Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2019

Những người sống và những người chết - Chương 3

Những người sống và những người chết

Tác giả: Kônxtantin Ximônốp
Người dịch: Trọng Phan & Hà Ngọc
Người biên tập: Lê Anh Hiền
Nhà xuất bản Cầu vồng - Maxcơva - 1987

Chương Ba

Hai tuần lễ sau khi bị thương, lúc Xintxốp đã đi dạo chơi mỗi ngày được hai lần trong vườn cây của bệnh viện thì có lệnh chuyển bệnh viện về Đôrôgôbugiơ. Trong anh em thương binh lập tức có tin đồn là quân Đức đã vượt qua sông Đniép ở gần Sklốp và vòng qua phía bắc Môghilép.
Theo lời của bác sĩ đã mổ cho Xintxốp thì vết thương của anh “gặp may”: viên đạn chỉ sướt qua sườn.
Cảm thấy mình đã gần bình phục, Xintxốp liền tới gặp phó chính ủy quân y xin ra viện. Viễn cảnh của cuộc tản cư làm cho anh lo sợ. Anh không muốn rồi đây lại phải đi tìm kiếm tòa soạn của mình một lần nữa.
- Theo tôi biết, họ đã dời đi rồi, - phó chính ủy quân y viện nghi ngờ nói.
Nhưng Xintxốp thì quả quyết rằng không thể như thế được. Nếu di chuyển thì họ đã đến đón anh đi theo, vì tổng biên tập đã hứa với anh như vậy mà.
Bận bù đầu về việc di chuyển thương binh, phó chính ủy không nài ép gì; xét cho cùng, ai đã muốn ra viện thì họ cứ việc mà ra thôi !
Tới trưa, sau khi đã nhận giấy tờ và quân phục, Xintxốp bước ra khỏi cổng quân y viện.
Môghilép vắng tanh và đang ở trong tình trạng báo động: chướng ngại vật đã xuất hiện trên đường phố, súng máy bắc trên các cửa sổ chất đầy bao tải ở mỗi góc nhà.
Một người lính gác đứng lầm lì trước cửa nhà in của thành phố, nơi Xintxốp hy vọng tỉm thấy tòa soạn. Tất cả các cửa lẫn cánh cổng sắt đi vào sân đều đóng im ỉm. Từ bên trong, không những không có tiếng máy ầm ầm vọng ra mà nói chung không có lấy một tiếng động nào: tất cả như đã chết lịm.
Một giờ sau, quân vụ trưởng thành phố Môghilép - vẫn cái ông thiếu tá mà Xintxốp đã gặp hai tuần lễ trước đây, có điều là còn phờ phạc hơn trước vì mất ngủ - xác nhận rằng tòa soạn tờ báo mặt trận đã dời đi cách đây hai ngày. Xintxốp bối rối nghĩ thầm: “Thậm chí không kịp báo tin cho mình nữa”.
- Thế họ di chuyển đi đâu ạ?
Quân vụ trưởng nhún vai bảo rằng người ta không báo cho ông biết hành trình. Bộ tham mưu mặt trận đã dời về vùng Xmôlenxk, nên cả tòa soạn cũng đi theo nốt.
- Đồng chí ra viện sớm là dại. Lẽ ra đồng chí cứ theo quân y viện tản cư về Đôrôgôbugiơ, đến đó đồng chí sẽ đàng hoàng muốn tìm gì thì tìm.
Xintxốp cay đắng cảm thấy trước là mình lại sắp phải lang thang lần nữa.
- Này đồng chí, đại khái có những đơn vị nào đóng ở vùng Môghilép này nhỉ?
- Đồng chí hỏi làm gì thế?
Xintxốp trả lời rằng anh muốn đến một sư đoàn bộ nào gần nhất, ở lại đó thu lượm tài liệu cho tờ báo để sau này ít ra cùng đỡ phải lần mò về tòa soạn với hai bàn tay trắng.
Quân vụ trưởng bất đắc dĩ phải giở bản đồ ra, chỉ vào một khu rừng nhỏ bên kia sông Đniép, cách cầu Môghilép chừng sáu cây số. Theo lời ông thì sư đoàn bộ sư đoàn 176 đóng ở đấy.
Khi đã vượt qua cầu trên sông Đniép, và đi được ba cây số trên đường Môghilép - Orsa, Xintxốp nghe có tiếng đại bác nổ ở đằng sau, bên kia sông Đniép. Anh đứng lại mấy phút trên đường cái, lắng tai nghe tiếng đại bác vang rền rồi lại cất bước, tiếp tục suy nghĩ miên man về cái điều mà anh đã bắt đầu nghĩ từ khi ra khỏi cơ quan quân vụ thành phố Môghilép: rồi đây sẽ ra sao?
Bộ tham mưu mặt trận đã ở Minxk, rồi ở Môghilép, bây giờ lại dời về Xmôlenxk, nghĩa là lùi về gần Maxcơva thêm một trăm năm mươi cây số nữa...
Dù có cố gắng nghĩ đến điều đó một cách bình tĩnh mấy đi nữa, thì sự thực diễn ra trên bản đồ vẫn như những nhát búa bổ vào đầu anh.
Hai tuần lễ nằm viện đã dạy cho Xintxốp nhiều điều. Trong những ngày ấy biết bao nhiêu tin đồn đại đã làm cho anh từ chỗ hăng hái đi đến ỉu xìu và ngược lại! Nếu chỉ tin vào chuyện dữ thì có thể đã phát điên lên từ lâu. Còn nếu chỉ ghi nhớ toàn những chuyện lành thì rút cục sẽ phải cấu vào tay mình mà tự nhủ: thôi đủ rồi, thế tại sao mình lại nằm quân y viện, tại sao mình lại ở Môghilép, tại sao tất cả lại như thế này mà không như thế kia?
Ban đầu, Xintxốp tưởng rằng sự thật về chiến tranh ở đâu vào quãng giữa. Nhưng về sau, anh hiểu rằng đó cũng không phải là sự thật nốt, cả chuyện lành hay chuyện dữ đều do nhiều người kể lại. Nhưng họ đáng tin hay không đáng tin không phải là ở chỗ họ kể lại những chuyện gì mà là ở chỗ họ kể lại như thế nào.
Tất cả những ai ở quân y viện đều đã đụng chạm với chiến tranh bằng cách này hay cách khác, nếu không họ đã chẳng phải vào đây rồi. Nhưng trong số này có nhiều người tới nay mới chỉ biết một điều là bọn Đức mang lại sự chết chóc, chứ chưa biết đến điều thứ hai là chính chúng cũng có thể chết nữa kia.
Đáng tin hơn hết thảy là những người biết cả điều thứ nhất lẫn điều thứ hai, những người nhờ kinh nghiệm bản thân đã quả quyết được rằng bọn Đức cũng có thể chết. Bất kể họ kể chuyện gì đi nữa, kể chuyện lành hay chuyện dữ, qua lời nói của họ, người ta vẫn thấy toát lên cái cảm tưởng ấy, và đó mới chính là sự thực về chiến tranh.
Đại úy xe tăng đã cho Xintxốp một bài học trong khu rừng gần Bôbruixk chính là một người trong số đó.
Vấn đề không phải ở lòng can đảm của người này hoặc ở sự hèn nhát của người kia. Chẳng qua là hôm ấy đại úy đã nhìn chiến tranh bằng con mắt khác với Xintxốp. Đại úy biết chắc rằng bọn Đức có thể chết và khi người ta giết chúng thì chúng dừng bước. Vì nghĩ vậy, nên anh ta đã hướng tất cả những hành động của mình theo ý nghĩ ấy, và cố nhiên là lẽ phải ở về phía anh. Đối với những người đổ xô tới cầu cứu mình thì Xintxốp muốn đưa họ ra khỏi cảnh hiểm nghèo. Còn đại úy thì lại muốn ném họ vào cuộc chiến đấu để cứu vớt lấy sự nghiệp.
Và tất nhiên hồi đó, sở dĩ bọn Đức không thọc được tới Môghilép chính là nhờ những đám quân tan tác của cái lữ đoàn mà đại úy công tác, cùng với tất cả những người cầm súng trong tay quây quần xung quanh lữ đoàn hôm ấy đều biết là bọn Đức có thể chết, và kẻ nào chưa biết điều đó thì trong chiến đấu cũng đã nhận ra. Trong khi giết chết bọn Đức và trong khi chính mình cũng bị chết, họ đã tranh thủ được hai mươi bốn tiếng đồng hồ: xế chiều, một sư đoàn bộ binh mới toanh đã đến triển khai phía sau lưng họ.
Tình hình đó Xintxốp đã được đồng chí tổng biên tập kể cho nghe khi ông ta tới thăm anh vào ngày hôm sau.
Sau khi đã nghe chính miệng người lái xe báo cáo về cuộc hành trình đi Bôbruixk, tổng biên tập đã khen ngợi Xintxốp, lo lắng cho Liuxin và chửi bới người sĩ quan xe tăng về cái tội tự tiện. Thậm chỉ cả những đường gân xanh nho nhỏ cùng nổi lên trên cặp má đầy đặn phúc hậu của ông đang rung lên vì giận dữ.
Xintxốp không đồng tình với tổng biên tập. Anh biết rằng: ngày hôm đó anh làm nhiều điều dại dột, may sao những hành động của anh không phải xuất phát từ sự hèn nhát. Thêm vào đó, cũng như bất cứ những ai nằm quân y viện thường luôn nghĩ đến vết thương của mình, nhưng anh không thể xua đuổi được ý nghĩ cay cú cho rằng người phi công có thể đã không tự sát nếu không có những chiếc áo mưa cảnh sát màu xám đáng ghét giống hệt quân phục Đức ấy. Lúc bấy giờ đã không kịp nghĩ đến cái đó, nhưng trong chiến tranh thì phải suy nghĩ. Và rõ ràng là phải suy nghĩ luôn luôn thì mới được.
Cả trong câu chuyện xảy ra với Liuxin, anh cũng không tán thành nỗi tức giận của tổng biên tập. Người chính trị viên phó đó ra đi để phân phát báo mà lại bị lôi vào chiến đấu. Nhưng biết làm thế nào được, câu chuyện có thể không đến nỗi như thế, song nó đã xảy ra như vậy rồi. Xintxốp chỉ xao xuyến mỗi khi nhớ đến bộ mặt bỗng dưng đanh lại của Liuxin. Anh ta không muốn ở lại, mà người sĩ quan xe tăng thì bảo: “Nếu không phục tùng thì tớ sẽ cho mất mạng đấy!”. Vậy tất cả sự việc đó đã kết thúc ra sao?
Anh thử trình bày những ý nghĩ của mình với tổng biên tập, nhưng ông ta đã trả lời :
- Vậy đồng chí lại ra lệnh cho tôi phân phối các đồng chí xuống đơn vị ráo cả hay sao? Hôm nay thì Liuxin, ngày mai đến lượt đồng chí, ngày kia lại một đồng chí khác nữa chăng?
Ý kiến đó của tổng biên tập đại thể cũng là đúng thôi, nhưng khi Xintxốp nhớ lại khu rừng ấy, giây phút ấy và người đại úy ấy, thì ngược lại, anh thấy hình như nó lại hoàn toàn sai.
Anh và đồng chí tổng biên tập chuyện trò với nhau suốt một giờ liền, vậy mà xem chừng hai bên vẫn không hiểu được nhau. Nhưng vài tiếng đồng hồ sau đã xảy ra một sự kiện xua tan tất cả mọi ý nghĩ và tình cảm khác ra khỏi đầu óc Xintxốp một thời gian khá lâu.
Anh đã được nghe bài phát biểu của Xtalin qua máy thu thanh.
Chiếc loa phóng thanh treo ngoài hành lang, bên cạnh chiếc bàn của chị y tá trực ban. Người ta đã vặn cho nó to hết cỡ, còn các phòng thì đều mở toang cửa.
Xtalin nói chậm rãi, ồ ồ, với giọng Grudia đặc sệt. Có một lúc, trong khi Xtalin đang nói thì nghe có tiếng cốc va chạm và tiếng đồng chí ấy uống nước. Giọng Xtalin trầm, không to lắm, có thể tỏ ra là hoàn toàn bình tĩnh nếu như không có tiếng thở nặng nề, mệt nhọc, và tiếng uống nước giữa lúc đang nói.
Nhưng, mặc dầu xúc động, giọng đồng chí nói vẫn khoan thai, ồ ồ, không hề hạ thấp hay cất cao, không để lộ cảm xúc của mình. Sự không ăn khớp giữa giọng nói đều đều ấy với tính chất bi thảm của tình hình mà đồng chí ấy nói đến, chính đó là sức mạnh. Điều này không làm cho người ta ngạc nhiên, vì ai nấy đều vẫn chờ đợi sức mạnh đó ở Xtalin.
Người ta yêu mến Xtalin theo nhiều cách: một cách vô điều kiện và một cách có điều kiện, vừa ngưỡng mộ lại vừa sợ; đôi khi người ta còn không yêu nữa là khác. Nhưng lòng dũng cảm và ý chí sắt đá của đồng chí ấy thì không ai nghi ngờ cả.
Và chính hai đức tính ấy hình như lúc này lại cần thiết hơn hết đối với con người đứng đầu một nước đang chiến đấu.
Xtalin không gọi tình hình là bi thảm: ngay cái từ đó người ta cũng khó mà hình dung được ở trên miệng đồng chí; nhưng khi nghe đồng chí ấy nói đến dân quân, đến những vùng bị địch chiếm, đến chiến tranh du kích, thì những ảo tưởng đến đó coi như đã chấm dứt. Chúng ta đã rút lui ở hầu khắp mọi nơi và rút lui khá xa. Sự thực đắng cay thật đấy, nhưng cuối cùng nó đã được nói ra, và nó khiến cho người ta thấy đất dưới chân mình vững chắc hơn.
Còn khi nghe Xtalin nói đến sự khởi đầu bất lợi của cuộc chiến tranh to lớn và khủng khiếp này mà hầu như vẫn không thay đổi những từ ngữ thông thường, chẳng khác gì khi nói đến những khó khăn rất lớn cần phải mau chóng vượt qua càng sớm càng tốt, thì ở đó người ta cũng cảm thấy không phải là sự yếu đuối mà chính là sức mạnh.
Ban đêm nằm trên giường bệnh, ít ra Xintxốp cũng nghĩ như vậy, và giữa tiếng rên rỉ của người nằm giường bên cạnh đang hấp hối, anh nhẩm đi nhẩm lại tất cả những chi tiết trong bài phát biểu của Xtalin và cả lời kêu gọi thấm sâu vào lòng: “Hỡi các bạn!”, lời kêu gọi mà sau đó toàn quân y viện suốt ngày đã nhắc lại.
“Thế nào, nếu bây giờ có người tự nhiên đến bảo ta rằng: hãy hy sinh đi để cho Xtalin sống, liệu ta có hiến dâng đời ta cho đồng chí ấy không? Có, ta sẽ hiến dâng, và hôm nay hơn bao giờ hết!”. Những câu hỏi như vậy người ta thường đặt ra cho mình khi còn niên thiếu, nhưng đêm ấy, trên giường bệnh viện, Xintxốp đã tự hỏi mình như thế lần đầu tiên, giữa tuổi ba mươi.
“Hỡi các bạn...” - Xintxốp thì thầm nhắc lại lời Xtalin và anh chợt hiểu rằng từ lâu anh vẫn thiếu một cái gì trong những việc to tát, lớn lao do Xtalin làm và đã khắc sâu vào ký ức anh, đó là những tiếng vừa được nói ra hôm nay: “Hỡi anh chị em! Hỡi các bạn!” - hay nói đúng hơn lả những tình cảm gói ghém trong mấy tiếng đó.
Phải chăng chỉ có tấn thảm kịch như chiến tranh mới có thể gợi lên những lời nói ấy và mối tình cảm ấy trong cuộc sống!
Một ý nghĩ xót xa và chua chát! Xintxốp hoảng sợ xua đuổi ngay nó đi như xua đuổi một ý nghĩ nhỏ nhen và hèn kém, mặc dầu nó không nhỏ nhen và chẳng hèn kém chút nào. Chẳng qua nó chỉ là một ý nghĩ khác thường mà thôi.
Sau khi nghe lời kêu gọi của Xtalin, điều chủ yếu là lòng anh hồi hộp chờ đợi những sự biến chuyển tốt đẹp. Lòng mong đợi ấy dường như đã bắt đầu trở thành sự thực ngay từ tuần lễ đầu, sớm hơn cả sự tưởng tượng của mọi người.
Các bản thông cáo hàng ngày đã bắt đầu nhắc đi nhắc lại những khu vực mà từ trước đã và đang diễn ra các trận chiến đấu ác liệt. Điều đó đã tăng thêm lòng tin tưởng, vì trong số những khu ấy có cả Bôbruixk. Và ở khu này, quả thực, bọn Đức đã giậm chân tại chỗ từ mấy ngày nay, quân y viện đã nhận được những tin đó một cách sốt dẻo.
Nhưng rồi một luồng không khí lo ngại đã thổi vào quân y viện. Lúc đầu có tin đồn rằng bọn Đức không thọc được tới Môghilép, đã từ Bôbruixk quay sang Rôgatsép và Giơlôbin và chiếm được những nơi này. Rồi Xintxốp bỗng thấy tổng biên tập đột nhiên ghé thăm mình trong chốc lát: đồng chí ấy hỏi thăm sửc khỏe, bảo rằng nếu tòa soạn di chuyển thì đến đón anh. Thế rồi đồng chí ấy vội vã ra về có vẻ sợ phải giải đáp thắc mắc. Cuối cùng, vào cái hôm có lệnh di chuyển quân y viện thì ở đây người ta bắt đầu kháo nhau rằng bọn Đức đã vượt qua sông Đniép gần Sklốp.
Bây giờ thì Xintxốp đang cất bước bên lề con đường chạy dọc theo sông Đniép về hướng bắc, tiến thẳng tới cái thị trấn Sklốp đó, và đang suy nghĩ xem những tin đồn đại ban sáng sai đúng ra sao.
Nếu chẳng may những tin đồn đó là đúng thì việc tòa soạn rời khỏi Môghilép, một địa điểm đã nằm lại bên kia sông Đniép, cũng dễ hiểu thôi. Khó hiểu là việc khác kia: lẽ nào lúc ấy họ lại không tranh thủ được thêm mươi phút để giữ lời hứa và đón anh ra khỏi quân y viện hay sao?
Cả đến lúc này, sau khi tòa báo ra đi được hai hôm, thành phố Môghilép vẫn không làm cho người ta có cảm tưởng rằng nó sắp sửa bị rời bỏ. Tại sao lại có sự vội vàng như vậy nhỉ? Nỗi bực dọc chỉ càng làm cho anh thêm quyết tâm không trở về tòa soạn, nếu không có tài liệu tốt về tình hình chiến sự.
Vì mới bị thương, nên chẳng mấy chốc Xintxốp đã thấy thấm mệt, mà ở cây số thứ bảy, nơi đáng lẽ ra phải có sư đoàn bộ đóng, theo như lời của quân vụ trưởng, thì lại chỉ thấy những vết bánh xe, những hố hào trong lớp đất sét và những cành cây ngụy trang vứt lung tung vội vã. Nếu quả là sư đoàn bộ đã đóng ở đây thì căn cứ theo những cành lá héo đó, họ cũng đã dời đi ít ra hai mươi bốn giờ trước đây. Khi Xintxốp quay ra đường cái, có ba chiếc xe vận tải kéo pháo chống tăng chồm qua trước mặt anh, rồi đến một đoàn xe chở đạn dược và lại một xe kéo pháo nữa. Xintxốp ngập ngừng giơ tay lên nhưng không một xe nào đỗ lại.
Sau đó, một chiếc “Emka” phóng qua. Xintxốp đã tưởng là nó cũng chẳng dừng đâu, nhưng nó chạy quá đi một trăm thước thì đỗ lại. Xintxốp thở hồng hộc, chạy đến bên xe.
- Đồng chí cần gì thế, đồng chí chính trị viên? - người hỏi anh là một chính ủy tiểu đoàn thấp bé, đẫy đà, mặt đỏ gay, lông mày bạc trắng, đeo kính hai lớp dày, ngồi cạnh người lái xe.
Xintxốp trình bày rằng anh đang đi tìm sư đoàn bộ 176. Trước khi trả lời, chính ủy tiểu đoàn yêu cầu cho xem giấy tờ, với một vẻ mặt không đáng hy vọng lắm.
Xintxốp nghĩ thầm : “Ông ta không cho đi đâu”. Nhưng khi xem xong giấy ra viện, nét mặt của chính ủy tiểu đoàn dịu lại :
- Tôi cũng phải đến trăm bảy sáu đây, - ông nói và trả lại giấy chứng nhận, - nhưng ngày mai mới đi, còn bây giờ tôi phải đến ba linh một. Hiện giờ tôi chỉ có thể chở đồng chí đến đó thôi.
Điều đó hoàn toàn hợp ý Xintxốp. Anh cảm ơn và trèo lên xe. Họ lặng thinh ngồi trên xe gần một cây số, rồi chính ủy tiểu đoàn cho xe đỗ lại và chuyển xuống ngồi ghế sau.
- Ngồi thế này cho vui, - ông ta giải thích khi xe lại tiếp tục chạy. - Không thì muốn nói chuyện cứ phải luôn ngoái cổ lại, mà không chuyện trò thì tôi không chịu nổi, - ông mỉm cười dịu dàng và chìa tay cho Xintxốp. - Tôi là Smakốp.
Smakốp quả là con người hay nói. Trong lúc dổn dập đặt ra những câu hỏi, ông ngoẹo cái đầu tròn bạc phơ sang vai bên trái nom ngộ nghĩnh như con chim và chăm chú ngắm nghía Xintxốp qua cặp kính, với vẻ đầy thiện ý, như muốn nói : “Nào, nào, chú mình có gì lý thú nói nghe thử nào!”. Và khi đến lượt ông nói, ông cứ luôn tay tháo cặp kính xuống lau, đưa ra ánh sáng chăm chú nhìn trước khi đeo vào, và nếu tìm thấy một tí bụi là lại lau rồi lại đưa ra ánh sáng nhìn. Không có cặp kính dày, đôi mắt ông có vẻ như đau nặng, đỏ ngầu dưới hai mí sưng húp.
Xintxốp trả lời các câu hỏi một cách miễn cưỡng, không đi sâu vào những chi tiết đặc biệt: anh chỉ nói đại khái là mình đã tham gia chiến tranh sau khi nó bùng nổ được năm ngày, đã ở nhiều nơi và bị thương gần Bôbruixk trong một hoàn cánh ngẫu nhiên. Hình như Smakốp hiểu ngay là người nói chuyện với mình đang rối bời trong lòng, ông ta thôi không hỏi Xintxốp nữa mà bắt đầu nói về mình. Ông kể rằng ông mới được gọi vào quân đội có một tuần lễ, hôm qua đã đến mặt trận với tư cách là thuyết trình viên của Cục chính trị Hồng quân công nông và đây là lần đầu tiên, ông xuống các đơn vị.
- Vậy đồng chí định thuyết trình những gì ở ngoài mặt trận này? - Xintxốp hỏi sau khi nghĩ bụng rằng riêng mình thì thấy việc nghe thuyết trình bây giở đã là quá muộn mất rồi!
- Nói chung, về nghề nghiệp tôi là chuyên gia kinh tế, - Smakốp nói, coi như không nhận thấy hoặc không muốn nhận thấy ý mỉa mai trong câu hỏi của Xintxốp. - Còn đề tài thì khối: “Chiến tranh và tình hình quốc tế”, “Tiềm lực về kinh tế và quân sự của nước Đức”, và tất nhiên là cả những đề tài chung hơn nữa.
- Nhưng đồng chí có kiến thức quân sự chứ? - Xintxốp hỏi.
- Biết trả lời đồng chí thế nào đây? - Smakốp lại lau kính và đưa ra ánh sáng chăm chú nhìn, như nhìn vào một nơi nào xa xăm, vào dĩ vãng. - Như nhiều đảng viên vào tuổi tôi, trong thời kỳ nội chiến đã có lúc tôi làm cán bộ chính trị trong quân đội. Tuy vậy, nói cho chặt chẽ ra thì đó là kinh nghiệm hơn là kiến thức.
“Vâng, kinh nghiệm, - Xintxốp chua chát nghĩ thầm. - Hiện giờ chưa thấy kinh nghiệm đó giúp được chúng ta cái gì. Bọn Đức đâu có phải là bọn bạch vệ và Hítle đâu có phải là Đênikin...”. Rồi anh điên tiết lên khi nhớ lại cuốn tiểu thuyết về cuộc chiến tranh tương lai mà mình đã đọc cách đây hai năm, trong đó mô tả là ngay từ trận công kích đầu tiên của máy bay ta, tất cả nước Đức phát xít sẽ lập tức tan tành thành tro bụi. Giá mà đưa được tác giá cuốn sách đó tới đường quốc lộ Bôbruixk hai tuần trước đây nhỉ?
Tất cả những ý nghĩ đó lướt qua đầu Xintxốp cùng một lúc, nhưng anh không nói nên lời mà chỉ thở dài.
- Đồng chí thấy khổ tâm lắm phải không? - nghe tiếng thở dài, Smakốp ân cần hỏi.
- Tôi thì không sao! - Xintxốp thành thực đáp lại. - Nhưng kể ra đôi khi thấy khổ tâm đến nỗi... - Và cảm thấy tin cậy vào con người thấp bé tóc bạc ngồi cạnh mình, anh đau khổ khoát tay.
- Không sao đâụ, - Smakốp nói và còn khẽ đụng vào ống tay áo Xintxốp, tựa hồ như để an ủi anh. - Chúng ta đang dần dần ghìm giữ chúng, rồi sẽ chặn đứng chúng, đảo ngược lại tình thế; trước kia còn gay hơn nữa chứ: Iuđêních thì đóng ở Pêtrôgrát, Đênikin thì chiếrn được Oriôn rồí tiến đến Maxcơva... Rồi cũng chẳng sao, rút cục chúng ta đã đảo ngược được tình thế.
- Đênikin làm gì có không quân và xe tăng, - Xintxốp thốt lên.
- Đúng, hay gần đúng thì phải hơn, - vẫn không nhận thấy hoặc làm ra vẻ không nhận thấy tâm trạng của Xintxốp, Smakốp đồng ý. - Nhưng bấy giờ chúng ta cũng chưa có nhiều cái mà hiện nay ta có: chưa có các kế hoạch năm năm, chưa có bốn triệu đảng viên cộng sản...
Xintxốp bực bội nghĩ thầm: “Ông ta tuyên truyền mình làm gì thế nhỉ?”. Tâm hồn anh tìm kiếm một nguồn an ủi, nhưng không để bị cám dỗ mà nhẹ dạ cả tin vào điều có thể đem lại sự an ủi.
- Tất nhiên, - Smakốp nói sau giây lát im lặng, - trước chiến tranh, chúng ta có huênh hoang, có phóng đại một vài điều, kể cả việc chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu của chúng ta, chuyện ấy bây giờ đã hai năm rõ mười. Nhưng như thế không có nghĩa là chúng ta lại ngả sang một thái cực khác do ảnh hưởng của những thất bại đầu tiên mà đánh giá quá thấp những lực lượng tiềm tàng của chúng ta. Những lực lượng ấy thật là to lớn, thậm chí chính chúng ta cùng chưa tính toán được hết huống hồ là bọn Đức. Tôi nói điều đó với lòng tin vững vàng, vì tôi nắm được vấn đề.
- Nhưng đánh giá thấp để làm gì nhỉ? - Xintxốp nói. - Phải chăng có người nào trong chúng ta thích đánh giá thấp! Chẳng qua là đã nếm đủ mùi cay đắng và chẳng muốn hát cái bài: “Thưa nữ hầu tước tuyệt đẹp, mọi sự đều yên vui...” nữa.
- A, nói thẳng ra thì đó không phải là một bài hát bônsêvích đâu. - Smakốp cười phá lên, - nhưng chúng ta lại là những người bônsêvích, đã đến lúc phải xin đủ nó đi thôi.
- Đồng chí từ Maxcơva đến đã lâu chưa? - nghĩ đến Masa, Xintxốp liền hỏi.
- Ba hôm rồi.
- Maxcơva đã bị ném bom chưa?
- Chưa.
- Thật ư?
- Nói chung tôi có thói quen chỉ nói toàn sự thật. - Smakốp trả lời, giọng hơi khang khác, mắt nhìn thẳng vào Xintxốp qua cặp kính.
- Thế theo ý đồng chí thì tại sao chúng không ném bom?
- Vì chúng không đủ sức để làm tất cả mọi việc. Có bao nhiêu máy bay chúng nó đã tung hết cả ra mặt trận rồi, không đủ để bay đến Maxcơva nữa.
- Chúng nó mà cũng không đủ à?
- Không đủ, và nói chung không nên nghĩ rằng lực lượng của bọn Đức là vô tận: trong chúng ta có một số người đã nghiêng sang thái cực đó rồi đấy, thật vô tích sự! Từ đó đến chỗ hoang mang cũng không xa đâu, mà chúng ta không có lý do gì để hoang mang cả, vả lại hoang mang không phải là đặc tính của chúng ta, tuy rằng năm ngón tay cũng có ngón dài ngón ngắn. - Smakôp kết luận vẫn với cái giọng cứng rắn trong lối nói mềm mỏng của ông.
Và mặc dầu tất cả những điều Smakốp vừa nói chẳng khác nào một lời cảnh cáo gián tiếp, Xintxốp vẫn nhìn ông với vẻ biết ơn. Trong lời nói của Smakốp, anh cảm thấy có lòng tin chắc của một người nắm được tình hình thực tế.
- Thế nghĩa là ở Maxcơva yên ổn ạ? - anh cất tiếng hỏi.
- Biết nói thế nào nhỉ? - Smakôp nhún vai. - Có bùn tất nhiên phải đục nước! - Ông suy nghĩ một lát rồi tổng kết ý kiến. - Nhưng nói chung là bình thường. - Rồi ông lại nghĩ ngợi, tựa hồ như suy tính một lần nữa xem mình trả lời đã hoàn toàn thành thực chưa và nhắc lại: - Phải, bình thường!
Ông vừa nói xong câu đó thì đã thấy có mấy chiếc xe tải lao ngược trở lại với tốc độ điên cuồng. Trên chiếc xe cuối cùng, một người đầu tóc rối bù, không đội mũ, thò hẳn người ra khỏi buồng lái kêu váng lên :
- Xe tăng, xe tăng đấy!
Người lái xe không dừng xe, quay lại nhìn Smakốp tỏ vẻ hỏi ý kiến, trông anh ta hoảng hốt ra mặt.
- Cứ đi đi, - Smakốp bình tĩnh nói, - chúng ta chỉ còn một cây số nữa là tới sư đoàn bộ. Lại hoang báo chứ gì, chẳng có lẽ...
Xintxốp lặng thinh. Vì không muốn tỏ ra mình thận trọng hơn người, anh đã nén cái ý nghĩ hợp lý của mình lại.
- Không có lẽ, - Smakốp nhắc lại khi đã đi được nửa cây số nữa. - Người ta báo tôi rằng bộ đội ta đang cố thủ suốt dọc sông Đniép; vậy thì làm sao xe tăng Đức có thể ở phía bên này được?
Xintxốp vẫn lặng thinh. Anh nghĩ bụng: “Làm sao chúng có thể ở đây được à? Có ma nó biết được làm sao!”
- Lối rẽ vào sư đoàn bộ phải ở đâu chỗ này đây, phía bên phải, - Smakốp vừa nói vừa ghé chiếc cặp có tấm bản đồ bọc nhựa trong lên sát đôi mắt cận thị. Với lòng tin không gì lay chuyển nổi của một người lần đầu tiên ra mặt trận, ông cho rằng tất cả đều ở đúng cái chỗ đã được đánh dấu trên bản đổ. - Bây giờ chúng ta dừng lại xem, chắc là có dấu hiệu chỉ đường.
Nhưng ông chưa kịp ra lệnh đỗ lại thì người lái xe đã tự ý hãm phanh. Ở phía xa xa, ngay trên đường, đạn đại bác bắt đầu nổ tới tấp. Con đường trước đây hầu như vắng tanh nay bỗng đầy ứ xe cộ: chiếc thì phóng ngược trở lại, chiếc từ đằng sau chạy tới thì vội vã quay đầu. Không đợi lệnh, người lái chiếc “Emka” cũng bắt đầu quay xe và nghe tiếng nổ của một quả đại bác vừa bắn tới, anh bỗng bỏ xe, đâm bổ xuống rãnh.
Xintxốp đẩy tung cửa xe ra định nhảy xuống lôi người lái xe lại, nhưng Smakốp đã xử trí đơn giản hơn.
- Cứ ngồi xuống, - ông bình tĩnh nắm vai giữ Xintxốp lại, rồi mau lẹ lên ngồi cầm lái, quay chiếc “Emka” đưa nó vào lề đường. Ông làm việc đó thật kịp thời: chỉ chậm vài giây là họ đã bị những chiếc xe vận tải đang phóng bạt mạng nghiền nát.
- Bây giờ thì ta xuống xe thôi. - Smakõp đi đến bên rãnh gọi đích danh người lái xe đang nằm bẹp ở đó: - Đồng chí Xôlôđilốp!
Người lái xe đứng dậy chớp chớp cặp mắt sợ hãi.
- Lên ngồi cầm lái đi, - Smakôp ra lệnh.
Người lái xe lùi lũi trở lại xe, còn Smakốp thì chưa chịu trèo lên chỗ ngồi mà cứ quanh quẩn mãi bên chiếc xe một cách khá lạ kỳ, mắt nhìn về phía trước, nơi đạn đại bác vẫn nổ.
Xintxốp cảm thấy nỗi bồn chồn lo lắng mà mình đã quen thuộc.
- Đồng chí chính ủy tiểu đoàn ạ, - anh vừa nói vừa cố gạt bỏ cái ỷ định không muốn là người đầu tiên nêu ra sự cần thiết phải quay trở lại, - ta hãy quay lại vài ba cây số. Tôi thấy ở đây có những khẩu pháo chống tăng đặt hai bên đường. Chúng ta sẽ tìm một cán bộ chỉ huy để hỏi xem có thể đi tới “Ba linh một” được không.
Trong lúc nói như vậy anh sợ rằng Smakốp, bề ngoài tuy dịu dàng, nhưng là một người bướng bỉnh, sẽ không tán thành và sẽ cứ dấn tới một nơi hoàn toàn chưa nắm được tình hình. Nhưng sau khi nghe Xintxốp nói và nhìn vào đám khói bốc trên đường phía trước mặt, Smakốp liền lên xe.
- Đồng chí thấy đấy, đến một khẩu súng lục cũng không có, người ta không buồn phát cho tôi lấy một khẩu, - ông ta nói hình như để bào chữa cho việc mình đã tán thành quay trở lại.
Quên rằng bản thân mình ngày đầu tiên không có vũ khí đã bực dọc như thế nào, Xintxốp nghĩ thầm: “Gớm, khẩu súng lục của ông sẽ giúp ông khối ra đấy!”
- Như vậy là đồng chí đã bỏ rơi cấp chỉ huy mà chạy tháo thân, - Smakốp vừa nói vừa tì khuỷu tay vào lưng ghế trước, ghé nhìn vào mặt người lái xe.
- Vâng, tôi có lỗi thì đồng chí cứ việc xử tội, - người lái xe không quay lại, trả lời với một giọng trầm trầm.
- Xử tội đồng chí làm gì, miễn sao đồng chí thấy đáng hổ thẹn, thế là được rồi. Đồng chí là đoàn viên đấy chứ?
- Vâng, đoàn viên, - người lái xe nói, vẫn với cái giọng trầm trầm ấy.
- Thế thì lại càng đáng hổ thẹn hơn, - Smakốp nói. - Tôi có đứa con trai là đoàn viên. Nếu nó cũng hành động như đồng chí mà tôi biết được thì tôi xấu hổ quá chừng đấy.
- Thế anh ấy ở đâu ạ? - người lái xe khẽ hỏi và Xintxốp hiểu rằng đối với anh ta tất cả những lời nói trước đó của Smakốp sẽ chỉ là những tiếng trống rỗng nếu ông ta trả lời rằng con trai mình đang ở một nơi nào ở hậu phương.
- Con trai tôi trong không quân, xạ thủ trên máy bay. Nó đã hy sinh cách đây một tuần lễ. Mà sao kia chứ?
- Không sao cả ạ, - người lái xe nói hết sức khẽ.
- Đỗ lại! - Xintxốp vẫn theo dõi con đường, kêu lên.
Họ dừng xe cạnh một khẩu pháo chống tăng đặt trong rãnh đằng xa trông giống như một bụi cây từ trong rừng bò lan ra mặt đường. Một đại tá đầu trần, tóc bạc cắt ngắn ngồi bên cạnh khẩu pháo, đang rót trà trong phích ra uống.
- Cho xe lượn vào quá hai trăm thước nữa, - ông không chào mà bảo vậy, khi Smakốp và Xintxốp đã xuống xe, - rồi ta sẽ nói chuyện sau!
Smakốp ra lệnh cho người lái xe đánh xe về phía trước và hất đầu về hướng bắc nói với đại tá rằng ở cách đây chừng bốn cây số, bọn Đức đang bắn phá dọc đường cái.
- Có thể lắm, - đại tá vừa nói vừa đứng lên, vặn nắp phích lại.
Nghe xong câu trả lời bình tĩnh và vẻ giễu cợt ấy (như Xintxốp cảm thấy), Smakốp hỏi đồng chí đại tá có biết bất kỳ một sư đoàn nào ở đâu đây không.
- Bất kỳ một sư đoàn nào à? - đại tá hỏi lại, vẫn vói giọng giễu cợt như cũ. Ông đội mũ lưỡi trai, cài cái bao phích bằng vải bạt lại, rồi đeo phích lên vai. - Nếu sư đoàn nào cũng được thì hãy đến sư đoàn tôi đi.
- Vậy sư đoàn đồng chí là sư đoàn nào? - Smakốp hỏi.
- Vậy các đồng chí là ai?
Smakốp đưa giấy chứng minh ra. Đại tá liếc nhìn qua và bảo rằng ông là chỉ huy pháo binh sư đoàn 176 đến đây kiểm tra trận địa chống tăng, bây giờ trở về sư đoàn bộ.
- Vậy làm sao đến được “Ba linh một” ạ? - Smakốp hỏi ngay.
Đại tá nhún vai, bảo rằng sư đoàn bộ 301 ở cách đây tám cây số về phía bắc, nhưng một khi bọn Đức đang nã đại bác dọc theo đường cái thì từ giờ cho đến lúc nắm được tình hình, có lẽ không dại gì mà đến đó. Và trong tiếng “có lẽ” ấy lại thoáng hiện cái giọng điềm tĩnh mà giễu cợt.
- Thế mà người ta bảo tôi là sư đoàn bộ 301 ở gần hơn, chỉ cách đây bốn cây số thôi, - vốn có tính tỉ mỉ, Smakốp nói vậy.
Đại tá lại nhún vai:
- Bảo bao giờ và ở đâu?
- Ở Cục chính trị quân đoàn, mới hôm qua.
- Đừng quá tin vào điều người ta đã nói với đồng chí hôm qua, đồng chí chính ủy tiểu đoàn ạ, kẻo lại do thiếu tính toán nhân tố thời gian mà đồng chí sẽ sống những ngày còn lại của mình trong cảnh tù binh đấy. Bạc đầu như tôi với đồng chí mà rơi vào tù thì thật hết sức ngớ ngẩn. Đồng chí cũng là thuyết trình viên à? - đại tá hơi quay mình sang phía Xintxốp hỏi.
- Không, tôi ở tòa báo mặt trận.
- À... - đại tá nói mà không lộ vẻ gì cả và bước tới xe với đôi chân sếu dài nghêu đi ủng da bốtcan có cựa.
Xintxốp, Smakốp và đại úy tiểu đoàn trưởng pháo binh, tùy tùng của đại tá, lẽo đẽo theo sau ông.
- Đồng chí bảo giám mã của tôi dắt ngựa về sư đoàn bộ, - đại tá vừa ngồi lên ghế đằng trước xe vừa bảo đại úy.
- Tình hình ở sư đoàn các đồng chí thế nào? - Smakốp hỏi khi xe đã chạy.
- Tình hình à? - đại tá quay lại, hơi nhướng lông mày lên với vẻ giễu cợt. - Tình hình thì nói chung chỉ có trời phán đoán theo quan điểm pháo binh ếch ngồi đáy giếng của tôi như thế này: pháo thì đã có rồi, đạn dược thì rút cục hôm qua cũng đã nhận được, thế nghĩa là chúng tôi sẽ đánh. Hôm qua, chúng tôi đã tiêu diệt một đại đội Đức, bắn chìm sáu chiếc phà cầu phao lúc chúng định vượt sông, nhưng dĩ nhiên đó vẫn chưa phải là một trận chiến đấu đâu.
- Khi ra khỏi Môghilép, - Xintxốp nói, - tôi đã nghe thấy một trận đấu pháo ở góc phía nam thành phố.
- Thế đấy, - đại tá nói. - Thế nghĩa là Xerpilin đã choảng nhau rồi đấy. Hôm qua đài quan sát thấy địch đã tập trung xe tăng. Nhưng bây giờ tôi không sao nói chính xác được vì tôi ở đây mới từ sáng. Nhưng nói chung là chúng tôi đều chuẩn bị bước vào chiến đấu cả rồi, chẳng chui rúc vào đâu được nữa.
Xintxốp cảm thấy thích thái độ bình tĩnh nhà nghề đượm vẻ diễu cợt của con người ấy, con người mà cho tới hôm qua vẫn chưa nhận được đạn dược mà chắc chắn là bối rối, nhưng bây giờ thì đã yên trí và nói về những trận chiến đấu sắp tới như ông chủ nhà đứng trước bàn ăn đã được bày biện và chuẩn bị đâu vào đấy cả.
Té ra sư đoàn bộ không xa như quân vụ trưởng Môghilép đã chỉ cho anh trên bản đồ, mà ở gần hơn tới một cây số, trong một khu rừng thông thưa thớt. Ngay giữa rừng, một đại tá phục phịch, nhễ nhại mồ hôi vì nóng nực, mặc chiếc áo quân phục mùa hè có đính hai huân chương, khuy cởi phanh bộ ngực lông lá, đang ngồi trên chiếc ghế xếp, trước cái bàn xếp nhỏ, dưới gốc một cây thông to. Đó chính là sư đoàn trưởng.
Sau khi biết là Xintxốp công tác ở tòa báo mặt trận, không hiểu sao đại tá lại thở dài sườn sượt, bảo rằng các phóng viên không thuộc phạm vi của ông, Xintxốp cứ việc ở đây chờ sư đoàn phó chính trị về hoặc đi đến phòng chính trị mà hỏi.
- Còn tôi thì không dính dáng gì đến chuyện đó cả, tôi đã thừa biết rồi! - đại tá giận dữ quát ầm lên. - Phải, phải, thừa biết rồi! - Và trên bộ mặt phì nộn của ông hiện lên vẻ dữ tợn tựa hồ như Xintxốp có lỗi gì đối với ông vậy.
Xintxốp đành lảng ra và xem đồng hồ. Mới sáu giờ mấy phút, anh quyết định chờ cho đến khi sư đoàn phó chính trị về.
- Tôi đến phòng chính trị đây, - Smakốp đến gần anh nói, - còn đồng chí thì sao?
- Tôi sẽ chờ ở đây ạ. - Xintxốp trả lời và bắt tay Smakốp, đinh ninh rằng chẳng bao giờ mình còn gặp lại con người này nữa.
- Có lẽ đồng chí muốn ăn tạm một chút gì đấy nhí? - ông đại tá pháo binh tóc bạc vừa đi cùng xe cất tiếng hỏi Xintxốp khi đi qua bên anh. - Đại đội pháo của tôi ở phía sau rừng này, anh em pháo binh sẽ cho đồng chí ăn, cứ nói là có lệnh của tôi.
- Cám ơn đồng chí, - Xintxốp lấy tay vỗ vào túi dết. - Tôi có đủ thứ trong này rồi ạ.
Quả vậy, trong túi dết của anh có một hộp thịt và một khoanh bánh mì lớn do bệnh viện phát cho.
- Sao, đồng chí đã hỏi ông nhà tôi và ông ta đã xua đồng chí đi chứ gì? - đại tá nhướng đôi mày lên ra ý giễu cợt, hất hàm về phía sư đoàn trưởng đang gắt om sòm sau chiếc bàn xếp.
- Đại khái thế.
- Đừng giận nhé, phải đặt mình vào địa vị ông ta mới được. Hồi chiến dịch Phần Lan có một tay phóng viên cũng đến đơn vị chúng tôi, nói với ông ta điều gì chối tai đấy, mà ông ta lại chúa hay phạt, bèn cho ngay anh chàng mười ngày giam. Nhưng chẳng may mãi sau mới biết tay này là một nhà văn, lại là một nhà văn có tiếng tăm nữa kia. Anh ta cũng có trình bày với ông nhà tôi khi ông tống giam anh ta, nhưng ông nhà tôi chẳng chịu nghe, ông ấy có đọc văn thơ chữ nghĩa gì đâu. Vậy tôi khuyên đồng chí hãy chờ sư đoàn phó chính trị về. Mà tôi còn khuyên đồng chí là nên...
Nhưng Xintxốp đã không được biết ông thủ trưởng pháo binh hay giễu cợt có định khuyên nhủ mình những gì nữa: thoạt tiên một quả đại bác hạng nặng nổ oàng trong rừng, sau đó là cả một loạt đạn nữa, thế là cả Xintxốp lẫn thủ trưởng pháo binh cùng sư đoàn trưởng, tất cả đều bò xuống những giao thông hào đào trong lớp cát vàng giữa những cây thông. Bọn Đức không nã vào sư đoàn bộ mà nã ngay vào đại đội pháo đặt ở sau rừng, nơi mà đại tá định mời Xintxốp đến ăn lót dạ. Xintxốp biết được điều đó nhờ cuộc đối thoại giữa người cán bộ pháo binh hay giễu cợt ấy và sư đoàn trưởng to béo đã bò xuống cùng một giao thông hào khác, cách họ chừng hai chục thước.
- Đồng chí đã tìm được chỗ đặt pháo tốt nhỉ! - sau tiếng nổ, ông đại tá to béo ló ra khỏi giao thông hào, quát lên.
- Xin báo cáo! - thủ trưởng pháo binh cũng ló ra khỏi giao thông hào và đặt tay lên vành mũ, lớn tiếng đáp lại. - Khi đồng chí dời chỉ huy sở lại đây tôi đã báo cáo trước với đồng chí rồi đấy ạ!...
Một quả đại bác nữa nổ và cả hai vị đại tá đều lại phải thụt xuống giao thông hào.
- Có gì mà phải báo cáo báo chồn nữa chứ! - sư đoàn trưởng lại thò đầu ra khói giao thông hào, đỏ mặt tía tai quát. - Khi tôi đã chuyển chỉ huy sở đến thì lẽ ra đồng chí phải dời chỗ ngay mà không cần báo cáo...
- Báo cáo, - thủ trưởng pháo binh lại đặt tay lên vanh mũ gào to, - là tôi đã báo cáo với đồng chí rồi, và chính đồng chí đã ra lệnh không phải dời chỗ, bởi vì...
Lại có tiếng đạn rú, tiếng nổ, cả hai người lại thụt xuống giao thông hào rồi lại đứng phắt lên.
- Tôi có hỏi thế nào và tại sao đâu, - sư đoàn trưởng quát, - mà tôi chỉ ra lệnh cho đồng chí thôi!
Lần sau, khi thụt xuống giao thông hào bên cạnh đại tá pháo binh, Xintxốp đã mỉm cười, mặc dầu thấy tình hình nghiêm trọng. Người sĩ quan pháo binh đã nhận thấy nụ cười của anh và nháy mắt với vẻ tinh nghịch.
Trận pháo kích chấm dứt cũng đột ngột như lúc nó bắt đầu. Trong khắp cả khu rừng chỉ vài người bị thương nhẹ.
- Tôi ra lệnh dời pháo đi ngay lập tức! - ông sư đoàn trưởng to béo vừa quát vừa ì ạch bò ra khỏi giao thông hào và phủi cát trên hai đầu gối béo nung núc.
- Rõ, xin dời pháo!
Nhưng, sư đoàn trưởng không để mắt nhìn đại tá pháo binh nữa mà quát một người khác đem xe tới: ông sẽ đi tới chỗ Xerpilin!
- Xerpilin, Xerpilin ! - một phút sau ông thét vào máy nói. - Daitrikốp đây! Xerpilin, ở chỗ cậu thế nào? Tớ sẽ đến chỗ cậu ngay đây, đừng có cuống nhé! - Hình như người ta báo cho ông biết một tin vui gì đó qua máy nói. - Mẹ kiếp, cứ nện cho chúng nó như tớ với cậu đã nện cho bọn bạch vệ ấy, Xerpilin ạ!... Tớ sẽ đến ngay chỗ cậu bây giờ! - Đại tá vui vẻ thét vang cả khu rừng.
Sư đoàn trưởng vừa đi khỏi thì đại bác cỡ nhỏ bắt đầu bắn và người ta báo cáo qua điện thoại rằng xe tăng Đức đã tiến ra đường cái, cách sư đoàn bộ có ba cây số.
Đại tá pháo binh bèn trèo lên chiếc xe tải để đi đến chỗ những khẩu pháo của mình ở ngoài đường cái. Xintxốp đã lao theo ông ta, nhưng đến giây phút cuối cùng, anh do dự và ở lại. Tuy đối với bản thân anh cũng vẫn làm ra vẻ muốn đi mà đi không kịp, nhưng trong thâm tâm anh biết là mình đã hoảng. Một phút sau, khi đã lấy lại được bình tĩnh và thực sự quyết tâm đi, thì lúc này đã không có ai để đi cùng. Anh lại gần chiếc bàn con có người sĩ quan trực chiến ngồi và tựa lưng vào một cây thông lớn.
Tin tức nhận được qua máy nói mỗi lúc một đáng lo ngại hơn: xe tăng còn cách xa hai cây số, một cây số rưỡi, rồi một cây số....
Người sĩ quan trực chiến và một thiếu tá nào đó liền ra lệnh tháo lựu đạn và chuẩn bị chai xăng.
Khi những chai xăng chuẩn bị đã xong thì mới phát hiện ra là hầu như không ai có diêm cả. Mọi người quên bẵng những chiếc xe tăng trong mấy phút, quay ra lục túi tìm diêm để chia cho nhau. Có tiếng động cơ gầm rú từ ngoài đường vang lại, rồi có tiếng pháo bắn ảc liệt, sau đó tất cả bỗng im bặt.
Người sĩ quan trực chiến lau mồ hôi trán, đặt ống nghe xuống bàn, làm cho nó va vào bàn kêu lộc cộc rõ to trong bầu không khí yên lặng, rồi bảo rằng tất cả đều ổn: số xe tăng địch đánh thọc vào đã bị pháo binh ta tiêu diệt. Vậy mà chỉ năm phút sau, người ta đã thấy một chiếc xe vận tải nhỏ lượn ngoằn ngoèo giữa những gốc cây, chạy vào khu rừng, và một người, cái người mà Xintxốp ít hy vọng gặp ở đây hơn cả, từ trong buồng lái nhảy phắt ra. Đó là Miska Vanhxtanh, phóng viên nhiếp ảnh nổi tiếng của Maxcơva, một bạn học của Xintxốp từ hồi ở học viện báo chí. Bây giờ tuy anh ta đã mặc quân phục, nhưng con người thì vẫn y hệt hồi trước chiến tranh: to béo, vui nhộn, ồn ào, đeo hai máy “Lâyca” trước ngực.
- Chào Miska! - Xintxốp mừng rờ nói và đưa cả hai tay lắc lắc bàn tay nặng như quả tạ của người bạn cũ mà trước kia cũng như bây giờ không ai gọi bằng cái tên nào khác là Miska.
- Chào cậu! Chào cậu, - Miska vừa tủm tỉm cười đáp lại, vừa đưa bàn tay kia lên quệt mồ hôi túa ra trên bộ mặt tròn như cái chảo của anh. - Cậu nhót đến đây bao giờ thế?
“Nhót” là chữ ưa dùng của anh.
- Còn cậu thì từ đâu nhót tới đây? - Xintxốp vừa hỏi vừa nhìn nét mặt Miska rồi bất giác cũng bật cười.
- Này, cậu hiểu không, mình đang phóng xe trên đường thì trông thấy những xe tăng Đức bị choảng, mình liền nhót tới và nháy luôn. Ba xe tăng bị giã như giã cua, chỉ tội một nỗi là cái nọ ở cách xa cái kia. Nhưng không sao, nếu đem ghép lại, xén phong cảnh đi thì toàn cảnh sẽ... tuyệt vời! - và Miska giơ ngón tay cái lên.
- Nhưng cậu đến đây làm gì?
- Thì người ta bảo rằng ở đây có sư đoàn bộ mà lại, mình định ghé vào hỏi xem có thể nhót đi đâu nữa không.
- Vừa nhận được báo cáo là bên kia sông Đniép, gần Môghilép đã có hai chục xe tăng dịch bị diệt, - người sĩ quan trực chiến nói.
- Đấy mới là một “toàn cảnh”! Chúng mình lên xe mà nhót chứ? - Miska quay lại phía Xintxốp hỏi.
- Cũng được thôi...
- Không có người dẫn đường thì không tìm ra chỉ huy sở của Xerpilin đâu, - người sĩ quan trực chiến lại xen vào câu chuyện.
- Tôi tìm được tuốt, - Miska nói. - Chỉ có cái là chụp bây giờ thì hơi tối mất rồi. - Anh nhìn lên bầu trời đã bắt đầu ngả màu xám, bực mình nhăn mũi lại và cuối cùng, biết rằng không cãi lại được với ông trời, đành lòng phải cho chiếc xe của mình đi lấy xăng vậy. - Này, anh ngồi xệp xuống đất cạnh Xintxốp. - Cậu có gì chén không? Từ sáng đến giờ mình chưa ăn gì cả, lời nói danh dự của thiếu niên tiền phong đấy nhé!
Xintxốp lặng thinh mở túi dết lấy bánh mì và hộp thức ăn ra. Anh biết rằng trong lúc Miska đang đói bụng thì có hỏi han gì cũng vô ích. Miska rút dao, rạch một đường vòng quanh nắp hộp, dùng dao xiên những miếng thịt hộp, kèm thêm những miếng bánh to tướng, và bắt đầu nhai ngấu nghiến. Mãi khi thanh toán xong ba phần tư hộp, anh mới quay sang phía Xintxốp, miệng nhồm nhoàm hỏi:
- Thế cậu ăn rồi chứ?
- Chưa.
- Đấy, - Miska có vẻ tiếc rẻ, đẩy hộp thức ăn với chỗ bánh còn lại cho Xintxốp. - Mình bao giờ cũng thế, quên khuấy cả bạn bè, quả là không tiện thật.
Xintxốp đỡ lấy con dao cùng chỗ đồ hộp còn lại từ tay Miska, mỉm cười.
- Này, ở Maxcơva ra sao? - anh hỏi khi Miska nhai nốt miếng thịt hộp cuối cùng mà chàng ta sau khi đã trao hộp thức ăn cho Xintxốp rồi vẫn không nín nổi, lấy dao xiên thêm miếng nữa.
- Cậu sẽ bảo là mình nói dối, nhưng nào mình có trông thấy Maxcơva đâu. Hai lần mình nhót từ mặt trận về được có mấy tiếng đồng hồ, chỉ để nộp ảnh rồi quay trở lại. À, cậu biết không, - anh sực nhớ ra, giọng vui vẻ, - Côvrighin ở tờ “Ngôì sao” đã hy sinh tại Minxk rồi, cậu ạ. Thằng ấy tốt lắm, tội nghiệp cho nó!
Quả tình anh ta thương hại Côvrighin thật, nhưng vì hôm nay đã thu được những chiếc xe tăng vào ống kính, anh khoái chí đến nỗi chuyện gì anh cũng nói bằng cái giọng vui mừng như thế cả. Cũng vẫn với cái giọng ấy, anh bắt đầu kể lại những chuyến đi của mình ra mặt trận.
Xintxốp ngắt lời anh và hỏi là sau tất cả những chuyến đi đó, anh thấy tình hình chung ra sao.
Nhưng tình hình chung thì Miska chẳng nhìn thấy ra sao cả, điều anh đã trông thấy tận mắt là chúng ta, theo lối nói của anh, đang bị bọn phát xít dồn ép tợn và điều mà anh không nghi ngờ chút nào là dù sao chúng ta cũng sẽ đánh bại được bọn chúng.
Anh ta không muốn nói những chuyện nghiêm trang, và anh ta vui mừng ra mặt khi trông thấy chiếc xe của mình đi lấy xăng đã về.
- Kiếm được cái gì chén không? - anh hỏi người lái xe. Người lái xe lôi trong xe ra một ổ bánh mì gối. Miska bẻ ngav lấy một nửa và lại bắt đầu ăn. Còn Xintxốp thì đến trình diện với sư đoàn phó chính trị vừa từ hỏa tuyến vể.
Sư đoàn phó chính trị là một người Ukren đẫy đà, mũi dài, có bộ ria mép rậm lòng thòng làm cho ông giống một người chỉ huy quân sự hơn là một cán bộ chính trị. Ông cau có, nhưng nhẫn nại nghe Xintxốp nói xong và bảo rằng không rõ hôm nay Cục chính trị mặt trận ở đâu: mặt trận đã di chuyển nhưng bộ tham mưu tập đoàn quân thì còn đang ở Tsauxư và ở đó chắc chắn Xintxốp sẽ được biết Cục chính trị mặt trận ở đâu.
Xintxốp trình bày với ông rằng trước khi về tập đoàn quân, anh muốn ngày mai cùng với phóng viên nhiếp ảnh sang bên kia sông Đniép, đến thăm trung đoàn hôm nay đã diệt được nhiều xe tăng Đức.
Đối với đề nghị ấy sư đoàn phó chính trị vẫn tỏ một thái độ nhẫn nại, cau có và bảo rằng chính ông vừa từ bên đó về, nhưng muốn sang bên đó thì tốt nhất là đi ban đêm, ban ngày có thể không qua được nữa, mà nếu đi ban đêm cũng phải mang theo người dẫn đường.
- Đồng chí trung tá ạ, không sao đâu. Chúng tôi đã là lính chiến đấu già đời rồi, chúng tôi khắc đi tới nơi thôi, - vừa nhai nốt miếng bánh, Miska vừa sỗ sàng nói và ngất ngưởng đi đến bên sư đoàn phó chính trị.
- Già hay trẻ tôi chẳng biết, nhưng không có người dẫn đường thì các đồng chí không được đi! - ông ta ngắt lời. - Đồng chí cán sự phòng chính trị ăn xong ngay bây giờ và sẽ đi với các đồng chí. Các đồng chí chỉ chụp ảnh thôi hay là còn viết nữa?
- Cả chụp cả viết, - Miska nói.
- Nếu viết thì chớ có để lộ sự bố trí của các đơn vị đấy, - vẫn với cái giọng cau có ấy sư đoàn phó chính trị nói với Xintxốp mà không để ý gì tới Miska. - Thế mà bọn Đức cũng biết khối ra rồi đấy, cứ như là chúng nhìn qua tủ kính ấy, mẹ chúng nó!... - bỗng ông bật chửi rủa lên; tuy ông ở trung đoàn về sau một trận chiến đấu thắng lợi, nhưng rõ ràng đã có điều gì luôn luôn chì chiết ông.
- Báo cáo trung tá, đội trưởng du kích đã tới, - một chính trị viên trẻ tuổi đến gần sư đoàn phó chính trị báo cáo.
- Được. Còn đồng chí thì đi ăn ngay rồi quay trở lại chỗ Xerpilin với các đồng chí này bằng xe của họ, - sư đoàn phó chính trị hất đầu chỉ Xintxốp và Miska rồi quay về phía một anh chàng đẹp trai tóc vàng hoe, mặc một chiếc áo bludông da, đeo khẩu súng lục Môde và những quả lựu đạn ở thắt lưng. Anh ta vừa xuống ngựa, ông cùng với anh ta đi sâu vào rừng.
Một giờ sau, chiếc xe tải nhỏ nhẹ nhàng đè lên những tấm ván kêu cọt kẹt, vượt qua cầu sông Đniép tiến vào Môghilép. Đối diện với bệnh viện, nơi mà sáng nay Xintxốp còn nằm, một chuỗi cáng dài dằng dặc chở thương binh nặng rập rình trên những cánh tay, lặng lẽ nối đuôi nhau, đi tới những chiếc xe vận tải đang đỗ bên vỉa hè. Ở ngã tư tiếp liền đó, các pháo thủ đắp lên mình những tấm áo mưa vải bạt đang ngủ gà ngủ gật bên cạnh những khẩu cao xạ.
Không hiểu sao trong thành phố mọi việc đều diễn ra hết sức im lặng: người ta lặng lẽ kiểm tra giấy tờ, lặng lẽ chỉ đường; tất cả mọi việc đều có vẻ trật tự làm cho Xintxốp vui mừng. Trong lúc họ vượt qua cầu và đi trong thành phố, đã có tới ba đội tuần tra ban đêm lần lượt giữ họ lại để xét hỏi.
Cuối cùng, khi đã ra đến tận ngoại ô Môghilép, anh chính trị viên mới cho đỗ xe trước căn nhà nhỏ một tầng.
- Bây giờ để tôi hỏi xem Xerpilin đã dời địa điểm chưa, - anh chính trị viên nói rồi cho người gác xem giấy và biến vào trong cổng căn nhà.
Người ta nghe thấy có tiếng nói ở đằng sau những ô cửa sổ che rèm kín mít. Một phút sau, anh chính trị viên quay ra.
- Ban tác chiến sư đoàn đang ở đây và hiện thời sư đoàn trưởng cũng đang có mặt, - anh khẽ nói với Xintxốp, và Xintxốp nhớ ngay đến ông đại tá to béo đã thét vào máy nói: “Tớ sẽ tới, tớ sẽ tới chỗ cậu, Xerpilin ạ!”
- Thế Xerpilin ở đâu? - Xintxốp hỏi, vì hôm nay anh đã nghe nhiều người nhắc đến cái tên Xerpilin đến nỗi anh tưởng như mình gần như đã quen biết con người ấy.
- Vẫn chỗ cũ, - anh chính trị viên nói.
Họ cho xe chạy qua những căn nhà cuối cùng của khu ngoại ô, rẽ sang con đường lát đá, chui qua cái cầu xe lửa và lại chạm trán với một đội tuần tra từ trong bụi cây xông ra. Lẩn này họ gồm những bốn người.
- Trật tự thật! - Miska nói.
- Nơi nào có bộ đội là nơi đó có trật tự, - anh chính trị viên đáp lời.
Anh em tuần tra kiểm tra giấy tờ rồi ra lệnh đánh xe ôtô vào bụi. Họ để hai người ở lại canh xe, còn hai người khác thì báo rằng “sẽ dẫn các đồng chí chỉ huy đến tận nơi”. Một người đi trước dẫn đường, người thứ hai thì đi đằng sau, tay lăm lăm chĩa khẩu súng trường. Xintxốp hiểu rằng họ không chỉ dẫn đường mà còn áp giải mình để đề phòng bất trắc. Vấp dúi dụi vì trời tối, họ bước xuống một giao thông hào, đi khá lâu trong đó rồi rẽ sang một công sự đồ sộ và cuối cùng đụng phải một cửa hầm kiên cố. Người tuần tra thứ nhất biến vào hầm và một phút sau quay ra với một người rất cao, cao đến nỗi trong bỏng tối tiếng nói của ỏng hình như từ đâu phía trên vọng xuống.
- Các đồng chí là ai? - ông ta hỏi.
Miska nhanh nhảu trả lời rằng mình là phóng viên.
- Phóng viên gì? - người cao to đó ngạc nhiên nói. - Phóng viên gì mà lại đến đây lúc mười hai giờ đêm? Ai mà lại đến tìm tôi vào lúc mười hai giờ đêm thế này?
Qua những tiếng “đến tìm tôi”, Xintxốp hiểu rằng đó chính là Xerpilin.
- Tôi sẽ cho cả ba đồng chí nằm bẹp xuống đất ngay bây giờ và các đồng chí sẽ nằm tới sáng, cho đến lúc chúng tôi xác minh được các đồng chí là ai. Ai phái các đồng chí tới đây?
Xintxốp nói rằng sư đoàn phó chính trị đã phái mình tới.
- Thế mà tôi sẽ bắt các đồng chí nằm bẹp xuống đất đến mai đấy, - người tiếp chuyện họ khăng khăng nhắc lại, - và sáng mai tôi sẽ báo cáo với đồng chí ấy rằng tôi yêu cầu đêm hôm chớ có phái đến khu vực bố trí của trung đoàn tôi những người mà tôi không biết là ai.
Anh chính trị viên không ngờ tới nông nỗi ấy, lúc đầu còn rụt rè, cuối cùng phải lên tiếng:
- Báo cáo lữ đoàn trưởng, tôi là Mirônốp ở phòng chính trị sư đoàn đây ạ. Đồng chí có biết tôi đấy ạ...
- Ừ, đồng chí thì tôi biết, - lữ đoàn trưởng nói. - Chính vì thế nên tôi chưa bắt tất cả các đồng chí nằm bẹp xuống đất tới sáng. Đấy, các đồng chí phóng viên, các đồng chí cứ thử tự suy xét xem, - ông nói tiếp với một giọng khác hẳn mà đằng sau đó phảng phất một nụ cười không thể thấy được trong bóng tối, - tình hình ra sao thì các đồng chí rõ cả rồi đấy, buộc lòng phải nghiêm khắc thôi. Xung quanh ai cũng cứ lải nhải: “Bọn biệt kích! Bọn biệt kích!”. Và tôi thì muốn rằng cả đến lời đồn đại về bọn biệt kích cũng không thể có trong khu vực bố trí của trung đoàn tôi. Tôi không công nhận chúng đâu. Nếu canh gác tốt thì làm gì có bọn biệt kích nào được. Vào hầm đi, trong đó có đèn, người ta sẽ kiểm tra giấy tờ của các đồng chí rồi tôi sẵn sàng phục vụ các đồng chí. Còn đồng chí Mirônốp, đồng chí ở lại đây nhé!
Xintxốp và Miska bước vào hầm và một phút sau đã trở ra. Đổi giận làm lành, lữ đoàn trưởng siết tay họ trong bóng tối và dùng lòng bàn tay để che điếu thuốc, ông bắt đầu kể lại trận chiến đấu mới chấm dứt ba giờ trước đây, trong đó ông đã cùng với trung đoàn mình tiêu diệt ba mươi chín xe tăng Đức. Còn đầy cảm tưởng về trận chiến đấu ấy và mỗi lúc một hoạt bát hơn, ông kể lại với cái giọng kim cao lanh lảnh đã được kích động, trẻ trung đến nỗi cứ theo giọng nói thì Xintxốp không thể nào cho là con người cao lớn đó đã quá ba mươi tuổi được. Xintxốp nghe và thắc mắc không hiểu tại sao con người có giọng nói trẻ trung này lại giữ cái quân hàm lữ đoàn trưởng cũ rích đã bị bãi bỏ từ lâu và tại sao trong lúc giữ quân hàm ấy ông lại chỉ huy vỏn vẹn có một trung đoàn.
- Người ta cứ lải nhải “Xe tăng, xe tăng!”, - Xerpilin nói. - thế mà chúng tôi đã diệt và sẽ diệt chúng đấy! Tại sao vậy? Sáng mai khi mặt trời mọc, các đồng chí sẽ thấy: ở trung đoàn tôi đã đào được hai chục cây số toàn là công sự và giao thông hào. Đúng thế, không phải nói láo đâu! Ngày mai, các đồng chí sẽ được chứng kiến: nếu chúng nó tái diễn thì chúng tôi cũng sẽ tái diễn cho mà xem! Đấy, một chiếc nằm ở kia kìa! - và ông trỏ một đống đen lù lù cách đó không xa lắm. - Nó không chạy nổi được một trăm thước nữa để đến chỉ huy sở của tôi, và cứ thế nó dừng lại, ngoan ngoãn đứng ở đó, tại nơi đã quy định cho nó. Thế thì tại sao vậy? Vì người lính trong công sự đã hết cảm thấy mình là con thỏ và không cụp tai lại nữa.
Vừa liên tục rít thuốc lá hết điếu nọ đến điếu kia, ông vừa kể cho Xintxốp và Miska nghe thêm suốt một tiếng đồng hồ rằng phải chật vật lắm mới giữ vững được tinh thần chiến đấu trong trung đoàn, trong khi mà ròng rã mười ngày trời, ngày nào cũng có hàng trăm và thậm chí hàng ngàn người thoát khỏi vòng vây từ phía tây kéo mãi qua con đường mà trung đoàn đang chặn giữ.
- Trong đám người bị bao vây ấy khối kẻ hoang mang! - Miska nói một cách khinh thường.
Cái giọng tự phụ của con người chưa được nếm mùi gian khổ thoáng lộ ra trong lời nói của anh đã chạm lòng lữ đoàn trưởng.
- Phải, bọn hoang mang không phải là ít, - ông ta tán thành. - Nhưng đồng chí muốn gì ở người ta chứ? Ngay trong chiến đấu họ cũng đã khiếp sợ rồi, nhưng nếu không chiến đấu lại khiếp sợ gấp đôi kia! Vì đâu mà họ sợ? Người lính đang đi trên đường ngay ở hậu phương mình, thế mà lại có xe tăng lao đến; anh ta nhảy sang con đường khác thì lại vẫn có xe tăng xông tới. Anh nằm xuống đất thì cũng lại bị từ trên trời bắn xuống! Những kẻ mà đồng chí cho là hoang mang là như thế đấy! Nhưng phải xem xét tình hình đó một cách tỉnh táo mới được: chín phần mười trong bọn họ không phải là những kẻ hoang mang suốt đời. Cứ để cho họ xả hơi chút đã, chỉnh đốn lại tác phong đi, rồi đưa họ vào những diều kiện chiến đấu bình thường, họ sẽ làm tròn được nhiệm vụ của họ. Nhưng nếu cứ nhìn họ trong dạng mắt trợn trừng, môi run bần bật thì tất nhiên chẳng thấy vui vẻ gì, ta sẽ chỉ nhìn rồi tự nhủ: mong sao họ xéo hết khỏi vị trí của mình đi cho rảnh. Không đâu, họ vẫn đi qua, đi mãi. Tất nhiên họ kéo qua như thế là tốt đấy, vì rồi đây họ sẽ chiến đấu đấy, nhưng tình hình của chúng tôi đâm ra gay go! Không sao, dù thế nào chúng tôi cũng không để cho anh em mình ở đây mất tinh thần, - cuối cùng Xerpilin kết luận. - Trận chiến đấu hôm nay đã chứng minh điều đó. Tôi chẳng giấu giếm gì là tôi hài lòng về trận chiến đấu này. Từ sáng sớm, tôi đã hồi hộp như cô dâu về nhà chồng: hai mươi năm trời không đánh nhau, trận đầu tiên đâu có phải chuyện đùa! Nhưng bây giờ thì không sao nữa rồi, tôi tin vào trung đoàn mình và thấy hả dạ rồi. Hả dạ lắm! - ông nhắc lại với giọng có phần nào như thách thức. - Thôi được rồi, ba hoa xích tốc thế là đủ. Trong hầm ngột ngạt lắm, lại chật chội nữa. Các đồng chí có mang theo áo capốt đấy chứ?
- Có ạ!
- Thế thì nằm ngủ ở trên này đi. Nếu nghe tiếng súng máy thì cứ ngủ, đừng để ý làm gì: chúng nó quấy rối đấy. Nhưng nếu pháo binh bắt đầu giã thì xin mời các vị cứ việc xuống hầm cho! Xin lỗi các đồng chí, tôi đi kiểm tra các trạm gác đây. - Trong bóng tối, ông đặt tay lên vành mũ rồi đi dọc theo chiến hào, có mấy người nữa lặng lẽ theo sau.
- Ở chỗ tay này đừng hòng được chén gì đâu nhé! - Miska nói ra ý nửa khen nửa chê, khi anh ta đã cùng với Xintxốp cuộn tròn trong những tấm capốt, nằm lăn ra trên cỏ.
Xintxốp lặng ngắm hồi lâu bầu trời mây đen kéo kín, không còn lấy một ngôi sao. Anh ngủ thiếp đi và tưởng chừng chỉ vài phút sau đã có tiếng súng máy quạt dữ dội. Qua cơn mơ màng, anh nghe thấy tiếng súng khi thì lặng đi, khi lại rộ lên, khi thì vang lên ở chỗ cũ, khi thì lại ở chỗ khác hẳn.
- Miska này, - Xintxốp tỉnh dậy vì cảm thấy tiếng súng đã bao vây khắp ngả, anh thúc vào sườn ông bạn Miska đang ngáy khò khò.
- Gì thế? - Miska hỏi giọng ngái ngủ.
- Này, lạ thật, sao mới đầu tiếng súng ở phía trước, đằng chân, mà bây giờ lại ở đâu phía sau, đằng đầu mình...
- Thế thì cậu cứ việc quay đầu lại, - Miska đùa một cách ý nhị qua giấc ngủ và lại bắt đầu ngáy.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét