Sông Đông Êm Đềm
Tác giả: Mikhail Sholokhov
Dịch giả: Nguyễn Thụy Ứng
Nhà Xuất Bản Văn Học - 2005 (xuất bản lần
thứ 6)
Phần VIII
18
Trong những ngày đầu xuân, khi tuyết đã tan
và lớp cỏ nằm rạp xuống trong mùa đông khô dần thì trên đồng cỏ bắt đầu có những
chỗ bị đốt cháy. Lửa bị gió lùa, chảy cuồn cuộn từng dòng, đốt lem lém những
đám cỏ thê mục khô, leo lên những bụi cỏ tác-ta cao, lướt trên những khoảng ngải
cứu đen nâu xịt, trườn xuống những chỗ đất thấp... Và sau đó, trên đồng cỏ còn
lưu rất lâu mùi đất cháy nứt khét lẹt và đắng hắc. Chỗ nào cỏ non cũng xanh rờn
và rất vui mắt. Bên trên, vô số những con sơn ca bay chập chờn trên bầu trời
xanh ngắt.
Ngỗng trời di cư bay về kiếm ăn trong lớp cỏ.
Gà nước sà xuống làm tổ để qua mùa hạ. Nhưng ở các nơi lửa lan qua, đất bị cháy
thui không còn sức sống đen lại như một điềm chẳng lành. Chim chóc không đến đấy
làm tổ, thú rừng lảng tránh ra nơi khác, chỉ có làn gió nhanh như có cánh hoành
hành bên trên, lùa than xám và bụi hắc đi rất xa.
Cuộc đời Grigori cũng đã đen lại, hệt như một
khoảng đồng cỏ bị lửa đốt trụi. Chàng đã mất hết mọi thứ gì mà trong thâm tâm
chàng coi là quí nhất. Cái chết tàn khốc đã lấy đi tất cả của chàng, đã phá hoại
tất cả. Chỉ còn lại hai đứa con. Nhưng bản thân chàng vẫn cố sống cố chết bám lấy
mảnh đất, tựa như cuộc đời đã đổ vỡ tan tành của chàng đích thật vẫn còn có một
giá trị gì đó đối với chàng và đối với người khác...
Sau khi chôn cất Acxinhia, chàng đi lang
thang không mục đích ba ngày liền trên đồng cỏ, nhưng không về nhà mà cũng
không lên Vosenskaia đầu thú. Đến ngày thứ tư, chàng bỏ hai con ngựa tại một
thôn thuộc trấn Ust-Khopeskaia rồi vượt qua sông Đông, đi bộ đến rừng sồi
Slasevskaia. Hồi tháng Tư bầy thổ phỉ của Fomin đã bị đánh tan lần đầu tiên ở cửa
khu rừng này. Ngay từ hồi ấy, hồi tháng Tư, chàng đã nghe nói rằng có những tên
đào ngũ đến ở hẳn trong rừng sồi. Vì không muốn quay về với Fomin, Grigori đã lần
đến chỗ bọn đào ngũ.
Chàng lang thang vài ngày trong khu rừng
bát ngát. Tuy đói khổ đói sở nhưng chàng quyết định không đến một nơi nào có
người ở.
Cùng với cái chết của Acxinhia, chàng đã mất
cả lý trí lẫn lòng dũng cảm xưa kia. Một cành cây gãy, một tiếng xào xạc trong
rừng rậm, tiếng kêu của một con chim đêm, cái gì cũng làm chàng sợ hãi, luống
cuống. Grigori phải ăn những quả dâu xanh, những thứ nấm nhỏ gì đó, ăn cả lá
phi tử, người gầy rộc. Đến cuối ngày thứ năm có những tên đào ngũ bắt gặp chàng
trong rừng, đưa chàng về hầm của chúng.
Chúng có bảy tên. Cả bọn đều là dân những
thôn chung quanh đấy. Chúng đã đến ở trong rừng từ mùa thu năm ngoái, khi bắt đầu
có lệnh động viên. Chúng sống một cách cần kiệm, tháo vát trong một cái hầm rất
rộng và gần như không thiếu thốn gì cả. Đêm đêm chúng thường trở về thăm gia
đình và khi quay về hầm, chúng mang theo bánh mì, bánh khô, lúa mạch, bột mì,
khoai tây, còn thịt để nấu súp thì chúng có thể kiếm rất dễ dàng trong những
thôn khác, bằng cách thỉnh thoảng lại đánh cắp một con gia súc.
Một tên đào ngũ trước kia đi lính ở trung
đoàn Cô-dắc số Mười hai nhận ra Grigori, vì thế cả bọn đã nhận cho Grigori ở lại,
không có tranh cãi gì đặc biệt.
Ngày tháng nặng nề trôi qua, Grigori không
còn nhớ được hôm nào là ngày nào nữa. Chàng sống lần hồi trong rừng đến tháng
Mười, nhưng từ đó bắt đầu có những trận mưa thu rồi trời trở rét. Lòng nhớ con,
nhớ nơi thôn xóm thân yêu bất thần thức tỉnh trong lòng chàng với một sức mạnh
bất ngờ...
Để có việc gì đó giết thì giờ, chàng thường
ngồi suốt ngày trên chiếc giường ván, lấy gỗ gọt những chiếc muỗng, khoét những
cái bát hoặc làm những hình người, hình súc vật bằng đá mềm. Chàng cố hết sức
không nghĩ ngợi gì cả, không để cho chất độc của sự thương nhớ thấm vào trong
lòng mình. Ban ngày thì chàng còn có thể làm như thế, nhưng trong những đêm
đông dài đằng đẵng, chàng lại bị nỗi buồn nhớ và các hồi ức hoàn toàn làm chủ.
Chàng thường trằn trọc rất lâu trên giường, không sao ngủ được. Ban ngày tốp
người ở trong hầm không ai nghe thấy chàng hé răng nửa lời than vãn, nhưng đêm
đêm chàng thường thức giấc, run run đưa tay sờ lên mặt thì thấy hai bên má cũng
như bộ râu xồm xoàm để nửa năm không cạo đều đầm đìa nước mắt.
Chàng thường nằm mơ thấy hai con, Acxinhia,
mẹ cùng tất cả những người thân thuộc ngày nay không còn sống nữa. Toàn bộ sự sống
của Grigori đều dồn cả về quá khứ, nhưng cái quá khứ ấy có vẻ như một giấc mơ
ngắn ngủi mà nặng nề. “Thể nào cũng phải trở về thôn xóm thân yêu một lần nữa,
thăm hai đứa nhỏ rồi chết cũng được”, - Chàng thường có ý nghĩ như thế.
Đến đầu mùa xuân, một hôm bỗng nhiên thấy
Trumakov mò đến.
Hắn ướt đầm đìa đến ngang thắt lưng, nhưng
nom vẫn tràn trề sức sống và hăng hái hoạt bát như xưa. Hắn hong khô quần áo
bên cạnh cái bếp lò, sưởi cho ấm người rồi ghé ngồi lên cái giường ván của
Grigori.
- Cậu Melekhov ạ, sau hồi cậu bỏ đi, không ở
với bọn mình nữa ấy, bọn mình đã qua rất nhiều nơi! Tới cả vùng Astrakhan lẫn
vùng đồng cỏ Kalmys... Bọn mình đã nghênh ngáo đi khắp gầm trời! Còn cái chuyện
đã làm đổ máu bao nhiêu người thì không tài nào tính được. Bọn chúng nó bắt vợ
của Yakov Efilmovich làm con tin, tịch thu hết tài sản, vì thế ông ấy tức điên
lên, ra lệnh chém tất cả những thằng nào làm việc cho chính quyền Xô viết. Thế
là bọn mình bắt đầu chém tuốt tuồn tuột: cả những thằng giáo viên lẫn đủ mọi hạng
y sĩ, kỹ sư nông học... Chẳng có đứa quỉ quái nào không bị chém! Nhưng bây giờ
bọn mình không còn nữa rồi, hoàn toàn không còn nữa rồi. - Hắn thở dài nói và vẫn
còn co ro vì rét. - Lần đầu chúng mình bị đánh tan nát ở gần Chisanskaia và trước
đây một tuần ở gần Xolomnyi. Nhân lúc đêm tối chúng nó bao vây bọn mình từ ba
phía, chỉ để một lối lên gò, nhưng phía đó toàn là tuyết, ngựa bị sụt đến bụng...
Đến lúc trời rạng chúng nó nổ súng máy bắn chết sạch. Chỉ sống sót có hai mống
là mình và thằng bé, con của Fomin. Cả Yakov Efilmovich cũng chết trận... Chết
ngay trước mắt mình. Viên đạn thứ nhất bắn vào chân ông ấy, phá vỡ xương bánh
chè, viên đạn thứ hai trúng đầu nhưng chỉ sượt qua thôi. Ông ấy ngã ngựa đến ba
lần. Chúng mình đứng lại, xốc dậy, đỡ lên yên nhưng ông ấy chỉ cho ngựa chạy
thêm được vài bước là lại ngã. Một viên thứ ba lại tìm thấy ông ấy, trúng sườn...
Đến lúc ấy chúng mình đành phải bỏ ông ấy lại. Mình phóng ngựa đi chừng trăm bước,
quay đầu nhìn lại thì thấy ông ấy đã nằm gục xuống rồi mà còn bị hai thằng cưỡi
ngựa vung gươm xả thêm...
- Còn sao nữa, câu chuyện đúng là phải đi đến
kết cục như thế. - Grigori nói thản nhiên.
Trumakov ngủ lại một đêm trong hầm. Sáng
hôm sau hắn từ biệt ra đi.
- Cậu đi đâu bây giờ? - Grigori hỏi.
Trumakov mỉm cười trả lời:
- Đi kiếm một cuộc sống đỡ nhọc nhằn. Hay
là cậu cùng đi với mình nhé!
- Không, cậu đi một mình đi.
- Phải, mình với cậu không thể cùng sống với
nhau được... Cậu Melekhov ạ, cái nghề thủ công gọt muỗng khoét bát của cậu
không hợp với mình đâu. - Trumakov nói giọng châm biếm rồi bỏ mũ chào. - Lạy
Chúa tôi, xin cám ơn các ông cướp hiền lành đã cho ăn cho ngủ. Cầu Chúa ban cho
các cậu một cuộc sống vui nhộn, nếu không ở chỗ các cậu đây buồn chết được. Các
cậu sống lẩn lút trong rừng, cầu nguyện cái bánh xe gãy, chẳng nhẽ như thế cũng
là sống hay sao?
Sau khi hắn đi rồi, Grigori còn ở lại thêm
trong rừng sồi một tuần nữa, rồi chàng sửa soạn lên đường.
- Về nhà à? - Một tên đào ngũ hỏi chàng?
Lần đầu tiên từ khi đến ở trong rừng, Grigori
hơi nhếch mép cười:
- Về nhà.
- Có lẽ cứ nán lại đến mùa xuân đã. Đến mồng
một tháng Năm họ ban lệnh ân xá cho chúng mình, lúc ấy hãy phân tán.
- Không, mình không chờ được. - Grigori nói
rồi từ biệt cả bọn.
Sáng hôm sau chàng ra tới sông Đông, chỗ
trước mặt thôn Tatarsky. Chàng đứng nhìn rất lâu ngôi nhà thân yêu, mặt tái đi
vì xúc động và sung sướng. Rồi chàng gỡ cây súng trường, bỏ túi dết xuống, móc
trong đó ra ít kim chỉ, nắm bùi nhùi bằng sợi gai, cái lọ đựng dầu lau rồi
không hiểu sao đếm số đạn. Tất cả còn mười hai kẹp đạn và hai mươi sáu viên rời.
Ở đoạn dốc đứng, tuyết đã trôi từ trên bờ
xuống, nước sông trong vắt màu xanh lá cây đập bì bõm liếm vào những mép băng
đâm ra tua tủa như những mũi kim. Grigori ném xuống nước cây súng trường, khẩu
Nagan, sau đó chàng dốc hết những viên đạn xuống và chùi tay rất cẩn thận vào vạt
áo ca-pốt.
Chàng qua sông Đông ở phía dưới thôn, trên
lớp băng tháng Ba đã bị tiết trời trở ấm làm mỏng yếu rồi bước những bước rất
dài về nhà. Ngay từ xa chàng đã trông thấy thằng Misatka đang đứng ở chỗ xuống
bến đò. Chàng phải cố hết sức tự chủ mới không chạy xổ tới với nó.
Thằng Misatka đang bẻ những thỏi băng nhỏ
bám trên một tảng đá ném đi và chăm chú nhìn theo những thỏi băng xanh xanh lăn
xuống dốc.
Grigori bước tới bờ dốc, thở hổn hển gọi
con, giọng khản đi:
- Misatka! Con trai yêu của bố!
Thằng Misatka hốt hoảng nhìn chàng rồi lại
đưa mắt nhìn xuống. Nó đã nhận ra bố nó trong con người râu ria xồm xoàm nom rất
đáng sợ này...
Tất cả những lời âu yếm nựng nịu mà đêm đêm
chàng thường khẽ lẩm bẩm mỗi khi nhớ tới hai đứa con của chàng ở đấy, trong khu
rừng sồi, đến lúc này đã trôi hết khỏi trí nhớ của chàng. Chàng quỳ xuống, hôn
hai bàn tay hồng hồng, lạnh buốt của con, rồi nghẹn ngào chỉ nói được mấy tiếng:
- Con... con...
Rồi Grigori bế thằng con trai của chàng
lên. Hai con mắt ráo hoảnh, sáng rực như điên dại của chàng cứ nhìn chằm chằm
vào mặt nó như muốn nuốt lấy. Chàng hỏi:
- Ở nhà như thế nào hả con? Cô và Poliuska
có còn sống, còn khỏe không?
Vẫn không nhìn bố, thằng Misatka khẽ trả lời:
- Cô Dunhiaska vẫn khỏe, nhưng Poliuska đã
chết dạo mùa thu... Vì bệnh yết hầu. Còn chú Miska thì đi bộ đội...
Chà, thế là ước mơ nhỏ nhoi của Grigori
trong bao nhiêu đêm không ngủ đã được thực hiện. Chàng đã đứng bên cạnh cổng
ngôi nhà thân yêu, thằng con bồng trên tay.
Đây là tất cả những gì trong đời còn lại được
cho chàng, nó tạm thời còn gắn bó chàng với mảnh đất, với toàn bộ cái thế giới
bao la đang hiện lên rạng rỡ dưới vừng mặt trời lạnh lẽo.
Hết
Uầy. Mình mới mua lại quyển này 2 tháng trước, đọc vừa xong. Uổng quá. Mất biệt đâu, tìm chẳng thấy, tự nhiên thèm đọc lại Sô-lô-khôp. Biết vậy chạy qua hàng xóm sớm sớm đỡ tốn tiền quyển sách. Hihi
Trả lờiXóaSĐEĐ đọc đi đọc lại được mà bạn. Tôi đọc SĐEĐ mỗi lần là lại tìm thấy một ý nghĩa mới.
Xóa