Những người sống và những người chết
Tác giả: Kônxtantin Ximônốp
Người dịch: Trọng Phan & Hà Ngọc
Người biên tập: Lê Anh Hiền
Nhà xuất bản Cầu vồng - Maxcơva - 1987
Chương Mười Sáu
Dinh cơ cũ của một tên địa chủ dựng trên
một ngọn đồi nhỏ, thấp, nhưng dễ trông thấy, còn khu công viên cũ thì đổ xuống
theo hai sườn núi: về phía sau, về hậu tuyến quân ta, và về phía trước, tới chỗ
quân Đức. Làng Dubrôvixư bị quân Đức chiếm mấy hôm trước đây nằm sau dòng suối
đóng băng, lượn khúc ngoằn ngoèo trong thung lũng nhỏ.
Bao nhiêu ngày đêm liền ngọn đồi nhỏ bị bom
và đạn đại bác làm rung chuyển, một nửa cây cối trong khu công viên bị gãy gục
như những que diêm, tòa nhà có lầu các đã bị sụp đổ tan tành, vì bom rơi thẳng
vào đó; gác chuông trên ngôi nhà thờ trong khu dinh cơ này bị đạn đại bác cắt
ngang đến tầng thứ nhất. Nhưng dù cho quân Đức có lay chuyển, có đào xới mảnh
đất này thế nào đi nữa, sau mấy cuộc rút lui bất đắc dĩ, tựa hồ như phát khùng
lên cả với mình lẫn với đơn vị láng giềng, sư đoàn vẫn cứ bám chắc và cắn chặt
răng vào cái quả đồi nhỏ có tòa nhà cũ của địa chủ kia và hình như lại càng
nghiến chặt hai hàm răng hơn. Đã mười lăm ngày đêm, kể từ sáng 15 tháng mười
một, quân Đức dốc toàn lực tiến về phía Maxcơva, cố sức bao vây lấy nó đồng
thời cả từ hướng bắc lẫn hướng nam, và ở nhiều nơi, càng ngày chúng càng thọc
sâu về phía thủ đô ngay tại các khu vực trung tâm của mặt trận.
Sau hai tuần tấn công, chúng đã chiếm được
Klin, Ixtra, Iakhrôma, Xônnhesnôgôrxk, Venhép, Stalinôgôrxk, Bôgôrôđitxk,
Mikhailốp. Ở hướng tây-bắc, chúng chỉ còn cách Maxcơva vẻn vẹn hai mươi lăm cây
số...
Mặc dầu sau cuộc duyệt binh ở Hồng trường,
sư đoàn đã ra quân với mệnh lệnh trực tiếp không được lùi một bước, rốt cuộc nó
vẫn đành cứ phải rút lui nữa, và không phải chỉ một lần.
Quả thực, quân bưu ngày càng đưa tới đây
nhiều tin tức hơn, những tin tức từ hậu phương nói rằng sau lưng họ có các đơn
vị của thê đội hai và xa hơn nữa hình như có cả thê đội ba.
Những người đang chiến đấu ngoài hỏa tuyến
bắt đầu cảm thấy rằng hiện nay đằng sau lưng họ, sau cái phòng tuyến rải mành
mành của họ, người ta đang dành dụm một cái gì đó để phòng xa. Họ đã không còn
bất giác cảm thấy lạnh gáy nữa, một cảm giác thường sinh ra, khi người ta biết
rằng sau lưng mình chẳng có ai hết và nếu mình ngã xuống thì kẻ địch sẽ bước
qua và tiếp tục tiến...
Nghe nói quân Đức đang dốc hết sức lực cuối
cùng ra để tấn công và những trận đánh vừa qua tựa hồ như đã xác nhận điều này.
Nhưng ai biết rõ chúng, liệu chúng còn bao nhiêu cái “sức lực cuối cùng” đó
nữa? Hôm qua, ai nấy đều mừng rỡ là ở mặt trận phía nam, ta đã lấy lại Rôxtốp,
tuy rằng vỉ có tin ấy nên mới biết được là trước đây ta đã để mất Rôxtốp, còn
hôm nay thì bản thông cáo chiến sự buổi sáng ghi theo đài phát thanh lại nói
rẳng cách đây mấy hôm, quân ta đã rút khỏi Chikhvin. Có lẽ sau này ta sẽ chiếm
lại như Rôxtốp nhưng bây giờ thì đã mất…
Giữa lúc ấy, trong căn hầm ngầm của các
chiến sĩ tiểu liên đang có cuộc tranh cãi về Rôxtốp và Chikhvin. Hầm này được
che bằng hai lớp gỗ khúc tròn lót dầm của cái phòng ươm cây bằng gạch cũ kỹ. Từ
nơi này đến sở chỉ huy tiểu đoàn, trong hầm tòa nhà địa chủ và đến hỏa tuyến
chạy qua ngay đây, ở phía dưới, chỗ rìa công viên, chỉ cách nhau trong tầm tay
với. Lêônhiđốp và Kômarốp đang tranh cãi với nhau. Anh chàng Lêônhiđốp nóng tính
công kích bản thông cáo chiến sự của Cục thông tin, còn anh chàng Kômarốp chín
chắn thì bảo vệ bản thông cáo chiến sự kia.
- Muỗi, thôi đi, - Lêônhiđốp chọc tức anh
ta. - Cậu thì bao giờ cùng đúng tất. Thế thì đúng ở cái chỗ nào, khi người ta
bảo tớ rằng chúng mình đã chiếm được Rôxtốp của quân Đức, còn tớ thì dụi mắt:
cha mẹ ơi! Chiếm thì chiếm được đấy, nhưng đã bỏ mất từ lúc nào nhỉ? Chả nhẽ tớ
đã ngủ một giấc và vừa tỉnh dậy à? Tình hình Chikhvin cũng vậy. Thế là xảy ra
tai họa, bỏ mất rồi. Mà cứ nói là bỏ mất, nhưng cái “cách đây mấy hôm” lại có
thể là đã một tháng nay chưa biết chừng.
- Thế thì ngốc thật! - Kômarốp nói. - Giá
mà cậu biết trước được một tuần thì cậu sẽ được thêm cái gì?
- Giá có bị giảm đi cũng được, nhưng tớ
muốn biết.
- Nhưng có lẽ là không nên báo tin đó. Có
lẽ không nên cho quân Đức biết điều đó!
- Tại sao? - thậm chí Lêônhiđốp nhảy phắt
dậy. - Thế là bọn Đức không biết rằng chúng đã chiếm được cái gì à? Chiếm được
và không đoán ra! Khi chiếm Cudơkôvô chúng ta cũng giấu đi như thế à? Ai lại
thế bao giờ! Trung đoàn trưởng suýt nữa thì gọi điện thẳng từ tiểu đoàn chúng
ta lên tập đoàn quân, chính tớ nghe mà. Thế mà khi rút lui, thì ngay ở đây, cố
nhiên là cùng không buồn kèn trống gì cả... Cậu thì nói gì cũng đúng! Cậu không
phải là muỗi mà là con bọ dừa.
- Nhưng cậu dừng làm om lên thế, - Kômarốp
bình tĩnh đáp lại. - Cậu biết nhiều quá... Người này đối với cậu là con bọ,
người kia là con sâu. Còn chính cậu thì kêu vù vù như con ong đất ấy: chỉ be ầm
lên mà chả rõ đầu cua tai nheo gì cả.
- Nhưng tớ sẽ còn kêu nữa! - Lêônhiđốp nói
và bộ mặt của anh ta từ chỗ dữ tợn trở thành buồn bã. - Tớ thương hại cho
Chikhvin! Chính tớ quê ở Kaivakxa, có thể nói là người Chikhvin, Thế mà
Chikhvin bị chiếm mà tớ không biết.
- Cậu quê ở Vakxa nào ở vùng ấy nhỉ? -
Kômarốp vốn tính hòa nhã liền trêu chọc cái thói hay cà khịa của Lêônhiđốp, -
Vakxa nào thế nhỉ?
[Vakxa là xi đánh giày]
- Không phải là Vakxa mà là Kaivakxa, ở gần
Chikhvin có một địa phương tên là như vậy! - Lêônhiđốp bực mình đáp.
Nhưng Kômarốp đã không muốn bỏ lỡ cơ hội
chiếm ưu thế trong cuộc tranh luận này.
- Ê, cậu này! Chính quê thì ở Vakxa mà dám
phán đến tận trời! Không có cậu thì người ta không biết cách viết bản thông cáo
chiến sự!
- Hạ sĩ ơi, này nhé, - Lêônhiđốp nói với
Xintxốp đang ngồi bên chiếc bàn vốn là một cánh cửa kê trên những mảnh gạch vỡ
và viết thư cho vợ. - Theo ý ông thì người ta có cái đầu để làm gì: để nói “có”
hay để nói “không”?
- Để có óc ở trong đầu, - Kômarốp đáp trước
khi Xintxốp ngẩng đầu lên.
- Thế óc ở trong đầu để làm gì? Để nói “có”
hay để nói “không”? - Lêônhiđốp chẳng chịu yên.
Xintxốp ngửng đầu lên. Trong hầm ấm áp và
khô ráo, mà hôm nay lại thêm vẻ yên tĩnh nữa.
Lần đầu tiên trong suốt thời gian đó, ở khu
vực này im tiếng súng từ sáng. Ngày đầu tiên, trước mắt họ không có ai bị giết
và bị thương, và chỉ có tiếng đại bác ở đằng xa, phía bên phải, ở sư đoàn bên
cạnh, là nhắc nhở đến cái chết: chắc hẳn đằng ấy đang diễn ra một trận chiến
đấu ác liệt. Nhưng lúc này, chưa ai nói đến chuyện tăng viện, một sự tăng viện
mà người ta có thể đòi hỏi ở họ vào bất cứ lúc nào, ban ngày và ban đêm.
Xintxốp cũng như mọi người khác đều lấy làm mừng vì hôm nay quân Đức không dồn
ép họ mà dồn ép đơn vị láng giềng. Nếu thiếu một chút bệnh ích kỷ đó của con
nhà lính thì nói chung bạn không sống nổi ở ngoài hỏa tuyến.
Sau nửa tháng chiến đấu, trong số bảy người
của tiểu đội Xintxốp chỉ còn lại bốn, kể cả bản thân mình. Anh chàng binh nhất
Pudalốp thường hay phục dịch cấp trên những việc lặt vặt, nhưng trong giây phút
quyết định đã hy sinh tính mạng mình để phục vụ đồng chí, anh ta đã chết trong
khi lôi một thương binh ra khỏi bãi chiến trường; hai người khác đã bị thương
và được đưa về đội điều trị; còn một người bị thương nữa là Pextrác, nhưng anh
này không muốn rời khỏi đơn vị và nhờ sức vóc lực sĩ nên ở lại đơn vị với vết
thương rách toạc trên vai. Bây giờ anh đang đi lĩnh bữa ăn trưa, và trừ anh ta
ra thì trong hầm có đầy đủ quân số hiện diện của tiểu đội: Xintxốp vả hai anh
chàng chiến sĩ tiểu liên thường xuyên cãi lộn nhau tức là Lêônhiđốp và Kômarốp,
người đã được gắn cái biệt hiệu Kômarơ đến nỗi cả trung úy trung đội trưởng
Karaulốp cũng gọi như vậy.
- Các cậu giỏi kiếm chuyện để cãi vã nhỉ! -
Xintxốp nói. - Khi mà trong đầu chỉ có chữ “có” hay “không” thì chả nhẽ đó là
cái đầu được à? Đó là một bản tự khai.
Xintxốp thừa hiểu là Lêônhiđốp có ngụ ý gì
trong hai chữ “có” hay “không” của mình: anh ta có ý nói rằng người thông minh
là người, mà nếu cần thì biết nói cả chữ “không” nữa.
Anh ta là người chiến đấu gan dạ nhưng tính
tình ngang ngược và anh điên tiết lên trước cái vẻ bình tĩnh của Kômarốp là
người thường cho rằng bất cứ việc gì xảy ra đều đúng tất. Giá đây là cuộc tranh
cãi khác thì có lẽ Xintxốp đã ủng hộ Lêônhiđốp, nhưng lúc này, vì đang ở trong
tâm trạng thiếu phấn khởi, cho nên Lêônhiđốp cứ xoi móc bản thông cáo chiến sự
mà đó là một việc không nên làm. Theo quy định thì ở ngoài mặt trận không được
tỏ ý hoài nghi bản thông cáo chiến sự. Hơn nữa, lại nói toạc ra miệng. “Vả lại,
khi thông báo cụ thể rằng Chikhvin đã bị mất hôm nay hay cách đây ba hôm thì có
ý nghĩa gì nhỉ? - Xintxốp nghĩ thẩm. - Có lẽ mọi người hy vọng sẽ đánh bật được
quân Đức đi nên không thông báo ngay, chẳng khác gì chúng ta khi bị đánh bật ra
khỏi Cudơkôvô thì suốt cả đêm chưa báo cáo lên tập đoàn quân vì mọi người đều
nghĩ rằng mình sẽ chiếm lại? Nhưng sau đó, đến sáng, rút cục dù muốn hay không
vẫn phải báo cáo...”
- Hạ sĩ, ông viết thư cho ai đấy? - sau một
lát im lặng, Lêônhiđốp hỏi.
- Cho vợ.
- Nhưng mình lại nhận thấy rằng ông đã viết
cho chị ấy lần thứ hai rồi, nếu không phải là lần thứ ba, thế mà chả nhận được
thư trả lời.
- Chả nhận.
- Chúng mình có thể khiếu nại, nếu sự tình
đã như vậy,- Lêônhiđốp nói. Trong lời nói của anh ta vừa có ý chẽ giễu vừa có
cả ý thông cảm.
- Nhưng cậu khiếu nại ở đâu chứ? Y như nói
với người điếc ấy, chả thấy trả lời.
- Thì chính mình bây giờ cũng chẳng được
thư trả lời gì cả, - Lêônhiđốp nói. - Hôm qua mình tưởng là sẽ biết được tí gì
nhưng hóa ra không. Cứ tưởng là quân Đức ở gần Vônkhốp, thế mà hôm nay té ra là
chủng đã ở bên kia Chikhvin, y như sét đánh ngang tai! Mình lại có gia đình ở
đó. Mình nghĩ rằng ngộ nhỡ ra không phải chỉ mình do cái kiểu ăn gian ngày
tháng mà vui mừng là quân Đức ở Chikhvin mà cả ở đó cùng bị bất ngờ như nước
lạnh dội xuống đầu? Sáng nay là quân ta mà đến chiểu đã là quân Đức à? Mà bố
mình lại là thương binh từ hồi nội chiến. Nếu không báo trước thì ông cụ không
đi xa đâu.
Chỉ sau khi nghe anh ta nói, cả Xintxốp lẫn
Kômarốp mới hiểu rõ đầu đuôi là tại sao hôm nay anh ta đâm ra dữ tợn khác
thường.
- Thế thì cậu cũng lấy giấy bút ra mà viết
thư như hạ sĩ ấy. - Kômarốp nói.
- Viết về đâu? - Lêônhiđốp hỏi.
- Về chỗ ấy, về Vakxa của cậu ấy...
Kômarốp đã thôi không muốn châm chọc anh ta
nữa, nhưng chỉ vì mới nói đùa có hai lần, cho nên quên mất tên gọi thực của
làng quê Lêônhiđốp.
- Kai-vak-xa! - Lêônhiđốp chữa lại theo
từng vần. - Nếu cậu còn gọi tếu như vậy lần nữa tớ sẽ bạt tai cho đấy.
- Nhưng cậu cứ viết đi. - Kômarốp nhắc lại
mà không đối đáp lại lời đe dọa. - Trong chiến tranh chả thường thế đó sao?
Nghe nói là mặt trận quân ta ở xung quanh Tula đều bị vây hết, thế mà Tula vẫn
còn. Còn ở chỗ khác thì có thể còn ngược lại cơ: Chikhvin đã bị chiếm, nhưng
xung quanh lại là quân ta. Ngồi xuống mà viết đi.
- Không đâu, - Lêônhiđốp khăng khăng nói;
tính anh vốn khó tin vào một sự may mắn như vậy.
Xintxốp ngồi nhích đi cho ánh sáng chiếu
vào tờ giấy nhiều hơn, rồi lại quay về với bức thư.
Lêônhiđốp nói đúng, suốt mấy tuần vừa qua.
anh đã gửi cho Masa ba lá thư theo địa chỉ vu vơ của cái hòm thư mà anh đã ghi
vào mảnh giấy từ hôm còn ở Maxcơva.
Lá thư này cũng ngắn gọn như hai thư trước:
anh còn sống và khỏe mạnh. Chưa kể đến chế độ kiểm duyệt thời chiến, nói chung
thật khó lòng viết được những lá thư dài. khi không thể hình dung được là nó có
thể đến tay người nhận bằng cách nào.
Sau khi viết xong và gấp lá thư thành hình
tam giác, cũng như những lần trước, anh viết thêm vào dưới họ tên Masa: “Trong
trường hợp không có người nhận, đề nghị vẫn cứ bóc ra”. Rốt cuộc thì nếu cô ấy
có bắt liên lạc được với Maxcơva bằng điện đài, chả nhẽ họ lại khó dễ không
chuyển được mấy lời: “Chồng chị vẫn sống và khỏe mạnh” hay sao? Nếu có truyền
tin bằng mật mã đi nữa thì đáng bao nhiêu mã hiệu? Chuyện vặt! Mà giá được thế
thì người công tác ở trong vùng địch kia sẽ yên tâm. Chả nhẽ lại khó khăn thế
kia à? Mà nếu khó khăn đi nữa thì việc này phải giải quyết ra sao chứ? -
Xintxốp nghĩ thầm, trong lòng thoáng thấy căm giận một người nào đó do bản thân
anh tưởng tượng ra, cái người đã không muốn săn sóc tới Masa.
Pextrác hạ thấp đôi vai đồ sộ, bước vào căn
hầm. Tay cầm chiếc bình toong, nách cắp hai chiếc bánh mì như hai hòn gạch.
Chiếc bình toong đó vốn được dùng để đựng sữa, nhưng trong những ngày vừa qua,
nó đã thay thế chiếc phích bị vỡ vì mảnh đạn.
- Thế là chúng ta lại được thưởng thức món
ăn nóng dòn đây, - Lêônhiđốp xoa tay.
- Nhưng hãy đợi anh em đi tuần thám và
trung đội trưởng quay về đã chứ? Hay thế nào? - Kômarốp ngăn anh ta lại.
- Cậu có lấy báo về không? - Xintxốp hỏi
Pextrác.
- Có.
Anh cởi phanh áo capốt và lôi trong quần ra
một tờ báo nhàu nát rồi vuốt cho thẳng.
- Báo quân đoàn à?
- Còn hơn thế nhiều, anh ạ, - Pcxtrác nói.
Cậu ta bao giờ cùng gọi Xintxốp là anh, - “Tin tức” kia!
- Cậu thật tháo vát đấy, - Lêônhiđốp nói.
- Tớ lấy ngay ở nhà bếp, - Pextrác nói. -
Một ông phóng viên nhậu nhẹt ở đó và để lại một chồng báo hàng ngày.
- Tức là ông ta được nhậu ngon, - Lêônhiđốp
nhếch mép cười.
Pextrác mặc kệ, không trả lời ý kiến nhận
xét ấy, cẩn thận vuốt tờ báo thêm lần nữa và trao cho Xintxốp và nói rằng vừa
rồi anh ta đi ra hỏa tuyến cùng với một tay nhiếp ảnh từ sư đoàn xuống. Nhà
nhiếp ảnh này đề nghị chỉ cho anh ta sở chỉ huy tiểu đoàn và đi đến chỗ
Malinin.
- Thế nghĩa là ông sắp phải mở tiệc đây, -
Lêônhiđốp nói với Xintxốp.
Anh em chiến sĩ tiểu liên đều nắm được sự
việc ấy: họ biết rằng Xintxốp đang được xét để phục hồi đảng tịch và cũng như
mấy người khác trong tiểu đoàn, đã lọt qua được thường vụ đảng ủy trung đoàn,
anh đang mong đợi nhà nhiếp ảnh; người này nhất định lát nữa sẽ đến đây.
- Hẳn là thế, - Xintxốp nói và mỉm cười.
Anh mừng vì nhà nhiếp ảnh đã đến và anh không có lý do để dấu các đồng chí điều
đó.
- Ông mượn dao cạo chứ? - Lêônhiđốp hỏi.
Anh ta có một con dao cạo tốt và anh cho
anh em khác mượn không tiếc.
- Nhưng tớ cùng có thể cạo bằng dao của tớ,
- Xintxốp nói.
- Chà, cạo bằng dao của ông thì ra cái gi!
Bộ mặt sẽ nham nhở như bãi tha ma bị bò gặm.
Xintxốp múc nước từ trong chiếc xô đặt cạnh
lò sưởi, đổ vào trong cái vỏ đồ hộp và đặt lên để dun.
- Có cái gì hay thì mình sẽ đọc to lên nhé?
- Lêônhiđốp kéo tờ báo về phía mình vả nói. Anh ta thích đọc to, nhưng không
phải là đọc hết cả mà chỉ đọc những điều gì anh cho là đáng chú ý.
Xintxốp lôi xà phòng và chổi ở trong ba lô
ra. Xà phòng đựng trong chiếc hộp nhựa hồng, chổi còn mới và tốt. Còn có cả một
bộ dao bào, nhưng vô tác dụng vì không có lưỡi dao. Xintxốp nhận được tất cả
những thứ đó đựng trong một cái túi quà tặng. Quà tặng cho sư đoàn này được gửi
đi từ Antai. Sư đoàn đã đóng quân ở đây hồi trước chiến tranh. Quà đến không
đúng ngày mồng 7 tháng mười một mà muộn mất hai tuần. Trong các tiểu đoàn và
đại đội, số anh em quê ở Antai còn lại rất ít, riêng trong sồ người sử dụng
tiểu liên vẻn vẹn chỉ còn lại mỗi trung đội trưởng Karaulốp. Dù sao những món
quà từ Antai xa lắc xa lơ gửi đến vẫn khiến cho mọi người đặc biệt cảm động,
nên anh em chiến sĩ tiểu liên đã viết thư trả lời cho những người đồng hương
của Karaulốp. Xintxốp viết theo lời đọc, còn Karaulốp thì đứng sau lưng như một
anh chàng côdắc vùng Dapôrôgiê, thỉnh thoảng lại chêm vào một thành ngữ để nói
về bọn Đức. Hôm ấy, anh vô cùng cảm động và quá chén, một điều hiếm có đối với
anh.
Bây giờ Xintxốp nhớ lại điều đó, khi lấy
hộp xà phòng và chổi ra.
- Đây, - Lêônhiđốp gõ ngón tay vào tờ báo
và nói. - Đây! Trong số báo quân đội từ hôm kia tớ đã trông thấy, định đọc cho
các cậu nhưng cậu nào đem quấn thuốc lá mất của tớ... Đây... - Và bắt đầu đọc
thong thả bằng cái giọng oang oang bực dọc: - “Bọn phát xít Đức hèn hạ tàn sát
dã man những chiến sĩ hồng quân bị thương và bị chúng bắt làm tù binh. Ở làng
Nikulinô, bọn phát xít đã băm tám người chiến sĩ pháo binh ra từng mảnh; ba
người trong số đó bị chặt đầu...” - Anh ta dừng ngón tay lại ở chỗ đang đọc dở
và vẫn để tay thế, ngước đôi mắt dữ tợn lên hỏi: - Sao nhỉ? - anh ta hỏi y như
có người nào đang tranh luận với mình. Sau đó, anh lại nhìn vào chỗ mình đang
đặt ngón tay và nhắc lại: - “Ba người trong số đó bị chặt đầu...”. Thế mà hôm
qua tớ giết tên Đức, ông Karaulốp lại bạt tai tớ. Hả?
- Cậu thì phải thế! - Kômarốp đáp. - Còn
sao nữa, anh em cố công mới tóm được “cái lưỡi”
thế mà cậu lại giết nó! Hãy nhìn mà xem một xạ thủ cừ thật!
- Thì chính tớ tóm được nó kia mà, - Lêônhiđốp
phản đối.
- Không phải một mình cậu tóm được.
- Thôi được, bạt tai, - Lêônhiđốp nói. -
Nếu ông ta không phải là trung đội trưởng thì đã lăn long lóc ra với tay tớ
rồi! Được, cứ việc, - anh ta nhắc lại. - Nhưng ông ấy lại còn dọa tớ rằng: lần
sau, cậu mà tái diễn thì tớ xử bắn! Nên hiểu việc đó thế nào? - Thế thì phải
hiểu thế này nhé: không được đánh “cái lưỡi”. - Kômarốp lại khăng khăng nói.
- Thế còn cả chính trị viên trưởng cũng
chỉnh tớ nữa thì làm thế nào mà hiểu nổi? Ông ấy không nói với mình về chuyện
“cái lưỡi”. Ông ấy bảo: “Đã là tù binh thì nói chung cậu không có quyền... Cậu
có quyền gì!” - ông ta bảo mình thế. Còn cái này, - Lêônhiđốp ấn ngón tay vào
tờ báo đến nỗi nó bị thủng. - Còn cái này thì mình có quyền đọc à? Hay không có
quyền? Mình thấy tận mắt tất cả những điều đó ở trong báo, trông thấy bọn chúng
chặt đầu người ta ra sao! Thế mà mình lại bị bạt tai? Hả?
Anh ta im bặt để đợi xem có ai trả lời mình
không. Nhưng không ai trả lời, cho nên anh bèn đọc tiếp, cất cao giọng hơn
trước:
- “Tại làng Makêêvô, đại đội trưởng thông
tin liên lạc là đồng chí Môtralốp và chính trị viên đại đội là đồng chí Gubarép
tìm thấy xác của các chiến sĩ hồng quân: F. I. Lapencô, X. Đ. Xôpốp, F. X.
Fintrenkô bị hành hạ rất dã man. Bọn phát xít nhục mạ những người bị thương,
khoét mắt họ, cắt mũi và chọc tiết… - Anh ta lại rời mắt khỏi tờ báo. - Người
ta viết cho chúng ta biết chuyện này để làm gì? Hả, hạ sĩ ơi?
- Để cho chúng ta dữ tợn hơn.
- Mình cũng đã quá dữ tợn rồi!
- Nhưng dù sao cậu cùng đừng đụng vào “cái
lưỡi” - Kômarốp vốn có tính thích bắn mãi vào một điểm, cho nên đáp lại: - Bắt
được thì bắt.
- Các anh hiền lành quá, như tôi thấy đấy!
- Lêônhiđốp nói giọng dữ tợn.
Xintxốp đặt dao cạo sang bên. Lời nói cuối
cùng của Lêônhiđốp khiến anh nổi xung.
- Còn cậu thì đừng có chọc cái tính dữ tợn
của mình vào mắt chúng tớ! Hãy khoan... - anh vỗ vào đầu gối vỉ trông thấy
Lêônhiđốp toan ngắt lời mình. - Cậu dữ tợn! Thế cậu đã giết được bao nhiêu
thằng Đức? Trừ tên tù binh đó là hai à? Còn Kômarốp tuy hiền lành nhưng đã giết
được bốn.
- Không phải là tất cả đều thống kê, -
Lêônhiđốp cau có trả lời.
- Mọi người có thống kê tất cả đâu. Kômarốp
cũng có thống kê tất cả đâu. Tính dữ tợn của cậu có giá trị gì nhỉ? Cậu đâm ra
dữ tợn vì giết được ít cho nên đã quyết định thêm một thằng nữa vào hai thằng
kia chứ gì? Giết tù binh là một sự dữ tợn rẻ tiền.
- Anh biết nhiều về tính dữ tợn của tôi
nhỉ! - Lêônhiđốp ngắt lời Xintxốp và chuyển sang xưng hô bằng “anh” vì tức
giận.
- Tớ biết, - Xintxốp đốp chát. - Số phận
làm cho cậu trở nên tàn nhẫn, đã làm cho anh mất hết những phần còn lại cuối
cùng của tính dịu dàng hồi trước chiến tranh. - Cậu thấy còn ít lắm! Có thế
thôi.
- Không ít hơn anh đâu!
- Không, ít hơn chứ... Nếu cậu muốn biết
thì tớ nói rằng trận chiến đấu thực sự đầu tiên của cậu là ở Cudơkôvô chứ gì!
- Anh biết quá nhiều về tôi đấy! -
Lêônhiđốp nói giọng giận dữ, nhưng có vẻ luống cuống.
- Nhưng tớ là tiểu đội trưởng của cậu, tớ
phải biết tất cả về cậu, - Xintxốp liền nói để tự bắt buộc mình phải bình tĩnh
lại, đúng khi anh nhớ rằng mình là tiểu đội trưởng.
Vi vốn có lòng công bằng nên lúc ấy Xintxốp
cứ ngờ rằng, cũng y như Pextrác, lần đầu tiên Lêônhiđốp tham gia chiến đấu thực
sự là trận tấn công ở Cudơkôvô, nhưng lúc ấy do cách xử sự của Lêônhiđốp,
Xintxốp đâu có ngờ tới chuyện đó, và mãi sau mới tình cờ mà biết, vả lại,
Lêônhiđốp giết được hai chứ không được bốn tên phát xít đâu có phải vì anh hèn
nhát hơn Kômarốp, mà chỉ vì trong chiến đấu tình hình đã diễn ra như vậy chứ
không thế nào khác.
Lại cầm lấy bộ dao cạo và đưa mất liếc nhìn
Lêônhiđốp đã cúi mặt nhìn chòng chọc vào tờ báo, Xintxốp nghĩ thầm lần nữa rằng
mình nói đúng. “Chả có gì đáng giơ cái tính dữ tợn của mình ra để chọc vào mắt
người khác, trong chiến tranh tất cả chúng ta lúc này đều giống nhau: cả người
dữ tợn lẫn người hiền lành cũng đều dữ tợn cả! Mà ai không hung dữ thì người đó
hoặc không thấy rõ chiến tranh, hoặc nghĩ rằng quân Đức sẽ thương hại mình vì
hiền lành”.
Anh đi ra ngoài mà không mặc áo quân phục
mùa nóng, lấy tuyết lau bộ mặt nóng ran do cạo râu và quay vào.
- Nhưng cậu biết cậu ấy... - khi đi trở vào
căn hầm, anh nghe tiếng Lêônhiđốp nói. - Tớ độc ác, còn cậu ấy thì hiền lành...
Nhưng khi đích thân cậu ấy dùng tiểu liên phang vào mũ sắt của thằng Đức đó ở
cạnh hầm ngầm, vì tức giận nên dùng cả nòng súng lẫn báng súng phang bừa vào nó
thì sao?..
Xintxốp bước vào và Lêônhiđốp im bặt, không
phải vì sợ (tính tình anh không có thế) mà chỉ vì không muốn nói nữa.
- Thế nào, cậu còn trích đọc được cái gì
nữa nào? - Xintxốp mặc sơ mi quân phục, áo ngoài lông thú, đội mũ che tai,
khoác vào cổ khẩu tiểu liên có cái báng mới làm, rồi nói kiểu dàn hòa.
- Tôi vẫn đọc những việc ấy đấy, -
Lêônhiđốp đáp lại không lấy gì làm niềm nở và dí ngón tay vào cuối cái đoạn ban
nãy của bản thông cáo chiến sự mà trước đó anh đã đọc to lên: “Tại làng
Ekatêrinốpca đã nhặt được xác của một huấn luyện viên cứu thương là đồng chí
Nhikiphôrốp. Bọn lính Hítle đã dùng báng súng đánh dập, dùng lưỡi lê chọc, dùng
dao cạo rạch nát mặt người huấn luyện viên cứu thương đã bị thương nặng”.
- “Dao cạo à?!” - Xintxốp bỗng nghĩ thầm vì
hầu như cảm thấy bằng da thịt rằng, chính anh đang bị thương nằm yên không đủ
sức để động đậy nữa, còn tên Đức thì ngồi trên ngực anh và dùng dao cạo rạch
mặt anh.
- Tớ đi chụp ảnh đây, - anh nói to. - Nếu
Karaulốp đến thì các cậu báo cáo với anh ấy nhé.
Khi anh từ trong hầm đi ra ngoài lần đầu để
rửa ráy thì vẻ đẹp của thiên nhiên chưa đập vào mắt, nhưng bây giờ anh chợt
nhận thấy tất cả vẻ đẹp đó trong cái ngày mùa đông trời nắng ấm này: trời xanh
hiếm có, màu trắng của lớp tuyết rơi suốt đêm qua, nào bóng đổ màu đen của
những thân cây, nào cả hình tam giác của những chiếc máy bay đang bay cao tít ở
trên không, đến nỗi tiếng rủ réo rất xa của chúng nghe có vẻ không nguy hiểm
gì.
Họ vừa mới tranh luận với nhau trong hầm về
chiến tranh và cái chết, về việc giết người như thế nào và về vấn đề có thể
hiền lành và độc ác trong lúc ấy được không...
Nhưng bây giờ, khi đi đến những đống đổ nát
của tòa nhà địa chủ, theo con đường có trồng hai rặng tùng và có nắng chiều làm
những bóng cây in xuống đường, anh vừa đi vừa nghĩ rằng, thực ra thì con người
thật kém thích ứng với cuộc sống được gọi là chiến tranh này. Chính anh cũng
định tự luyện mình cho quen với cuộc sống này và người ta cũng đang bắt anh
luyện cho quen với cuộc sống này, nhưng dù sao thì sự cưỡng bức đó dường như
không đi đến đâu, nếu không chú ý tới tư cách của con người đang bắt đầu bị ảnh
hưởng của khoảng thời gian đã sống trong chiến tranh mà chỉ chú ý tới tình cám
và tư tưởng của người đó trong một khoảnh khắc nghỉ ngơi và im lặng, khi người
đó nhắm mắt và như từ cõi niết bàn với trí tưởng tượng quay về hoàn cảnh sinh
hoạt bình thường của con người...
Không, có thể học tập cách chiến đấu, nhưng
không thể luyện cho quen với chiến tranh. Chỉ có thể làm ra vẻ mình đã quen và
một số người đã làm rất khéo, còn những người khác thì không biết cách làm như
vậy, và chắc hẳn không bao giờ biết. Hình như Xintxốp cũng biết cách làm như
vậy, nhưng liệu điều đó có ích gì? Kìa mặt trời đang sưởi ấm. Trời màu xanh và
những chiếc máy bay đang bay tới nơi nào chứ không phải tới đây, đại bác đang
bắn ở đâu chứ không phải ở đây và anh đang đi, anh muốn sống đến nỗi cứ toan
ngã thẳng xuống đất mà khóc nức lên và nài xin thêm một ngày, hai ngày, một
tuần yên tĩnh, an toàn như thế này nữa, để biết rằng trong khi cảnh yên tĩnh
này kéo dài thêm thì mình chưa chết...
Vi mải suy nghĩ cho nên khi đến sát cạnh
đống gạch ngói đổ nát của tòa nhà địa chủ, Xintxốp vấp phải chuẩn úy của đại
đội súng máy là Vaxukốp, anh này cũng phải chụp ảnh để dán thẻ đảng.
- Sao, chụp ảnh à? - Xintxốp vui vẻ hỏi.
- Chụp rồi, - Vaxukốp vuốt ria và nói.
Người anh tỏa ra mùi nước hoa.
- Thế anh ta chụp ở đâu nhỉ? - Xintxốp hỏi.
- Ở đây, đằng sau nhà ấy, anh ta cho đứng
vào tường, cử y như xử bắn ấy, - Vaxukốp nói đùa.
- Thế những cậu còn lại đang ở đằng kia,
phải không anh? - Xintxốp hỏi.
- Đã chụp cả rồi. Tớ cứ tưởng là cậu cũng
chụp trước tớ. Cậu hãy đuổi theo anh ta đi, anh ta vừa mới đi lên trung đoàn
đấy!
Xintxốp đã vội dấn bước lên, vì cho rằng tự
mình có khuyết điểm là loay hoay cạo râu mãi, nhưng sau đó chợt nhớ tới Malinin
và tính cẩn thận của ông ta trong những công việc như thế này, cho nên hiểu
rằng trong quãng thời gian ấy không thể nào kịp tập trung và chụp ảnh cho cả
Vaxukốp lẫn những người khác rồi cho họ ra về. Thế nghĩa là Malinin đã biết
trước rằng người phóng viên nhiếp ảnh sẽ đến và đã ra lệnh trước cho họ chuẩn
bị và tới tập trung. Thế nghĩa là chạy đuổi theo người nhiếp ảnh cũng chỉ vô
ích thôi. Những ai được lệnh chụp ảnh để dán thẻ đảng viên đều đã được chụp
rồi, còn anh không được chụp. Thế nghĩa là đảng ủy sư đoàn không chuẩn y quyết
định của thường vụ đảng ủy trung đoàn và quyết định hoãn việc phát thẻ đảng
viên mới cho anh. Có thể giải thích điều đó như thế nào nữa nhỉ? Chỉ có thế
thôi!
Anh bối rối đứng lại.
Từ trước đến nay, suốt một tháng rưỡi trời
ở ngoài mặt trận, đã nhiều lần trong những giờ phút gay go, anh vẫn giữ vững
được tinh thần khi nghĩ rằng rút cục mọi cái trong cuộc đời anh sẽ được phục
hồi lại như cũ, không có lẽ nào anh lại không tự mình đạt được điều đó và những
người khác lại không giúp đỡ anh! Đã có những ngày chiến đấu vô cùng ác liệt
như trận đánh ở nhà máy gạch, khi mà chiến tranh đã choán hết tất cả, và hình
như đối với anh, chả có cái gì khác nữa ngoài khẩu súng máy của mình, và bóng
dáng nhỏ bé của những tên Đức ở trên nền tuyết trắng đã bị lọt vào thước ngắm.
Nhưng dù sao ngay trong những ngày đó, ý nghĩ về sự tín nhiệm và sự công bằng
vẫn sống ở đâu đấy trong một góc tâm hồn anh vả không những là sống mà còn giúp
cho anh chiến đấu như anh đã chiến đấu.
Ngày mà anh được gọi lên thường vụ đảng ủy
trung đoàn để trình bày về việc mất thẻ đảng viên vẫn còn lưu lại trong trí nhớ
anh như lả ngày thử thách cuối củng (lúc ấy anh có cảm tưởng như vậy).
Các ủy viên ban thường vụ đảng ủy trung
đoàn đã tin anh về cái điều chủ yếu tức là tin rằng anh đã nói đúng sự thực về
buổi sáng hôm đó ở gần Vêrêa, khi anh hồi tỉnh lại một mình, không có
Dôlôtarép. Mặc dầu mới nghe qua thì họ có cảm tưởng rằng sự thật đó không có vẻ
giống như thật, nhưng về sau họ hiểu rằng anh nói điều đó ra, chính bởi vì anh
không muốn nói dối, mặc dầu nếu đó là nói dối để thoát nạn. “Thưa các đồng chí.
- hôm ấy anh đã nói với các ủy viên thường vụ đảng ủy trung đoàn. - Tôi có thể
nói gì thêm với các đồng chí nữa nhỉ? Tôi không biết rằng tấm thẻ ấy biến đi
đằng nào! Tôi không chôn vả không xé thẻ đảng viên! Tôi không biết, có lẽ nếu
không có cách gì khác thì chưa biết chừng, tôi cũng chôn đi. Nhưng quả thực tôi
không chôn, các đồng chí hiểu không? Các đồng chí hiểu thế nào thì cứ thế mà
quyết định đi, còn tôi thì không nói dối được!”
Rồi họ đã tin anh về những điều mà trước
kia những người khác đã nghi ngờ, họ đã tin bởi vì hiện nay họ biết rõ anh hơn
những người khác.
Anh bị cảnh cáo nghiêm khắc về tội đánh mất
thẻ đảng viên và họ quyết định là dề nghị đảng ủy sư đoàn cấp phát thẻ mới.
Mặc dầu bị cảnh cáo nghiêm khắc, Xintxốp
thật sung sướng trong ngày hôm ấy, và tưởng chừng như không ai có thể tước mất
điều đó của anh!
Thế mà người ta đã tước mất đấy! Niềm tin
tưởng pha lẫn sung sướng mà anh đã mang trong lòng trong những ngày vừa qua, và
ngay cả bây giờ, trong khi đi đến đây, còn trước đó anh đã sửa soạn một cách
ung dung đến thế - niềm tin chắc pha lẫn sung sướng ấy đã đổ sụp... Nghĩa là, ở
một nơi nào khác, ở sư đoàn hay còn ở một nơi nào đó nữa, người ta lại không
tin anh. Người ta không tin vào quá khứ của anh, mặc dầu họ biết rõ hiện tại
của anh như lòng bàn tay!
Anh đứng im mất cả phút, tất cả những ý
nghĩ đó nổi thành cơn bão táp trong lòng, thậm chí anh đã quay người về phía
căn hầm ngầm, nhưng suy nghĩ lại và đi đến chỗ Malinin.
Malinin đang ngồi bên bàn, khoác tấm áo
lông thú trên vai và nghe chuyện một người đàn bà đã già với vẻ không bằng
lòng. Bà này đi bốt bằng dạ, trùm khăn ấm, mặc áo capốt màu đen của nhân viên
đường sắt và đang ngồi đối diện ông. Bà ta đang khiếu nại với Malinin về việc
gì đó.
Khi Xintxốp bước vào, người đàn bà im bặt,
còn Malinin thì quay nửa người về phía anh, vẫn với cái vẻ không bằng lòng đó.
- Cậu có chuyện gì muốn nói thế?
- Báo cáo chính trị viên trưởng, xin phép
hỏi.
- Đợi tí rồi hỏi nhé, - Malinin cau có đáp.
Vì không có việc gì làm, cho nên Xintxốp đã
nhiều lần đưa mắt nhìn quanh căn hầm nhà được dùng làm sở chỉ huy và chỗ ở của
Malinin cùng tiểu đoàn trưởng Riáptrenkô. Hầm thấp và dài, một nửa nhét đầy
những đồ gia dụng tầm tầm đến tận trần hầm; những thứ này do một quân y viện đã
để lại, khi tản cư đi. Ban đầu, thậm chí vì thế nên Riáptrenkô đã không muốn
đến đây ở, nhưng gian hầm rất ấm, Malinin vốn thích ấm áp mà lại không sợ
truyền nhiễm, nên cứ khăng khăng giữ ý kiến mình. Người ta đã phun qua loa chất
tẩy uế vào đồ dùng cũ nát của quân y viện, còn các mảnh còn lại của những chiếc
bàn đầu giường và những hộp đựng thuốc bằng bìa cứng để chống vỡ, có gợn sóng
được đốt lò sưởi.
Người đàn bà này từ Pôđônxk đến và khiếu
nại rằng bà ta đã tình nguyện ghi tên vào sư đoàn làm cứu thương, nhưng bây
giờ, khi tất cả đều được phiên chế vào các tiểu đoàn thì người ta không thu
nhận bà.
- Buổi sáng đồng chí không có ở đó. - tôi
đã đến gặp ông phó thủ trưởng, ông phó của đồng chí đấy, tóc hung hung như thế
này này, trẻ lắm...
- Không phải gặp phó thủ trưởng đâu.-
Malinin uốn nắn lại với giọng răn dạy, - mà gặp tiểu đoàn trưởng đấy. Đó là
tiểu đoàn trưởng.
- Thôi, tôi thì sao cũng được, - người đàn
bà nói. - Thế là anh ấy thu nhận hai chị cứu thương trẻ tuổi, còn tôi thì anh
ấy nói là không hợp với biên chế của mình nữa. Cố nhiên, bản thân anh ấy còn
trẻ lắm, tôi hiểu...
- Bà hãy bỏ cái giọng ấy đi. - Malinin tức
giận nói. - Bỏ cái giọng cạnh khóe ấy đi, bà hiểu chưa?
- Làm sao được nhỉ, bây giờ tôi phải quay
về Pôđônxk à? - bà kia hỏi.
- Có lẽ thế đấy.
- Tôi không đi! Đồng chí là người lớn, đồng
chí phải hiểu chứ! Tôi làm khắp các bệnh viện ba mươi năm nay, chỉ riêng ở bệnh
viện đường sắt này cùng đã hơn mười chín năm rồi. Tôi cần gì nhỉ? Tôi chả cần
gì cả. Tôi chỉ bực mình là trong đơn vị các đồng chí có những chị cứu thương
thiếu kinh nghiệm như vậy. Họ mới làm chưa được bao nhiêu: chỉ được cái may mắn
là còn trẻ tuổi. Tôi băng bó xong cho ba người, trong khi họ chỉ băng được một,
tôi bực mình về cái ấy đấy!
- Không những phải băng cho thương binh mà
còn phải mang họ ra khỏi trận địa, - Malinin nói. - Mà ở trận địa thì cần có cả
sức lực và tuổi trẻ.
- Nhưng bác có trẻ trung gì nữa đâu, - bà
ta liếc nhìn Malinin và nói.
- Đúng thế, - ông đồng ý.
- Thế mà bác vẫn tìm được chỗ đứng trong
chiến tranh, bác có tính đến tuổi tác không?
- Thế thì sao?
- Thế thì thôi! nếu thế thì cứ để cho những
cô trẻ họ quần cho cái anh chàng tóc hung của bác, một khi anh ta đã hy vọng
vào họ hơn, còn tôi thì tôi cứ bám lấy bác, bác già ạ!
- Nghĩa là một sự phân công chứ gì, -
Malinin nhếch mép cười trước dòng ý nghĩ bất ngờ đó.
- Tôi có đôi bốt bằng dạ rồi. - Bà kia nói.
- Chỉ cần là các bác cho tôi một cái áo capốt. Áo của tôi màu đen, ở trên tuyết
trông lộ quá. - Bà ta coi là vấn đề đã được giải quyết; mà đúng thế thật. - Đây
này, - bà ta lục lọi trong túi áo capốt rồi móc ra một mảnh giấy và đặt xuống
bàn trước mặt Malinin.
- Cái gì thế? - ông hỏi mà không nhìn.
- Giấy đi đường từ Pôđônxk đến mà, - người
đàn bà đáp. - Còn bác thì nghĩ sao? Tôi đến gặp bác không phải để ăn xin đâu.
Huyện ủy tuyển tôi vào bộ đội đấy.
Malinin không trả lời gì cả, cầm lấy mảnh
giấy, dùng bút chì viết gì đó lên giấy, sau đó dừng lại, nhìn người đàn bà và
hỏi:
- Có cần phát cho bà chiếc mũ che tai
không?
- Cái đó là tùy ở bác gọi tôi thế nào, - bà
ta vui vẻ đáp lại và trong giọng nói của bà nghe có cái âm sắc quen thuộc của
một bà hộ lý tháo vát. - nếu bác gọi là “Bác Pasa” thì tôi sẽ quàng khăn, mà
nếu gọi là “chiến sĩ Kulikôva” thì hãy phát mũ che tai cho tôi!
- Được, tôi sẽ phát. - Malinin viết thêm
một dòng nữa rồi trao mảnh giấy cho người đàn bà. - Đi đi, bà sẽ được hưởng
tiêu chuẩn ăn mặc bộ đội. Còn những vấn đề khác thì đợi tiểu đoàn trưởng về
chúng tôi trao đổi ý kiến đã. Nhớ đến nữa nhé. - Ổng gật đầu chào mà không đứng
dậy và người đàn bà cầm tờ giấy đi ra cửa.
Bây giờ anh đã trông thấy rõ khuôn mặt của
bà đầy những nếp răn hằn sâu, bộ mặt của một người đàn bà đã già nhưng còn
khỏe, vì đã nhiều năm quen với công việc lao động bền bỉ và chẳng nhẹ nhàng gì.
Khi đi ngang qua Xintxốp, bà liếc nhìn anh rất nhanh. Trong hai mắt bà còn ngời
lên cái vẻ vui mừng trước thắng lợi đã đạt được.
“Nhưng thắng lợi thế nào nhỉ? - Xintxốp
nghĩ thầm. - Được xuống tiểu đoàn, xuống đại đội để làm cứu thương, xuống đúng
cái chỗ nước sôi lửa bỏng nhất! Giá như đây là một người đàn bà nào khác thì họ
đã chạy xa khỏi cái thắng lợi đó hàng ngàn dặm rồi...”.
- Sao, cậu đến để mè nheo à? - Malinin chỉ
chỗ cho Xintxốp ngồi và hỏi độp ngay không mào đầu gì hết.
Xintxốp ngồi xuống chiếc ghế đẩu còn ấm.
Malinin nhìn anh và càng thấy rõ bao nhiêu
là Xintxốp bị hoang mang đến mức độ nào, thì bộ mặt của chính ông càng trở nên
sa sầm bấy nhiêu. Khi nhận lấy trách nhiệm về bất cứ một người nào đó, Malinin
vốn có thói quen từ giây phút ấy ông cứ lo tới người kia nhiều hơn là tới bản
thân mình.
Xintxốp không biết rằng vấn đề cấp phát thẻ
đảng viên mới cho anh đã được thường vụ đảng ủy trung đoàn thông qua không hoàn
toàn trôi chảy như anh tưởng.
Trước đó, Malinin đã nói chuyện suốt một
giờ liền với đồng chí bí thư.
“Ông viết về cậu ấy rất tốt, như người ta
thường nói là rắn trong lỗ cùng phải bò ra, - đồng chí bí thư nói, - và về căn
bản thì mình không có gì phản đối. Nhưng ông hãy tự suy nghĩ xem, về những việc
này ông có kinh nghiệm hơn mình: chúng ta đặt vấn đề về một người vừa mới đánh
mất thẻ đảng viên cách đây vẻn vẹn một tháng rưỡi như vậy có sớm quá không?”
Malinin bực tức phản đối điều dó, sao nhỉ,
có lẽ dạo ấy cho ra mặt trận cũng là sớm quá à? Thế mà cho cậu ấy ra mặt trận
thì người ta không sợ, để cậu ấy phụ trách súng máy chống cự với trận tấn công
của quân Đức ở nhà máy gạch thì chẳng sợ, tặng huân chương về thành tích này
cũng chẳng sợ, nhưng chúng ta lại sợ không dám cấp phát thẻ đảng viên.
“Cá nhân tôi thì tôi không sợ đâu, - ông
nói. - Còn về chuyện “sớm quá” thì sau trận nhà máy gạch, trong số anh em thuộc
đại đội cũ chỉ còn hai người ở lại đơn vị: tôi và cậu ấy. Thôi được, cũng có
thể đợi thêm ít nữa...”.
Vướng mắc này được tháo gỡ thì lại nảy ra
vướng mắc khác.
Theo ý đồng chí bí thư, người ta thắc mắc
với bản trình bày lộn xộn của Xintxốp về việc mất thẻ đảng viên và các giấy tờ
khác.
“Hoặc là thế này hoặc là thế nọ, hoặc là
tôi nhớ nhầm... Khó tin lắm!”
“Nhưng cậu ấy tính nước cờ gì mà nói dối?
Giá cậu ấy nói rằng mình đã chôn đi, thế là xong”.
“Có thể là thoạt tiên bốc đồng nên bịa ra,
cho như thế tốt hơn, nhưng sau đó sự tình lại đâm ra dở hơn, tuy nhiên rút lui
thì đã muộn rồi. Sao, chả nhẽ lại không thể xảy ra như thế hay sao?”
“Cái gì mà chẳng xảy ra được!.. - Malinin
nói. - Nhưng cá nhân tôi thì tôi tin cậu ấy. Hãy cứ đặt vấn đề ra trước thường
vụ đảng ủy đi: xem người ta sẽ tin như thế nào...”
Người ta đã tin. Nhưng mãi sau đó, sau khi
thường vụ đảng ủy xét, trong lúc cùng ngồi với Malinin là người giúp đỡ làm thủ
tục giấy tờ, rốt cuộc đồng chí bí thư đã thở dài và nói:
“Cố nhiên ông thấy rõ hơn vì ông là một tay
kỳ cựu trong công tác tổ chức cán bộ, nhưng mình sợ rằng, với bản trình bày như
vậy về việc mất thẻ đảng viên thì đảng ủy sư đoàn sẽ không chuẩn y quyết định
của chúng mình đâu”.
“Thức lâu sẽ thấy đêm dài...”, - lúc ấy
Malinin tin chắc rằng mình đúng cho nên đã trả lời như vậy.
Nay họ đã thức và đã thấy!
Malinin biết việc này từ hai giờ trước đây,
khi bí thư đảng ủy trung đoàn gọi điện thoại và báo rằng phóng viên nhiếp ảnh
sẽ từ sư đoàn xuống và nên chuẩn bị tất cả những người đã được thông qua, trừ
Xintxốp.
Malinin không trả lời gì cả nhưng ngấm ngầm
định bụng rằng mình sẽ lại đưa việc này lên tận chính ủy sư đoàn. Thực ra, sư
đoàn này không được may mắn lắm. Từ đầu chiến tranh đến nay, nó đã thay đổi
chính ủy những ba lần. Đồng chí chính ủy mà Malinin đã đích thân nộp bản trình
bày của Xintxốp, sau trận đánh ở nhà máy gạch và về sau, qua ông ta, Malinin đã
chất vấn về tờ phiếu theo dõi hồ sơ, bây giờ đang nằm trong quân y viện. Lúc ấy
đồng chí đó đã nói về Xintxốp rằng sự việc đã rõ rồi, cứ để cậu ta chiến đấu,
còn tới lúc nào mà cậu ấy xứng đáng thì chúng ta sẽ đặt cả vấn đề phục hồi đảng
tịch. Bây giờ ông chính ủy này không còn nữa, mà là một ông khác và đành phải
báo cáo lại từ đầu với ông ta. “Thôi được, mình sẽ làm lại từ đầu. - Malinin bướng
bỉnh nghĩ thầm, - mà nếu cần thì mình sẽ viết báo cáo lên cấp cao hơn nữa”.
Ông đang đợi Xintxốp đến và thậm chí sẽ
ngạc nhiên nếu anh không đến; nếu không đến tức là Xintxốp không tin rằng mình
đúng.
- Xintxốp ạ, tình hình thế đấy! - sau hồi
lâu im lặng, Malinin bắt đầu nói trước tiên, phá tan sự im lặng đó.
- Không chuẩn y à? - Xintxốp hỏi.
- Trong lúc này tạm hoãn lại.
- Tại sao thế?
- Trong lúc này tôi chưa biết.
- Thế đồng chí nghĩ sao?
- Tôi nghĩ rằng vẫn là do chính điều đó...
- Alếcxây Đênixứts, có thể hoàn toàn thành
thật được chứ ạ? - Xintxốp hỏi với cái giọng báo trước sẽ chẳng lấy gì làm tốt
đẹp lắm đâu.
- Nói đi. - Malinin hiểu rằng Xintxốp
choáng váng trước sự bất ngờ và phải nói hết ra cho hả dạ...
“Thôi, cứ để cậu ấy nói. Một khi đã sôi sục
lên thì thế nào cậu cũng sẽ không chịu nổi và nói ra. Thà cứ để cho cậu ấy nói
với mình còn tốt hơn là với người khác”.
- Nghĩa là hoàn toàn thành thật chứ? -
Xintxốp nhắc lại.
- Còn cậu thì đừng nạt tớ, - Malinin nói. -
Tớ không sợ sự thật đâu và cũng không sợ cả cái gì sai sự thật.
- Thế thì đồng chí hãy nói cho tôi nghe, -
Xintxốp tái mặt đi. - cái gì quý hơn: con người hay tờ giấy?
- Thế cậu nghĩ sao? - Malinin hỏi và giọng
nói của ông hơi rắn đanh lại như có tiếng sắt thép.
Nhưng Xintxốp không để ý tới điều đó.
- Bây giờ tôi nghĩ rằng tờ giấy quý hơn. Nó
đang nằm đâu đó ở trong rừng, đang mục nát và nghĩ tới tôi: “Cậu nói dối! Cậu
cho rằng không có tớ cậu vẫn là người à? Không, không có tớ cậu không phải là
người! Không phải cậu có lỗi, không phải cậu bỏ rơi tớ, nhưng dù thế nào chăng
nữa thì tớ cũng không để cho cậu sống thiếu tớ!”
- Đó là nó nói với cậu. Còn cậu thì nói vói
nó ra sao? - Malinin hỏi, vẫn với cái giọng khe khẽ mà rắn đanh như có tiếng
sắt thép.
- Alếcxây Đênixứts, còn tôi thì im lặng!
Tôi đang viết lá đơn, viết bản trình bày... Tôi đang đợi xem ai sẽ thắng ai
trong cuộc kéo co này: tôi hay là tờ giấy.
- Nếu chỉ có mảnh giấy đang mục nát ở đó, ở
trong rừng ấy thì bận tâm đến nó làm gì? Còn nếu ở đó có tấm thẻ đảng viên của
cậu thì người ta không dùng sức mạnh để kéo cậu vào đảng đâu, tự cậu phải xin
vào và tự cậu phải biết rằng tấm thẻ đảng viên đáng giá như thế nào! Và nếu cậu
đã nhất quyết bảo rằng mình không chôn, dù cho người ta có dồn ép, nhưng mình
vẫn nhất quyết, nghĩa là việc này không đơn giản như vậy đâu. Chôn hay xé đi là
một loại người, mà nói dối lại là loại người khác...
- Thế người nào đã nói ra sự thật thì người
đó nên làm như thế nào? Đến bao giờ chúng ta mới học được cách tin tưởng vào
con người, hay việc đó đối với chúng ta là thừa? - Xintxốp ngắt lời ông ta.
- Nhưng cậu đến đây để phát khùng lên với
ai vậy? - đến lượt Malinin ngắt lời anh. Dù ông có thông cảm với Xintxốp tới
đâu chăng nữa, dù cuộc đời chiến đấu có gắn bó họ tới đâu chăng nữa, ông vẫn có
những quan điểm làm cho ông không bao giờ nương nhẹ trong khi nhận định một vấn
đề gì. - Với tớ chắc? Vì chính tớ đã khuyên cậu nộp đơn mà bây giờ lại không
giữ vững ý kiến mình? Đúng đấy. Nhưng sớm quá. Tớ chưa rút lui ý kiến của tớ
đâu. Hay với thường vụ đảng ủy trung đoàn? Cũng sớm quá, vả lại, họ cũng chưa
phát biểu ý kiến dứt khoát... Cậu phát khùng lên với đảng ủy sư đoàn à? Nhưng
cậu đã tận mắt trông thấy đồng chí nào trong đảng ủy sư đoàn chưa? - bỗng
Malinin tự cướp lời mình và hỏi.
- Chưa đâu, làm thế nào mà gặp được chứ?
- Thì họ cũng đã gặp cậu đâu! Thế mà họ lại
không tin vào tờ giấy của tớ và cậu! - Malinin nhếch mép cười. - Có lẽ họ cũng
như cậu thôi, quý con người hơn mảnh giấy. Có lẽ thoạt tiên họ phải xem mặt cậu
đã rồi sau mới quyết định! Cậu không giả định như vậy à? Thế mà tớ lại giả định
như thế đấy. Nhưng mặt khác tớ còn giả định rằng trên đó có một lão mặt sắt đen
sì nào đó, một thứ bánh bít cốt cấp dưới không thể làm cho mềm được đâu, mà chỉ
có cấp trên mới làm mềm được thôi. Đảng ta đông người lắm, trong đó có nhiều
hạng người. Đây không phải là cậu nói với tớ mà tớ nói với cậu thế đấy, một khi
đã đồng ý với nhau là hoàn toàn thành thật! Nhưng đừng có hoa chân múa tay lên
với đảng! - bỗng ông ta cất cao giọng và thậm chí đứng hẳn dậy khi nói câu này.
- “Bao giờ chúng ta mới học được cách tin vào con người?” - ông nhại lại giọng
Xintxốp. - Gớm thật, cậu vội quá đấy! Chuyện bé như đứt tay mà đao to búa lớn
đến thế!
- Alếcxây Đênixứts, đứt tay thì vẫn đau kia
mà! - Xintxốp nói và cũng đứng dậy.
Anh không tự ái trước cơn nóng của Malinin:
anh cảm thấy rằng Malinin cũng buồn bực về chuyện này chẳng kém gì mình.
- Nào, bắt tay, - Malinin giơ tay qua bàn
cho anh bắt, mặt cau có và không nhìn vào mắt, theo thói quen riêng như thường
lệ mỗi khi ông chào hỏi và từ biệt.
- Alếcxây Đênixứts, - Xintxốp bắt tay
Malinin và không nén được, càu nhàu, - nhưng đồng chí hãy nói cho tôi biết:
người ta không hoãn huân chương của tôi vì những lý do này chứ? Không hiểu sao
mà mãi không thấy trao tặng.
Malinin chỉ nhếch mép cười trước sự dự đoán
ngớ ngẩn đó. Thậm chí lòng thành thực của Xintxốp đã làm cho ông vừa ý: nó thể
hiện lòng tin cậy.
- Tớ thấy cậu đúng là đã đâm ra rối loạn
tâm thần rồi. Nghe nói rằng thiếu tướng đã bỏ huân chương ở trong túi dết từ ba
hôm nay. Hôm kia đã trao huân chương cho các cậu pháo binh, hôm qua cho trung
đoàn chín hai. Có lẽ, hôm nay sẽ là chúng ta.
Xintxốp xin phép về, nhưng khi ra đến cửa,
anh liền quay người lại và giật giọng nhắc lại y hệt cái câu mà có lần anh đã
nói với Malinin tại quận ủy, khi còn ở Maxcơva.
- Dù tôi có gặp chuyện gì đi chăng nữa thì
cũng không bao giờ quên thái độ của đồng chí đối với tôi.
- À-à! - Malinin lơ đãng xua tay. - Sau
chiến tranh, nếu có trông thấy tớ trên đường phố Maxcơva, cậu cứ nói: “Chào bác
Malinin!”, thế là tớ xin cám ơn rồi. - Ông ta lại xua tay, đi men dọc chiếc bàn
và quay ngoắt lưng lại: ông không quen nghe những lời cám ơn.
Đi đi lại lại mấy bước trong hầm nhà và đưa
mắt liếc nhanh về phía cánh cửa vừa khép lại sau lưng Xintxốp, Malinin thở dài
sườn sượt, rồi ngồi xuống bên bàn, rút lá thư trong túi áo ra, đeo kính vào, và
đây là lần thứ ba trong ngày hôm đỏ ông thong thả đọc lại lá thư từ đầu chí
cuối tựa hồ như để thẩm tra xem có thực là trong đó có những điều mà mình đang
đọc không? Lá thư từ quân y viện gửi đến, trong đó viết rằng cậu Víchto con
trai ông đang nằm quân y viện và tay phải đã bị cưa, đang bình phục một cách
tốt đẹp sau khi bị thương, nhưng đề nghị bố chưa báo tin cho mẹ biết trong lúc
này. Khi đọc lại lá thư, Malinin dừng lại ở các từ “một cách tốt đẹp”. Ông bỏ
kính ra, đặt xuống bàn trước mặt mình và nhìn trừng trừng vào tường.
Dù sao vẫn phải báo tin cho vợ, nếu không
thì lâu chả nhận được thư, bà ấy sẽ đinh ninh là con chết rồi. Phải an ủi vợ,
còn chính mình thì chả biết phàn nàn với ai. Chức vụ của ông không cho phép
phàn nàn. Chỉ có cái là phải quen với ý nghĩ rằng con trai mình mới mười bảy
tuổi mà đã cụt tay phải, nhưng khó quen với điều đó thật.
Cửa mở tung ra và thượng úy tiểu đoàn
trưởng Riáptrenkô lao bổ vào hầm. Anh ta chạy ào ào trên cấu thang, nện thình
thịch cựa giầy kỵ binh trên bậc đá. Đôi cựa giầy đó không đúng với điều lệnh.
Tấm áo capốt dài khoác hiên ngang trên đôi vai rộng của chàng thanh niên cứ dập
dờn quanh đôi ủng lau chùi bóng lộn khi anh bước, còn bộ mặt gà sống với cái
mũi nhọn và mái tóc hung hung thì nom có vẻ vừa vui tươi lại vừa lo ngại.
- Anh vừa nhận được thư à? - anh ta vui vẻ
hỏi.
- Ừ. - Malinin giấu lá thư vào túi.
- Một giờ nữa, thiếu tướng sẽ đến gắn huân
chương, - Riáptrenkô nói vẫn bằng cái giọng vui vẻ ấy. - Tôi cũng được một
chiếc, từ hồi tháng bảy. Tôi tưởng là nó đã bị thất lạc trong khi mình lăn lóc
qua các quân y viện. Không, hóa ra rút cục vẫn được.
Anh ngồi xuống ghế đẩu, mừng quá đến nỗi
lấy cả găng tay đập vào ủng của mình và mở phanh hai vạt áo capốt ra.
- Ông ấy hứa là sẽ đến, nhưng khi từ biệt,
ông ấy đã chỉnh suốt lượt tất cả những người có mặt ở sư đoàn bộ: “Tại sao hai
hôm nay trong khu vực chiến đấu của đồng chí không bắt được cho tôi một “cái
lưỡi” nào cả? Đó là nói với trung đoàn trưởng. Còn sau đó thì ông bảo tôi: “Còn
ở đơn vị đồng chí thì tôi biết rằng hôm qua đã bắt được “cái lưỡi”, nhưng không
đưa về được đến nơi, bọn ngốc!..”. Do đâu mà ông ta moi ra được nhỉ?
- Do phòng chính trị, - Malinin điềm nhiên
nói. - Hôm qua tớ đã nêu việc đó trong bản báo cáo về công tác chính trị.
- Chỉ tổ uổng công thôi! - Riáptrenkô nói.
- Chuyện cũ rồi và chẳng đi đến đâu cả.
Riáptrenkô chua chát xua tay và không buồn
tranh cãi.
- Này, anh nói cho tôi biết, - im lặng một
lát, anh kêu lên, - sao mà lính nhà mình vô giáo dục thế nhỉ? Giáo dục hoài,
giáo dục mãi rồi, cứ tưởng là họ hiểu, thế mà khi bắt được tù binh lại cho một
phát đạn vào trán!
- Không phải chỉ một mình chúng ta giáo
dục, - Malinin nói. - Đầu đằng này là chúng ta, đầu đằng kia là bọn Đức. Chúng
ta báo: đừng đụng vào! Nhưng ở Cudơkôvô chính cậu ấy tận mắt trông thấy bọn Đức
thiêu sống anh em mình trong ngôi nhà gỗ. Ăn miếng thì trả miếng. Giá mà sau vụ
Cudơkôvô này cậu ta được chặt chân chặt tay địch thủ Hítle hay Ghêben thì mới
đúng lúc, nhưng cậu ta không biết rằng liệu mình còn sống đến lúc đó không.
Đúng hơn cả là không. Trong lúc tình trạng đó đang tiếp diễn thì không phải là
Hítle mà là một tên hạ sĩ đã sa vào bàn tay đang ngứa ngáy của cậu ấy.
- Tức là anh bào chữa hộ?
- Không bào chữa hộ mà tự giải thích đối
với mình: tại sao anh em trong đơn vị ta không phải là thú rừng mà có lúc lại
hành dộng như thú rừng? Bọn phát xít đã dốc ra nhiều công sức để đưa họ tới
tình trạng đó!
- Thế thì bây giờ nên hiểu anh thế nào chứ?
- Thì cứ hiểu như thế này, là phải làm thế
nào đế khỏi tái diễn lại những trường hợp ấy nữa. Còn trường hợp này thì tớ coi
như là một hiện tượng chứng tỏ rằng tớ làm ăn không đến nơi đến chốn, vì vậy tớ
mới ghi vào bản báo cáo về công tác chính trị. Tuy cậu phản đối việc vạch áo
cho người xem lưng, nhưng vạch lưng ra đã là xấu mà dể cho lưng bẩn lại còn xấu
hơn.
- Này, bố ơi, vắng tôi ở đây công việc ra
sao? - Riáptrenkô im lặng giây lát và, nhìn vào bộ mặt cau có của Malinin, hỏi.
- Công việc ở đây thật là dớ dẩn; người ta
cử tay nhiếp ảnh đến, đã chụp ảnh cho anh em để làm thẻ đảng. Thế mà Xintxốp
thì xôi hỏng bỏng không.
- Nhưng sao trên ấy họ lại dở cái trò gì
dấm dớ thế nhỉ! - Riáptrenkô bật lò xo. - Chính tôi và anh đã viết giấy ủng
hộ... Họ còn đòi gì nữa?..
- Tiểu đoàn trưởng ạ, ừ, tớ với cậu cố
nhiên là một lực lượng, - Malinin nhếch mép cười trước tính nóng nảy của tuổi
trẻ và cau mày lại lườm anh ta một cái, với vẻ hiền từ, gần như là dịu dàng. -
Một lực lượng to lớn! - Và im lặng giây lát rồi nói thêm: - Nhưng rõ ràng không
phải ở nơi nào cũng như thế cả.
Đúng một giờ sau, thiếu tướng tới bằng
chiếc xe trượt tuyết của trung đoàn trường. Người sĩ quan bí thư ngồi đằng sau
thiếu tướng và Baglúk, còn Baglúk thì đích thân cầm dây cương ngựa.
Riáptrenkô và Malinin ra đón thiếu tướng.
Bốn người được thưởng huân chương, chưa kể bản thân Riáptrenkô, là Xintxốp,
trung đội trưởng Karaulốp của anh và hai chiến sĩ thuộc các đại đội xung kích
đã được gọi lên tiểu đoàn bộ từ trước, đang đứng đằng xa và cũng đang đợi thiếu
tướng đến.
Baglúk nhảy phắt xuống trước tiên rồi trao
dây cương cho người sĩ quan bí thư và nói:
- Đánh xe ra sau nhà.
Thiếu tướng cũng nhẹ nhàng nhảy phắt ra
khỏi xe. Ông ta người tầm thước, nhưng ở bên cạnh ông, Baglúk cao lênh khênh,
nên nom ông có vẻ thấp bé. Ông không đội mũ lông mà đội mũ che tai, mặc áo lông
thú có quai buộc chéo ở ngoài và đi bốt dạ. Chiếc khuy móc phía trên của áo
lông mở phanh làm ló ra một góc của phù hiệu cấp tướng màu đỏ trên áo cổ đứng.
Bộ ria mép của thiếu tướng Orlốp giống như hai cái bàn chải nhỏ ngắn màu đen:
bộ mặt da vàng kiểu người Tacta, còn đôi mắt ti hí cũng màu đen như bộ ria, có
vẻ vui nhộn và chưa già.
Riáptrenkô hô khẩu lệnh “nghiêm”, thiếu
tướng nhận báo cáo, ra lệnh “nghỉ”, sau đó hồ hởi nhìn trời, nhìn mặt trời đang
lặn xuống sau rừng và bảo khiêng luôn một chiếc bàn con ra thẳng đây.
- Chúng ta sẽ trao tặng ngay ở đây, ngoài
nắng, như vậy tốt hơn là chui vào cái hầm mộ của các cậu, hơn nữa chỗ các cậu
lại sặc mùi phênôn.
Ông ta đang vô cùng phấn khởi vì nhiều
nguyên nhân.
Tối hôm qua, họ đã tập trung trên tư lệnh
bộ của tập đoàn quân, được nghe giới thiệu kế hoạch của chiến dịch tấn công
trên địa bàn của toàn tập đoàn quân này, người ta chất vấn tất cả sư đoàn
trưởng về tình hình gần đây nhất của lực lượng quân địch đang đóng ở trước mặt
họ và ra lệnh cho từng người phải dựa trên chỉ thị của tập đoàn quân mà đặt kế
hoạch tác chiến trong phạm vi tấn công của mình.
Căn cứ theo chỉ thị của tập đoàn quân thì
rõ ràng người ta không dự định đặt mũi chủ công trong khu vực của tập đoàn quân
này, tuy vậy nhìn chung thì hiển nhiên đây là một cuộc tấn công lớn đang được
vạch kế hoạch, và cứ cho rằng phải ở khu vực thứ yếu đi nữa, nhưng ít ra họ
cũng sẽ được tham gia! Thế là may mắn lắm rồi!
Suốt thời gian vừa qua, thiếu tướng tựa hồ
như đã cảm thấy bằng da thịt của mình rằng: quân Đức đang dồn ép mãi chúng ta,
còn chúng ta, mặc dầu bị dồn ép rất mạnh và tuy có lùi lại đằng sau, nhưng chỉ
hơi một tí thôi, hầu như không nhận thấy được. Ồng cảm thấy điều đó bằng da
thịt của mình và da thịt của sư đoàn do mình chỉ huy, một sư đoàn đã bị kiệt
sức qua các trận chiến đấu. Ông biết rằng các thê đội hai đã từ phía sau tiến
đến gần, nhưng đã từ lâu, ông chưa được bổ sung quân số và ông hiểu rằng sự hà
tiện tàn nhẫn đó không phải là ngẫu nhiên. Nói tóm lại, linh tính về một sự
chuyển biến tốt đẹp đã phảng phất trong không khí từ khoảng một tuần nay, nhưng
việc triệu tập lên tập đoàn quân hôm qua thì đã không còn là một linh tính nữa,
đó đã là giờ phút sang canh của sự kiện rồi!
Trong hội nghị, khi trả lời câu hỏi rằng
ông còn cần thêm gì nữa không, thiếu tướng đã dựa vào tình quen biết cũ với tư
lệnh trưởng mà cố nhiên xin cho mình nhiều hơn, nhưng đã bị khước từ. Tư lệnh
trưởng nhếch mép cười và bảo ông: “Mikhain Nicôlaevíts ạ, tuy trước kia có dạo
tôi đã từng công tác dưới quyền anh, nhưng dù sao đừng mong rằng tôi sẽ cho anh
nhiều hơn mức quy định”. Nhưng sự từ chối cũng chẳng khiến ông nản lòng: cho
bao nhiêu thì cho, cứ tìm cách moi được càng nhiều càng hay! Điều chủ yếu là sẽ
có cuộc tấn công! Điều này khiến ông vui mừng vô hạn.
Sau khi trở về, suốt cả quãng thời gian còn
lại của buổi tối và suốt cả đêm, thiếu tướng ngồi cùng tham mưu trưởng dự thảo
sơ bộ kế hoạch; sáng hôm sau, ông để cho tham mưu trưởng một mình tiếp tục công
việc, còn mình thì thân hành xuống trung đoàn Baglúk, định bụng sẽ làm xong một
lúc cả ba việc: trao tặng huân chương, đôn đốc việc tóm “lưỡi” để biết rõ địch
tình ở trước khu vực mặt trận của sư đoàn và cuối cùng đích thân đến tất cả ba
đài quan sát của các tiểu đoàn, bởi vì chính ở đây, ở trung đoàn Baglúk là
thuận tiện nhất cho việc xuất kích, và ông muốn tự mình kiểm tra lại lần nữa,
ngay tại chỗ bằng cặp mắt tinh tường.
Ông đã đến hai tiểu đoàn, người ta đã hứa
sẽ tóm “lưỡi” cho ông, thậm chí còn lấy danh dự quân nhân mà hứa, còn những
điều trông thấy từ trên đài quan sát của hai tiểu đoàn thì chỉ xác nhận những
dự tính ban đầu của ông mà thôi. Thêm vào tất cả những điều đó là mặt trời
chiếu sáng khắp nơi, còn quân Đức thì chả bắn chác gì...
- Ái chà. hôm nay ông ấy nhộn nhỉ, lại cười
nữa kia đấy! - vừa nhìn thiếu tướng, trung úy trung đội trưởng Karaulốp đang
đứng cạnh Xintxốp hạ giọng nói với anh. Anh ta đã công tác tại trung đoàn này
qua ba năm nghĩa vụ và chín năm tái đăng.
- Có lẽ trong bữa ăn trưa đã nhấm nháp chút
đỉnh, - Xintxốp nói.
Nhưng Karaulốp lắc đầu lia lịa:
- Không phải đâu. Những người xuất thân cựu
giáo chúng tôi ở Antai thì đến bia cũng chẳng uống nữa là.
- Có thể chính ông ta cũng là cựu giáo
chăng?
- Chính ông ta là đảng viên chứ, - Karaulốp
nói, không buồn hiểu ý câu bông đùa, - nhưng xuất thân ở một gia đình cựu giáo.
Nói chung, anh không thích nói đùa, hơn nữa
lại nói đùa về cấp trên, cho nên anh ta lườm Xintxốp ra ý không bằng lòng: liệu
anh chàng này còn định đùa nữa hay thôi? Nhưng Xintxốp không định đùa nữa, vì
biết rõ tính hay tự ái của Karaulốp. Anh này được phong quân hàm trung úy mà
không hề tốt nghiệp trường quân sự, chỉ nhờ lòng can đảm khác thường trong
chiến đấu, cho nên anh có nhiều mặc cảm về trình độ học thức thấp kém của mình
và sẵn sàng ngăn chặn bất cứ lời nói đùa nào của cấp trên.
Thấy Xintxốp không mỉm cười, Karaulốp nguôi
đi. Anh kính trọng Xintxốp, biết rằng ngày đầu chiến tranh Xintxốp đã làm chính
trị viên và giá Xintxốp lại trở thành chính trị viên thì Karaulốp cho là nếu
mình ở dưới quyền anh ta cũng là điều hợp lý thôi. Nhưng vì Xintxốp lúc này làm
tiểu đội trưởng trong trung đội anh, cho nên Karaulốp lại càng không thể tha
thứ cho Xintxốp về bất cứ điều gì cũng như đối với mọi người khác.
- Cậu đừng tưởng là ông ta cười, - anh vừa
bảo Xintxốp vừa nhìn thiếu tướng với vẻ thán phục. - Bây giờ ông ấy cười với
cậu, nhưng một phút sau ông ta đã hắc ra trò, mà thường là hắc ra trò. -
Karaulốp khoái trí quay tròn quả đấm kếch sù của mình trong không khí để diễn
tả rằng khi xảy ra việc gì không vừa ý thì sư đoàn trưởng thường hắc như thế
nào.
Trong lúc dó, người ta đã khiêng một chiếc
bàn từ trong hầm nhà ra; thiếu tướng gỡ cái túi dết qua đầu và trao cho người
sĩ quan bí thư. Anh này liền móc trong túi dết ra năm chiếc hộp con màu đỏ, năm
tờ giấy chứng nhận, liếc nhìn vào giấy xong lại liếc nhìn vào hộp, sau đó đặt
từng tờ giấy xuống dưới từng chiếc hộp và lại gần thiếu tướng nói gì đó.
Thiếu tướng quay mình lại, nụ cười biến
khỏi mặt ông, và bộ mặt lập tức trở nên nghiêm trang, quắc thước.
Bản thân Riáptrenkô sắp được nhận huân
chương, cho nên Baglúk hô khẩu lệnh.
Khi đứng thẳng theo tư thế “nghiêm”,
Xintxốp chợt nghĩ tới Malinin đang đứng sát nách mình: “Sao lại thế: mình được
huân chương mà Malinin thì không? Và thậm chí không thể đả động đến việc này
với ông ta: hễ mở mồm ra nói lả ông ấy ngắt lời luôn!”
- Thượng úy Riáptrenkô! Tiến lên nhận huân
chương, - giọng thiếu tướng vang lên.
Riáptrenkô tiến nhanh ba bước làm tung vạt
áo capốt lên vả đứng lại trước mặt thiếu tướng, ngửng bộ mặt tái nhợt với hai
hàng ria mép màu hung hình cánh cung lòi ra ngoài quai mũ che tai đội lệch.
Karaulốp nhận huân chương gần cuối, còn
Xintxốp thì nhận cuối cùng. Khi thiếu tướng gọi tên Karaulốp, đọc lệnh của hội
đồng quân sự vả chúc mừng anh, Karaulốp thậm chí vã cả mồ hôi trán vì xúc động.
- Karaulốp, tôi rất mừng cho đồng chí, -
thiếu tướng vừa nói vừa luồn ngón tay xuống dưới áo Karaulốp cho tiện hơn để
gắn huân chương Cờ đỏ cho anh. - Và mừng rằng chính tôi đã trao tặng chiếc huân
chương này cho đồng chí! Tôi đã cùng công tác với đồng chí trong sáu năm trời,
tức là một nửa tuổi quân của đồng chí, và hàng năm cùng nhau chờ đợi thấp thỏm:
chiến tranh sắp xảy ra... Rồi nay đồng chí đã là trung úy và ngực đồng chí đã
đeo huân chương chiến đấu. Thật là sung sướng cho sư đoàn ta!
Thậm chí hai môi Karaulốp run lên khi anh
nghe những lời đó và lúc Xintxốp đến lượt được đọc tên và bước lên trước, anh
vẫn cảm thấy hơi thở hổn hển vì xúc động của Karaulốp ở đằng sau lưng mình.
Thiếu tướng đọc lệnh. Xintxốp đứng “nghiêm”
và người sĩ quan bí thư làm như anh không tự mình giơ tay lên được, nên đã cởi
chiếc khuy móc trên áo lông thú cho anh và dùng dao con khoét một lỗ nhỏ trên
áo sơ mi quân phục. Thiếu tướng cầm lấy chiếc huân chương Sao đỏ, đặt nó lên
lòng bàn tay, thong thả tháo đai ốc ra và luồn bàn tay lạnh ngắt, tê cóng vì giá
rét xuống dưới áo sơ mi quân phục của Xintxốp, bắt đầu gắn huân chương.
Trong giây phút ấy, Xintxốp trông thấy bộ
mặt ông ta ngay sát bên mình và chợt nhớ ra rằng lẩn đầu tiên mình đã trông
thấy ông ta đội mũ sắt và khoác áo mưa vải bạt ướt đẫm hồi tháng mười ở
Đôrôkhôvô khi ông đến lấy quân bổ sung cho sư đoàn và toàn thể tiểu đoàn cộng
sản đã bước lên trước về phía ông để trả lời câu hỏi: ai xin đi?
Gắn huân chương xong, thiếu tướng lùi lại
nửa bước và chìa bàn tay nhỏ bé, rắn chắc ra cho Xintxốp.
- Tôi chúc mừng đồng chí! - ông nhìn
Xintxốp từ đầu đến chân và nói. - Đồng chí ở sư đoàn này từ ngày nào?
- Từ mười chín tháng mười ạ, tôi đến trong
đợt bổ sung số quân người Maxcơva.
- Thuộc tiểu đoàn cộng sản Phrunde đấy ạ! -
Malinin đang đứng cạnh liền nhắc, có ý tự hào.
- Thật là một đợt bổ sung tốt! - thiếu
tướng nói và lại ngước mắt nhìn Xintxốp. - Đảng viên à?
- Vâng! - Xintxốp trả lời và hai mắt anh
bắt gặp cái nhìn của Malinin.
Không, Malinin nhìn anh như thế thật vô
ích: ngay bây giờ anh sẽ không nói thêm gì, không đề nghị gì đâu! Bây giờ không
phải chỗ và không phải dịp. Còn sở dĩ anh trả lời là “vâng” vì biết trả lời thế
nào khác nữa nhỉ? Nếu không đúng thế thì chính ủy tiểu đoàn cứ việc chữa lại.
Nhưng Malinin không chữa lại lời anh nói và
anh bèn lùi ba bước, đứng trở lại vào hàng những người được thưởng.
Ngắm nghía họ xong, thiếu tướng chắp tay ra
sau lưng, đưa mắt nhìn Baglúk, sau đó lại nhìn những người được thưởng và nán
lại một giây nữa: rồi nói rằng từ trước đến nay sư đoàn ta đã toàn tâm toàn ý
hoàn thành tốt đẹp mọi mệnh lệnh của bộ tư lệnh, nhưng trước mắt họ sắp có
những nhiệm vụ còn trọng đại hơn nữa, và ông tin rằng các đồng chí được thưởng
ngày hôm nay cũng như tất cả anh em chiến sĩ và cán bộ khác của sư đoàn sẽ ra
sức hoàn thành tốt đẹp những nhiệm vụ ấy.
- Còn bây giờ, - đôi mắt ti hí của thiếu
tướng sáng hẳn lên, - Tôi có một nhiệm vụ nhỏ cho ngày hôm nay...
Baglúk đã tham dự lễ gắn huân chương trong
hai tiểu đoàn kia và biết là sắp phải làm gì, nên cứ nhấp nhổm đổi hết chân này
sang chân khác, nghển cái đầu to tướng như đầu bò mộng có cái trán dô.
- Kìa, tôi trông thấy là trung tá Baglúk,
trung đoàn trưởng của các đồng chí đã co rúm lại, - thoáng nhận thấy thế, thiếu
tướng liền nói và đưa mắt về phía ông trung đoàn trưởng, - bởi vì tôi sẽ nói
với ông ấy trước mặt các đồng chí là đáng lẽ ra, phải giải quyết xong nhiệm vụ
này từ hôm qua kia. Nhưng hôm nay vẫn có thế uốn nắn được công việc đó: từ giờ
cho đến sáng, phải tóm được “lưỡi”. Mà phải bắt sống, chứ không phải đã chết
rồi đâu nhé! Ai xung phong nào?
Xintxốp có cảm tưởng rằng thiếu tướng nhìn
thẳng vào mình với vẻ chờ đợi, tuy kỳ thực thiếu tướng không nhìn anh mà nhìn
Karaulốp đang đứng sát nách anh.
- Báo cáo đồng chí thiếu tướng, chúng tôi
sẽ bắt được! - anh nói để nhận lời thách thức, và khi bước lên trước xong, anh
cảm thấy có cái vai của Karaulốp ở bên cạnh; Karaulốp cùng bước lên một lúc với
anh nhưng lặng thinh.
- Được, giao hẹn với nhau rồi nhé! - thiếu
tướng nói không theo tác phong quân sự mà không hiểu sao bỗng nhiên lại theo
kiểu giản dị, kiểu bạn bè. - Các đồng chí đã biết rõ trận địa của quân dịch,
biết rõ những con đường tiếp cận đến đó rồi chứ?
- Báo cáo, rõ! - lần này Karaulốp đáp.
- Nghĩa là các đồng chí có thể chỉ cho tôi
biết nơi nào định đi qua chứ? - Thiếu tướng hỏi.
Ông ta muốn hoàn thành nốt phần cuối cùng
của kế hoạch là đến đài quan sát của tiểu đoàn, nhưng để tránh khỏi những lời
khuyên can thường lệ của cái anh chàng Baglúk hay sinh sự: “Đồng chí đừng đi”,
“Theo điều lệnh thì đồng chí không được đi” nên ông bèn quyết định không mang
Baglúk đi theo mà mang Karaulốp và người hạ sĩ này.
- Báo cáo thiếu tướng, có lẽ chúng ta đứng
ở đài quan sát của trung đoàn để nhìn thì tốt hơn, - Baglúk nói, định ngăn cản
sư đoàn trưởng một cách vô hy vọng như bản thân ông cũng đã hiểu.
- Đài quan sát của cậu thì tớ đã đến luôn,
còn đây là cái khe hở mà anh em sắp sửa lách qua để tóm “lưỡi” thì tớ muốn nhìn
từ đài quan sát của tiểu đoàn. Có phải hôm nào tớ cũng lần mò tới đây được đâu,
- thiếu tướng nói. - Đồng chí Baglúk, đồng chí hãy ở lại đây làm công việc của
mình. Còn tôi sẽ đi với họ, - Ổng hất hàm chỉ Karaulốp và Xintxốp, - và với
tiểu đoàn trưởng.
- Thế thì ít nhất cũng xin phép sửa soạn
tạm bữa chiều ở đây, ở tiểu đoàn này! - Baglúk nói có vẻ bối rối.
- Thật là may mắn, cậu đã đoán ra! - thiếu
tướng vui vẻ đáp và vì chưa tin chắc rằng Baglúk đã đoán được hết ý mình nên
nói thêm: - Tớ sẽ ăn bữa chiều ở đây cùng với các anh em vừa được tặng thưởng.
- Ông ta quay sang Karaulốp. - Thế nào, Karaulốp? Làm một cốc vại trước khi đi
trinh sát không có hại gì chứ?
- Báo cáo thiếu tướng, đối với tôi thì chả
có hại gì! - Karaulốp nói. - Nhưng tôi lại sợ là thiếu tướng không uống nổi một
vại đâu.
- Lạc hậu rồi, - thiếu tướng nói và phì
cười. - Lạc hậu mất rồi, Karaulốp ạ! Trước kia mình không quen uống, đúng thế!
Nhưng từ khi bộ trưởng bộ quốc phòng định mức thì mình phải uống theo điều
lệnh. Còn cậu, - thiếu tướng quay sang người sĩ quan bi thư của mình đang đứng
thắc mắc không hiểu thiếu tướng sẽ mang anh ta đi theo hay để lại. - hãy chạy
tới chỗ anh em súng cối…
- Có thể gọi điện thoại cho họ ạ. - Baglúk
nói xen vào.
- Hãy chạy tới chỗ anh em súng cối. - thiếu
tướng nói, phớt lờ ý kiến của trung đoàn trưởng - và nói lại với Phirxốp rằng
mình xin lỗi cậu ấy, mặc dù mình đã hứa rồi, hôm nay mình không đến gắn huân
chương đâu, mai nhé. Không kịp!
Người bí thư giơ tay chào ra vẻ không bằng
lòng, rồi chạy đi thi hành mệnh lệnh, còn thiếu tướng thì quay lại và không
nhìn ngang liếc ngửa gì cả, đi nhanh về phía khác, vòng qua ngôi nhà đổ nát.
Ông đã từng đến đài quan sát của tiểu đoàn, nên biết lối đi. Riáptrenkô quét
vạt áo capốt trên tuyết, cùng với Karaulốp và Xintxốp tất tả theo sau. Thoạt
tiên, họ đi trên sườn đồi phía sau mà quân Đức không trông thấy, rồi đi theo
khe núi có lối mòn ở dưới đáy, sau đó họ vào giao thông hào và cứ theo đường
hào đi tới cái gò đất khó nhận thấy ở sát trên vách núi dốc đứng. Trước kia, ở
đó có một cái lầu gạch để ngồi hóng mát; bây giờ nó đã bị đổ sụt xuống, nhưng
vừa vặn ở dưới chỗ dó, ở dưới cái nền bằng gạch chắc chắn của nó, người ta đã
đào và ngụy trang rõ khéo đài quan sát của Riáptrenkô.
Bây giờ Riáptrenkô đi đầu, đằng sau anh là
Karaulốp rồi đến thiếu tướng. Xintxốp đi đoạn hậu.
Karaulốp cứ luôn luôn đi ghìm bước lại, tựa
hồ như muốn dùng cái lưng to lớn vuông vắn để che thiếu tướng cho quân Đức khỏi
thấy. Chắc hẳn là như vậy.
- Này, - thiếu tướng bảo và thúc vào lưng
Karaulốp ra vẻ đùa cợt nhưng khá mạnh. - Đừng có lề mề, không thì tớ dẫm vào
gót đấy. - Karaulốp dấn bước lên, còn thiếu tướng thì hơi tụt lại sau, gọi
Riáptrenkô: - Thượng úy, đồng chí mặc capốt ky binh không bị cóng à? Áo capốt
của đồng chí quả thực là tố... - Và không nói hết câu.
Một quả đạn súng cối nổ tung ngay cạnh giao
thông hào. Xintxốp té nhào sấp mặt xuống đất, hai tay đưa lên che gáy theo bản
năng. Khi anh đứng dậy thì trông thấy thiếu tướng đang nằm dưới đáy giao thông
hào, đầu ông ở sát chân anh, nhìn anh với hai mắt trợn ngược và đôi môi mấp máy
không thành tiếng.
Xintxốp vội quỳ sụp xuống ngay, bắt đầu
nhấc ông ta dậy. Dưới tấm áo lông cừu, mọi thứ trên ngực đều bị rách bươm, các
mảnh dạ rách thòi ra để lộ cả một mảng thân hình trần trụi đẫm máu. Anh xốc
thiếu tướng lên vai mỗi lúc một cao hơn và bỗng nghe có tiếng ồng ộc mà anh
tưởng là tiếng nói nhưng đó lại là máu ở trong họng trào ra.
Mắt anh bắt gặp cặp mắt của Karaulốp. Anh
này đang xoay xở trong đường giao thông hào chật hẹp để tiện bế lấy thiếu
tướng.
- Cậu buông ra! - Karaulốp nói. - Chết mất
rồi! - Anh bỏ mũ che tai xuống và khóc nấc lên.
Một loạt đạn súng cối nổ chụm lại ở đằng
sau, trong công viên cạnh tiểu đoàn bộ và tất cả lại yên lặng.
Đó chỉ là gần tối, quân Đức muốn nhắc nhở
rằng chúng vẫn còn ở đây, cho nên giã vào đống đổ nát của tòa nhà địa chủ. Quả
đạn súng cối đầu tiên là phát đạn lạc bắn hụt tầm.
- Chúng mình hãy lấy áo capốt mà khênh, -
Riáptrenkô nói xong liền bắt đầu cởi áo capốt của mình ra nhưng không hiểu sao
anh có vẻ lóng ngóng đến lạ. Cởi hộ tớ với, - anh kêu lên “ối, ối” và bảo
Karaulốp. - Mảnh đạn đâm vào bàn tay tớ. - và Xintxốp trông thấy bàn tay trái
của anh ta cũng đẫm máu.
- Việc gì phải làm bẩn áo capốt đi! -
Karaulốp vừa khóc vừa nói. - Tôi sẽ mang đến tận nơi.
Tấm áo khoác lông cừu của anh bị nhuộm máu
từ trên xuống dưới: tất cả suối máu từ trong họng của thiếu tướng phun thẳng
vào Karaulốp. Máu bắn cả lên mặt, anh quệt cả máu lẫn nước mắt trên má.
Anh ta bế lấy người chết theo đúng động
tác, và cứ nghĩ rằng ông ấy còn sống, thoạt tiên quỳ hai gối, sau đó đứng hẳn
dậy và ẵm trên tay đi theo giao thông hào trở lại tiểu đoàn bộ.
Xintxốp đi đằng trước anh, thỉnh thoảng
ngoái nhìn lại.
- Có lẽ hai người cùng khênh? - đi được năm
chục bước, Xintxốp bèn hỏi.
Nhưng Karaulốp chỉ lắc đầu nguây nguẩy.
Mặt anh ta đỏ gay vì mệt, nhưng nước mắt
vẫn chảy ròng ròng. Cứ thế cho đến tận tiểu đoàn bộ, anh không hề nhường lại và
chia sẻ cho ai cái gánh nặng của mình, không giao sư đoàn trưởng của mình cho
ai.
Xintxốp chạy tới tiểu đoàn bộ trước anh ta
hai phút và khi Karaulốp tới nơi thì Baglúk và Malinin bị chấn động trước sự
việc xảy ra đã đâm bổ ra đường phố.
Karaulốp đi đến tận bức tường, vừa thở hồng
hộc vừa dựa vào tường vả thều thào hỏi:
- Đặt xuống đâu nhỉ?
Anh không muốn đặt sư đoàn trưởng xuống
đất. Hỏi xong, hai chân đã mỏi nhừ khiến anh không gượng nổi, nên đâm ra lảo
đảo và trượt lưng trên mặt tường rồi ngồi bệt xuống tuyết mà tay vẫn cứ ẵm xác
thiếu tướng như ẵm đứa bé.
Mấy phút sau, một chiếc xe trượt tuyết chạy
tói và Karaulốp cùng Baglúk đặt xác thiếu tướng lên nệm cỏ giải tấm vải gai.
Riáptrenkô đứng cạnh luôn luôn cúi xuống vốc từng nắm tuyết áp vào bàn tay bị
thương. Tuyết lập tức bị nhuộm máu và lả tả rơi xuống thành từng cục màu hồng.
Malinin xắn ống tay áo đã bắt đầu thấm máu
lên cho tiểu đoàn trường và báo người đi gọi bác sĩ hay y tá đến đây, vi
Riáptrenkô đang nóng máu không muốn đi đâu cả.
Sau đó, Baglúk xuồng hầm nhà để gọi điện
thoại cho trung đoàn và sư đoàn, trước khi chở thiếu tướng đi. Dù đã quen với
thương vong chăng nữa, nhưng chuyện rủi ro này quá khác thường và hơn nữa đã
xảy ra hoàn toàn bất ngờ khiến người ta sửng sốt. Phải báo cho họ biết trước.
Thiếu tướng nằm trên xe trượt tuyết. Con ngựa dẫm chân trên tuyết, khẽ giật
giật chiếc xe.
Còn Malinin, Riáptrenkô, Karaulốp và
Xintxốp thì đứng bên cạnh chiếc xe trượt tuyết, nhìn người chết, mỗi người theo
đuổi một ý nghĩ riêng.
Malinin nghĩ rằng thiếu tướng gần như cùng
một tuổi với ông và chắc là con ông ta cũng đã lớn và có lẽ cũng đang hay sẽ ở
ngoài mặt trận...
Riáptrenkô tuy cũng bị chấn động như những
người khác, nhưng nỗi xúc động đó bị lẫn lộn với những ý nghĩ về vết thương của
mình. Anh nghĩ rằng nếu xương không bị gãy thì có thể sẽ được ở lại đơn vị, nên
cứ lấy tuyết áp mãi vào cho đỡ đau và động đậy mấy ngón của bàn tay bị thương:
không, hình như xương không gãy.
Karaulốp nhớ lại rằng ngay trước khi quả
đạn súng cối nổ, thiếu tướng đã thúc vào lưng anh ta và anh đã nhảy vọt lên
trước ba bước mà đáng lẽ là không nên tuân lời, cứ kiên quyết thì đã không xảy
ra việc gì. “Không xảy ra việc gì” có nghĩa là mảnh đạn ấy sẽ không văng vào
thiếu tướng mà văng vào Karaulốp và cái ý nghĩ đơn giản đó cùng với sự bực tức
vô bờ đối với chính mình đã thể hiện tất cả tính cách hy sinh quên mình trong
tâm hồn người lính.
Còn Xintxốp thì nghĩ rằng khi cả bốn người
đang đi trong giao thông hào, lòng anh bỗng đâm ra hoảng sợ và anh đâm ra ân
hận là mình đã xung phong đi bắt “lưỡi”. Nhưng bây giờ, sau cái chết đột ngột
này, tất cả mọi việc trong chiến tranh đối với anh vừa đáng sợ như nhau lại vừa
không đáng sợ như nhau và anh không ân hận là mình đã xung phong đi.
Chỉ có một mình thiếu tướng không nghĩ gì
hết.
Suốt ngày hôm nay, ông ta đã vui vẻ biết
bao nhiêu! Chính ông từ lâu cũng không nhớ rằng mình đã có lúc nào vui như vậy.
Ông ta quá ngây ngất vì sung sướng về cuộc tấn công sắp tới. Thường ngày tuyệt
nhiên ông không phải là người tươi cười đến thế, nhưng hôm nay ông đã mỉm cười
suốt ngày, lúc cần cũng như lúc không cần. “Tấn công! Tấn công!...”
Không, thế nghĩa là ông không có cái may
được tấn công. Vậy mà ông đã chờ đợi biết bao, chờ đợi việc đó biết bao, ông đã
khổ sở biết bao vì chuyện quân ta rút lui! Đã bao ngày đêm, ông từng mơ ước về
cuộc tấn công này và đã ngã xuống ngay trên ngưỡng cửa của nó! Nếu người chết
có thể suy nghĩ được sau khi đã chết thì chắc hẳn ông sẽ suy nghĩ đúng điều
này, còn nếu người chết có thể khóc được thì chắc hẳn hai mắt ông đã ứa lệ vì
không nén nổi sự bực tức!
Thiếu tướng nằm yên không động đậy trên
chiếc xe trượt tuyết và nhìn lên bốn người sống mà trước đó nửa giờ ông vẫn trò
chuyện và vui đùa với họ. Ông nhìn với cặp mắt mở to, chết trân và đã bắt đầu
đục.
Baglúk quay ra. Người ta che xác thiếu
tướng lại để cho không phải người nào gặp dọc đường cũng đều biết sớm rằng sư
đoàn trưởng đã chết. Rồi chiếc xe chở Baglúk cùng thi thế thiếu tướng chạy trở
về.
- Phải, gay go cho sư đoàn đấy, - Malinin
trông theo chiếc xe đã khuất sau chỗ ngoặt và nói.
Mấy hôm nay trong tiểu đoàn chẳng có ai bị
thương, nên ông bác sĩ đã cùng với cả y tá và cứu thương chạy đến ngay. Họ thở
hổn hển vì phải lội trong tuyết. Ông dưa Riáptrenkô xuồng hầm nhà băng bó.
- Tôi mát da mát thịt lắm, cũng chóng lành
thôi! - khi đi Riáptrenkô nói, cốt để tự an ủi mình hơn là an ủi Malinin.
Anh là một người gan dạ, nhưng từ khi bị
thương lần đầu đã biết được một tật xấu của mình là kém chịu đau và bây giờ
thấy ngại phải băng bó.
- Karaulôp, cậu nghĩ thế nào về việc bắt
“lưỡi”? - khi Riáptrenkô đi rồi, Malinin liền hỏi.
- Thế nào ạ? Báo cáo chính trị viên trưởng,
chúng tôi sẽ bắt được ạ!
Karaulốp thậm chí có vẻ ngạc nhiên ngước
nhìn Malinin với cặp mắt sưng mọng vì khóc nhiều. Sau khi thiếu tướng chết,
mệnh lệnh cuối cùng của ông ta đối với Karaulốp bây giờ lại càng trở nên thiêng
liêng đặc biệt.
- Tôi nghĩ thế này nhé, - Malinin nói, - để
bắt đầu, cứ để cho Xintxốp sẽ tự chọn lấy một người phối hợp tay đôi và đi làm
nhiệm vụ.
- Thế còn tôi? - Karaulốp hỏi với cái giọng
bị lạc hẳn đi vì bực tức. - Tôi đã hứa danh dự với thiếu tướng rồi! Đồng chí
đừng làm cho tôi sai lời hứa đó!
- Thì chính vì cậu đã hứa, - Malinin nói, -
cho nên có nghĩa là cậu phải thực hiện nhiệm vụ tác chiến đó trong bất cứ
trường hợp nào: phải đảm bảo cho họ lọt qua vị trí bố phòng. - Ông ta hất hàm
trỏ Xintxốp. - Mà nếu họ thu xếp không ổn thì tớ cho phép cậu thân hành đi làm
lại...
Thấy không, “không ổn”! Bác ăn nói lựa lời
thận trọng thật: “không ổn”! - Xintxốp tự nhủ thầm và một cám giác lành lạnh
chạy dọc sống lưng anh.
- Đồng chí Karaulốp, thế này nhé, - nhác
thấy anh này toan phản đối, Malinin liền nói. - Hãy đi bắt tay vào việc đi !
Ông ta không quen cái tác phong quân sự nhà
nghề, cho nên trong khi hạ lệnh, thỉnh thoảng ông nói không đúng những câu đã
được quy định, nhưng ông lại có tính không muốn nhắc lại mệnh lệnh lần thứ hai.
Karaulốp và Xintxốp đi ngay, còn Malinin
thì ở lại nhưng vẫn chưa vào trong hầm nhà.
“Ai biết được cậu ấy! - ông nghĩ thầm. -
Băng bó đâu có phải là chuyện vui vẻ gì, mà Riáptrenkô lại là một anh chàng trẻ
tuổi và hay tự ái, cho nên rên rỉ ở trước mặt mình, nhưng sau đó lại xấu hổ”.
Malinin không hề sợ làm thương tổn đến quan
hệ và làm phật lòng người khác, khi thấy rằng không làm thế thì không xong,
nhưng ông không thích chọc vào lòng tự ái của con người nếu không cần thiết.
Đối với Karaulốp cũng vậy. Ông không giao nhiệm vụ cho anh ta dưới một danh
nghĩa hợp lý, cốt khỏi làm mất lòng anh. Thực ra, ông không muốn cho Karaulốp
đi tới chỗ quân Đức, bởi vì anh ta có thể làm hỏng việc và chết, ít ra Malinin
cũng có cảm tưởng như vậy, sau khi tận mắt trông thấy cơn chấn động mãnh liệt
của Karaulốp. Quả thực Karaulốp thuộc vào loại người thiên hạ thường nói là
giời đánh cũng chẳng chết: họ có lớp da thuộc! Nhưng Malinin không tin vào sức
bảo vệ của lớp da thuộc khi nói đến con người! Thường thường nói về bản thân ông,
người ta cũng dùng thành ngữ đó, nhưng chẳng qua là do ông biết cách tự chủ.
Chỉ có thế thôi.
Người sĩ quan bí thư của thiếu tướng đã
hiện ra trên con đường mòn chạy quanh đống gạch ngói đổ nát. Anh ta từ đơn vị
súng cối quay về, rất vội, và từ đằng xa không trông thấy ai ngoài Malinin, nên
cứ tưởng là mình về muộn.
- Sư đoàn trưởng ở đâu nhỉ, đi rồi à? - anh
ta vừa đi vừa hỏi.
Malinin nhìn vào hai mắt viên sĩ quan bí
thư, thở dài và không trả lời thẳng mà chỉ nói:
- Anh hãy đi thẳng xuống sườn đồi. Chiếc xe
trượt tuyết chạy theo đường lớn, trong khi nó chạy vòng quanh đồi thì anh còn
đuổi kịp đấy...
Người sĩ quan bí thư chạy xuống dốc theo
con đường mòn, tay giữ lấy chiếc túi dết đang nhảy chồm chồm ờ bên sườn còn
Malinin thì lại một lần nữa suy nghĩ về cái điều mà ông đã suy nghĩ, khi đưa
tiễn chiếc xe trượt tuyết chở Baglúk cùng thi hài thiếu tướng: “Gay đấy, rất
gay cho sư đoàn đấy!...”
Trước khi đi vào trong căn hầm ngầm của anh
em chiến sĩ tiểu liên, Karaulốp cởi chiếc áo lông thú ra và dùng tuyết lau chùi
hồi lâu, nhưng không làm sao sạch được vết máu.
- Ít ra thì anh cũng làm cho cái mặt... -
Xintxốp đứng cạnh anh liền nói.
Karaulốp bốc một nắm tuyết rồi xoa lên mặt
mấy lần.
- Được chưa?
- Để tôi chùi cho! - Xintxốp nói và cạo vết
máu đã khô cứng lại ở gần tai Karaulốp.
Karaulốp khoác lên vai chiếc áo lông thú và
họ đi vào hầm.
Tin đồn về chuyện thiếu tướng chết đã bay
đến tận hầm ngầm và khi Karaulốp bắt đầu giải thích nhiệm vụ và nói rằng anh đã
hứa với đích thân sư đoàn trưởng rằng sẽ tóm được “lưỡi” thì tất cả mọi người
đều cảm thấy phải thực hiện cho bằng được lời hứa với người đã khuất.
Karaulốp giải thích nhiệm vụ. Anh sẽ thân
hành đưa tiễn và đón các chiến sĩ quân báo. Ai xung phong đi phối hợp tay đôi
cùng hạ sĩ Xintxốp?
- Tôi đi! - Lêônhiđốp vội vàng nói.
Xintxốp vẫn hy vọng là Kômarốp sẽ xung
phong đi với mình. Xintxốp vốn ưa cái tính điềm tĩnh và chín chắn của anh ta và
những phẩm chất đó đã làm cho Xintxốp đặc biệt tin cậy vào anh.
Nhưng Lêônhiđốp đã xung phong. Sau đó, anh
ta còn đưa mắt hằm hằm nhìn xung quanh, tựa hồ như có kẻ muốn móc miếng bánh đã
ở trong mồm anh ta ra và trước cặp mắt dữ tợn đó không ai xung phong thêm nữa.
Không phải Kômarốp mà là Lêônhiđốp xung
phong đi, điều đó làm cho Xintxốp kém phấn khởi, nhưng không thể tranh cãi được
nữa. Chính Lêônhiđốp hôm nay đã phải nghe anh nói những lời xúc phạm, nhưng vẫn
cứ xung phong đi; có lẽ, thậm chí anh ta cốt xung phong đi, để chứng tỏ rằng
người ta xúc phạm mình cũng uổng công vô ích mà thôi.
“Cậu ấy hơi nóng tính đấy, nhưng thôi thế
cũng được, không sao...” - Xintxốp cố tự an ủi mình vả sau khi tiếc thẩm trong
bụng một lần cuối cùng rằng không phải Kômarốp cùng đi với mình, anh liền nói
to:
- Đã thế thì sửa soạn đi!
Họ lên đường với trang bị nhẹ nhàng, không
mặc áo lông thú, chỉ mặc áo bông nai nịt gọn gàng, cầm tiểu liên, dắt dao, mang
mỗi người hai quả lựu đạn để đề phòng bất trắc nếu bị địch bắt, một gói bông để
làm giẻ nhét mồm và một cuộn giây điện thoại để trói tù binh.
Khi Karaulốp đã hô xong mọi mệnh lệnh và họ
chỉ còn việc chui ra khỏi chiến hào và bò men theo bụi cây nhỏ phủ tuyết xuống
phía dưới, tới con suối trên khoảng đất không thuộc về bên nào, thì Lêônhiđốp
bỗng rỉ tai Xintxốp một câu thật bất ngờ đối với anh:
- Giá hôm qua không phải lỗi tại mình thì
hôm nay chúng mình đã ngồi nhà và đánh chén nhân dịp tấm huân chương của ông...
Và Xintxốp hiểu rằng: không, Lêônhiđốp xung
phong đi trinh sát không phải vì giận dữ mà vì không muốn rằng do hôm qua mình
đã giết mất “cái lưỡi” để đến nỗi hôm nay người khác phải hy sinh tính mạng.
- Hẵng khoan đã, chúng ta còn được đánh
chén nữa cơ mà, - Xintxốp nói và chợt chạm phải tuyết lạnh buốt, anh liền lăn
qua bờ công sự...
Sau đó ba giờ, khi họ đã lôi tên tù binh về
đến chỗ lòng chảo, chỉ còn cách trận địa quân ta chưa đẩy nửa cây số thì xảy ra
tai nạn. Họ vấp phải mìn và Lêônhiđốp bị đứt mất một bàn chân. Xintxốp vừa lấy
thắt lưng buộc chặt lấy phía dưới đầu gối Lêônhiđốp vừa cay đắng nghĩ thầm:
“Chúng ta đã đánh chén đẫy!”
Tên Đức bị trói chân trói tay nằm trên
tuyết bên cạnh họ. Ban đầu họ trói tay nó và dắt đi, nhưng trên chặng đường nửa
cây số vừa qua họ đã thay phiên nhau lôi nó theo sau trên mặt tuyết như một cái
bao. Tên Đức nằm thở phì phì bằng mũi: mồm nó bị nhét giẻ.
Chắc là mìn này do quân ta gài. Nếu mìn là
của bọn Đức và chúng nó biết rõ có mìn thì sau khi có tiếng nổ, chúng đã nổ
súng rồi. Nhưng bên vị trí quân Đức tất cả đều im lặng, chúng chưa phát hiện ra
là tên lính ngủ gật trong công sự đã bị mất tích còn tiếng nổ thì chắc rằng
chúng cho là đạn súng cối của quân Nga bắn tới.
- Làm sao bây giờ nhỉ? - Lêônhiđốp khẽ hỏi.
Ai biết được: có lẽ vào lúc mìn nổ, khi bị
tiện mất một bàn chân, anh cũng có rú lên, nhưng sau đó không hé miệng kêu lấy
nửa lời: cả trong lúc Xintxốp lấy dao cắt lớp da rách đeo cái bàn chân lủng
lẳng, cả trong lúc Xintxốp lấy cuộn báng cá nhân băng bó chỗ chân cụt cho anh,
cả trong lúc Xintxốp dùng thắt lưng buộc chặt chỗ dưới đầu gối cho anh. Quả là
tính tình Lêônhiđốp rất rắn rỏi !
- Chúng mình hãy đợi một lát nữa rồi hẵng
bò đi, - Xintxốp nói. - Nếu cậu kiệt sức thì tớ sẽ kéo cậu.
- Thế còn thằng Đức? - Lêônhiđốp hói.
Xintxốp rùng mình nghĩ thầm rằng không thể
dùng súng bắn được, đành phải dùng dao đâm chết nó trước khi lôi Lêônhiđốp về
chỗ quân ta. Để nó lại đây với mục đích là sau này quay lại tìm thì liều lĩnh
quá, nó có thể tự cởi trói hay lôi giẻ nhét mồm ra.
- Làm thế nào được nhỉ! - Xintxốp nói, và
nhìn dáng điệu của anh, Lêônhiđốp hiểu rõ là anh đang định làm gì.
- Ông cứ lôi nó đi! - Lêônhiđốp liền nói. -
Phải hoàn thành mệnh lệnh chứ. Một mình ông có lôi về đến nơi được không?
- Lôi được, nhưng...
Xintxốp không nói được hết câu, vì
Lêônhiđốp lại ngắt lời anh và nói giọng thì thầm, thở ra hơi nóng hầm hập trong
cơn sốt. Do bị mất máu, cho nên mỗi phút trôi qua, anh lại mất sức đi rõ rệt.
- Ông cứ kéo hắn đi, còn mình thì bò đằng
sau...
- Thôi được, - Xintxốp đột nhiên đồng ý với
Lêônhiđốp. - Nhưng chỉ yêu cầu cậu là đừng bỏ đi đâu cả! Hãy ở đây. Tớ lôi nó
về đến nơi rồi sẽ đến đón cậu. Tớ sẽ lấy thêm người đến đây. Chỉ cần là cậu hãy
ở đây. Đừng đi đâu nhé!
Anh cứ sợ là Lêônhiđốp khi đã bị yếu sức
rồi có thế bò đi đâu đó làm cho sau đấy anh em không tìm thấy.
- Thế ông sẽ đến đón chứ? - Mặc dầu đã
quyết định hy sinh thân mình, nhưng Lêônhiđốp vẫn rất muốn sống, nếu không thì
anh đã không hỏi như vậy.
- Tớ sẽ thân hành đến! Xin hứa danh dự như
vậy!
Để bò được dễ dàng hơn, Xintxốp thậm chí
cởi cả áo bông ra, để khẩu tiểu liên lại bên cạnh Lêônhiđốp rồi chỉ dắt con dao
và bỏ quả lựu đạn trong túi, bò lên phía trước, kéo thằng Đức theo sau.
Về sau hóa ra thằng Đức cũng chả vạm vỡ và
nặng nề gì cho cam, còn rất thấp bé nữa là khác, nhưng cứ thử kéo một cái bao
tải như vậy trên tuyết mà không ngửng đầu lên xem!
Bản thân Xintxốp cũng chẳng tin rằng mình
đã mò về đến nơi. Khi còn cách công sự năm chục thước, anh gặp Karaulốp cùng
đại đội trưởng đại đội bố phòng ở đó đã bò ra đây đón và đang nằm trên tuyết,
sau gò đất. Anh đã kiệt sức, và tuy bò trên tuyết, nhưng từ đầu đến chân ướt
đẫm mồ hôi.
- Thế Lêônhiđốp đâu? - Karaulốp hỏi.
- Đằng kia, bị thương... Bây giờ tôi sẽ đến
đón cậu ta... - Vừa thở hổn hển sau mỗi tiếng, Xintxốp vừa nói.
Karaulốp không hỏi gì thêm nữa trong khi cả
ba người họ chưa lôi được tên Đức vào trong công sự.
- Sao, Lêônhiđốp gặp chuyện gì đằng kia
vậy? - khi đã vào trong công sự, Karaulốp khoác cho Xintxốp chiếc áo lông thú
của mình rồi hỏi.
- Tôi sẽ... nói... ngay... Anh... hãy...
lôi... giẻ... nhét... mồm... ra... cho... tên... Đức.., nếu không thì... -
Xintxốp không nói được hết câu vì không đủ hơi.
Tên Đức đã được lôi giẻ nhét mồm ra và nó
đâm ra ho khù khụ như mắc bệnh lao. Sau đó, nó buồn nôn hoặc là do khiếp sợ quá
hoặc là do nó bị bịt mồm quá lâu.
- Lêônhiđốp bị mất một bàn chân, - Xintxốp
nói. - Bây giờ tôi sẽ đến đón cậu ta ngay đây.
- Cậu mệt thế thì đi đâu? - Karaulốp liền
bảo. - Bây giờ để tớ thân hành đi cho. Chỉ cần cậu chỉ cho là ở chỗ nào.
- Không, - Xintxốp nói. - Tớ sẽ đi với cậu,
chỉ cần cho tớ nghỉ lấy hơi một tí.
Thường thường anh gọi Karaulốp bằng “anh”,
nhưng bây giờ lại xưng hô bằng “cậu”.
Đại đội trưởng bèn đưa cho anh bình rượu.
- Không nên. - Xintxốp nói. - Tôi sợ sẽ mất
sức. Thế này đã nóng lắm rồi. Giá mà có nước...
Nhưng gần đấy không có nước, nên anh liền
bốc một nắm tuyết và bắt đầu ngậm.
- Đồng chí hãy ở lại đây, - Karaulốp lại
nói, lẩn này với giọng cấp trên. - Tôi sẽ tìm thấy. Tôi sẽ đem Kômarốp đi theo
mà.
Kômarốp cũng ở đây. Hóa ra Karaulốp lấy anh
ta đi làm người phối hợp tay đôi. Xintxốp chợt nhớ lại lời nói của Malinin: “đề
phòng trường hợp họ thu xếp không ổn”.
Xintxốp nhổ ngụm tuyết ra.
- Không biết các cậu nghĩ sao chứ tôi chỉ
xin đi cùng với các cậu. Không có tôi thì dù sao chăng nữa các cậu cũng không
tìm ra cậu ấy đâu... ở đó lại còn cả cái áo bông và khẩu tiểu liên của tôi nữa.
Bỗng nhiên anh sực nhớ lại tất cả nỗi kinh
hoàng của chính mình dạo trước ở trong rừng, khi hồi tỉnh lại một mình, bị thương
và bò lê đi rồi sau đó đứng dậy và trông thấy tên Đức cầm khẩu tiểu liên tiến
về phía anh.
“Không, Lêônhiđốp sẽ không gặp phải chuyện
đó!”
- Chúng mình đi đi, - anh nhắc lại và bò
ngay ra khỏi công sự trước tiên, không đợi ý kiến quyết định dứt khoát của
Karaulốp.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét