Thứ Ba, 17 tháng 9, 2019

Những người sống và những người chết - Chương 16

Những người sống và những người chết

Tác giả: Kônxtantin Ximônốp
Người dịch: Trọng Phan & Hà Ngọc
Người biên tập: Lê Anh Hiền
Nhà xuất bản Cầu vồng - Maxcơva - 1987

Chương Mười Sáu

Dinh cơ cũ của một tên địa chủ dựng trên một ngọn đồi nhỏ, thấp, nhưng dễ trông thấy, còn khu công viên cũ thì đổ xuống theo hai sườn núi: về phía sau, về hậu tuyến quân ta, và về phía trước, tới chỗ quân Đức. Làng Dubrôvixư bị quân Đức chiếm mấy hôm trước đây nằm sau dòng suối đóng băng, lượn khúc ngoằn ngoèo trong thung lũng nhỏ.
Bao nhiêu ngày đêm liền ngọn đồi nhỏ bị bom và đạn đại bác làm rung chuyển, một nửa cây cối trong khu công viên bị gãy gục như những que diêm, tòa nhà có lầu các đã bị sụp đổ tan tành, vì bom rơi thẳng vào đó; gác chuông trên ngôi nhà thờ trong khu dinh cơ này bị đạn đại bác cắt ngang đến tầng thứ nhất. Nhưng dù cho quân Đức có lay chuyển, có đào xới mảnh đất này thế nào đi nữa, sau mấy cuộc rút lui bất đắc dĩ, tựa hồ như phát khùng lên cả với mình lẫn với đơn vị láng giềng, sư đoàn vẫn cứ bám chắc và cắn chặt răng vào cái quả đồi nhỏ có tòa nhà cũ của địa chủ kia và hình như lại càng nghiến chặt hai hàm răng hơn. Đã mười lăm ngày đêm, kể từ sáng 15 tháng mười một, quân Đức dốc toàn lực tiến về phía Maxcơva, cố sức bao vây lấy nó đồng thời cả từ hướng bắc lẫn hướng nam, và ở nhiều nơi, càng ngày chúng càng thọc sâu về phía thủ đô ngay tại các khu vực trung tâm của mặt trận.
Sau hai tuần tấn công, chúng đã chiếm được Klin, Ixtra, Iakhrôma, Xônnhesnôgôrxk, Venhép, Stalinôgôrxk, Bôgôrôđitxk, Mikhailốp. Ở hướng tây-bắc, chúng chỉ còn cách Maxcơva vẻn vẹn hai mươi lăm cây số...
Mặc dầu sau cuộc duyệt binh ở Hồng trường, sư đoàn đã ra quân với mệnh lệnh trực tiếp không được lùi một bước, rốt cuộc nó vẫn đành cứ phải rút lui nữa, và không phải chỉ một lần.
Quả thực, quân bưu ngày càng đưa tới đây nhiều tin tức hơn, những tin tức từ hậu phương nói rằng sau lưng họ có các đơn vị của thê đội hai và xa hơn nữa hình như có cả thê đội ba.
Những người đang chiến đấu ngoài hỏa tuyến bắt đầu cảm thấy rằng hiện nay đằng sau lưng họ, sau cái phòng tuyến rải mành mành của họ, người ta đang dành dụm một cái gì đó để phòng xa. Họ đã không còn bất giác cảm thấy lạnh gáy nữa, một cảm giác thường sinh ra, khi người ta biết rằng sau lưng mình chẳng có ai hết và nếu mình ngã xuống thì kẻ địch sẽ bước qua và tiếp tục tiến...
Nghe nói quân Đức đang dốc hết sức lực cuối cùng ra để tấn công và những trận đánh vừa qua tựa hồ như đã xác nhận điều này. Nhưng ai biết rõ chúng, liệu chúng còn bao nhiêu cái “sức lực cuối cùng” đó nữa? Hôm qua, ai nấy đều mừng rỡ là ở mặt trận phía nam, ta đã lấy lại Rôxtốp, tuy rằng vỉ có tin ấy nên mới biết được là trước đây ta đã để mất Rôxtốp, còn hôm nay thì bản thông cáo chiến sự buổi sáng ghi theo đài phát thanh lại nói rẳng cách đây mấy hôm, quân ta đã rút khỏi Chikhvin. Có lẽ sau này ta sẽ chiếm lại như Rôxtốp nhưng bây giờ thì đã mất…
Giữa lúc ấy, trong căn hầm ngầm của các chiến sĩ tiểu liên đang có cuộc tranh cãi về Rôxtốp và Chikhvin. Hầm này được che bằng hai lớp gỗ khúc tròn lót dầm của cái phòng ươm cây bằng gạch cũ kỹ. Từ nơi này đến sở chỉ huy tiểu đoàn, trong hầm tòa nhà địa chủ và đến hỏa tuyến chạy qua ngay đây, ở phía dưới, chỗ rìa công viên, chỉ cách nhau trong tầm tay với. Lêônhiđốp và Kômarốp đang tranh cãi với nhau. Anh chàng Lêônhiđốp nóng tính công kích bản thông cáo chiến sự của Cục thông tin, còn anh chàng Kômarốp chín chắn thì bảo vệ bản thông cáo chiến sự kia.
- Muỗi, thôi đi, - Lêônhiđốp chọc tức anh ta. - Cậu thì bao giờ cùng đúng tất. Thế thì đúng ở cái chỗ nào, khi người ta bảo tớ rằng chúng mình đã chiếm được Rôxtốp của quân Đức, còn tớ thì dụi mắt: cha mẹ ơi! Chiếm thì chiếm được đấy, nhưng đã bỏ mất từ lúc nào nhỉ? Chả nhẽ tớ đã ngủ một giấc và vừa tỉnh dậy à? Tình hình Chikhvin cũng vậy. Thế là xảy ra tai họa, bỏ mất rồi. Mà cứ nói là bỏ mất, nhưng cái “cách đây mấy hôm” lại có thể là đã một tháng nay chưa biết chừng.
- Thế thì ngốc thật! - Kômarốp nói. - Giá mà cậu biết trước được một tuần thì cậu sẽ được thêm cái gì?
- Giá có bị giảm đi cũng được, nhưng tớ muốn biết.
- Nhưng có lẽ là không nên báo tin đó. Có lẽ không nên cho quân Đức biết điều đó!
- Tại sao? - thậm chí Lêônhiđốp nhảy phắt dậy. - Thế là bọn Đức không biết rằng chúng đã chiếm được cái gì à? Chiếm được và không đoán ra! Khi chiếm Cudơkôvô chúng ta cũng giấu đi như thế à? Ai lại thế bao giờ! Trung đoàn trưởng suýt nữa thì gọi điện thẳng từ tiểu đoàn chúng ta lên tập đoàn quân, chính tớ nghe mà. Thế mà khi rút lui, thì ngay ở đây, cố nhiên là cùng không buồn kèn trống gì cả... Cậu thì nói gì cũng đúng! Cậu không phải là muỗi mà là con bọ dừa.
- Nhưng cậu dừng làm om lên thế, - Kômarốp bình tĩnh đáp lại. - Cậu biết nhiều quá... Người này đối với cậu là con bọ, người kia là con sâu. Còn chính cậu thì kêu vù vù như con ong đất ấy: chỉ be ầm lên mà chả rõ đầu cua tai nheo gì cả.
- Nhưng tớ sẽ còn kêu nữa! - Lêônhiđốp nói và bộ mặt của anh ta từ chỗ dữ tợn trở thành buồn bã. - Tớ thương hại cho Chikhvin! Chính tớ quê ở Kaivakxa, có thể nói là người Chikhvin, Thế mà Chikhvin bị chiếm mà tớ không biết.
- Cậu quê ở Vakxa nào ở vùng ấy nhỉ? - Kômarốp vốn tính hòa nhã liền trêu chọc cái thói hay cà khịa của Lêônhiđốp, - Vakxa nào thế nhỉ?
[Vakxa là xi đánh giày]
- Không phải là Vakxa mà là Kaivakxa, ở gần Chikhvin có một địa phương tên là như vậy! - Lêônhiđốp bực mình đáp.
Nhưng Kômarốp đã không muốn bỏ lỡ cơ hội chiếm ưu thế trong cuộc tranh luận này.
- Ê, cậu này! Chính quê thì ở Vakxa mà dám phán đến tận trời! Không có cậu thì người ta không biết cách viết bản thông cáo chiến sự!
- Hạ sĩ ơi, này nhé, - Lêônhiđốp nói với Xintxốp đang ngồi bên chiếc bàn vốn là một cánh cửa kê trên những mảnh gạch vỡ và viết thư cho vợ. - Theo ý ông thì người ta có cái đầu để làm gì: để nói “có” hay để nói “không”?
- Để có óc ở trong đầu, - Kômarốp đáp trước khi Xintxốp ngẩng đầu lên.
- Thế óc ở trong đầu để làm gì? Để nói “có” hay để nói “không”? - Lêônhiđốp chẳng chịu yên.
Xintxốp ngửng đầu lên. Trong hầm ấm áp và khô ráo, mà hôm nay lại thêm vẻ yên tĩnh nữa.
Lần đầu tiên trong suốt thời gian đó, ở khu vực này im tiếng súng từ sáng. Ngày đầu tiên, trước mắt họ không có ai bị giết và bị thương, và chỉ có tiếng đại bác ở đằng xa, phía bên phải, ở sư đoàn bên cạnh, là nhắc nhở đến cái chết: chắc hẳn đằng ấy đang diễn ra một trận chiến đấu ác liệt. Nhưng lúc này, chưa ai nói đến chuyện tăng viện, một sự tăng viện mà người ta có thể đòi hỏi ở họ vào bất cứ lúc nào, ban ngày và ban đêm. Xintxốp cũng như mọi người khác đều lấy làm mừng vì hôm nay quân Đức không dồn ép họ mà dồn ép đơn vị láng giềng. Nếu thiếu một chút bệnh ích kỷ đó của con nhà lính thì nói chung bạn không sống nổi ở ngoài hỏa tuyến.
Sau nửa tháng chiến đấu, trong số bảy người của tiểu đội Xintxốp chỉ còn lại bốn, kể cả bản thân mình. Anh chàng binh nhất Pudalốp thường hay phục dịch cấp trên những việc lặt vặt, nhưng trong giây phút quyết định đã hy sinh tính mạng mình để phục vụ đồng chí, anh ta đã chết trong khi lôi một thương binh ra khỏi bãi chiến trường; hai người khác đã bị thương và được đưa về đội điều trị; còn một người bị thương nữa là Pextrác, nhưng anh này không muốn rời khỏi đơn vị và nhờ sức vóc lực sĩ nên ở lại đơn vị với vết thương rách toạc trên vai. Bây giờ anh đang đi lĩnh bữa ăn trưa, và trừ anh ta ra thì trong hầm có đầy đủ quân số hiện diện của tiểu đội: Xintxốp vả hai anh chàng chiến sĩ tiểu liên thường xuyên cãi lộn nhau tức là Lêônhiđốp và Kômarốp, người đã được gắn cái biệt hiệu Kômarơ đến nỗi cả trung úy trung đội trưởng Karaulốp cũng gọi như vậy.
- Các cậu giỏi kiếm chuyện để cãi vã nhỉ! - Xintxốp nói. - Khi mà trong đầu chỉ có chữ “có” hay “không” thì chả nhẽ đó là cái đầu được à? Đó là một bản tự khai.
Xintxốp thừa hiểu là Lêônhiđốp có ngụ ý gì trong hai chữ “có” hay “không” của mình: anh ta có ý nói rằng người thông minh là người, mà nếu cần thì biết nói cả chữ “không” nữa.
Anh ta là người chiến đấu gan dạ nhưng tính tình ngang ngược và anh điên tiết lên trước cái vẻ bình tĩnh của Kômarốp là người thường cho rằng bất cứ việc gì xảy ra đều đúng tất. Giá đây là cuộc tranh cãi khác thì có lẽ Xintxốp đã ủng hộ Lêônhiđốp, nhưng lúc này, vì đang ở trong tâm trạng thiếu phấn khởi, cho nên Lêônhiđốp cứ xoi móc bản thông cáo chiến sự mà đó là một việc không nên làm. Theo quy định thì ở ngoài mặt trận không được tỏ ý hoài nghi bản thông cáo chiến sự. Hơn nữa, lại nói toạc ra miệng. “Vả lại, khi thông báo cụ thể rằng Chikhvin đã bị mất hôm nay hay cách đây ba hôm thì có ý nghĩa gì nhỉ? - Xintxốp nghĩ thẩm. - Có lẽ mọi người hy vọng sẽ đánh bật được quân Đức đi nên không thông báo ngay, chẳng khác gì chúng ta khi bị đánh bật ra khỏi Cudơkôvô thì suốt cả đêm chưa báo cáo lên tập đoàn quân vì mọi người đều nghĩ rằng mình sẽ chiếm lại? Nhưng sau đó, đến sáng, rút cục dù muốn hay không vẫn phải báo cáo...”
- Hạ sĩ, ông viết thư cho ai đấy? - sau một lát im lặng, Lêônhiđốp hỏi.
- Cho vợ.
- Nhưng mình lại nhận thấy rằng ông đã viết cho chị ấy lần thứ hai rồi, nếu không phải là lần thứ ba, thế mà chả nhận được thư trả lời.
- Chả nhận.
- Chúng mình có thể khiếu nại, nếu sự tình đã như vậy,- Lêônhiđốp nói. Trong lời nói của anh ta vừa có ý chẽ giễu vừa có cả ý thông cảm.
- Nhưng cậu khiếu nại ở đâu chứ? Y như nói với người điếc ấy, chả thấy trả lời.
- Thì chính mình bây giờ cũng chẳng được thư trả lời gì cả, - Lêônhiđốp nói. - Hôm qua mình tưởng là sẽ biết được tí gì nhưng hóa ra không. Cứ tưởng là quân Đức ở gần Vônkhốp, thế mà hôm nay té ra là chủng đã ở bên kia Chikhvin, y như sét đánh ngang tai! Mình lại có gia đình ở đó. Mình nghĩ rằng ngộ nhỡ ra không phải chỉ mình do cái kiểu ăn gian ngày tháng mà vui mừng là quân Đức ở Chikhvin mà cả ở đó cùng bị bất ngờ như nước lạnh dội xuống đầu? Sáng nay là quân ta mà đến chiểu đã là quân Đức à? Mà bố mình lại là thương binh từ hồi nội chiến. Nếu không báo trước thì ông cụ không đi xa đâu.
Chỉ sau khi nghe anh ta nói, cả Xintxốp lẫn Kômarốp mới hiểu rõ đầu đuôi là tại sao hôm nay anh ta đâm ra dữ tợn khác thường.
- Thế thì cậu cũng lấy giấy bút ra mà viết thư như hạ sĩ ấy. - Kômarốp nói.
- Viết về đâu? - Lêônhiđốp hỏi.
- Về chỗ ấy, về Vakxa của cậu ấy...
Kômarốp đã thôi không muốn châm chọc anh ta nữa, nhưng chỉ vì mới nói đùa có hai lần, cho nên quên mất tên gọi thực của làng quê Lêônhiđốp.
- Kai-vak-xa! - Lêônhiđốp chữa lại theo từng vần. - Nếu cậu còn gọi tếu như vậy lần nữa tớ sẽ bạt tai cho đấy.
- Nhưng cậu cứ viết đi. - Kômarốp nhắc lại mà không đối đáp lại lời đe dọa. - Trong chiến tranh chả thường thế đó sao? Nghe nói là mặt trận quân ta ở xung quanh Tula đều bị vây hết, thế mà Tula vẫn còn. Còn ở chỗ khác thì có thể còn ngược lại cơ: Chikhvin đã bị chiếm, nhưng xung quanh lại là quân ta. Ngồi xuống mà viết đi.
- Không đâu, - Lêônhiđốp khăng khăng nói; tính anh vốn khó tin vào một sự may mắn như vậy.
Xintxốp ngồi nhích đi cho ánh sáng chiếu vào tờ giấy nhiều hơn, rồi lại quay về với bức thư.
Lêônhiđốp nói đúng, suốt mấy tuần vừa qua. anh đã gửi cho Masa ba lá thư theo địa chỉ vu vơ của cái hòm thư mà anh đã ghi vào mảnh giấy từ hôm còn ở Maxcơva.
Lá thư này cũng ngắn gọn như hai thư trước: anh còn sống và khỏe mạnh. Chưa kể đến chế độ kiểm duyệt thời chiến, nói chung thật khó lòng viết được những lá thư dài. khi không thể hình dung được là nó có thể đến tay người nhận bằng cách nào.
Sau khi viết xong và gấp lá thư thành hình tam giác, cũng như những lần trước, anh viết thêm vào dưới họ tên Masa: “Trong trường hợp không có người nhận, đề nghị vẫn cứ bóc ra”. Rốt cuộc thì nếu cô ấy có bắt liên lạc được với Maxcơva bằng điện đài, chả nhẽ họ lại khó dễ không chuyển được mấy lời: “Chồng chị vẫn sống và khỏe mạnh” hay sao? Nếu có truyền tin bằng mật mã đi nữa thì đáng bao nhiêu mã hiệu? Chuyện vặt! Mà giá được thế thì người công tác ở trong vùng địch kia sẽ yên tâm. Chả nhẽ lại khó khăn thế kia à? Mà nếu khó khăn đi nữa thì việc này phải giải quyết ra sao chứ? - Xintxốp nghĩ thầm, trong lòng thoáng thấy căm giận một người nào đó do bản thân anh tưởng tượng ra, cái người đã không muốn săn sóc tới Masa.
Pextrác hạ thấp đôi vai đồ sộ, bước vào căn hầm. Tay cầm chiếc bình toong, nách cắp hai chiếc bánh mì như hai hòn gạch. Chiếc bình toong đó vốn được dùng để đựng sữa, nhưng trong những ngày vừa qua, nó đã thay thế chiếc phích bị vỡ vì mảnh đạn.
- Thế là chúng ta lại được thưởng thức món ăn nóng dòn đây, - Lêônhiđốp xoa tay.
- Nhưng hãy đợi anh em đi tuần thám và trung đội trưởng quay về đã chứ? Hay thế nào? - Kômarốp ngăn anh ta lại.
- Cậu có lấy báo về không? - Xintxốp hỏi Pextrác.
- Có.
Anh cởi phanh áo capốt và lôi trong quần ra một tờ báo nhàu nát rồi vuốt cho thẳng.
- Báo quân đoàn à?
- Còn hơn thế nhiều, anh ạ, - Pcxtrác nói. Cậu ta bao giờ cùng gọi Xintxốp là anh, - “Tin tức” kia!
- Cậu thật tháo vát đấy, - Lêônhiđốp nói.
- Tớ lấy ngay ở nhà bếp, - Pextrác nói. - Một ông phóng viên nhậu nhẹt ở đó và để lại một chồng báo hàng ngày.
- Tức là ông ta được nhậu ngon, - Lêônhiđốp nhếch mép cười.
Pextrác mặc kệ, không trả lời ý kiến nhận xét ấy, cẩn thận vuốt tờ báo thêm lần nữa và trao cho Xintxốp và nói rằng vừa rồi anh ta đi ra hỏa tuyến cùng với một tay nhiếp ảnh từ sư đoàn xuống. Nhà nhiếp ảnh này đề nghị chỉ cho anh ta sở chỉ huy tiểu đoàn và đi đến chỗ Malinin.
- Thế nghĩa là ông sắp phải mở tiệc đây, - Lêônhiđốp nói với Xintxốp.
Anh em chiến sĩ tiểu liên đều nắm được sự việc ấy: họ biết rằng Xintxốp đang được xét để phục hồi đảng tịch và cũng như mấy người khác trong tiểu đoàn, đã lọt qua được thường vụ đảng ủy trung đoàn, anh đang mong đợi nhà nhiếp ảnh; người này nhất định lát nữa sẽ đến đây.
- Hẳn là thế, - Xintxốp nói và mỉm cười. Anh mừng vì nhà nhiếp ảnh đã đến và anh không có lý do để dấu các đồng chí điều đó.
- Ông mượn dao cạo chứ? - Lêônhiđốp hỏi.
Anh ta có một con dao cạo tốt và anh cho anh em khác mượn không tiếc.
- Nhưng tớ cùng có thể cạo bằng dao của tớ, - Xintxốp nói.
- Chà, cạo bằng dao của ông thì ra cái gi! Bộ mặt sẽ nham nhở như bãi tha ma bị bò gặm.
Xintxốp múc nước từ trong chiếc xô đặt cạnh lò sưởi, đổ vào trong cái vỏ đồ hộp và đặt lên để dun.
- Có cái gì hay thì mình sẽ đọc to lên nhé? - Lêônhiđốp kéo tờ báo về phía mình vả nói. Anh ta thích đọc to, nhưng không phải là đọc hết cả mà chỉ đọc những điều gì anh cho là đáng chú ý.
Xintxốp lôi xà phòng và chổi ở trong ba lô ra. Xà phòng đựng trong chiếc hộp nhựa hồng, chổi còn mới và tốt. Còn có cả một bộ dao bào, nhưng vô tác dụng vì không có lưỡi dao. Xintxốp nhận được tất cả những thứ đó đựng trong một cái túi quà tặng. Quà tặng cho sư đoàn này được gửi đi từ Antai. Sư đoàn đã đóng quân ở đây hồi trước chiến tranh. Quà đến không đúng ngày mồng 7 tháng mười một mà muộn mất hai tuần. Trong các tiểu đoàn và đại đội, số anh em quê ở Antai còn lại rất ít, riêng trong sồ người sử dụng tiểu liên vẻn vẹn chỉ còn lại mỗi trung đội trưởng Karaulốp. Dù sao những món quà từ Antai xa lắc xa lơ gửi đến vẫn khiến cho mọi người đặc biệt cảm động, nên anh em chiến sĩ tiểu liên đã viết thư trả lời cho những người đồng hương của Karaulốp. Xintxốp viết theo lời đọc, còn Karaulốp thì đứng sau lưng như một anh chàng côdắc vùng Dapôrôgiê, thỉnh thoảng lại chêm vào một thành ngữ để nói về bọn Đức. Hôm ấy, anh vô cùng cảm động và quá chén, một điều hiếm có đối với anh.
Bây giờ Xintxốp nhớ lại điều đó, khi lấy hộp xà phòng và chổi ra.
- Đây, - Lêônhiđốp gõ ngón tay vào tờ báo và nói. - Đây! Trong số báo quân đội từ hôm kia tớ đã trông thấy, định đọc cho các cậu nhưng cậu nào đem quấn thuốc lá mất của tớ... Đây... - Và bắt đầu đọc thong thả bằng cái giọng oang oang bực dọc: - “Bọn phát xít Đức hèn hạ tàn sát dã man những chiến sĩ hồng quân bị thương và bị chúng bắt làm tù binh. Ở làng Nikulinô, bọn phát xít đã băm tám người chiến sĩ pháo binh ra từng mảnh; ba người trong số đó bị chặt đầu...” - Anh ta dừng ngón tay lại ở chỗ đang đọc dở và vẫn để tay thế, ngước đôi mắt dữ tợn lên hỏi: - Sao nhỉ? - anh ta hỏi y như có người nào đang tranh luận với mình. Sau đó, anh lại nhìn vào chỗ mình đang đặt ngón tay và nhắc lại: - “Ba người trong số đó bị chặt đầu...”. Thế mà hôm qua tớ giết tên Đức, ông Karaulốp lại bạt tai tớ. Hả?
- Cậu thì phải thế! - Kômarốp đáp. - Còn sao nữa, anh em cố công mới tóm được “cái lưỡi”  thế mà cậu lại giết nó! Hãy nhìn mà xem một xạ thủ cừ thật!
- Thì chính tớ tóm được nó kia mà, - Lêônhiđốp phản đối.
- Không phải một mình cậu tóm được.
- Thôi được, bạt tai, - Lêônhiđốp nói. - Nếu ông ta không phải là trung đội trưởng thì đã lăn long lóc ra với tay tớ rồi! Được, cứ việc, - anh ta nhắc lại. - Nhưng ông ấy lại còn dọa tớ rằng: lần sau, cậu mà tái diễn thì tớ xử bắn! Nên hiểu việc đó thế nào? - Thế thì phải hiểu thế này nhé: không được đánh “cái lưỡi”. - Kômarốp lại khăng khăng nói.
- Thế còn cả chính trị viên trưởng cũng chỉnh tớ nữa thì làm thế nào mà hiểu nổi? Ông ấy không nói với mình về chuyện “cái lưỡi”. Ông ấy bảo: “Đã là tù binh thì nói chung cậu không có quyền... Cậu có quyền gì!” - ông ta bảo mình thế. Còn cái này, - Lêônhiđốp ấn ngón tay vào tờ báo đến nỗi nó bị thủng. - Còn cái này thì mình có quyền đọc à? Hay không có quyền? Mình thấy tận mắt tất cả những điều đó ở trong báo, trông thấy bọn chúng chặt đầu người ta ra sao! Thế mà mình lại bị bạt tai? Hả?
Anh ta im bặt để đợi xem có ai trả lời mình không. Nhưng không ai trả lời, cho nên anh bèn đọc tiếp, cất cao giọng hơn trước:
- “Tại làng Makêêvô, đại đội trưởng thông tin liên lạc là đồng chí Môtralốp và chính trị viên đại đội là đồng chí Gubarép tìm thấy xác của các chiến sĩ hồng quân: F. I. Lapencô, X. Đ. Xôpốp, F. X. Fintrenkô bị hành hạ rất dã man. Bọn phát xít nhục mạ những người bị thương, khoét mắt họ, cắt mũi và chọc tiết… - Anh ta lại rời mắt khỏi tờ báo. - Người ta viết cho chúng ta biết chuyện này để làm gì? Hả, hạ sĩ ơi?
- Để cho chúng ta dữ tợn hơn.
- Mình cũng đã quá dữ tợn rồi!
- Nhưng dù sao cậu cùng đừng đụng vào “cái lưỡi” - Kômarốp vốn có tính thích bắn mãi vào một điểm, cho nên đáp lại: - Bắt được thì bắt.
- Các anh hiền lành quá, như tôi thấy đấy! - Lêônhiđốp nói giọng dữ tợn.
Xintxốp đặt dao cạo sang bên. Lời nói cuối cùng của Lêônhiđốp khiến anh nổi xung.
- Còn cậu thì đừng có chọc cái tính dữ tợn của mình vào mắt chúng tớ! Hãy khoan... - anh vỗ vào đầu gối vỉ trông thấy Lêônhiđốp toan ngắt lời mình. - Cậu dữ tợn! Thế cậu đã giết được bao nhiêu thằng Đức? Trừ tên tù binh đó là hai à? Còn Kômarốp tuy hiền lành nhưng đã giết được bốn.
- Không phải là tất cả đều thống kê, - Lêônhiđốp cau có trả lời.
- Mọi người có thống kê tất cả đâu. Kômarốp cũng có thống kê tất cả đâu. Tính dữ tợn của cậu có giá trị gì nhỉ? Cậu đâm ra dữ tợn vì giết được ít cho nên đã quyết định thêm một thằng nữa vào hai thằng kia chứ gì? Giết tù binh là một sự dữ tợn rẻ tiền.
- Anh biết nhiều về tính dữ tợn của tôi nhỉ! - Lêônhiđốp ngắt lời Xintxốp và chuyển sang xưng hô bằng “anh” vì tức giận.
- Tớ biết, - Xintxốp đốp chát. - Số phận làm cho cậu trở nên tàn nhẫn, đã làm cho anh mất hết những phần còn lại cuối cùng của tính dịu dàng hồi trước chiến tranh. - Cậu thấy còn ít lắm! Có thế thôi.
- Không ít hơn anh đâu!
- Không, ít hơn chứ... Nếu cậu muốn biết thì tớ nói rằng trận chiến đấu thực sự đầu tiên của cậu là ở Cudơkôvô chứ gì!
- Anh biết quá nhiều về tôi đấy! - Lêônhiđốp nói giọng giận dữ, nhưng có vẻ luống cuống.
- Nhưng tớ là tiểu đội trưởng của cậu, tớ phải biết tất cả về cậu, - Xintxốp liền nói để tự bắt buộc mình phải bình tĩnh lại, đúng khi anh nhớ rằng mình là tiểu đội trưởng.
Vi vốn có lòng công bằng nên lúc ấy Xintxốp cứ ngờ rằng, cũng y như Pextrác, lần đầu tiên Lêônhiđốp tham gia chiến đấu thực sự là trận tấn công ở Cudơkôvô, nhưng lúc ấy do cách xử sự của Lêônhiđốp, Xintxốp đâu có ngờ tới chuyện đó, và mãi sau mới tình cờ mà biết, vả lại, Lêônhiđốp giết được hai chứ không được bốn tên phát xít đâu có phải vì anh hèn nhát hơn Kômarốp, mà chỉ vì trong chiến đấu tình hình đã diễn ra như vậy chứ không thế nào khác.
Lại cầm lấy bộ dao cạo và đưa mất liếc nhìn Lêônhiđốp đã cúi mặt nhìn chòng chọc vào tờ báo, Xintxốp nghĩ thầm lần nữa rằng mình nói đúng. “Chả có gì đáng giơ cái tính dữ tợn của mình ra để chọc vào mắt người khác, trong chiến tranh tất cả chúng ta lúc này đều giống nhau: cả người dữ tợn lẫn người hiền lành cũng đều dữ tợn cả! Mà ai không hung dữ thì người đó hoặc không thấy rõ chiến tranh, hoặc nghĩ rằng quân Đức sẽ thương hại mình vì hiền lành”.
Anh đi ra ngoài mà không mặc áo quân phục mùa nóng, lấy tuyết lau bộ mặt nóng ran do cạo râu và quay vào.
- Nhưng cậu biết cậu ấy... - khi đi trở vào căn hầm, anh nghe tiếng Lêônhiđốp nói. - Tớ độc ác, còn cậu ấy thì hiền lành... Nhưng khi đích thân cậu ấy dùng tiểu liên phang vào mũ sắt của thằng Đức đó ở cạnh hầm ngầm, vì tức giận nên dùng cả nòng súng lẫn báng súng phang bừa vào nó thì sao?..
Xintxốp bước vào và Lêônhiđốp im bặt, không phải vì sợ (tính tình anh không có thế) mà chỉ vì không muốn nói nữa.
- Thế nào, cậu còn trích đọc được cái gì nữa nào? - Xintxốp mặc sơ mi quân phục, áo ngoài lông thú, đội mũ che tai, khoác vào cổ khẩu tiểu liên có cái báng mới làm, rồi nói kiểu dàn hòa.
- Tôi vẫn đọc những việc ấy đấy, - Lêônhiđốp đáp lại không lấy gì làm niềm nở và dí ngón tay vào cuối cái đoạn ban nãy của bản thông cáo chiến sự mà trước đó anh đã đọc to lên: “Tại làng Ekatêrinốpca đã nhặt được xác của một huấn luyện viên cứu thương là đồng chí Nhikiphôrốp. Bọn lính Hítle đã dùng báng súng đánh dập, dùng lưỡi lê chọc, dùng dao cạo rạch nát mặt người huấn luyện viên cứu thương đã bị thương nặng”.
- “Dao cạo à?!” - Xintxốp bỗng nghĩ thầm vì hầu như cảm thấy bằng da thịt rằng, chính anh đang bị thương nằm yên không đủ sức để động đậy nữa, còn tên Đức thì ngồi trên ngực anh và dùng dao cạo rạch mặt anh.
- Tớ đi chụp ảnh đây, - anh nói to. - Nếu Karaulốp đến thì các cậu báo cáo với anh ấy nhé.
Khi anh từ trong hầm đi ra ngoài lần đầu để rửa ráy thì vẻ đẹp của thiên nhiên chưa đập vào mắt, nhưng bây giờ anh chợt nhận thấy tất cả vẻ đẹp đó trong cái ngày mùa đông trời nắng ấm này: trời xanh hiếm có, màu trắng của lớp tuyết rơi suốt đêm qua, nào bóng đổ màu đen của những thân cây, nào cả hình tam giác của những chiếc máy bay đang bay cao tít ở trên không, đến nỗi tiếng rủ réo rất xa của chúng nghe có vẻ không nguy hiểm gì.
Họ vừa mới tranh luận với nhau trong hầm về chiến tranh và cái chết, về việc giết người như thế nào và về vấn đề có thể hiền lành và độc ác trong lúc ấy được không...
Nhưng bây giờ, khi đi đến những đống đổ nát của tòa nhà địa chủ, theo con đường có trồng hai rặng tùng và có nắng chiều làm những bóng cây in xuống đường, anh vừa đi vừa nghĩ rằng, thực ra thì con người thật kém thích ứng với cuộc sống được gọi là chiến tranh này. Chính anh cũng định tự luyện mình cho quen với cuộc sống này và người ta cũng đang bắt anh luyện cho quen với cuộc sống này, nhưng dù sao thì sự cưỡng bức đó dường như không đi đến đâu, nếu không chú ý tới tư cách của con người đang bắt đầu bị ảnh hưởng của khoảng thời gian đã sống trong chiến tranh mà chỉ chú ý tới tình cám và tư tưởng của người đó trong một khoảnh khắc nghỉ ngơi và im lặng, khi người đó nhắm mắt và như từ cõi niết bàn với trí tưởng tượng quay về hoàn cảnh sinh hoạt bình thường của con người...
Không, có thể học tập cách chiến đấu, nhưng không thể luyện cho quen với chiến tranh. Chỉ có thể làm ra vẻ mình đã quen và một số người đã làm rất khéo, còn những người khác thì không biết cách làm như vậy, và chắc hẳn không bao giờ biết. Hình như Xintxốp cũng biết cách làm như vậy, nhưng liệu điều đó có ích gì? Kìa mặt trời đang sưởi ấm. Trời màu xanh và những chiếc máy bay đang bay tới nơi nào chứ không phải tới đây, đại bác đang bắn ở đâu chứ không phải ở đây và anh đang đi, anh muốn sống đến nỗi cứ toan ngã thẳng xuống đất mà khóc nức lên và nài xin thêm một ngày, hai ngày, một tuần yên tĩnh, an toàn như thế này nữa, để biết rằng trong khi cảnh yên tĩnh này kéo dài thêm thì mình chưa chết...
Vi mải suy nghĩ cho nên khi đến sát cạnh đống gạch ngói đổ nát của tòa nhà địa chủ, Xintxốp vấp phải chuẩn úy của đại đội súng máy là Vaxukốp, anh này cũng phải chụp ảnh để dán thẻ đảng.
- Sao, chụp ảnh à? - Xintxốp vui vẻ hỏi.
- Chụp rồi, - Vaxukốp vuốt ria và nói. Người anh tỏa ra mùi nước hoa.
- Thế anh ta chụp ở đâu nhỉ? - Xintxốp hỏi.
- Ở đây, đằng sau nhà ấy, anh ta cho đứng vào tường, cử y như xử bắn ấy, - Vaxukốp nói đùa.
- Thế những cậu còn lại đang ở đằng kia, phải không anh? - Xintxốp hỏi.
- Đã chụp cả rồi. Tớ cứ tưởng là cậu cũng chụp trước tớ. Cậu hãy đuổi theo anh ta đi, anh ta vừa mới đi lên trung đoàn đấy!
Xintxốp đã vội dấn bước lên, vì cho rằng tự mình có khuyết điểm là loay hoay cạo râu mãi, nhưng sau đó chợt nhớ tới Malinin và tính cẩn thận của ông ta trong những công việc như thế này, cho nên hiểu rằng trong quãng thời gian ấy không thể nào kịp tập trung và chụp ảnh cho cả Vaxukốp lẫn những người khác rồi cho họ ra về. Thế nghĩa là Malinin đã biết trước rằng người phóng viên nhiếp ảnh sẽ đến và đã ra lệnh trước cho họ chuẩn bị và tới tập trung. Thế nghĩa là chạy đuổi theo người nhiếp ảnh cũng chỉ vô ích thôi. Những ai được lệnh chụp ảnh để dán thẻ đảng viên đều đã được chụp rồi, còn anh không được chụp. Thế nghĩa là đảng ủy sư đoàn không chuẩn y quyết định của thường vụ đảng ủy trung đoàn và quyết định hoãn việc phát thẻ đảng viên mới cho anh. Có thể giải thích điều đó như thế nào nữa nhỉ? Chỉ có thế thôi!
Anh bối rối đứng lại.
Từ trước đến nay, suốt một tháng rưỡi trời ở ngoài mặt trận, đã nhiều lần trong những giờ phút gay go, anh vẫn giữ vững được tinh thần khi nghĩ rằng rút cục mọi cái trong cuộc đời anh sẽ được phục hồi lại như cũ, không có lẽ nào anh lại không tự mình đạt được điều đó và những người khác lại không giúp đỡ anh! Đã có những ngày chiến đấu vô cùng ác liệt như trận đánh ở nhà máy gạch, khi mà chiến tranh đã choán hết tất cả, và hình như đối với anh, chả có cái gì khác nữa ngoài khẩu súng máy của mình, và bóng dáng nhỏ bé của những tên Đức ở trên nền tuyết trắng đã bị lọt vào thước ngắm. Nhưng dù sao ngay trong những ngày đó, ý nghĩ về sự tín nhiệm và sự công bằng vẫn sống ở đâu đấy trong một góc tâm hồn anh vả không những là sống mà còn giúp cho anh chiến đấu như anh đã chiến đấu.
Ngày mà anh được gọi lên thường vụ đảng ủy trung đoàn để trình bày về việc mất thẻ đảng viên vẫn còn lưu lại trong trí nhớ anh như lả ngày thử thách cuối củng (lúc ấy anh có cảm tưởng như vậy).
Các ủy viên ban thường vụ đảng ủy trung đoàn đã tin anh về cái điều chủ yếu tức là tin rằng anh đã nói đúng sự thực về buổi sáng hôm đó ở gần Vêrêa, khi anh hồi tỉnh lại một mình, không có Dôlôtarép. Mặc dầu mới nghe qua thì họ có cảm tưởng rằng sự thật đó không có vẻ giống như thật, nhưng về sau họ hiểu rằng anh nói điều đó ra, chính bởi vì anh không muốn nói dối, mặc dầu nếu đó là nói dối để thoát nạn. “Thưa các đồng chí. - hôm ấy anh đã nói với các ủy viên thường vụ đảng ủy trung đoàn. - Tôi có thể nói gì thêm với các đồng chí nữa nhỉ? Tôi không biết rằng tấm thẻ ấy biến đi đằng nào! Tôi không chôn vả không xé thẻ đảng viên! Tôi không biết, có lẽ nếu không có cách gì khác thì chưa biết chừng, tôi cũng chôn đi. Nhưng quả thực tôi không chôn, các đồng chí hiểu không? Các đồng chí hiểu thế nào thì cứ thế mà quyết định đi, còn tôi thì không nói dối được!”
Rồi họ đã tin anh về những điều mà trước kia những người khác đã nghi ngờ, họ đã tin bởi vì hiện nay họ biết rõ anh hơn những người khác.
Anh bị cảnh cáo nghiêm khắc về tội đánh mất thẻ đảng viên và họ quyết định là dề nghị đảng ủy sư đoàn cấp phát thẻ mới.
Mặc dầu bị cảnh cáo nghiêm khắc, Xintxốp thật sung sướng trong ngày hôm ấy, và tưởng chừng như không ai có thể tước mất điều đó của anh!
Thế mà người ta đã tước mất đấy! Niềm tin tưởng pha lẫn sung sướng mà anh đã mang trong lòng trong những ngày vừa qua, và ngay cả bây giờ, trong khi đi đến đây, còn trước đó anh đã sửa soạn một cách ung dung đến thế - niềm tin chắc pha lẫn sung sướng ấy đã đổ sụp... Nghĩa là, ở một nơi nào khác, ở sư đoàn hay còn ở một nơi nào đó nữa, người ta lại không tin anh. Người ta không tin vào quá khứ của anh, mặc dầu họ biết rõ hiện tại của anh như lòng bàn tay!
Anh đứng im mất cả phút, tất cả những ý nghĩ đó nổi thành cơn bão táp trong lòng, thậm chí anh đã quay người về phía căn hầm ngầm, nhưng suy nghĩ lại và đi đến chỗ Malinin.
Malinin đang ngồi bên bàn, khoác tấm áo lông thú trên vai và nghe chuyện một người đàn bà đã già với vẻ không bằng lòng. Bà này đi bốt bằng dạ, trùm khăn ấm, mặc áo capốt màu đen của nhân viên đường sắt và đang ngồi đối diện ông. Bà ta đang khiếu nại với Malinin về việc gì đó.
Khi Xintxốp bước vào, người đàn bà im bặt, còn Malinin thì quay nửa người về phía anh, vẫn với cái vẻ không bằng lòng đó.
- Cậu có chuyện gì muốn nói thế?
- Báo cáo chính trị viên trưởng, xin phép hỏi.
- Đợi tí rồi hỏi nhé, - Malinin cau có đáp.
Vì không có việc gì làm, cho nên Xintxốp đã nhiều lần đưa mắt nhìn quanh căn hầm nhà được dùng làm sở chỉ huy và chỗ ở của Malinin cùng tiểu đoàn trưởng Riáptrenkô. Hầm thấp và dài, một nửa nhét đầy những đồ gia dụng tầm tầm đến tận trần hầm; những thứ này do một quân y viện đã để lại, khi tản cư đi. Ban đầu, thậm chí vì thế nên Riáptrenkô đã không muốn đến đây ở, nhưng gian hầm rất ấm, Malinin vốn thích ấm áp mà lại không sợ truyền nhiễm, nên cứ khăng khăng giữ ý kiến mình. Người ta đã phun qua loa chất tẩy uế vào đồ dùng cũ nát của quân y viện, còn các mảnh còn lại của những chiếc bàn đầu giường và những hộp đựng thuốc bằng bìa cứng để chống vỡ, có gợn sóng được đốt lò sưởi.
Người đàn bà này từ Pôđônxk đến và khiếu nại rằng bà ta đã tình nguyện ghi tên vào sư đoàn làm cứu thương, nhưng bây giờ, khi tất cả đều được phiên chế vào các tiểu đoàn thì người ta không thu nhận bà.
- Buổi sáng đồng chí không có ở đó. - tôi đã đến gặp ông phó thủ trưởng, ông phó của đồng chí đấy, tóc hung hung như thế này này, trẻ lắm...
- Không phải gặp phó thủ trưởng đâu.- Malinin uốn nắn lại với giọng răn dạy, - mà gặp tiểu đoàn trưởng đấy. Đó là tiểu đoàn trưởng.
- Thôi, tôi thì sao cũng được, - người đàn bà nói. - Thế là anh ấy thu nhận hai chị cứu thương trẻ tuổi, còn tôi thì anh ấy nói là không hợp với biên chế của mình nữa. Cố nhiên, bản thân anh ấy còn trẻ lắm, tôi hiểu...
- Bà hãy bỏ cái giọng ấy đi. - Malinin tức giận nói. - Bỏ cái giọng cạnh khóe ấy đi, bà hiểu chưa?
- Làm sao được nhỉ, bây giờ tôi phải quay về Pôđônxk à? - bà kia hỏi.
- Có lẽ thế đấy.
- Tôi không đi! Đồng chí là người lớn, đồng chí phải hiểu chứ! Tôi làm khắp các bệnh viện ba mươi năm nay, chỉ riêng ở bệnh viện đường sắt này cùng đã hơn mười chín năm rồi. Tôi cần gì nhỉ? Tôi chả cần gì cả. Tôi chỉ bực mình là trong đơn vị các đồng chí có những chị cứu thương thiếu kinh nghiệm như vậy. Họ mới làm chưa được bao nhiêu: chỉ được cái may mắn là còn trẻ tuổi. Tôi băng bó xong cho ba người, trong khi họ chỉ băng được một, tôi bực mình về cái ấy đấy!
- Không những phải băng cho thương binh mà còn phải mang họ ra khỏi trận địa, - Malinin nói. - Mà ở trận địa thì cần có cả sức lực và tuổi trẻ.
- Nhưng bác có trẻ trung gì nữa đâu, - bà ta liếc nhìn Malinin và nói.
- Đúng thế, - ông đồng ý.
- Thế mà bác vẫn tìm được chỗ đứng trong chiến tranh, bác có tính đến tuổi tác không?
- Thế thì sao?
- Thế thì thôi! nếu thế thì cứ để cho những cô trẻ họ quần cho cái anh chàng tóc hung của bác, một khi anh ta đã hy vọng vào họ hơn, còn tôi thì tôi cứ bám lấy bác, bác già ạ!
- Nghĩa là một sự phân công chứ gì, - Malinin nhếch mép cười trước dòng ý nghĩ bất ngờ đó.
- Tôi có đôi bốt bằng dạ rồi. - Bà kia nói. - Chỉ cần là các bác cho tôi một cái áo capốt. Áo của tôi màu đen, ở trên tuyết trông lộ quá. - Bà ta coi là vấn đề đã được giải quyết; mà đúng thế thật. - Đây này, - bà ta lục lọi trong túi áo capốt rồi móc ra một mảnh giấy và đặt xuống bàn trước mặt Malinin.
- Cái gì thế? - ông hỏi mà không nhìn.
- Giấy đi đường từ Pôđônxk đến mà, - người đàn bà đáp. - Còn bác thì nghĩ sao? Tôi đến gặp bác không phải để ăn xin đâu. Huyện ủy tuyển tôi vào bộ đội đấy.
Malinin không trả lời gì cả, cầm lấy mảnh giấy, dùng bút chì viết gì đó lên giấy, sau đó dừng lại, nhìn người đàn bà và hỏi:
- Có cần phát cho bà chiếc mũ che tai không?
- Cái đó là tùy ở bác gọi tôi thế nào, - bà ta vui vẻ đáp lại và trong giọng nói của bà nghe có cái âm sắc quen thuộc của một bà hộ lý tháo vát. - nếu bác gọi là “Bác Pasa” thì tôi sẽ quàng khăn, mà nếu gọi là “chiến sĩ Kulikôva” thì hãy phát mũ che tai cho tôi!
- Được, tôi sẽ phát. - Malinin viết thêm một dòng nữa rồi trao mảnh giấy cho người đàn bà. - Đi đi, bà sẽ được hưởng tiêu chuẩn ăn mặc bộ đội. Còn những vấn đề khác thì đợi tiểu đoàn trưởng về chúng tôi trao đổi ý kiến đã. Nhớ đến nữa nhé. - Ổng gật đầu chào mà không đứng dậy và người đàn bà cầm tờ giấy đi ra cửa.
Bây giờ anh đã trông thấy rõ khuôn mặt của bà đầy những nếp răn hằn sâu, bộ mặt của một người đàn bà đã già nhưng còn khỏe, vì đã nhiều năm quen với công việc lao động bền bỉ và chẳng nhẹ nhàng gì. Khi đi ngang qua Xintxốp, bà liếc nhìn anh rất nhanh. Trong hai mắt bà còn ngời lên cái vẻ vui mừng trước thắng lợi đã đạt được.
“Nhưng thắng lợi thế nào nhỉ? - Xintxốp nghĩ thầm. - Được xuống tiểu đoàn, xuống đại đội để làm cứu thương, xuống đúng cái chỗ nước sôi lửa bỏng nhất! Giá như đây là một người đàn bà nào khác thì họ đã chạy xa khỏi cái thắng lợi đó hàng ngàn dặm rồi...”.
- Sao, cậu đến để mè nheo à? - Malinin chỉ chỗ cho Xintxốp ngồi và hỏi độp ngay không mào đầu gì hết.
Xintxốp ngồi xuống chiếc ghế đẩu còn ấm.
Malinin nhìn anh và càng thấy rõ bao nhiêu là Xintxốp bị hoang mang đến mức độ nào, thì bộ mặt của chính ông càng trở nên sa sầm bấy nhiêu. Khi nhận lấy trách nhiệm về bất cứ một người nào đó, Malinin vốn có thói quen từ giây phút ấy ông cứ lo tới người kia nhiều hơn là tới bản thân mình.
Xintxốp không biết rằng vấn đề cấp phát thẻ đảng viên mới cho anh đã được thường vụ đảng ủy trung đoàn thông qua không hoàn toàn trôi chảy như anh tưởng.
Trước đó, Malinin đã nói chuyện suốt một giờ liền với đồng chí bí thư.
“Ông viết về cậu ấy rất tốt, như người ta thường nói là rắn trong lỗ cùng phải bò ra, - đồng chí bí thư nói, - và về căn bản thì mình không có gì phản đối. Nhưng ông hãy tự suy nghĩ xem, về những việc này ông có kinh nghiệm hơn mình: chúng ta đặt vấn đề về một người vừa mới đánh mất thẻ đảng viên cách đây vẻn vẹn một tháng rưỡi như vậy có sớm quá không?”
Malinin bực tức phản đối điều dó, sao nhỉ, có lẽ dạo ấy cho ra mặt trận cũng là sớm quá à? Thế mà cho cậu ấy ra mặt trận thì người ta không sợ, để cậu ấy phụ trách súng máy chống cự với trận tấn công của quân Đức ở nhà máy gạch thì chẳng sợ, tặng huân chương về thành tích này cũng chẳng sợ, nhưng chúng ta lại sợ không dám cấp phát thẻ đảng viên.
“Cá nhân tôi thì tôi không sợ đâu, - ông nói. - Còn về chuyện “sớm quá” thì sau trận nhà máy gạch, trong số anh em thuộc đại đội cũ chỉ còn hai người ở lại đơn vị: tôi và cậu ấy. Thôi được, cũng có thể đợi thêm ít nữa...”.
Vướng mắc này được tháo gỡ thì lại nảy ra vướng mắc khác.
Theo ý đồng chí bí thư, người ta thắc mắc với bản trình bày lộn xộn của Xintxốp về việc mất thẻ đảng viên và các giấy tờ khác.
“Hoặc là thế này hoặc là thế nọ, hoặc là tôi nhớ nhầm... Khó tin lắm!”
“Nhưng cậu ấy tính nước cờ gì mà nói dối? Giá cậu ấy nói rằng mình đã chôn đi, thế là xong”.
“Có thể là thoạt tiên bốc đồng nên bịa ra, cho như thế tốt hơn, nhưng sau đó sự tình lại đâm ra dở hơn, tuy nhiên rút lui thì đã muộn rồi. Sao, chả nhẽ lại không thể xảy ra như thế hay sao?”
“Cái gì mà chẳng xảy ra được!.. - Malinin nói. - Nhưng cá nhân tôi thì tôi tin cậu ấy. Hãy cứ đặt vấn đề ra trước thường vụ đảng ủy đi: xem người ta sẽ tin như thế nào...”
Người ta đã tin. Nhưng mãi sau đó, sau khi thường vụ đảng ủy xét, trong lúc cùng ngồi với Malinin là người giúp đỡ làm thủ tục giấy tờ, rốt cuộc đồng chí bí thư đã thở dài và nói:
“Cố nhiên ông thấy rõ hơn vì ông là một tay kỳ cựu trong công tác tổ chức cán bộ, nhưng mình sợ rằng, với bản trình bày như vậy về việc mất thẻ đảng viên thì đảng ủy sư đoàn sẽ không chuẩn y quyết định của chúng mình đâu”.
“Thức lâu sẽ thấy đêm dài...”, - lúc ấy Malinin tin chắc rằng mình đúng cho nên đã trả lời như vậy.
Nay họ đã thức và đã thấy!
Malinin biết việc này từ hai giờ trước đây, khi bí thư đảng ủy trung đoàn gọi điện thoại và báo rằng phóng viên nhiếp ảnh sẽ từ sư đoàn xuống và nên chuẩn bị tất cả những người đã được thông qua, trừ Xintxốp.
Malinin không trả lời gì cả nhưng ngấm ngầm định bụng rằng mình sẽ lại đưa việc này lên tận chính ủy sư đoàn. Thực ra, sư đoàn này không được may mắn lắm. Từ đầu chiến tranh đến nay, nó đã thay đổi chính ủy những ba lần. Đồng chí chính ủy mà Malinin đã đích thân nộp bản trình bày của Xintxốp, sau trận đánh ở nhà máy gạch và về sau, qua ông ta, Malinin đã chất vấn về tờ phiếu theo dõi hồ sơ, bây giờ đang nằm trong quân y viện. Lúc ấy đồng chí đó đã nói về Xintxốp rằng sự việc đã rõ rồi, cứ để cậu ta chiến đấu, còn tới lúc nào mà cậu ấy xứng đáng thì chúng ta sẽ đặt cả vấn đề phục hồi đảng tịch. Bây giờ ông chính ủy này không còn nữa, mà là một ông khác và đành phải báo cáo lại từ đầu với ông ta. “Thôi được, mình sẽ làm lại từ đầu. - Malinin bướng bỉnh nghĩ thầm, - mà nếu cần thì mình sẽ viết báo cáo lên cấp cao hơn nữa”.
Ông đang đợi Xintxốp đến và thậm chí sẽ ngạc nhiên nếu anh không đến; nếu không đến tức là Xintxốp không tin rằng mình đúng.
- Xintxốp ạ, tình hình thế đấy! - sau hồi lâu im lặng, Malinin bắt đầu nói trước tiên, phá tan sự im lặng đó.
- Không chuẩn y à? - Xintxốp hỏi.
- Trong lúc này tạm hoãn lại.
- Tại sao thế?
- Trong lúc này tôi chưa biết.
- Thế đồng chí nghĩ sao?
- Tôi nghĩ rằng vẫn là do chính điều đó...
- Alếcxây Đênixứts, có thể hoàn toàn thành thật được chứ ạ? - Xintxốp hỏi với cái giọng báo trước sẽ chẳng lấy gì làm tốt đẹp lắm đâu.
- Nói đi. - Malinin hiểu rằng Xintxốp choáng váng trước sự bất ngờ và phải nói hết ra cho hả dạ...
“Thôi, cứ để cậu ấy nói. Một khi đã sôi sục lên thì thế nào cậu cũng sẽ không chịu nổi và nói ra. Thà cứ để cho cậu ấy nói với mình còn tốt hơn là với người khác”.
- Nghĩa là hoàn toàn thành thật chứ? - Xintxốp nhắc lại.
- Còn cậu thì đừng nạt tớ, - Malinin nói. - Tớ không sợ sự thật đâu và cũng không sợ cả cái gì sai sự thật.
- Thế thì đồng chí hãy nói cho tôi nghe, - Xintxốp tái mặt đi. - cái gì quý hơn: con người hay tờ giấy?
- Thế cậu nghĩ sao? - Malinin hỏi và giọng nói của ông hơi rắn đanh lại như có tiếng sắt thép.
Nhưng Xintxốp không để ý tới điều đó.
- Bây giờ tôi nghĩ rằng tờ giấy quý hơn. Nó đang nằm đâu đó ở trong rừng, đang mục nát và nghĩ tới tôi: “Cậu nói dối! Cậu cho rằng không có tớ cậu vẫn là người à? Không, không có tớ cậu không phải là người! Không phải cậu có lỗi, không phải cậu bỏ rơi tớ, nhưng dù thế nào chăng nữa thì tớ cũng không để cho cậu sống thiếu tớ!”
- Đó là nó nói với cậu. Còn cậu thì nói vói nó ra sao? - Malinin hỏi, vẫn với cái giọng khe khẽ mà rắn đanh như có tiếng sắt thép.
- Alếcxây Đênixứts, còn tôi thì im lặng! Tôi đang viết lá đơn, viết bản trình bày... Tôi đang đợi xem ai sẽ thắng ai trong cuộc kéo co này: tôi hay là tờ giấy.
- Nếu chỉ có mảnh giấy đang mục nát ở đó, ở trong rừng ấy thì bận tâm đến nó làm gì? Còn nếu ở đó có tấm thẻ đảng viên của cậu thì người ta không dùng sức mạnh để kéo cậu vào đảng đâu, tự cậu phải xin vào và tự cậu phải biết rằng tấm thẻ đảng viên đáng giá như thế nào! Và nếu cậu đã nhất quyết bảo rằng mình không chôn, dù cho người ta có dồn ép, nhưng mình vẫn nhất quyết, nghĩa là việc này không đơn giản như vậy đâu. Chôn hay xé đi là một loại người, mà nói dối lại là loại người khác...
- Thế người nào đã nói ra sự thật thì người đó nên làm như thế nào? Đến bao giờ chúng ta mới học được cách tin tưởng vào con người, hay việc đó đối với chúng ta là thừa? - Xintxốp ngắt lời ông ta.
- Nhưng cậu đến đây để phát khùng lên với ai vậy? - đến lượt Malinin ngắt lời anh. Dù ông có thông cảm với Xintxốp tới đâu chăng nữa, dù cuộc đời chiến đấu có gắn bó họ tới đâu chăng nữa, ông vẫn có những quan điểm làm cho ông không bao giờ nương nhẹ trong khi nhận định một vấn đề gì. - Với tớ chắc? Vì chính tớ đã khuyên cậu nộp đơn mà bây giờ lại không giữ vững ý kiến mình? Đúng đấy. Nhưng sớm quá. Tớ chưa rút lui ý kiến của tớ đâu. Hay với thường vụ đảng ủy trung đoàn? Cũng sớm quá, vả lại, họ cũng chưa phát biểu ý kiến dứt khoát... Cậu phát khùng lên với đảng ủy sư đoàn à? Nhưng cậu đã tận mắt trông thấy đồng chí nào trong đảng ủy sư đoàn chưa? - bỗng Malinin tự cướp lời mình và hỏi.
- Chưa đâu, làm thế nào mà gặp được chứ?
- Thì họ cũng đã gặp cậu đâu! Thế mà họ lại không tin vào tờ giấy của tớ và cậu! - Malinin nhếch mép cười. - Có lẽ họ cũng như cậu thôi, quý con người hơn mảnh giấy. Có lẽ thoạt tiên họ phải xem mặt cậu đã rồi sau mới quyết định! Cậu không giả định như vậy à? Thế mà tớ lại giả định như thế đấy. Nhưng mặt khác tớ còn giả định rằng trên đó có một lão mặt sắt đen sì nào đó, một thứ bánh bít cốt cấp dưới không thể làm cho mềm được đâu, mà chỉ có cấp trên mới làm mềm được thôi. Đảng ta đông người lắm, trong đó có nhiều hạng người. Đây không phải là cậu nói với tớ mà tớ nói với cậu thế đấy, một khi đã đồng ý với nhau là hoàn toàn thành thật! Nhưng đừng có hoa chân múa tay lên với đảng! - bỗng ông ta cất cao giọng và thậm chí đứng hẳn dậy khi nói câu này. - “Bao giờ chúng ta mới học được cách tin vào con người?” - ông nhại lại giọng Xintxốp. - Gớm thật, cậu vội quá đấy! Chuyện bé như đứt tay mà đao to búa lớn đến thế!
- Alếcxây Đênixứts, đứt tay thì vẫn đau kia mà! - Xintxốp nói và cũng đứng dậy.
Anh không tự ái trước cơn nóng của Malinin: anh cảm thấy rằng Malinin cũng buồn bực về chuyện này chẳng kém gì mình.
- Nào, bắt tay, - Malinin giơ tay qua bàn cho anh bắt, mặt cau có và không nhìn vào mắt, theo thói quen riêng như thường lệ mỗi khi ông chào hỏi và từ biệt.
- Alếcxây Đênixứts, - Xintxốp bắt tay Malinin và không nén được, càu nhàu, - nhưng đồng chí hãy nói cho tôi biết: người ta không hoãn huân chương của tôi vì những lý do này chứ? Không hiểu sao mà mãi không thấy trao tặng.
Malinin chỉ nhếch mép cười trước sự dự đoán ngớ ngẩn đó. Thậm chí lòng thành thực của Xintxốp đã làm cho ông vừa ý: nó thể hiện lòng tin cậy.
- Tớ thấy cậu đúng là đã đâm ra rối loạn tâm thần rồi. Nghe nói rằng thiếu tướng đã bỏ huân chương ở trong túi dết từ ba hôm nay. Hôm kia đã trao huân chương cho các cậu pháo binh, hôm qua cho trung đoàn chín hai. Có lẽ, hôm nay sẽ là chúng ta.
Xintxốp xin phép về, nhưng khi ra đến cửa, anh liền quay người lại và giật giọng nhắc lại y hệt cái câu mà có lần anh đã nói với Malinin tại quận ủy, khi còn ở Maxcơva.
- Dù tôi có gặp chuyện gì đi chăng nữa thì cũng không bao giờ quên thái độ của đồng chí đối với tôi.
- À-à! - Malinin lơ đãng xua tay. - Sau chiến tranh, nếu có trông thấy tớ trên đường phố Maxcơva, cậu cứ nói: “Chào bác Malinin!”, thế là tớ xin cám ơn rồi. - Ông ta lại xua tay, đi men dọc chiếc bàn và quay ngoắt lưng lại: ông không quen nghe những lời cám ơn.
Đi đi lại lại mấy bước trong hầm nhà và đưa mắt liếc nhanh về phía cánh cửa vừa khép lại sau lưng Xintxốp, Malinin thở dài sườn sượt, rồi ngồi xuống bên bàn, rút lá thư trong túi áo ra, đeo kính vào, và đây là lần thứ ba trong ngày hôm đỏ ông thong thả đọc lại lá thư từ đầu chí cuối tựa hồ như để thẩm tra xem có thực là trong đó có những điều mà mình đang đọc không? Lá thư từ quân y viện gửi đến, trong đó viết rằng cậu Víchto con trai ông đang nằm quân y viện và tay phải đã bị cưa, đang bình phục một cách tốt đẹp sau khi bị thương, nhưng đề nghị bố chưa báo tin cho mẹ biết trong lúc này. Khi đọc lại lá thư, Malinin dừng lại ở các từ “một cách tốt đẹp”. Ông bỏ kính ra, đặt xuống bàn trước mặt mình và nhìn trừng trừng vào tường.
Dù sao vẫn phải báo tin cho vợ, nếu không thì lâu chả nhận được thư, bà ấy sẽ đinh ninh là con chết rồi. Phải an ủi vợ, còn chính mình thì chả biết phàn nàn với ai. Chức vụ của ông không cho phép phàn nàn. Chỉ có cái là phải quen với ý nghĩ rằng con trai mình mới mười bảy tuổi mà đã cụt tay phải, nhưng khó quen với điều đó thật.
Cửa mở tung ra và thượng úy tiểu đoàn trưởng Riáptrenkô lao bổ vào hầm. Anh ta chạy ào ào trên cấu thang, nện thình thịch cựa giầy kỵ binh trên bậc đá. Đôi cựa giầy đó không đúng với điều lệnh. Tấm áo capốt dài khoác hiên ngang trên đôi vai rộng của chàng thanh niên cứ dập dờn quanh đôi ủng lau chùi bóng lộn khi anh bước, còn bộ mặt gà sống với cái mũi nhọn và mái tóc hung hung thì nom có vẻ vừa vui tươi lại vừa lo ngại.
- Anh vừa nhận được thư à? - anh ta vui vẻ hỏi.
- Ừ. - Malinin giấu lá thư vào túi.
- Một giờ nữa, thiếu tướng sẽ đến gắn huân chương, - Riáptrenkô nói vẫn bằng cái giọng vui vẻ ấy. - Tôi cũng được một chiếc, từ hồi tháng bảy. Tôi tưởng là nó đã bị thất lạc trong khi mình lăn lóc qua các quân y viện. Không, hóa ra rút cục vẫn được.
Anh ngồi xuống ghế đẩu, mừng quá đến nỗi lấy cả găng tay đập vào ủng của mình và mở phanh hai vạt áo capốt ra.
- Ông ấy hứa là sẽ đến, nhưng khi từ biệt, ông ấy đã chỉnh suốt lượt tất cả những người có mặt ở sư đoàn bộ: “Tại sao hai hôm nay trong khu vực chiến đấu của đồng chí không bắt được cho tôi một “cái lưỡi” nào cả? Đó là nói với trung đoàn trưởng. Còn sau đó thì ông bảo tôi: “Còn ở đơn vị đồng chí thì tôi biết rằng hôm qua đã bắt được “cái lưỡi”, nhưng không đưa về được đến nơi, bọn ngốc!..”. Do đâu mà ông ta moi ra được nhỉ?
- Do phòng chính trị, - Malinin điềm nhiên nói. - Hôm qua tớ đã nêu việc đó trong bản báo cáo về công tác chính trị.
- Chỉ tổ uổng công thôi! - Riáptrenkô nói.
- Chuyện cũ rồi và chẳng đi đến đâu cả.
Riáptrenkô chua chát xua tay và không buồn tranh cãi.
- Này, anh nói cho tôi biết, - im lặng một lát, anh kêu lên, - sao mà lính nhà mình vô giáo dục thế nhỉ? Giáo dục hoài, giáo dục mãi rồi, cứ tưởng là họ hiểu, thế mà khi bắt được tù binh lại cho một phát đạn vào trán!
- Không phải chỉ một mình chúng ta giáo dục, - Malinin nói. - Đầu đằng này là chúng ta, đầu đằng kia là bọn Đức. Chúng ta báo: đừng đụng vào! Nhưng ở Cudơkôvô chính cậu ấy tận mắt trông thấy bọn Đức thiêu sống anh em mình trong ngôi nhà gỗ. Ăn miếng thì trả miếng. Giá mà sau vụ Cudơkôvô này cậu ta được chặt chân chặt tay địch thủ Hítle hay Ghêben thì mới đúng lúc, nhưng cậu ta không biết rằng liệu mình còn sống đến lúc đó không. Đúng hơn cả là không. Trong lúc tình trạng đó đang tiếp diễn thì không phải là Hítle mà là một tên hạ sĩ đã sa vào bàn tay đang ngứa ngáy của cậu ấy.
- Tức là anh bào chữa hộ?
- Không bào chữa hộ mà tự giải thích đối với mình: tại sao anh em trong đơn vị ta không phải là thú rừng mà có lúc lại hành dộng như thú rừng? Bọn phát xít đã dốc ra nhiều công sức để đưa họ tới tình trạng đó!
- Thế thì bây giờ nên hiểu anh thế nào chứ?
- Thì cứ hiểu như thế này, là phải làm thế nào đế khỏi tái diễn lại những trường hợp ấy nữa. Còn trường hợp này thì tớ coi như là một hiện tượng chứng tỏ rằng tớ làm ăn không đến nơi đến chốn, vì vậy tớ mới ghi vào bản báo cáo về công tác chính trị. Tuy cậu phản đối việc vạch áo cho người xem lưng, nhưng vạch lưng ra đã là xấu mà dể cho lưng bẩn lại còn xấu hơn.
- Này, bố ơi, vắng tôi ở đây công việc ra sao? - Riáptrenkô im lặng giây lát và, nhìn vào bộ mặt cau có của Malinin, hỏi.
- Công việc ở đây thật là dớ dẩn; người ta cử tay nhiếp ảnh đến, đã chụp ảnh cho anh em để làm thẻ đảng. Thế mà Xintxốp thì xôi hỏng bỏng không.
- Nhưng sao trên ấy họ lại dở cái trò gì dấm dớ thế nhỉ! - Riáptrenkô bật lò xo. - Chính tôi và anh đã viết giấy ủng hộ... Họ còn đòi gì nữa?..
- Tiểu đoàn trưởng ạ, ừ, tớ với cậu cố nhiên là một lực lượng, - Malinin nhếch mép cười trước tính nóng nảy của tuổi trẻ và cau mày lại lườm anh ta một cái, với vẻ hiền từ, gần như là dịu dàng. - Một lực lượng to lớn! - Và im lặng giây lát rồi nói thêm: - Nhưng rõ ràng không phải ở nơi nào cũng như thế cả.
Đúng một giờ sau, thiếu tướng tới bằng chiếc xe trượt tuyết của trung đoàn trường. Người sĩ quan bí thư ngồi đằng sau thiếu tướng và Baglúk, còn Baglúk thì đích thân cầm dây cương ngựa.
Riáptrenkô và Malinin ra đón thiếu tướng. Bốn người được thưởng huân chương, chưa kể bản thân Riáptrenkô, là Xintxốp, trung đội trưởng Karaulốp của anh và hai chiến sĩ thuộc các đại đội xung kích đã được gọi lên tiểu đoàn bộ từ trước, đang đứng đằng xa và cũng đang đợi thiếu tướng đến.
Baglúk nhảy phắt xuống trước tiên rồi trao dây cương cho người sĩ quan bí thư và nói:
- Đánh xe ra sau nhà.
Thiếu tướng cũng nhẹ nhàng nhảy phắt ra khỏi xe. Ông ta người tầm thước, nhưng ở bên cạnh ông, Baglúk cao lênh khênh, nên nom ông có vẻ thấp bé. Ông không đội mũ lông mà đội mũ che tai, mặc áo lông thú có quai buộc chéo ở ngoài và đi bốt dạ. Chiếc khuy móc phía trên của áo lông mở phanh làm ló ra một góc của phù hiệu cấp tướng màu đỏ trên áo cổ đứng. Bộ ria mép của thiếu tướng Orlốp giống như hai cái bàn chải nhỏ ngắn màu đen: bộ mặt da vàng kiểu người Tacta, còn đôi mắt ti hí cũng màu đen như bộ ria, có vẻ vui nhộn và chưa già.
Riáptrenkô hô khẩu lệnh “nghiêm”, thiếu tướng nhận báo cáo, ra lệnh “nghỉ”, sau đó hồ hởi nhìn trời, nhìn mặt trời đang lặn xuống sau rừng và bảo khiêng luôn một chiếc bàn con ra thẳng đây.
- Chúng ta sẽ trao tặng ngay ở đây, ngoài nắng, như vậy tốt hơn là chui vào cái hầm mộ của các cậu, hơn nữa chỗ các cậu lại sặc mùi phênôn.
Ông ta đang vô cùng phấn khởi vì nhiều nguyên nhân.
Tối hôm qua, họ đã tập trung trên tư lệnh bộ của tập đoàn quân, được nghe giới thiệu kế hoạch của chiến dịch tấn công trên địa bàn của toàn tập đoàn quân này, người ta chất vấn tất cả sư đoàn trưởng về tình hình gần đây nhất của lực lượng quân địch đang đóng ở trước mặt họ và ra lệnh cho từng người phải dựa trên chỉ thị của tập đoàn quân mà đặt kế hoạch tác chiến trong phạm vi tấn công của mình.
Căn cứ theo chỉ thị của tập đoàn quân thì rõ ràng người ta không dự định đặt mũi chủ công trong khu vực của tập đoàn quân này, tuy vậy nhìn chung thì hiển nhiên đây là một cuộc tấn công lớn đang được vạch kế hoạch, và cứ cho rằng phải ở khu vực thứ yếu đi nữa, nhưng ít ra họ cũng sẽ được tham gia! Thế là may mắn lắm rồi!
Suốt thời gian vừa qua, thiếu tướng tựa hồ như đã cảm thấy bằng da thịt của mình rằng: quân Đức đang dồn ép mãi chúng ta, còn chúng ta, mặc dầu bị dồn ép rất mạnh và tuy có lùi lại đằng sau, nhưng chỉ hơi một tí thôi, hầu như không nhận thấy được. Ồng cảm thấy điều đó bằng da thịt của mình và da thịt của sư đoàn do mình chỉ huy, một sư đoàn đã bị kiệt sức qua các trận chiến đấu. Ông biết rằng các thê đội hai đã từ phía sau tiến đến gần, nhưng đã từ lâu, ông chưa được bổ sung quân số và ông hiểu rằng sự hà tiện tàn nhẫn đó không phải là ngẫu nhiên. Nói tóm lại, linh tính về một sự chuyển biến tốt đẹp đã phảng phất trong không khí từ khoảng một tuần nay, nhưng việc triệu tập lên tập đoàn quân hôm qua thì đã không còn là một linh tính nữa, đó đã là giờ phút sang canh của sự kiện rồi!
Trong hội nghị, khi trả lời câu hỏi rằng ông còn cần thêm gì nữa không, thiếu tướng đã dựa vào tình quen biết cũ với tư lệnh trưởng mà cố nhiên xin cho mình nhiều hơn, nhưng đã bị khước từ. Tư lệnh trưởng nhếch mép cười và bảo ông: “Mikhain Nicôlaevíts ạ, tuy trước kia có dạo tôi đã từng công tác dưới quyền anh, nhưng dù sao đừng mong rằng tôi sẽ cho anh nhiều hơn mức quy định”. Nhưng sự từ chối cũng chẳng khiến ông nản lòng: cho bao nhiêu thì cho, cứ tìm cách moi được càng nhiều càng hay! Điều chủ yếu là sẽ có cuộc tấn công! Điều này khiến ông vui mừng vô hạn.
Sau khi trở về, suốt cả quãng thời gian còn lại của buổi tối và suốt cả đêm, thiếu tướng ngồi cùng tham mưu trưởng dự thảo sơ bộ kế hoạch; sáng hôm sau, ông để cho tham mưu trưởng một mình tiếp tục công việc, còn mình thì thân hành xuống trung đoàn Baglúk, định bụng sẽ làm xong một lúc cả ba việc: trao tặng huân chương, đôn đốc việc tóm “lưỡi” để biết rõ địch tình ở trước khu vực mặt trận của sư đoàn và cuối cùng đích thân đến tất cả ba đài quan sát của các tiểu đoàn, bởi vì chính ở đây, ở trung đoàn Baglúk là thuận tiện nhất cho việc xuất kích, và ông muốn tự mình kiểm tra lại lần nữa, ngay tại chỗ bằng cặp mắt tinh tường.
Ông đã đến hai tiểu đoàn, người ta đã hứa sẽ tóm “lưỡi” cho ông, thậm chí còn lấy danh dự quân nhân mà hứa, còn những điều trông thấy từ trên đài quan sát của hai tiểu đoàn thì chỉ xác nhận những dự tính ban đầu của ông mà thôi. Thêm vào tất cả những điều đó là mặt trời chiếu sáng khắp nơi, còn quân Đức thì chả bắn chác gì...
- Ái chà. hôm nay ông ấy nhộn nhỉ, lại cười nữa kia đấy! - vừa nhìn thiếu tướng, trung úy trung đội trưởng Karaulốp đang đứng cạnh Xintxốp hạ giọng nói với anh. Anh ta đã công tác tại trung đoàn này qua ba năm nghĩa vụ và chín năm tái đăng.
- Có lẽ trong bữa ăn trưa đã nhấm nháp chút đỉnh, - Xintxốp nói.
Nhưng Karaulốp lắc đầu lia lịa:
- Không phải đâu. Những người xuất thân cựu giáo chúng tôi ở Antai thì đến bia cũng chẳng uống nữa là.
- Có thể chính ông ta cũng là cựu giáo chăng?
- Chính ông ta là đảng viên chứ, - Karaulốp nói, không buồn hiểu ý câu bông đùa, - nhưng xuất thân ở một gia đình cựu giáo.
Nói chung, anh không thích nói đùa, hơn nữa lại nói đùa về cấp trên, cho nên anh ta lườm Xintxốp ra ý không bằng lòng: liệu anh chàng này còn định đùa nữa hay thôi? Nhưng Xintxốp không định đùa nữa, vì biết rõ tính hay tự ái của Karaulốp. Anh này được phong quân hàm trung úy mà không hề tốt nghiệp trường quân sự, chỉ nhờ lòng can đảm khác thường trong chiến đấu, cho nên anh có nhiều mặc cảm về trình độ học thức thấp kém của mình và sẵn sàng ngăn chặn bất cứ lời nói đùa nào của cấp trên.
Thấy Xintxốp không mỉm cười, Karaulốp nguôi đi. Anh kính trọng Xintxốp, biết rằng ngày đầu chiến tranh Xintxốp đã làm chính trị viên và giá Xintxốp lại trở thành chính trị viên thì Karaulốp cho là nếu mình ở dưới quyền anh ta cũng là điều hợp lý thôi. Nhưng vì Xintxốp lúc này làm tiểu đội trưởng trong trung đội anh, cho nên Karaulốp lại càng không thể tha thứ cho Xintxốp về bất cứ điều gì cũng như đối với mọi người khác.
- Cậu đừng tưởng là ông ta cười, - anh vừa bảo Xintxốp vừa nhìn thiếu tướng với vẻ thán phục. - Bây giờ ông ấy cười với cậu, nhưng một phút sau ông ta đã hắc ra trò, mà thường là hắc ra trò. - Karaulốp khoái trí quay tròn quả đấm kếch sù của mình trong không khí để diễn tả rằng khi xảy ra việc gì không vừa ý thì sư đoàn trưởng thường hắc như thế nào.
Trong lúc dó, người ta đã khiêng một chiếc bàn từ trong hầm nhà ra; thiếu tướng gỡ cái túi dết qua đầu và trao cho người sĩ quan bí thư. Anh này liền móc trong túi dết ra năm chiếc hộp con màu đỏ, năm tờ giấy chứng nhận, liếc nhìn vào giấy xong lại liếc nhìn vào hộp, sau đó đặt từng tờ giấy xuống dưới từng chiếc hộp và lại gần thiếu tướng nói gì đó.
Thiếu tướng quay mình lại, nụ cười biến khỏi mặt ông, và bộ mặt lập tức trở nên nghiêm trang, quắc thước.
Bản thân Riáptrenkô sắp được nhận huân chương, cho nên Baglúk hô khẩu lệnh.
Khi đứng thẳng theo tư thế “nghiêm”, Xintxốp chợt nghĩ tới Malinin đang đứng sát nách mình: “Sao lại thế: mình được huân chương mà Malinin thì không? Và thậm chí không thể đả động đến việc này với ông ta: hễ mở mồm ra nói lả ông ấy ngắt lời luôn!”
- Thượng úy Riáptrenkô! Tiến lên nhận huân chương, - giọng thiếu tướng vang lên.
Riáptrenkô tiến nhanh ba bước làm tung vạt áo capốt lên vả đứng lại trước mặt thiếu tướng, ngửng bộ mặt tái nhợt với hai hàng ria mép màu hung hình cánh cung lòi ra ngoài quai mũ che tai đội lệch.
Karaulốp nhận huân chương gần cuối, còn Xintxốp thì nhận cuối cùng. Khi thiếu tướng gọi tên Karaulốp, đọc lệnh của hội đồng quân sự vả chúc mừng anh, Karaulốp thậm chí vã cả mồ hôi trán vì xúc động.
- Karaulốp, tôi rất mừng cho đồng chí, - thiếu tướng vừa nói vừa luồn ngón tay xuống dưới áo Karaulốp cho tiện hơn để gắn huân chương Cờ đỏ cho anh. - Và mừng rằng chính tôi đã trao tặng chiếc huân chương này cho đồng chí! Tôi đã cùng công tác với đồng chí trong sáu năm trời, tức là một nửa tuổi quân của đồng chí, và hàng năm cùng nhau chờ đợi thấp thỏm: chiến tranh sắp xảy ra... Rồi nay đồng chí đã là trung úy và ngực đồng chí đã đeo huân chương chiến đấu. Thật là sung sướng cho sư đoàn ta!
Thậm chí hai môi Karaulốp run lên khi anh nghe những lời đó và lúc Xintxốp đến lượt được đọc tên và bước lên trước, anh vẫn cảm thấy hơi thở hổn hển vì xúc động của Karaulốp ở đằng sau lưng mình.
Thiếu tướng đọc lệnh. Xintxốp đứng “nghiêm” và người sĩ quan bí thư làm như anh không tự mình giơ tay lên được, nên đã cởi chiếc khuy móc trên áo lông thú cho anh và dùng dao con khoét một lỗ nhỏ trên áo sơ mi quân phục. Thiếu tướng cầm lấy chiếc huân chương Sao đỏ, đặt nó lên lòng bàn tay, thong thả tháo đai ốc ra và luồn bàn tay lạnh ngắt, tê cóng vì giá rét xuống dưới áo sơ mi quân phục của Xintxốp, bắt đầu gắn huân chương.
Trong giây phút ấy, Xintxốp trông thấy bộ mặt ông ta ngay sát bên mình và chợt nhớ ra rằng lẩn đầu tiên mình đã trông thấy ông ta đội mũ sắt và khoác áo mưa vải bạt ướt đẫm hồi tháng mười ở Đôrôkhôvô khi ông đến lấy quân bổ sung cho sư đoàn và toàn thể tiểu đoàn cộng sản đã bước lên trước về phía ông để trả lời câu hỏi: ai xin đi?
Gắn huân chương xong, thiếu tướng lùi lại nửa bước và chìa bàn tay nhỏ bé, rắn chắc ra cho Xintxốp.
- Tôi chúc mừng đồng chí! - ông nhìn Xintxốp từ đầu đến chân và nói. - Đồng chí ở sư đoàn này từ ngày nào?
- Từ mười chín tháng mười ạ, tôi đến trong đợt bổ sung số quân người Maxcơva.
- Thuộc tiểu đoàn cộng sản Phrunde đấy ạ! - Malinin đang đứng cạnh liền nhắc, có ý tự hào.
- Thật là một đợt bổ sung tốt! - thiếu tướng nói và lại ngước mắt nhìn Xintxốp. - Đảng viên à?
- Vâng! - Xintxốp trả lời và hai mắt anh bắt gặp cái nhìn của Malinin.
Không, Malinin nhìn anh như thế thật vô ích: ngay bây giờ anh sẽ không nói thêm gì, không đề nghị gì đâu! Bây giờ không phải chỗ và không phải dịp. Còn sở dĩ anh trả lời là “vâng” vì biết trả lời thế nào khác nữa nhỉ? Nếu không đúng thế thì chính ủy tiểu đoàn cứ việc chữa lại.
Nhưng Malinin không chữa lại lời anh nói và anh bèn lùi ba bước, đứng trở lại vào hàng những người được thưởng.
Ngắm nghía họ xong, thiếu tướng chắp tay ra sau lưng, đưa mắt nhìn Baglúk, sau đó lại nhìn những người được thưởng và nán lại một giây nữa: rồi nói rằng từ trước đến nay sư đoàn ta đã toàn tâm toàn ý hoàn thành tốt đẹp mọi mệnh lệnh của bộ tư lệnh, nhưng trước mắt họ sắp có những nhiệm vụ còn trọng đại hơn nữa, và ông tin rằng các đồng chí được thưởng ngày hôm nay cũng như tất cả anh em chiến sĩ và cán bộ khác của sư đoàn sẽ ra sức hoàn thành tốt đẹp những nhiệm vụ ấy.
- Còn bây giờ, - đôi mắt ti hí của thiếu tướng sáng hẳn lên, - Tôi có một nhiệm vụ nhỏ cho ngày hôm nay...
Baglúk đã tham dự lễ gắn huân chương trong hai tiểu đoàn kia và biết là sắp phải làm gì, nên cứ nhấp nhổm đổi hết chân này sang chân khác, nghển cái đầu to tướng như đầu bò mộng có cái trán dô.
- Kìa, tôi trông thấy là trung tá Baglúk, trung đoàn trưởng của các đồng chí đã co rúm lại, - thoáng nhận thấy thế, thiếu tướng liền nói và đưa mắt về phía ông trung đoàn trưởng, - bởi vì tôi sẽ nói với ông ấy trước mặt các đồng chí là đáng lẽ ra, phải giải quyết xong nhiệm vụ này từ hôm qua kia. Nhưng hôm nay vẫn có thế uốn nắn được công việc đó: từ giờ cho đến sáng, phải tóm được “lưỡi”. Mà phải bắt sống, chứ không phải đã chết rồi đâu nhé! Ai xung phong nào?
Xintxốp có cảm tưởng rằng thiếu tướng nhìn thẳng vào mình với vẻ chờ đợi, tuy kỳ thực thiếu tướng không nhìn anh mà nhìn Karaulốp đang đứng sát nách anh.
- Báo cáo đồng chí thiếu tướng, chúng tôi sẽ bắt được! - anh nói để nhận lời thách thức, và khi bước lên trước xong, anh cảm thấy có cái vai của Karaulốp ở bên cạnh; Karaulốp cùng bước lên một lúc với anh nhưng lặng thinh.
- Được, giao hẹn với nhau rồi nhé! - thiếu tướng nói không theo tác phong quân sự mà không hiểu sao bỗng nhiên lại theo kiểu giản dị, kiểu bạn bè. - Các đồng chí đã biết rõ trận địa của quân dịch, biết rõ những con đường tiếp cận đến đó rồi chứ?
- Báo cáo, rõ! - lần này Karaulốp đáp.
- Nghĩa là các đồng chí có thể chỉ cho tôi biết nơi nào định đi qua chứ? - Thiếu tướng hỏi.
Ông ta muốn hoàn thành nốt phần cuối cùng của kế hoạch là đến đài quan sát của tiểu đoàn, nhưng để tránh khỏi những lời khuyên can thường lệ của cái anh chàng Baglúk hay sinh sự: “Đồng chí đừng đi”, “Theo điều lệnh thì đồng chí không được đi” nên ông bèn quyết định không mang Baglúk đi theo mà mang Karaulốp và người hạ sĩ này.
- Báo cáo thiếu tướng, có lẽ chúng ta đứng ở đài quan sát của trung đoàn để nhìn thì tốt hơn, - Baglúk nói, định ngăn cản sư đoàn trưởng một cách vô hy vọng như bản thân ông cũng đã hiểu.
- Đài quan sát của cậu thì tớ đã đến luôn, còn đây là cái khe hở mà anh em sắp sửa lách qua để tóm “lưỡi” thì tớ muốn nhìn từ đài quan sát của tiểu đoàn. Có phải hôm nào tớ cũng lần mò tới đây được đâu, - thiếu tướng nói. - Đồng chí Baglúk, đồng chí hãy ở lại đây làm công việc của mình. Còn tôi sẽ đi với họ, - Ổng hất hàm chỉ Karaulốp và Xintxốp, - và với tiểu đoàn trưởng.
- Thế thì ít nhất cũng xin phép sửa soạn tạm bữa chiều ở đây, ở tiểu đoàn này! - Baglúk nói có vẻ bối rối.
- Thật là may mắn, cậu đã đoán ra! - thiếu tướng vui vẻ đáp và vì chưa tin chắc rằng Baglúk đã đoán được hết ý mình nên nói thêm: - Tớ sẽ ăn bữa chiều ở đây cùng với các anh em vừa được tặng thưởng. - Ông ta quay sang Karaulốp. - Thế nào, Karaulốp? Làm một cốc vại trước khi đi trinh sát không có hại gì chứ?
- Báo cáo thiếu tướng, đối với tôi thì chả có hại gì! - Karaulốp nói. - Nhưng tôi lại sợ là thiếu tướng không uống nổi một vại đâu.
- Lạc hậu rồi, - thiếu tướng nói và phì cười. - Lạc hậu mất rồi, Karaulốp ạ! Trước kia mình không quen uống, đúng thế! Nhưng từ khi bộ trưởng bộ quốc phòng định mức thì mình phải uống theo điều lệnh. Còn cậu, - thiếu tướng quay sang người sĩ quan bi thư của mình đang đứng thắc mắc không hiểu thiếu tướng sẽ mang anh ta đi theo hay để lại. - hãy chạy tới chỗ anh em súng cối…
- Có thể gọi điện thoại cho họ ạ. - Baglúk nói xen vào.
- Hãy chạy tới chỗ anh em súng cối. - thiếu tướng nói, phớt lờ ý kiến của trung đoàn trưởng - và nói lại với Phirxốp rằng mình xin lỗi cậu ấy, mặc dù mình đã hứa rồi, hôm nay mình không đến gắn huân chương đâu, mai nhé. Không kịp!
Người bí thư giơ tay chào ra vẻ không bằng lòng, rồi chạy đi thi hành mệnh lệnh, còn thiếu tướng thì quay lại và không nhìn ngang liếc ngửa gì cả, đi nhanh về phía khác, vòng qua ngôi nhà đổ nát. Ông đã từng đến đài quan sát của tiểu đoàn, nên biết lối đi. Riáptrenkô quét vạt áo capốt trên tuyết, cùng với Karaulốp và Xintxốp tất tả theo sau. Thoạt tiên, họ đi trên sườn đồi phía sau mà quân Đức không trông thấy, rồi đi theo khe núi có lối mòn ở dưới đáy, sau đó họ vào giao thông hào và cứ theo đường hào đi tới cái gò đất khó nhận thấy ở sát trên vách núi dốc đứng. Trước kia, ở đó có một cái lầu gạch để ngồi hóng mát; bây giờ nó đã bị đổ sụt xuống, nhưng vừa vặn ở dưới chỗ dó, ở dưới cái nền bằng gạch chắc chắn của nó, người ta đã đào và ngụy trang rõ khéo đài quan sát của Riáptrenkô.
Bây giờ Riáptrenkô đi đầu, đằng sau anh là Karaulốp rồi đến thiếu tướng. Xintxốp đi đoạn hậu.
Karaulốp cứ luôn luôn đi ghìm bước lại, tựa hồ như muốn dùng cái lưng to lớn vuông vắn để che thiếu tướng cho quân Đức khỏi thấy. Chắc hẳn là như vậy.
- Này, - thiếu tướng bảo và thúc vào lưng Karaulốp ra vẻ đùa cợt nhưng khá mạnh. - Đừng có lề mề, không thì tớ dẫm vào gót đấy. - Karaulốp dấn bước lên, còn thiếu tướng thì hơi tụt lại sau, gọi Riáptrenkô: - Thượng úy, đồng chí mặc capốt ky binh không bị cóng à? Áo capốt của đồng chí quả thực là tố... - Và không nói hết câu.
Một quả đạn súng cối nổ tung ngay cạnh giao thông hào. Xintxốp té nhào sấp mặt xuống đất, hai tay đưa lên che gáy theo bản năng. Khi anh đứng dậy thì trông thấy thiếu tướng đang nằm dưới đáy giao thông hào, đầu ông ở sát chân anh, nhìn anh với hai mắt trợn ngược và đôi môi mấp máy không thành tiếng.
Xintxốp vội quỳ sụp xuống ngay, bắt đầu nhấc ông ta dậy. Dưới tấm áo lông cừu, mọi thứ trên ngực đều bị rách bươm, các mảnh dạ rách thòi ra để lộ cả một mảng thân hình trần trụi đẫm máu. Anh xốc thiếu tướng lên vai mỗi lúc một cao hơn và bỗng nghe có tiếng ồng ộc mà anh tưởng là tiếng nói nhưng đó lại là máu ở trong họng trào ra.
Mắt anh bắt gặp cặp mắt của Karaulốp. Anh này đang xoay xở trong đường giao thông hào chật hẹp để tiện bế lấy thiếu tướng.
- Cậu buông ra! - Karaulốp nói. - Chết mất rồi! - Anh bỏ mũ che tai xuống và khóc nấc lên.
Một loạt đạn súng cối nổ chụm lại ở đằng sau, trong công viên cạnh tiểu đoàn bộ và tất cả lại yên lặng.
Đó chỉ là gần tối, quân Đức muốn nhắc nhở rằng chúng vẫn còn ở đây, cho nên giã vào đống đổ nát của tòa nhà địa chủ. Quả đạn súng cối đầu tiên là phát đạn lạc bắn hụt tầm.
- Chúng mình hãy lấy áo capốt mà khênh, - Riáptrenkô nói xong liền bắt đầu cởi áo capốt của mình ra nhưng không hiểu sao anh có vẻ lóng ngóng đến lạ. Cởi hộ tớ với, - anh kêu lên “ối, ối” và bảo Karaulốp. - Mảnh đạn đâm vào bàn tay tớ. - và Xintxốp trông thấy bàn tay trái của anh ta cũng đẫm máu.
- Việc gì phải làm bẩn áo capốt đi! - Karaulốp vừa khóc vừa nói. - Tôi sẽ mang đến tận nơi.
Tấm áo khoác lông cừu của anh bị nhuộm máu từ trên xuống dưới: tất cả suối máu từ trong họng của thiếu tướng phun thẳng vào Karaulốp. Máu bắn cả lên mặt, anh quệt cả máu lẫn nước mắt trên má.
Anh ta bế lấy người chết theo đúng động tác, và cứ nghĩ rằng ông ấy còn sống, thoạt tiên quỳ hai gối, sau đó đứng hẳn dậy và ẵm trên tay đi theo giao thông hào trở lại tiểu đoàn bộ.
Xintxốp đi đằng trước anh, thỉnh thoảng ngoái nhìn lại.
- Có lẽ hai người cùng khênh? - đi được năm chục bước, Xintxốp bèn hỏi.
Nhưng Karaulốp chỉ lắc đầu nguây nguẩy.
Mặt anh ta đỏ gay vì mệt, nhưng nước mắt vẫn chảy ròng ròng. Cứ thế cho đến tận tiểu đoàn bộ, anh không hề nhường lại và chia sẻ cho ai cái gánh nặng của mình, không giao sư đoàn trưởng của mình cho ai.
Xintxốp chạy tới tiểu đoàn bộ trước anh ta hai phút và khi Karaulốp tới nơi thì Baglúk và Malinin bị chấn động trước sự việc xảy ra đã đâm bổ ra đường phố.
Karaulốp đi đến tận bức tường, vừa thở hồng hộc vừa dựa vào tường vả thều thào hỏi:
- Đặt xuống đâu nhỉ?
Anh không muốn đặt sư đoàn trưởng xuống đất. Hỏi xong, hai chân đã mỏi nhừ khiến anh không gượng nổi, nên đâm ra lảo đảo và trượt lưng trên mặt tường rồi ngồi bệt xuống tuyết mà tay vẫn cứ ẵm xác thiếu tướng như ẵm đứa bé.
Mấy phút sau, một chiếc xe trượt tuyết chạy tói và Karaulốp cùng Baglúk đặt xác thiếu tướng lên nệm cỏ giải tấm vải gai. Riáptrenkô đứng cạnh luôn luôn cúi xuống vốc từng nắm tuyết áp vào bàn tay bị thương. Tuyết lập tức bị nhuộm máu và lả tả rơi xuống thành từng cục màu hồng.
Malinin xắn ống tay áo đã bắt đầu thấm máu lên cho tiểu đoàn trường và báo người đi gọi bác sĩ hay y tá đến đây, vi Riáptrenkô đang nóng máu không muốn đi đâu cả.
Sau đó, Baglúk xuồng hầm nhà để gọi điện thoại cho trung đoàn và sư đoàn, trước khi chở thiếu tướng đi. Dù đã quen với thương vong chăng nữa, nhưng chuyện rủi ro này quá khác thường và hơn nữa đã xảy ra hoàn toàn bất ngờ khiến người ta sửng sốt. Phải báo cho họ biết trước. Thiếu tướng nằm trên xe trượt tuyết. Con ngựa dẫm chân trên tuyết, khẽ giật giật chiếc xe.
Còn Malinin, Riáptrenkô, Karaulốp và Xintxốp thì đứng bên cạnh chiếc xe trượt tuyết, nhìn người chết, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.
Malinin nghĩ rằng thiếu tướng gần như cùng một tuổi với ông và chắc là con ông ta cũng đã lớn và có lẽ cũng đang hay sẽ ở ngoài mặt trận...
Riáptrenkô tuy cũng bị chấn động như những người khác, nhưng nỗi xúc động đó bị lẫn lộn với những ý nghĩ về vết thương của mình. Anh nghĩ rằng nếu xương không bị gãy thì có thể sẽ được ở lại đơn vị, nên cứ lấy tuyết áp mãi vào cho đỡ đau và động đậy mấy ngón của bàn tay bị thương: không, hình như xương không gãy.
Karaulốp nhớ lại rằng ngay trước khi quả đạn súng cối nổ, thiếu tướng đã thúc vào lưng anh ta và anh đã nhảy vọt lên trước ba bước mà đáng lẽ là không nên tuân lời, cứ kiên quyết thì đã không xảy ra việc gì. “Không xảy ra việc gì” có nghĩa là mảnh đạn ấy sẽ không văng vào thiếu tướng mà văng vào Karaulốp và cái ý nghĩ đơn giản đó cùng với sự bực tức vô bờ đối với chính mình đã thể hiện tất cả tính cách hy sinh quên mình trong tâm hồn người lính.
Còn Xintxốp thì nghĩ rằng khi cả bốn người đang đi trong giao thông hào, lòng anh bỗng đâm ra hoảng sợ và anh đâm ra ân hận là mình đã xung phong đi bắt “lưỡi”. Nhưng bây giờ, sau cái chết đột ngột này, tất cả mọi việc trong chiến tranh đối với anh vừa đáng sợ như nhau lại vừa không đáng sợ như nhau và anh không ân hận là mình đã xung phong đi.
Chỉ có một mình thiếu tướng không nghĩ gì hết.
Suốt ngày hôm nay, ông ta đã vui vẻ biết bao nhiêu! Chính ông từ lâu cũng không nhớ rằng mình đã có lúc nào vui như vậy. Ông ta quá ngây ngất vì sung sướng về cuộc tấn công sắp tới. Thường ngày tuyệt nhiên ông không phải là người tươi cười đến thế, nhưng hôm nay ông đã mỉm cười suốt ngày, lúc cần cũng như lúc không cần. “Tấn công! Tấn công!...”
Không, thế nghĩa là ông không có cái may được tấn công. Vậy mà ông đã chờ đợi biết bao, chờ đợi việc đó biết bao, ông đã khổ sở biết bao vì chuyện quân ta rút lui! Đã bao ngày đêm, ông từng mơ ước về cuộc tấn công này và đã ngã xuống ngay trên ngưỡng cửa của nó! Nếu người chết có thể suy nghĩ được sau khi đã chết thì chắc hẳn ông sẽ suy nghĩ đúng điều này, còn nếu người chết có thể khóc được thì chắc hẳn hai mắt ông đã ứa lệ vì không nén nổi sự bực tức!
Thiếu tướng nằm yên không động đậy trên chiếc xe trượt tuyết và nhìn lên bốn người sống mà trước đó nửa giờ ông vẫn trò chuyện và vui đùa với họ. Ông nhìn với cặp mắt mở to, chết trân và đã bắt đầu đục.
Baglúk quay ra. Người ta che xác thiếu tướng lại để cho không phải người nào gặp dọc đường cũng đều biết sớm rằng sư đoàn trưởng đã chết. Rồi chiếc xe chở Baglúk cùng thi thế thiếu tướng chạy trở về.
- Phải, gay go cho sư đoàn đấy, - Malinin trông theo chiếc xe đã khuất sau chỗ ngoặt và nói.
Mấy hôm nay trong tiểu đoàn chẳng có ai bị thương, nên ông bác sĩ đã cùng với cả y tá và cứu thương chạy đến ngay. Họ thở hổn hển vì phải lội trong tuyết. Ông dưa Riáptrenkô xuồng hầm nhà băng bó.
- Tôi mát da mát thịt lắm, cũng chóng lành thôi! - khi đi Riáptrenkô nói, cốt để tự an ủi mình hơn là an ủi Malinin.
Anh là một người gan dạ, nhưng từ khi bị thương lần đầu đã biết được một tật xấu của mình là kém chịu đau và bây giờ thấy ngại phải băng bó.
- Karaulôp, cậu nghĩ thế nào về việc bắt “lưỡi”? - khi Riáptrenkô đi rồi, Malinin liền hỏi.
- Thế nào ạ? Báo cáo chính trị viên trưởng, chúng tôi sẽ bắt được ạ!
Karaulốp thậm chí có vẻ ngạc nhiên ngước nhìn Malinin với cặp mắt sưng mọng vì khóc nhiều. Sau khi thiếu tướng chết, mệnh lệnh cuối cùng của ông ta đối với Karaulốp bây giờ lại càng trở nên thiêng liêng đặc biệt.
- Tôi nghĩ thế này nhé, - Malinin nói, - để bắt đầu, cứ để cho Xintxốp sẽ tự chọn lấy một người phối hợp tay đôi và đi làm nhiệm vụ.
- Thế còn tôi? - Karaulốp hỏi với cái giọng bị lạc hẳn đi vì bực tức. - Tôi đã hứa danh dự với thiếu tướng rồi! Đồng chí đừng làm cho tôi sai lời hứa đó!
- Thì chính vì cậu đã hứa, - Malinin nói, - cho nên có nghĩa là cậu phải thực hiện nhiệm vụ tác chiến đó trong bất cứ trường hợp nào: phải đảm bảo cho họ lọt qua vị trí bố phòng. - Ông ta hất hàm trỏ Xintxốp. - Mà nếu họ thu xếp không ổn thì tớ cho phép cậu thân hành đi làm lại...
Thấy không, “không ổn”! Bác ăn nói lựa lời thận trọng thật: “không ổn”! - Xintxốp tự nhủ thầm và một cám giác lành lạnh chạy dọc sống lưng anh.
- Đồng chí Karaulốp, thế này nhé, - nhác thấy anh này toan phản đối, Malinin liền nói. - Hãy đi bắt tay vào việc đi !
Ông ta không quen cái tác phong quân sự nhà nghề, cho nên trong khi hạ lệnh, thỉnh thoảng ông nói không đúng những câu đã được quy định, nhưng ông lại có tính không muốn nhắc lại mệnh lệnh lần thứ hai.
Karaulốp và Xintxốp đi ngay, còn Malinin thì ở lại nhưng vẫn chưa vào trong hầm nhà.
“Ai biết được cậu ấy! - ông nghĩ thầm. - Băng bó đâu có phải là chuyện vui vẻ gì, mà Riáptrenkô lại là một anh chàng trẻ tuổi và hay tự ái, cho nên rên rỉ ở trước mặt mình, nhưng sau đó lại xấu hổ”.
Malinin không hề sợ làm thương tổn đến quan hệ và làm phật lòng người khác, khi thấy rằng không làm thế thì không xong, nhưng ông không thích chọc vào lòng tự ái của con người nếu không cần thiết. Đối với Karaulốp cũng vậy. Ông không giao nhiệm vụ cho anh ta dưới một danh nghĩa hợp lý, cốt khỏi làm mất lòng anh. Thực ra, ông không muốn cho Karaulốp đi tới chỗ quân Đức, bởi vì anh ta có thể làm hỏng việc và chết, ít ra Malinin cũng có cảm tưởng như vậy, sau khi tận mắt trông thấy cơn chấn động mãnh liệt của Karaulốp. Quả thực Karaulốp thuộc vào loại người thiên hạ thường nói là giời đánh cũng chẳng chết: họ có lớp da thuộc! Nhưng Malinin không tin vào sức bảo vệ của lớp da thuộc khi nói đến con người! Thường thường nói về bản thân ông, người ta cũng dùng thành ngữ đó, nhưng chẳng qua là do ông biết cách tự chủ. Chỉ có thế thôi.
Người sĩ quan bí thư của thiếu tướng đã hiện ra trên con đường mòn chạy quanh đống gạch ngói đổ nát. Anh ta từ đơn vị súng cối quay về, rất vội, và từ đằng xa không trông thấy ai ngoài Malinin, nên cứ tưởng là mình về muộn.
- Sư đoàn trưởng ở đâu nhỉ, đi rồi à? - anh ta vừa đi vừa hỏi.
Malinin nhìn vào hai mắt viên sĩ quan bí thư, thở dài và không trả lời thẳng mà chỉ nói:
- Anh hãy đi thẳng xuống sườn đồi. Chiếc xe trượt tuyết chạy theo đường lớn, trong khi nó chạy vòng quanh đồi thì anh còn đuổi kịp đấy...
Người sĩ quan bí thư chạy xuống dốc theo con đường mòn, tay giữ lấy chiếc túi dết đang nhảy chồm chồm ờ bên sườn còn Malinin thì lại một lần nữa suy nghĩ về cái điều mà ông đã suy nghĩ, khi đưa tiễn chiếc xe trượt tuyết chở Baglúk cùng thi hài thiếu tướng: “Gay đấy, rất gay cho sư đoàn đấy!...”
Trước khi đi vào trong căn hầm ngầm của anh em chiến sĩ tiểu liên, Karaulốp cởi chiếc áo lông thú ra và dùng tuyết lau chùi hồi lâu, nhưng không làm sao sạch được vết máu.
- Ít ra thì anh cũng làm cho cái mặt... - Xintxốp đứng cạnh anh liền nói.
Karaulốp bốc một nắm tuyết rồi xoa lên mặt mấy lần.
- Được chưa?
- Để tôi chùi cho! - Xintxốp nói và cạo vết máu đã khô cứng lại ở gần tai Karaulốp.
Karaulốp khoác lên vai chiếc áo lông thú và họ đi vào hầm.
Tin đồn về chuyện thiếu tướng chết đã bay đến tận hầm ngầm và khi Karaulốp bắt đầu giải thích nhiệm vụ và nói rằng anh đã hứa với đích thân sư đoàn trưởng rằng sẽ tóm được “lưỡi” thì tất cả mọi người đều cảm thấy phải thực hiện cho bằng được lời hứa với người đã khuất.
Karaulốp giải thích nhiệm vụ. Anh sẽ thân hành đưa tiễn và đón các chiến sĩ quân báo. Ai xung phong đi phối hợp tay đôi cùng hạ sĩ Xintxốp?
- Tôi đi! - Lêônhiđốp vội vàng nói.
Xintxốp vẫn hy vọng là Kômarốp sẽ xung phong đi với mình. Xintxốp vốn ưa cái tính điềm tĩnh và chín chắn của anh ta và những phẩm chất đó đã làm cho Xintxốp đặc biệt tin cậy vào anh.
Nhưng Lêônhiđốp đã xung phong. Sau đó, anh ta còn đưa mắt hằm hằm nhìn xung quanh, tựa hồ như có kẻ muốn móc miếng bánh đã ở trong mồm anh ta ra và trước cặp mắt dữ tợn đó không ai xung phong thêm nữa.
Không phải Kômarốp mà là Lêônhiđốp xung phong đi, điều đó làm cho Xintxốp kém phấn khởi, nhưng không thể tranh cãi được nữa. Chính Lêônhiđốp hôm nay đã phải nghe anh nói những lời xúc phạm, nhưng vẫn cứ xung phong đi; có lẽ, thậm chí anh ta cốt xung phong đi, để chứng tỏ rằng người ta xúc phạm mình cũng uổng công vô ích mà thôi.
“Cậu ấy hơi nóng tính đấy, nhưng thôi thế cũng được, không sao...” - Xintxốp cố tự an ủi mình vả sau khi tiếc thẩm trong bụng một lần cuối cùng rằng không phải Kômarốp cùng đi với mình, anh liền nói to:
- Đã thế thì sửa soạn đi!
Họ lên đường với trang bị nhẹ nhàng, không mặc áo lông thú, chỉ mặc áo bông nai nịt gọn gàng, cầm tiểu liên, dắt dao, mang mỗi người hai quả lựu đạn để đề phòng bất trắc nếu bị địch bắt, một gói bông để làm giẻ nhét mồm và một cuộn giây điện thoại để trói tù binh.
Khi Karaulốp đã hô xong mọi mệnh lệnh và họ chỉ còn việc chui ra khỏi chiến hào và bò men theo bụi cây nhỏ phủ tuyết xuống phía dưới, tới con suối trên khoảng đất không thuộc về bên nào, thì Lêônhiđốp bỗng rỉ tai Xintxốp một câu thật bất ngờ đối với anh:
- Giá hôm qua không phải lỗi tại mình thì hôm nay chúng mình đã ngồi nhà và đánh chén nhân dịp tấm huân chương của ông...
Và Xintxốp hiểu rằng: không, Lêônhiđốp xung phong đi trinh sát không phải vì giận dữ mà vì không muốn rằng do hôm qua mình đã giết mất “cái lưỡi” để đến nỗi hôm nay người khác phải hy sinh tính mạng.
- Hẵng khoan đã, chúng ta còn được đánh chén nữa cơ mà, - Xintxốp nói và chợt chạm phải tuyết lạnh buốt, anh liền lăn qua bờ công sự...
Sau đó ba giờ, khi họ đã lôi tên tù binh về đến chỗ lòng chảo, chỉ còn cách trận địa quân ta chưa đẩy nửa cây số thì xảy ra tai nạn. Họ vấp phải mìn và Lêônhiđốp bị đứt mất một bàn chân. Xintxốp vừa lấy thắt lưng buộc chặt lấy phía dưới đầu gối Lêônhiđốp vừa cay đắng nghĩ thầm: “Chúng ta đã đánh chén đẫy!”
Tên Đức bị trói chân trói tay nằm trên tuyết bên cạnh họ. Ban đầu họ trói tay nó và dắt đi, nhưng trên chặng đường nửa cây số vừa qua họ đã thay phiên nhau lôi nó theo sau trên mặt tuyết như một cái bao. Tên Đức nằm thở phì phì bằng mũi: mồm nó bị nhét giẻ.
Chắc là mìn này do quân ta gài. Nếu mìn là của bọn Đức và chúng nó biết rõ có mìn thì sau khi có tiếng nổ, chúng đã nổ súng rồi. Nhưng bên vị trí quân Đức tất cả đều im lặng, chúng chưa phát hiện ra là tên lính ngủ gật trong công sự đã bị mất tích còn tiếng nổ thì chắc rằng chúng cho là đạn súng cối của quân Nga bắn tới.
- Làm sao bây giờ nhỉ? - Lêônhiđốp khẽ hỏi.
Ai biết được: có lẽ vào lúc mìn nổ, khi bị tiện mất một bàn chân, anh cũng có rú lên, nhưng sau đó không hé miệng kêu lấy nửa lời: cả trong lúc Xintxốp lấy dao cắt lớp da rách đeo cái bàn chân lủng lẳng, cả trong lúc Xintxốp lấy cuộn báng cá nhân băng bó chỗ chân cụt cho anh, cả trong lúc Xintxốp dùng thắt lưng buộc chặt chỗ dưới đầu gối cho anh. Quả là tính tình Lêônhiđốp rất rắn rỏi !
- Chúng mình hãy đợi một lát nữa rồi hẵng bò đi, - Xintxốp nói. - Nếu cậu kiệt sức thì tớ sẽ kéo cậu.
- Thế còn thằng Đức? - Lêônhiđốp hói.
Xintxốp rùng mình nghĩ thầm rằng không thể dùng súng bắn được, đành phải dùng dao đâm chết nó trước khi lôi Lêônhiđốp về chỗ quân ta. Để nó lại đây với mục đích là sau này quay lại tìm thì liều lĩnh quá, nó có thể tự cởi trói hay lôi giẻ nhét mồm ra.
- Làm thế nào được nhỉ! - Xintxốp nói, và nhìn dáng điệu của anh, Lêônhiđốp hiểu rõ là anh đang định làm gì.
- Ông cứ lôi nó đi! - Lêônhiđốp liền nói. - Phải hoàn thành mệnh lệnh chứ. Một mình ông có lôi về đến nơi được không?
- Lôi được, nhưng...
Xintxốp không nói được hết câu, vì Lêônhiđốp lại ngắt lời anh và nói giọng thì thầm, thở ra hơi nóng hầm hập trong cơn sốt. Do bị mất máu, cho nên mỗi phút trôi qua, anh lại mất sức đi rõ rệt.
- Ông cứ kéo hắn đi, còn mình thì bò đằng sau...
- Thôi được, - Xintxốp đột nhiên đồng ý với Lêônhiđốp. - Nhưng chỉ yêu cầu cậu là đừng bỏ đi đâu cả! Hãy ở đây. Tớ lôi nó về đến nơi rồi sẽ đến đón cậu. Tớ sẽ lấy thêm người đến đây. Chỉ cần là cậu hãy ở đây. Đừng đi đâu nhé!
Anh cứ sợ là Lêônhiđốp khi đã bị yếu sức rồi có thế bò đi đâu đó làm cho sau đấy anh em không tìm thấy.
- Thế ông sẽ đến đón chứ? - Mặc dầu đã quyết định hy sinh thân mình, nhưng Lêônhiđốp vẫn rất muốn sống, nếu không thì anh đã không hỏi như vậy.
- Tớ sẽ thân hành đến! Xin hứa danh dự như vậy!
Để bò được dễ dàng hơn, Xintxốp thậm chí cởi cả áo bông ra, để khẩu tiểu liên lại bên cạnh Lêônhiđốp rồi chỉ dắt con dao và bỏ quả lựu đạn trong túi, bò lên phía trước, kéo thằng Đức theo sau.
Về sau hóa ra thằng Đức cũng chả vạm vỡ và nặng nề gì cho cam, còn rất thấp bé nữa là khác, nhưng cứ thử kéo một cái bao tải như vậy trên tuyết mà không ngửng đầu lên xem!
Bản thân Xintxốp cũng chẳng tin rằng mình đã mò về đến nơi. Khi còn cách công sự năm chục thước, anh gặp Karaulốp cùng đại đội trưởng đại đội bố phòng ở đó đã bò ra đây đón và đang nằm trên tuyết, sau gò đất. Anh đã kiệt sức, và tuy bò trên tuyết, nhưng từ đầu đến chân ướt đẫm mồ hôi.
- Thế Lêônhiđốp đâu? - Karaulốp hỏi.
- Đằng kia, bị thương... Bây giờ tôi sẽ đến đón cậu ta... - Vừa thở hổn hển sau mỗi tiếng, Xintxốp vừa nói.
Karaulốp không hỏi gì thêm nữa trong khi cả ba người họ chưa lôi được tên Đức vào trong công sự.
- Sao, Lêônhiđốp gặp chuyện gì đằng kia vậy? - khi đã vào trong công sự, Karaulốp khoác cho Xintxốp chiếc áo lông thú của mình rồi hỏi.
- Tôi sẽ... nói... ngay... Anh... hãy... lôi... giẻ... nhét... mồm... ra... cho... tên... Đức.., nếu không thì... - Xintxốp không nói được hết câu vì không đủ hơi.
Tên Đức đã được lôi giẻ nhét mồm ra và nó đâm ra ho khù khụ như mắc bệnh lao. Sau đó, nó buồn nôn hoặc là do khiếp sợ quá hoặc là do nó bị bịt mồm quá lâu.
- Lêônhiđốp bị mất một bàn chân, - Xintxốp nói. - Bây giờ tôi sẽ đến đón cậu ta ngay đây.
- Cậu mệt thế thì đi đâu? - Karaulốp liền bảo. - Bây giờ để tớ thân hành đi cho. Chỉ cần cậu chỉ cho là ở chỗ nào.
- Không, - Xintxốp nói. - Tớ sẽ đi với cậu, chỉ cần cho tớ nghỉ lấy hơi một tí.
Thường thường anh gọi Karaulốp bằng “anh”, nhưng bây giờ lại xưng hô bằng “cậu”.
Đại đội trưởng bèn đưa cho anh bình rượu.
- Không nên. - Xintxốp nói. - Tôi sợ sẽ mất sức. Thế này đã nóng lắm rồi. Giá mà có nước...
Nhưng gần đấy không có nước, nên anh liền bốc một nắm tuyết và bắt đầu ngậm.
- Đồng chí hãy ở lại đây, - Karaulốp lại nói, lẩn này với giọng cấp trên. - Tôi sẽ tìm thấy. Tôi sẽ đem Kômarốp đi theo mà.
Kômarốp cũng ở đây. Hóa ra Karaulốp lấy anh ta đi làm người phối hợp tay đôi. Xintxốp chợt nhớ lại lời nói của Malinin: “đề phòng trường hợp họ thu xếp không ổn”.
Xintxốp nhổ ngụm tuyết ra.
- Không biết các cậu nghĩ sao chứ tôi chỉ xin đi cùng với các cậu. Không có tôi thì dù sao chăng nữa các cậu cũng không tìm ra cậu ấy đâu... ở đó lại còn cả cái áo bông và khẩu tiểu liên của tôi nữa.
Bỗng nhiên anh sực nhớ lại tất cả nỗi kinh hoàng của chính mình dạo trước ở trong rừng, khi hồi tỉnh lại một mình, bị thương và bò lê đi rồi sau đó đứng dậy và trông thấy tên Đức cầm khẩu tiểu liên tiến về phía anh.
“Không, Lêônhiđốp sẽ không gặp phải chuyện đó!”
- Chúng mình đi đi, - anh nhắc lại và bò ngay ra khỏi công sự trước tiên, không đợi ý kiến quyết định dứt khoát của Karaulốp.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét