Thứ Ba, 2 tháng 6, 2020

Đất Dữ - Phần 2

Đất Dữ
Nguyên tác: Terras do sem fim (1943)

Tác giả: Jorge Amado
Dịch giả: Dương Tường & Hà Huy Thái
NXB Văn học - 2016

Rừng

1

Rừng yên nghỉ, trầm lặng, ngủ giấc ngủ ngàn đời của nó. Đêm và ngày trôi đi trên rừng. Nắng hạ rực chiếu trên cao và mưa đông trút xuống rừng. Cây rừng đều là cổ thụ; lá xanh bất tận phủ kín núi, tràn xuống đồng bằng và mất hút đi trong vô biên. Thật như một vùng biển chưa ai thám hiểm, khép kín trong cái huyền bí của chính bản thân nó. Như một gái đồng trinh mà tấm thân chưa hề biết đến tiếng gọi của dục vọng. Mặc kệ những thân cây già cỗi, rừng vẫn trẻ, đẹp, rực rỡ như một cô gái đồng trinh. Bí ẩn như tấm thân một người đàn bà chưa từng trao xương gửi thịt cho ai, rừng cũng khêu gợi sự thèm muốn nồng cháy của những người đàn ông. Những buổi mai nắng đẹp, từ trong rừng bật lên những tiếng chim vang động; những cánh én mùa hè bay lượn ở đầu cành; từng bầy khỉ leo trèo, nhảy từ nhánh này sang nhánh kia, với những cú nhào lộn cuồng dại. Vào những đêm tĩnh mịch, người ta nghe thấy tiếng cú rúc trong ánh trăng vàng vọt. Tiếng kêu của chúng không báo tai họa, vì con người chưa thâm nhập vào cánh rừng khổng lồ. Vô vàn loại rắn lặng lẽ trườn giữa đám lá khô và những con báo gầm lên khủng khiếp, trong những đêm động dục.
Rừng cây cổ đại yên ngủ; những dây leo chằng chịt, những vũng lầy cùng gai góc sắc nhọn bảo vệ giấc ngủ của nó.
Từ rừng thẳm, từ cái bí ẩn của nó, nỗi sợ đột ngột xâm chiếm con tim đoàn người. Tới đây vào một buổi chiều, sau khi đã lội bùn, vượt sông để vạch một con đường, lúc đối diện với cây cối hoang dại này, họ bỗng đờ người vì sợ. Đêm xuống, cùng đến với đêm tối là những đám mây đen, nặng trĩu mưa tháng sáu; và lần đầu tiên, tiếng cú rúc là một điềm gở. Cái tiếng kêu kỳ lạ ấy vang khắp rừng; nó đánh thức đám thú vật dậy: rắn bắt đầu phun, báo gầm lên trong hang, én rơi xuống chết cứng, khỉ chạy trốn. Theo đà bão lồng lộn, những hình thù ma quỷ trỗi dậy; nhưng thực ra, chúng cùng đến với những người mang theo lưỡi rìu, hái; hay có lẽ chúng đã ở trong rừng từ thuở khai thiên lập địa? Đêm hôm ấy, chúng đánh thức ma sói và quỷ lùn, quỷ la và quái vật rắn phun lửa ra lỗ mũi gọi là boitatá.
Đám người kinh hãi nép vào nhau vì rừng gợi cho họ một nỗi sợ thần bí. Họ không thấy một vệt đường mòn nào; rừng là xứ sở của thú vật và ma quỷ. Cho nên họ dừng lại và nỗi sợ ngự trị trong tim họ.
Thế rồi bão chớp rạch trời, sấm gào thét tựa hồ như những thần linh của rừng đang nghiến răng kèn kẹt trước sự hăm dọa do con người mang đến. Thỉnh thoảng, chớp lóe sáng khoảng cây lá xanh um nhưng đám người chỉ trông thấy độc có màu lục sẫm của những thân cây, trong khi họ ráng hết sức lắng nghe những tiếng động đập vào tai họ: tiếng phun của lũ rắn đang chạy trốn, tiếng báo gầm hốt hoảng, những tiếng hãi hùng của các bóng ma bị bỏ mặc trong hiu quạnh. Ngọn lửa họ trông thấy chạy dài trên ngọn cây cao nhất hẳn là từ lỗ mũi con boitatá phun ra và cái tiếng vó dồn kia phải chăng là con quỷ la từ dưới cánh rừng lao tới? Con la cái này xưa kia là một cô gái đẹp, trong một phút yêu đương sôi nổi đã trao thân vào cánh tay phạm thánh của một giáo sĩ. Họ không còn nghe thấy tiếng báo gầm nữa, lúc này tiếng gầm đó đã trở thành tiếng kêu gớm ghiếc của con ma sói, nửa sói, nửa người, vuốt to tướng và hóa dại vì lời nguyền của một bà mẹ. Con quỷ lùn chỉ có một chân và một tay nhảy điệu “Caapora”* [quỷ lùn], vừa nhảy vừa cười giãn cả bộ mặt xẻ làm đôi. Cái sợ bóp nghẹt con tim mọi người.
Mưa bắt đầu rơi xối xả tưởng như lại đến một kỳ đại hồng thủy mới; ở đây tất cả đều nhắc đến thuở khai thiên lập địa. Bất khả xâm nhập và huyền bí, già cỗi như chính bản thân thời gian, nhưng lại trẻ như mùa xuân, rừng hiện ra trước mắt mọi người như sào huyệt đồ sộ nhất của ma quỷ, chỗ ở và hang của ma sói và quỷ lùn. Đối với họ, rừng trở thành một cõi bao la thăm thẳm. Dưới chân rừng, sao mà họ tự cảm thấy nhỏ nhoi đến thế, như những con vật bé bỏng run lên vì sợ hãi! Từ đáy rừng sâu thẳm ré lên những tiếng kỳ lạ. Nhưng điều làm họ kinh hãi nhất trong cơn thịnh nộ của dông bão, là bầu trời đen kịt không có lấy một vì sao rọi sáng chào đón những người mới tới.
Họ từ những xứ sở bên kia biển tới, ở đó đã từng tồn tại những khu rừng khác, nay bị triệt hạ, chinh phục, bị đốt quang đi, với những con đường xuyên ngang, những khu rừng mất hẳn giống báo dữ và rắn rết ngày càng hiếm thấy.
Và giờ đây, trước mắt họ là một khu rừng khác, hoang dại, một vùng cây cối không một vệt đường mòn, chưa có dấu chân người, dưới một bầu trời trĩu nặng dông bão và không một ánh sao.
Ở quê hương xứ sở của họ, những đêm trăng, các bà già thường kể những chuyện ma quỷ rùng rợn. Ở một xó heo hút của trái đất - không ai biết là ở đâu, ngay cả những nhà du lịch lớn nhất, ngay cả những người đã từng rong ruổi trên những nẻo đường sâu kín nhất trong nội địa, vừa đi vừa phán những lời tiên tri - ở một nơi nào đó trong cái xó heo hút và xa xăm kia, ma quỷ đã chọn làm nơi trú ngụ.
Đó là những điều mà các bà già đã nói, bằng vào sự thông thái của tuổi tác và sự từng trải của mình.
Và giờ, trong một đêm dông, tại đây, bên rìa rừng, đám người bỗng nhiên khám phá ra cái xó khủng khiếp này của vũ trụ, nơi ở của bọn quỷ lùn. Những kẻ đã bị một lời nguyền nào đó biến thành quái vật, nay phải đền tội tại đây, giữa vùng cây cối rậm rạp, giữa những dây leo, những con rắn hổ mang, những con báo dữ tợn, những con cú báo tai họa.
Tại đây, những đêm không trăng, chúng mò tới những đường cái lớn rình khách lữ hành trở về nhà và làm cho lòng người khiếp sợ. Cho nên trong tiếng ầm ầm của dông tố, đám người dừng lại, thấy rõ sự bé bỏng của mình, dừng lại và lắng tai nghe những tiếng kêu tuyệt vọng của lũ ma rừng. Giữa hai làn chớp lóe, họ trông thấy những cái hàm khạc lửa; đôi khi họ thoáng thấy những tư thế kỳ quái của con Caapora đang nhảy điệu nhảy quỷ lùn gớm ghiếc của nó. Rừng! Nó chẳng phải là một truyền kỳ, nó chẳng phải là một mối nguy hiểm, một mối đe dọa. Nó là một vị thần linh!
Không một ngọn gió nào nổi lên từ biển xa trong màu xanh của những lớp sóng. Không một cơn gió nào trong cái đêm mưa chớp sáng lòa ấy. Vậy mà đám người vẫn rùng mình, run rẩy vì cái rét tự trong tim họ khiến nó như đang ngừng đập; trước mặt họ là thần rừng, trong lòng họ là cái sợ.
Rìu, cưa tay và lưỡi hái rơi tõm xuống. Bàn tay họ buông thõng mất hết sinh khí, trong khi họ đứng sững, trân trân nhìn cảnh rừng, lòng tràn đầy kinh hãi. Với đôi mắt mở tròn xoe, với đôi mắt thao láo, họ ngắm vị thần linh đang trong cơn thịnh nộ. Đây những thú vật báo tai họa, kẻ thù của người, đây những bóng ma quỷ. Không thể đi xa hơn nữa được; bàn tay con người không chống lại được với thần. Họ chỉ có thể lùi lại với cái sợ trong tim. Chớp rạch trời phía trên rừng, bão gầm, rắn rít, những tiếng than van của ma sói trùm lên dông bão cùng với tiếng rền rĩ của bọn quỷ lùn, quỷ la bảo vệ sự trinh bạch và huyền bí của rừng. Khu rừng khổng lồ trước mặt là quá khứ và khởi đầu của thế giới. Họ ném dao, rìu, hái, cưa xuống. Họ chỉ còn có một con đường là quay trở lui con đường đã đưa họ tới.

2

Đám người trở lui. Họ đã trải qua bao ngày, đêm, những giờ dài đằng đẵng mới tới được đây. Họ đã băng qua những dòng sông, vượt những rừng rậm hầu như không thể vào được, những con đường nóng bỏng; họ đã vất vả xuyên qua những bãi lầy. Một người trong bọn bị rắn cắn đã yên nghỉ dưới ba tấc đất ở bên lề một con đường mới. Một cây thập tự thô sơ, một nắm đất, đó là những gì còn lại của người đàn ông miền Ceará đã ngã xuống như vậy. Người ta không khắc tên anh bởi vì không có gì để khắc. Dọc con đường lớn đó trên đất ca cao, đây là cây thập tự đầu tiên trong vô vàn cây thập tự sau này sẽ chạy dọc những nẻo đường mòn để lưu lại kỷ niệm của những người đã ngã xuống trong công cuộc chinh phục xứ sở này. Một người khác bị sốt, bị đúng cái sốt thường khiến khỉ chết ấy. Anh ta đã gắng bò đi, và bây giờ anh ta cũng trở lui.
“Ma chó sói đấy”, - anh ta kêu lên trong cơn mê sảng. Đám người rút lui mới đầu còn từ từ từng bước một, cho đến con đường mòn rộng hơn, đỡ nhằng nhịt gai góc và đỡ lầy hơn. Mưa tháng sáu trút xuống người họ, ướt hết quần áo, làm họ run lẩy bẩy. Nhưng chính phía kia là rừng, là bão táp, ma quỷ. Đám người trở lui.
Giờ đây họ đã tới con đường mòn, họ nối đuôi nhau đi hàng một trên con đường mòn đó ra đến tận bờ sông, nơi có một chiếc xuồng đang chờ họ. Họ thở dài nhẹ nhõm. Người bị sốt không còn thấy mình sốt nữa; cái sợ đem lại cho anh ta một sức mạnh mới.
Nhưng kìa phía trước mặt, họ bỗng trông thấy Juca Badaró, súng lục trong tay, mặt rúm lại vì điên giận. Cả hắn cũng đi tới rìa rừng; hắn đã nhìn thấy chớp, thấy sấm; hắn đã lắng tai ngóng tiếng bão gầm, tiếng rắn phun! Tim hắn cũng thắt lại khi cú báo điềm gở. Cũng như những người khác, hắn biết rừng là nơi trú ngụ của ma quỷ, nhưng điều mà Juca Badaró trông thấy, không phải là rừng, mà là thuở khai thiên lập địa. Mắt hắn nhìn một ảo cảnh khác. Hắn trông thấy đất đen, loại đất tốt nhất thế giới để trồng ca cao. Trước mặt hắn không còn là khu rừng nhằng nhằng chớp lóe đầy những tiếng động quái dị, rậm rạp dây leo, bao bọc kín trong cái bí ẩn của thân cây cổ đại, hang ổ của dã thú và của ma quỷ hiện hình. Hắn chỉ thấy ở đó một cánh đồng đã trồng trọt. Những hàng cây đều đặn nặng trĩu quả, những quả ca cao chín vàng. Hắn trông thấy ở đó, đồn điền này nối đồn điền nọ phủ kín vùng đất này, nơi xưa kia rừng trải dài tít tắp, và đối với hắn đó là một cảnh tuyệt diệu. Trên đời không có gì đẹp bằng một đồn điền ca cao.
Đối diện với rừng, với cái huyền bí của nó, Juca Badaró chợt mỉm cười. Đây là nơi sẽ mọc lên những cây nặng trĩu quả ca cao, ngả bóng nhẹ nhàng trên mặt đất; đó là tất cả những điều hắn trông thấy. Thậm chí hắn không trông thấy cả bọn người làm của hắn đang kinh hãi trở lui nữa.
Khi hắn thấy vậy, hắn chỉ còn vừa đủ thì giờ để chạy tới trấn trước mặt họ, súng lục lăm lăm trong tay, mắt nhìn dữ tợn và kiên quyết:
- Đứa nào tiến lên đầu tiên, tao bắn.
Đám người dừng lại; họ đứng như thế một lúc, không biết làm gì. Sau lưng họ là rừng và trước mặt họ là Juca Badaró sẵn sàng nổ súng.
- Ma sói đấy, - người bị sốt kêu lên, nhảy chồm về đằng trước.
Juca Badaró bắn, lại một ánh sáng lóe trong đêm. Tiếng vang của rừng dội lại. Những người khác đứng sững, đầu cúi gằm quanh người bị bắn gục. Juca Badaró, súng trong tay, thong thả tiến lại. Antônio Vítor cúi xuống nâng đầu kẻ bị thương lên. Viên đạn xuyên qua bả vai.
- Tao không chủ tâm bắn chết đâu, mà để cho chúng mày biết rằng chúng mày phải vâng lời tao, - Juca Badaró nói, giọng bình tĩnh đến kinh hồn. Hắn tiếp:
- Đi kiếm nước để rửa vết thương mau.
Hắn giúp họ chăm nom người bị thương; tự tay hắn sửa lại một mảnh giẻ băng vết thương rồi giúp họ chuyển anh ta đến khu trại ở gần rừng. Những người kia vừa đi vừa run, nhưng vẫn cứ phải đi. Người bị nạn mê sảng khi người ta đặt anh xuống đất. Trong rừng, ma quỷ tha hồ đi lang thang đây đó.
- Lên đường, - Juca Badaró nói.
Mọi người nhìn nhau, Juca bèn giơ súng lục lên.
- Đi thôi.
Thế là rìu và dao quắm hạ xuống với một tiếng động đều đều, kéo khu rừng ra khỏi giấc ngủ. Juca Badaró nhìn thẳng về phía trước. Hắn vẫn còn nhìn thấy cả cái khoảng đất đen này trồng cây ca cao, đồn điền nọ tiếp đồn điền kia, trĩu trịt những quả vàng. Mưa tháng sáu đổ xuống đám người.
Người bị nạn xin uống nước, giọng run rẩy. Juca Badaró vẫn lăm lăm khẩu súng lục trong tay.

3

Mặt trời buổi sáng đã nhuộm vàng những trái ca cao còn xanh mướt trên cành, khi đại tá Horácio đi dạo giữa những hàng cây đều đặn. Những cây này được năm tuổi rồi, đồn điền đang ra lứa quả đầu tiên. Rừng cũng ở ngay kia, luôn luôn đe dọa và bí ẩn. Người của lão đã đốt lửa, dùng dao quắm, rìu, dao phát hạ những thân cây to tướng để khai phá rừng, đuổi báo và ma quỷ đi. Rồi lại phải vạch luống trồng, vạch cẩn thận để năng suất được cao hơn; giờ đây, sau năm năm, cây đã trổ hoa; và buổi sáng hôm đó đã có những quả nhỏ lủng lẳng ở đầu cành.
Lứa quả đầu tiên. Mặt trời tô vàng những trái cây trong khi lão đại tá đang đi dạo. Lão chừng năm mươi tuổi, mặt rỗ hoa nặng trịch, cau có. Lão cầm một cuộn thuốc lá và một con dao díp và đôi tay đầy chai vấn một điếu thuốc, những bàn tay ngày xưa đã từng vung roi trên lưng lừa khi lão còn dắt la cho một đồn điền ở Rio do Braço. Cũng những bàn tay ấy sau này đã tập bắn một khẩu súng tự động khi lão đại tá trở thành kẻ đi chiếm đất.
Có khá nhiều chuyện đồn đại về lão. Bản thân lão đại tá thì lại chẳng biết gì về mọi thứ, chuyện người ta kể ở Ilhéus, ở Tabocas, ở Palestine và Ferradas, ở Água Branca, ở Água Preta. Những bà già mộ đạo đi cầu Thánh Jorge ở nhà thờ Ilhéus thường nói rằng ông đại tá Horácio ở Ferradas vẫn giấu quỷ dưới gầm giường, nhốt vào trong một cái lọ. Còn như việc ông ấy đã bắt được con quỷ đó như thế nào là cả một câu chuyện dài kể lại việc ông ta đã đem bán linh hồn như thế nào vào một ngày dông tố. Và con quỷ trở thành đầy tớ ngoan ngoãn của ông ta, thỏa mãn mọi điều ông ta ước mong, làm giàu thêm cho ông và giúp ông chống lại kẻ thù. Nhưng rồi một ngày kia - và khi kể đến quãng này, các bà già thường làm dấu thánh giá - Horácio sẽ chết không được xưng tội, con quỷ sẽ chui ra khỏi lọ để đem linh hồn ông ta xuống tận đáy địa ngục. Lão đại tá biết câu chuyện này, mỗi khi nghe thấy lão thường bật cười, tiếng cười khô khan và cụt ngủn nghe còn kinh hãi hơn cả tiếng la thét giận dữ của lão vào một vài buổi sáng nào đấy. Người ta còn kể những chuyện khác nghe có vẻ thật hơn. Mỗi khi rượu vào, thầy cò Rui ưa nhắc lại chuyện hắn ta đã cãi cho lão đại tá ở tòa án cách đây bao nhiêu năm về trước. Horácio bị tố cáo về ba vụ giết người đặc biệt tàn bạo. Theo những bằng chứng buộc tội, thì chẳng những lão đã giết chết một nạn nhân của lão mà còn cắt tai, cắt mũi, và xẻo dương vật người đó nữa. Thầy cò Rui đã cãi cho lão và xin được tha bổng. Hắn ta cãi rất hùng hồn, làm một bài biện thuyết nói về sự “bất công trắng trợn” của lời buộc tội và những “điều vu khống do những kẻ thù vô danh, vô liêm sỉ và vô nhân cách bày đặt ra”.
Kết quả là một thắng lợi: đây là một trong những bài biện hộ khiến hắn ta nổi tiếng là tay thầy cãi giỏi. Trong đoạn ca ngợi lão đại tá, hắn ta gọi lão là một trong những nhà điền chủ giàu có nhất vùng, một người không những đã đem lại cho mọi người cái giáo đường nhỏ ở Ferradas, mà ngay lúc bấy giờ còn đang cho xây nhà thờ ở Tabocas nữa; ông ta tôn trọng luật pháp; ông đã hai lần tham gia hội đồng thành phố Ilhéus; ông ta là hội trưởng chi nhánh hội Tam điểm. Một người như vậy lẽ nào lại có thể phạm vào một tội ác đầy hằn thù như thế được?
Tất nhiên, ai nấy đều biết rõ Horácio là thủ phạm.
Câu chuyện bắt đầu vì một bản hợp đồng. Trên một miếng đất của Horácio, anh da đen Altino cùng người anh rể là Orlando và một người bạn thân nữa tên là Zacarias, ba người đã thỏa thuận với viên đại tá là sẽ trồng cho lão một trại cây. Họ đã phá rừng, đốt đất, trồng ca cao, trồng sắn và kê giữa các luống cây để tạm sống chừng ba năm đợi đến mùa thu hoạch ca cao. Sau ba năm họ đến tìm viên đại tá để trao trả khu trại và lĩnh tiền công. Mỗi gốc ca cao đến kỳ ra quả tính ra được năm trăm reís. Họ trù tính, với món tiền đó, sẽ mua một thửa đất, một mảnh rừng nào đó để khai phá và trồng ca cao. Họ sung sướng và ca hát suốt dọc đường.
Tuần lễ trước, Zacarias có mang bột kê và sắn đến cửa hàng của đồn điền để đổi lấy thịt bò khô, rượu rum và đậu. Anh đã gặp viên đại tá và có nói chuyện với lão. Zacarias cho lão biết tình hình trồng trọt; tên chủ có nhận là đã hết hạn ba năm rồi, sau đó Horácio còn mời anh uống rượu ngoài hiên nhà lớn và hỏi bọn anh định làm ăn ra sao. Zacarias nói là bọn anh định sẽ mua một mảnh đất đã trồng vườn ca cao. Viên đại tá không những tán thành dự định ấy bằng một giọng khá tử tế, mà còn ngỏ ý muốn giúp đỡ nữa. Bọn anh không thấy rằng lão có khu đất trồng ca cao tốt nhất hay sao? Trong cả vùng chung quanh Ferradas, cả một vùng rộng lớn thuộc quyền lão, bọn anh cứ việc cắm lấy một khu, bất cứ chỗ nào. Làm như vậy lại càng tiện hơn nữa, vì bọn anh sẽ không phải trả một đồng xu nào cả. Zacarias hớn hở trở về lều.
Đến hạn, họ đến gặp viên đại tá nói cho lão biết số cây ca cao chín và ý họ muốn mua khu đất nào. Họ đi tới thỏa thuận với nhau và cuộc mua bán đã được đánh dấu bằng nhiều cốc rượu rum. Rồi Horácio lên tiếng:
- Các anh có thể tiếp tục khai phá, - lão nói. - Bữa nào tôi đi Ilhéus, tôi sẽ tin cho các anh biết; các anh sẽ cùng đến đấy; chúng ta sẽ giải quyết dứt khoát mọi chuyện giấy tờ ở sở trước bạ.
Họ có nhắc đến chuyện ký văn tự, nhưng viên đại tá bảo họ đừng lo; một hoặc hai tháng sau họ sẽ cùng đi Ilhéus. Ba người bèn cáo lui sau khi lạy chào và cảm ơn rối rít. Ngày hôm sau, họ lên đường vào rừng, bắt đầu đốn cây và dựng lên một túp lều. Ngày tháng trôi qua; viên đại tá hai ba lần đi Ilhéus, mấy người đã vạch ra khu trồng cây nhưng văn tự vẫn chưa có. Một hôm, Altino đánh bạo nhắc viên đại tá:
- Thưa quan đại tá, xin ngài xá lỗi cho, chúng tôi muốn được biết bao giờ chúng tôi có thể nhận được văn tự bán đất.
Thoạt tiên, Horácio tỏ ra bất bình vì thái độ thiếu tin cậy ấy, nhưng vì Altino xin lỗi, lão ta bèn giải thích rằng lão đã dặn dò thầy cò Rui là đại diện của lão, để ông này thu xếp công việc. Không bao lâu nữa đâu; một ngày nào đó, lão sẽ cho người đi tìm bọn anh, chỉ việc ghé qua Ilhéus, là công việc xong ngay. Nhưng thời gian cứ trôi; những mầm ca cao đầu tiên sau này sẽ thành cây đã nhú ra khỏi lớp đất mới trồng. Altino, Orlando và Zacarias trìu mến đứng ngắm những mầm non này. Đây là cây của họ, do họ trồng, trên một miếng đất do chính tay họ đã khai phá. Cây sẽ mọc lên, sẽ mang những quả vàng, những quả sẽ đem lại tiền của. Họ đã quên khuấy mất chuyện ký văn tự. Chỉ có một mình Altino là thỉnh thoảng còn nhớ tới. Anh biết viên đại tá Horácio từ lâu rồi và không tin lão. Dù sao, họ vẫn sửng sốt khi một hôm, họ hay tin khu đồn điền Coronel trong đó có mảnh đất của họ đã được bán cho viên đại tá Ramiro.
Họ quyết định đến nói chuyện với đại tá Horácio. Altino và Zacarias lên nhà lớn. Orlando ở nhà. Họ không gặp viên đại tá, lão đã đi Tabocas. Hôm sau họ lại đến; viên đại tá lại đi Ferradas. Orlando bèn quyết định thân hành đến đấy. Anh tha thiết với miếng đất này hơn tất cả mọi thứ, không muốn mất nó. Người ta bảo anh rằng đại tá ở Ilhéus. Anh gật đầu, nhưng cứ đi vào sảnh và thấy Horácio đang ngồi ăn trong phòng ăn. Lão đại tá nhìn người công nhân cũ của mình.
- Anh có ăn không, Orlando? Ngồi xuống đây nếu anh muốn.
- Không, xin cảm ơn quan lớn.
- Có việc gì mà tới đây, có gì lạ không?
- Vâng, thưa quan lớn, một tin rất xấu. Đại tá Ramiro đến nói với chúng tôi rằng khu rừng của chúng tôi thuộc về ông ta; ông ta nói rằng đã mua của quan, thưa quan đại tá.
- Nếu đại tá Ramiro đã nói vậy thì chắc là đúng rồi. Ông ấy không phải là người nói dối đâu.
Orlando nhìn chằm chằm lão đại tá, nhưng lão lại tiếp tục ăn.
Người khách nhìn vào hai bàn tay to lớn đầy chai và bộ mặt nặng trịch của lão chủ.
Cuối cùng anh nói:
- Vậy thế là quan lớn đã bán miếng đất đó.
- Đấy là việc của tao.
- Thế là quan lớn không nghĩ rằng ngài đã bán cái mảnh rừng ấy cho chúng tôi, thay vào món tiền phải trả chúng tôi theo giao kèo trồng ca cao?
- Có giấy tờ gì không? - Và Horácio vẫn tiếp tục ăn.
Orlando xoay xoay trong tay cái mũ lớn bằng rơm. Anh lường thấy tất cả cái tai họa mênh mông vừa đổ sụp xuống đầu anh và các bạn. Anh thấy rõ rằng bọn anh không còn miếng đất nào hết, không còn vườn cây nào hết, bọn anh không còn gì cả. Anh nóng mặt và không giữ gìn lời nói nữa.
- Không có gì đáng cười cả, ngài đại tá ạ. Tôi xin báo trước để ngài biết rằng cái ngày mà đại tá Ramiro đặt chân đến khu rừng của chúng tôi, ngày ấy ngài sẽ phải trả cho chúng tôi một giá đắt và sẽ phải trả tất cả. Ngài hãy suy nghĩ đi.
Nói xong, anh rời khỏi phòng ăn, lấy cánh tay gạt Felícia, người phụ nữ da đen hầu bàn viên đại tá. Horácio vẫn tiếp tục bữa ăn như không có chuyện gì xảy ra.
Đêm hôm ấy, lão cùng bộ hạ đi đến khu rừng của ba anh em. Tiến thẳng đến túp lều, lão tuyên bố sẽ tự tay xử mấy gã thanh niên nọ. Sau đó, dùng một con dao gọt quả, lão đã cắt lưỡi Orlando, khoét mắt, xẻo tai, cắt mũi anh, rồi lột quần ra, lão xẻo cả dương vật.
Lão cùng bọn tay chân trở về đồn điền, và sau khi một tên trong bọn chúng bị cảnh sát bắt vì say rượu và bị buộc vào tội là thủ phạm vụ án mạng, Horácio vẫn cười cái cười thường lệ của lão; tên tay chân của lão được tha bổng.
Bọn jagunco của lão - hay gọi là bọn thổ phỉ cũng được - thường nói rằng ngài đại tá đúng là một tay hảo hán và được làm việc với một ông chủ như vậy thật cũng bõ công bõ sức.
Không bao giờ lão để cho một tên tay chân nào phải ngồi tù. Thậm chí có một lần lão còn đi đến tận Ferradas để giải thoát cho một tên bộ hạ. Cứu tên này ra khỏi nhà tù, lão còn xé luôn bản cáo trạng ngay trước mặt viên lục sự.
Phải, người ta kể rất nhiều chuyện về lão đại tá. Người ta nói rằng, trước khi trở thành thủ lĩnh đảng đối lập, để giành được địa vị đó, lão đã sai bọn tay chân đi rình viên thủ lĩnh cũ của đảng, một tay thương gia ở Tabocas, và cho khử địch thủ của mình.
Sau đó, lão đổ tội cho những kẻ thù chính trị của lão.
Đến nay, lão đại tá trở thành vị chúa tể tuyệt đối của vùng này, nhà điền chủ lớn nhất trong nước và lão còn dự định mở rộng cơ nghiệp thêm nữa. Có sá gì những chuyện bàn ra tán vào ấy? Từ điền chủ đến thợ thuyền, tá điền và những kẻ làm việc ở các vườn cây nhỏ, ai nấy đều kính nể lão. Lão có vô số đầy tớ.
Nên chi, sáng hôm ấy, lão đi dạo giữa những luống ca cao mang lứa quả đầu tiên. Đôi bàn tay to lớn đầy chai của lão đã châm xong điếu xì gà; lão chậm rãi kéo từng hơi thuốc, chẳng nghĩ ngợi đến việc gì hết, cả những chuyện người ta nói về lão, cả viên thầy cò Virgílio vừa tới, một luật gia mới mà đảng cử từ Bahia đến làm việc ở Tabocas. Thậm chí lão cũng chẳng nghĩ gì tới Ester, cô vợ vừa trẻ lại vừa xinh của lão. Ester là con gái của ông Salustiano, thương gia ở Ilhéus, đã được các bà xơ ở Bahia nuôi nấng, dạy dỗ; ông cụ rất sung sướng được gả con cho lão đại tá. Đó là vợ kế của lão; người vợ trước đã chết khi lão còn là anh chăn la. Ester mảnh người, mặt trắng xanh và nét đẹp thoáng đượm một vẻ buồn. Nàng là người duy nhất trên đời có thể làm cho môi lão nở một nụ cười khác hẳn với nụ cười thường lệ. Nhưng giờ lão không nghĩ tới Ester. Lão không nghĩ tới gì hết. Lão chỉ nhìn thấy cái quả nhỏ bé trên cây ca cao còn xanh kia thôi, trái quả đầu tiên của khu rừng này. Lão cầm một quả ca cao trong tay và vuốt ve nó một cách dịu dàng, say đắm. Dịu dàng, say đắm y như lão đang vuốt ve làn da thịt măng tơ của Ester vậy. Một cách trìu mến. Với một tình yêu vô hạn.

4

Ester ngồi vào dương cầm. Chiếc đàn dương cầm cánh dơi chiếm một góc ở phòng khách lớn. Nàng lướt đôi bàn tay lên phím và những ngón tay bất giác dạo lên một giai điệu, một khúc waltz cổ, một đoạn nhạc gợi cho nàng nhớ lại những ngày còn đi học và một vài buổi hội hè nào đó. Nàng như thấy lại Lúcia. Giờ đây Lúcia ở đâu? Nàng tự hỏi. Lâu rồi, nàng không được tin tức gì của cô bạn, không nhận được một lá thư nào của bạn, những lá thư ngộ nghĩnh và vui vui. Thậm chí nàng cũng chưa viết thư cảm ơn Lúcia đã gửi cho mình các tạp chí Pháp và báo nói về thời trang. Báo chí còn kia trên mặt dương cầm, cùng với những tờ nhạc khác bị bỏ quên. Ester khẽ cười buồn bã và đánh một hòa âm khác. Báo thời trang mà làm gì trong cái xứ hẻo lánh này, trong cái cảnh cô đơn này? Thời trang trong ngày hội thánh José ở Tabocas, trong ngày hội thánh Jorge ở Ilhéus, lạc hậu hàng bao nhiêu năm và không bao giờ nàng có thể mặc được những áo dài bạn nàng vẫn mặc ở Paris. Chao ôi! Nếu như Lúcia có thể tưởng tượng được ra cái trại này là thế nào, cái nhà mất hút giữa rừng cây ca cao, và tiếng phun phì phì của những con rắn chuyên ăn thịt ếch ở đầm lầy!
Lại còn rừng nữa, cánh rừng bắt rễ từ kia, ngay đằng sau nhà ở, dây leo chằng chịt, trải ra vô tận, thân cây chi chít không biết đằng nào mà lần. Ester sợ rừng như người ta sợ kẻ thù. Không bao giờ nàng có thể làm quen được với nó, điều ấy đã hẳn rồi. Ý nghĩ đó khiến nàng tuyệt vọng, vì nàng biết chắc chắn rằng cả đời nàng sẽ sống ở đây, trên cái đồn điền này, trong cái thế giới lạ lùng này, chứa đựng biết bao điều khủng khiếp đối với nàng.
Nàng sinh ở Bahia, trong nhà ông bà, nơi mẹ nàng đến ở cữ và chết ngay khi nàng ra đời. Cha nàng buôn bán ở Ilhéus và thời gian đó mới bắt đầu bước vào nghề. Ester ở lại với ông bà, các cụ ve vuốt nuông chiều cháu, làm theo mọi ý thích của cháu và hiến cả cuộc đời cho cháu.
Cha nàng và cửa hiệu buôn bán của ông ta cũng theo nhau phát đạt, và thỉnh thoảng ông ta mới có mặt ở nhà bố mẹ, thường là một năm hai lần ông ta về thủ đô để giải quyết công việc. Con gái ông đến ở nhà ký túc tốt nhất ở Bahia, do các bà tu nữ trông nom. Thoạt tiên nàng học ngoại trú, rồi khi ông bà chết đi, nàng vào ở trong ký túc xá. Ông bà nàng chết theo nhau trong vòng một tháng. Ester để tang ông bà nhưng lúc ấy nàng không thể cho mình là cô đơn được vì nàng có đủ bạn gái và cùng với bạn, việc đọc các tiểu thuyết Pháp, đọc truyện những nàng công chúa làm cho nàng mơ tới một cuộc đời lộng lẫy trong tưởng tượng.
Các cô ai nấy đều có những dự định về tương lai, những dự định đầy tham vọng ngây thơ, về hôn nhân, giàu sang và tình yêu, về quần áo đẹp, về những cuộc du lịch đi Rio de Janeiro và sang châu Âu, tất cả, trừ cô Geni muốn trở thành tu nữ và cả ngày chỉ cầu kinh, về phần Ester và Lúcia là hai cô ăn mặc sang trọng nhất và thuộc loại hoa khôi của nhà trường, các cô tha hồ để cho trí tưởng tượng thỏa sức bay bổng. Các cô tán gẫu ngoài sân trong giờ ra chơi và trong nhà ngủ lặng lẽ.
Ester đứng lên, rời khỏi dương cầm và hòa âm cuối cùng tan vào trong cánh rừng. Ôi! Những ngày đi học, những ngày sung sướng! Nàng nhớ tới những lời của bà xơ Angelica, người thân mật và dễ thông cảm nhất trong số tất cả những bà tu sĩ, vào cái hôm mà các cô cầu mong ngày tháng trôi đi nhanh hơn nữa để được sống mãnh liệt hơn. Bà đặt đôi tay thanh thanh lên vai cô học trò, đôi vai mảnh khảnh xiết bao!
“Đời người không có lúc nào sánh tầy lúc này, Ester ạ, khi mà người ta còn có thể mơ mộng được”. Bấy giờ nàng chưa hiểu ra. Phải đợi nhiều năm sau, điều nhận xét ấy mới trở lại trong ký ức của nàng để rồi sau đó hầu như ngày nào nàng cũng nhớ đến. Ôi! Sung sướng thay những ngày đi học!
Ester đi ra, ngồi lên cái võng ở ngoài hiên. Ngồi đây, nàng nhìn thấy con đường cái họa hoằn mới có một anh công nhân đi qua, về phía Tabocas hay Ferradas. Nàng còn trông thấy những thùng gỗ phơi ca cao đã được những bàn chân đen đủi của công nhân vò xát.
Khi học xong, nàng đến ở Ilhéus, cũng chẳng đợi dự đám cưới của cô bạn thân Lúcia lấy bác sĩ Alfredo, một thầy thuốc nổi tiếng. Bạn nàng giờ đây đang đi du lịch ở Rio de Janeiro và ở châu Âu, nơi chồng cô ta trau dồi chuyên môn và làm việc từng thời gian tại các bệnh viện trứ danh.
Lúcia đã thực hiện được mơ ước của cô ta; nào là áo quần sang trọng, nước hoa, nào là những dạ hội khiêu vũ lớn. Số phận hai người khác nhau biết bao! Ester nghĩ. Nàng thì đến Ilhéus, một thế giới khác hẳn. Đó là một thành phố vừa mới bắt đầu mọc lên, dân số gồm có thợ thuyền và những kẻ giang hồ, nơi chỉ toàn nói đến mỗi chuyện ca cao hay là chết chóc. Cha nàng ở tầng hai, trên gian nhà kho; qua cửa sổ, Ester nhìn thấy quang cảnh tẻ nhạt của thành phố. Mỗi bên có một quả đồi; nàng không tìm thấy cái gì đẹp, trên mặt sông cũng như trên mặt biển. Đối với nàng, cái đẹp nằm trong cuộc sống của Lúcia, trong những dạ hội khiêu vũ ở Paris. Khi tàu cập bến và khi cả thành phố náo nhiệt lên, khi báo chí ở thủ đô tới và các cửa hàng chật ních những người tranh luận về chính trị, ngay cả trong những dịp quan trọng gần như ngày hội ấy, Ester cũng không rũ được cái buồn. Bọn đàn ông khen ngợi nàng và tán tỉnh nàng một cách dè dặt. Có một lần, trong ngày hội trá hình, một sinh viên y khoa viết cho nàng một lá thư và gửi những câu thơ tặng nàng, nhưng đối với Ester thì đó là thời kỳ của khóc than và tang tóc; nàng than khóc cái chết của ông bà nàng đã buộc nàng phải sống trong cái xó xỉnh hẻo lánh này. Tin tức về những chuyện tranh chấp và chết chóc làm nàng khiếp đảm, và lo sợ ghê gớm. Tuy nhiên, nàng cũng quen dần với cuộc sống ở thành phố này và dần dà mất cả cái thú làm dáng của phụ nữ, điều đã từng làm cho mọi người bàn tán rất nhiều khi nàng mới tới đây (thậm chí thành một điều tai tiếng nữa). Và một hôm, khi cha nàng rất sung sướng báo cho nàng biết rằng đại tá Horácio, một trong số những nhà điền chủ giàu nhất, hỏi nàng làm vợ, thì nàng chỉ còn biết nhỏ vài giọt nước mắt mà thôi.
Và giờ đây, được đi chơi Ilhéus đối với nàng đã trở thành một ngày hội. Giấc mơ về những thành phố lớn ở châu Âu, những buổi dạ hội khiêu vũ của hoàng đế và những chiếc áo kiểu Paris, nàng đã bỏ lại tận đâu đâu rồi, mất hút trong đám sương mù của thời gian, của quãng thời gian mà người ta còn có thể mơ mộng được. Mới qua có vài năm mà nàng tưởng như mình đã sống cả một cuộc đời với một tốc độ nhanh đến chóng mặt. Giờ đây, giấc mơ tráng lệ nhất của nàng là được đi Ilhéus, dự một ngày hội tôn giáo, một đám rước hay dự một cuộc bán đấu giá để làm phúc.
Nàng thong thả đưa võng; phía trước mặt, mãi tận cuối tầm mắt, từ đỉnh đến chân các quả đồi, nàng chỉ nhìn thấy những khu rừng ca cao nặng trĩu quả. Trên thảm cỏ quanh nhà, gà mái và gà tây đang bới đất. Bọn da đen vò đạp ca cao trong các máng gỗ. Mặt trời đột nhiên ló ra khỏi một đám cây, rọi ánh nắng tràn ngập cảnh vật.
Ester nhớ lại ngày cưới. Ngày hôm ấy, nàng cùng với chồng đến đồn điền. Hồi tưởng lại làm nàng còn rùng mình trong khi đang ngồi đưa võng ở đây. Đó là cảm giác ghê sợ nhất nàng từng biết tới. Nàng nhớ lại khi tuyên bố đính hôn, khắp thành phố rộn lên những lời rì rầm bàn tán. Một người đàn bà mà nàng không giao du một bữa kia đến gặp nàng, kể cho nàng nghe một vài câu chuyện. Trước đó, cũng có mấy bà mộ đạo trong thành phố, rất quen thuộc trong giới tu hành, đã cho nàng biết những chuyện đồn đại về ông đại tá; nhưng người đàn bà này mang đến cho nàng một cái tin còn cụ thể và ghê sợ hơn nữa. Bà ta kể cho Ester hay rằng Horácio đã giết người vợ trước, đã lấy roi quất vợ đến chết hôm lão bắt gặp mụ nằm với một người đàn ông khác trên giường. Đó là thời lão ta còn là tên giữ la, còn lần theo những con đường hẻm mới vạch ra trong rừng đầy bí mật. Rất lâu về sau, mãi đến khi lão trở nên giàu có, câu chuyện này mới truyền đi trong các phố ở Ilhéus trên cái đất ca cao này. Có lẽ chính vì cả thành phố xì xào với nhau câu chuyện ấy, cho nên Ester vẫn tiếp tục chuẩn bị việc cưới, với đôi chút tự hào và rất nhiều khinh miệt.
Horácio đến tán tỉnh nàng vào những ngày chủ nhật hiếm hoi khi lão đến dùng bữa ở nhà nàng, tán tỉnh bằng cách im lặng kéo dài; một lối tán tỉnh không có hôn hít, vuốt ve, không có những lời tình tứ, khác biết bao với những điều Ester đã tưởng tượng trong cái yên tĩnh của trường nhà dòng. Nàng muốn một đám cưới không khoa trương hình thức, mặc dầu thoạt tiên Horácio năn nỉ đòi làm thật linh đình: phải có tiệc tùng, khiêu vũ, đốt nhiều nến và lễ lớn. Nàng đã thắng. Đám cưới của nàng đã tổ chức thân mật, và hai cuộc nghi lễ, một với ông cha cố và một với viên thẩm phán, đều cử hành ở nhà. Cha cố thì giảng cho họ nghe một bài thuyết giáo, viên thẩm phán với bộ mặt mệt mỏi của một tay sâu rượu thì chúc họ hạnh phúc. Thầy cò Rui đọc một bài diễn văn khá hay. Cưới buổi sáng thì sẩm tối họ đã cưỡi lừa vượt đầm lầy về tới nhà lớn ở đồn điền. Thợ thuyền tụ tập ở trước nhà, bắn một loạt súng khi đoàn lừa đến gần: Đó là cách họ chào mừng đôi vợ chồng mới. Nhưng Ester thấy tim mình như thắt lại khi nghe thấy những tiếng súng nổ đó trong đêm tối. Horácio sai phân phát rượu rum cho bọn đầy tớ. Chỉ vài phút sau, nàng đã trơ trọi một mình và Horácio bỏ đi thăm rừng và ca cao sấy trong lò để xem trận mưa đã làm lão thiệt hại đến đâu. Mãi đến khi lão quay về, bọn nữ tì da đen mới thắp đèn lên. Nghe tiếng ếch kêu, Ester sợ. Horácio chẳng có chuyện gì nói, và sốt ruột.
- Cái gì thế? - Nàng hỏi khi nghe thấy một con ếch khác kêu trong đầm.
- Một con ếch trong miệng rắn đấy, - lão đáp, giọng thản nhiên.
Bọn nữ tì da đen dọn bữa chiều, họ nhìn Ester với một vẻ ngờ vực, và đột nhiên, vừa ăn xong, quần áo nàng đã bị rứt tung ra, xác thịt nàng bị chiếm đoạt thô bạo một cách bất ngờ nhất.
Từ đó, nàng quen dần với tất cả mọi chuyện. Giờ đây nàng đã khá hòa hợp với các cô đầy tớ da đen; nàng còn đi đến chỗ yêu mến Felícia, một cô gái lai đen trung thành. Nàng quen dần với chồng, với những phút im lặng nặng nề của lão, với những cơn dâm dật bất thường của lão, với những lúc lão nổi cơn giận dữ điên cuồng khiến tên jagunco hung dữ nhất cũng phải lùi bước. Nàng quen dần với những tiếng súng nổ trong đêm khuya trên con đường cái, với những cái xác chết nằm trong võng thỉnh thoảng lại được khiêng qua, kèm theo tiếng đàn bà khóc lóc thảm thiết. Có một điều duy nhất nàng không thể quen được, đó là cánh rừng đằng sau nhà. Đêm đêm, trong những đầm do nước sông tạo nên, những con ếch cất tiếng kêu tuyệt vọng trong miệng con rắn đang ăn thịt chúng.
Mười tháng sau, nàng sinh một đứa con trai: Giờ đây thằng bé đã được một năm rưỡi. Ester ghê sợ nhận ra rằng con mình hoàn toàn giống Horácio. Nàng không thể không nghĩ rằng đó là do lỗi của chính nàng, vì nàng đã không góp sức trong việc hoài thai ra nó; bởi vì nàng không bao giờ tự ý trao thân cho chồng, bao giờ nàng cũng bị cưỡng bức như một thứ đồ dùng hay như một con vật. Tuy nhiên nàng vẫn tha thiết yêu con, và đau khổ vì nó. Vậy là nàng đã quen dần với mọi chuyện. Nàng không mơ mộng nữa, nhưng cái mà nàng không thể nào chịu đựng nổi, đó là rừng và đêm tối.
Những đêm dông tố thật là kinh khủng; chớp sáng lòe trên những thân cây cao nhất, sét nổ ầm ầm, cây cối bật cả gốc. Trong những đêm như vậy, Ester chỉ ngồi bó gối, kinh hoàng, than khóc cho số kiếp. Những đêm khủng khiếp với cái sợ không sao nén nổi, một nỗi ghê sợ cụ thể và như sờ mó được. Nó bắt đầu cùng với cái giờ đầy lo âu của hoàng hôn. Ôi! Những buổi hoàng hôn báo trước cơn bão táp! Theo ánh chiều tà tắt dần trong những đám mây đen và thấp, bóng tối trở thành một định mệnh xác thực; không cây đèn nào có thể làm cho nó sợ, xua đuổi được nó đi, ngăn cản nó tìm ra ngôi nhà và biến cái nhà ấy, biến những bụi ca cao kia, biến cả khu rừng thành một thực thể đồng nhất giới hạn trong một bóng tối ngang với bóng tối của đêm trường. Cây cối bỗng khoác những hình thù khổng lồ; bóng tối càng dày thì thân cây càng cao mãi lên. Người ta nghe thấy những tiếng gọi đau đớn, tiếng kêu của những con chim và những con vật lạ. Tiếng kêu ấy ở đâu ra? Ester không biết. Và cả tiếng rít của loài bò sát, tiếng chúng lướt mình lạo xạo trên lá khô! Ester luôn luôn có cảm giác rằng một ngày kia rắn rết sẽ bò lên hiên, tràn vào trong nhà một đêm dông tố nào đó, và chúng sẽ chộp lấy cổ họng nàng và con trai nàng, quấn vào cổ hai người như một cái vòng. Nàng không tài nào diễn tả nổi nỗi kinh hoàng của những giờ phút kéo dài suốt từ lúc mặt trời lặn cho đến khi bão táp nổi lên. Và cuối cùng khi cơn dông tố sập xuống với tất cả sự cuồng nộ của nó, khi thiên nhiên như muốn hủy diệt tất cả, nàng chạy tới chỗ nào có ánh đèn sáng nhất. Ngay cả lúc đó nữa, những cái bóng do vầng ánh sáng hắt xuống cũng vẫn làm cho nàng sợ, kích thích trí tưởng tượng của nàng và đẩy nàng đến chỗ phải tin những mẩu chuyện mê tín nhất do bọn da đen kể lại.
Một kỷ niệm bao giờ cũng trở về trong trí nàng những buổi tối ấy, đó là những bài hát ru mà bà nàng xưa kia vẫn hát để làm khuây khỏa nỗi sợ của nàng hồi bé, cách đây đã lâu lắm rồi. Và giờ đây, ngồi cạnh nôi con, nàng vừa khóc vừa hát lại những bài hát ru đó, hát khe khẽ bài nọ tiếp bài kia, lòng tin chắc ở hiệu lực thần diệu của chúng. Nàng hát ru con, nó ngước cặp mắt nâu và dữ lên nhìn nàng, cặp mắt của Horácio; nhưng nàng cũng hát cho nàng nghe nữa, chính vì nàng cũng chỉ là đứa bé đang khiếp sợ. Nàng hát nho nhỏ tự ru mình bằng âm điệu bài hát trong khi nước mắt ròng ròng chảy trên mặt. Nàng quên khuấy bóng tối ngoài hiên, những bóng đen khủng khiếp ngoài kia, những tiếng hú hăm dọa của cú trong những lùm cây, quên cả đêm sâu, quên cả rừng, và bí mật của rừng. Nàng hát những bài hát ngày xưa, những giai điệu đơn giản, rất mầu nhiệm để chống lại những phép yêu ma. Dường như vong hồn hiền từ của bà nàng, trìu mến và thông cảm đang che chở cho nàng.
Thế rồi thốt nhiên, tiếng kêu của một con ếch trong đầm bị cắn chết, xuyên qua khu rừng, qua những lùm cây ca cao, lọt vào trong nhà, nó mạnh hơn cả tiếng cú kêu, hơn cả tiếng lá xào xạc, hơn cả tiếng gió rít, nó bay đến, tắt ngấm trong căn buồng sáng, bên cạnh nàng Ester đang ngồi run lẩy bẩy. Nàng không hát nữa. Nàng nhắm mắt lại, và nhìn thấy rõ từng li từng tí: những con rắn ghê tởm và bầy nhầy đang trườn trên mặt đất giữa đám lá mục, rồi bất thần phóng bổ vào con ếch vô tội, trong khi cái tiếng kêu chết chóc và tuyệt vọng kia khuấy động mặt sông yên tĩnh, khiến cho cảnh tượng đe dọa của đêm khuya tràn đầy sợ hãi, tai họa và đau khổ.
Trong những đêm như vậy, nàng nhìn thấy rắn ở khắp các xó nhà; chúng từ khe sàn, từ kẽ hở, giữa những hàng ngói bò ra; mỗi lần người ta mở cửa chúng lại bò vào. Nhắm mắt lại một lát, nàng thấy chúng đang bò thận trọng để chuẩn bị cú phóng chết người. Lát sau, nàng lại run lên nghĩ rằng có thể có một con rắn đang ở trên nóc nhà, đang chậm chạp trườn đi, lén lút và lặng lẽ, đến gần chiếc giường bằng gỗ hồng, có lẽ để quấn chết nàng trong giấc ngủ. Nàng đã trải qua không biết bao nhiêu đêm trắng, tưởng như nhìn thấy một con rắn bò xuống dọc theo bức tường!
Một tiếng động nhỏ nhất nghe thấy trong giấc ngủ cũng đủ làm cho nàng kinh hoảng. Nàng tung chăn nhỏm dậy, đi đến chỗ nôi con. Khi biết chắc rằng nó đang ngủ ngon, nàng cầm một cây nến trong tay, đi lục soát khắp buồng, không bỏ sót một xó xỉnh nào, mắt thao láo vì khiếp sợ.
Thỉnh thoảng Horácio thức giấc, lão làu bàu vài tiếng, nhưng Ester vẫn tiếp tục tìm kiếm vô ích. Nàng không ngủ được nữa mà nằm đợi cái thứ kia đến, lòng xiết bao kinh hãi. Nó đã đến, nó bò đến gần giường, còn chính nàng thì không đủ sức mà cựa quậy, hoặc là kêu lên được nữa. Nàng cảm thấy nó, cái thứ kia, đang quấn lấy cổ nàng và thít chặt lại. Nàng nhìn thấy con mình chết, nằm trong cái nôi màu thiên thanh, trên mặt còn mang vết răng độc.
Một lần, nàng thoáng nhìn thấy một mẩu dây thừng trong đêm tối và nàng thét lên một tiếng như tiếng ếch kêu, tiếng nàng bay xuyên qua cánh đồng và đầm lầy, rồi tan vào trong rừng.
Ester nhớ lại một đêm khác. Horácio đi Tabocas. Nàng ở nhà một mình với con và bọn đầy tớ. Mọi người đang ngủ thì có người đập cửa. Felícia chạy ra xem và kêu lên, gọi cô chủ. Ở ngoài có mấy người phu đồn điền với một người trong bọn họ tên là Amaro vừa bị rắn cắn. Nàng đứng trên ngưỡng cửa, đưa mắt nhìn ra, nhưng không muốn tiến thêm nữa. Nàng nghe thấy đám người hỏi xin thuốc; một người trong bọn cắt nghĩa cho nàng hiểu bằng một giọng khàn khàn. Đấy là một con rắn rừng, một con rắn đầu tam giác độc nhất hạng. Họ phải lấy dây thừng buộc đùi Amaro lại, ở trên chỗ bị rắn mổ. Felícia vào bếp lấy ra một hòn than và Ester nhìn thấy ả đặt hòn than lên trên vết thương. Thịt cháy xèo xèo. Amaro rên rỉ, một thứ mùi kỳ lạ xông lên khắp nhà. Một người phu đã đi Ferradas để tìm thuốc giải độc, nhưng nọc rắn ngấm rất nhanh và Amaro chết ngay trước mặt Ester, đám phụ nữ da đen và những người phu khác. Mặt hắn chuyển sang màu xanh lè, mắt lồi ra. Ester nhìn xác chết, chịu không nổi. Từ cái miệng kia giờ đây vĩnh viễn câm bặt, nàng vừa nghe thấy thốt ra những tiếng kêu hấp hối giống hệt tiếng kêu của ếch bị ăn thịt ngoài đầm. Đến nửa đêm, khi Horácio từ Tabocas trở về và hạ lệnh đem xác chết ra để ở một cái lều của thợ đốn gỗ, nàng bỗng khóc òa lên.
Nàng nức nở van xin chồng hãy đem nàng đi, hãy đưa nàng ra tỉnh, nếu không nàng cũng chết mất vì rắn rết sẽ kéo đến nhung nhúc, chúng sẽ nhâu nhâu cắn nàng, chúng sẽ cắn chết con nàng, và cuối cùng sẽ quấn chết nàng trong những vòng lầy nhầy và lạnh ngắt của chúng. Nàng cảm thấy cái thân giá lạnh và mềm nhũn của con rắn trên ngực mình; nàng rùng mình sởn gai ốc khắp người, nàng khóc to lên hơn bao giờ hết. Horácio chế nhạo nỗi lo sợ của nàng, và khi lão đi đến chỗ bọn kia đang canh xác chết, nàng không thể trấn tĩnh nổi và không dám ở lại một mình, phải đi theo lão.
Bọn người ngồi quanh xác chết đang uống rượu rum và kể chuyện với nhau, những câu chuyện rắn; chuyện José da Tararanga, anh chàng bao giờ cũng say, một đêm kia, chuệnh choạng chạy về nhà, tay phải cầm chiếc đèn, tay trái cầm một chai rum. Đến chỗ rẽ, một con rắn đầu tam giác phóng vọt vào cái đèn và vật ngã José xuống. Thấy mình bị rắn cắn, José bèn mở ngay nút chai rượu ra và nốc một hơi hết cả chai. Ngày hôm sau, anh em phu đi làm thấy hắn đang nằm ngủ. Cả con rắn cũng quấn tròn trên ngực José mà ngủ. Họ giết chết con rắn và khám phá ra rằng José đã bị cắn mười bảy vết mà không làm sao cả, nhờ có rượu rum, rượu đã đánh tan nọc độc. Chỉ có người hắn bị trương phình lên như một con bò trong khoảng mười lăm ngày. Sau đó, hắn lại khỏe như vâm.
Họ còn kể chuyện những người đi chài rắn, đã quen với nọc rắn nên họ cứ bắt rắn dọc các ngả đường mà vẫn bình an vô sự. Đó là trường hợp Agostinho ở đồn điền bên cạnh. Hắn biết chài rắn; không con rắn nào làm hại được hắn cả. Hắn chìa tay ra cho rắn cắn chỉ cốt để mua vui.
Joana, vợ người chăn la, uống rượu khỏe như bất cứ một người đàn ông nào, bèn kể lại câu chuyện đã xảy ra ở một cái trại miền trong, nơi mụ đã sống trước khi xuống miền Nam. Một gia đình nọ đến nghỉ hè ở nhà lớn. Một hôm, một con rắn lần tới đó. Bao giờ họ cũng tới đây vào cuối năm. Năm ấy họ rất sung sướng vì mới sinh được thằng con đầu lòng, sau hơn một năm rưỡi lấy nhau. Con rắn bò vào và cuộn tròn trong nôi đứa bé lúc đó đang khóc đòi bú mẹ, thằng bé ngây thơ nhét luôn cái đuôi rắn vào mồm. Hôm sau, người ta thấy đứa bé vẫn ngậm cái đuôi rắn trong miệng nhưng đứa bé không bú được nữa vì nọc độc đã ngấm. Thế là người mẹ chạy cuồng khắp cánh đồng, mớ tóc vàng óng bay tung trong gió, đôi bàn chân để trần và trắng nõn (Joana chưa bao giờ thấy đôi chân nào trắng như thế) xéo bừa lên gai góc. Người ta nói rằng từ đó trở đi, người phụ nữ đó tâm hồn bất định, trở thành ngớ ngẩn và xấu đi, từ bộ mặt cho đến thân hình đều mất vẻ đẹp. Trước kia, nàng là một trong số những phụ nữ xinh đẹp, thanh lịch, người nước ngoài; nhưng từ sau biến cố đó, nàng trở thành một mụ già xấu xí. Ngôi nhà lớn bao giờ cũng đóng cửa im lìm. Gia đình ấy chẳng bao giờ quay lại nữa. Dây leo mọc lan vào cả trong hiên, cỏ dại tràn khắp nhà bếp; ngày nay, ai đến đấy cũng nghe thấy tiếng phun của bầy rắn làm tổ trong nhà.
Joana kể xong, uống một cốc rum khác, nhổ một cái, rồi quay về phía Ester. Nhưng Ester đã không còn đấy. Nàng đã chạy về nhà, về cái nôi của con, dường như nàng cũng đang phát điên.
Giờ đây, ngồi trong hiên, dưới ánh nắng mặt trời đang nhảy múa quanh mình, Ester hồi tưởng lại cái đêm ấy và nhiều đêm kinh khủng khác.
Từ Paris, Lúcia viết thư cho nàng, những bức thư hàng ba tháng sau mới tới, đem lại cho nàng những tin tức của một lối sống khác, của những con người khác, của văn minh và vui thú. Ở đây chỉ có đêm rừng, những đêm dông tố và rắn rết, những đêm khóc ròng cho số kiếp. Những buổi hoàng hôn như thắt trái tim nàng lại, cướp đi mọi điều hi vọng. Hi vọng gì đây? Đời nàng chỉ là một định mệnh không mong gì thay đổi được.
Lại còn những đêm đầy nước mắt khác nữa, khi nàng thấy Horácio dẫn đầu một đoàn người ra đi.
Nàng biết rằng đêm hôm đó, người ta sẽ nghe thấy tiếng súng nổ, sẽ có những người chết vì một mẩu đất, để cho cái đồn điền của Horácio, cũng chính là đồn điền của nàng nữa, có thể được mở rộng ra thêm một góc rừng khác. Và Lúcia từ Paris viết thư cho nàng, kể chuyện những đêm khiêu vũ ở đại sứ quán, những buổi nhạc kịch, những buổi hòa nhạc. Nơi đây, trong nhà lớn của đồn điền, chiếc dương cầm cánh dơi chờ mãi một người lên dây không bao giờ tới.
Ôi! Những đêm Horácio ra đi với bọn tay chân mang theo súng ống! Có một lần, sau khi lão đi rồi, Ester thử hình dung xem nếu lão chết thì sẽ ra sao. Nếu lão chết đi... Thế là cái đồn điền sẽ thuộc về một mình nàng, nàng sẽ giao nó cho cha nàng quản lý, rồi nàng sẽ ra đi. Nàng sẽ đến với Lúcia... Nhưng giấc mơ ấy thật ngắn ngủi. Đối với Ester, Horácio là một người bất tử; lão là ông chúa, là ông chủ, là “ngài đại tá”. Nàng chắc rằng mình sẽ chết trước lão. Lão nắm trong tay ruộng đất, tiền bạc người làm. Thể chất lão như sắt, lão không bao giờ ốm; những viên đạn hình như biết lão và sợ lão. Cho nên Ester không bao giờ ước mong hão huyền, với giấc mơ vừa tội lỗi vừa tuyệt diệu ấy. Nàng không còn chút hi vọng nào hết; thậm chí nàng không thể chống lại được nữa kia; đời nàng thế nào thì vẫn vậy thôi; số kiếp nàng là ở đây rồi. Thế mà ở Ilhéus lại có khối cô thiếu nữ thèm muốn địa vị của nàng! Nàng là Dona Ester, vợ người giàu nhất vùng Tabocas, vợ nhà thủ lĩnh chính trị, chủ nhân của bao đồn điền ca cao và một phần lớn khu rừng hoang.
Nàng chưa lau khô nước mắt thì Horacio đã lại gần võng. Lão cầm trong tay một quả ca cao, quả đầu tiên của khu rừng mới.
- Cây đã ra quả rồi đấy, - lão nói và cười nửa miệng.
Lão đứng sững đấy, không đoán nổi vì sao có những giọt nước mắt kia.
- Tại sao mình lại khóc? - Lão bực tức nói. - Mình chỉ biết làm cái trò ấy thôi à? Có chuyện gì thế? Mình chẳng có đủ thứ mình ước ao đó sao? Mình còn thiếu gì nữa?
- Không sao cả, - Ester nói, cố ghìm tiếng nức nở. - Em ngu ngốc lắm.
Nàng cầm lấy quả ca cao vì nàng biết làm như vậy sẽ khiến chồng vui lòng. Bây giờ thì Horácio đã mỉm cười vui thích.
Lão tận hưởng cái thú được làm chủ vợ mình, trong khi mắt lão nhìn khắp thân hình nàng. Đó là cái duy nhất lão yêu quý trên đời này: Ester và ca cao.
- Tại sao mình khóc, hở cô bé ngốc nghếch này? - Lão vừa nói vừa ngồi xuống võng cạnh nàng.
- Giờ thì em không khóc nữa.
Horácio suy nghĩ một lát; rồi lão nói, mắt nhìn về phía rừng ca cao đang trồng, bàn tay đầy chai vẫn cầm quả ca cao:
- Khi nào cu cậu lớn lên (lão vẫn gọi đứa bé là “cu cậu”), nó sẽ thấy cả khu đất này bát ngát những rừng ca cao, và rừng nào cây cũng tốt tươi.
Lão lặng yên một lát rồi nói tiếp:
- Con ta rồi sẽ không phải sống heo hút trong một xó rừng như chúng ta. Tôi sẽ cho nó làm chính trị; nó sẽ làm nghị viên và thống đốc. Đấy, tôi kiếm tiền chính vì lẽ đó.
Lão mỉm cười nhìn Ester rồi đưa tay vuốt người nàng.
- Hãy lau khô nước mắt đi, rồi đi bảo chúng nó làm một bữa ăn tối thịnh soạn nhất, vì hôm nay có luật sư Virgílio, thầy kiện mới ở Tabocas, đến thăm chúng ta. Và mình cũng phải chú ý mặc bộ đồ đẹp nhất vào. Phải tỏ cho anh chàng ấy biết rằng chúng ta không phải là bọn tiều phu lạc hậu.
Lão cười, cái cười cụt lủn của lão, và, bỏ Ester ngồi lại với quả ca cao, lão đi sai phái các phu phen. Nàng ngồi lại đó, nghĩ tới bữa ăn tối, với viên luật sư có cái tên tầm thường kia. Hẳn là hắn cũng giống như lão thầy cò Rui, cái thằng cha hay say khướt và cứ ngồi lì sau khi dùng đồ tráng miệng, vừa khạc nhổ ra khắp sàn vừa kể những chuyện bẩn thỉu... Thế mà từ Paris, Lúcia viết thư về cứ nói nào là hội họp, xem kịch, nào là quần áo tiệc tùng...

5

Hai người đàn ông đứng trước ngưỡng cửa, gã da đen cất tiếng:
- Thưa, đại tá cho gọi chúng tôi?
Juca Badaró đã toan cho vào, nhưng anh hắn khoát tay ra hiệu cho họ hãy chờ bên ngoài. Hai người ngoan ngoãn ngồi xuống chiếc ghế gỗ dài kê ngoài hàng hiên rộng. Juca đi đi lại lại từ đầu đến cuối phòng, miệng rít xì gà. Hắn đợi anh trai lên tiếng. Sinhô Badaró, bậc huynh trưởng, ngồi hết sức thoải mái trong một chiếc ghế kiểu Áo lưng rộng bè, tương phản lạ lùng với những đồ đạc khác trong phòng: ghế gỗ dài, ghế tựa mây, võng mắc trong góc, và với cái mộc mạc đơn sơ của bốn bức tường quét vôi trắng. Sinhô Badaró lim dim suy nghĩ, chòm râu đen rủ xuống ngực. Lão ngước mắt nhìn Juca đang nôn nóng đi tới đi lui, chiếc roi ngựa trong tay, điếu xì gà gắn trên miệng, lão đưa mắt nhìn ra chỗ khác, dõi vào bức tranh độc nhất treo trên tường, một phiên bản màu in đá, thể hiện một cảnh đồng quê châu Âu.
Nổi bật trên một nền rất đằm màu xanh đậm, những chú cừu đang gặm cỏ. Mấy gã mục đồng đang thổi sáo và một thôn nữ tóc vàng xinh đẹp giữa bầy cừu. Một không khí thanh bình khôn xiết tỏa ra từ bức phác họa đơn sơ. Sinhô Badaró hồi tưởng lại mình đã mua bức tranh đó như thế nào: Lão vào cửa hàng một người Syria ở Bahia hỏi giá một chiếc đồng hồ vàng. Lão chợt nhận thấy bức tranh và nhớ lại Don’Ana* [viết tắt của Dona Ana] trước đó không lâu có bảo lão cần kiếm cái gì tô điểm cho bốn bức tường phòng khách tươi vui lên một chút. Cho nên lão đã mua bức tranh này, nhưng hôm nay là lần đầu tiên lão ngắm kỹ nó.
Một cảnh đồng quê êm đềm với những thiếu nữ tóc vàng nhảy múa, những chú cừu, và những mục đồng đang thổi sáo. Xanh, xanh thẳm gần như màu da trời. Một cảnh đồng quê hoàn toàn khác những cánh đồng bao quanh lão trên vùng đất ca cao này.
Tại sao những cánh đồng này lại không như cánh đồng châu Âu kia nhỉ?
Trong khi đó, Juca Badaró vẫn sải bước đi ngang đi dọc, sốt ruột chờ quyết định của anh cả. Sinhô không thích nhìn thấy máu chảy. Tuy nhiên nhiều lần lão cũng đã từng phải đi đến những quyết định tương tự như cái quyết định mà chiều nay Juca Badaró đang trông chờ ở lão. Đây không phải là lần đầu tiên hắn cử một hoặc hai tay chân của lão đi mai phục một nơi để rình một người nào đó trên đường.
Lão ngắm bức tranh. Một thiếu nữ trẻ đẹp, má hồng, cặp mắt thần tiên, còn xinh đẹp hơn cả Don’Ana nữa kia. Và những gã chăn cừu nữa! Chúng hoàn toàn khác xa những tên chăn la ở đồn điền. Điều đó thì không còn phải nghi ngờ gì nữa rồi. Sinhô Badaró yêu đất; lão thích trồng trọt; lão thích nuôi súc vật, nuôi những con bò mộng hiền lành, những con ngựa hăng, những con cừu tơ kêu be be. Lão kinh tởm phải đẩy con người vào chỗ chết. Cho nên lão im lặng kéo dài việc quyết định chừng nào hay chừng nấy, và chỉ phát biểu khi không thể nào làm khác hơn được. Lão là chủ gia đình. Chính lão đảm nhiệm việc làm giàu cho dòng họ Badaró, lão cần phải vượt lên cái mà Juca gọi là “sự mềm yếu”.
Trước kia chưa bao giờ lão đứng gần xem kỹ bức tranh này. Một màu xanh tuyệt đẹp. Đẹp hơn cả một số lịch thường nhận được vào dịp cuối năm, mặc dù có những quyển lịch rất đẹp.
Juca Badaró dừng lại trước mặt anh:
- Tôi xin nhắc lại với anh, anh Sinhô ạ - hắn nói - không còn cách nào khác nữa đâu. Thằng cha ấy bướng bỉnh như một con la vậy. Nó không muốn bán khu rừng ấy, đây không phải là vấn đề tiền. Và, như anh biết đấy, thằng Firmo xưa nay vẫn nổi tiếng là đầu bò, không có cách nào khác nữa đâu.
- Rất đáng tiếc là thằng ấy chưa hề làm hại ai bao giờ cả. Nếu như có một cách khác để mở rộng đồn điền về phía Sequeiro Grande… Nếu không, khu rừng sẽ rơi vào tay Horácio mất.
Giọng lão nghe hơi khác đi một chút khi nhắc đến cái tên đáng ghét kia. Juca gật đầu tán thành:
- Nếu chúng ta không làm gì thì Horácio sẽ hành động, và kẻ nào nắm được khu rừng của Firmo, kẻ ấy sẽ nắm được chìa khóa của cánh rừng Sequeiro Grande.
Sinhô Badaró lại mê mải ngắm bức tranh.
- Tôi thấy không cần phải nhắc anh, anh Sinhô ạ, - Juca nói tiếp - không có ai thông thạo đất ca cao hơn tôi. Anh từ bên ngoài tới đây, nhưng tôi thì đẻ ở đây, và ngay từ nhỏ tôi đã học hỏi để biết được chỗ đất nào trồng trọt tốt. Tôi cam đoan với anh là tôi chỉ cần giẫm chân lên đất là biết được đất đó tốt xấu thế nào rồi. Tôi có bí quyết ấy ở ngay gan bàn chân. Và tôi có thể nói chắc với anh rằng không có thứ đất nào trồng ca cao tốt hơn là đất ở Sequeiro Grande. Anh cũng biết là tôi đã bỏ ra bao nhiêu đêm để nghiên cứu cánh rừng ấy. Nếu ta không mau chân tới đấy thì Horácio sẽ đến trước ta. Nó cũng thính mũi lắm.
Sinhô Badaró đưa tay vuốt bộ râu đen.
- Thật là một việc phiền toái, Juca ạ. Chú là em trai tôi. Mẹ đẻ ra chú thì cũng là bà cụ Filomena đã mang tôi trong bụng, lạy Chúa phù hộ hương hồn mẹ. Bố chú, ông cụ Marcelino đã quá cố, cũng chính là bố đẻ ra tôi. Thế mà hai chúng ta lại khác hẳn nhau như hai người dưng nào ấy ở trên đời này. Chú thích giải quyết mọi vấn đề bằng súng đạn và án mạng, nhưng tôi có một điều muốn hỏi chú: Vậy ra, chú thích giết người đến thế à? Chú không cảm thấy gì sao? Trong con người chú không có tí gì, không có gì ở đây ư?
Sinhô đặt tay lên chỗ trái tim.
Juca rít mạnh điếu xì gà, lấy roi ngựa đập vào đôi ủng đầy bùn và lại tiếp tục đi. Rồi hắn nói:
- Anh Sinhô, nếu như tôi không hiểu rõ anh như tôi đã thực tế hiểu anh, và nếu như tôi không kính trọng anh là anh cả của tôi, thì tôi có thể mạo muội cho anh là hèn rồi đấy.
- Chú chưa trả lời vào câu hỏi của tôi.
- Rằng tôi có thích nhìn thấy người ta chết không ấy à? Chính tôi cũng không rõ nữa. Khi tôi đã giận ai, tôi rất có thể chặt nó ra từng mảnh một, như anh biết đấy...
- Thế chú không giận thì sao?
- Nếu kẻ nào làm vướng chân tôi thì kẻ ấy phải cút đi, lấy chỗ cho tôi qua. Anh là anh cả tôi, và anh là người quyết định công việc gia đình. Cha chúng ta đã để lại tất cả cho anh trông nom: rừng, con cái và cả tôi nữa. Chính anh làm giàu cho dòng họ Badaró. Nhưng tôi có thể nói chắc với anh, anh Sinhô ạ, nếu như tôi ở vào địa vị anh thì chúng ta đã có gấp đôi số đất đai hiện chúng ta đang có.
Sinhô Badaró đứng dậy. Lão cao đến hơn thước tám, bộ râu đen của lão xõa xuống ngực, mắt lão long lanh, tiếng sang sảng khắp phòng.
- Thế nhưng Juca, đã có bao giờ chú thấy tôi khước từ một điều gì cần thiết phải làm chưa? Chú đã biết rất rõ rằng tôi không ưa nhìn thấy máu như chú, nhưng khi cần thiết tôi đã bao giờ từ chối việc trừ khử một kẻ nào đó chưa?
Juca không đáp. Hắn kính trọng anh, có lẽ đó là người duy nhất trên đời làm cho hắn sợ. Sinhô Badaró hạ giọng:
- Chỉ vì tôi không phải là một thằng giết người như chú. Tôi là kẻ chỉ hành động khi nào cần thiết, tôi đã cho thủ tiêu nhiều đứa, nhưng có Chúa chứng giám, chỉ khi không còn cách nào khác nữa mà thôi. Tôi biết làm như vậy chẳng có lợi gì cho tôi khi đến ngày phải tính sổ ở trên kia (và lão chỉ lên trời), nhưng ít ra đối với tôi, điều ấy cũng là đáng kể.
Juca đợi cho anh bình tĩnh lại.
- Mọi chuyện đều do Firmo cả, - hắn nói, - nó là một thằng ngốc, bướng như bò. Anh muốn nói tôi là thế nào cũng được, điều đó không quan trọng mấy; nhưng có một điều tôi phải nói với anh ngay bây giờ: không có khu đất nào trồng ca cao tốt hơn khu đất ở Sequeiro Grande, và nếu như anh muốn chiếm lấy khu đất đó cho họ nhà Badaró thì không còn cách gì khác; thằng Firmo không ưng bán khu rừng của nó đi đâu.
Sinhô Badaró khoát tay một cái, Juca hiểu và gọi hai người đàn ông đang đợi bên ngoài. Nhưng trước khi gọi họ, hắn nói: “Nếu anh đồng ý, tôi sẽ giảng giải mọi sự cho chúng hiểu”.
Sinhô lim dim cặp mắt, ngồi vào cái ghế có cái tựa lưng to bản.
- Khi tôi đã quyết định việc gì, - lão nói, - thì tôi chịu trách nhiệm. Tự tôi sẽ nói chuyện với chúng.
Lão nhìn lên bức tranh, màu xanh mới dịu làm sao. Nếu như đất trong bức tranh trồng ca cao tốt, thì lão Sinhô Badaró này, lão sẽ chẳng cần phải sai bọn kẻ cướp đi nấp sau gốc cây để thủ tiêu những gã chăn cừu thổi sáo và cô thiếu nữ má hồng kia đang nhảy múa vui biết mấy...
Bọn người đang đợi, lão gắng quên cảnh trong tranh (thiếu nữ đã thôi không nhảy múa nữa vì một viên đạn lão vừa bắn ra) và bắt đầu ra lệnh bằng cái giọng xưa nay vốn kiên quyết, bình tĩnh và chín chắn.

6

Hai người đi xuôi con đường cái lớn, trên đó cơn gió mát buổi chiều đang cuốn lên một đám bụi đỏ, mỗi người đeo chéo nơi vai một khẩu súng trường. Viriato, một gã lai đen miền trong, lên tiếng đánh cuộc:
- Tao cuộc với mày năm milreís là thằng cha ấy sẽ từ phía tao đến.
Nguyên là con đường cái lớn có một ngã ba, ở quãng gần cái đồn điền nhỏ của Firmo. Vì vậy Sinhô Badaró đã sai hai người, mỗi người mai phục một đường. Gã Damião da đen, tay sai tin cẩn của lão, một tay súng giỏi và trung thành như một con chó trung thành với chủ, phải trấn ở con đường mòn; Firmo chắc sẽ từ phía này đến, vì đó là quãng đường ngắn nhất, đi mau hơn. Viriato thì đợi trên đường cái lớn, sau một cây ổi, nơi nhiều người khác đã bị hạ thủ. Giờ đây, Viriato đánh cuộc, và mặc dầu gần như chắc chắn là Firmo sẽ đi theo con đường tắt, Damião vẫn không muốn nhận. Viriato ngạc nhiên:
- Mày làm sao vậy, người anh em? Hết “xìn” à?
Nhưng không phải vì thiếu năm milreís, tiền hai ngày công, mà Damião không nhận đánh cuộc. Gã đã từng nhiều lần đánh cuộc những món tiền to hơn thế trong những chuyện khác tương tự, vào những buổi chiều như bữa nay. Vậy mà hôm nay có một điều gì đó đã ngăn trở gã đánh cuộc.
Khi họ đi vào con đường cái vắng tanh không một bóng người qua lại thì trời vừa tối. Họ chỉ gặp một thanh niên cưỡi lừa, anh ta chằm chằm nhìn họ rất lâu rồi thúc lừa phi thật xa những người của đồn điền. Ở vùng này ai mà không biết gã Damião da đen, một jagunco, tay sai tin cẩn của Sinhô Badaró? Từ lâu tiếng đồn về Damião đã truyền đi rất xa, vượt qua biên giới Palestine, Ferradas, và Tabocas. Tiếng đồn phát sinh ra từ những quán rượu ở Ilhéus, nơi người ta vẫn kể lại những kỳ công của gã; nó theo các con tàu nhỏ đi tới tận thủ đô, và một tờ báo Bahia đã đăng tên gã bằng những chữ cỡ lớn. Đó là một tờ báo thuộc phe đối lập nên người ta đã nói rất tệ về gã, gọi gã bằng đủ các thứ tên rất xấu. Damião còn nhớ rõ như in ngày hôm đó, Sinhô Badaró cho gọi gã lên nhà lớn giữa bữa ăn trưa. Nhiều người đang ngồi ăn và những chai rượu mở nút chứng tỏ rằng có mặt cả ông quan tòa ở đấy. Luật sư Genaro, thầy cãi của gia đình Badaró cũng có mặt, chính hắn đã mang tờ báo kia đến. Genaro không được xuất sắc bằng Rui, không biết làm một bài diễn văn có những chữ thật kêu như Rui, nhưng hắn biết, và biết rất cặn kẽ, mọi chi tiết phức tạp của luật pháp và cách xoay xở những luật pháp ấy ra sao; Sinhô Badaró thích hắn hơn các thầy cò khác có tên trong ngành luật ở Ilhéus. Sinhô mỉm cười với Damião và giới thiệu gã với mọi người:
- Tên mọi của chúng tôi đấy.
Thấy Sinhô cười, Damião cũng toác mồm cười một cách ngây thơ. Hàm răng trắng và đều của gã sáng bóng lên trong cái miệng to đen. Ông quan tòa đã uống say túy lúy cũng cười ngặt nghẽo, nhưng thầy cò Genaro chỉ cười mỉm thôi, và mọi người cảm thấy hắn làm thế là vì lịch sự. Sinhô Badaró bây giờ mới nói tiếp với Damião:
- Mày có biết không, thằng da đen kia, báo chí thủ đô quan tâm đến mày đây? Họ nói rằng ở vùng này không có kẻ nào giết người cừ hơn Damião, tay chân của Sinhô Badaró.
Lão nói vậy với một vẻ kiêu hãnh và Damião cũng kiêu hãnh trả lời:
- Thưa ông chủ, vâng, đúng là thế, chắc chắn là như thế. Không có một tay súng nào cừ hơn thằng da đen đang đứng trước mặt ngài đây. - Nói rồi, gã lại mỉm cười mãn nguyện.
Thầy cò Genaro uống một hớp rồi rót rượu vào đầy cốc. Sinhô Badaró cười vang lên, và viên quan tòa cũng tham gia vào cuộc vui chung của mọi người. Tiếp đó, Sinhô Badaró đọc cho Damião nghe bài báo nọ; gã chỉ hiểu được có một nửa thôi vì có nhiều từ ngữ khó quá đối với gã, nhưng gã sung sướng nghe thấy Sinhô gọi:
- Don’Ana, Don’Ana!
Con gái lão đang trông nom đầy tớ hầu bữa ăn ở trong bếp, chạy ra.
- Có việc gì thế cha?
Viên quan tòa chăm chú nhìn cô ta.
- Con lấy ở két ra năm mươi milreís, - Sinhô Badaró ra lệnh cho con gái, - rồi đưa cho thằng Damião. Nó có tên ở trong báo đấy.
Rồi lão cho gã da đen lui và câu chuyện lại tiếp tục quanh bàn ăn. Về phía Damião, gã đi Palestine tiêu tiền với bọn gái điếm, gã uống rượu suốt đêm, kể cho mọi người biết rằng có một tờ báo ở Bahia đã đăng những chuyện gì đó về gã, trong đó người ta nói rằng không có tay thiện xạ nào cừ bằng Damião.
Vì thế mà người cưỡi lừa đã vội thúc lừa đi. Anh ta biết rằng một viên đạn của gã Damião da đen bắn ra là sẽ có ngay một cái áo quan và một đám ma, và ngoài ra, anh còn biết rằng tay chân của Sinhô Badaró đều được che chở cẩn thận; đối với chúng thì chẳng có cảnh sát gì cả. Không ai lạ gì viên quan tòa đứng về phía Badaró; nhà Badaró còn trồng cho hắn cả một rừng ca cao; nhà Badaró nắm ưu thế về chính trị và có chỗ dựa ở các tòa án. Khi Viriato nhìn thấy người kia thúc lừa chạy, gã thích chí mỉm cười, nhưng Damião da đen vẫn giữ nét mặt trang nghiêm.
- Có chuyện gì vậy, hở người anh em? - Viriato nhắc lại.
Chính Damião cũng không biết xảy ra chuyện gì nữa. Trước đây đã nhiều lần gã đi mai phục để giết người, nhưng gã thấy như hôm nay là lần đầu tiên gã làm việc ấy.
Đã đến chỗ con đường chia ra làm hai ngả.
- Thế nào, không muốn đánh cuộc à, anh bạn da đen?
- Tao đã nói là không cơ mà.
Họ chia tay nhau và Viriato vừa đi vừa huýt sáo.
Đêm xuống; trăng đã mọc. Một đêm thuận lợi cho việc mai phục. Con đường cái trông rõ như ban ngày. Damião da đen đi vào con đường mòn; gã biết có một cái cây hoàn toàn phù hợp với công việc gã sắp làm. Đó là một cây sa kê rậm rạp mọc ở vệ đường, hình như mọc ở đó chỉ cốt để cho người ta nấp và bắn vào kẻ qua đường.
“Mình chưa hề bắn ai ở chỗ này cả”, Damião nghĩ bụng. Gã da đen buồn, vì lúc ngồi ở ngoài hiên, gã đã nghe thấy câu chuyện giữa hai anh em Badaró. Gã đã nghe thấy những điều Sinhô nói với Juca, và đêm nay gã cảm thấy trong lòng bối rối. Nỗi lo âu bóp chặt lấy trái tim hồn nhiên của gã. Damião chưa bao giờ có cảm giác như vậy. Gã không hiểu nó là cái gì; gã không thấy đau đớn chỗ nào trong người, gã không ốm, vậy mà gã thấy như mình đang ốm.
Nếu như trước kia có ai nói với gã rằng đi chăng bẫy giết người là một điều gớm ghiếc, hẳn gã sẽ không tin; vì tấm lòng gã hồn nhiên và không có chút gì là độc ác. Bọn trẻ con ở đồn điền rất thích gã Damião da đen hay chơi trò cưỡi ngựa với những đứa bé nhất, hay đi hái cho chúng những quả vừa ngọt, vừa mềm trên những cây sa kê to lớn, hay đem về cho chúng những nải chuối vàng óng lấy ở các rừng chuối là nơi có rắn ở, hay thắng yên những con ngựa đã thuần cho bọn lớn tuổi và đưa tất cả ra sông tắm, dạy chúng bơi. Trẻ con rất yêu mến gã; đối với chúng thì không ai trên đời này sánh được với Damião da đen.
Giết người là nghề của gã. Damião cũng không rõ việc đó đã bắt đầu như thế nào nữa. Ông đại tá sai gã giết; thế là gã giết. Gã không thể nói được gã đã giết chết bao nhiêu người, bởi vì Damião chỉ biết đếm đến năm, mà cũng chỉ biết đếm trên đầu ngón tay của gã thôi. Gã đã giết bao nhiêu người, việc đó không làm gã bận tâm. Gã không thù ghét ai cả; không bao giờ gã làm hại ai. Ít ra thì cho tới hôm nay gã vẫn tin như vậy. Vậy tại sao đêm nay, lòng gã lại nặng trĩu thế này, dường như gã đang buồn nôn ấy? Gã rất tốt bụng, rất sẵn lòng giúp đỡ mọi người theo cái lối hơi quê kệch của gã. Nếu có một công nhân trong đồn điền bị ốm, Damião liền đến bầu bạn với anh ta, bảo cho anh ta biết những thứ cỏ chữa khỏi bệnh, dẫn ông thầy mo Jeremias đến cho anh ta. Đôi khi bọn khách thương dừng lại nghỉ ở nhà lớn nằn nì gã kể chuyện về những người gã đã giết; thế là Damião bèn kể lại với một giọng bình thản, hồn nhiên chẳng biết gì là tội ác.
Đối với gã, một mệnh lệnh của Sinhô Badaró là không được bàn cãi gì hết. Sinhô sai gã đi giết người ư, thế là gã phải giết. Cũng như nếu Sinhô sai gã thắng con la đen để đi đâu một chuyến, là Damião phải thắng la cho thật nhanh, vả lại, không hề có chút nguy cơ nào phải đi ngồi tù cả, người của Sinhô Badaró không bao giờ bị bắt hết. Sinhô có thể bảo đảm với tay chân của hắn về điều đó; làm việc cho Sinhô thật là thích. Ông ta không giống như đại tá Clementino, lão này sai người ta đi làm một việc gì đấy rồi sau đó lại đi báo cảnh sát. Damião khinh ghét lão đại tá này. Một ông chủ như lão, không phải là ông chủ đáng mặt con người can trường. Lâu rồi, khi gã còn là trẻ con, gã đã làm việc cho lão đại tá ấy. Bấy giờ gã học bắn súng và lần đầu tiên, gã đã bắn chết một người. Rồi một hôm, gã phải trốn khỏi đồn điền khi cảnh sát đến tìm gã, thế mà lão đại tá không hề báo trước cho gã biết. Gã trốn đến đồn điền Badaró, và thế là giờ đây gã đã trở thành tay chân tâm phúc của Sinhô. Nếu như lòng gã có chứa một ý gì xấu đối với ai thì đó chỉ là lòng khinh bỉ sâu sắc đối với lão đại tá Clementino. Thỉnh thoảng có ai nhắc đến tên lão đại tá này ở trong lều tiều phu, thì Damião khạc nhổ và nói:
- Nó không đáng là đàn ông. Nó hèn hơn cả đàn bà. Đáng lẽ nó phải mặc váy kia.
Gã nói vậy và cười; gã cười với cả hàm răng trắng, cả đôi mắt to, với cả bộ mặt. Một cái cười lành mạnh, vui như cái cười của một đứa bé. Khi gã đi lại trong đồn điền, không ai có thể phân biệt tiếng cười của gã với tiếng cười của bọn trẻ cùng chơi với gã trên bãi cỏ gần nhà lớn. Damião da đen đã đi tới chỗ cây sa kê. Gã bỏ khẩu súng trường tựa vào thân cây. Gã móc trong túi quần ra cuộn thuốc lá, lấy dao thái và cuốn một điếu. Mặt trăng giờ đây đã to và tròn; Damião chưa bao giờ trông thấy nó to đến như thế. Gã cảm thấy trong lòng đang bị một bàn tay kếch xù như chính bàn tay thô đen của gã bóp chặt. Bên tai gã, vẫn còn vang lên những lời của Sinhô Badaró: “Vậy chú thích giết người đến thế kia à? Chú không cảm thấy gì sao? Trong lòng chú không có cái gì cả ư?”
Damião chưa bao giờ nghĩ rằng người ta có thể cảm thấy một cái gì đó; nhưng hôm nay lời nói của viên đại tá như một sức nặng đè lên ngực gã, một sức nặng mà cả đến một người da đen khỏe như Damião cũng không thể nào nhấc lên được. Xưa nay gã vốn rất sợ đau đớn về xác thịt. Tuy nhiên gã vẫn đủ sức chịu đựng. Có lần gã cầm dao chém nhầm vào cánh tay trái trong khi đi nhặt quả ca cao trong rừng. Một vết chém sâu đến tận xương, và gã rất ghét cái đau đớn do vết thương gây ra; mặc dù vậy, gã vẫn tiếp tục huýt sáo trong khi Don’Ana Badaró đổ thuốc i ốt vào vết thương. Lại có một lần khác, Jacundino lỡ tự chém phải ba nhát ở bắp chân. Cái ấy, cái thứ đau đớn ấy, gã hiểu được; đó là một cái gì ở ngay trước mắt, có thể nói như vậy. Nhưng nỗi đau đớn gã cảm thấy lúc này đây thì lại khác. Những ý nghĩ chưa hề có, giờ đây tràn ngập trong đầu gã, một cái đầu to gần bằng một con bò. Sinhô Badaró đã gieo những chữ nọ vào trong đầu gã; theo sau những chữ đó là những hình ảnh và những cảm giác mới mẻ mà bấy nay gã chưa từng biết đến.
Gã đã cuốn xong điếu thuốc lá. Một cây diêm lóe sáng trong rừng. Gã rít một hơi thuốc. Gã không thể tưởng tượng được rằng viên đại tá lại có điều phải hối hận. Hối hận, đúng là chữ ấy. Một tay đi chào hàng, một hôm hỏi thử gã:
- Damião này, có bao giờ thấy hối hận không?
Gã lại hỏi chữ đó nghĩa là gì; tay chào hàng giảng giải cho gã hay và Damião đã trả lời một cách hết sức hồn nhiên:
- Tại sao tôi lại phải hối hận nhỉ?
Điều đó đã làm cho người khách ngạc nhiên. Đến tận bây giờ, hắn ta vẫn kể lại câu chuyện ấy trong các quán cà phê ở Bahia, mỗi khi cùng một số bè bạn, hắn thuyết lý tràng giang đại hải về nhân loại, về đời sống con người và các thứ triết lý khác.
Ít lâu sau, vào dịp lễ Noel, Sinhô Badaró cho gọi một linh mục đến đồn điền để làm lễ. Người ta dựng một bàn thờ ở ngoài hiên, một bàn thờ quả thực là nguy nga; nghĩ tới đó, Damião còn mỉm cười, đó là lần độc nhất gã mỉm cười trong cái đêm đứng rình này. Damião đã giúp đỡ rất đắc lực cho Don’Ana, Dona Lídia đã quá cố và Dona Olga, vợ Juca, là những người sửa soạn cái lễ này. Tối hôm ấy linh mục đến, bữa cơm gồm rất nhiều món ăn ngon: thịt gà, thịt gà tây, thịt lợn, thịt cừu, thịt chim muông săn bắn được và cả món cá phải đi mua tận Água Branca. Lại có cả món gì lạnh như hòn đá tảng mà người ta gọi là “kem”; và Don’Ana, bấy giờ đã ra dáng cô con gái lớn, có cho Damião một ít. Ăn vào nó buốt cả lưỡi và Don’Ana đã vui vẻ cười hồn nhiên khi thấy gã da đen nhăn mặt lại.
Ngày hôm sau, người ta làm lễ: những ai ở đồn điền vốn đã yêu thương nhau thì được cưới, bọn trẻ con thì được rửa tội, bố mẹ đỡ đầu, như thường lệ, đều chọn trong số những người thuộc gia đình Badaró. Tiếp đó, linh mục đứng lên giảng đạo, hay hơn tất cả các diễn văn của thầy kiện Rui từng thao thao bất tuyệt rất hay trước các viên bồi thẩm ở Ilhéus. Sự thực, linh mục có hơi ngọng nghịu một chút, vì ông ta là người ngoại quốc; có lẽ chính vì vậy nên khi ông ta nói đến chuyện địa ngục và chuyện lửa thiêu những kẻ bị đày xuống âm ty, cử tọa lại càng run sợ. Bản thân Damião cũng sợ lắm. Trước kia gã không nghĩ gì mấy đến chuyện địa ngục, từ sau đó gã cũng ít khi nghĩ tới. Cho nên hôm nay, gã mới nhớ lại vị linh mục và sự phẫn nộ kịch liệt ông tỏ ra khi lớn tiếng kết tội những kẻ đã giết chết đồng loại của mình. Linh mục nói nhiều đến sự hối hận là cái địa ngục trên cõi đời này. Damião bấy giờ đã hiểu chữ ấy nghĩa là gì, nhưng lúc đó nó không tác động đến gã mấy.
Tuy nhiên, gã rất xúc động khi ông ta mô tả quang cảnh dưới địa ngục, lửa không bao giờ tắt, không ngừng đốt cháy da thịt người. Trên cánh tay Damião còn mang một vết sẹo vì bị bỏng do một hòn than đỏ rơi vào một hôm gã giúp đám phụ nữ trong nhà bếp. Gã thấy đau ghê gớm. Do đó, gã có thể mường tượng ra cái cảnh cả người gã bị thiêu đốt hàng thế kỷ này qua thế kỷ khác, mãi mãi, mãi mãi.
Linh mục nói rằng chỉ cần giết một người là chắc chăn phải xuống địa ngục. Damião thì không biết rõ số người mình đã giết là bao nhiêu nữa. Chỉ biết con số ấy nhiều hơn năm vì gã biết đếm đến năm, và gã đã đếm được năm người chết rồi.
Sau đó, gã đếm lẫn lung tung, nhưng cũng chả quan tâm gì lắm. Và hôm nay đây, vừa hút thuốc lá vừa đứng rình ở chỗ này, gã cố nhớ lại tất cả, nhưng vô ích. Thoạt tiên là thằng chăn la đã sỉ nhục viên đại tá Clementino. Chuyện đó xảy ra hoàn toàn bất ngờ. Gã đang đi theo viên đại tá, cả hai đều cưỡi ngựa, thì gặp một đàn la đi về Banco da Vitória. Thằng chăn la vừa trông thấy lão Clementino bèn cầm cái roi dài quất luôn vào mặt lão. Clementino giận điên lên.
- Bắt lấy nó! - Lão thét lên bảo Damião.
Damião bèn rút súng lục đeo ở thắt lưng ra, bấm cò, người chăn la ngã xuống, bầy la xéo cả lên xác hắn. Clementino trở về đồn điền, vết roi còn hằn bóng và đỏ trên má. Damião không có thì giờ suy nghĩ nhiều về việc này, và mấy hôm sau cảnh sát đến và gã phải đi trốn.
Sau đó, gã bắt đầu giết người cho Sinhô Badaró: Zequinha Fontes này, đại tá Eduardo này, hai tên kẻ cướp ở đồn điền Horácio trong một trận đánh nhau ở Tabocas này - như thế là năm người, đã đúng chưa nào? Rồi đến Sílvio da Toca, Damião không biết tên này là mấy nữa. Không kể thằng cha đã sắp sửa giết Juca Badaró trong nhà chứa ở Ferradas - và nếu như hắn ta không giết được Juca thì chính là vì Damião đã nhanh tay hơn hắn. Cũng không kể những người khác tiếp sau đó nữa. Đến Firmo là bao nhiêu tất cả nhỉ? “Mình phải nhờ Don’Ana dạy mình đếm nốt bằng bàn tay kia mới được”. Trong đám công nhân, có nhiều người biết đếm trên mười đầu ngón tay và trên cả ngón chân nữa; nhưng đó là những người thông minh; họ không ngốc nghếch như Damião da đen. Mặc dầu vậy, giờ đây ít nhất gã cũng phải học đếm thêm cho hết bàn tay kia. Gã đã giết chết bao nhiêu người rồi nhỉ?
Mặt trăng trên ngọn cây sa kê trút ánh sáng xuống con đường mòn Firmo sắp đi qua. Đây là con đường tắt dài chừng hai dặm. Chắc chắn là Firmo sẽ vội về, để tháo ủng ra, để gặp lại Dona Teresa, vợ hắn. Damião có biết cô này. Gã có dừng lại đôi ba lần trước nhà cô ta để xin một bát nước. Và có một hôm Dona Teresa còn cho gã cả một chút rượu vang và họ đã nói chuyện với nhau một vài lời. Cô ta xinh, và trắng hơn bất cứ tờ giấy viết nào. Trắng hơn cả Don’Ana nữa. Don’Ana có nước da nâu, rám nắng. Dona Teresa có vẻ như không hề ra nắng bao giờ, dường như mặt trời chưa hề đụng tới đôi má, tới da thịt trắng ngần của cô ta. Cô là con gái một người Ý, từ thành phố về ở đây. Cô ta có một giọng nói dễ thương, cô nói như hát vậy. Chắc chắn là Firmo sẽ vội về, để được ở cạnh vợ, để tận hưởng cái thân thể trắng ngần của cô. Một người đàn bà thật là hiếm hoi trong vùng này. Ngoài cái món nhà thổ ở các thành phố, mỗi nơi chừng bốn năm ả - và ả nào ít nhiều đều có bệnh, ở đây rất ít người có vợ. Đối với phu phen thì điều đó thật rõ ràng; nhưng Firmo đâu phải là phu; hắn có riêng một cái đồn điền nhỏ; hắn phát tài và chẳng bao lâu sẽ trở thành đại tá, với rất nhiều đất đai. Khi hắn vạch xong rừng, hắn đã đi Ilhéus kiếm một cô vợ. Hắn đã cưới con gái một lão làm bánh người Ý, một người đàn bà trắng nõn và xinh đẹp. Người ta còn nói rằng cả Juca Badaró vốn rất hiếu sắc cũng đã để ý đến cô ta. Damião không chắc lắm. Nhưng giả sử có đúng như vậy, thì có một điều chắc chắn là thế này: Cô ta không hề làm gì để khuyến khích Juca. Juca đã chuyển hướng sang chỗ khác, và các miệng lưỡi rì rầm đã im bặt.
Phải, không còn nghi ngờ gì nữa, Firmo sẽ đi đến bằng con đường này; hắn sẽ không theo con đường dài hơn, khi hắn có một người vợ trẻ và trắng nõn đang chờ đợi hắn. Thực tình Damião da đen lại mong Firmo sẽ đi theo con đường cái lớn. Đây là lần đầu tiên một điều như vậy xảy đến với gã. Giữa bao nhiêu ý nghĩ bối rối đang đảo lộn trong đầu gã, và nỗi đau đớn gã thấy nhói trong lồng ngực, đồng thời gã cũng cảm thấy một nỗi nhục nhằn. Tưởng chừng như gã không quen với cái công việc gã sắp phải làm. Tưởng chừng như gã tên là Antônio Vítor, cái anh chàng công nhân ở Sergipe đến, cái anh chàng sau khi giết chết một người trong trận đánh nhau với bọn tay chân của Horácio ở Tabocas, suốt đêm hôm đó cứ run hoài và thậm chí còn khóc như một mụ đàn bà nữa. Được ít lâu sau hắn quen dần, và giờ đây hắn trở thành tay giết người làm việc cho nhà Juca Badaró, và bao giờ cũng theo bên cạnh Juca trong những chuyến đi của tên này. Damião da đen lúc này cũng giống như Antônio Vítor cái buổi đầu tiên đó; y như là gã không có cái thói quen rình người suốt đêm, đứng nấp trong bụi kín. Mọi người sẽ cười gã như họ đã cười Antônio Vítor cái đêm xô xát ở Tabocas vậy.
Damião da đen nhắm mắt lại để có thể quên đi được tất cả những hình ảnh đó. Gã đã hút hết điếu thuốc lá và tự hỏi có nên cuốn thêm điếu nữa không. Gã không có nhiều thuốc và có thể gã còn phải đợi lâu. Gã không quyết định được, và còn lấy làm hài lòng vì có cái chuyện thuốc lá này để suy nghĩ; một thứ thuốc lá tốt ở vùng trong, thứ thuốc ở Ilhéus không ra gì hết; thuốc gì mà gớm ghiếc, khô quá hít không được lâu... Nhưng Teresa, cô ta đang làm gì ở nơi kia? Cô ta trắng ghê. Damião đang nghĩ tới thuốc lá của gã. Làm thế nào mà khuôn mặt trắng của Dona Teresa lại hiện ra kia nhỉ? Ai cho gọi cô ta chứ? Damião da đen nổi giận. Đàn bà bao giờ cũng gí mũi vào khắp mọi nơi, không ai gọi mà cũng cứ tới.
Nhưng còn chuyện khác nữa. Tại sao chiều nay Sinhô Badaró lại nói với em trai những câu ấy? Mà tại sao, nếu như cần phải nói vậy, ông ta không đuổi Viriato và Damião ra xa hơn nữa? Thực ra, từ ngoài hiên, Damião đã nghe được hết câu chuyện: “Vậy chú thích giết người đến thế kia à? Chú không cảm thấy gì sao? Trong lòng chú không có cái gì cả ư?”
Damião da đen không biết người ta có thể cảm thấy được cái gì. Trước đây, gã không cảm thấy gì hết. Nếu không phải là Sinhô Badaró nói ra những câu ấy mà là Juca nói, thì gã đã chẳng quan tâm đến. Nhưng đối với Damião thì Sinhô là một ông thần. Gã kính trọng lão hơn cả Jeremias, ông thầy mo đã chữa cho gã khỏi những vết đạn bắn và rắn cắn. Và những lời của Sinhô ở lì trong người gã, đè nặng lên tim gã, nhảy nhót trong đầu gã. Nó gợi cho gã hình ảnh khuôn mặt trắng của Dona Teresa đang chờ đợi, cô ta nhắc lại lời của Sinhô và lời của vị linh mục. Cô ta cũng lai ngoại quốc như vị linh mục vậy. Có điều, khi nói tới những chuyện ghê gớm về sau này, giọng ông cha đầy phẫn nộ; còn giọng Teresa thì dịu dàng; dịu dàng như tiếng nhạc vậy...
Gã không nghĩ tới chuyện cuốn thêm một điếu thuốc hoặc hút thuốc nữa. Gã nghĩ tới Dona Teresa đợi Firmo và chuyện ái ân của cô ta trong giường cưới. Thịt da trắng muốt đợi chồng. Khuôn mặt cô ta trông cũng hiền hậu. Đã có lần cô ta cho Damião một ít rượu vang, và họ đã trao đổi với nhau một đôi lời; họ đã nói chuyện về mặt trời đang rọi những tia nắng xuống con đường cái lớn buổi chiều hôm ấy. Phải, cô ta là một người đàn bà tốt; cô ta không làm điều gì dại dột. Cô ta hoàn hảo đến mức có thể tự cho phép mình nói chuyện với một tên da đen giết người như Damião. Cô ta là nữ chủ nhân của chính cái đồn điền của mình; cô ta có thể cũng lên mặt ta đây như bao nhiêu phụ nữ khác. Đáng lẽ như vậy, cô ta lại cho gã rượu vang, nói chuyện với gã về mặt trời và thời tiết nóng nực. Cô ta không hề sợ hãi gã như bao kẻ khác. Nhiều người trong bọn đàn bà mỗi khi trông thấy Damião thường nấp vào trong nhà chờ chồng về. Damião thường cười cái sợ ấy của họ; gã lại còn lấy thế làm kiêu hãnh nữa, vì họ sợ như vậy là chứng tỏ gã rất nổi tiếng. Nhưng, hôm nay lần đầu tiên, gã chợt có ý nghĩ rằng không phải là họ trốn một người da đen dũng cảm mà trốn một thằng “nhọ” giết người.
Một thằng “nhọ” giết người... Gã thong thả nhắc lại những tiếng ấy, và mấy tiếng đó vang lên ghê rợn bên tai gã. Linh mục nói rằng không ai được giết kẻ đồng loại vì đó là một trọng tội phải đền bù dưới địa ngục.
Damião ít để tâm suy nghĩ tới điều đó. Nhưng hôm nay chính Sinhô Badaró cũng nói y như vậy khi ông ta nhắc tới chuyện giết người. Một thằng “nhọ” giết người... Thế mà Dona Teresa lại vừa hiền hậu vừa đẹp đến hết mức, và trắng nõn nà hơn bất cứ một phụ nữ nào khác ở các đồn điền lân cận. Cô ta yêu chồng, điều đó đã rõ rồi; yêu đến nỗi không thèm để ý đến Juca Badaró, một tay giàu sụ có bao nhiêu đàn bà mê mệt. Còn gã, thì đàn bà sợ, gã đây, Damião tên giết người.
Một loạt sự việc trở lại trong trí nhớ gã: Nhiều phụ nữ mỗi khi trông thấy gã đều biến khỏi bãi cỏ; những người khác thì đứng trong cửa e ngại nhìn ra; cái con trong nhà thổ ở Ferradas, muốn thế nào thì thế, nhất định không chịu ngủ với gã, mặc dầu gã đã chìa ra cho ả nhìn thấy tờ giấy bạc mười milreís. Ả đã từ chối dứt khoát và không chịu nói lý do vì sao; ả viện cớ ốm, nhưng Damião đọc thấy trên mặt ả một điều khác: cái sợ. Gã đã không để ý tới, gã vẫn cười, cái cười sang sảng và ồm ồm của gã; rồi gã đi tìm một mụ đàn bà khác. Nhưng giờ đây chuyện ả gái điếm kia từ chối lại là một vết thương mới cho gã. Chỉ có Don’Ana Badaró là còn tốt đối với gã, cô không sợ. Nhưng Don’Ana là một phụ nữ can đảm, một người thuộc dòng họ Badaró. Tụi trẻ con cũng không sợ gã; nhưng trẻ con thì có hiểu gì về chuyện này; chúng không biết rằng gã là một kẻ sát nhân, đi mai phục để giết người, để hạ thủ người ta bằng cái tài bắn bách phát bách trúng của gã. Gã yêu bọn trẻ con. Gã ăn ý với chúng hơn là với những người lớn tuổi. Gã thích chơi những đồ chơi đơn giản của trẻ con trong những tòa nhà lớn. Gã thích làm thỏa mãn mọi đòi hỏi thất thường của những đứa trẻ khốn khổ trong các túp lều của những người đốn củi. Đối với bọn trẻ con, gã vẫn được yêu mến.
Và bỗng nhiên, một ý nghĩ kinh hoàng vụt qua tâm trí gã: Nếu như Dona Teresa có chửa, nếu như cô ta đang mang trong bụng một hài nhi? Đứa bé đó sẽ sinh ra không có bố; bố nó bị phát súng của Damião da đen bắn gục. Gã dướn người lên với một cố gắng cực độ; cái đầu to của gã nặng trịch như những ngày gã say mềm. Không, Dona Teresa không thể nào có chửa được; hôm ấy gã đã nhìn kỹ cô ta khi họ nói với nhau vài câu ở trước cửa nhà Firmo. Cô ta không có mang, không, không, cô ta không có mang. Nhưng kể từ bữa ấy đến nay đã sáu tháng rồi. Giờ đây cô ta ra sao? Ai có thể biết được điều đó? Thật vậy, rất có thể cô ta sắp sửa có một đứa con, một đứa con từ trong bụng cô ta sinh ra. Nó sẽ ra đời không có bố; nó sẽ biết rằng bố nó một đêm sáng trăng đã ngã gục trên đường cái, do Damião da đen hạ sát. Và thằng bé sẽ căm thù gã; nó sẽ không như những đứa trẻ khác chạy đến chơi với gã, trèo lên lưng gã trước khi có thể trèo được lên lưng con lừa hiền lành nhất. Nó sẽ không ăn trái cây sa kê do Damião hái, không ăn những quả chuối vàng óng gã đi kiếm trong rừng chuối. Nó sẽ hằn học nhìn gã, bởi vì đối với nó, Damião sẽ mãi mãi là kẻ đã giết chết bố nó.
Damião cảm thấy buồn không sao tả được. Ánh trăng rọi đúng vào người gã, cây sa kê che cho gã về phía con đường mòn, khẩu súng trường của gã để tựa vào thân cây. Những tên khác đều khắc vào báng súng để đánh dấu mỗi khi chúng hạ thủ một người. Gã không làm thế bao giờ, vì gã không muốn làm xấu khẩu súng trường của mình. Gã yêu nó. Gã vẫn treo nó trên đầu cái giường ngủ bằng gỗ và không có đệm của gã. Thỉnh thoảng, tối đến, Sinhô Badaró cần đi, và cho gọi Damião đi theo. Damião bèn tháo súng xuống và đi lên nhà lớn. Ngựa đã thắng rồi, và khi Sinhô lên ngựa, Damião cũng nhảy lên và đi sau chủ, khẩu súng trường đặt trên đầu yên ngựa. Bởi vì họ có thể gặp một tên tay chân của Horácio nấp ở vệ đường. Đôi khi Sinhô lên tiếng gọi gã; gã bèn tiến lên và đi bên cạnh ông ta, và Sinhô nói chuyện với gã về rừng, về mùa màng, về tình hình ca cao mềm, về mọi thứ chuyện liên quan đến đời sống ở đồn điền. Thật là những ngày sung sướng cho Damião da đen! Gã cũng lấy làm sung sướng về nỗi đi như thế sẽ được tới Rio do Braço, tới Tabocas, Ferradas hay là Palestine. Viên đại tá cho gã một tờ giấy bạc năm milreís, và gã dùng nửa đêm còn lại đi chơi gái. Bao giờ gã cũng để khẩu súng trường ở chân giường; bởi vì Sinhô có thể bất thần nổi hứng lên đòi ra về bất cứ lúc nào; khi đó ông ta cho một đứa liên lạc ở thành phố đến tìm Damião ở các nhà thổ. Thế là Damião nhảy ra khỏi giường - thậm chí có đêm, gã đã đột ngột bỏ mặc một mụ đàn bà - gã nắm lấy súng và lại tiếp tục lên đường. Gã rất yêu khẩu súng của mình; gã giữ gìn nó sạch sẽ và bóng loáng; gã thích ngắm nghía nó. Vậy mà giờ đây gã chẳng thấy thích thú gì cả và đưa mắt tìm một vật khác để ngắm nhìn. Có mặt trăng kia ở tít trên trời. Tại sao người ta lại có thể nhìn được mặt trăng nhỉ? Thế mà trên đời này chả có đôi mắt nào nhìn thẳng được vào mặt trời, vấn đề này chưa hề xuất hiện trong đầu Damião da đen bao giờ. Gã mải mê vào đấy, đem hết cả tâm trí ra giải đáp nó. Bằng cách ấy, gã không phải để mắt tới Dona Teresa hay đến đứa con cô ta sắp sinh; gã không phải nghe thấy tiếng Sinhô Badaró hỏi Juca.
- Chú thích giết người đến thế kia à? Chú không cảm thấy gì sao? Trong lòng chú không có cái gì cả ư?
Tại sao không ai có thể nhìn thẳng được vào mặt trời? Không ai có thể làm được việc đó. Với những người gã đã giết cũng vậy; sau đó, gã không nhìn lại họ bao giờ. Gã không có thì giờ, làm xong việc là gã phải tẩu ngay. Và chưa bao giờ gã không may gặp lại nạn nhân vẫn còn sống như chuyện đã xảy ra với Vicente Garangau đã quá cố, khiến mọi người bàn tán mãi. Vicente đã bị chính kẻ hắn bắn, giết lại. Hắn ta không chịu khó nhìn xem người kia đã chết hẳn chưa, cho nên mới đến nỗi bỏ mạng một cách khủng khiếp như vậy; hắn bị băm nhỏ ra từng mảnh. Damião cũng vậy, gã không bao giờ nhìn lại cái người gã đã hạ thủ. Một người bị giết chết trông ra thế nào nhỉ? Damião đã từng trông thấy nhiều người chết, nhưng những người do chính gã giết chết, họ như thế nào nhỉ? Firmo sẽ ra thế nào nhỉ, ngay trong đêm nay? Hắn có ngã sấp xuống trên mình con lừa vẫn tiếp tục chở hắn? Hay ngã lộn xuống đất, máu lênh láng ở ngực?
Người ta sẽ đưa hắn về nhà như thế, vết thương toang hoác ra trên ngực; người ta sẽ đưa hắn về cái ngôi nhà mà chính gã, Damião này, vừa hôm nọ còn đến. Dona Teresa sẽ ngồi đấy, bồn chồn vì nỗi chồng chậm về. Cô ta sẽ nói gì khi nhìn thấy chồng được đưa về, người đã lạnh toát, cái lạnh giá của thần chết, do Damião da đen giết? Nước mắt cô ta sẽ chảy ròng ròng trên khuôn mặt trắng như phấn. Có thể cô ta sẽ đâm ốm vì đang bụng mang dạ chửa; có thể cô ta sẽ đẻ non. Có thể cô ta sẽ chết vì cô ta đến là yếu, mỏng manh trong nước da trắng ngần.
Thế là, đáng lẽ chỉ giết một người, gã sẽ giết hai. Gã sẽ giết một người đàn bà, việc mà một người da đen dũng cảm không bao giờ làm cả. Thế còn đứa bé? Gã đã không tính đứa bé. Damião đếm trên ngón tay, như thế là ba. Bởi vì gã không còn ngờ vực gì nữa về chuyện Dona Teresa có chửa. Với gã, thì việc đó là chắc chắn rồi. Gã sẽ giết chết ba mạng người đêm hôm nay, một người đàn ông, một người đàn bà và một đứa bé con. Trẻ con xinh đẹp bao nhiêu, ngoan ngoãn bao nhiêu đối với Damião da đen, gã yêu chúng lắm, thế mà với phát đạn kia, gã sẽ giết chết một đứa và cả Dona Teresa nữa, với da thịt trắng ngần, bây giờ đây đang nằm chết trong tấm áo quan. Gã nhìn thấy đám tang lên đường tới nghĩa địa Ferradas, là nơi gần nhất, cần phải có nhiều người để khiêng ba chiếc quan tài. Phải đi tìm người cả vùng lân cận. Có khi phải đến tận đồn điền Badaró nữa! Và Damião sẽ đến khiêng cái quan tài bé tí màu da trời của đứa nhỏ ăn mặc như một thiên thần. Thường thì bao giờ gã cũng vác quan tài của “những thiên thần nhỏ”, khi có đứa trẻ nào chết ở đồn điền. Damião sẽ sang sửa những bông hoa dại, đem rắc đầy lên mặt áo quan rồi nâng nó lên vai. Nhưng gã sẽ không đủ sức nhấc nổi con trai của Firmo, vì chính gã đã giết chết nó…
Gã lại cố gắng dướn người lên. Đầu gã không muốn tuân theo gã, tại sao thế nhỉ? Sự thực, gã chưa giết trẻ con, gã chưa giết Dona Teresa, gã cũng chưa giết Firmo kia mà…
Lúc này, lần đầu tiên gã nảy ra ý định sẽ không giết Firmo. Đó chỉ là một ý nghĩ nhanh chóng và thoáng qua, nhưng nó cũng khiến cho gã kinh sợ. Quả thực gã không thể chấp nhận được điều ấy. Làm sao gã lại có thể không thi hành mệnh lệnh của Sinhô Badaró được? Ông Sinhô Badaró, một người công minh chính trực. Hơn nữa, ông ta vẫn quý Damião da đen. Ông ta chuyện trò với gã khi hai người cùng đi trên con đường cái lớn, ông ta đối xử với gã gần như bè bạn vậy. Và cả Don’Ana nữa. Họ đều cho gã tiền. Mỗi ngày Damião lĩnh hai milreís rưỡi tiền lương, nhưng thực ra gã còn được lĩnh nhiều hơn thế nữa; cứ hạ thủ mỗi người, gã lại được thưởng. Và không những thế, gã lại chỉ phải làm việc rất ít; từ lâu rồi, gã không phải vào rừng, gã luôn luôn ở quanh nhà lớn làm những việc vặt, theo hầu viên đại tá trong những chuyến đi xa, chơi đùa với bọn trẻ con, đợi lệnh đi giết một người nào đó.
Giết người là nghề của gã. Bây giờ thì Damião đã hoàn toàn nhận rõ điều ấy. Gã vẫn tự cho mình là một công nhân ở đồn điền Badaró, nhưng giờ đây gã thấy rõ mình chỉ là một thằng jagunco, một tên kẻ cướp vùng trong. Giết người là nghề của gã, và khi nào không phải giết ai trên đường cái thì gã không có việc gì làm cả. Nếu như gã đi theo hầu Sinhô, đó chỉ là để bảo vệ tính mạng của ông chủ, để giết bất kỳ ai định giết ông đại tá. Gã là kẻ giết người. Chính đó là cái chữ Sinhô Badaró đã dùng để chỉ Juca khi họ nói chuyện với nhau buổi chiều hôm nay. Chữ đó cũng hoàn toàn phù hợp với Damião. Giờ đây gã đang làm gì nếu không phải là đợi để bắn một người?
Gã cảm thấy có một cái gì ở trong người, một cái gì đau đớn khủng khiếp nhói lên như một vết thương, như có ai cầm dao đâm gã vậy. Trăng sáng vằng vặc trên khu rừng im lặng. Và Damião chợt nhớ ra rằng gã có thể cuốn một điếu thuốc lá; như thế đầu óc gã sẽ có việc để mà suy nghĩ.
Khi gã châm xong điếu thuốc, cái ý định kia lại trở lại: Giả thử như gã không giết Firmo?
Giờ đây ý định ấy xuất hiện dưới một hình thái hết sức rõ ràng, và Damião dù không muốn vẫn cứ phải suy nghĩ về nó. Không, không thể có chuyện này được. Damião biết rất thấu đáo tại sao Sinhô Badaró phải khử Firmo đi. Ông ấy phải chiếm khu rừng của hắn một cách ít rầy rà nhất, và cứ thế tiếp tục mở rộng đến tận rừng Sequeiro Grande. Một khi đã có cánh rừng đó trong tay rồi, thì gia đình Badaró sẽ làm chủ đồn điền lớn nhất thế giới; họ sẽ có nhiều ca cao hơn tất cả bọn điền chủ khác gộp lại, sẽ giàu hơn cả đại tá Misael nữa. Không, nếu đêm nay không hạ thủ Firmo thì sẽ phản bội lại lòng tin cậy của Sinhô đối với gã. Việc Sinhô sai gã đi là một chứng cớ rằng ông ta thực sự tín nhiệm Damião da đen. Vậy nên, gã, Damião, gã cần phải giết. Gã bám chặt lấy ý nghĩ đó. Bao nhiêu năm nay, gã chỉ có một việc là giết; tại sao hôm nay lại khó khăn là vậy?
Phiền nhất là chuyện Dona Teresa, cái cô Teresa có nước da trắng muốt, mang trong bụng một đứa hài nhi. Chắc chắn là cô ta sẽ chết, cả đứa bé nữa. Giờ đây, gã đã trông thấy rõ cô ta. Lúc nãy chỉ có ánh trăng trắng bệch; và giờ đây lại có khuôn mặt trắng muốt của vợ Firmo. Mà Damião nào có uống rượu đâu. Những đứa khác bao giờ cũng nốc rượu trước khi đi giết người; gã thì không bao giờ cần phải làm thế. Bao giờ gã cũng bình tĩnh khi tới nơi, tin chắc ở mục đích của mình. Không bao giờ gã cần uống rượu như những kẻ khác cần phải say mới giết người được. Thế mà hôm nay, gã có cảm giác như mình đã uống nhiều, đã uống nhiều rượu quá. Dường như chất rum đang bốc mạnh lên đầu. Gã nhìn thấy khuôn mặt trắng của Dona Teresa kia kìa, trên mặt đất. Bây giờ thì Dona Teresa đã tới. Khuôn mặt mới trắng làm sao, đau đớn làm sao, và cái nhìn kinh ngạc một cách bi thảm. Cô ta đợi chồng, đợi ái ân; và hắn sắp trở về với cô ta, chết cứng với một viên đạn trong ngực. Từ dưới đất nơi cô ta nằm, cô ngước mắt lên nhìn Damião da đen. Cô van xin gã đừng giết Firmo, hãy vì lòng kính Chúa mà đừng giết. Gã da đen trông thấy mặt cô ta in từng nét rõ mồn một trên mặt đất. Cả tấm thân đồ sộ của gã bỗng run lên.
Không, gã không thể nghe theo cô ta, không thể nghe theo Dona Teresa này được. Sinhô Badaró đã sai gã đi và Damião da đen không thể làm thế nào khác được. Gã không thể phản lại lòng tin cậy của một người công minh chính trực như Sinhô. Chao ôi! Nếu như Juca sai gã đi… Nhưng gã lại được Sinhô sai đi, Dona Teresa ạ; cái gã da đen này không thể làm khác được đâu. Cũng là lỗi ở chồng cô nữa kia. Mà quái quỷ tại sao hắn lại không muốn bán rừng của hắn đi chứ? Hắn không thấy rằng hắn chẳng hi vọng gì thắng được anh em nhà Badaró sao? Tại sao hắn ta lại không muốn bán rừng đi, hở Dona Teresa? Đừng khóc. Chính Damião da đen cũng sắp khóc đây này. Gã là một người dũng cảm, và không có quyền được khóc, vì như vậy sẽ mất hết tiếng tăm. Damião xin thề với Dona Teresa rằng nếu như nó có thể hành động theo ý riêng thì nó sẽ không giết Firmo; Dona Teresa muốn gì nó cũng xin làm theo. Nhưng Sinhô đã sai nó đi, và Damião da đen không thể không tuân lệnh ông ấy được. Ai đã nói rằng Dona Teresa là người tốt nhỉ? Tầm bậy! Lúc này đây cô ta đang mở miệng nói, và với cái giọng nói như hát, cô ta nhắc lại những lời của Sinhô Badaró:
- Vậy ra chú thích giết người đến thế kia à? Chú không cảm thấy gì sao? Trong lòng chú không có cái gì cả ư?
Giọng cô ta vừa êm ái như tiếng nhạc lại vừa dễ sợ. Nghe như một lời nguyền rủa thốt lên trong rừng, trong trái tim kinh hãi của gã da đen. Điếu thuốc của gã tắt ngấm; sợ làm ma rừng thức giấc, gã không có can đảm châm lại. Giờ đây gã đang nghĩ đến ma rừng; bởi vì khuôn mặt của Dona Teresa chiếu xuống khoảng đất này, chắc chắn đó là phép yêu ma. Damião biết rằng đã có nhiều người nguyền rủa gã: Đó là bà con họ hàng những người đã bị gã giết. Những lời nguyền rủa thốt lên vào những giờ đau khổ và oán thù. Nhưng tất cả những chuyện này đã lùi xa vào dĩ vãng; và Damião chỉ nghe loáng thoáng nói vậy. Nhưng lúc này đây thì không như thế nữa. Lúc này đây, Dona Teresa đứng kia, cặp mắt đầy u buồn, khuôn mặt trắng, giọng nói vừa du dương vừa ghê sợ. Cô ta trút những lời nguyền rủa lên đầu Damião da đen. Cô đòi gã phải nói cho cô biết xem thử gã có cảm thấy gì ở trong người không, cả chỗ kia kìa, trong đáy tim gã ấy. Có, gã có cảm thấy một điều gì đó, Dona Teresa ạ. Nếu như Damião da đen được hành động theo ý muốn thì gã sẽ không giết Firmo đâu. Nhưng không có cách nào khác được; không phải là gã muốn chi việc đó, ồ, không phải thế!
Thế, nếu gã nói rằng gã bắn trượt thì sao?
Cái ý mới mẻ này xuyên qua đầu gã như một ánh chớp. Trong một tích tắc đồng hồ, gã nhìn vệt sáng trăng nơi Dona Teresa đã đặt khuôn mặt của mình vào đấy. Gã sẽ mất hết tiếng tăm; những kẻ khác còn không bắn trượt, huống hồ Damião da đen! Gã là tay súng cừ khôi hơn tất cả, trong khắp vùng ca cao này. Chưa bao giờ gã phải nhắm bắn đến lần thứ hai đế hạ sát một mạng người. Phát thứ nhất bao giờ cũng là phát trúng đích. Gã sẽ là một kẻ vứt đi; mọi người sẽ cười gã, kể cả bọn đàn bà, kể cả bọn trẻ con; và Sinhô Badaró sẽ lấy một tên khác thay gã. Gã sẽ trở lại làm phu như bao kẻ khác, hái quả, thúc lừa, nghiền bột ca cao trong máng gỗ. Mọi người sẽ chế nhạo gã. Không, gã không thể làm như thế được. Hơn nữa, làm như thế là phản lại lòng tin cậy của Sinhô Badaró. Ông đại tá cần khử Firmo đi; kẻ đáng trách chính là Firmo, vì hắn đã tỏ ra quá bướng bỉnh.
Dona Teresa biết cả những điều đó, bản thân cô ta hẳn cũng là một con ma bởi vì từ nền đất, chỗ khuôn mặt cô lúc này đã thay thế cho ánh trăng, cô đang nhắc cho gã da đen nhớ lại rằng buổi chiều hôm nay Sinhô đã trù trừ, và chỉ sau khi Juca tha thiết khẩn khoản mãi, ông ta mới sai tay chân đi. Damião nhún vai: Sinhô Badaró có phải là hạng người quyết định một việc chỉ vì Juca nài ép? Ai mà nhận định về ông ta như thế là không hiểu ông ta. Tất nhiên, Dona Teresa không hiểu ông ta, thế mà cô đã nhắc cho gã nhớ lại những chi tiết của câu chuyện; và Damião bắt đầu thấy mình bị lay chuyển.
Có thể chính Sinhô cũng không muốn thấy Firmo bị giết chăng? Có thể ông ấy cũng thương hại Dona Teresa và đứa bé còn nằm trong bụng cô ta chăng? Có thể chính ông ấy cũng cảm thấy một cái gì ở trong người như Damião da đen chăng? Damião ôm lấy đầu. Không, không phải thế. Dona Teresa nói dối, Dona Teresa với tất cả những yêu thuật của cô ta. Nếu thật Sinhô Badaró không muốn khử Firmo thì ông ấy đã không sai Damião đi. Sinhô Badaró chỉ làm cái gì ông ấy muốn làm thôi. Chính vì thế cho nên ông ấy mới giàu có và làm chủ gia đình. Juca cũng sợ ông ấy mặc dù tính hắn hay huênh hoang và có thái độ kiêu ngạo. Ai mà không sợ Sinhô Badaró? Chỉ có mình gã thôi, Damião da đen. Nhưng nếu gã không giết Firmo, thì gã sẽ phải sợ suốt đời; gã sẽ không bao giờ dám nhìn thẳng vào mặt Sinhô Badaró nữa.
Từ dưới đất nơi cô ta nằm, tiếng Dona Teresa đang nhạo báng gã da đen:
- Thế ra chỉ vì sợ Sinhô Badaró mà anh giết Firmo sao? Sợ Sinhô Badaró à? Chính anh ư? Damião da đen mà người ta thường nói là con người dũng cảm nhất vùng?
Dona Teresa cười, tiếng cười như pha lê, vừa nhạo báng, vừa làm rung chuyển cả thần kinh gã da đen. Giờ đây toàn thân gã run rẩy, run tận bên trong người. Tiếng cười từ mặt đất bay lên, từ khu rừng, từ con đường cái lớn, từ trên trời, từ khắp mọi nơi bay ra; ai nấy đều nói rằng gã sợ, gã hèn, chính gã, Damião da đen này, người đã có tên trên mặt báo.
Dona Teresa, đừng cười nữa, nếu không tôi có thể cho cô một phát đạn vào người. Tôi chưa hề bắn vào đàn bà bao giờ; đàn ông không có làm một việc như vậy. Nhưng tôi có thể bắn cô nếu như cô cười tôi. Đừng cười, thằng Damião da đen này không sợ Sinhô Badaró đâu. Nó kính trọng ông ta, nó không muốn phản bội lòng tin của ông ta. Xin thề trước mặt Chúa, chuyện là như vậy. Đừng cười nữa, không thì tôi cho một viên đạn vào người cô đấy. Tôi sẽ cho một viên đạn vào giữa cái khuôn mặt trắng muốt của cô ấy.
Giờ đây, ngực gã như có người bóp nghẹt lại. Có một cái gì như từ bên trên nén xuống; cái gì vậy? Thật là trò yêu thuật; chắc là người ta làm phép chài hắn đấy. Một phép chài do một mụ đàn bà chụp lên đầu gã da đen. Từ khu rừng vẳng ra một tiếng nói, nhắc lại lời của Sinhô Badaró:
- Vậy ra chú thích giết người đến thế kia à? Chú không cảm thấy gì sao? Trong lòng chú không có cái gì cả ư?
Cả khu rừng chế nhạo gã, cả khu rừng thét lên những lời kia với gã, khu rừng bóp chặt tim gã và nhảy múa trong đầu gã. Kia kìa, trước mặt gã, là Dona Teresa - không phải cả người cô ta - chỉ có khuôn mặt thôi. Thật là trò ma quỷ, một lời nguyền người ta trút lên đầu gã da đen. Damião biết rõ chúng muốn gì rồi; chúng muốn gã từ bỏ ý định giết Firmo. Dona Teresa van nài gã, nhưng gã làm thế nào được? Sinhô Badaró là một bậc công minh. Dona Teresa có một khuôn mặt trắng. Có tiếng ai khóc đâu đây. Ai đấy nhỉ? Có phải là khuôn mặt Dona Teresa đang nằm kia, trên mặt đất hay đó là Damião da đen? Dù là ai đi nữa, thì vẫn là có người khóc. Thật còn đau hơn một vết dao chém, đau hơn một cục than nóng bỏng cháy xèo xèo trên thịt da đen.
Người ta nắm lấy cánh tay gã; gã không thể giết người được. Người ta nắm lấy tim gã; gã không thể giết người được. Những giọt nước mắt từ cặp mắt xanh của Dona Teresa chảy ròng ròng trên đôi má đen đúa của Damião. Rừng rung lên những tiếng cười, rung lên những tiếng kêu rên; Damião bị yêu thuật ban đêm bủa vây. Gã ngồi bệt xuống đất và khóc thút thít, như một đứa trẻ bị phạt.
Trên đường cái, nghe thấy có tiếng vó lừa; tiếng đó to dần và mỗi phút lại gần thêm; khuôn mặt Firmo xuất hiện dưới ánh trăng. Damião da đen cục cựa và đứng dậy, cổ họng nghẹn lại, gã đặt đôi bàn tay run rẩy lên khẩu súng. Từ bốn phía chung quanh, cánh rừng gào vào tai gã. Firmo đang đến gần.

7

- Pha lê Baccarat đấy, - Horácio vừa tuyên bố vừa lấy đầu ngón tay gõ gõ vào cái cốc có chân trong khi những âm thanh nhè nhẹ trong trẻo ngân lên ở quanh bàn. - Tôi đã phải bỏ ra một món tiền khá to đấy, - lão nói thêm. - Tôi mua nó trong dịp cưới của chúng tôi. Cho mua ở tận Rio de Janeiro đấy.
Thầy cò Virgílio - “Tiến sĩ Virgílio” - nâng cốc lên, những giọt rượu porto nhuộm chất pha lê trong suốt thành một màu đỏ như máu.
- Rượu này hương vị thật là tuyệt diệu, - gã vừa nói vừa nâng cốc lên ngang tầm mắt.
Gã nêu nhận xét đó với tất cả mọi người nhưng mắt gã lại chằm chằm nhìn vào Ester; như thể gã định nói với nàng: Gã hoàn toàn biết rõ rằng vị rượu ngon là do nàng mà có. Gã nói năng trịnh trọng và giọng nói uốn éo, gã chọn từng chữ một, cẩn thận như đang tham gia một cuộc luận chiến vậy. Gã thưởng thức rượu một cách sành sỏi như cố gắng nhận định giá trị của vùng và năm sản xuất ra thứ rượu ấy. Điệu bộ lịch sự, cái nhìn lả lướt, bộ tóc vàng của gã, tất cả con người gã tương phản với gian phòng. Horácio mơ hồ cảm thấy điều đó, còn Maneca Dantas thì hoàn toàn thấy rõ như vậy. Đối với Ester, gian phòng như không hiện hữu nữa. Trước mặt viên thầy cò trẻ tuổi, nàng cảm thấy như đột nhiên rứt khỏi cái đồn điền này, quay trở về những ngày xa xưa. Tưởng như còn ở trường nhà dòng, vào một ngày nghỉ cuối năm, nàng cùng bạn bè đang nhảy múa với lớp thanh niên sang trọng nhất và quyền quý nhất của thủ đô. Nàng luôn luôn mỉm cười, nàng cũng làm ra vẻ hết sức quý phái trong lời nói và điệu bộ, trong khi một nỗi buồn man mác gần giống như một niềm sung sướng xâm chiếm lấy nàng. “Đó là tại rượu”, nàng nghĩ. Rượu vang rất dễ làm nàng choáng váng. Vừa nghĩ thế, nàng vừa uống thêm nhiều hơn, và đồng thời uống luôn cả những lời nói của Virgílio.
- Đó là một cuộc họp mặt để khánh chúc ngài thượng nghị sĩ Lago - thực ra là một cuộc khiêu vũ chào mừng ông ta trúng cử. Và cuộc chiêu đãi mới sang làm sao chứ, thưa Dona Ester! Bà không thể tưởng tượng được đâu. Mọi thứ đều quý phái tuyệt vời. Chị em nhà Paiva cũng có mặt.
Ester quen chị em nhà này, họ là bạn học cùng lớp với nàng.
- Mariinha mặc áo lụa xanh lơ thật là đẹp. Quả là một người trong mơ.
- Cô ấy xinh thật, - Ester công nhận. Nhưng trong giọng nàng có đôi chút dè dặt mà Virgílio nhận thấy.
- Ồ, nhưng không phải là người đẹp nhất trường hồi đó đâu ạ, - viên thầy cò trẻ vội chữa lại. Ester đỏ mặt, và uống thêm một hớp rượu.
Virgílio tiếp tục ba hoa. Gã nói về âm nhạc, nêu tên một điệu waltz nào đó mà Ester vẫn còn nhớ ra âm điệu. Horácio bèn lên tiếng:
- Ester là một tay chơi dương cầm hạng nhất đấy, ông đã biết chưa?
Giọng Virgílio trở nên khẩn khoản:
- Thật thế ạ? Nếu vậy thì sau bữa ăn, chúng tôi sẽ rất sung sướng được nghe bà nhà đàn. Chắc chắn là bà nhà sẽ không từ chối cho chúng tôi được hưởng cái hân hạnh đó.
Nhưng Ester từ chối, nói rằng đã từ lâu nàng không sờ đến dương cầm, rằng ngón tay nàng chẳng còn được mềm mại nữa, vả lại cái dương cầm hỏng quá mất rồi. Nó sai dây, bởi vì ở cái vùng hẻo lánh này không có ai để mà trông nom nó cả.
Tuy nhiên, Virgílio không muốn chấp nhận bất cứ một lời từ chối nào. Gã quay sang Horácio và yêu cầu lão “hãy vật nài để Dona Ester đừng khiêm tốn như thế nữa và vui lòng để cho ngôi nhà được tràn ngập âm thanh du dương”. Horácio nghe lời và nài vợ:
- Mình đừng có kiếm chuyện nữa, và hãy chơi cho chàng trai trẻ này nghe đi. Tôi cũng muốn nghe mình đàn. Với lại, tôi đã bỏ ra một món tiền khá lớn vào chiếc dương cầm này, chiếc đàn tốt nhất ở Bahia. Mang được nó về đến tận đây thật là vất vả quá. Thế mà có dùng được việc gì đâu? Thật là vứt tiền qua cửa sổ: sáu conto đấy.
Lão nhắc lại câu ấy, như muốn trút đi một gánh nặng: sáu conto vứt qua cửa sổ. Lão nhìn Maneca Dantas. Hẳn là hắn ta sẽ hiểu lão. Maneca bèn quyết định ủng hộ lão. Sáu conto là một món tiền lớn. Giá một vườn ca cao đấy.
Virgílio, trái lại, tỏ ra bất trị.
- Sáu conto, sáu conto khốn nạn ấy thì có nghĩa lý gì, khi người ta tiêu nó để đẹp lòng vợ mình thưa đại tá!
Gã nói vậy, và giơ ngón tay lên gần sát mặt viên đại tá, một ngón tay móng sửa sang rất cẩn thận, đeo một cái nhẫn luật sư, mặt hồng ngọc lấp lánh sáng.
- Ngài muốn nói thế nào thì nói, thưa đại tá, nhưng tôi tin chắc rằng chả mấy khi ngài tiêu đi sáu conto mà lại lấy về được cho mình nhiều điều thỏa mãn bằng khi mua chiếc dương cầm này. Có đúng vậy không ạ?
- Quả có thế, tất nhiên là tôi rất hài lòng mua được nó về. Ấy, ở nhà vợ tôi cũng có một cái dương cầm, nhưng ông biết không, đó là thứ hàng tồi, rẻ mạt nên tôi không muốn đưa về đây.
Một cái khoát rộng tay khinh bỉ, kèm theo câu trả lời đó.
- Cho nên tôi đã mua chiếc đàn này. Nhưng nhà tôi hầu như không đụng tới nó bao giờ. Trăm năm mới được một lần!
Ester lắng tai nghe tất cả những lời đó; một nỗi căm giận trào lên trong lòng nàng, một nỗi căm giận có phần còn lớn hơn cả lòng căm giận vào cái đêm cưới, khi Horácio xé toạc quần áo nàng ra và chồm lên người nàng. Nàng hơi choáng váng vì rượu; nàng cũng say vì những lời nói của Virgílio, và cặp mắt nàng một lần nữa lại ủ kín những giấc mơ sôi nổi ngày xưa khi còn là một nữ sinh. Trong cặp mắt ấy, Horácio biến thành một con lợn ghê tởm như những con lợn của đồn điền, đầm mình trong những hố bùn trên đường cái lớn. Virgílio, ngược lại, hiện ra với nàng như một chàng hiệp sĩ giang hồ, một tay ngự lâm pháo thủ, một vị hầu tước người Pháp, một con người tổng hợp những nhân vật của những cuốn tiểu thuyết nàng đã đọc ở nhà trường, nhân vật nào cũng quý phái, cũng dũng cảm và cũng đẹp cả. Mặc dù vậy, nhờ nỗi căm giận nàng vừa cảm thấy - hoặc có lẽ chính là do có sự căm giận ấy, nào ai biết được? - nàng lại thấy bữa ăn ngon tuyệt. Nàng nhấm nháp một cốc rượu vang nữa.
- Thế thì được, - nàng mỉm cười tuyên bố. - Tôi sẽ đàn.
Nàng nói là nói với Virgílio. Rồi nàng quay sang Horácio:
- Mình không bao giờ yêu cầu em đánh đàn cả, - nàng nói. Giọng nàng thật đáng yêu và dịu dàng, nhưng nàng đã thỏa mãn được lòng căm giận, bởi vì ngay lúc đó nàng thấy đã có cách trả thù. Muốn làm nhục chồng một cách thật đau đớn, nàng tiếp:
- Trước kia em tưởng mình không yêu nhạc. Bây giờ em đã rõ không phải thế, đã vậy thì chiếc đàn dương cầm này sẽ không một lúc nào được nghỉ.
Nhưng những lời nói này mất mọi tác dụng đối với Horácio. Lão không nhận ra đây là một sự giả vờ. Vậy ra nàng Ester này không phải là nàng Ester lão đã từng biết; đây là một người khác, nghĩ đến lão và nghĩ đến những ước muốn của lão. Thương yêu trìu mến như một làn sóng xuyên qua bao lần vỏ giáp của con tim lão và khiến lòng lão tràn ngập ân cần, rộng lượng. Có lẽ lão đã đối xử bất công với Ester, lão đã không hiểu nàng; nàng thuộc về một thế giới khác. Lão cảm thấy mình phải hứa với vợ một điều gì thật oai và rộng rãi, một điều gì làm cho nàng sung sướng.
- Đến dịp nghỉ, - lão nói, - chúng ta sẽ đi Bahia.
Lão nói với vợ, cho riêng vợ lão nghe thôi, không chú ý gì đến khách khứa cả.
Và câu chuyện lại tiếp diễn bình thường. Một cuộc trò chuyện đặc sắc, hầu như chỉ đóng khung giữa Ester và Virgílio, nào là thuật lại các buổi chiêu đãi, nào là tranh luận về thời trang, về âm nhạc, về tiểu thuyết. Horácio ngây ngất khâm phục vợ, nhưng Maneca Dantas thì nhìn cảnh này bằng con mắt tinh đời.
- Tôi thích Jorge Ohnet lắm, - Ester nói. - Tôi đã khóc khi đọc cuốn Nhà công nghiệp lớn.
- Có lẽ bà đã tìm được trong ấy ít nhiều cái thể loại tự truyện, - Virgílio nói với một vẻ buồn phảng phất.
Horácio và Maneca Dantas nghe câu nói ấy chẳng hiểu gì hết, và cả Ester cũng không hiểu được ngay. Nhưng khi hiểu ra, nàng liền đưa tay lên mặt và lắc đầu một cách bực bội.
- Ồ, không, không đâu!
- Ồ. - Virgílio thở dài.
Ester cảm thấy gã đã đi hơi quá xa.
- Tôi không định nói thế đâu.
Nhưng Virgílio không để ý. Mặt gã tươi tỉnh, đôi mắt sáng ngời.
- Thế còn Zola? Bà đã đọc Zola chứ ạ? - Cuối cùng gã hỏi.
Không, nàng chưa đọc Zola, các bà xơ ở nhà trường không cho phép nàng đọc.
Virgílio đưa ra ý kiến rằng, theo gã thì thực thà mà nói, Zola không phải là một tác giả thích hợp với các cô thiếu nữ. Nhưng đối với phụ nữ có chồng thì... gã có một cuốn Nảy mầm ở Ilhéus; gã sẽ gửi cho Dona Ester.
Những cô hầu da đen đã tiếp xong những món tráng miệng tưởng không bao giờ hết và Ester bàn là nên sang phòng khách để dùng cà phê. Virgílio vội đứng ngay lên, kéo ghế của Ester lùi về đằng sau, và né mình để nàng đi qua. Horácio đứng ở xa ngắm nhìn cảnh này với đôi chút ghen tị, còn Maneca thì thán phục phong độ của viên thầy cò. Theo quan điểm của hắn thì học vấn quả là một điều tốt đẹp; hắn nghĩ tới mấy thằng con của hắn và tưởng tượng sau này chúng sẽ giống như “tiến sĩ Virgílio”.
Ester rời khỏi buồng ăn; mọi người đi theo.
Bên ngoài trời mưa, những giọt mưa nhỏ li ti xuyên qua ánh trăng. Trời rất nhiều sao; không có ánh sáng nào khác làm mờ cái hào quang thần tiên của sao. Virgílio đi qua phía cửa và bước ra hiên. Felícia bưng khay vào. Ester bắt đầu tiếp đường. Virgílio quay vào và đưa ra một nhận xét tựa như ngâm một bài thơ vậy:
- Chỉ có ở trong rừng mới thấy một đêm mê ly như đêm nay.
- Vâng, đêm đẹp thật, - Maneca Dantas gật đầu, khuấy cốc cà phê của mình. “Xin bà thêm một thìa nhỏ nữa”, hắn vừa nói vừa quay sang phía Ester: “Tôi thích uống cà phê ngọt”. Rồi hắn lại nói với viên thầy cò: “Một đêm tuyệt đẹp, và trận mưa rào kia lại càng làm cho đêm đẹp thêm”. Hắn cố gắng giữ cho đúng giọng điệu mà Virgílio và Ester đã đưa vào câu chuyện, nhưng hắn rất hài lòng vì cảm thấy mình đã nói lên được một điều suy nghĩ xứng đáng với tầm suy nghĩ của họ.
- Còn ngài, thưa tiến sĩ, ngài cần dùng mấy thìa? - Ester nói.
- Chút ít thôi, thưa Dona Ester. Đủ rồi ạ, xin rất cảm ơn bà. Và thưa señora*, bà có thấy rằng sự tiến bộ giết chết mất cái đẹp không ạ?
*[Señora: tiếng Tây Ban Nha nghĩa là quý bà]
Ester đưa bình đường cho Felícia và ngừng lại một chút trước khi trả lời. Nàng trở nên nghiêm trang và tư lự:
- Tôi nghĩ rằng sự tiến bộ cũng có thể rất đẹp.
- Nhưng ở các thành phố lớn, với bao nhiêu là ánh sáng thì ngay đến sao người ta cũng không thể nhìn thấy được. Mà thi sĩ thì lại rất yêu sao, thưa Dona Ester, những vì sao ở trên trời và những vì sao ở dưới đất.
- Nhưng cũng có những đêm khác chẳng có một ngôi sao nào cả. - Giọng Ester lúc này trở nên trầm hơn; nó xuất phát tự trái tim nàng. - Những đêm dông tố thật là khủng khiếp.
- Chắc là phải đẹp lắm… - Câu nói như buông lửng trong không khí, lấp lánh giữa hai người.
- Bởi vì cũng có thứ đẹp khủng khiếp chứ, - gã nói thêm.
- Có thể, - Ester nói. - Nhưng những đêm như vậy, tôi sợ lắm.
Và nàng đưa mắt van vỉ nhìn gã cứ như gã là một người bạn thân từ lâu rồi.
Virgílio thấy lúc này nàng không đóng kịch mà đang có một nỗi buồn, một nỗi buồn sâu xa; và chính lúc này, lần đầu tiên, mắt gã nhìn nàng với một vẻ quan tâm chân thành. Thế là tiêu tan cái lối vui vẻ ranh mãnh. Thay vào đó, gã bỗng thấy một tình cảm sâu sắc và nghiêm túc hơn.
Bấy giờ Horácio bèn lên tiếng:
- Ông có biết cái gì đã khiến cho cô bé ngốc nghếch này sợ hãi không, ông tiến sĩ? Đó là tiếng ếch kêu khi bị rắn nuốt ở bờ sông.
Chính Virgílio cũng đã nghe thấy tiếng kêu xé ruột ấy.
- Tôi hiểu, - câu trả lời của gã gọn lỏn có thế.
Lúc đó thật là đầy hạnh phúc. Cặp mắt Ester chứa chan một niềm sung sướng trong sáng và không chút giả tạo. Nàng không hề đóng kịch. Thời gian ấy chỉ dài bằng một giây đồng hồ, nhưng giây đồng hồ ấy cũng đủ quá rồi. Đến cả lòng căm giận đối với Horácio cũng biến mất.
Nàng đi đến chỗ dương cầm. Trong khi ấy, Maneca Dantas trình bày với Virgílio về công việc họ đang nhăm nhe: Một cuộc tiếm đoạt quan trọng, một vụ có thể kiếm bạc vạn. Virgílio phải gắng gượng chú ý vào đấy. Horácio thỉnh thoảng lại chen vào một ý kiến theo kinh nghiệm riêng của hắn. Virgílio đọc một điều luật. Những hòa thanh đầu tiên của chiếc dương cầm vang lên trong căn phòng. Viên thầy cò mỉm cười:
- Giờ thì ta hãy nghe Dona Ester đã, - gã nói. - Sau đó, chúng ta sẽ xem thử có cách nào để mở rộng thêm cái đồn điền của ngài.
Maneca khoát tay tán thành, và Virgílio tới bên Ester, chỗ dương cầm. Điệu waltz nàng chơi không chỉ giới hạn trong gian phòng khách mà vang dội ra ngoài, bay qua những cánh đồng đến tận khu rừng ở phía sau nhà. Maneca Dantas ngồi bàn cãi với Horácio trên đi văng.
- Một chàng trai lịch sự, phải không? Và rất có khả năng! Ông có biết người ta còn bảo anh ta là thi sĩ nữa không? Anh ta nói mới hay làm sao; anh ta sẽ là một tay thầy cãi tốt cho chúng ta đấy. Một con người có đầu óc.
Horácio xoa hai tay vào nhau, mỉm cười:
- Còn Ester? Ông nghĩ thế nào? Ở đâu, ở Ilhéus hoặc ngay cả ở Bahia nữa - lão nhắc lại - ông tìm đâu ra một người phụ nữ có học thức như nàng? Nàng biết hàng bao nhiêu thứ: tiếng Pháp này, âm nhạc này, thời trang này, biết tất. Đầu óc nàng vững vàng lắm. - Và lão lấy một ngón tay gõ lên đầu mình. - Nàng không phải chỉ là một cô bé xinh đẹp, còn hơn thế nhiều. - Lão kiêu hãnh nói, với cái vẻ làm chủ. Lời lão sặc mùi huênh hoang. Lão sung sướng, bởi lẽ lão tưởng Ester đàn cho lão, vì lão đã yêu cầu.
Maneca Dantas gật gật đầu:
- Thật là một phụ nữ con nhà có học thức, đúng vậy.
Bên dương cầm, cặp mắt tràn đầy trìu mến, Virgílio khe khẽ hát theo khúc nhạc. Khi Ester chơi xong và đứng lên, gã đưa tay ra đỡ nàng. Nàng dừng lại bên cạnh gã trong khi Virgílio vỗ tay và thầm thì vào tai nàng, để chỉ riêng mình nàng nghe rõ: “Bà là một con chim nhỏ ở trong miệng một con rắn độc”.
Maneca Dantas nhiệt liệt yêu cầu nghe nhạc nữa. Horácio lại gần hai người. Ester cố gắng hết sức ghìm nước mắt.

8

Bên ven rừng, Damião da đen đang nấp kín và đợi. Gã nhìn thấy trong ánh trăng những ảo ảnh kinh hoàng, gã đau khổ. Ở một nơi ven rừng khác, trong phòng khách nhà lớn, thầy cò Virgílio đem hiểu biết của mình về luật pháp ra phục vụ hai viên đại tá và tham vọng của chúng, và khám phá ra tình yêu trong cặp mắt sợ hãi của Ester.
Gần chỗ khu rừng trải ra từ trên đồi xuống, ở phía bên kia, trong đồn điền của anh em nhà Badaró, Antônio Vítor cũng đang đợi chờ, hai chân đu đưa trong làn nước. Khúc sông này hẹp; nước lặng và trong, đầy lá rụng. Lá cây ca cao ở phía bờ bên này trộn lẫn với lá những cây to tướng mọc tự nhiên ở bờ bên kia.
Dòng nước tạo thành giới hạn giữa khu rừng hoang và những khu trồng cây; vừa chờ đợi, Antônio Vítor vừa nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa, lửa và rìu sẽ làm biến mất khu rừng này.
Cả khu vực này sẽ trở thành đồn điền, và con sông sẽ không đánh dấu một sự ngăn cách nào nữa.
Juca Badaró nói sẽ đốn hết cây cối ngay trong năm nay và công nhân đã sẵn sàng để đốt đất rồi, người ta đã chuẩn bị những cành giâm để trồng vào khu đất trống.
Antônio Vítor yêu rừng. Thành phố Estância của hắn giờ đây xa xôi biết bao, ngay cả trong ý nghĩ; thành phố đó nằm giữa một cánh rừng, có hai con sông bao bọc; cây cối che kín phố phường và các quảng trường.
Trong rừng, giờ nào cũng thuộc về hoàng hôn, hắn thấy quen thuộc với rừng hơn là với vườn ca cao chói lọi ánh rực rỡ của những quả chín màu vàng sẫm.
Từ những ngày đầu mới tới đồn điền, hắn đã có thói quen mỗi ngày công việc xong xuôi lại lần ra bờ sông. Hắn ra đây nghỉ ngơi, ở đây, hắn nhớ tới Estancia vẫn còn vương vấn trong tâm trí; hắn nhớ tới Ivone mà hắn đã bỏ lại trên cầu sông Piauitinga; hắn đến nơi đây buông mình vào một nỗi buồn man mác bóp chặt lấy tâm hồn.
Những ngày đầu thật là vất vả. Ngoài nỗi nhớ nhà day dứt, công việc thật cực nhọc, cực nhọc hơn việc trồng thửa ruộng kê cùng với anh em hắn nhiều, trước khi hắn rời họ để xuống phía Nam. Ở đồn điền, phải dậy từ bốn giờ sáng để làm món thịt bò phơi khô và bột sắn cho bữa ăn trưa; rồi sau khi nốc vội nốc vàng cốc cà phê là đi ngay ra rừng ca cao. Năm giờ đã phải có mặt ở đấy, đúng vào lúc mặt trời vừa mới nhô khỏi đỉnh đồi ở đằng sau nhà lớn.
Mặt trời lúc đó bắt đầu quất những tia nắng vào lưng trần của Antônio Vítor và các bạn hắn, nhất là vào lưng những người đã cùng hắn từ Bahia tới, chưa quen chịu nắng. Chân họ thụt sâu xuống bùn ca cao chảy và lầy nhầy, dính nhem nhép; thi thoảng một cơn mưa lại đổ xuống làm cho tình cảnh họ càng thảm hại hơn, bởi vì gió thổi trên các bụi cây rậm đưa mưa tới, mưa mang theo những cỏ rác, sâu bọ và đủ các thứ bẩn thỉu khác. Trưa đến, (họ xem giờ theo mặt trời), họ ngừng công việc, và sau bữa ăn, họ rung cây sa kê cho rơi xuống một quả mềm làm món tráng miệng. Nhưng tên cai ngồi trên mình ngựa đã thét, họ lại cầm lấy dao phát. Thế là họ tiếp tục làm không nghỉ cho đến tận sáu giờ chiều, khi mặt trời rời bỏ rừng ca cao.
Tiếp đó là đêm, buồn bã và ảm đạm, chẳng có đàn bà mà lui tới, chẳng có Ivone mà ve vuốt trên chiếc cầu vắng vẻ, chẳng có những buổi đi câu ở Estância. Người ta cứ nói chuyện đi kiếm tiền ở miền Nam. Hàng đống và hàng đống tiền! Thế nhưng ở đây, tất cả lương lậu mỗi ngày chỉ được có hai milreís rưỡi, đem tiêu hết cả ở cửa hàng của đồn điền, thành ra cuối tháng thanh toán xong mọi khoản, chỉ còn lại một món tiền thảm hại.
Đêm tối mang tới những thèm muốn và những ý nghĩ xa xôi. Thế là Antônio Vítor ra ven rừng, nhúng chân xuống nước sông, nhắm mắt lại và thả mình vào kỷ niệm. Những người khác thì ở lại trong những túp lều tranh, kiệt sức nằm vật xuống những tấm ván gỗ kê làm giường mà ngủ. Còn những người khác hát những bài “tirana”*, những bài hát yêu đương thương nhớ, đàn ghi ta vắng tiếng than vãn trong khi những khúc hát của những miền khác nhắc họ nhớ đến mảnh đất họ đã rời bỏ. Một cuộc hòa nhạc buồn nẫu ruột nẫu gan!
*[Tirana: bài hát dân gian Brazil có nguồn gốc từ Tây Ban Nha]
Antônio Vítor đem theo những kỷ niệm của hắn đi vào rừng. Hắn mơ thấy đang ân ái với Ivone trên cầu Estância đến lần thứ một trăm. Vậy mà vẫn cái lớp ca cao ấy, cứ dính mãi vào gan bàn chân hắn và không ngừng to ra, mềm nhũn và lầy nhầy như một đôi giày kỳ lạ.
Juca Badaró mến hắn. Thoạt tiên, Antônio Vítor làm cho hắn ưng ý, vì dạo đốn cây để vạch cánh rừng biên giới, hắn không sợ hãi như những người khác, khi đến đây vào ban đêm giữa cơn dông bão. Thật vậy, chính Antônio Vítor đã hạ cây đầu tiên. Bây giờ, chỗ ấy gọi là biên giới, và những mầm ca cao đang trở thành cây sắp sửa trổ những bông hoa đầu tiên. Về sau, trong cuộc đánh nhau ở Tabocas, Antônio Vítor đã giết một người - người đầu tiên hắn giết - để cứu sống Juca. Quả thực, sau đó khi trở về đồn điền, hắn đã khóc một cách tuyệt vọng; quả thực, trong nhiều đêm sau đó, hắn vẫn còn trông thấy người kia ngã xuống, tay ôm ngực, lưỡi thè ra.
Nhưng tất cả những chuyện ấy đã qua rồi, và Juca đã rút hắn ra khỏi công việc trồng trọt để giao cho một nhiệm vụ dễ chịu hơn: làm một tên capanga, nghĩa là tên hộ vệ và giết người. Giờ thì hắn theo hầu Juca khi tên này đi trả lương cho người làm, hoặc trong những chuyến đi thường xuyên đến các thị trấn lân cận và ra tỉnh. Antônio đã đổi con dao phát cây lấy khẩu súng trường. Hắn quen biết bọn gái điếm ở Tabocas, Ferradas, Palestine và ở Ilhéus; hắn đã mắc phải bệnh tình và bị một phát đạn vào vai. Ivone chỉ còn là cái bóng mờ nhạt và xa xôi, Estância chỉ còn là một kỷ niệm sắp biến mất. Nhưng hắn vẫn giữ cái thói quen cứ đến tối là đi ra ven rừng và khỏa chân xuống dòng sông.
Và cũng là để đợi Raimunda ở đây. Ả tới múc nước cho bữa tắm tối của Don’Ana. Raimunda vừa đi xuống vừa hát; nhưng tiếng hát ngừng bặt khi ả trông thấy hắn, và mặt ả nghiêm hẳn lại như thể hắn làm cho ả kinh tởm lắm. Ả làu bàu đáp lại lời chào của hắn. Và có một hôm hắn vừa định ôm lấy ả, thì ả đã đẩy hắn ngã xuống sông; bởi vì ả cũng khỏe và cương quyết chẳng kém gì đàn ông.
Mặc dầu vậy, chiều chiều hắn vẫn ra bờ sông, nhưng hắn không tìm cách lợi dụng nữa. Hắn chào ả, nhận lấy một tiếng làu bàu đáp lại, rồi ả lại tiếp tục hát câu hát lúc nãy. Ả xuống sông múc đầy bình nước, và Antônio giúp ả đặt bình nước lên đầu. Thế là Raimunda biến vào đám cây ca cao, đôi bàn chân to và đen (đen hơn bộ mặt lai nhiều) thụt sâu xuống lớp bùn của con đường hẻm. Antônio bèn nhảy xuống nước, và cuối cùng đi qua rừng ca cao trở về nhà để nhận lệnh của Juca cho ngày hôm sau. Đôi khi Don’Ana sai người đưa cho hắn một cốc rượu vang. Antônio Vítor nghe thấy tiếng bước chân của Raimunda ở trong bếp, và tiếng ả trả lời Don’Ana.
- Con vào ngay đây, thưa mẹ đỡ đầu.
Bởi vì Raimunda là con đỡ đầu của Don’Ana, mặc dầu hai người bằng tuổi nhau. Ả sinh cùng một ngày với Don’Ana, là con gái mụ Risoleta da đen nấu bếp trong nhà lớn, một phụ nữ da đen xinh đẹp có cặp mông tròn, thịt chắc nịch. Không ai biết bố Raimunda là ai, bởi vì khi ả ra đời thì nước da lại trắng và tóc gần như thẳng trơn; nhưng có một vài người thì thào rằng đó không phải ai khác ngoài lão Marcelino Badaró, bố Sinhô và Juca. Tuy nhiên, những lời thì thào đó chưa đủ là một cớ để Dona Filomena đuổi mụ nấu bếp đi. Trái lại, Risoleta vẫn đem cặp vú đen to tướng ra nuôi “em bé yêu dấu” vừa mới đẻ, là đứa cháu gái đầu của lão già Badaró. Don’Ana và Raimunda cùng sống những ngày thơ ấu bên nhau; Risoleta ẵm mỗi đứa một bên tay, mỗi đứa bám vào một đầu vú của mụ. Hôm người ta rửa tội cho Don’Ana, con bé lai đen Raimunda cũng được rửa tội luôn. Risoleta tự chọn lấy bố mẹ đỡ đầu cho con: Sinhô, lúc đó là một chàng trai chừng hai mươi tuổi, và Don’Ana mới được chừng dăm tháng. Cha cố không phản đối gì cả; bởi vì ngay từ hồi đó, gia đình nhà Badaró đã là một thế lực buộc pháp luật và tôn giáo phải quỳ gối.
Raimunda lớn lên trong nhà lớn vì nó bú sữa cùng một mẹ với Don’Ana. Vì lẽ Don’Ana sinh ra làm vui vẻ cửa nhà, trong khi ông bà nội nó bắt đầu về già và đứa cháu gái út ít họ nhà Badaró, với những điệu bộ ngây thơ con nít, đã làm cho ông bà già phải quý mến sau ba mươi năm chờ đợi, cho nên gia đình hết sức chiều chuộng mọi ý thích của đứa bé. Raimunda cũng được hưởng chút tình thương yêu thừa thãi. Dona Filomena, vốn là người ngoan đạo và biết điều, thường nói rằng bởi vì Don’Ana đã chiếm mất mẹ đẻ của Raimunda, nên nhà Badaró phải làm một cái gì đền bù cho con bé lai đen ấy. Và đúng là như vậy, mụ Risoleta chỉ để mắt vào độc một người duy nhất trên đời: đó là đứa con gái da trắng của mụ, “đứa con bé bỏng yêu dấu” của mụ, “con Don’Ana” của mụ, cho nên, hồi Don’Ana còn bé người ta đã từng thấy có lần Risoleta-da-đen to tiếng cả với chính lão già Badaró toan phạt đứa cháu gái rất nghịch ngợm và không chịu vâng lời. Risoleta nóng mắt khi nghe thấy Don’Ana nức nở; mụ từ trong nhà bếp chạy ra, mắt long lên, mặt hằm hằm tức giận. Hồi đó, Juca còn bé; một trong những trò chơi thú vị nhất của hắn là trêu cho đứa cháu gái phát khóc lên để vui thích được thấy những cơn giận điên cuồng của Risoleta nổ ra. Risoleta không kính nể gì hắn cả, mụ gọi hắn là quỷ sứ và thậm chí còn nói là hắn “tệ hơn cả một tên da đen”. “Thằng bé này thật đúng là một thứ dịch hạch nhỏ”, mụ vừa lau nước mắt vừa nói với những phụ nữ khác ở trong nhà bếp.
Đối với Don’Ana, nhà bếp bao giờ cũng là một nơi trú ẩn. Khi nào nó hư hơn thường lệ là nó chạy vào đây, núp dưới váy “mẹ da đen” của nó. Thế là cả Dona Filomena lẫn lão già Marcelino, cả đến Sinhô cũng không dám vào tìm, vì trong những dịp này, Risoleta sẵn sàng ứng chiến ngay.
Còn Raimunda thì giúp những việc lặt vặt và tập làm bếp, nhưng ở nhà lớn, người ta còn dạy nó khâu vá, thêu thùa, dạy đọc chữ, dạy ký tên, dạy làm những con tính cộng, tính trừ nho nhỏ. Bằng cách dạy dỗ như vậy, gia đình Badaró tưởng đã trả được cái nợ của họ.
Risoleta chết đi miệng còn gọi tên Don’Ana, mắt nhìn chằm chằm vào con gái của mụ, đứa con đã ở lại bên mụ trong giờ phút lâm chung, khiến cho mụ xiết bao vui sướng. Lão già Marcelino Badaró đã chết trước đó hai năm; năm sau, con gái lão lấy một nhà buôn ở Bahia, cũng chết ở đây vì không quen sống ở thành phố lớn, và không quen sống xa đồn điền đến như thế. Mụ ta mòn mỏi dần và mắc bệnh lao phổi. Cuối cùng, Dona Filomena rút Raimunda ra khỏi nhà bếp, và giao cho một công việc ở nhà lớn, mụ tự coi là người bảo trợ ả trong suốt thời gian mụ còn sống. Sau này, vợ Sinhô cũng chết vì bệnh lao phổi, Raimunda chỉ còn lại bố mẹ đỡ đầu là Sinhô và Don’Ana. Nhưng dù sao đi nữa cuộc đời của Raimunda vẫn rất giống cuộc đời các “con sen” làm những món ngọt dùng giữa bữa ăn; chỉ khác có một điều duy nhất là mỗi kỳ nghỉ hè, Don’Ana lại tặng cho ả một cái áo dài mới, và Sinhô thì cho ả một đôi giày và một ít tiền. Ả không hỏi xin bao giờ cả; mà xin làm gì vì trong nhà Badaró, ả đã có đủ mọi thứ cần thiết. Đến ngày lễ thánh João hoặc ngày lễ Noel, khi Sinhô đưa cho ả mười đồng milreís, bao giờ hắn cũng nói: “Hãy để dành mà sắm đồ cưới sau này”.
Không bao giờ Sinhô nghĩ rằng Raimunda có thể cần đến một thứ gì. Vậy mà, ngay từ hồi nhỏ, lòng Raimunda đã chứa chất đầy những thèm muốn chưa được thỏa mãn. Trước hết, ả thèm muốn những con búp bê và những đồ chơi từ Bahia gửi tới cho Don’Ana, mà người ta cấm không cho ả được sờ vào. Biết bao lần ả đã bị Risoleta đánh mắng vì cái tội định tìm cách lấy đồ chơi của cô chị sữa! Sau đó, ả ước ao được cưỡi một con ngựa có đủ yên cương, tuyệt đẹp như ngựa của Don’Ana để phi nước đại như Don’Ana qua các cánh đồng. Cuối cùng, ả muốn có được vài thứ đồ dùng biết bao xinh đẹp như của Don’Ana: một cái vòng đeo cổ, một đôi hoa tai, một cái lược Tây Ban Nha để cài trên mái tóc. Ả đã được thừa hưởng một cái lược, nhân một hôm ả tìm thấy nó trong thùng rác, Dona vứt vào đó vì nó đã mất gần hết răng, chỉ còn lại hai ba cái. Tối đến, trong căn buồng nhỏ, bên một ngọn đèn, ả giắt lược vào mái tóc và cười nụ với mình, có lẽ đó là nụ cười đầu tiên trong cả ngày hôm đó. Bởi vì Raimunda có một bộ mặt nghiêm nghị và cau có, một bộ mặt khó đăm đăm đối với mọi người. Đến cả Juca, vốn không tha một phụ nữ nào dù đó là gái điếm, là đàn bà có chồng ngoài thành phố, là người lai ở đồn điền ca cao hay thậm chí là da đen, hắn cũng phải lánh xa Raimunda. Có lẽ hắn cho là ả xấu, với cái mũi tẹt, trái ngược với cái nước da sáng của bộ mặt.
Phải, Raimunda có khó tính thật, chính Don’Ana cũng nhận thấy thế, và ở đồn điền người ta thường cho là ả “xấu thói”, không tốt bụng. Ả như không thèm quan tâm đến ai hết; cứ sống trầm lặng, làm việc khỏe bằng bốn người khác, và có nhận vật gì của ai cho cũng chỉ khẽ thầm thì cảm ơn. Thế rồi ả đến tuổi thành thiếu phụ. Nhiều người muốn cưới ả làm vợ, chắc mẩm rằng Sinhô nhất định sẽ giúp đỡ người lấy con gái đỡ đầu của lão, chị em sữa với Don’Ana. Gã làm công ở cửa hàng của đồn điền, một gã trai trẻ ngờ nghệch từ Bahia đến, biết tính toán và biết đọc, cũng hỏi ả làm vợ; nhưng gã có dáng người mảnh khảnh và ẻo lả, vả lại đeo kính, nên Raimunda không ưng. Khi Sinhô nói đến chuyện ấy, ả khóc nói không, không, thật quả ả không thể nào ưng được. Sinhô nhún vai để tỏ rằng hắn hoàn toàn không tha thiết gì với chuyện đó: “Nếu mày không muốn, thì dứt khoát là thôi. Không ai bắt ép mày cả”.
Khi đó, Juca xen vào:
- Nhưng đó là một đám tốt cho mày đấy. Một người da trắng, lại có học nữa. Mày sẽ không tìm được người nào như nó đâu. Mình không hiểu nó tìm cái gì ở con bé này.
Raimunda phải cầu cứu tới Sinhô và hắn cho biết dứt khoát rằng việc như vậy là xong rồi. Hắn nhận trách nhiệm báo tin cho gã kia biết là Raimunda từ chối, nhưng cũng nhân dịp ấy, Juca có hỏi rằng cái mặt quàu quạu của con bé lai đen kia không hiểu có cái gì khiến gã làm công thích được.
Sau đó, đến Agostinho, tên cai của nhà Badaró; gã này cũng hỏi Raimunda, nhưng ả vẫn giữ thái độ chẳng lấy gì làm thân ái đối với những lời cầu hôn của gã. Don’Ana tìm cách giải thích như sau:
- Giản dị lắm, - ả nói, - đó là vì Raimunda không muốn xa rời chúng ta. Đành rằng nó có cái vẻ khó đăm đăm ấy thật, nhưng dù sao nó vẫn yêu mến chúng ta.
Và bỗng Don’Ana thấy mủi lòng khi chợt nhớ tới Risoleta. Cô ta bèn đem cho Raimunda một cái áo dài cũ hoặc một đồ châu báu nhỏ cũ. Nhưng những câu trò chuyện về Raimunda cũng hiếm thôi; họ cho rằng nhà Badaró thường không có nhiều thì giờ để nghĩ tới người “chị em cùng nôi” ấy.
Antônio Vítor cố hết sức làm cho Raimunda phải để mắt tới hắn. Trong đồn điền, một người đàn bà thật là một xa xỉ phẩm, và cái thân thể trai tráng của hắn bừng cháy dục vọng cuồng nhiệt. Ngủ với bọn gái điếm mỗi lần ra tỉnh, đối với hắn thật chưa đủ. Hắn thèm muốn có một xác thịt ấp ủ hắn những đêm đông dài dặc, từ tháng năm đến tháng chín, trong mùa mưa.
Cho nên hắn đến ven rừng đợi ả. Được một lát, hắn nghe thấy tiếng Raimunda vang lên phía trước, trên con đường hẹp. Mặt ả có thể là không đẹp, nhưng cái điều khiến cho Vítor bận tâm, chính là cặp mông đồ sộ, cặp vú rắn chắc, đôi chân thon đẹp của ả. Bóng đêm đổ xuống từ bầu trời bảng lảng hoàng hôn. Dòng sông trôi êm ả. Đêm nay có lẽ mưa. Tiếng dế đã bắt đầu nỉ non trong rừng. Lá rơi uể oải rồi cuối cùng đậu xuống nước.
Người ta nói tới chuyện hái ra tiền ở miền Nam. Antônio đã hứa sẽ quay về, giàu có, với những bộ quần áo đẹp và đôi ủng bóng lộn; giờ đây những ý nghĩ đó không còn trong đầu hắn nữa. Hắn trở thành tên capanga của Juca Badaró, nổi tiếng về tài bắn nhanh. Những kỷ niệm về Estância, về Ivone hiến thân cho hắn trên cầu cũng đã nhòa đi trong tâm trí. Những giấc mơ kia không còn tràn ngập trong đầu hắn như đêm nào trên con tàu biển. Giờ đây, hắn chỉ có một ước muốn: lấy được cô gái lai đen Raimunda, và chung sống với ả trong một túp lều đất. Cưới Raimunda, có được một cái thể xác mà nghỉ ngơi trên đó sau một ngày lao động dài, sau một chuyến đi dài qua những con đường gian nan, sau cái chết của một người do tay hắn giết. Nằm nghỉ trên mình ả - một cái thể xác để gối đầu lên mà ngủ - chẳng mộng mị gì cả.
Có tiếng Raimunda trên con đường nhỏ. Antônio Vítor nhỏm lên, sẵn sàng giúp ả múc đầy thùng nước. Đêm tối phủ kín rừng. Dòng sông vẫn êm ả trôi.

9

Tốp người dừng lại trước nhà lớn của cái đồn điền vẫn được gọi là “Bầy khỉ”.
Cái tên chính thức của nó đẹp hơn thế nhiều: “Đồn điền Auricídia”, món quà của Maneca Dantas tặng vợ, một mụ béo và mềm nhũn mà thú vui độc nhất ở đời là lũ con và những món ăn ngon mụ làm giỏi hơn bất kỳ ai. Cái tên đó không còn nữa, khiến viên đại tá rất phiền lòng, và ai nấy hình như cố tình gọi chỗ này là “đồn điền bầy khỉ”, tên gọi khu rừng đầu tiên, nằm giữa cái dinh cơ lớn của nhà Badaró và dinh cơ nhà Horácio, nơi người ta thường thấy từng đàn khỉ chạy trốn vào rừng. Cái tên “Auricídia” chỉ xuất hiện trong các giấy tờ chính thức; và chỉ có Maneca Dantas là người duy nhất nói “ở chỗ chúng tôi, ở đồn điền Auricídia”. Còn mọi người đều dùng cái tên gọi bình dân nọ.
Tốp người dừng lại và đặt cái võng mắc vào đòn xuống. Trong võng, một xác chết đang hoàn thành chuyến đi cuối cùng trên mặt đất. Từ giữa căn phòng ngoài không sáng lắm, Dona Auricídia vừa hỏi vừa vận động các khối thịt trên người mụ:
- Ai đấy?
- Thưa bà, chúng tôi, người quen cả thôi, - một người trong bọn đáp.
Đứa bé vừa chạy ra ngoài hiên, lúc này vào báo cho mẹ:
- Mẹ ạ, nó có hai người với một xác chết, một xác chết gầy nhom…
Chưa vội lo sợ cuống quýt, Dona Auricídia, xưa kia vốn là giáo học, dịu dàng uốn nắn lại cách nói cho thằng con trai nhỏ:
- Họ có hai người.
Rồi mụ đi ra phía cửa, đứa bé bám vào váy mẹ. Những đứa nhỏ hơn đã ngủ cả. Ở ngoài hiên, tốp người đã ngồi xuống một cái ghế dài, còn cái võng mang xác chết nằm phơi ra trên mặt đất.
- Cầu Chúa Jesus ban cho bà một đêm tốt lành, - một ông lão tóc bạc và xoăn tít nói.
Người thứ hai ngả mũ lễ phép chào. Dona Auricídia chào lại, rồi đứng đợi.
- Chúng cháu khiêng người này từ đồn điền Baraúnas tới, - người còn trẻ phân trần. - Ông ta làm việc ở đấy. Chúng cháu đưa ông ta về nghĩa địa ở Ferradas.
- Tại sao các người không chôn nó ở trong rừng?
- Thế này ạ, ông ấy có ba cô con gái ở Ferradas, bà hiểu cho… Phải mang về cho các cô ấy. Chúng cháu muốn nghỉ nhờ ở đây một lát, nếu bà thấy không phiền. Đường thì xa, mà bố già đây thì mệt đứt hơi rồi, - gã vừa nói vừa chỉ vào ông già.
- Nó chết vì sao? - Mụ chủ nhà hỏi.
- Vì bệnh sốt, - ông già đáp. - Cái bệnh sốt đáng nguyền rủa thường mắc phải ở trong rừng ấy. Bác ấy đang đốn gỗ thì lên cơn. Ba ngày hôm nay rồi. Không có cách nào chạy chữa được cả.
Dona Auricídia đẩy đứa bé vào, và chính mụ cũng lùi lại mấy bước. Mụ suy nghĩ, trong khi cái xác chết gầy nhom nọ - người này cũng đã già rồi - vẫn nằm sóng sượt trong võng, trên hiên nhà.
- Đưa nó vào một cái lều - mụ nói - các người có thể đến đấy mà nghỉ. Nhưng không để đây được đâu. Cứ đi một quãng nữa là các người tới khu lều. Cứ nói với bọn ở đấy là tôi bảo các người đến. Nhưng không được để ở đây, vì còn có trẻ con.
Mụ sợ bị lây bệnh, sợ cái chứng sốt chưa có thứ thuốc nào trị được ấy. Mãi nhiều năm sau này, người ta mới biết đó là bệnh chấy rận lúc đó đang lan rộng trong vùng. Dona Auricídia nhìn hai người nhấc võng, đặt đòn lên vai và đi ra.
- Chào bà.
- Chào.
Mụ đứng dậy, mắt đăm đăm nhìn vào cái chỗ vừa đặt xác chết. Rồi, thốt nhiên, các khối thịt lại bắt đầu chuyển động.
Mụ gọi bọn đầy tớ gái da đen, sai mang nước và xà phòng ra ngay tức khắc, và mặc dầu trời đã khuya, mụ bắt họ cọ hiên suốt từ đầu nọ đến đầu kia. Mụ đem con đi kì tay cho nó đau đến phát kêu lên. Đêm hôm ấy, mụ không ngủ, cứ mỗi giờ lại nhỏm dậy xem thằng Rui có lên cơn sốt không. Tình cờ Maneca hôm ấy lại đi vắng, hắn ăn cơm ở đằng nhà Horácio.
Hai người dừng võng lại trước một túp lều. Ông già mệt rồi.
- Nặng lắm, phải không bố già? - Gã trẻ tuổi hỏi.
Cái ý khiêng xác chết này đi Ferradas là do ông già nêu ra. Ông vốn là bạn thân của người chết. Ông đã khẩn khoản xin đem thi hài về cho các con gái người chết để làm tang lễ theo tôn giáo. Chặng đường dài từ mười đến mười lăm dặm họ đã phải đi vất vả hàng mấy giờ đồng hồ dưới ánh trăng. Một lần nữa họ lại đặt võng xuống, gã trai trẻ lau mồ hôi trán trong lúc ông già cầm gậy gõ vào những tấm ván gồ ghề của cánh cửa hé mở; một ngọn đèn le lói bên trong: “Ai đấy?”
- Anh em cả thôi, - ông già đáp như lần trước.
Mặc dầu vậy, người da đen ra mở cửa vẫn cầm trong tay khẩu súng lục, bởi vì ở cái đất này, cẩn thận đến đâu cũng vẫn không thừa. Ông già kể lại câu chuyện một lần nữa, và để kết thúc, ông nói rằng Dona Auricídia bảo họ đến.
- Như vậy là bà ta không muốn để ở trên ấy, - một anh con trai gầy gò đứng sau người da đen nói. - Người chết có thể truyền bệnh cho con cái bà ta. Nhưng với chúng tôi thì điều đó không quan trọng, phải không, - và gã bật lên cười.
Ông già tưởng người lạ sẽ đuổi mình đi lần thứ hai. Lão bắt đầu phân trần, nhưng anh con trai gầy gò ngắt lời lão.
- Được rồi, bố ạ. Bố vào được đấy, - gã nói. - Ở đây không dễ ai mắc bệnh sốt đâu. Phu phen thì xương đồng da sắt cả.
Họ bước vào. Những người khác đang ngủ lúc này đều thức dậy, có năm người cả thảy trong túp lều. Lều này chỉ có một gian, vách đất, mái kẽm, sàn bằng đất nện. Một gian vừa làm buồng ăn, phòng ngủ, nhà bếp. Đại tiểu tiện đều ở ngoài trời, trong bụi, trong rừng. Họ đặt xác chết trên một chỗ nằm, nơi mọi người ngủ, và đứng quây chung quanh. Ông già móc túi lấy ra một cây nến, đốt lên và đặt ở đầu giường người chết. Nến đã cháy hết một nửa vì đã dùng để canh xác chết lúc chập tối, cũng như sẽ dùng sau này nữa khi họ tới nhà các cô con gái nọ.
- Thế các cô ấy làm gì? - Người da đen hỏi.
- Làm gì ở Ferradas ấy à? - Ông già nói. - Họ là gái nhà thổ.
- Cả ba à?
- Phải, cả ba, ông ạ!
Một phút yên lặng, trong khi họ vẫn quây lấy cái thân hình gầy nhom, có bộ râu đen lẫn những sợi bạc.
- Có một cô lấy chồng rồi, - ông già tiếp. - Chồng lại chết mất.
- Người này cũng già rồi, có phải không? - Người da đen nói, tay chỉ vào xác chết. - Đến ngoài bảy mươi rồi còn gì.
- Đáng tuổi ông chúng mình đấy, - một người từ nãy chưa bắt chuyện, bèn bình luận một câu. Nhưng không ai cười.
Anh con trai gầy gò kiếm được chai rượu rum và một cái bát, họ chuyền tay nhau uống. Một người trong bọn ở lều, vừa tới đồn điền hôm nay, muốn biết ông già này đã chết vì chứng sốt gì.
- Nói thật ra thì chẳng ai biết cả. Đây là chứng sốt rừng; mắc phải nó là ngoẻo trong nháy mắt. Không có thứ thuốc nào chữa nổi. Bác sĩ chính cống cũng chịu. Đến cả Jeremias với lá rừng của ông ấy cũng không ăn thua.
Anh da đen bèn cắt nghĩa cho người vừa ở Ceará tới biết rằng ông thầy mo nọ sống một mình tại khu rừng Sequeiro Grande trong túp lều xiêu vẹo, heo hút giữa những lùm cây. Chỉ trong những trường hợp tối khẩn cấp người ta mới đi tìm lão. Jeremias sống bằng rễ cây và quả rừng. Lão biết chữa những vết thương do đạn bắn và những vết rắn cắn. Rắn đi lại tự do trong lều của lão; lão đặt tên mỗi con như phụ nữ vậy. Lão có thuốc chữa các bệnh của cơ thể và các chứng bệnh của tình yêu nữa. Nhưng đến cái bệnh sốt này thì lão chịu.
- Ở Ceará, tôi cũng có nghe nói nhưng tôi không tin. Người ta kể biết bao nhiêu chuyện về cái đất này; người ta nghe được biết bao nhiêu chuyện tầm bậy.
Anh thợ gầy còm bèn hỏi xem người ta kể những gì:
- Chuyện tốt hay là chuyện xấu?
- Cả tốt lẫn xấu, xấu nhiều hơn tốt. Người ta nói đất này thực là cái mỏ vàng; người ta bảo có một người nào đó vừa xuống khỏi tàu thủy là đã giàu có ngay rồi; người ta nói là phố xá đều lát vàng, kiếm vàng cũng dễ như kiếm bụi. Về cái xấu, người ta nói có bệnh sốt, có tụi jagunco, có rắn, trăm thứ bà giằn.
- Thế mà anh vẫn cứ mò tới?
Gã ở Ceará không trả lời; ông già nói:
- Có tiền đâu phải là xấu, nếu như người ta không mong ước gì khác nữa. Nhưng nếu một người nào đó ở đời chỉ biết có tiền thì hắn quả là một thằng tồi. Hắn trở nên mù và điếc khi nói đến tiền. Chính vì vậy nên trong cái vùng này có bao nhiêu là điều khó chịu.
Gã con trai gầy gò gật đầu tán thành. Gã cũng đã bỏ cha mẹ, vợ chưa cưới và em gái, để chạy theo tiền ở cái đất Ilhéus. Năm tháng trôi qua, gã vẫn hái ca cao trong những đồn điền của Maneca Dantas.
- Ở đây có hàng đống tiền, - ông già nói tiếp, - nhưng cái mà người ta không nhìn thấy được...
Cây nến hắt ánh sáng lên khuôn mặt gầy gò của người chết. Người này dường như cũng chăm chú nghe chuyện. Bát rượu rum lại chuyển vòng quanh một lần nữa. Trời bắt đầu mưa và người da đen đóng cửa lại. Ông già nhìn chằm chằm vào thi thể và bộ mặt rậm râu của xác chết.
- Như các bác thấy ông này đó - ông già nói, và giọng ông trở nên mệt mỏi và chán chường - ông ta đã làm việc hơn mười năm ở Baraúnas, chỗ ông đại tá Teodoro. Ông ta chả có gì cả, thậm chí cũng không được gần gũi con cái nữa. Ông ta sống mười năm của cuộc đời mình với những món nợ chỗ ông đại tá. Thế rồi, ông ta bị sốt chết, ông đại tá cũng chẳng buồn thí một đồng xu để giúp các con gái ông ta chôn cất.
Đến đây, anh bạn đường của ông già nói tiếp:
- Hắn ta lại nói rằng hắn không gửi giấy đòi các con gái ông lão những món nợ ông lão đã vay là tốt lắm rồi. Hắn nói rằng một đứa nhà thổ kiếm được nhiều tiền lắm.
Anh con trai gầy gò khạc nhổ một cách ghê tởm. Hai cái tai to của người chết như cũng đang nghe. Gã ở Ceará hơi bối rối vì mọi chuyện. Gã vừa mới tới, một tên cai của Maneca Dantas đã mướn gã ở Ilhéus với một số người khác nữa đến cùng một chuyến tàu thủy. Chiều hôm ấy, họ tới đồn điền, và người ta đã chia họ về các lều. Người da đen vừa uống một bát rượu rum vừa tìm cách mở mắt cho gã mới tới này.
- Ngày mai, cậu sẽ biết.
Ông già khiêng người chết nói tiếp:
- Tôi chưa hề thấy đời ai khổ cực như một thằng phu đồn điền ca cao.
Anh con trai gầy gò bèn nói lên ý nghĩ của mình:
- Bọn capanga còn sướng hơn. Nếu cậu bắn giỏi, - gã vừa nói vừa quay về phía người ở Ceará, - thế là cậu gặp vận ngay. Những kẻ duy nhất có tiền ở đây là những kẻ giết người, những kẻ sát nhân.
Gã vừa ở phương Bắc tới mở to đôi mắt kinh ngạc. Người chết nằm đây gieo vào lòng hắn một nỗi sợ hãi mơ hồ, đó là cái chứng cớ cụ thể về điều mà các bạn gã vừa nói:
- Giỏi giết người? - Gã nhắc lại.
Anh da đen bật cười.
- Một thằng cha bắn không bao giờ trượt, - gã kia giảng giải tiếp, - thằng cha ấy sẽ sống như ông hoàng. Nó đi lượn ở ngoài thành phố với bọn đàn bà, bao giờ nó cũng có nhiều tiền trong túi, bao giờ cũng được lĩnh lương. Còn như kẻ nào làm việc trồng trọt... Thôi, mai cậu sẽ rõ.
Thế là đã có hai người nhắc đến cái ngày hôm sau với gã. Gã quê ở Ceará đi đến chỗ tò mò tự hỏi ngày mai sẽ xảy ra chuyện gì với mình đây. Kể ra người nào cũng có thể bảo cho gã biết được, nhưng vẫn anh chàng lúc nãy nói tiếp:
- Ngày mai, từ tờ mờ sáng, nhân viên cửa hàng sẽ cho tìm cậu đến để cậu sắm sửa đồ ăn thức dùng trong tuần. Cậu không có dụng cụ, thế là cậu sẽ phải mua. Cậu sẽ cần có một con dao phát, một cái rìu, một con dao nhọn, một cái cuốc; và mua chịu tất cả những thứ ấy, cậu sẽ nợ chừng hơn trăm milreís. Thế rồi cậu phải mua bột, mua thịt bò, rượu rum, mua cà phê cho cả tuần. Lại còn phải trả mười milreís mua thức ăn nữa. Đến cuối tuần, cậu sẽ lĩnh mười lăm milreís.
Gã người Ceará tính nhẩm; sáu ngày, mỗi ngày được hai milreís rưỡi, và đồng ý.
- Nhưng thế là trừ tiền ăn đi cậu còn lại được năm milreís, nhưng người ta sẽ không đưa tiền cho cậu đâu; cậu phải để lại để trả nợ dần về khoản mua dụng cụ. Phải trả chừng một năm mới hết chỗ trăm milreís ấy mà chẳng thấy mặt một xu lương nào của mình hết. Ồ, có thể là đến lễ Noel lão đại tá sẽ ứng trước cho cậu mười milreís để cậu đi chơi gái ở Ferradas.
Người ấy bông đùa, nhưng giọng lại nửa như trắng trợn nửa như bi đát và chán chường. Rồi hắn đòi uống rượu rum. Gã người Ceará lặng lẽ nhìn xác chết.
- Một trăm milreís một con dao nhọn, một con dao phát và một cái cuốc à? - Cuối cùng gã nói.
- Ở Ilhéus, - ông già nói, - giá một con dao là mười hai milreís. Ở cửa hàng của đồn điền thì không thể mua được một con dưới hai mươi lăm milreís.
- Cả một năm ròng… - Gã người Ceará nhắc lại. Gã tính nhẩm xem bao nhiêu lâu nữa thì cái tỉnh khô cằn của gã mới lại có mưa. Gã dự tính sẽ trở về khi nào nước mưa sẽ làm cho vùng đất cháy khô kia trở nên phì nhiêu. Gã muốn trở về với một số tiền đủ để tậu một con bò cái và một con bê. “Cả một năm ròng...”. Gã nhìn vào người chết; người chết như đang mỉm cười.
- Lại còn phải nghĩ tới chuyện khác nữa. Trước khi cậu trả xong món nợ cũ, thì nó đã đẻ thêm nợ mới rồi. Cậu sẽ cần đến một cái quần và một cái áo sơ mi. Cậu sẽ cần đến thuốc men, mà trời ơi, thuốc mới đắt làm sao chứ. Cậu sẽ cần đến một khẩu súng lục, và cái ấy chính là tiền để dành tốt nhất ở cái xứ này. Không tài nào rũ hết nợ được đâu. Ở đây..., - và người đang nói vung tay chỉ chung cả bọn, những người làm việc ở bên đồn điền “Bầy khỉ” và hai người mới từ Baraúnas tới cùng với cái xác chết, - ở đây tất cả mọi người đều mắc nợ, và không ai được lĩnh cái gì bao giờ hết.
Giờ đây, trong con mắt của gã người Ceará đã lộ rõ vẻ sợ. Cây nến đã cháy chỉ còn một mẩu ngắn và hắt một làn ánh sáng đỏ kệch lên mặt người chết. Bên ngoài trời mưa.
- Trong thời kỳ nô lệ, tôi còn nhỏ, - ông già vừa nói vừa đứng dậy. - Bố tôi là nô lệ, mẹ tôi cũng vậy. Nhưng lúc đó cũng không đến nỗi tệ như bây giờ. Muốn nói gì thì nói, mọi sự vẫn không thay đổi.
Anh công nhân người Ceará đã bỏ lại vợ và con gái ở Ceará. Khi có tin những trận mưa rào đầu tiên, anh sẽ quay về, túi đầy ních tiền của miền Nam, món tiền có thể cho phép họ bắt đầu một cuộc đời mới. Ngọn nến lúc làm rõ nét thêm nụ cười của người chết, lúc thì làm nhòe đi. Anh chàng gầy gò tán thành lời ông già vừa nói.
- Không có gì là khác hết.
Ông già tắt nến đi và đút vào túi; và cùng với gã trai trẻ, ông từ từ nhấc võng lên. Anh chàng gầy gò ra mở cửa cho họ.
- Thế còn các cô con gái ông ta? - Anh da đen hỏi. - Các cô gái nhà thổ ấy?
- Sao? - Ông già hỏi.
- Họ ở đâu?
- Ở phố Sapo. Căn nhà thứ hai.
Rồi ông già quay về phía gã người Ceará.
- Không có ai đi khỏi đây được đâu. Đến đây ngày nào là bị cột chặt vào cửa hàng của đồn điền ngày ấy. Nếu chú muốn bỏ đi thì nên đi ngay đêm nay, đi ngay lập tức, để đến mai sẽ muộn quá. Nếu chú muốn đi thì hãy cùng đi với chúng tôi, có thể sẽ nhờ chú khiêng giúp một tay. Sau nữa thì sẽ muộn quá đấy.
Gã mới tới vẫn còn do dự. Ông già và chàng thanh niên cứ đứng đợi, cái võng lủng lẳng trên vai.
- Thế đi đâu bây giờ? Rồi ra tôi sẽ làm gì?
Không ai có thể trả lời gã được cả; chưa ai từng nghĩ đến câu hỏi ấy. Kể cả ông già, kể cả người có cái giọng nói nhạo báng và trắng trợn. Kể cả gã con trai nọ. Họ cứ đứng đấy, mắt nhìn ra cửa. Anh chàng da đen làm dấu thánh giá, vì lòng kính trọng người chết, nhưng đồng thời cũng nghĩ tới ba cô con gái, ba cô gái làm điếm ở phố Sapo, căn nhà thứ hai. Lần sau đi Ferradas, hắn sẽ vào đấy. Gã người Ceará đưa mắt nhìn theo hai người kia đã mất hút vào trong đêm tối.
- Tôi cũng đi đây! - Gã bỗng kêu lên.
Gã hấp tấp thu xếp bọc quần áo, nấc lên vĩnh biệt mọi người và ra đi. Gã đi khỏi, anh chàng gầy gò bèn đóng cửa lại.
- Rồi nó sẽ đi đâu? - Không thấy ai đáp, gã bèn tự trả lời:
- Nó sẽ đến một đồn điền khác, ở đấy cũng chẳng khác gì đây.
Gã tắt đèn.

10

Trước đó một lúc, Horácio đứng ở cửa buồng của lão, chúc viên thầy cò Virgílio ngủ ngon. Virgílio ngủ ở căn phòng đằng trước.
- Chúc đại tá ngủ ngon. - Câu trả lời sang sảng thốt ra với một giọng tế nhị.
Trong yên tĩnh của căn phòng, Ester cứ nắm tay vào rồi lại mở ra trên ngực, như muốn nén những tiếng thổn thức của trái tim. Có tiếng ngáy đều đều của Maneca Dantas từ phía phòng khách vọng tới. Ông bạn này đã nhường cho viên thầy cò căn buồng dành riêng cho bạn bè thân, nơi hắn thường vẫn ngủ, còn hắn nằm trên một cái võng ngoài phòng khách. Trong bóng tối, Ester theo dõi cử chỉ của chồng. Nàng có một cảm giác rất rõ rệt: cảm giác về sự có mặt của Virgílio ở buồng bên cạnh. Horácio thay quần áo trong bóng tối, và nàng nghe thấy tiếng đôi ủng của chồng rơi trên mặt sàn. Ngồi ở mép giường, Horácio rất hoan hỉ, lão cảm thấy sung sướng như một đứa trẻ từ lúc Ester bằng lòng đàn theo yêu cầu của lão, trong bữa ăn vừa rồi. Lão ngồi đó, nghe thấy tiếng thở của vợ. Lão cởi sơ mi và cởi quần dài, mặc chiếc áo ngủ phía trước ngực có thêu những bông hoa nhỏ màu đỏ.
Rồi lão đứng dậy, ra đóng cái cửa thông từ buồng vợ chồng lão sang buồng đứa con đang ngủ, có Felícia trông coi. Ester vẫn kiên quyết phản đối việc đóng cửa như vậy và khẩn khoản nói với chồng cứ để mở, vì nàng sợ rắn có thể bò vào cắn chết đứa bé. Nhưng đêm nay, Horácio nhẹ nhàng đóng cửa lại. Cặp mắt mở to trong đêm tối, nàng tiếp tục theo dõi cử chỉ của chồng.
Nàng biết đêm nay lão sẽ làm tình với nàng; bao giờ lão cũng đóng chặt cửa ăn thông giữa hai buồng khi lão muốn làm chủ thân thể nàng. Nhưng đêm nay - và đây chính là cái điều kỳ lạ nhất trong mọi điều kỳ lạ của đêm nay - lần đầu tiên Ester không thấy cái cảm giác ghê tởm ngấm ngầm thường vẫn xâm chiếm nàng mỗi khi Horácio đến ngủ với nàng. Mọi lần khác, nàng thường bất giác thu mình vào trong giường, và toàn thân nàng, bụng, hai cánh tay bỗng sởn gai lên, tim nàng thắt lại. Khi hai thể xác ghì chặt lấy nhau, nàng thường đau khổ chịu đựng điều đó. Nhưng đêm nay, nàng không hề cảm thấy như vậy, có lẽ bởi vì trong khi nàng theo dõi Horácio trong bóng tối, tâm trí nàng dồn cả vào căn buồng phía trước mặt, nơi Virgílio đang ngủ chăng? Nhưng chàng có ngủ không? Ai mà biết được? Có lẽ chàng đang nghĩ đến nàng và mắt chàng xuyên thủng qua cánh cửa, qua hành lang và cánh cửa kia để cố nhìn thấy thân thể nàng trong chiếc áo ngủ bằng vải mịn.
Nghĩ đến đấy, nàng bỗng rùng mình. Sự có mặt của Virgílio ở buồng bên kia cũng đủ làm cho nàng có một cảm giác say sưa.
Nàng mỉm cười và Horácio tưởng rằng nụ cười đó là dành cho lão. Đêm nay, lão cũng sung sướng. Một buổi rạng đông mới đã xuất hiện, một dòng suối bất ngờ, một niềm hạnh phúc lão không dám mong đợi. Lão vừa ôm lấy cái đầu yêu quý vào trong tay thì chợt có tiếng đập cửa. Lão ngừng ve vuốt vợ và lắng tai nghe. Lão nghe thấy Maneca Dantas dậy, và tiếng đập cửa càng gấp. Lão nghe thấy tiếng kéo chốt cửa, cánh cửa mở ra, và có tiếng bạn lão hỏi. Tay lão vẫn ôm lấy đầu Ester, mí mắt nàng từ từ mở. Tiếng chân Maneca đi lại gần, Horácio miễn cưỡng phải rời khỏi thân thể vợ, rời khỏi hơi ấm dễ chịu của nàng. Mắt lão nheo lại một tí, đầy vẻ giận dữ đột ngột vì sự phá bĩnh bất thần của Maneca. Có tiếng hắn ngoài hành lang.
- Horácio, ông bạn Horácio ơi!
- Cái gì thế?
- Hãy ra đây một phút. Việc quan trọng đấy.
Từ phòng bên, tiếng Virgílio vọng sang:
- Các ngài có cần gì đến tôi không?
- Mời ông ra đây, ông tiến sĩ Virgílio, - Maneca đáp.
- Có việc gì xảy ra thế, Horácio? - Ester hỏi, giọng nghẹn lại.
Horácio quay lại phía vợ, vuốt ve mặt nàng và mỉm cười:
- Tôi ra xem rồi tôi quay vào ngay.
- Em cũng ra với.
Khi lão ra khỏi buồng thì nàng ở trên giường cũng ngồi dậy và mặc áo ngủ vào. Nàng vừa nghĩ rằng như vậy là đêm nay còn có thể gặp Virgílio lần nữa. Horácio cầm cây đèn trên tay, cứ mặc nguyên cái áo ngủ to xù dài chấm gót chân, đằng trước ngực có thêu những bông hoa nhỏ ngộ nghĩnh, mà đi ra. Virgílio đã ở ngoài phòng khách với Maneca Dantas khi Horácio bước vào. Horácio nhận ra ngay lập tức người thứ ba có mặt ở đấy - đó là Firmo, người có một khu rừng ca cao ngoài cánh rừng Sequeiro Grande; hắn ngồi trên ghế, trông rõ ràng là đang mệt lử, đôi ủng bê bết bùn, mặt nhọ nhem những bụi.
Nghe thấy tiếng bước chân Ester, Horácio nói:
- Mình mang ra cho chúng tôi chút gì uống đi.
Nàng chỉ vừa đủ thì giờ để nhận ra là Virgílio không mặc áo ngủ như những người khác. Gã mặc một bộ pijama rất sang, và hút thuốc lá với một vẻ tự tin kiêu kỳ. Maneca Dantas thừa lúc Ester vừa đi khỏi vội xỏ quần mặc ra ngoài chiếc áo ngủ, nhưng hắn làm vậy chỉ tổ thêm tức cười hơn vì cái vạt áo sơ mi cứ lòng thòng ở đằng sau. Firmo trình bày sự việc với Horácio:
- Anh em nhà Badaró định thủ tiêu tôi, - hắn nói.
Với vẻ lo âu, lại ăn vận lôi thôi như thế, trông Maneca thật lố lăng, nhưng câu hỏi của hắn chứng tỏ hắn hiểu biết rất sâu sắc về bọn capanga của gia đình Badaró.
- Thế làm thế nào mà anh còn sống sót được?
Horácio cũng đợi hắn trả lời câu hỏi ấy, và Virgílio ngắm lão: viên đại tá, trán nhăn lại, trông to xù trong chiếc áo ngủ kệch cỡm.
- Thằng da đen hoảng lên và đã bắn trượt, - Firmo nói.
- Nhưng anh có chắc rằng đó là người của Badaró không?
- Chính thằng da đen Damião.
- Mà nó bắn trượt anh à? - Giọng Maneca lộ rõ vẻ không tin.
- Nó đã bắn trượt tôi. Chắc là nó đã uống rượu. Nó chui ra và chạy như một thằng điên trên đường cái. Trăng sáng đến nỗi tôi nhìn rõ thấy bộ mặt đen thui của nó.
- Này, như vậy thì anh có thể cho thắp nến ở nhà thờ được rồi đấy, - Maneca chậm rãi nói. - Thoát được viên đạn của thằng mọi Damião là một chuyện kỳ lạ, một chuyện kỳ lạ vĩ đại nữa kia, tôi có thể nói với anh như vậy.
Họ im lặng; Ester bưng rượu và cốc vào. Nàng rót rượu; Firmo nốc cạn một hơi rồi xin thêm cốc nữa và hắn cũng uống nhanh như cốc trước. Virgílio ngắm nhìn gáy Ester, ở chỗ lõm vào thành một ngấn trắng nhỏ dưới mái tóc đã xổ ra, trong khi nàng cúi xuống rót rượu cho Maneca. Gã nhìn Horácio đang đứng sắp cầm lấy cốc rượu trong tay vợ. Gã thấy buồn cười vì trông viên đại tá có vẻ lố bịch tệ; trong chiếc áo ngủ thêu, với bộ mặt rỗ hoa, nom lão như một thằng hề ở rạp xiếc vậy. Khi ngồi ở bàn ăn, lão đã tỏ ra là thằng bé con nhút nhát không thể hiểu nổi phần lớn câu chuyện của Virgílio và Ester. Đặc biệt trông lão rất buồn cười, và gã thầy cò trẻ tuổi thấy mình đã làm chủ người thiếu phụ nọ mà sự tình cờ đã run rủi lạc bước đến một nơi không hợp với nàng chút nào. Bất chấp cái cốt cách đồ sộ của lão chủ đồn điền này, gã vẫn có cảm giác là lão yếu, gã xem lão như một nhân vật không quan trọng, không đủ sức ngăn trở những dự kiến đã hình thành trong đầu gã. Tiếng nói của Firmo kéo viên thầy cò trở về với thực tại, với quang cảnh đang diễn ra.
- Chính vì vậy mà các ông nhìn thấy tôi uống rượu như thế này. Đáng lẽ tôi đã nằm gục trên đường cái kia rồi.
Ester rùng mình, chai rượu run run trong tay. Cả Virgílio bỗng cũng thấy mình tham dự vào cảnh này. Trước mặt gã là một người vừa thoát chết. Đây là lần đầu tiên gã tiếp xúc thẳng với một trong những biến cố mà các bạn gã ở Bahia đã nói tới khi gã chuẩn bị đi Ilhéus. Ngay cả lúc này đây gã cũng chưa nắm được hết ý nghĩa những câu họ nói. Gã cho rằng cái trán nhăn của Horácio và vẻ mặt lo âu của Maneca Dantas chỉ là phản ánh nỗi xúc động của họ khi nhìn thấy một người vừa thoát khỏi một vụ ám sát. Trong khoảng thời gian tương đối ngắn ngủi sống trên cái đất ca cao này, gã đã nghe nói nhiều đến những chuyện như vậy, nhưng gã chưa được thấy một việc cụ thể. Vụ đánh nhau ở Tabocas giữa người của Horácio và người của dinh cơ Badaró đã xảy ra khi gã đang đi nghỉ ở Bahia. Lúc gã trở về, người ta vẫn còn nói tới nhưng gã còn hồ nghi một vài điểm. Gã đã nghe nói tới cánh rừng Sequeiro Grande; gã đã nghe nói cả Horácio lẫn Badaró đều thèm muốn cánh rừng này, nhưng gã không hề đặc biệt quan tâm tới. Lại thêm, lão Horácio mà gã đang ngắm nhìn lúc này, trong bộ đồ đêm kỳ quặc kia, chỉ là một thằng hề, một nhân vật của hài kịch dùng để xác nhận cái cảm giác của gã trong bữa ăn vừa rồi và sau đó ở phòng khách. Nếu không có những cử chỉ của Firmo thì có lẽ Virgílio hoàn toàn không nhận ra tính chất bi kịch của tình thế này. Cho nên gã rất ngạc nhiên khi thấy Horácio quay lại nói với Maneca Dantas:
- Không còn cách nào khác. Chúng đã tìm ta thì chúng sẽ tìm thấy ta.
Giọng nói rắn rỏi và cương nghị ấy quả là bất ngờ với Virgílio. Nó không phù hợp với ấn tượng lúc trước của gã về viên đại tá. Đáp lại cái nhìn dò hỏi của gã, Horácio giải thích:
- Chúng tôi sẽ rất cần đến ông tiến sĩ đấy. Khi tôi đề nghị với Seabra cử đến cho tôi một thầy cãi tốt, tôi đã thấy trước sự việc sẽ xảy ra. Ở đây chúng tôi chịu nước lép về mặt chính trị, không thể tin vào bọn quan tòa được; cho nên cần phải có một người hiểu biết luật. Tôi không tín nhiệm trạng sư Rui nữa; hắn là một thằng say rượu đã gây sự với tất cả mọi người, kể cả ông chánh án và bọn quản lý văn khế. Hắn nói giỏi nhưng chỉ biết diễn thuyết thôi, ở đây chúng tôi cần đến một vị thầy cãi có một đầu óc vững vàng.
Thái độ thẳng thắn của Horácio khi nói tới các thầy cãi, đến nghề nghiệp của họ và các tòa án, những lời mạnh mẽ lão dùng, nhuốm chút khinh bỉ, gây cho Virgílio một nỗi ngạc nhiên mới. Hình ảnh gã vừa gán cho viên đại tá, một thằng hề ngộ nghĩnh và trí đoản, đâm ra sai toét. Gã hỏi:
- Nhưng mà có việc gì vậy?
Những con người này hợp thành một nhóm kỳ quái, tất cả tụ tập quanh Firmo vẫn còn thở dốc vì cuộc chạy trốn vất vả, áo quần ướt đẫm nước mưa; Horácio to xù trong chiếc áo ngủ; Virgílio đang hút thuốc một cách bồn chồn và Maneca Dantas mặt tai tái, không biết rằng áo sơ mi của hắn lòng thòng ra ngoài quần. Ester ngồi kia chỉ để mắt tới Virgílio. Mặt nàng cũng tái, nàng biết rằng cuộc đấu tranh để chiếm đoạt cánh rừng Sequeiro Grande sắp sửa bắt đầu. Nhưng điều bao trùm lên tất cả trong lòng nàng là sự có mặt của Virgílio, là nhịp đập mới mẻ của trái tim nàng, một niềm vui bên trong từ trước đến nay nàng chưa hề biết tới.
- Ta hãy ngồi xuống đã, - Horácio nói khi Virgílio hỏi lão.
Trong giọng lão, có cái vẻ hách dịch cũng mới mẻ nốt, dường như mỗi mệnh lệnh của lão không cho phép được bàn cãi gì hết. Virgílio liền nhớ tới cái lão Horácio mà người ta vẫn nói tới ở Tabocas và ở Ilhéus, tới vô số các vụ giết người của lão, nhớ tới các bà cụ già kể chuyện con quỷ nhốt trong cái vỏ chai. Giờ đây, gã phân vân giữa hai hình ảnh: một bên là hình ảnh một người có sức mạnh và có thế lực, ông chúa và ông chủ; một bên là hình ảnh một thằng hề dốt nát và tự phụ, có thể chỉ là một con người rất yếu đuối.
Horácio ngồi xuống và bắt đầu nói; hình ảnh thằng hề biến mất.
- Câu chuyện như thế này, - lão bắt đầu - cánh rừng Sequeiro Grande này là khu đất rất tốt để trồng ca cao, đất tốt nhất xứ này. Chưa có ai lọt vào để cắm đồn điền cả. Người duy nhất sống ở đó là một thằng điên làm nghề chữa bệnh. Phía bên này cánh rừng là dinh cơ của tôi, tôi đã lấn được một mảnh ở quãng rừng đó rồi. Phía bên kia là đồn điền của Badaró; chúng cũng đã làm như tôi vậy. Nhưng mỗi bên chỉ mới ngoạm được tí tẹo thôi. Cánh rừng ấy có một tầm quan trọng căn bản đối với chúng tôi, ông tiến sĩ ạ. Kẻ nào chiếm được nó, kẻ ấy sẽ là người giàu nhất Ilhéus. Đồng thời cũng sẽ làm chủ Tabocas, Ferradas, các tàu hỏa và tàu thủy.
Mọi người như uống từng lời lão nói; Maneca Dantas gật đầu tán thành. Virgílio đã bắt đầu hiểu ra. Firmo đã hoàn hồn.
- Phía bên này rừng, giữa dinh cơ của tôi và dinh cơ của Badaró là Maneca và đồn điền của ông ta. Phía trên nữa là đồn điền của Teodoro das Baraúnas. Nhưng chỉ có hai cái dinh cơ đó là to thôi. Những đồn điền khác đều là những trại nhỏ, như trại của Firmo, tất cả có chừng hai mươi trại như thế. Và tất cả đều gặm nhấm cánh rừng, nhưng chưa có ai can đảm thâm nhập vào trong cả. Đã từ lâu, tôi dự định cho đốn cánh rừng Sequeiro Grande. Anh em nhà Badaró biết rất rõ điều ấy. Bọn chúng nhúng vào bởi vì chúng cũng có ý định...
Lão nhìn thẳng phía trước mặt. Những câu nói cuối cùng như báo trước một tai biến không gì cứu vãn nổi.
- Chúng chiếm ưu thế về chính trị. - Maneca Dantas giải thích - Chính vì thế mà chúng dám làm.
Virgílio muốn làm rõ một điều:
- Thế thì cái đó có liên quan gì đến Firmo?
- Trại của anh ấy, - Horácio nói - nằm giữa cánh rừng và dinh cơ nhà Badaró. Cách đây ít lâu chúng đã hỏi mua trại của anh ấy, chúng lại còn xin trả cao hơn giá trị thật sự của trại ấy nữa kia. Nhưng Firmo là bạn tôi; anh ấy đã ở lâu năm trong đảng chính trị của tôi; cho nên anh ấy có đến hỏi ý kiến tôi; tôi khuyên anh ấy không nên bán. Tôi biết bọn nhà Badaró rất muốn đặt chân vào rừng, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng chúng lại tìm cách hạ sát Firmo. Tôi thấy đó là bằng chứng cho một quyết định dứt khoát. Hừ! Chúng đã muốn thế thì chúng sẽ được thế!
Giọng lão đầy vẻ đe dọa; những người khác đưa mắt nhìn xuống. Horácio bật cười, cái cười từ bên trong đặc biệt của lão. Giờ đây Virgílio nhìn thấy lão là một người khổng lồ, quyền lực không thể tưởng tượng được. Trước giọng nói oai nghiêm ấy, vẻ ngộ nghĩnh của những bông hoa nhỏ thêu trên ngực kia cũng biến mất. Lão đại tá ra hiệu một cái; Ester lại rót một lượt rượu rum nữa.
- Ông tiến sĩ này, ông có tin rằng Seabra sẽ thắng trong kỳ bầu cử này không?
- Tôi tin chắc như thế.
- Thế thì hay lắm, tôi tin ông. - Lão nói như thể đã có một quyết định cuối cùng, và điều đó càng hiển nhiên khi lão đứng dậy và bước lại gần Firmo.
- Anh thấy thế nào? - Lão hỏi - Còn anh nữa, anh bạn của tôi, - lão quay về phía Maneca Dantas. - Cả hai anh có cho rằng không một điền chủ nào ở ven rừng là không đứng về phía tôi không?
Firmo nói trước:
- Tất cả sẽ theo ông.
Maneca cảm thấy là hắn cần sửa lại lời khẳng định đó.
- Tôi không thể nói chắc được về trường hợp Teodoro das Baraúnas. Người ta thấy hắn lởn vởn quanh anh em nhà Badaró luôn.
Horácio không cần suy nghĩ lâu để đi tới một quyết định.
- Firmo này, anh cần đi ngay lập tức. Tôi sẽ cho hai người của tôi bảo vệ anh. Anh sẽ nói chuyện với Braz, với José da Ribeira, với mụ góa Miranda, với Coló, anh sẽ nói với tất cả mọi nhà. Mà đừng có quên anh bạn Jarde của chúng ta; hắn ta cứng lắm đấy. Bảo với họ ngày mai tất cả đến đây ăn cơm trưa. Ông thầy cãi có ở đây và chúng ta sẽ viết tất cả mọi chuyện ấy ra giấy trắng mực đen. Tôi sẽ chiếm khu rừng đến tận bờ sông; còn lại bao nhiêu, về phía bên kia, các anh sẽ chia nhau, về khoản đất chúng ta sẽ chiếm cũng như thế. Đồng ý chứ?
Firmo đồng ý; hắn đã đứng dậy chuẩn bị ra đi. Virgílio cảm thấy choáng váng. Gã nhìn Ester; trông nàng nhợt nhạt đến cực độ, nói là tái thôi cũng không đúng. Nàng không nói một câu nào cả. Horácio bây giờ đang nói và ra lệnh cho Maneca Dantas, lão tỏ rõ ra là ông chúa và ông chủ.
- Còn anh, anh đi nói chuyện với Teodoro, anh bạn ạ. Anh hãy giảng giải cho hắn hiểu câu chuyện. Nếu ngày mai muốn lại đây thì bảo hắn cứ đến. Tôi sẽ thu xếp với hắn; không muốn thì hắn hãy chuẩn bị đi; bởi vì sắp sửa có mưa đạn chỉ trong vòng năm mươi dặm quanh đây đấy.
Lão đi ra bãi cỏ. Virgílio nhìn theo, mắt mở to vì kinh ngạc. Rồi rụt rè quay về phía Ester, gã cảm thấy nàng như xa vời, gần như không sao với tới nổi. Bên ngoài, Horácio đang hét to ra lệnh về phía các túp nhà của phu phen:
- Algemiro đâu! José Dedinho đâu! João Vermelho đâu!
Đáp lại tiếng lão gọi, bọn người tất tả chạy đến chỗ hiên. Người ta thắng yên ngựa, trao võ khí cho mọi người trước cửa nhà. Tất cả cùng ra đi: Maneca, Firmo và ba tên capanga; tiếng vó ngựa vang trong ánh sáng đầu tiên của ngày hôm ấy. Virgílio và Ester quay vào trong nhà, nàng lại gần bên gã, mặt nhợt nhạt. Nàng nói thật nhanh như thể mỗi lời đều rứt tự trái tim ra vậy:
- Hãy đưa em đi khỏi chỗ này, đi xa, thật xa.
Virgílio chưa kịp trả lời, họ đã nghe thấy tiếng Horácio trở lại. Lão đại tá bước vào:
- Cánh rừng này sẽ thuộc về tôi, - lão nói với vợ và gã thầy cò, - cho dù có vì vậy mà đất này phải ngập máu. Ông nên chuẩn bị đi, luật sư ạ; cuộc xung sát sắp bắt đầu đấy.
Rồi lão chợt nhìn thấy vẻ sợ hãi của Ester.
- Mình sẽ đi Ilhéus, như thế tốt hơn.
Nhưng những việc trước mắt khiến lão phải lưu ý.
- Ông tiến sĩ ạ, ông sẽ được thấy người ta trừ khử một bầy vô lại như thế nào. Cái bọn Badaró ấy đúng là như vậy đấy, những quân vô lại.
Lão nắm lấy cánh tay Virgílio và dẫn gã ra hiên. Trong buổi rạng đông, mặt đất dần dần thấm đượm một ánh sáng buồn tẻ và mờ mờ.
- Chỗ kia kìa, ông tiến sĩ ạ, - Horácio vừa nói vừa chỉ về phía chân trời mờ mịt ở đằng xa - là cánh rừng Sequeiro Grande. Một ngày kia, nó sẽ toàn là những đồn điền ca cao. Tôi tin chắc vào những điều tôi nói với ông, cũng như tôi chắc chắn rằng tên tôi là Horácio da Silveira vậy.

11

Khi tiếng chó hú lên ngoài bãi cỏ, Don’Ana Badaró đang ngồi trên võng bỗng rùng mình. Không phải vì sợ; trong cái thành phố lớn này và các thành phố lân cận, người ta vẫn thường nói rằng gia đình nhà Badaró không biết sợ là cái gì hết. Nhưng cô ta đang lo lắng; bởi vì cô đinh ninh rằng chiều hôm nay, người ta đã giấu cô một điều gì, rằng giữa bố và chú cô có một điều bí mật giữ kín không cho đám phụ nữ trong nhà biết. Thằng Damião và Viriato vắng nhà, cô đã hỏi Juca lý do vì sao; chú cô trả lời: “Bọn chúng đi có việc”. Nghe giọng nói của chú, cô biết là chú cô đã nói dối, nhưng cô không nói gì cả. Cô đoán là tình hình có điều gì nghiêm trọng khiến cô bối rối. Chó cứ sủa, sủa mãi dưới ánh trăng với cái khắc khoải của con đực một đêm động dục.
Don’Ana nhìn bố. Mắt lim dim, lão chờ cô bắt đầu đọc Kinh Thánh. Sinhô Badaró rất bình tĩnh; người ta thấy một vẻ thanh thản sâu sắc trong đôi mắt lão, bộ râu của lão, ở hai bàn tay to lớn đặt lên đùi; cả người lão toát ra vẻ yên tĩnh và tin cậy. Nếu Juca không có vẻ quá bồn chồn trên ghế thế kia, thì có lẽ tiếng chó sủa đã không gây cho Don’Ana cái ấn tượng nọ.
Họ ngồi ở phòng khách, vào giờ đọc Kinh Thánh, cái lệ đã có từ lâu, từ thời Dona Lídia, mẹ của Don’Ana, còn sống. Dona Lídia rất ngoan đạo; bà ta thường thích tìm trong thánh kinh một lời răn có thể ứng dụng vào công việc của chồng bà. Sau khi bà ta chết, Sinhô vẫn trân trọng giữ cái lệ ấy. Dù lão đang ở đâu, ở đồn điền, ở Ilhéus hay đang có công việc ở Bahia, tối nào cũng có người đọc cho lão nghe những đoạn rải rác trong Kinh Thánh, để lão tìm ra trong đấy một ý kiến, một lời tiên tri nào đó có thể soi tỏ công việc kinh doanh của lão. Sau khi Lídia chết, Sinhô càng ngày càng mộ đạo hơn; giờ thì lão theo một thứ đạo Thiên Chúa pha trộn với một cái thuyết duy linh nào đó và rất nhiều mê tín; hơn tất cả mọi tập quán khác, cái thói quen đọc Kinh Thánh đã ăn sâu vào lão. Ở Ilhéus, người ta đã bày đặt ra nhiều chuyện về vấn đề này, và trong các quán cà phê thường truyền tụng một chuyện nói rằng, có một tối ở Bahia, Sinhô vào nhà thổ, trước khi chơi gái còn móc trong túi ra một quyển Kinh Thánh cũ hằn lên nhiều vệt ngón tay và bảo cô gái nọ đọc nghe vài đoạn. Cũng vì mẩu chuyện nhảm này mà Juca Badaró đã đánh lộn ở nhà Zeca Tripa và choảng một quả đấm vào giữa mặt Carlos da Silva, một người bào chế thuốc đã kể lại mẩu chuyện kia, giữa những tiếng cười vang.
Don’Ana trở thành người đọc kinh từ sau khi Lídia chết, ở trong đồn điền hoặc ở Ilhéus, cô đã phải giở những trang sách bẩn và thường là rách nát của cái cuốn thánh thư cũ kỹ này mà Sinhô Badaró không chịu đổi lấy cuốn khác vì lão tin rằng cuốn này có phép thần thông chỉ dẫn cho lão. Ngay cả khi thầy tu Freitas, một đêm ngủ lại ở đồn điền, đã lưu ý lão rằng đó là cuốn Kinh Thánh của đạo Tin Lành, và một người theo đạo Thiên Chúa không nên đọc cuốn sách đã bị giáo hội lên án, lão vẫn không hề thay đổi ý kiến. Sinhô Badaró không hiểu thế nào là giáo hội lên án nhưng lão không đòi hỏi giải thích. Lão chỉ trả lời đơn giản rằng điều ấy không quan trọng lắm, rằng lão vẫn cảm thấy rất bằng lòng được có cuốn sách ấy, bởi lẽ, “một cuốn Kinh Thánh không phải như một cuốn lịch, mỗi năm lại phải thay đổi”. Đuối lý, thầy tu Freitas thấy rằng cứ im đi là hơn; “dù sao đi nữa, - ông ta nói để kết luận, - một ông đại tá đêm nào cũng đọc Kinh Thánh - dù là Kinh Thánh nào đi nữa - cũng vẫn tốt”.
Có một điểm khác nữa, Sinhô cũng không chịu nhượng bộ. Lão không cho phép Don’Ana chủ động đọc, điều mà cô ta đã thử làm từ khi cô thay chân Lídia cai quản việc nhà. Cô ta đã gợi ý nên đọc từ trang đầu và đọc cho đến hết, nhưng Sinhô phản đối; lão cảm thấy phải mở cuốn Kinh Thánh một cách hú họa, vì đối với lão đó là sách thần, và cái đoạn tình cờ giở ra đó chính là đoạn có chứa đựng một lời răn dạy. Khi nào lão nghe không được vừa ý, lão lại bảo con gái mở một trang khác, lại một trang khác, rồi lại một trang khác nữa, cho đến tận khi nào lão tìm thấy cái đoạn dính dáng đến công việc của lão lúc bấy giờ.
Lão nghe rất chăm chú từng chữ một (lão không hiểu khá nhiều chữ), cố khám phá ra một ý nghĩa, luận nó ra theo lối của lão, dưới ánh sáng của nhu cầu và ước muốn của lão. Đã nhiều lần, lão giải quyết một việc này hoặc là không giải quyết một việc nọ là theo những châm ngôn của Moisés hoặc của Abraão, và lão tuyên bố rằng những vị thánh ấy bao giờ cũng đứng về phía lão. Thật không may cho kẻ nào, bạn bè hoặc khách khứa, đến chơi vào giờ đọc Kinh Thánh, lại có ý bàn cãi về vấn đề này hoặc đưa ra một lời phản đối. Sinhô Badaró lập tức mất bình tĩnh và nổi trận lôi đình. Ngay cả Juca cũng không dám hé răng phản đối cái thói quen ấy đã làm phiền hắn một cách ghê gớm. Hắn phải gượng gạo chú ý nghe, và thấy thích thú những đoạn bàn về nhục dục. Hắn là người duy nhất hiểu được một số chữ mà cả Sinhô lẫn Don’Ana đều không nắm được nghĩa thực.
Cô con gái nhìn ông bố ngồi hết sức tươi tỉnh trong chiếc ghế có chỗ tựa to bản. Qua cặp mi mắt lim dim, lão như đang nghiên cứu bức tranh treo trên tường. Bức tranh lão tìm được ở Bahia khi nhớ ra rằng phòng khách cần treo một cái gì cho vui mắt. Cô cũng nhìn lên bức tranh màu, và cảm thấy tất cả vẻ thanh bình từ bức tranh toát ra. Trong lúc đó, Juca mỗi lúc một bồn chồn hơn, hắn đã mất hết hứng thú đọc báo, một tờ báo xuất bản ở Bahia cũ đã hai tuần nay. Con chó lại hú lên.
- Lần sau đi Ilhéus, tôi sẽ đem về một con chó cái, - hắn nói. - Con Peri thấy cần có cái rồi đấy.
Những lời này nghe lạc lõng đối với Don’Ana, như tuồng Juca chỉ muốn đem tiếng nói của chính mình để che giấu nỗi bứt rứt. Họ không đánh lừa được cô, có một việc gì đó xảy ra, một việc gì nghiêm trọng. Damião và Viriato đâu? Trước đây đã có nhiều lần Don’Ana cảm thấy cái không khí mập mờ ở nhà, cái lối giấu giếm vặt này. Đôi khi, mãi nhiều ngày về sau, cô ta mới được biết là có người đã bị giết và cái dinh cơ nhà Badaró lại mở rộng thêm ra. Cô cảm thấy phật ý vì nỗi người ta đã giấu cô như giấu một đứa trẻ con.
Cô rời mắt khỏi ông chú mà ý kiến hắn vừa nói lên đã không được ai đáp lại và cô ta đâm ra ghen với cái vẻ bình tĩnh của Olga, vợ Juca, đang ngồi đan bên cạnh chồng. Rất ít khi Olga sống ở đồn điền, và mỗi khi bị Juca thúc, phải đáp tàu từ Ilhéus đến đây ở một tháng với Don’Ana thì mụ vừa đến nơi đã khóc và than vãn cho số kiếp của mình. Đời mụ chỉ hoàn toàn là những chuyện gẫu về Ilhéus; mụ thích đóng vai con người cau có, đau khổ, với những mụ sùng đạo ở thành phố và các bà bạn của mụ, bằng cách rên rẩm ngày đêm về những cuộc ái tình vụng trộm của chồng. Thoạt tiên, mụ rất lấy làm sầu não về chuyện chồng mụ luôn luôn không chung tình và sai mấy tên du côn đi dọa nạt những người đàn bà đã dan díu với Juca.
Có một lần, mụ sai bọn lưu manh đánh một cô gái lai đen được Juca bao; nhưng chồng mụ phản ứng dữ dội (những người láng giềng nói rằng hắn đã đánh mụ) đến nỗi sau đó mụ chỉ đành kể lể nỗi khổ cực của mình và đem ra than vãn với bất kỳ ai mụ gặp, vừa làm ra bộ mình là một nạn nhân cam tâm với số phận và chỉ có niềm an ủi duy nhất là các hội hè lễ lạt của nhà thờ. Đời mụ là như thế, không có gì làm mụ vui thú hơn là rền rĩ về số kiếp của mình và nghe những lời thì thào, những tiếng than vãn của các mụ sùng đạo. Nếu như Juca bỗng dưng biến thành người chồng kiểu mẫu, thì rất có thể mụ lại sẽ đột nhiên cảm thấy thất vọng.
Olga ghét cái đồn điền này, nơi mà Sinhô chẳng thèm để tai nghe những lời kêu ca của mụ, và Don’Ana bận rộn suốt cả ngày, không còn thì giờ để thương hại mụ. Vả lại cô này lại theo quan điểm của gia đình Badaró và cho việc Juca dan díu với người này người khác chẳng có gì là xấu, miễn là hắn cung cấp cho vợ mọi thứ cần thiết.
Bố cô trước cũng như vậy, tất cả đàn ông đều vậy cả; đó là ý kiến của Don’Ana. Hơn nữa, Olga chẳng hề quan tâm đến các vấn đề của gia đình, mụ ta ghét nông thôn nên mụ hoàn toàn không biết gì về chuyện trồng trọt ca cao. Nói tóm lại, mụ làm cho cô cháu có cảm tưởng mụ là một người xa lạ hoàn toàn, một người vừa cách biệt vừa nguy hiểm, hít thở một thứ không khí hoàn toàn khác với thứ không khí của Sinhô hay Juca hay của chính cô nữa.
Tuy nhiên, lúc này đây, cô ta nhìn Olga với một chút ghen tức vì nỗi vợ Juca vẫn bình tĩnh thản nhiên trước cái bí mật đang đè trĩu xuống cả gian phòng. Don’Ana cảm thấy đang xảy ra một điều gì nghiêm trọng, cô vừa thấy phiền muộn vừa bực bội rằng đáng lẽ phải trao cho cô cái địa vị chính đáng của cô trong hội đồng gia đình nhà Badaró thì người ta lại giấu cô một điều bí mật. Cô nán cái phút đọc Kinh Thánh lại và đưa mắt nhìn hết khuôn mặt này đến khuôn mặt khác.
Lúc đó, Raimunda đã xong việc bếp núc, đi vào. Ngồi bệt xuống đất đằng sau cái võng, cô gái đưa những ngón tay nứt nẻ lên bím tóc cô chủ để bắt những con chấy tưởng tượng, nhưng cả cái trò chơi vuốt ve đó cũng không xoa dịu nổi nỗi bồn chồn của Don’Ana. Sinhô và Juca đã giấu cô điều bí mật gì? Viriato và Damião da đen đi đâu? Tại sao Juca lại bứt rứt thế kia? Tại sao cứ chốc chốc chú ấy lại nhìn đồng hồ? Tiếng chó hú như xé tan đêm tối đầy lo âu.
Sinhô từ từ mở mắt ra và nhìn Don’Ana.
- Tại sao chưa bắt đầu đi, con gái của cha?
Cô mở quyển Kinh Thánh; Olga nhìn cảnh này chẳng tỏ vẻ thích thú chút nào trong khi Juca trải rộng tờ báo lên đầu gối. Don’Ana bắt đầu:
“Và tất cả mọi người đi ra, họ và quân đội của họ, rất đông người, nhiều thiên ức vạn tải như cát ngoài bờ biển, cùng với ngựa xe nhiều vô kể...”
Đây là chuyện Josué cùng những cuộc chiến đấu của người, và Don’Ana tự hỏi tại sao Sinhô không bảo cô giở trang khác. Trái lại, cha cô lắng nghe rất chăm chú; cho nên trong khi đọc, cô gắng khám phá ý nghĩa của từng đoạn một, cố tìm xem nó có quan hệ gì với cái điều bí mật đã làm cô lo lắng. Sinhô quay đầu lại nhìn con gái; bộ râu của lão xõa đến tận đầu gối khi lão cúi xuống để nghe cho rõ từng chữ một. Cô chậm rãi đọc tiếp bởi vì chính cô cũng đang tìm cách giải quyết bao điều ngờ vực.
Sinhô bảo con đọc lại một đoạn:
“Và Josué chiếm cả vùng ấy, những dãy đồi và cả xứ sở miền Nam, tất cả đất đai vùng Gosen, và cả thung lũng, và cả miền đồng bằng, và cả núi Israel, và cả cái thung lũng cùng tên...”
Don’Ana im tiếng, bố cô ra hiệu bảo cô ngừng lại, lão miên man suy nghĩ và tự hỏi không biết Chúa có phù hộ gia đình lão và những dự kiến của lão hay không. Lòng lão tràn ngập một niềm yên tâm lớn, một cảm giác tin tưởng tuyệt đối.
- Kinh Thánh không bao giờ nói dối, - lão nói. - Ta chưa bao giờ lầm lẫn khi làm theo lời khuyên của Kinh Thánh. Chúng ta sẽ được cánh rừng Sequeiro Grande, vì đó là ý Chúa. Đến hôm nay ta còn ngờ vực, nhưng bây giờ thì ta không còn hồ nghi gì nữa hết.
Thế là Don’Ana bỗng hiểu ra và cô rất lấy làm sung sướng; cô được biết rằng cánh rừng Sequeiro Grande sắp thuộc về gia đình Badaró; rằng trên mảnh đất ấy, những cây ca cao non sẽ mọc lên, và, theo như lời hứa của Sinhô, cô sẽ được cái đặc quyền đặt tên cho khu đồn điền mới. Nỗi vui sướng làm mặt cô rạng rỡ hẳn lên.
Sinhô Badaró oai vệ đứng dậy. Trông lão có dáng dấp một nhà tiên tri thời xưa với mớ tóc dài đã bắt đầu nhuốm bạc và bộ râu đen lòa xòa xuống ngực. Juca nhìn ông anh cả.
- Tôi vẫn nói với anh, anh Sinhô ạ, rằng phải tiến vào cánh rừng ấy, - hắn nhận xét. - Và một khi ta đã lọt vào đấy rồi, thì không ai còn có thể cạnh tranh được với nhà Badaró nữa.
Chú cô nói đến đâu, nụ cười của Don’Ana càng tươi lên đến đấy.
- Thế ra, mọi sự lại bắt đầu! - Olga nói, giọng sợ hãi. - Nếu sự thể như vậy thì tôi về Ilhéus đây. Tôi không muốn dính vào cái lối sống này, vào tất cả những chuyện giết chóc ấy.
Lúc đó, Don’Ana thấy căm ghét mụ. Cô ta nhìn bà vợ ông chú, mắt đầy vẻ khinh bỉ và bất bình. Mụ đàn bà này thuộc về một thế giới khác, vô tích sự và trì độn, Don’Ana nghĩ bụng. Đồng hồ điểm giờ.
- Đi ngủ đi con, Don’Ana, - Sinhô nói với con gái, - đến giờ rồi đấy. Và cả cô nữa, cô Olga ạ. Tôi muốn nói chuyện riêng với Juca.
Khuôn mặt Ana mất hết mọi vẻ vui mừng. Olga và Raimunda đã đứng dậy rồi, nhưng cô vẫn còn tìm lời thuyết phục cha cho mình ngồi lại. Cùng lúc ấy, tiếng chó sủa báo hiệu bên ngoài có người tới. Ai nấy dừng cả lại. Vài giây đồng hồ sau, Viriato xuất hiện, theo sau là con chó; vì đã nhận ra gã nên con chó thôi không sủa nữa.
- Thế nào, sự thể ra sao? - Juca tiến ra hỏi.
Gã lai đen cúi gằm mặt xuống và đáp nhanh:
- Nó đến bằng con đường tắt. Nó không đi về phía tôi. Nếu nó đi về phía tôi thì tôi đã không bắn trượt nó.
- Nhưng rút cục thì có chuyện gì vậy? - Sinhô nói. - Đã xảy ra chuyện gì với Damião? Thế nào, nói đi.
- Nó đã bắn trượt.
- Không thể có chuyện ấy được.
- Bắn trượt! - Juca sửng sốt nhắc lại.
- Vâng, thưa ông, chính tôi cũng nghĩ như vậy. Tôi không hiểu nó đã bị làm sao. Ngay từ lúc chúng tôi ở nhà ra đi, nó đã khác lắm. Tôi không biết nó bị cái gì. Không phải tại rượu rum đâu, bởi vì tôi biết rằng…
- Mày biết đích xác ra sao?
Gã lai đen vẫn cắm mặt nhìn xuống sàn nhà.
- Thậm chí, Firmo cũng không hề bị thương nữa. Cả vùng xung quanh giờ đây đều biết chuyện. Người ta nói rằng Damião phát điên rồi. Không ai biết nó chạy đi đâu mất.
- Thế còn Firmo? - Juca hỏi. - Mày có biết nó ra sao không?
- Tôi gặp hai người khiêng một xác chết. Họ nói có gặp Firmo đi về phía nhà đại tá Horácio. Nó phi nước đại và chỉ dừng lại một tí, vừa đủ để nói với họ rằng các ông đã sai một người đi giết nó và Damião da đen bắn trượt nó. Hai người chỉ hỏi được có thế thôi vì nó vội đi ghê lắm. Tình cờ tôi gặp họ. Có một đám người rất đông quây lấy họ bàn tán về chuyện ấy.
Mấy người đàn bà đứng im không động đậy. Don’Ana nắm chặt quyển Kinh Thánh trong tay, theo dõi câu chuyện, cặp mắt long lanh. Giờ đây, cô đã hiểu hết và có thể nắm được tất cả tầm quan trọng của việc vừa xảy ra. Cô cảm thấy tương lai của cơ nghiệp nhà Badaró đang bị đe dọa. Sinhô đi đi lại lại từng bước dài trong gian phòng.
- Rút cục, cái gì đã xảy đến với cái thằng mọi ấy mới được chứ?
Viriato định giảng giải:
- Chắc nó sợ cái gì.
- Tao không hỏi mày.
Gã lai đen lùi lại, và Juca xoa tay vào nhau để giấu nỗi bực tức.
- Đã thế thì phải làm đi thôi, - hắn nói. - Và tốt hơn cả là bắt đầu từ thằng Horácio. Bởi vì chiến tranh nổ ra rồi.
Thái độ của hắn làm cho Olga khiếp sợ. Mụ định cử động rồi ngừng lại. Sinhô lại ngồi xuống. Im lặng một lát, lão nghĩ tới những đoạn trong Kinh Thánh con gái lão vừa đọc. Những đoạn khá là sáng sủa. Nhưng...
- Đọc nữa đi, Don’Ana.
Cô ta vẫn đứng, một lần nữa lại mở hú họa quyển sách. Tay cô run lên, nhưng cô vẫn đọc bằng một giọng rắn rỏi:
“Và nếu như sau đó có xảy ra một sự tàn bạo nào, thì con hãy lấy cái sống đổi lại cái sống, mắt đổi lại mắt, răng đổi lại răng, tay đổi lại tay, chân đổi lại chân....
Sinhô ngả đầu ra đằng sau, lão không nghĩ gì nữa. Lão giơ một tay ra hiệu cho bọn đàn bà rời khỏi căn phòng. Olga và Raimunda đã bắt đầu đi ra. Nhưng Don’Ana vẫn không nhúc nhích. Hai người kia đã ra tới hành lang mà cô ta vẫn còn đứng đấy, quyển sách cầm trong tay, mắt chằm chằm nhìn vào bố. Juca muốn cháu mình ra hẳn để được tự do nói chuyện với Sinhô.
- Bố bảo con đi ngủ cơ mà, Don’Ana, - bố cô nói. - Con còn chờ gì nữa?
Cô ta bèn đọc thuộc lòng, không nhìn sách, mắt dõi thẳng vào mắt bố:
“Đừng bắt tôi phải rời người, cũng đừng bắt tôi quay lại sau khi tôi đã theo người đi, bởi vì người đi đến đâu, tôi cũng sẽ đi tới đó, - và người làm nhà của người ở đâu, tôi cũng sẽ làm nhà của tôi ở đó”.
- Việc này không phải là việc của đàn bà, - Juca nói; nhưng Sinhô đã ngắt lời hắn.
- Thôi cho nó ngồi lại. Dù sao đi nữa, nó cũng là dòng máu họ nhà Badaró. Một ngày kia, Juca ạ, con cái nó sẽ hái ca cao, ở Sequeiro Grande. Con gái của bố, con có thể ở lại được.
Juca và Don’Ana bèn ngồi xuống bên cạnh lão. Họ bắt đầu bàn bạc kế hoạch chiến đấu để chiếm đoạt khu rừng. Don’Ana sung sướng lắm; khuôn mặt của cô với nước da rám hồng càng tươi đẹp hơn bao giờ hết; mắt cô ta long lanh, vừa âm thầm, vừa ngời sáng.

12

Trong cái đêm đầy những tham vọng, ước muốn, đầy những giấc mơ dữ dội của những con người ấy, có những ánh sáng le lói chung quanh khu rừng: đèn nhiều ngọn đốt bằng dầu lửa ở nhà Horácio, đèn cây ở nhà Badaró. Có ngọn nến Don’Ana thắp lên, đặt ở chân tượng Đức mẹ đồng trinh trên bàn thờ của nhà lớn để cầu khẩn Người phù hộ trong những ngày sắp tới. Lại còn cây nến khác đang soi đường cho người chết trong khi hai người khiêng xác ông đưa đến cho mấy cô con gái ở Ferradas. Đèn sáng trong đồn điền Baraúnas nơi mà Juca Badaró và Maneca Dantas gần như cùng tới một lúc để nói chuyện với Teodoro. Ánh sáng của những cây đèn đỏ khói mù trong các túp lều, nơi mọi người dậy sớm hơn thường lệ để nghe câu chuyện gã da đen Damião bắn trượt và chạy trốn đi đâu không biết. Ánh sáng trong nhà Firmo, nơi Dona Teresa đợi chồng về, tấm thân trắng nõn sẵn sàng ân ái trên chiếc giường gỗ hồng đào. Ánh sáng trong nhà những điền chủ nhỏ chợt tỉnh giấc vì có Firmo và các tay chân của Horácio đến mời họ tới ăn cơm ngày hôm ấy. Chung quanh khu rừng lấp lánh ánh sáng những ngọn đèn lồng, đèn nhiều ngọn, đèn treo và những cây đèn dầu. Những ánh đèn đó đánh dấu ranh giới của khu rừng khổng lồ ở bốn phía đông, tây, nam, bắc.
Thỉnh thoảng lại có những người cưỡi ngựa vượt qua những quãng trống nhỏ của khu rừng để ra đường cái. Họ đi từ đồn điền này sang đồn điền khác, từ trại này sang trại khác, đem theo lời mời đến tham gia cuộc bàn luận. Ở khắp mọi nơi, lòng tham lam của con người làm bật sáng những ngọn đèn và phi nhanh trên các nẻo đường. Nhưng cả ánh sáng đèn, cả tiếng vó ngựa cũng không thể kéo nổi những lá cành và những thân cây đang ngủ giấc ngủ ngàn năm ra khỏi cơn hôn mê.
Báo, rắn và khỉ đang nghỉ ngơi và chim chóc cũng chưa thức giấc để chào đón bình minh. Chỉ riêng có những con đom đóm, ma trơi, hắt một làn ánh sáng xanh nhạt vào rừng cây màu đen sẫm mịt mùng. Rừng Sequeiro Grande vẫn ngủ trong khi đó chung quanh, những con người khát tiền đang bày mưu tính kế để chiếm đoạt rừng. Và nơi đây, ở chính giữa rừng, nơi cây cối um tùm rậm rạp nhất, chỉ có những chấm sáng mơ hồ và rung rinh của đàn đom đóm soi rọi, trong túp lều tồi tàn của mình, lão thầy mo Jeremias cũng đang ngủ.
Cũng giống như cây cối và thú vật, lão không hay biết gì đến sự đe dọa đang đè nặng xuống khu rừng; lão không biết rằng lòng tham lam đang vây bọc khu rừng, rằng những ngày sống của những thân cây khổng lồ, của bầy thú dữ, của những bóng ma sắp phải chấm dứt đến nơi rồi. Lão đang ngủ, như rừng cây và thú vật. Mái tóc bạc như bông, đôi mắt từ lâu đã mất sáng, giờ đây gần như mù hẳn, thân hình gầy guộc, gù hẳn lên, mặt mày nhăn nheo, cái miệng gãy hết răng và giọng nói chỉ còn như một tiếng rì rầm phải đoán mới hiểu lão định nói gì, lão Jeremias da đen đã sống ở đây bao năm rồi? Hàng chục dặm quanh đây, không ai có thể nói cho bạn hay điều đó. Đối với mọi người, lão chỉ là một người rừng, cũng đáng sợ như loài hổ báo, rắn rết, như những thân cây với dây leo chằng chịt, cũng đáng sợ như ma quỷ mà chính lão có thể sai khiến được và thả ra cho sống tự do. Lão là chúa tể, là chủ của khu rừng Sequeiro Grande mà Horácio và anh em nhà Badaró đang tranh nhau. Từ bờ biển, từ bến tàu Ilhéus cho đến tận thành phố, đến tận làng xóm xa xôi nhất trên con đường đàng trong, ai nấy đều nhắc đến Jeremias là thầy mo trị được bệnh, chữa lành người bị đạn bắn và rắn cắn; lão còn lo thuốc chữa bệnh tương tư nữa, lại biết cả phép bùa chài làm cho đàn bà cứ dính lấy đàn ông hơn cả cái quả có nhựa của cây sa kê.
Tiếng tăm lão truyền khắp các đô thị và các thành phố lão chưa bao giờ thấy, và những người bị bệnh từ rất xa cũng tìm đến nhờ lão chữa.
Đã lâu lắm rồi, khi rừng còn rộng hơn bây giờ nhiều và lan ra tứ phía, khi con người chưa nghĩ đến chuyện đốn cây để trồng ca cao - thời đó nó chưa được nhập cảng từ xứ Amazon tới - một hôm, Jeremias đã dựng nhà trong cánh rừng này. Lúc đó, lão còn là một chàng trai da đen đi trốn cảnh đời nô lệ. Bọn “đại úy của rừng xanh” rượt theo, lão bèn lẩn vào khu rừng có người da đỏ ở và không bao giờ ra khỏi đó nữa. Lão từ một cái đồn điền mía chạy tới, nơi mà chủ đồn điền quen thói sai người lấy roi quất vào người lão. Trong nhiều năm, trên lưng lão vẫn còn in vết lằn roi. Và ngay cả tới khi các vết sẹo đã biến đi rồi, ngay cả khi người ta báo cho lão biết đạo luật giải phóng người nô lệ đã được ban hành, Jeremias vẫn từ chối không chịu rời khỏi khu rừng.
Chuyện này xảy ra đã lâu, lâu lắm rồi, Jeremias đã mất cả ý niệm về thời gian; lão cũng không còn nhớ gì về những sự kiện nữa. Lão chỉ còn nhớ những vị thần da đen mà tổ tiên lão đã đem theo từ châu Phi tới, mà lão không muốn thay thế bằng những vị thánh Thiên Chúa giáo của bọn chủ đồn điền, ở đây, bên trong khu rừng, lão sống với các thần Ogum, Omolu, Oxóssi và Oxalufã, đồng thời lão cũng đã học được của người da đỏ cái bí mật của những loại dược thảo. Lão có thói quen lẫn lộn những vị thần da đen của mình với các vị thần của thổ dân ở đây, khi lão khấn thần này, khi lại khấn thần kia, những ngày có người tìm đến giữa rừng thỉnh vấn lão hay xin thuốc. Người tìm đến rất đông, có cả dân thành phố; và chỉ một thời gian ngắn, bàn chân những người mắc bệnh hoặc bị lo sợ giày vò đã vạch ra một con đường mòn đưa đến tận cửa nhà lão.
Lão đã nhìn thấy bọn da trắng tiến tới sát rừng: lão nhìn thấy đứa này hạ thủ đứa khác, lão nhìn thấy người da đỏ bỏ trốn, rời đi xa tìm sự yên ổn; lão đã chứng kiến những mẫu ca cao đầu tiên mọc lên; lão đã nhìn thấy những khu đồn điền thứ nhất hình thành. Mỗi lần như vậy lão lại rút sâu thêm vào rừng; bởi vì một nỗi lo sợ đè nặng trong lòng lão; sợ một ngày kia con người sẽ tới hạ cả cánh rừng Sequeiro Grande này. Về cái ngày ấy, lão đã tiên đoán những tai họa khốn cùng. Lão nói với tất cả những người đến gặp lão rằng rừng này là nơi ở của thần linh, mỗi gốc cây ở đây đều thiêng liêng, và nếu như kẻ trần tục dám xâm phạm đến nó, thần linh sẽ trả thù không thương xót.
Lão sống bằng cỏ và rễ cây, uống nước con sông trong chảy qua rừng, và trong lều, lão nuôi hai con rắn làm cho khách đến thăm sợ mất vía. Ngay đến những viên đại tá đáng gờm nhất, kể cả Sinhô Badaró, tay thủ lĩnh chính trị được trọng vọng, kể cả Horácio với bao nhiêu chuyện người ta đã kể về hắn, kể cả Teodoro das Baraúnas nổi tiếng là một gã du đãng, kể cả Brasilino điển hình cho sự can đảm, không một ai ở khắp vùng São Jorge dos Ilhéus này khiến người ta phải kiêng sợ bằng thầy mo Jeremias. Bởi vì những quyền lực chịu khuất phục dưới mệnh lệnh của lão là những quyền lực siêu phàm, những quyền lực ấy gạt được đạn đang bay, chặn dao của kẻ giết người giơ lên, biến nọc của loài rắn độc hơn cả hổ mang thành thứ nước vô hại.
Jeremias đang ngủ trong túp lều của lão. Nhưng tai lão vốn cùng rung một nhịp với những tiếng động trong rừng, ngay trong giấc ngủ, lão cũng nhận ra có tiếng chân người đang bước vội. Lão mở cặp mắt mỏi mệt, và ngẩng cái đầu đang gối trên nền đất nện. Lão rướn cái thân hình mặc quần áo rách rưới lên thành tư thế ngồi, cố đưa mắt nhìn qua ánh sáng lờ mờ của buổi rạng đông. Có tiếng chân vội vã tiến lại gần, có người đang chạy trên con đường dẫn đến túp lều của lão. Một người nào đến tìm thuốc hoặc một lời khuyên nhủ hay với nỗi thất vọng trong lòng. Jeremias đã dày kinh nghiệm trong việc nhận ra nỗi lo sợ của con người qua nhịp bước chân họ rẽ lấy một lối đi trong rừng. Người này đang tuyệt vọng đây, hắn đang chạy dọc theo con đường nhỏ; chắc hẳn trong lòng hắn đang chất nặng những sầu não. Lão thầy mo ngồi xổm lên, sẵn sàng đợi người kia tới, ánh sáng xuyên qua các nhánh cây, chiếu vào một con rắn đang bò trên mặt đất của túp lều. Jeremias ngồi đợi. Kẻ đang tới kia chẳng có một thứ ánh sáng nào để chỉ đường; nỗi đau khổ cũng đủ dẫn nẻo cho hắn. Jeremias lẩm bẩm những câu gì nghe không rõ.
Và thốt nhiên, Damião da đen xuất hiện trong lều, quỳ xuống và hôn tay Jeremias.
- Bố Jeremias, có một chuyện khủng khiếp vừa xảy đến với con. Con không thể nói với bố thế nào được, con không biết bắt đầu kể từ đâu. Bố Jeremias, con là một thằng da đen hết đời rồi.
Gã da đen run rẩy cả tứ chi; tấm thân to lớn của gã giống như một cây tre mỏng manh bị gió quật bên bờ nước. Jeremias đặt đôi bàn tay khẳng khiu lên đầu Damião.
- Con ạ, không có nỗi đau khổ nào không thể chữa khỏi được. Nào, con hãy kể đi, và lão già da đen nghe con kể đây sẽ cho con thuốc chữa.
Giọng lão yếu ớt, nhưng lời lão có sức thuyết phục rất lớn. Damião da đen tiến lại gần, đầu gối kéo lê trên mặt đất trơ trụi.
- Bố ơi, con không thể kể với bố cái chuyện ấy đã xảy ra như thế nào. Chưa bao giờ có chuyện như thế này xảy đến với Damião da đen. Kể từ khi bố cho con lá bùa chống đạn, con chưa hề bắn trượt một phát nào, chưa bao giờ con phải run sợ khi hạ một thằng khốn kiếp nào. Bố Jeremias, con bị người ta chài rồi.
Jeremias lặng lẽ chờ đợi câu chuyện. Cử chỉ duy nhất của lão là đặt tay lên đầu Damião. Con rắn lúc này đã thôi không bò nữa và nằm cuộn tròn trong góc nhà chỗ lão thầy mo thường ngủ.
Damião vừa bắt đầu kể chuyện vừa run; những câu hắn nói ra khi nhanh khi chậm như thể gã phải tìm từng chữ một.
- Sinhô Badaró sai con đi thủ tiêu một người cho ông ấy. Đó là ông Firmo, người có một trại ca cao gần đây. Con đứng nấp một chỗ trên con đường tắt, và con nhìn thấy một con ma, bố ạ. Con đã nhìn thấy một con ma. Đó là vợ ông ta, Dona Teresa, và bà ta đã làm con hoảng lên.
Gã ngừng lại. Trái tim gã không chứa đựng nổi tất cả những xúc động đầy ắp đến tràn ra ngoài, những xúc động mới mẻ và xa lạ biết bao nhiêu đối với gã.
- Tiếp tục đi. Cứ kể đi, con.
- Con đợi ông ấy, và vợ ông ta đến. Bà ta mang một đứa con trong bụng. Bà ta bảo con rằng đứa bé sẽ chết và thằng Damião da đen sắp sửa làm chết cả ba người. Điều ấy khiến con mủi lòng, nó tràn lấn cả người con, nó nhồi vào đầu con một cái gì không biết nữa; nó rút hết sức lực của bàn tay con, và khiến con không còn biết đường nào mà nhắm bắn nữa. Người ta đã chài con, bố ạ. Damião da đen đã bắn hụt. Và bây giờ, ông Sinhô Badaró sẽ nói gì? Ông ấy là một người chính trực, chính trực và tốt đối với Damião da đen, và con đã phản bội ông ấy. Con không giết chết được người kia, người ta đã chài con. Hãy cho con một lá bùa, bố ơi!
Jeremias ngồi đó, người cứng đờ, đôi mắt gần như tắt ngấm đăm đăm nhìn vào không gian. Lão thấy đằng sau câu chuyện của Damião da đen một câu chuyện khác vô cùng quan trọng và vượt lên trên số phận của gã da đen, đây là số phận của cả cánh rừng Sequeiro Grande này!
- Tại sao Sinhô lại muốn thủ tiêu Firmo?
- Ông Firmo không muốn bán trại ca cao của mình để ông Sinhô lấn sâu vào rừng, bố ạ. Và con đã phản ông ấy. Con không giết được người kia. Vợ ông ta đã lấy hết cái can trường ra khỏi ngực con. Thực thế, bố ạ, con xin thề với bố, thằng da đen ở trước mặt bố đây không hề nói dối.
Jeremias đứng dậy. Lão không cần đến gậy để đỡ cái thân hình bách tuế của lão. Lão bước hai bước ra tới cửa lều, từ đó cặp mắt mờ của lão có thể nhìn bao quát cả cánh rừng với tất cả vẻ huy hoàng của nó. Đồng thời lão ngắm nhìn con đường nhỏ đi từ những ngày dĩ vãng xa xưa đến tận buổi sáng hôm nay báo hiệu giờ cuối cùng của Jeremias. Lão biết rằng người ta đang tiến vào rừng; lão biết họ sẽ hạ rừng xuống, sẽ giết thú vật và trồng ca cao ngay trên cái mảnh đất mà giờ đây rừng Sequeiro Grande đang ngự trị. Lão đã như nhìn thấy ngọn khói bốc lên từ đám lửa đốt cháy những sợi dây leo, liếm vào những thân cây; lão như nghe thấy tiếng gầm của đàn báo chạy trốn, tiếng rít của bầy rắn bị lửa thiêu. Lão như nhìn thấy đám người đem theo rìu và dao quắm đến hoàn thành nốt công việc của lửa, bóc trần đất ra, nhổ cả đến những rễ cây sâu nhất.
Nhưng lão không nhìn thấy Damião da đen đã phản lại chủ gã và đang quỳ khóc vì cái tội phản bội của mình. Lão chỉ nhìn thấy khu rừng bị tàn phá, bị đốn và cháy trụi, nhìn thấy những mầm ca cao đang nhú lên khỏi mặt đất. Một mối căm thù mãnh liệt xâm chiếm người lão.
Khi lão bắt đầu nói, miệng lão không còn thốt ra những tiếng thì thào thường lệ, và lão cũng chẳng nói với gã Damião da đen đang run rẩy và khóc lóc chờ đợi những lời an ủi và phép chữa bệnh. Jeremias nói với những vị thần của lão, những vị thần của nòi giống lão, những vị thần từ rừng thẳm châu Phi đến. Với các thần Ogum, Oxóssi, Iansã, Oxalufã, Omolu và cả với Exu, vốn là một con quỷ nữa.
Lão cầu khẩn thần linh giờ đây hãy giáng tất cả cơn thịnh nộ xuống đầu những kẻ đến phá rối sự yên tĩnh của nơi trú ngụ linh thiêng này.
- Lòng thành kính đã cạn khô rồi, chúng nhìn rừng bằng những con mắt thật là vô đạo. Giờ đây chúng sắp tiến vào rừng nhưng chúng sẽ phải chết trước khi vào, cả thằng đàn ông, con đàn bà cùng con cái của chúng và cả những con vật ở cánh đồng. Chúng sẽ chết cho đến khi không còn một lỗ để chôn, cho đến khi diều hâu ăn no ăn chán thịt, cho đến khi mặt đất ngả sang màu máu. Một con sông sẽ chảy trên các nẻo đường, tất cả họ hàng, xóm giềng và bè bạn chúng sẽ chết đuối trong con sông ấy; sẽ không có một đứa nào thoát được. Chúng sẽ vào được rừng, nhưng chúng phải bước qua xác những người của chúng. Mỗi cây to, cây nhỏ bị hạ, sẽ có một đứa chết để bù lại và diều hâu sẽ đông đến nỗi mặt trời phải tối sầm. Thịt người sẽ là phân bón mà chúng rải ra cho những gốc ca cao, và mỗi thân cây nhỏ sẽ được tưới bằng máu - máu của tất cả bọn chúng - bởi vì sẽ không có một đứa nào thoát chết, dù nó là thằng đàn ông, con đàn bà hay đứa trẻ con.
Một lần nữa, lão lại khấn tên những vị thần linh yêu quý của lão. Lão cầu cả Exu để giao nhiệm vụ báo thù là điều lão đang mong muốn. Tiếng lão vang khắp khu rừng, đánh thức chim chóc, khỉ, rắn, báo. Sau hết, một lần cuối cùng, lão kêu lên bằng một giọng sang sảng, và lần này là một lời nguyền rủa, một lời nguyền rủa bốc lửa!
- Và con cái chúng sẽ trồng ca cao trên hai bờ sông có chảy dòng máu của cha ông chúng.
Nói rồi, lão đăm đăm nhìn cảnh rạng đông, có tiếng hót của bầy chim trên khu rừng Sequeiro Grande chào đón. Thân hình lão khuỵu xuống; lão đã gắng gượng quá sức. Người lão duỗi ra; lúc này, mắt lão nhắm nghiền lại, hai bắp chân quỵ xuống; lão gục xuống mặt đất trơ trụi, chân đụng phải Damião da đen đang hoảng sợ, chết khiếp. Môi lão không thốt ra một tiếng thở dài, một tiếng rên nào nhưng trong lúc hấp hối, Jeremias còn cố nhắc lại lời nguyền rủa, miệng méo xệch đi vì căm hờn.
Trên cây, chim chóc véo von cất tiếng hót chào ban mai. Cánh rừng Sequeiro Grande tràn ngập ánh bình minh.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét