dậy, dõng dạc cất tiếng
nói:
- Này anh em!
Một người khác chòng ghẹo, vặn hỏi:
- Anh em gì chứ?
- Dân “yêu”, dân “vỏ”.
Tức thì cả bọn vỗ tay reo ầm lên:
- Thế thì đúng lắm rồi!
Thấy chúng bạn huyên náo, kêu la ầm ĩ. Ba
Đen, người nói đầu tiên, phải cao giọng thong thả bảo mọi người:
- Xin anh em “lịch sự” một chút, để cùng
nhau bàn chút việc...
Tư Chơi láu táu cướp lời:
- Việc gì?
Hai Béo đang hút thuốc lào cũng quẳng xe
đi, xen thêm một câu hỏi:
- “Mổ” (ăn uống) hay “trô” (hút)?
Hàn Rám má nét mặt hầm hầm, vỗ tay xuống
bàn:
- Cứ pha mãi thôi! Để anh Ba nói, xem việc
gì nào!
Trước cặp mắt long sòng sọc ẩn dưới đôi
lông mày chổi xuể của Hàn Rám má, Tư Chơi, Hai Béo và mấy người khác im bặt
chuyện. Bảy Hựu đứng lên khẽ bấm Hai:
- “Anh chị” có khác! Hàn oai đấy!
Hai Răng vàng nhìn Hàn không đáp, nhếch mép
mỉm cười.
Chờ ai nấy đều đã im bặt, Ba Đen bê ra giữa
nhà một thau nước, một con gà, một lưỡi dao, một cái đĩa, để tất cả lên cái bàn
con. Anh châm hương, cắm vào bát, rồi nói:
- Nay anh Xuân Rồng đã bị bắt, mà anh em
chúng ta đều bị “cớm” (mật thám và đội xếp) tầm nã riết, vậy tôi nhân
cuộc hội họp này cùng anh em cắt máu ăn thề, rồi cử một người lên thay anh Xuân
Rồng để gây một bè đảng có thể đối chọi với... đời! Chẳng biết anh em có bằng
lòng không?
Ba vứt dứt lời, tiếng vỗ tay ran lên như
pháo. Sửu Nháy nhảy ngay ra giữa nhà sấn sổ toan thề. Ba Đen ngăn lại:
- Không được!
- Sao lại không được?
Với bộ mặt của kẻ thạo đời, Ba dõng dạc
đáp:
- Phải khai tên tuổi, quê quán và án tích để
anh em chấm xem có đáng mặt “chơi” thì rồi mới thề, mới uống máu chứ!
Sửu Nháy cười khà vỗ ngực nói luôn:
- Tôi là Sửu Nháy, hai mươi mốt tuổi, không
cha mẹ, không anh em vợ con, không quê quán...
- Can án mấy lần?
- Can án sáu lần, tổng cộng bốn năm tù.
- Thề thế nào?
- Xin nguyện hết lòng giúp đỡ, bênh vực anh
em, giữ kín công việc của anh em, nếu sai lời sẽ bị trời chu, đất diệt.
Ba Đen chờ Sửu thề xong, hất hàm hỏi mọi
người:
- Có đáng không?
Thấy mọi người gật gù, Ba xắn tay áo lên, đến
bên thau nước, rửa sạch bàn tay, rồi nắm chặt cổ gà đưa dao cắt. Con gà trống
giãy giụa, máu tươi rỏ ròng ròng trên cái đĩa để bên cạnh bát hương. Sau vài tiếng
ằng ặc, con vật nọ nhắm nghiền mắt, rũ sõng hai cánh. Ba ném nó vào xó nhà, giục
Sửu uống máu. Nhưng Sửu nhe răng cười:
- Uống thế này thì “rệp” (dùng để chỉ những
kẻ hèn hạ, nhát gan) lắm, anh Ba.
Ba Đen trừng mắt nhìn, Sửu nói tiếp:
- Lấy chính máu mình hòa lẫn máu anh em để
cùng nhau uống thời mới anh hùng chứ. Chắc anh sợ đau nên mới giết gà lấy máu
thay máu người, thôi “phế” đi!
Hàn Rám má, Tư Chơi và Bảy Hựu tán thành:
- Phải đấy, phải đấy Sửu ạ!
Sửu Nháy liền đổ đĩa máu gà xuống nền nhà,
rút dao ở túi ra, cắt đầu ngón tay. Ba Đen lấy đĩa khác hứng máu Sửu, Sửu lùi
ra một bên. Tư Chơi bước vào. Nắm chặt bàn tay, Tư đấm mạnh vào ngực thề:
- Tôi là Tư Chơi, hai mươi tư tuổi, không
quê quán, anh em, cha mẹ, can án tám lần, tổng cộng bảy năm tù, nguyện như Sửu
Nháy nếu sai lời xin quỷ thần hai vai bắt hộc máu chết tươi.
Dứt lời, không thèm dùng dao, Tư chơi đưa
ngón tay út lên miệng nhai ngáu một cái. Đầu ngón tay giập rỏ máu ròng ròng lên
cái đĩa. Rồi đến lượt Hai Béo, du côn ở Lạc Viên, Hàn Rám má, trùm “chạy vỏ” suốt
phố Khách và phố Đầu Cầu, Ba Đen trùm “chạy vỏ” và “anh chị” ở bến tàu... và
sau cùng, Hai Răng vàng. Hai Răng vàng ung dung đứng trước bát hương, giơ tay
lên đầu thề:
- Tôi là Hai Răng vàng, hai mươi tám tuổi,
không cha mẹ, không quê hương, tám lần tù và một lần đi đày, hiện đương có “bùng”,
(án biệt xứ.
Thường thường người có án biệt xứ ở Bắc Kỳ không được lai vãng đến những thành
phố: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và những tỉnh to: Hà Đông, Bắc Ninh...),
nguyện hết lòng làm việc với anh em, bao giờ cũng can trường, bênh vực anh em,
nếu sai lời, xin bị phanh thây, xé xác.
Thề xong, anh thản nhiên ghé răng cắn đứt đầu
ngón tay cho máu mình rỏ vào đĩa.
- Thôi không còn ai nữa chứ?
Bảy Hựu đang náo nức, long lanh nhìn giọt
máu tụ trong đĩa, thấy Ba Đen hỏi liền hợm hĩnh đáp:
- Gớm! Các anh quên “bỉ” này hẳn?
Ba Đen vỗ vai Bảy cười:
- Thì thề đi!
Bảy lanh lẹn bước ra trước bát hương, giơ
cao tay, cứng cỏi thề:
- Tôi là Bảy Hựu, hai mươi tuổi, không cha
mẹ, không quê quán...
Tư Chơi xen lời hỏi cợt:
- Không cả chồng con?
Bảy mỉm cười:
- Phải, không cả chồng con, theo anh là Hai
Răng vàng giang hồ từ thuở nhỏ, can án sáu lần, cộng bốn năm tù, xin nguyện như
anh em, và nếu sai lời, sẽ bị chết đâm, chết chém ở đầu đường, xó chợ.
Bắt chước Hai Răng vàng, khi thề xong Bảy Hựu
cắn ngón tay lấy máu. Để cho máu Hựu chảy đến giọt thứ chín, Ba Đen rót một ít
rượu vào đĩa, nâng cao đưa cho Bảy:
- Này, chị uống trước đi.
Bảy Hựu đón lấy đĩa máu, nhấp luôn ba nhấp.
Chất rượu pha với máu của các “anh chị” những tay du côn, những “so chạy vỏ”,
như làm Bảy say sưa. Mặt Bảy đỏ gay lên, gò má nóng bừng. Bảy long lanh đưa mắt
nhìn mọi người, rồi quay bảo Hai Răng vàng, giọng run run:
- Đây này, em uống rồi đấy! Anh uống đi!
Ba phút sau, cuộc thề xong, Hai Răng vàng
vì nhiều lần can án, và trước cũng là anh chị cừ khôi, được mọi người cử lên
thay Xuân Rồng.
... Muốn phô trương thanh thế của khu vực
mình, bọn “tay chơi” bên xi-moong làm một đầu sư tử thật oai, đem diễu ở các phố
cùng hơn trăm đầu sử tử của các bọn khác.
Dưới trăng thu tròn và sáng như chiếc đĩa bạc,
thành phố Hải Phòng huyên náo lạ thường. Người ta phải nhức đầu vì những tiếng ồn
ào liên miên không phân biệt, người ta phải nhức mắt trước ánh sáng của những
bó đuốc tẩm dầu bốc cháy ngùn ngụt. Không phải Tết Trung thu yên lặng, đầy thi
vị nữa mà là một tối hỗn độn, rộn rịp của ngày hội Chiến thắng (Fête de la
Victoire của Pháp vào ngày 11 tháng 11) về một năm phồn vinh.
Đến tám giờ tối, phố xá càng tấp nập, càng
huyên náo... Đèn đuốc sáng rực trời. Trong đám bụi lầm, đầu sư tử do một “tay
chơi” bên xi-moong múa càng thêm dũng mãnh. Cướp luôn giải của ba đám sư tử
khác, sư tử xi-moong nghênh ngang đi rong phố với những tiếng chiêng, trống ủng
hộ mỗi phút một giòn giã.
Chợt một tràng pháo tới tấp vang lên. Hiển
Độc long, người cầm đầu “sư tử xi-moong” dừng bước. Hắn hất hàm trừng mắt nhìn
chiếc đầu sư tử do Ba Đen trong bọn “chạy vỏ” nhào múa trước một hiệu Khách.
Bấy giờ tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng
thanh la của bọn Ba Đen nổi ầm ầm, rung động cả một góc trời, át cả tiếng trống,
tiếng chiêng của bọn Hiển.
Giải sắp treo!
Hai Răng vàng truyền khua mạnh thêm chiêng,
trống, rồi anh cầm đôi dao quắm nhảy ra giữa vòng người, vờn trước Ba Đen. Vội
vàng, Hiển Độc long dẫn thủ hạ phi tới. Hắn giơ gậy, nhắm Hai Răng vàng đánh.
Hai không kịp đề phòng bị rơi mất dao và bị một gậy giáng suốt sống lưng. Hai
phải giở quyền vừa đỡ, vừa hô:
- Hàn Rám má! Tư Chơi! Nháy! “Vạng” (đánh)
đi “nhẩu” (nhanh)
lên!
Nhưng Hàn, Tư Chơi, Sửu Nháy cùng các bạn
Hai cũng bị bọn du côn bên xi-moong vây tròn, cũng đương cố gắng đỡ những ngọn
gậy, những mũi dao của hàng chục tay chơi kỳ khôi.
Hai Răng vàng hơi luống cuống. Đường quyền
của Hai hơi rối loạn vì những miếng gậy lanh lẹn và hiểm hóc của Hiển Độc long.
Hai vừa phải đỡ, vừa lùi về phía Bảy Hựu đứng. Sau Hai đưa mắt thầm bảo Bảy “chuồn”.
Rồi đá Hiển một đá, chàng bỏ chạy.
Hai mệt lắm! Biết có đứng lại cũng không thể
đương đầu với bọn Hiển. Bao nhiêu sức lực của Hai đã bị khói thuốc phiện làm
tiêu tan hết. Cả cái can trường của Hai!
Trong người Bảy Hựu bỗng sôi lên! Bảy nhận
thấy rõ rệt sự yếu ớt kém hèn, sự thất bại đau đớn đã đến lôi kéo Hai đi, và chỉ
trong ít phút nữa sẽ đến lôi kéo Bảy cùng các bạn cùng nghề.
Trong giây phút, Bảy Hựu chợt nhớ tới đĩa
máu thề. Bảy dằn tiếng hỏi một “vỏ lõi”.
- “Đoàn” (dao) của mày đâu?
- Đây! Nhưng chị làm gì?
Không đáp, Bảy Hựu vội thọc tay vào cạp quần
thằng bé đứng sau lưng, rút lưỡi dao ra. Mắt Bảy hoa lên, miệng Bảy sùi bọt. Bảy
nhắm giữa ngực Hiển Độc long thẳng tay đâm. Nhanh mắt, Hiển né mình tránh được,
thuận chân đá trúng mạng mỡ Bảy. Bảy ngã sấp xuống, lưỡi dao cầm trong tay đâm
trở lại suốt ngực Bảy. Máu tươi vọt ra, lai láng trên hè.
Những tiếng kêu hồi hộp, vui vẻ, sợ hãi
nhao nhao lên, bụi đường, khói đuốc bốc lên làm át cả tiếng Bảy Hựu hơi thở cuối
cùng, làm mờ cả cặp mắt Bảy ráo hoảnh đang từ từ nhắm mắt lại trước khi chua
chát nhìn theo Hai và các bạn đồng nghề lẩn lút chạy trốn trong đám đông người.
1937
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét