Chuyến Tầu Định Mệnh
Tác giả: Georges Simenon
Người dịch: Nguyễn Hữu Hiệu
NXB Hội Nhà Văn - 11/2017
Chương 6
Có những điểm mốc chính thức, những ngày
tháng, mà hẳn người ta có thể tìm thấy trong sách. Tôi cho rằng mỗi người, tùy
thuộc vào việc họ ở đâu thời kỳ ấy, gia cảnh, các mối lo riêng tư, đều có những
điểm mốc riêng. Tất cả các điểm mốc của tôi đều gắn liền với trung tâm tiếp cư,
với trung tâm, như chúng tôi thường nói vắn tắt, được đánh dấu bởi một con tàu
nào đó mới tới, bởi sự sắp đặt một khu trại mới, bởi một biến cố có vẻ tầm thường
bề ngoài.
Chúng tôi không biết rằng chúng tôi thuộc
những người đến đầu tiên, hai ngày sau khi các chuyến tàu đổ dân tị nạn Bỉ xuống,
thành thử trung tâm còn chưa đông đặc người.
Những dãy lều, hãy còn mới, được dựng lên
cách đây nhiều tuần lễ, phải chăng chúng được dự liệu cho việc này? Tôi chẳng hề
nảy ra ý nghĩ đặt câu hỏi. Có lẽ đúng như thế vì, rất lâu trước khi quân Đức tấn
công, nhà cầm quyền đã di tản một phần vùng Alsace.
Dẫu vậy, không ai chờ đợi các biến cố diễn
ra với một nhịp điệu nhanh đến như vậy và hiển nhiên là người ta đã phải ứng biến
theo kiểu đến đâu hay tới đó.
Buổi sáng ngày chúng tôi tới, báo chí đã
loan báo những trận đánh ở Monthermé và trên sông Semois; ngày hôm sau, quân Đức
dựng cầu ở Dinant cho chiến xa của họ và, ngày 15 tháng Năm, nếu tôi không lầm,
cùng lúc người ta thông báo chính phủ Pháp thoái bộ, nhật báo lại nhắc đến, bằng
những hàng chữ lớn, tên các địa điểm ở vùng tôi, Montmédy, Raucourt, Rethel, những
nơi mà chúng tôi đã vất vả lắm mới tới được.
Tất cả những chuyện đó đều tồn tại, đối với
tôi cũng như với những người khác, đúng thế, nhưng chúng xảy ra tại một thế giới
xa xôi, thuần lý thuyết, mà tôi dường như đã tách lìa.
Tôi rất muốn thử định nghĩa trạng thái tinh
thần tôi, không phải chỉ những ngày đầu, mà trong suốt thời gian tôi sống ở
trung tâm.
Chiến tranh tồn tại, mỗi ngày một xao xác
hơn, thực hơn, chúng tôi đã có kinh nghiệm về nó khi tàu chúng tôi bị oanh tạc.
Ngây dại ngỡ ngàng, chúng tôi đã đi qua một vùng hỗn độn nơi người ta còn chưa
đánh nhau, nhưng là nơi mà các trận đánh sắp nối tiếp nhau.
Điều đó hiện đang xảy ra. Tên những thành
thị, làng mạc, mà chúng tôi đọc thấy khi đi ngang qua, trong ánh nắng, bây giờ
chúng tôi lại đọc thấy bằng chữ lớn trên trang nhất các tờ báo.
Vùng này, quá đó một chút chúng tôi từng ngạc
nhiên thấy nhiều đám người đi dự lễ mixa về và các thành thị đỏm dáng, trải dài
mỗi ngày và những con tàu khác đi theo đường tàu của chúng tôi, những chiếc xe
hơi khác lúc lắc di chuyển khắp nẻo đường, nối đuôi nhau, tấm nệm trên mui, với
mấy chiếc xe trẻ con, những ông già bà cả yếu ớt và vài con búp bê.
Con sâu róm dài thòng đó bò tới tận La
Rochelle, diễu hành trước mắt chúng tôi hướng về Bordeaux.
Những người đàn ông, đàn bà, trẻ em chết
như người thợ máy của chúng tôi đã chết, mắt mở lớn nhìn lên bầu trời xanh. Những
người khác chảy máu như ông cụ cầm khư khư chiếc khăn tay đỏ lòm trước mặt, rên
la như người đàn bà bị bắn văng mất bả vai.
Tôi phải xấu hổ mà thú nhận điều này: tôi
không tham gia thảm kịch ấy. Nó ở ngoài chúng tôi. Chuyện đó không trực tiếp đụng
chạm tới cá nhân chúng tôi nữa.
Có thể cả quyết rằng khi ra đi, tôi đã biết
điều tôi sắp tìm thấy: một phạm vi nhỏ vừa tầm với tôi, nó sẽ trở thành nơi
nương náu của tôi và tôi nhất thiết phải xâm nhập nó.
Vì lẽ trung tâm tiếp cư được dành cho dân tị
nạn Bỉ nên Anna và tôi, chúng tôi bất hợp lệ ở đó. Bởi thế chúng tôi đã cố thu
mình lại, tránh không nhận xúp trong những lần phân phát đầu để khỏi bị để ý.
Người ta đặt một cái lò thấp ngoài trời, rồi
hai, rồi ba, rồi bốn, với mấy cái thùng rất lớn, giống những cái hay được dùng
nấu đồ ăn cho heo, ở các trang trại.
Về sau, người ta dựng một trại mới, dạng tiền
chế, làm nhà bếp, với vài cái bàn đóng cứng xuống đất nơi chúng tôi có thể ngồi
ăn.
Theo sau là Anna, nàng không rời tôi nửa bước,
tôi quan sát đường ra lối vào, không chậm trễ, tôi hiểu ngay cách tổ chức của
trại, đúng ra, đó là một ngẫu tác tùy cơ ứng biến liên tục.
Một người chuyên lo về vụ đó, một tên Bỉ,
người đã hỏi tôi hôm tôi tới và là người tôi hết sức tránh. Bao quanh hắn là một
số thiếu nữ và hướng đạo sinh, trong đó có những hướng đạo sinh lớn ở Ostende từ
một trong các chuyến tàu đầu tiên đổ xuống.
Người ta lọc qua loa, trong đám dân tị nạn,
phân ra những người hữu dụng và những kẻ vô dụng, nghĩa là những người có thể
làm việc và những kẻ, ông già bà cả, phụ nữ và trẻ em, mà người ta chỉ có thể
nuôi ăn và cho ở đậu.
Về phương diện lý thuyết, trại là một chỗ
nghỉ chân mà người ta chỉ phải qua một vài giờ hay một đêm.
Những xưởng thợ làm việc phục vụ công tác
quốc phòng, ở Aytré, ở La Pallice và các nơi khác, đòi hỏi nhân công và người
ta cần nhiều tiều phu, trong một khu rừng lân cận, để cung cấp củi cho các lò
bánh mì.
Loạt xe ca chở các chuyên viên và gia đình
họ tới những nơi này, tại đó các ủy ban địa phương cố gắng lo liệu nơi ăn chốn ở
cho họ.
Còn về phần những phụ nữ cô quả, những gia
đình thiếu người chồng, những cá nhân không dùng được, người ta chuyển họ tới
các thành phố không có kỹ nghệ, như Saintes hay Royan.
Mục tiêu của Anna và tôi, ngay tắp lự, là
được ở lại trại và khiến chúng tôi được chấp nhận vào đó.
Nữ y tá đi xe hơi mang đồ ăn cho chúng tôi
chiều qua, tên là bà Bauche và trong mắt tôi, là nhân vật chính, thành thử, như
một học sinh muốn chinh phục đặc ân của thầy giáo mình, tôi dồn hết cả sự chú ý
vào bà.
Bà ta không to lớn, có da có thịt, gần như
mập mạp, tuổi chừng, như tôi đã nói, từ ba mươi đến bốn mươi và tôi chưa hề thấy
ai trưng bày từng ấy năng lượng với một vẻ tươi vui cũng ngang bằng như thế.
Tôi không biết bà có bằng y tá hay không.
Bà thuộc xã hội thượng lưu ở La Rochelle, vợ một ông bác sĩ hay kiến trúc sư,
tôi không còn nhớ nữa, vì có chừng bốn năm người cùng với bà, họ thuộc cùng tầng
lớp và tôi lẫn lộn địa vị của các ông chồng.
Vừa khi người ta thông báo có một chuyến
tàu sắp tới, bà là người thứ nhất có mặt ở ga, không phải, như những người đeo
băng tay khác, để phân phát kẹo bánh và những lời ủy lạo, mà với mục đích xem
trong đám đông những người nào cần được giúp nhất.
Song song với các biến cố càng ngày càng dồn
dập, số người này càng ngày càng đông đảo thêm, và người ta thấy bà đưa những
người tàn tật, trẻ sơ sinh, người già cả đau ốm nhất vào một trong mấy trại, ở
đó, quỳ gối, mặc bờ lu trắng, bà lau rửa những bàn chân bầm tím, băng bó những
vết thương, kéo ra đằng sau một cái chăn dùng làm màn che những thiếu phụ cần
coi sóc đặc biệt.
Rất thường khi, nửa đêm, bà vẫn còn ở đó,
dùng đèn bấm bỏ túi soi đường, lặng lẽ đi một vòng quanh trại, an ủi những người
đàn bà đang khóc lóc, la rầy đám đàn ông quá ồn ào.
Hệ thống điện thiết lập gấp rút, nay hư mai
hỏng, và khi tôi đề nghị điều chỉnh lại, bà Bauche đã hỏi tôi:
- Ông rành chuyện đó à?
- Đó là một chút nghề mọn của tôi. Tôi chỉ
cần một cái thang.
- Ông hãy tự kiếm một cái.
Tôi đã định vị được một ngôi nhà đang xây cất,
trước cửa nhà ga, trong một dãy nhà mới. Tôi đi tới công trường và vì không có
ai để xin phép, tôi vác cái thang đi, với sự giúp đỡ của Anna. Cái thang này ở
trại lâu cũng như tôi mà không có ai tới đòi lại.
Tôi cũng thay những cửa kiếng, sửa vòi nước,
ống dẫn nước sát mặt đất. Bà Bauche không biết họ tôi, cũng không hiểu tôi từ đâu
tới. Bà kêu tôi là Marcel và quen sai đi kiếm tôi mỗi khi có gì trục trặc.
Sau ba bốn hôm, tôi trở thành người bách
nghệ cái gì cũng làm. Leroy đã biến mất cùng lô người thứ nhất, bị gửi đi
Bordeaux hay Toulouse gì đó. Trong toa tôi, lão Jules là người duy nhất được ở
lại trại, người ta dung lão vì lão làm hề mua vui cho mọi người.
Trong thành phố, tôi gặp lại gã ngậm ống vố
mà tôi gọi là gác cổng. Bận rộn, gã hối hả báo cho tôi biết khi đi ngang qua,
là gã tới tòa thị chính đòi người ta cho biết tin tức vợ gã và tôi không gặp lại
gã nữa.
Chuyện đó xảy ra vào ngày thứ hai hay thứ
ba gì đó. Hôm trước, Anna đã giặt quần lót và nịt vú của nàng, rồi phơi ra nắng
và, đi lang thang trong trại, chúng tôi thông đồng nhìn nhau khi nghĩ rằng nàng
trần truồng dưới cái rốp đen.
Một ngọn tháp lớn đứng sừng sững ở cuối bờ
ke, ngọn tháp đồng hồ, to lớn bề thế hơn những ngọn tháp phòng vệ hai bên lạch,
và người ta phải đi qua bên dưới nó để đến phố chính.
Vòm tháp này sẽ trở nên quen thuộc với
chúng tôi, cũng như các con phố nhiều vòm tường nơi bầu không khí náo động đến
khó tin ngự trị vì, ngoài thị dân ở đó và dân tị nạn, thành phố còn là nơi trú
của quân đội và thủy quân.
Khi tôi tỏ ý muốn mua đồ lót cho Anna, nàng
không phản đối. Cái đó không thể thiếu được. Tôi tự hỏi tại sao không lợi dụng
cơ hội này để mua cho nàng một chiếc rốp sáng màu mà chúng tôi thấy bày nhan nhản
ra đó. Chắc nàng cũng nghĩ tới điều này, vì nàng đoán được hết cả những gì
thoáng qua đầu tôi.
- Em biết đó, - tôi nói với nàng, - anh rất
muốn được tặng em một chiếc rốp...
Nàng không nghĩ phải phản đối vì lịch sự,
như bao nhiêu người khác hẳn sẽ làm, dù chỉ là hình thức, và nàng vừa nhìn tôi
vừa mỉm cười.
- Sau đó? Anh định nói thêm gì vậy?
- Thêm rằng anh lưỡng lự, đầy ích kỷ. Đối với
anh, chiếc rốp đen của em giống như là một phần của em vậy. Em hiểu không? Anh
tự hỏi không biết anh có thất vọng khi thấy em ăn mặc khác thế chăng?
- Em rất sung sướng, - nàng vừa thầm thì vừa
siết chặt những đầu ngón tay tôi.
Tôi cảm thấy rằng đúng như vậy. Tôi cũng
sung sướng. Vì chúng tôi đang đi qua trước cửa một tiệm bán nước hoa son phấn,
tôi dừng lại.
- Em không dùng phấn và son môi sao?
- Trước kia, có.
Nàng không muốn nói là trước khi gặp tôi,
mà là trước khi đến Namur.
- Em có thích dùng lại không?
- Tùy anh. Chỉ trong trường hợp anh thích
em trang điểm hơn.
- Không.
- Nếu thế em thích không dùng hơn.
Nàng cũng không muốn cắt tóc, lúc đó không
ngắn không dài.
Tôi không hề nghĩ tới điều đó bao giờ,
không những bởi tôi từ chối không nghĩ tới, mà còn vì điều đó không thoáng qua
tâm trí tôi: cuộc sống lứa đôi của hai đứa tôi không có tương lai.
Điều gì sẽ xảy ra, tôi không biết. Chẳng ai
có thể tiên đoán được. Chúng tôi đang sống ở quãng tạm nghỉ giữa hai lớp tuồng,
bên ngoài không gian, và tôi tham lam ngấu nghiến nuốt chửng những ngày và những
đêm này.
Tôi ham ăn tất cả, cảnh tượng mau đổi thay
của hải cảng và biển, những chiếc thuyền đánh cá nhiều màu sắc nối đuôi nhau ra
khơi vào giờ thủy triều lên, những con cá người ta bốc xuống khỏi thuyền trong
mấy cái sọt hay mẹt, đám đông ngoài phố, những quang cảnh trong trại và nhà ga.
Tôi còn khao khát Anna hơn nữa và, lần đầu
tiên trong đời, tôi không hổ thẹn vì những ham muốn nhục tình của tôi.
Trái lại! Với nàng, chuyện đó đã trở thành
một trò chơi mà tôi thấy rất tinh khiết. Chúng tôi nói về chuyện đó với vẻ
khoái hoạt, với sự thành thực giản dị, tạo ra cả một bộ ám hiệu, chọn lấy một số
dấu hiệu cho phép chúng tôi chia sẻ một số ý nghĩ thầm kín ngay giữa công
chúng.
Vũ trụ mới mẻ này có trung tâm là cái lều
màu lục nhạt mà người ta nhìn thấy từ xa nổi lên cao chế ngự toàn thể những lều
trại và, dưới cái lều ấy, là xó của chúng tôi, trong đám rơm rạ này, mà chúng
tôi gọi là chuồng ngựa của chúng tôi.
Chúng tôi đã xếp đặt đồ đạc của chúng tôi ở
đó, những thứ mà tôi lấy từ trong hành lý ra và những thứ khác mà tôi đã mua,
như những cái cà mèn để đựng xúp và chiếc bếp nhỏ đun cồn rất chắc chắn, cùng
các vật dụng cần thiết để sửa soạn cà phê buổi sáng, bên ngoài, giữa hai dãy lều,
đối diện với những thuyền bè.
Những người khác, nhất là những người chỉ ở
đó qua một đêm, ngạc nhiên nhìn sự xếp dọn của chúng tôi và, tôi chắc họ cũng
thèm muốn ghen tị, như xưa kia tôi từng vậy, khi nhìn một chuồng ngựa đích thực
nơi lũ ngựa sống ấm cúng trên ổ rơm của chúng.
Tôi cũng nói cái ổ rơm của chúng tôi và tôi
quyết không thay rơm luôn để rơm rạ còn thấm mãi mùi chúng tôi.
Không phải chỉ ở đó chúng tôi mới làm tình,
mà hầu như khắp chốn, thường tại những nơi bất ngờ nhất. Chuyện đó bắt đầu bằng
con thuyền, một buổi chiều tối khi chúng tôi nhìn những chiếc thuyền đánh cá dập
dinh nơi bến tàu, và tiếng nghiến ken két của chiếc ròng rọc bắt chước tiếng
kêu của lũ hải âu.
Biết chắc mình sẽ chẳng bao giờ đi biển, điều
đó thì quá đúng, tôi bỡ ngỡ nhìn cửa quầy tàu của một con tàu, trên boong các sọt
cá chồng chất lên nhau. Ánh mắt tôi ngay sau đó đậu lên Anna, rồi lại chuyển
sang con tàu và nàng cất tiếng cười, tiếng cười thuộc ngôn ngữ bí mật của chúng
tôi.
- Anh muốn?
- Còn em?
- Anh không sợ người ta cho chúng mình là
ăn trộm và bắt chúng mình à?
Bấy giờ đã quá nửa đêm. Bến tàu vắng ngắt,
tất cả đèn lửa đều bị che kín. Có thể nghe thấy tiếng bước chân từ rất xa. Điều
khó khăn là làm sao lần xuống được cây thang bằng sắt lắp vào trong vách đá. Những
bậc thang cuối cùng lót nhớt trơn tuột.
Dầu sao chúng tôi vẫn tới nơi và lẻn qua cửa
quầy tàu, ở phía dưới, trong bóng tối, chúng tôi đụng vào những chiếc sọt khác,
mấy cái bi đông, rồi các đồ vật mà chúng tôi không biết là gì.
Trong thuyền nồng mùi cá, mùi rong biển và
mùi dầu hôi. Cuối cùng Anna thông báo:
- Lối này...
Tôi tìm thấy tay nàng, bàn tay dẫn dắt tôi
và chúng tôi ngã xuống một cái giường hẹp và cứng. Chúng tôi dẹp tấm vải bạt
làm chúng tôi khó chịu trên đó đi.
Thủy triều khẽ khàng đong đưa chúng tôi.
Chúng tôi nhìn thấy một mảnh trời và vài ngôi sao qua cửa quầy tàu, một xe lửa
huýt còi phía nhà ga. Đó không phải là chuyến tàu tới. Các toa tiến lên và lùi
lại, thực hiện những thao tác chuyển động như để lập trật tự trên đường rầy.
Không còn các thanh chắn xung quanh trại.
Chúng tôi có thể tự do ra vào theo ý muốn. Không có ai canh gác. Chúng tôi chỉ
cần ra vào nhẹ nhàng để khỏi đánh thức những người bên cạnh.
Sau này, người ta dựng các thanh chắn,
không phải để nhốt chúng tôi, mà nhằm ngăn đám trộm vặt trà trộn vào dân tị nạn
và ăn trộm, như chuyện từng xảy ra.
Cũng nhiều khi, buổi tối, chúng tôi đi lảng
vảng quanh ga, và một đêm không có xe cộ, chúng tôi nằm ngủ trên cái ghế dài xa
các tòa nhà nhất.
Chuyện đó làm chúng tôi vui thích. Đó là một
dạng thử thách và, một lần, chúng tôi làm tình đằng sau những bó rơm, cách bà
Bauche vài bước chân. Bà vừa săn sóc chân cẳng cho những người đau vừa tiếp tục
trò chuyện với chúng tôi.
Mỗi ngày, tôi dành một số thời giờ để tìm
kiếm vợ và con gái tôi trong giới hạn khả năng của tôi cho phép.
Người ta không lừa dối tôi, khi nói với
chúng tôi sẽ có những danh sách được niêm yết, tôi chẳng biết là ở Auxerre,
Saumur hay Tours nữa. Người ta bắt đầu dán các danh sách ở cửa văn phòng nơi, mỗi
buổi sáng, có nhiều đám người đứng bu quanh để dò tìm.
Có điều, đó chỉ là các danh sách dân di cư
Bỉ. Nhiều người có mặt ở Bordeaux, ở Saintes, ở Cognac, ở Angoulême. Một số đi
tới tận Toulouse và nhiều người đang ở những ngôi làng mà tôi chưa hề nghe nói
đến tên bao giờ.
Dù sao đi nữa tôi cũng đọc lướt qua các
danh sách. Hằng ngày, tôi cũng đi thăm một trong những ông phó sếp ga, ông đã hứa
cho tôi biết số phận con tàu của chúng tôi. Ông tự coi đó là một việc ông cần
phải làm và bực bội vì không lần ra được dấu vết của nó.
- Một con tàu không thể biến mất như thế được,
ông càu nhàu, dù là trong thời buổi chiến tranh đi chăng nữa, Thế nào rồi cuối
cùng tôi cũng phải tìm cho được xem nó đi tới đâu mới thôi.
Nhờ máy lọc tin nối liền các nhà ga với
nhau, ông đã thúc đẩy đồng nghiệp của ông nhập cuộc và người ta bắt đầu nói tới
con tàu ma.
Chúng tôi ra tòa thị chính, Anna và tôi. Từng
đám người tụ tập trước mỗi bàn giấy vì người nào, vào thời buổi này, cũng cần một
lời chỉ dẫn, một giấy phép, một thứ giấy tờ có đóng dấu của chính quyền.
Ở đây người ta cũng niêm yết danh sách nam
nữ công dân Pháp, nhưng chẳng bao giờ thấy tên vợ tôi.
- Nếu ông bà kiếm một ai đó thì tốt hơn hết
ông bà nên tới sở cảnh sát.
Chúng tôi tới đó. Sân sở cảnh sát sáng sủa,
các hành lang và văn phòng tắm trong ánh mặt trời, với những nam nhân viên mặc
áo sơ mi dài tay và nhiều thiếu nữ mặc rốp sáng màu. Anna ở lại ngoài phố,
không thể để người ta tưởng nàng là vợ tôi trong lúc tôi đi hỏi tin tức chính vợ
mình.
Tôi nhìn thấy nàng qua cửa sổ, nàng dừng lại
bên lề đường, ngẩng đầu lên, rồi đi bách bộ, vẻ trang trọng, mơ màng. Tôi nóng
lòng muốn trở lại với nàng và tự trách đã bỏ nàng một mình, dù chỉ trong giây
lát ngắn ngủi như thế.
Người ta phát phiếu xăng cho những người
lái xe hơi. Hàng trăm chiếc xe đến từ mọi ngả làm nghẽn cả quảng trường Armes,
các bến tàu và đường phố. Các chủ xe đều có mặt ở đó, tại sở cảnh sát, chờ đợi,
trong hàng người dài nhất, cái phiếu lừng danh cho phép họ tiếp tục cuộc tháo
chạy.
Hôm trước, trong đoàn xe hơi hướng về
Rochefort, tôi nhận thấy có một cỗ xe tang trên đó chễm chệ trọn một gia đình
và tôi ngờ rằng hành lý của họ được để tại chỗ đặt quan tài.
- Ông kiếm gì?
- Tôi muốn biết vợ tôi hiện ở đâu...
Hình như có hàng ngàn, chẳng mấy nữa là
hàng chục ngàn người, ở vào trường hợp như tôi. Không những nước Bỉ và miền Bắc
nước Pháp tiếp tục rút lui, mà nỗi kinh hoàng còn xâm chiếm dân Ba Lê từ khi
chính phủ rời thủ đô và người ta kể rằng ngoài xe hơi còn có một đoàn người lê
thê gồm đàn ông và đàn bà đi bộ, lúc này đang trải dài trên các nẻo đường.
Tại những ngôi làng gần quốc lộ, các tiệm
bán bánh mì bị tấn công tới tấp, trong các bệnh viện không có nổi một cái giường
trống.
- Điền vào tấm phiếu này. Ông hãy để lại
cho tôi tên tuổi và địa chỉ của ông.
Vì cẩn thận, tôi không nêu tên trung tâm tiếp
cư, mà chỉ ghi số hòm thư lưu ký. Tuy nhiên, lão Jules và tôi không còn là những
dân Pháp duy nhất của trại nữa.
Giờ đây tôi vẫn nhìn thấy con tàu xấu nhất,
vào lúc nóng nực nhất của một buổi xế trưa tươi đẹp, trong khi những nữ sinh của
một trường nữ trung học, xếp thành hàng, đi ngang qua trên vỉa hè để tới dự một
buổi lễ.
Chúng tôi gọi những con tàu xấu, như bà
Bauche, là những con tàu đã phải chịu đựng nhiều nhất trên đường đi, những con
tàu có người chết, có các sản phụ đã sanh đẻ không được săn sóc.
Chẳng hạn có một con tàu chở người điên, mười
toa đầy những người điên được di tản từ một dưỡng trí viện. Mặc dầu có các biện
pháp canh phòng cẩn mật, người ta phải đuổi theo hai người, họ chạy tới tận chỗ
cột đồng hồ lớn.
Tôi không biết con tàu mà tôi đang nhắc đến
từ Douai hay Laon tới, vì tôi thường có khuynh hướng lẫn lộn hai thành phố này.
Trên đó chỉ có khá ít người bị thương, đã được băng bó trên đường, nhưng tất cả,
đàn ông, đàn bà, trẻ con, mắt hãy còn trợn trừng kinh hoàng.
Một thiếu phụ run rẩy, tay chân mình mẩy co
rút giật giật và còn tiếp tục run như vậy suốt đêm, răng đụng lập cập vào nhau
và đẩy cái mền ra.
Những người khác lảm nhảm những lời không
ăn nhập gì với nhau, hoặc nhắc đi nhắc lại không ngừng cùng một câu chuyện, bằng
một giọng buồn tẻ.
Người ta đã cho họ lên tàu, ở Douai hay
Laon, tại một nơi cách nhà ga hai trăm thước, tràn ngập những người là người. Một
số đang chờ những người đến trễ, các bậc cha mẹ đi mua cái gì đó ở quầy bán thực
phẩm thì, không có hồi còi báo động nào cả, đám máy bay bỗng lù lù hiện ra trên
bầu trời.
- Bom rơi như vậy đó, các ông... Xiên
xiên... chúng tôi nhìn thấy nó rơi trên nhà ga, xuống các ngôi nhà đối diện, và
tất cả bắt đầu rung chuyển, nẩy tung lên, mái nhà, gạch đá vôi vữa, người, những
toa tàu đậu không xa chỗ chúng tôi bao nhiêu... Tôi thấy một cái cẳng chân bay
lên trời và bản thân tôi, mà lúc ấy chúng tôi ở khá xa đấy nhé, cũng bị ngã vật
xuống đất đè lên thằng con tôi...
Rốt cuộc còi cũng rống lên từng hồi, các xe
vòi rồng và, những đống gạch đá, sắt thép cong queo, tử thi, đồ đạc đổ vỡ ngổn
ngang, đôi khi một đồ vật quen thuộc vẫn còn nguyên vẹn như có phép lạ.
Báo chí loan báo thông tin về nội các mới,
cuộc rút lui ở Dunkerque, các đường xe lửa bị gián đoạn hầu hết mọi nơi, trong
khi đó Anna và tôi, chúng tôi tiếp tục cuộc sống nhỏ bé của chúng tôi như thể
nó sẽ trường tồn mãi.
Anna cũng biết như tôi rằng điều đó không
đúng nhưng không bao giờ nàng nói bóng gió đến. Trước tôi, nàng từng chia sẻ những
cuộc sống khác, những khoảnh khắc ngắn hay dài của các cuộc đời khác và tôi
thích đừng nghĩ tới chuyện gì sẽ xảy ra sau tôi.
Tôi thấy cõi lòng se thắt khi nhìn thấy
nàng qua cửa sổ sở cảnh sát, một mình trên lề đường, như thể chúng tôi đã chia
xa. Tôi bỗng hoảng sợ cuống cuồng. Khi trở lại cùng nàng, tôi nắm chặt cánh tay
nàng như thể tôi đã xa cách nó suốt nhiều ngày trời.
Tôi cả quyết trời không mưa một lần nào
trong suốt thời gian đó, ngoài một cơn dông, tôi còn nhớ, nó đã tạo ra những
túi nước trên mái lều tôi. Thời tiết có vẻ không thực vì hết sức tuyệt vời và
tôi không thế hình dung La Rochelle như thế nào khác hơn trong hơi nóng hâm hấp
của mặt trời.
Các ngư phủ mang cho chúng tôi cá. Những hướng
đạo sinh, mỗi buổi sáng, đi một vòng quanh chợ, và người ta thi nhau đổ vào sọt
của họ rau cỏ và trái cây. Họ kéo một cái xe bò kéo tay như cái xe tôi đã bỏ lại
trong sân ga Fumay. Tôi đi cùng họ nhiều lần, xung phong đứng vào giữa hai càng
xe, kéo chơi, trong khi Anna đi theo trên vỉa hè.
Chúng tôi suýt gặp chuyện tồi tệ, ở trại và
ở ga, khi radio loan tin Bỉ đầu hàng. Vào thời kỳ đó, dân Pháp hầu như cũng nhiều
như dân Bỉ và có nhiều nhà máy di tản trọn cả xưởng. Tôi đã thấy nhiều dân
Flamand và Wallonie khóc như trẻ con, những người khác đấm đá nhau và phải can
ngăn họ.
Mỗi ngày qua lại cắt xén bớt đi cái hạnh
phúc vốn đã gầy còm của tôi. Đó không phải là chữ chính xác. Vì tôi không tìm
thấy chữ khác, vì người ta luôn luôn nói đến hạnh phúc cho nên tôi cũng bị bắt
buộc phải bằng lòng với chữ này.
Một ngày nào đó, ở tòa thị chính hoặc sở cảnh
sát, cũng có thể qua bưu điện, tôi sẽ được tin tức của Jeanne và con gái tôi.
Thời gian thai nghén đã gần tới hạn kỳ và tôi mong rằng chuyến đi cùng những
xúc cảm không giục giã đứa hài nhi sớm ra đời.
Báo chí ở Ba Lê đăng danh sách những độc giả
cho gia đình biết tin tức họ và có lúc tôi đã nghĩ đến việc dùng phương tiện
này. Có điều, lúc còn ở Fumay, chúng tôi không đọc một tờ báo Ba Lê nào cả. Biết
chọn tờ nào bây giờ? Đáng lẽ chúng tôi phải thỏa thuận với nhau từ trước, nhưng
chúng tôi đã không làm thế. Chẳng có cơ may ngày nào Jeanne cũng mua tất cả nhật
báo.
Quân Đức tiến nhanh đến nỗi nhiều người nói
đến sự phản bội và đạo quân thứ năm. Hình như, tại một trong những lều trại của
chúng tôi, họ đã chận bắt một người tự nhận là dân Hòa Lan có mang theo trong
hành lý một cái máy phát thanh xách tay.
Tôi không biết chuyện đó có thực không. Bà
Bauche, người tôi đã hỏi chuyện đó, cũng không thể cả quyết thực hư sao, nhưng
bà đã thấy nhiều cảnh sát mặc thường phục lảng vảng trong trại.
Điều này làm Anna lo sợ, vì họ của nàng,
Kupfer, có một âm hưởng rất Đức. Chúng tôi nghĩ tới điều này mỗi lần trên khoảng
đất trống giữa trại và nhà ga, chúng tôi ngắm nhìn những cây phong lữ thảo đang
phô bày tất cả vẻ rực rỡ của chúng.
Người làm vườn của thành phố đã mang chúng
tới, lúc đó chúng đã đơm hoa, ít lâu sau ngày chúng tôi đến. Tôi lại nhìn thấy
ông, từ sáng sớm trong lúc ánh mặt trời còn mờ nhạt, chu tất một công việc khiến
người khác an lòng, trong khi các chuyến tàu chở tị nạn không ngớt đổ tới ga và
báo chí, ở sạp, đầy những thảm họa.
Hình như hai tiếng sau, trong khi người làm
vườn vẫn còn ở đấy, một đài phát thanh Đức, tuyên truyền bằng tiếng Pháp, nói đại
khái như thế này:
- Ông Vieiljeux thật dễ thương khi cho trồng
hoa quanh nhà ga của ông để chào đón chúng tôi. Vài hôm nữa chúng tôi sẽ tới
đó.
Ông Vieiljeux, mà tôi chưa thấy bao giờ, là
thị trưởng La Rochelle và đài phát thanh Đức vẫn tiếp tục gửi đến ông những điện
văn giễu cợt, họ làm thế để chứng tỏ rằng không có gì xảy ra trong thành phố mà
họ không biết.
Tiếng “gián điệp” được nhắc tới càng ngày
càng nhiều và những ánh mắt trở nên nghi kỵ.
- Trước mặt mọi người tốt hơn là em nên nói
càng ít càng tốt.
- Em đã nghĩ tới điều đó.
Nàng không phải là người nhiều lời. Tôi
cũng vậy. Giả sử chúng tôi có hay nói đi chăng nữa thì giữa chúng tôi cũng có
biết bao điều cấm kỵ, đến nỗi chúng tôi sẽ chẳng có bao nhiêu chuyện để nói với
nhau.
Không có quá khứ cũng chẳng có tương lai.
Chỉ có một hiện tại mong manh, mà chúng tôi ngấu nghiến và cùng nhau thưởng thức.
Chúng tôi nhồi nhét những niềm vui nho nhỏ,
những hình ảnh, những phản chiếu mà chúng tôi biết, chúng tôi sẽ ôm giữ suốt đời.
Về phần xác thịt, chúng tôi làm cho nó mang thương tích bầm đau vì cố gắng
trong tuyệt vọng hòa tan vào làm một xác thịt duy nhất.
Tôi không xấu hổ nói lên điều này, là tôi
sung sướng bằng một hạnh phúc mà nếu so với hạnh phúc của mọi ngày thì chẳng
khác nào âm thanh của một cây vĩ cầm mà người ta làm nảy ra khi kéo cây vĩ qua
phía bên kia của ngựa đàn so với âm thanh thông thường. Nó sắc buốt, cao nhã và
gây đau đớn một cách tuyệt vời.
Về sự đói khát dục tình cào cấu thân xác,
tôi gần như tin chắc rằng chúng tôi không phải là một ngoại lệ. Ít bị chen chúc
người nọ đụng người kia trong lều rạp hơn so với trên toa chở súc vật lúc trước,
chúng tôi vẫn có không dưới một trăm người, đàn ông và đàn bà, ngủ chung dưới
cùng một mái che. Không đêm nào trôi qua mà tôi không nghe thấy những thân thể
cử động thận trọng, những hơi thở dồn dập và những tiếng rên rỉ tình tứ thiết
tha.
Tôi không phải là người duy nhất cảm thấy
mình ở bên ngoài cuộc sống bình thường và các quy ước của nó. Bất cứ lúc nào
máy bay cũng có thể xuất hiện trên bầu trời và thả những dây bom xuống. Hai hoặc
ba tuần lễ nữa quân đội Đức sẽ có mặt ở đây và không ai có chút ý niệm về chuyện
gì sẽ xảy ra.
Trong hồi còi báo động lần đầu tiên, người
ta đã bảo chúng tôi nằm rạp xuống đất, cạnh vũng tàu đậu, vì hầm trú ẩn cạnh ga
hàng hóa cách đó quá xa.
Cao xạ phòng không đã bắn lên. Từng tràng
súng phát xuất từ phía ga. Ngay sau đó họ khẳng định rằng mọi chuyện là do nhầm
lẫn, đó là những phi cơ Pháp đã không thực hiện các dấu hiệu theo quy định.
Những chiếc phi cơ khác đã nhào xuống để rải
mìn quanh một con tàu, tàu Champlain,
trong vũng tàu La Pallice. Buổi sáng, con tàu đã nổ tung. Chúng tôi nghe thấy
tiếng nổ mà không biết chuyện gì xảy ra.
Sau đó, những bồn chứa xăng bốc cháy, cách
thành phố ba bốn cây số, khói đen bốc lên kéo dài nhiều ngày trên bầu trời.
Tôi đã nói, nhưng xin nhắc lại là ngày
tháng trôi qua vừa nhanh lại vừa chậm. Ý niệm về thời gian đã thay đổi. Quân Đức
đã vào Ba Lê trong khi Anna và tôi không thay đổi chút nào những thói quen nhỏ
của chúng tôi. Chỉ có bầu không khí của nhà ga biến đổi từ ngày này sang ngày
khác, trở nên rối loạn hơn, vô trật tự hơn.
Như khi còn ở Fumay, tôi là người dậy sớm
hơn, và tôi đi ra pha cà phê phía bên ngoài, vừa pha cà phê vừa cạo râu trước một
tấm gương móc vào vải lều. Cuối cùng người ta đã dành riêng một góc lều để lấy
chỗ làm buồng vệ sinh cho các bà và Anna vào đó từ sáng sớm, trước đám đông hỗn
tạp.
Chúng tôi thả bộ lang thang về phía ga, nơi
người ta đã quen chúng tôi và nơi người ta chào hỏi chúng tôi đầy thân mật.
- Nhiều tàu không?
- Chúng tôi đang đợi nhân viên hãng
Renault.
Chúng tôi biết hầm trú ẩn, các đường tàu,
những ghế dài. Chúng tôi không khỏi âu yếm khi nhìn các toa súc vật nơi rơm rạ
vẫn còn vương vãi. Toa của chúng tôi bây giờ ở đâu, trong đó hẳn còn thoảng
chút hơi của chúng tôi?
Sau đó, hiếm khi nào mà bà Bauche không cần
tôi giúp bà công việc gì đó, sửa một cái cửa ra vào hay một cái cửa sổ, lắp các
kệ để thuốc hay thực phẩm mới.
Chúng tôi đi ăn xúp của trại. Thỉnh thoảng,
chúng tôi tự cho mình một chầu đặc biệt. Băng qua đại lộ, chúng tôi vào một
quán bar kín đáo thân mật nơi tôi biết Anna thích uống một ly rượu khai vị
trong khi tôi, để bồi tiếp nàng, kêu một cốc nước chanh.
Xế trưa, chúng tôi ra thành phố và đi đọc
những bản danh sách trước khi qua bưu điện xem hòm thư.
Nếu sớm hơn thời hạn một chút, con của
chúng tôi có thể ra đời nay mai và tôi tự hỏi không biết ai sẽ trông coi Sophie
trong thời gian vợ tôi nằm ở nhà bảo sanh.
Thật lạ lùng, tôi không tài nào thấy lại
trong tâm tưởng cả vợ lẫn con tôi. Nét mặt họ nhạt nhòa, mơ hồ.
Tôi không lo lắng lắm về số phận Sophie vì,
ở trại, trong một tuần lễ, chúng tôi có hai đứa trẻ lạc mất mẹ trên đường đi và
có vẻ chúng không khổ sở gì về chuyện đó cả. Chúng nô giỡn với lũ trẻ khác,
cũng vô tư như những đứa kia, và khi cuối cùng bà mẹ tới kiếm, chúng đứng bất động
trước mẹ một hồi lâu, bối rối như thể chúng đã bỏ nhà đi trốn vậy.
Ngày 16 tháng Sáu là một trong những ngày
mà tôi nhớ rõ. Thống chế Pétain, ở Orléans, đã xin đình chiến và binh lính đột
nhiên rời bỏ nhà ga, không mang theo vũ khí, bất chấp sự chống đối của các sĩ
quan.
Ba ngày sau, quân Đức tới Nantes. Chúng tôi
tưởng tượng rằng, đi mô tô, họ di chuyển rất nhanh và chúng tôi chuẩn bị tinh
thần thấy họ ngay từ hôm sau.
Thế nhưng, mãi ngày 22, một ngày thứ Bảy,
những người đi xe hơi mới vừa chạy xe qua vừa hét lớn với chúng tôi:
- Chúng đang ở La Roche-sur-Yon!
- Các ông thấy chúng chứ?
Họ vừa ra dấu là đúng thế vừa phóng về phía
Rochefort.
Đêm sau trời oi ả. Anna đi nằm trước nhất,
và, đứng lặng, tôi cảm thấy lệ trào lên khóe mắt, khi thấy nàng làm ổ trong đám
rơm rạ.
Tôi nói:
- Không! Đến đây.
Nàng không hề hỏi tôi đi đâu hay tại sao
bao giờ. Người ta có thể cả quyết rằng nàng đã bỏ cả đời đi theo một người đàn
ông, rằng nàng đã được tạo ra để làm việc đó.
Chúng tôi vừa đi vừa nghe âm thanh của biển
và tiếng ken két của những dụng cụ trang bị thuyền bè. Có lẽ nàng tưởng tôi tìm
nơi trú ẩn trên một con thuyền?
Tôi kéo nàng đi như thể tới tận cuối bến, tại
đó có nhiều công trường xây dựng, và tôi cùng nàng đi vào con đường vòng đầu
mút đưa tới bãi biển.
Không nghe thấy tiếng động nào. Không trông
thấy một ánh đèn nào trong thành phố, duy chỉ có một ngọn đèn hiệu xanh thẫm ở
đầu kè đá.
Chúng tôi nằm trên bãi cát, gần chân những
đợt sóng nhỏ, và chúng tôi yên lặng một hồi lâu không nói năng gì, không làm
gì, để rình nghe tiếng tim chúng tôi đập.
- Anna! Anh muốn rằng em luôn luôn tự nhủ...
- Suỵt!
Nàng không cần lời. Nàng không thích từ ngữ.
Tôi nghĩ rằng chúng làm nàng sợ.
Tôi bắt đầu chiếm đoạt nàng, đầy vụng về, dần
dần đặt vào trong hành động ấy sự nóng nảy giống như độc ác. Lần này, nàng
không giúp tôi, nàng bất động, mắt nhìn trân trối vào mặt tôi và tôi không đọc
thấy trong ánh mắt đó một biểu lộ nào.
Trong một khoảnh khắc, dường như nàng đã ra
đi và tôi tưởng tượng nàng, một lần nữa lại đơn côi, như con thú lạc loài.
- Anna! - tôi gào lên với nàng, giọng giống
như kêu cứu. - Nhưng xin em hiểu cho!
Nàng nâng đầu tôi trong hai tay để thì thầm
trong khi đè nén những tiếng nức nở:
- Được lắm!
Nàng không nói về cái ôm ghì gắn bó của
chúng tôi, mà về chúng tôi, về tất cả những gì đã là chúng tôi trong quãng thời
gian quá ngắn ngủi ấy. Chúng tôi đã cùng nhau khóc, trong khi làm tình. Trong
lúc đó biển đã dâng đến chân chúng tôi.
Tôi cần phải làm một cái gì đó, mà không biết
là gì. Tôi đã lột cái rốp của nàng, cởi bỏ quần áo của tôi. Tôi lại nói một lần
nữa:
- Đến đây!
Trời hãy còn khá sáng nên thân thể nàng hiện
rõ ràng trong bóng tối nhưng tôi không thể thấy nét mặt nàng. Nàng có sự thật
không? Nàng có tin rằng tôi muốn dìm chết nàng, có lẽ tôi sẽ trầm mình cùng với
nàng? Thân thể nàng co rụt lại, bị nỗi kinh hoàng bản năng xâm chiếm.
- Lại đây, đồ to đầu mà còn dại!
Tôi bắt đầu chạy dưới nước, và chẳng mấy chốc
nàng đã bắt kịp tôi. Nàng biết bơi. Tôi thì không. Nàng bơi khá xa ra biển, rồi
trở lại, vẽ những vòng lượn xung quanh tôi.
Ngày nay tôi tự hỏi không biết nàng có thực
sai lầm khi đã sợ hãi không. Lúc đó mọi chuyện đều có thể xảy ra. Chúng tôi cố
biến buổi tắm này thành một trò chơi, cố vui đùa như lũ học sinh đang nghỉ hè,
nhưng không đạt được kết quả.
- Em lạnh?
- Không.
- Chúng mình hãy chạy cho ấm nào.
Chúng tôi chạy, cát dính vào bàn chân và bắp
chân chúng tôi.
Tôi đã có một ý tưởng tồi. Khi chúng tôi trở
về trại, một đội tuần tiễu đã buộc chúng tôi phải nấp kỹ trong góc tường suốt gần
một khắc đồng hồ.
Lều chúng tôi có vẻ nồng nàn hơi ấm của con
người và cuối cùng chúng tôi thu mình vào trong cái xó của chúng tôi, nơi đêm ấy
tôi không hề ngủ.
Ngày hôm sau là Chủ nhật. Dân tị nạn mặc quần
áo tươm tất đi dự lễ mixa. Trong thành phố, chúng tôi gặp các thiếu nữ quần áo
tươi sáng, những trẻ em diện quần áo đẹp ngày Chủ nhật bước đi trước bố mẹ
chúng. Những cửa tiệm bánh ngọt đều mở cửa và tôi mua một cái bánh hãy còn nóng
ấm, như ở Fumay.
Sau bữa trưa, chúng tôi mang chiếc bánh tới
trước vũng tàu đậu để ăn, ngồi trên mỏm đá, chân buông thõng trên mặt nước.
Năm giờ, đám mô tô Đức dừng lại trước tòa
thị chính, và một sĩ quan yêu cầu Vieiljeux ra trình diện.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét