Sát Thủ Tokyo
Tác giả: Barry Eisler
Người dịch: Khánh Vân
Nhà xuất bản Văn Học - 2014
2
Từ Shinjuku, tôi bắt tuyến tàu điện ngầm
Maranouchi đến Ogikubo, cực tây của thành phố và nằm ngoài nội đô Tokyo. Tôi muốn
thực hiện LPT * cuối cùng trước khi liên lạc với khách hàng để báo cáo kết quả
vụ Kawamura, và đi về phía tây là đi ngược chiều với những chuyến tàu cao điểm
đang đổ về trung tâm thành phố, giúp cho việc làm của tôi dễ dàng hơn.
* [Lộ
trình Phát hiện Theo dõi (Surveillance detection run)].
Chính cái tên LPT đã thể hiện đầy đủ bản chất
của nó: một lộ trình được vạch ra để buộc bất cứ kẻ nào đang theo dõi anh phải
lộ diện. Harry và tôi dĩ nhiên đã đề phòng hết mức trên đường tới Shibuya và
theo dõi Kawamura trong buổi sáng hôm đó nhưng tôi không bao giờ cho rằng vì
lúc trước tôi an toàn nên bây giờ tôi vẫn an toàn. Ở Shinjuku, các đám đông quá
dày đặc đến nỗi có thể có tới mười kẻ đi theo anh và anh không bao giờ phát hiện
được một ai trong số chúng. Ngược lại, bí mật theo dõi một người ngang qua một
sân ga dài vắng vẻ với nhiều lối vào và lối ra là điều gần như không thể thực
hiện, và hành trình đến Ogikubo đem lại cho tôi sự an tâm mà tôi cần.
Trước kia, khi một nhân viên tình báo muốn
liên lạc với một điệp viên nằm vùng nhưng không thể gặp mặt vì sợ bị lộ, họ phải
sử dụng một hòm thư bí mật. Điệp viên nằm vùng sẽ thả tấm vi phim vào một hốc
cây, hoặc giấu nó trong một cuốn sách ít người biết đến trong thư viện công cộng,
và sau đó, nhân viên tình báo sẽ đến lấy nó. Anh sẽ không bao giờ trông thấy
hai người họ ở cùng một nơi vào cùng một thời điểm.
Nhờ Internet, việc liên lạc sẽ dễ dàng và
an toàn hơn. Khách hàng đăng tải một thông điệp đã được mã hóa trên một Bulfinch, tương đương với một hốc cây.
Tôi tải nó xuống từ một cái điện thoại không đăng kí và giải mã nó vào lúc thuận
tiện. Và ngược lại.
Thông điệp khá đơn giản. Một cái tên, một bức
ảnh, địa chỉ liên lạc nhà riêng và chỗ làm. Số tài khoản ngân hàng, những hướng
dẫn chuyển tiền. Một lời nhắc nhở về ba điều cấm kị của tôi: không phụ nữ hay
trẻ em, không hại những người không liên quan, không được thuê thêm ai khác để
giải quyết vấn đề sắp tới. Điện thoại chỉ được dùng khi công việc đã êm xuôi,
đó là lí do cho chuyến đi vòng vèo của tôi đến Ogikubo.
Tôi dùng một cái điện thoại công cộng trên
sân ga để gọi cho đầu mối liên lạc của tôi trong Đảng Dân chủ Tự do - một kẻ
tôi tớ của LDP mà tôi chỉ biết đến với cái tên Benny, có thể là tên gọi tắt của
Benihana hay đại loại thế. Tiếng Anh của Benny khá trôi chảy, vì vậy tôi biết hắn
từng ở nước ngoài. Hắn thích dùng tiếng Anh với tôi, có lẽ vì nó có một âm điệu
mạnh mẽ hơn trong vài hoàn cảnh và Benny thích chứng tỏ mình là một gã cứng rắn.
Có lẽ hắn học cách nói ấy từ những bộ phim găngxtơ của Hollywood.
Chúng tôi chưa bao giờ gặp mặt, dĩ nhiên,
nhưng chỉ cần nói chuyện với Benny qua điện thoại cũng đủ để tôi nảy sinh một mối
ác cảm với hắn. Tôi hình dung ra hắn như một kẻ ăn không ngồi rồi của chính phủ,
một kẻ sẽ cố gắng giải quyết vấn đề cân nặng bằng cách chạy bộ tuần ba lần với
tốc độ mười phút một dặm trên máy chạy bộ trong một phòng tập lắp gương mạ crom
đắt đỏ, nơi không khí dịu mát phả ra từ máy điều hòa nhiệt độ và những âm thanh
êm ả phát ra từ tivi sẽ ngăn chặn bất cứ cảm giác khó chịu không mong muốn nào.
Hắn sẽ chi bạo tay cho những món đồ như gel vuốt tóc hàng hiệu vì dẫu sao những
thứ nho nhỏ đó cũng chỉ tốn vài đô, và sẽ tiết kiệm tiền bằng cách mặc những
chiếc áo sơ mi và cà vạt không cần là với những nhãn mác đề “Lụa Italy chính cống!” mà hắn đã lựa chọn
cẩn thận trong một chuyến đi nước ngoài từ một thùng đựng đồ hạ giá ở một cửa
hàng bách hóa nào đó, tự lấy làm sung sướng vì đã kiếm được những món đồ có chất
lượng tốt với cái giá hời như thế. Hắn sẽ phô trương vài món xa xỉ của phương
Tây như một cây bút máy Montblanc, đó là những món bùa hộ thân để trấn an hắn rằng
hắn là kẻ biết cách hội nhập với thế giới hơn những kẻ ra lệnh cho hắn. Phải,
tôi thừa hiểu gã này. Hắn là một kẻ thừa lệnh thấp hèn, một tên trung gian, một
gã liên lạc chưa bao giờ để bàn tay dính chàm trong đời, một kẻ không thể phân
biệt được sự khác nhau giữa một nụ cười chân thật và những nụ cười đãi bôi của
mấy ả tiếp viên bòn rút tiền của hắn nhờ một li rượu whiskey Scotland Suntory
pha loãng trong khi hắn làm họ phát chán với những lời ám chỉ về Những Việc
Quan Trọng mà hắn đang tham gia nhưng dĩ nhiên không thể kể rõ.
Sau vài câu mật khẩu vô thưởng vô phạt đã
được thống nhất trước để đảm bảo rằng chúng tôi không phải đang nói chuyện với
một kẻ giả mạo, tôi bảo hắn, “Đã xong”.
- Tốt, - hắn nói theo cái lối cộc lốc, ra vẻ
một tay dữ dằn. - Có vấn đề gì không?
- Không có gì đáng kể, - tôi đáp sau một
thoáng ngừng, nghĩ về gã trên tàu hỏa.
- Không có gì à? Anh chắc chứ?
Tôi biết cứ nhùng nhằng thế này thì sẽ chẳng
được lợi lộc gì. Tốt nhất là không nói gì cả, và tôi làm đúng như vậy.
- Được rồi, - hắn nói, phá vỡ sự im lặng. -
Anh biết là anh có thể đòi hỏi tôi bất cứ thứ gì anh cần. Bất cứ thứ gì, hiểu
chứ?
Benny cố gắng đối xử với tôi như một điệp
viên. Có lần hắn còn đòi gặp mặt trực tiếp. Tôi đã bảo hắn rằng nếu chúng tôi gặp
mặt trực tiếp, tôi sẽ giết hắn, vì vậy có lẽ chúng tôi nên bỏ qua việc đó. Hắn
cười xòa, nhưng chúng tôi chưa bao giờ thực hiện cuộc gặp ấy.
- Tôi chỉ cần một thứ, - tôi nói, ám chỉ đến
tiền.
- Ngày mai, như mọi lần.
- Tốt. - Tôi gác máy, tự động chùi ống nghe
và phím bấm để đề phòng họ lần theo dấu cuộc gọi và cử người đến in dấu vân
tay. Nếu họ có quyền tra cứu các hồ sơ quân sự thời chiến tranh Việt Nam, và
tôi cho rằng họ có thể làm thế, thì họ sẽ phát hiện ra tôi là John Rain, và tôi
không muốn họ biết rằng người mà họ đã quen biết hơn hai mươi năm trước, khi
tôi lần đầu tiên quay lại Nhật Bản, lại chính là cái kẻ bí ẩn hiện đang làm việc
cho họ.
Đợt đó tôi làm việc với CIA, một công việc
có được từ những mối quen biết hồi tôi còn ở Việt Nam, đảm bảo rằng “các quỹ hỗ
trợ” của Cục sẽ đến với đúng các đối tượng trong đảng cầm quyền, ngày ấy cũng
là LDP. Cục đang tiến hành một chương trình hỗ trợ bí mật cho các phần tử chính
trị bảo thủ, một phần trong những chính sách chống cộng của chính phủ Mỹ và sự
mở rộng tự nhiên của những mối quan hệ đã phát triển trong suốt thời kì chiếm
đóng sau chiến tranh, và LDP sẵn sàng đóng vai trò của mình để đổi lấy tiền mặt.
Tôi thực chất chỉ là một kẻ trung chuyển tiền,
nhưng tôi có quan hệ tốt với một trong những đối tượng nhận viện trợ của chú Sam, tên là Miyamoto. Một đồng nghiệp
của Miyamoto, ấm ức vì chỉ được nhận một phần tiền mà hắn cho là quá ít ỏi, đã
đe dọa vạch trần mọi chuyện nếu hắn không được chia chác thêm. Miyamoto nổi điên;
trước đây gã đồng nghiệp ấy từng dùng thủ đoạn này và đã đạt được mục đích. Bấy
giờ hắn lại được voi đòi tiên. Miyamoto đã hỏi liệu tôi có thể xử lí gã này
không, với giá 50.000 đô, “không hỏi han gì”.
Lời đề nghị ấy hấp dẫn tôi, nhưng tôi muốn
đảm bảo rằng mình được an toàn. Tôi trả lời Miyamoto rằng bản thân tôi không thể
làm gì cả, nhưng tôi có thể giới thiệu gã với một người có thể giúp gã.
Người đó trở thành con người thứ hai của
tôi, và theo thời gian, tôi dần dần xóa bỏ những dấu vết của John Rain thật.
Tôi không còn dùng tên thật hoặc bất cứ thứ gì liên quan đến nó, và đã phẫu thuật
để trở nên hoàn toàn giống người Nhật. Tôi cũng để tóc dài hơn, khác hẳn kiểu đầu
đinh mà hồi đó tôi ưa thích. Và cặp kính có gọng bằng kim loại mỏng, một sự nhượng
bộ với tuổi tác và những hệ quả của nó, tạo cho tôi vẻ trí thức hoàn toàn không
giống với diện mạo của một chiến binh sôi sục trong quá khứ. Ngày nay tôi giống
một học giả người Nhật hơn là một tên lính lai. Trong hơn hai mươi năm qua tôi
đã không gặp một người quen nào của thời làm nghề trung chuyển tiền, và cẩn thận
tránh xa Cục Tình báo. Sau những gì họ đã đối xử với tôi và Jake Khùng ở Bù Đốp,
tôi hoàn toàn sẵn lòng tống cổ họ ra khỏi cuộc đời tôi.
Miyamoto đã giới thiệu tôi với Benny, người
giống Miyamoto làm việc với những người có vấn đề trong LDP, những vấn đề mà
tôi có thể giải quyết. Tôi làm việc cho cả hai người họ trong một thời gian,
nhưng Miyamoto đã nghỉ hưu khoảng mười năm trước và không lâu sau đó thì chết một
cách yên bình trên giường ngủ. Từ đó Benny là khách hàng thân thiết nhất của
tôi. Mỗi năm tôi thực hiện ba hoặc bốn phi vụ cho hắn và bất cứ ai trong LDP mà
hắn đứng ra thay mặt, với số tiền tương ứng khoảng 100 nghìn đô la mỗi lần.
Nghe thì có vẻ nhiều, tôi biết, nhưng còn phải trừ đi chi phí hoạt động: các
thiết bị, vài chỗ ở khác nhau, một công ty tư vấn thật nhưng liên tục ngốn tiền
cung cấp cho tôi các bản kê khai thuế hàng năm và những phương tiện khác đảm bảo
tính hợp pháp cho tôi.
Benny. Tôi tự hỏi liệu gã có biết gì về
chuyện xảy ra trên tàu không. Hình ảnh người lạ lục lọi túi của Kawamura đang
ngã quy làm tôi khó chịu như một hạt ngũ cốc nhỏ bị mắc trong răng, và tôi liên
tục nghĩ về nó, hi vọng hiểu được điều gì. Một sự trùng hợp chăng? Có lẽ gã đó
đang tìm kiếm giấy tờ tùy thân. Đó không phải là cách trợ giúp hiệu quả nhất đối
với một người đang trở nên tím tái vì thiếu oxi, nhưng những người thiếu kinh
nghiệm thường không hành động sáng suốt khi bị căng thẳng, và ai chẳng luống cuống
khi lần đầu tiên nhìn thấy một người đang chết ngay trước mặt mình chứ. Hoặc có
thể gã là người quen của Kawamura, có mặt trên tàu để trao đổi gì đó với y. Có
lẽ đó là sự sắp xếp của họ, một sự trao đổi nhanh chóng trên một chuyến tàu
đông đúc. Kawamura gọi điện cho đối tác từ Shibuya ngay trước khi lên tàu, nói
rằng, “Tôi ở toa thứ ba từ dưới lên, hiện đang rời nhà ga”, và đối tác của y biết
phải lên toa nào khi con tàu vào ga Yoyogi. Có lẽ là vậy.
Thật ra, những trùng hợp nho nhỏ vẫn thường
xuyên xảy ra trong nghề của tôi. Chúng bắt đầu một cách tự động khi anh trở
thành một kẻ nghiên cứu hành vi con người - khi anh theo dõi một người bình thường
trải qua một ngày bình thường, lắng nghe những cuộc trò chuyện, nhận biết các
thói quen của anh ta. Những thứ mà anh cho là đường thẳng khi nhìn từ một khoảng
cách xa có thể đứt đoạn và mang dáng vẻ kì quái khi săm soi thật kĩ, như những
sợi xơ vải được quan sát dưới một chiếc kính hiển vi.
Một vài mục tiêu của tôi có những mối quan
hệ mờ ám, và yếu tố trùng hợp đặc biệt cao. Tôi từng theo dõi những đối tượng
tình cờ lại đang nằm trong diện giám sát của cảnh sát: đó là một trong những lí
do khiến những kĩ năng theo dõi ngược của tôi phải hoàn toàn tinh vi. Các ả
nhân tình là chuyện thường gặp, đôi khi có cả vợ bé con rơi. Một đối tượng mà
tôi đang chuẩn bị xóa sổ khi theo dõi y dọc trên sân ga tàu điện ngầm từng khiến
tôi kinh ngạc hết mức khi lao mình vào đầu tàu, miễn cho tôi khỏi phải ra tay.
Khách hàng đã rất hài lòng, và sửng sốt trước việc tôi có thể làm cho nó trông
y như một vụ tự tử trên một sân ga đông người.
Tuy nhiên, tôi có cảm giác Benny biết điều
gì đó, và cảm giác đó khiến tôi khó mà gạt đi sự trùng hợp nho nhỏ này. Nếu tôi
có một cách nào đó để xác minh rằng hắn đã phá vỡ một trong ba quy tắc của tôi
bằng cách thuê thêm một ai khác trong vụ Kawamura, tôi sẽ tìm hắn tính sổ và hắn
sẽ phải trả giá. Nhưng tôi chẳng có cách nào để khẳng định điều đó. Tôi sẽ phải
gạt nó sang một bên, dán cho nó cái nhãn “chờ xử lí” để giúp mình thấy thoải
mái hơn.
Tiền được chuyển tới tôi vào ngày hôm sau,
như Benny đã hứa, và chín ngày tiếp theo trôi qua trong êm đềm.
Vào ngày thứ mười, tôi nhận được một cuộc gọi
từ Harry. Cậu ta bảo với tôi rằng bạn tôi, Koichiro, sẽ có mặt ở Galerie Coupe
Chou ở Shinjuku vào tám giờ thứ ba với vài người bạn, tôi nên ghé qua nếu có thời
gian. Tôi bảo cậu ta điều đó thật là tuyệt và sẽ cố gắng tới đó. Tôi biết mình
phải đếm ngược lại năm hàng trong mục nhà hàng của Những trang vàng thành phố Tokyo, xác định địa điểm gặp gỡ của
chúng tôi là ở Las Chicas, và trừ đi năm ngày và năm tiếng đồng hồ.
Tôi thích gặp gỡ ở Las Chicas vì hầu hết mọi
người đều tới đây từ đường Aoyama, khiến cho những người đi từ hướng ngược lại
trở thành những đối tượng để quan sát, và trước khi vào đến cửa thì người ta buộc
phải làm lộ mình bằng cách đi ngang qua một sân hiên nhỏ. Nơi này được vây
quanh bởi những con ngõ lắt léo tỏa ra một tá hướng khác nhau, không có lấy một
điểm yết hầu nào để ai đó có thể cắm chốt và chờ đợi. Tôi biết rõ những con ngõ
ấy, vì tôi buộc mình phải nắm được sơ đồ của bất cứ khu vực nào mà tôi hay lui
tới. Tôi tự tin rằng bất cứ một kẻ không mong muốn nào cũng sẽ khó mà tiếp cận
tôi ở đó.
Đồ ăn và không khí ở đây cũng thật tuyệt. Cả
thực đơn và con người đều thể hiện sự hợp nhất giữa Đông và Tây: cơm jeera Ấn Độ và sô cô la Bỉ, một người
đẹp châu Á tóc đen có gò má cao đứng cạnh một cô gái tóc vàng đến từ những vịnh
hẹp ở Bắc Âu, một tập hợp nhiều thứ tiếng và ngữ giọng. Không hiểu sao Las
Chicas lúc nào cũng giữ được vẻ thời thượng nhưng không hề đánh mất bản sắc của
mình.
Tôi đến sớm hơn hai tiếng và chờ đợi, nhâm
nhi một trong những loại trà sữa Ấn Độ đã đem lại tiếng tăm cho nhà hàng. Anh
không bao giờ muốn là người đến cuối cùng trong một cuộc hẹn. Như thế thật bất
lịch sự. Và khiến anh khó mà ra về trước.
Gần ba giờ, tôi thấy Harry xuất hiện trên
phố. Cậu ta không nhìn thấy tôi cho đến khi vào trong.
- Lúc nào anh cũng ngồi quay lưng vào tường
nhỉ, - cậu ta nói, bước tới.
- Tôi thích ngắm cảnh, - tôi trả lời thản
nhiên. Hầu hết mọi người chẳng để ý gì đến những chuyện này, nhưng tôi đã dạy cậu
ta đó là điều cần chú ý khi bước vào một nơi nào đó. Những người ngồi quay lưng
ra cửa là những người bình thường; còn những ai ngồi ở những vị trí chiến lược
có thể là những tay cáo già hoặc đã từng được huấn luyện, những kẻ có thể đáng
chú ý hơn một chút.
Tôi gặp Harry lần đầu khoảng năm năm trước ở
Roppongi, nơi cậu ta dính vào một vụ rắc rối với vài tay lính thủy đánh bộ Mỹ
đang say xỉn trong một quán bar, chỗ tôi tình cờ có mặt để giết thời gian trước
một cuộc hẹn. Harry có vẻ ngoài khá lập dị: đôi khi quần áo của cậu ta chẳng vừa
vặn chút nào như thể cậu ta đã ăn cắp chúng từ một dây phơi quần áo nào đó, và
cậu ta có thói quen nhìn chằm chằm một cách vô thức vào bất cứ thứ gì thu hút
mình. Chính cái nhìn đó đã gây sự chú ý với đám lính thủy đánh bộ Mỹ và một tên
trong bọn đã lớn tiếng đe dọa cắm cặp kính dày cộp của Harry vào cái mông Nhật
Bản của cậu nếu cậu không tìm chỗ khác mà nhìn. Harry lập tức tuân theo, nhưng
dấu hiệu yếu đuối hiển nhiên này chỉ càng khuyến khích bọn lính. Khi chúng theo
Harry ra ngoài, và tôi nhận thấy cậu ta thậm chí không để ý chuyện gì sẽ xảy
ra, tôi cũng đi theo họ. Tôi không ưa gì bọn côn đồ - một di chứng từ thời thơ ấu.
Cuối cùng, đám lính phải giải quyết với tôi
thay vì Harry, và kết quả không như chúng đã định. Harry rất cảm kích.
Hóa ra cậu ta có vài kĩ năng hữu ích. Cậu
ta sinh ra ở Mỹ trong một gia đình có bố mẹ là người Nhật và lớn lên như một đứa
trẻ song ngữ, mỗi mùa hè lại về ở với ông bà ở ngoại ô Tokyo. Cậu ta học đại học
và cao học ở Mỹ, kiếm được tấm bằng trong lĩnh vực toán học ứng dụng và mật mã.
Ở trường cao học, cậu ta dính vào rắc rối khi xâm nhập trái phép các tài liệu của
trường mà một vị giáo sư chuyên ngành mật mã đã khoác lác là không ai có thể
xâm nhập được. Ngoài ra còn có vài chuyện không vui với FBI, khi họ truy ra rằng
Harry chính là thủ phạm thực hiện các vụ thăm dò Cơ quan Tiết kiệm và Vay nợ quốc
gia và các tổ chức tài chính khác. Vài nhân vật cấp cao trong Cơ quan An ninh
Quốc gia Mỹ biết được trò đùa tinh nghịch này và đã sắp xếp cho Harry làm việc ở
Fort Meade, đổi lại họ sẽ gột rửa cái “thành tích” tấn công máy tính đang ngày
một dày thêm trong hồ sơ lí lịch của cậu ta.
Harry làm việc
cho NSA trong vài năm, giúp họ thâm nhập vào hệ thống máy tính được bảo mật của
các tập đoàn và chính phủ khắp nơi trên thế giới, và trong thời gian đó cậu ta
đã học được những trò ma thuật về máy tính ám muội nhất của NSA. Cậu ta quay lại
Nhật Bản vào giữa thập niên chín mươi, đảm nhiệm công việc tư vấn an ninh máy
tính cho một hãng tư vấn toàn cầu lớn. Dĩ nhiên họ đã kiểm tra kĩ lưỡng lai lịch
của cậu ta, nhưng hồ sơ lí lịch trong sạch cùng ma lực của tờ giấy chứng nhận
cho phép sử dụng thông tin tối mật của NSA đã khiến công ty mới của cậu ta lơ
là điều căn bản nhất về chàng trai trạc ba mươi tuổi có vẻ ngoài trẻ con và
nhút nhát mà họ vừa thuê.
Đó là, Harry là một tin tặc từ trong xương
tủy. Cậu ta đã chán làm việc ở NSA bởi vì, dù công việc có những thử thách kĩ
thuật, nhưng nó hoàn toàn được chính phủ chấp thuận. Ngược lại, ở vị trí mới của
cậu ta, có những điều lệ, những nội quy mà cậu ta buộc phải tuân theo. Harry
không bao giờ bảo mật một hệ thống mà không để lại “cửa hậu” để cậu ta có thể sử
dụng bất cứ khi nào nổi hứng. Cậu ta xâm nhập chính những tài liệu của công ty
để khám phá điểm yếu của các khách hàng, và sau đó lợi dụng chúng. Harry có những
kĩ năng của một thợ khóa và trái tim của một tên trộm.
Từ khi gặp nhau, tôi đã dạy cậu ta những
ngón nghề tương đối sạch sẽ của mình. Vốn là một kẻ lạc lõng nên cậu ta hoàn
toàn tôn sùng việc tôi kết thân và giúp đỡ cậu ta, và kết quả là cậu ta trở nên
cảm mến tôi. Lòng trung thành sau đó thật sự hữu ích.
- Có chuyện gì thế? - tôi hỏi sau khi cậu
ta đã ngồi xuống.
- Có hai chuyện. Một chuyện tôi nghĩ là anh
sẽ biết; chuyện còn lại, tôi không chắc.
- Tôi nghe đây.
- Đầu tiên, có vẻ Kawamura đã bị trụy tim
chết vào buổi sáng chúng ta theo dõi y.
Tôi nhấp một ngụm trà sữa.
- Tôi biết. Nó xảy ra ngay trước mắt tôi
trên tàu hỏa. Quỷ tha ma bắt.
Phải chăng cậu ta đang quan sát gương mặt
tôi kĩ hơn bình thường?
- Tôi thấy cáo phó của y trên tờ Daily
Yomiuri, - cậu ta nói. - Con gái của y đăng nó lên. Đám tang diễn ra hôm qua.
- Còn trẻ như cậu mà cũng đọc các cáo phó
sao, Harry? - Tôi hỏi, nhìn cậu ta qua mép tách trà.
Cậu ta nhún vai.
- Tôi đọc tất tần tật mọi thứ, anh biết mà.
Anh trả tôi tiền để làm những việc như thế.
Đúng vậy. Harry biết hết mọi sự kiện đang
diễn ra xung quanh mình, và có năng khiếu nhận ra những khuôn mẫu từ sự hỗn độn.
- Chuyện thứ hai là gì?
- Trong lúc đám tang diễn ra, có kẻ đã đột
nhập vào căn hộ của y. Tôi cho rằng đó có thể là anh, nhưng vẫn muốn kể với anh
phòng khi không phải như vậy.
Tôi vẫn giữ vẻ bình thản.
- Làm sao cậu biết chuyện đó? - Tôi hỏi.
Cậu ta lấy ra một mảnh giấy gấp từ trong
túi quần và đẩy nó về phía tôi.
- Tôi đã xâm nhập báo cáo của Keisatsucho.
Keisatsucho là Cục Cảnh sát Quốc gia Nhật Bản,
FBI của Nhật Bản.
- Chúa ơi, Harry, còn chỗ nào mà cậu không
thể xâm nhập được đây? Không thể tin nổi.
Cậu ta phẩy tay như thể điều đó chẳng là gì
cả.
- Đây chỉ là Sosa, bộ phận điều tra. An
ninh của họ tệ hại không tưởng tượng nổi.
Tôi cảm thấy không cần phải nói với cậu ta
rằng tôi đồng ý với đánh giá của cậu ta về an ninh của Sosa - thật ra tôi là một
độc giả háo hức với những tài liệu của họ trong nhiều năm nay.
Tôi mở mảnh giấy và bắt đầu đọc lướt qua nội
dung của nó. Thứ đầu tiên tôi chú ý là tên của người đã chuẩn bị bản báo cáo
này: Ishikura Tatsuhiko. Tatsu. Không hiểu sao tôi chẳng thấy ngạc nhiên.
Tôi biết Tatsu từ hồi còn ở Việt Nam, hồi
đó anh ta công tác ở Ban Điều tra và An ninh công cộng Nhật Bản, một trong những
tiền thân của Keisatsucho. Bị những hạn chế đặt ra cho quân đội bởi Điều khoản
9 của Hiến pháp thời hậu chiến gây khó dễ và không thể làm gì hơn ngoài việc cử
đến một vài người để “nghe và học hỏi”, chính phủ đã cử Tatsu đến Việt Nam
trong sáu tháng để lập sơ đồ về các tuyến đường viện trợ của KGB * cho Việt Cộng.
Vì tôi nói tiếng Nhật, nên tôi được giao nhiệm vụ giúp đỡ anh ta.
*
[Tên viết tắt của cơ quan tình báo của Liên Xô cũ]
Tatsu thấp và có vóc người mập mạp kiểu sẽ
phát tướng theo thời gian, và khuôn mặt hiền lành che giấu cho một tính cách dữ
dội bên trong - tính cách dữ dội ấy được tiết lộ bởi thói quen hất đầu và ưỡn
ngực ra đằng trước như thể anh ta đang bị níu giữ bởi một sợi dây vô hình. Anh
ta nản chí với nước Nhật trung lập thời hậu chiến, và ngưỡng mộ con đường chiến
binh mà tôi đã chọn. Về phần tôi, tôi bị hấp dẫn bởi nỗi buồn sâu kín ẩn chứa
trong đôi mắt anh ta, nỗi buồn ấy, lạ lùng thay, càng trở nên rõ rệt hơn mỗi
khi anh ta cười, đặc biệt là những lúc cười hết cỡ. Anh ta ít khi nói về gia
đình, về hai đứa con gái nhỏ ở Nhật, nhưng khi kể về họ, niềm tự hào của anh ta
hiển hiện thấy rõ. Nhiều năm sau, tôi được biết thông qua một người quen chung
rằng anh ta còn có một đứa con trai nữa, đứa con út, nó đã chết trong hoàn cảnh
mà Tatsu không bao giờ kể, và tôi hiểu ra vẻ buồn bã của anh ta bắt nguồn từ
đâu.
Khi tôi quay lại Nhật Bản, thi thoảng chúng
tôi lại gặp nhau, nhưng tôi đã tự tách mình ra xa kể từ lúc dính dáng đến
Miyamoto và sau đó là Benny. Tôi đã không gặp Tatsu từ sau khi thay đổi ngoại
hình và chuyển sang hoạt động trong bóng tối.
Đó là một điều may, bởi vì qua các báo cáo
mà tôi xâm nhập được, tôi biết Tatsu có một giả thuyết ưa thích: LDP có một sát
thủ ăn lương. Vào cuối những năm tám mươi, Tatsu bắt đầu tin rằng quá nhiều
nhân chứng quan trọng trong những vụ án tham nhũng, quá nhiều nhà cải tổ tài
chính, quá nhiều người trẻ tuổi tham gia vận động chống lại hiện trạng chính trị
đang bị chết vì “những nguyên nhân tự nhiên”. Theo đánh giá của anh ta, ở đây
có một khuôn mẫu chung, và anh ta mô tả sơ lược về hình bóng mờ ảo ở trung tâm
của nó là một kẻ có những kĩ năng rất giống của tôi.
Các đồng nghiệp của Tatsu nghĩ hình bóng
anh ta trông thấy chỉ là một bóng ma trong trí tưởng tượng của anh ta, và cái
quyết tâm dai dẳng điều tra một âm mưu tội ác mà những người khác quả quyết là
một ảo ảnh đã không đem lại điều gì giúp anh ta thăng tiến. Tuy nhiên, sự ngoan
cố ấy lại bảo vệ anh ta khỏi những thế lực mà anh ta muốn đe dọa, bởi vì không
kẻ nào mong làm tăng sức thuyết phục cho những giả thuyết đó bằng cách gây ra
cho anh ta một cái chết đột ngột do những nguyên nhân tự nhiên. Trái lại: Tôi
cho rằng nhiều kẻ thù của Tatsu hi vọng anh ta sẽ sống một cuộc sống lâu dài và
yên ổn. Tôi cũng biết thái độ này sẽ thay đổi ngay lập tức nếu Tatsu đến quá gần
sự thật.
Cho đến nay thì chưa. Nhưng tôi chẳng lạ gì
Tatsu. Ở Việt Nam, anh ta đã hiểu những nguyên tắc cơ bản của công tác phản
gián vào thời điểm mà ngay cả những nhân vật chóp bu của CIA cũng không thể lập
một sơ đồ đơn giản về một đơn vị Việt Cộng tiêu biểu. Anh ta đã phát triển các
chiến lược hành động bất chấp cái phạm vi “chỉ nghe và học hỏi” của mình. Anh
ta đã từ chối cuộc sống nhàn hạ của một tùy viên bình thường là viết các bản
báo cáo từ trong biệt thự, thay vào đó khăng khăng hoạt động trên chiến trường.
Các cấp trên kinh hoàng trước năng lực của Tatsu, anh ta đã từng cay đắng kể với
tôi như vậy bên số lượng đáng kể những chai rượu sake, và họ cố tình lờ đi những
tin tức tình báo mà anh ta đệ trình. Cuối cùng thì sự kiên trì và lòng can đảm
của anh ta cũng bị uổng phí. Tôi mong anh ta có thể rút ra được bài học từ kinh
nghiệm quá khứ.
Nhưng tôi cho rằng đó là điều không tưởng.
Tatsu là một samurai thực thụ, và anh ta sẽ tiếp tục phục vụ ông chủ của mình,
cho dù ông chủ đó có phớt lờ hoặc thậm chí lợi dụng anh ta bao nhiêu lần chăng
nữa. Phục vụ tận tụy là mục đích cao cả nhất đối với anh ta.
Quả là bất thường khi Keisatsucho điều tra
về một vụ đột nhập đơn giản. Hẳn là ở cái chết của Kawamura, và điều y đang làm
trước khi chết, có gì đó thu hút sự chú ý của Tatsu. Đây sẽ không phải là lần đầu
tiên tôi cảm thấy ông bạn chiến hữu cũ quan sát tôi như thể qua tấm gương một
chiều, nhìn thấy một hình bóng đằng sau tấm gương nhưng không biết là ai, và
tôi thấy mừng vì đã quyết định cắt đứt liên lạc với anh ta nhiều năm trước.
- Anh không cần phải nói với tôi liệu anh
có biết chuyện này không, - Harry nói, cắt ngang suy nghĩ của tôi. - Tôi biết
các quy tắc mà.
Tôi cân nhắc xem nên tiết lộ chừng nào. Nếu
tôi muốn tìm hiểu nhiều hơn, những kĩ năng của cậu ta sẽ có ích. Tuy nhiên, tôi
không thích cậu ta lại gần hơn bản chất thật trong công việc của tôi. Cậu ta đã
ở gần tới mức khó chịu rồi. Tên của Tatsu trong bản báo cáo đó chẳng hạn. Tôi
phải giả định rằng Harry sẽ lần theo nó như một đường dẫn trên Internet, gõ vào
những giả thuyết của Tatsu, và cảm nhận được một mối liên hệ với tôi. Dĩ nhiên,
đó khó có thể được coi là một bằng chứng hoàn toàn thuyết phục, nhưng giữa họ với
nhau, Harry và Tatsu sẽ có một số mảnh ghép quan trọng để tìm ra sự thật.
Ngồi trong quán Las Chicas, nhâm nhi tách
trà sữa, tôi phải thừa nhận rằng Harry có thể trở thành một rắc rối. Nhận thức
đó làm lòng tôi chùng xuống. Chúa ơi,
tôi nghĩ, mày đang trở nên đa cảm đấy.
Có lẽ đã đến lúc để thoát ra khỏi chuyện
quái quỷ này. Có lẽ lần này thực sự phải làm thế thôi.
- Tôi chẳng biết gì cả, - một lát sau, tôi
nói. - Đây là một trường hợp bất thường.
Tôi thấy kể với cậu ta về người lạ trên tàu
cũng không có gì nguy hại, và lập tức làm thế.
- Nếu chúng ta đang ở New York, tôi sẽ nói
với anh đó là một kẻ móc túi, - cậu ta nói khi tôi kể xong.
- Ban đầu tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng móc
túi sẽ là một lựa chọn nghề nghiệp tồi đối với một gã da trắng ở Tokyo. Cậu cần
phải trà trộn.
- Hay đó là một kẻ cơ hội?
Tôi lắc đầu.
- Không có quá nhiều người trơ tráo và máu
lạnh như vậy. Tôi không nghĩ một kẻ như thế tình cờ đứng cạnh Kawamura sáng hôm
đó. Tôi nghĩ gã đó là một người quen của Kawamura, có mặt trên tàu để trao đổi
một thứ gì đó với y.
- Theo anh thì tại sao Keisatsucho lại điều
tra về một vụ đột nhập đơn giản vào một căn hộ ở Tokyo? - cậu ta hỏi.
- Tôi không biết, - tôi nói, mặc dù sự tham
gia của Tatsu khiến tôi ngạc nhiên. - Có lẽ do địa vị của Kawamura trong chính
phủ, cái chết mới rồi của ông ta, thứ gì đó tương tự như thế. Tôi sẽ dựa vào
cái giả thuyết ấy.
Cậu ta nhìn tôi.
- Anh đang đề nghị tôi điều tra đấy à?
Đáng lẽ tôi nên bỏ qua chuyện này. Nhưng
tôi đã từng bị lợi dụng. Cảm giác điều đó lại xảy ra lần nữa sẽ khiến tôi mất
ngủ. Phải chăng Benny đã thuê thêm một kẻ dự bị trong vụ Kawamura? Tôi cho rằng
tôi nên để Harry cung cấp ít manh mối.
- Dù gì thì cậu
cũng sẽ làm điều đó, đúng không? - tôi hỏi.
Cậu ta nháy mắt.
- Tôi cho rằng tôi sẽ không thể kiềm chế nổi.
- Vậy thì hãy tìm hiểu đi. Hãy thông báo
cho tôi nếu cậu tìm được thêm điều gì. Và nhớ cảnh giác đấy, thiên tài ạ. Đừng
bất cẩn.
Lời cảnh báo đó là dành cho cả hai chúng
tôi.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét