Người Ở Đâu Về
(Wo warst du,
Adam)
Heinrich Theodor
Böll
Nobel 1972
Người dịch: Lý
Quốc Sinh.
Nhà xuất bản Nguồn
Sáng, Sài Gòn - 1972
VIII
Thế là mụ Sudan đã
chứng kiến chiến tranh được 3 năm liền.
Thoạt tiên binh
lính Đức ồ ạt kéo tới; người ngựa và quân xa rầm rập; họ qua cầu vào đúng mùa
Thu bụi bám, rồi nương theo các đường đèo để tiến vào lãnh thổ Ba Lan. Muốn
biết thế nào là chiến tranh chỉ cần nhìn đám binh lính mình mẩy đầy bùn, số sĩ
quan dáng điệu mệt mỏi trên lưng ngựa, và đoàn xe mô tô bận rộn tới tấp. Trọn
một buổi chiều hành quân cảnh tượng cũng khá vui nếu không có những lúc ngừng
nghỉ; quân xa dẫn đầu đoàn quân, lại thêm một đoàn mô tô hộ tống phía trước và
phía sau. Cũng kể từ ngày ấy, mụ Sudan không nhìn thấy họ trở lại.
Sự thanh bình trở
lại một thời gian; thỉnh thoảng chỉ còn vài chiếc xe cam nhông Đức vượt qua cầu
rồi mất dạng trong rừng sâu, nhờ tứ bề im lặng, mụ nghe rõ mồn một tiếng động
cơ vang từ xa, khá lâu rồi mới tắt, nhất là lúc xe leo đèo gầm gừ hổn hển,
tiếng vọng chỉ tắt khi đoàn xe khuất sau đỉnh đồi. Mụ Sudan nghĩ, từ trên cao
đoàn xe đã nhìn rõ nơi chôn nhau cắt rún của mụ, mà hồi thơ ấu vào mùa hè, mụ
thường rong chơi ngoài cánh đồng, hoặc mùa Đông tới mụ chỉ quanh quẩn bên guồng
tơ; đoàn xe đang bò vào những khoảng trống lởm chởm đá, cây cỏ thưa thớt, mà ở
đó, trước đây, mụ thường thơ thẩn một mình với bao niềm quạnh hiu. Mụ đã từng
bỏ ra hàng giờ, tựa vào vách đá để phóng mắt nhìn xem trên triền dốc có vật gì
động đậy. Vào thời xa xưa ấy, làm gì có xe hơi; xe bò hoặc xe ngựa cũng còn
hiếm nữa; có chăng chỉ toàn dân Thổ hoặc Do Thái, túm ba túm bảy vượt đèo qua
Ba Lan. Mãi sau này, khi mụ rời khỏi làng, mới có đường xe lửa chạy qua cầu
Sácni, tiến vào thung lũng, vẫn khoảng đất xa xưa mà mụ đứng từ ngọn đồi cỏ
nhìn xuống dưới. Kể đã có nhiều năm, mụ xa cách nơi này; mười năm trời chứ ít
sao, vậy mà mụ vẫn nghe văng vẳng bên tai tiếng động cơ xe hơi vượt đèo, lâu
thiệt lâu, ngay cả khi chúng đã khuất dạng sau mỏm núi bon bon trên con đường
dốc phía bên kia, có thể, lúc đó đám con cái thằng cháu của mụ; đang đứng trên
đường nhìn đoàn quân xa Đức hổn hển, thằng cháu Cụ vẫn sống trong làng. Đoàn xe
Đức mỗi ngày mỗi thưa thớt. Cứ cách hai tháng chỉ có một xe cam nhông và vài
chiếc xe nhỏ chạy qua vùng đó; thảng hoặc, họ cũng đậu lại; binh lính ùa xuống
quán của cụ bà để vội vã uống li bia trước khi tiếp tục hành trình. Chiều lại
cũng vẫn chiếc xe đó trở về và, tạm ngừng trước quán mụ để cho binh lính vội vã
giải khát, rồi vội vã ra đi. Mỗi ngày chiếc cam nhông chỉ qua lại có ba lần.
Sáu tháng khi chiến tranh bùng nổ phía bên kia núi, chiếc cầu ngay sau lưng nhà
mụ đã bị giật sập. Sự việc đó xảy ra vào một đêm: mụ không sao quên được những
tiếng ồn ào gây nên bởi tiếng kêu của chính mụ, tiếng gọi của đông lân hàng
xóm, tiếng gào thét của Maria con gái mụ, đã hăm tám tuổi đời, mỗi ngày mỗi
thêm dao động vì những ý nghĩ kỳ quặc. Cửa kính vỡ tan hoang; đàn bò rống lên
trong chuồng; chó tru suốt thâu đêm; sáng ngày ra, mọi người mới biết: nguyên
cây cầu đã bay gọn. Chỉ còn trơ trụi những cột bê tông; lề đường, mặt lộ, thành
cầu đều bị nứt nẻ và cắt gọn, sắt vụn bay tuốt xuống sông, nhiều nơi còn nhú
lên những thanh sắt dài. Mới sớm tinh sương, một sĩ quan Đức với năm binh sĩ,
tới nơi lục soát cùng khắp trong vùng Bécsaba; họ bắt đầu khám xét kỹ lưỡng nhà
mụ Sudan không bỏ sót nơi nào từ chuồng bò đến căn phòng riêng của Maria; Maria
đã trở thành cuồng loạn sau vụ nổ. Sau đó, họ qua nhà Têman bới tìm từ đống
rơm, từ góc phòng; căn nhà của Braki, bỏ hoang đổ nát từ ba năm nay, cũng được
họ chiếu cố. Gia đình Braki dọn đi Présơbuốc kiếm ăn từ lâu; chả ai muốn mua
lại căn nhà đó và vườn tược phụ thuộc.
Bọn lính Đức tỏ ra
cáu kỉnh khi họ không kiếm tìm ra bọn phá hoại. Họ còn dùng xuồng bơi qua sông
để lục soát khu vực Tsencôsích, một xóm hẻo lánh kế bên sông, mà từ bờ bên này
đứng trên vựa thóc mụ Sudan có thể nhìn rõ tháp chuông nhà thờ lấp ló sau rừng
cây. Bọn lính Đức không thấy gì khác lạ ngoài đó, ngay tại Téxadi cũng vậy; họ
hoàn toàn thất vọng. Có lẽ họ không biết ngay sau vụ nổ sập cầu, hai thằng con
trai lão Sôchích đã biến dạng.
Mụ Sudan lúc đầu
không thể hiểu nổi tại sao họ lại đánh sập cầu; cứ cách hai tháng mới có một
chuyến xe cam nhông, binh lính thưa thớt lèo tèo. Việc sử dụng cây cầu hoàn
toàn do dân địa phương, ra đồng làm ruộng hoặc vô rừng làm rẫy. Cây cầu có còn
hay không, chả gây phiền phức cho quân Đức bao nhiêu, bất quá họ chỉ cần đánh
một đường vòng qua Sácni, mất khoảng chừng nửa tiếng đồng hồ cho quãng đường
dài năm cây số để tới một cây cầu khác dùng chung với đường xe lửa.
Vài ngày sau mụ
Sudan mới hiểu dụng ý việc phá hủy cây cầu, nhờ sự ba hoa của mấy tụi tới quán
mụ nhậu rượu. Tất cả mọi chi tiết đều được họ kể lại rành rẽ. Sau vụ đó, vùng
Bécsaba trở lại yên tĩnh, quá yên tĩnh là đằng khác, dân quê và thợ thuyền đi
làm bên kia dãy núi không thấy trở lại. Tsencôích, trái với thường lệ, vào ngày
chủ nhật vẫn đông đảo khách thừa lương hoặc những cặp tình nhân hò hẹn trong
rừng, nay trở thành vắng hoe, ngay cả đám binh lính cũng không có nữa. Mới cách
đó mười lăm ngày, mụ Sudan lại bán được cho Têman một chai bia, lão già keo
kiệt vẫn có thói quen cất lấy rượu bia để uống. Thật là não nề cho mụ Sudan
phải đợi tới mười lăm ngày mới bán nổi cho lão già coi đồng xu to bằng cái đình
và chẳng dám tiêu. Ai cũng đều biết lão già keo kiệt tới mức nào rồi.
Tình trạng yên
tĩnh chỉ được ba tuần lễ. Rồi bỗng một hôm một quân xa Đức sơn màu xám, xinh
xắn chở ba sĩ quan Đức tới để kiểm kê lại sự hư hại. Họ đi đi lại lại trên bờ
sông, bắt ống nhòm quan sát hết bên trái rồi tới bên phải cả nửa tiếng đồng hồ.
Họ lại còn trèo lên cả mái nhà tay vẫn cầm ống nhòm quan sát thật kĩ trong
khoảng từ nhà lão Têman, đến nhà mụ Sudan. Sau đó họ ra đi chẳng uống gì hết,
rượu mạnh cũng không nốt.
Ngày mốt, mọi
người thấy bụi bay mù mịt trên quãng đường từ Técsani đến Bécsaba, tám quân
nhân gồm một thượng sĩ và bảy binh sĩ, đáng điệu mệt mỏi, xuất hiện trước quán
mụ Sudan. Họ phải khó khăn lắm mới làm cho mụ hiểu họ sẽ ở trong nhà mụ và dùng
cơm luôn ở đó. Mụ cảm thấy chới với, và biết ngay thế nào là dịp may của mụ
rồi; mụ vội vã chạy lên phòng Maria lúc đó vẫn còn nằm liệt trên giường.
Bọn lính không tỏ
vẻ gì vội vã, họ đều lớn tuổi, tối ngày ngậm ống vố và uống bia. Họ gỡ túi đeo
lưng xuống để được thoải mái hơn, và chờ mụ chủ quán dọn dẹp xong ba căn phòng
trên lầu nhất: một căn phòng dành riêng cho người giúp việc vẫn bỏ trống từ ba
năm nay vì mụ Sudan không đủ tiền mướn người giúp việc, phòng thứ nhì chồng mụ
trước đây căn dặn mụ dành cho bạn bè và khách trọ; từ hồi nào tới giờ bạn bè
cũng như khách trọ chả có một ai, và căn phòng thứ ba dành riêng cho vợ chồng
mụ. Mụ đang vội vã thu dọn đồ đạc riêng sang phòng con gái.
Khi mụ xuống dưới
nhà viên thượng sĩ lại giảng giải cho mụ biết, Hội đồng xã sẽ thanh toán mọi sở
phí cho mụ bằng tiền Đức. Mụ cứ việc thẳng tay tính toán.
Từ trước tới giờ
mụ chưa bao giờ được tiếp hạng khách sộp đến thế, mụ tính nhẩm với tám vị khách
quý này và chỉ trong một tháng, mụ có thể thu nhập gấp bội số khách lẻ tẻ qua
cầu ghé quán của mụ. Ngoài ra họ còn đem cho mụ nhiều nguồn lợi khác nữa. Công
việc của đám quân nhân này chả có bao nhiêu; chỉ nghĩ tới ai cũng phải tức
cười: hàng ngày họ chia thành toán hai người một, ruổi rong trên bờ bên này
sông, có khi dùng thuyền qua bên kia sông và cứ hai tiếng đồng hồ họ lại đổi
phiên. Trên mái nhà có một người khác dùng ống nhòm quan sát từ ba tiếng đồng
hồ lại đổi cho người khác. Người gác trên mái nhà không mệt nhọc chút nào, họ
ngồi trong ghế bành có nệm bông đặt trên một chiếc bàn; người này chỉ việc thò
đầu qua mái nhà, ngói được gỡ để lại một lỗ hổng, đêm tối dùng tấm tôn đậy lại
sơ sịa, anh ta chỉ việc hướng ống nhòm về phía rặng núi, khu rừng, bờ sông,
thỉnh thoảng hướng về phía sau: khu vực Têdácsi. Những người còn lại, không
phận sự chả biết làm gì cho hết thời giờ nên thả bộ khắp đó đây. Mụ Sudan ngạc
nhiên vì công việc của họ quá nhẹ nhàng mà vẫn kiếm được khá tiền, cho cả vợ
con nữa. Một trong đám người này, nguyên là một giáo viên, đã cho mụ ta biết số
tiền vợ anh ta lãnh; số tiền to quá khiến mụ phải nghi ngờ. Quá nhiều tiền để
trả cho vợ một giáo viên nhờ ông chồng được thuyên chuyển qua đây để tối ngày
lê trôn từ chiếc ghế dựa này qua chiếc ghế dựa khác, tọng đầy họng nào thịt bò
gu lát nào rau khoai, nhâm nhi cà phê, lúng búng bánh mứt. Thuốc lá bào họ cũng
chả mất tiền mua, cứ việc hút thả dàn. Khi ăn đã đời rồi, họ kéo nhau sang
phòng khách, vừa uống bia vừa đọc sách, họ đọc lia lịa, sách đem theo hàng
đống. Ăn chán, đọc sách chán, họ lại leo lên mái nhà để chiếu ống nhòm mà nhìn,
chẳng ai hiểu để làm gì, nào rừng nào ruộng và cả những bác nông phu đang làm
việc. Trong đám quân nhân này có một chú tên Bếchcơ, khá dễ chịu, nhưng mụ
Sudan lại không có chút cảm tình nào vì hắn chỉ đọc sách và uống rượu bia,
nhưng lại làm biếng quá cỡ.
Những điều đó, nay
đã quá xa. Toán quân nhân đầu tiên không lưu lại quán mụ quá bốn tháng, toán
thứ nhì sáu tháng, toán thứ ba một năm. Rồi đều đặn cứ sáu tháng lại đổi toán
khác. Có nhiều người đã đi, lại trở lại. Chương trình hoạt động của các toán
không hề thay đổi suốt ba năm ròng rã; rong chơi, rượu chè, bài bạc, ngự trị
trong ngai vàng thiết lập trên mái nhà; lúc ra ngoài đồng ruộng không có lý do
thì anh nào anh nấy lủng lẳng trên vai cây súng dài thườn thượt. Riêng mụ Sudan
thì luôn luôn nặng túi, toàn là tiền. Cơm nước? Tiền. Quét dọn trong phòng?
Tiền. Mướn phòng? Cố nhiên tiền. Quán của mụ chả còn người khách nào ngoài mấy
ông lính đó. Phòng ăn của quán trọ vô hình trung trở thành nơi hội họp của họ.
Cái ông thượng sĩ
trong toán đầu tiên đến quán mụ mang tên Be, chả biết họ gì? Ông ta to lớn,
dáng đi nặng nề như bác nông phu, lại thêm bộ ria mép. Nhìn ông ta, mụ liên
tưởng tới chồng mụ: Vensêla, đã ra đi từ hồi chiến tranh trước mà không hề trở
về. Hồi đó binh lính vượt sông lên đường ra tuyến, mình mẩy bùn sình, kẻ lội
bộ, người trên lưng ngựa, có đi mà chẳng có về. Chắc có mấy người trở lại nhưng
cũng lâu lắm kìa, họ thay đổi đến đỗi mụ cũng không nhận được ra họ nữa. Hồi đó
mụ mới hăm sáu tuổi đầu mà còn là một cô gái đẹp. Khi Vensêla vào trong dãy núi
để hỏi mụ làm vợ, mụ nghĩ sau này mụ sẽ giàu sang sung sướng: Vensêla Sudan chả
gì cũng là chủ quán, có người giúp việc đồng áng, lại có cả ngựa cưỡi nữa. Mụ
thương hắn vì dáng đi cục mịch của bác nông phu, vì hàng râu mép và vì hắn cũng
đồng lứa tuổi với mụ. Sau đó chồng mụ thi hành quân dịch tại Présơbuốc, ngành
Bộ binh và được mang lon hạ sĩ. Mụ nhận được của chồng gửi làm ba lần ba tấm
bưu thiếp, nói vắn tắt anh ta vẫn mạnh khỏe; tấm cuối cùng báo tin anh đã được
vinh thăng trung sĩ. Bốn tuần sau khi nhận tấm bưu thiếp cuối cùng, mụ nhận
được một tư văn từ thành Viên gửi về báo tin chồng mụ đã anh dũng hi sinh vì Tổ
Quốc.
Ít lâu sau, mụ hạ
sinh được một bé gái, con Maria, bây giờ bụng đã chình ình chỉ vì ông thượng sĩ
mang tên Be và hao hao giống bố nó. Mụ nhớ chồng mụ hồi hai mươi sáu tuổi, chứ
cái ông thượng sĩ kia, lúc đó đã bốn mươi lăm, kém mụ những bảy tuổi, nhưng mà
già ơi là già!
Nhiều đêm mụ thao
thức, nằm chờ con Maria chân không rón rén trở lại phòng ngủ. Đôi lúc mụ chỉ chợp
mắt khi gà vừa gáy sáng. Mụ vẫn thường thao thức để chờ đợi con gái, và cầu xin
trước ảnh tượng Trinh nữ treo dưới nhà có chưng bông. Thế mà con nhỏ bụng vẫn
cứ thè lè ra, còn cái ông thượng sĩ kia, ngượng ngùng và đuỗn mặt, nói với mụ,
ngay sau khi chiến tranh chấm dứt thế nào y cũng cưới Maria.
Mụ chẳng biết làm
gì hơn là đặt thật nhiều bông trước tượng Trinh nữ treo ngay trước cửa ra vào.
Bécsaba trở lại thanh bình, có lẽ sự thanh bình chỉ có ý nghĩa với riêng mụ,
một ý nghĩa giả tạo, vì ở đó chả có gì thay đổi: binh lính vẫn nhàn cư trong
khung cảnh để viết thư, đánh bài, uống rượu mạnh hoặc bia lại còn thêm chứng
buôn lậu đồ vật khan hiếm như dao nhíp, dao cạo râu, kéo, những chiếc kéo thật
đẹp, và vớ. Họ đem chúng đi bán hoặc đổi lấy bơ, lấy trứng vì họ quá dư thời
giờ nhưng lại thiếu tiền bạc để tiêu xài. À, có một sự mới lạ! Trong đám quân
nhân có một anh chàng tối ngày chỉ đọc sách mà không biết chán. Anh ta đã nhờ
gửi tới một thùng đầy ắp sách báo, bằng đường xe lửa tới Têdácsi rồi từ đó tới
đây bằng xe hơi. Anh ta tuy xuất thân là một giáo sư, nhưng vẫn phải làm công
việc như những người khác: ngồi trên mái nhà bắt ống nhòm quan sát dãy núi,
cánh rừng bờ sông; thỉnh thoảng lại chiếu về phía Têdácsi để nhìn đám nông phu
đang cặm cụi làm đồng. Hắn cũng kể cho mụ nghe số tiền vợ hắn đang lãnh, hàng
chục ngàn tiền Đức mỗi tháng. Nhiều tiền đến thế thì chẳng ai có thể tin vì nó
quá phi lí gần như nói dóc, một khi so sánh với công việc của đức phu quân suốt
ngày ngồi dãi thẻ đọc sách cả nửa ngày hoặc hàng đêm viết thư và công việc
chính lại chỉ thu gọn trong việc giương ống nhòm quanh tứ phía. Lại có một anh
khác biết vẽ; trời nắng ráo anh ta vác giá ra bên bờ sông để vẽ núi non tuyệt
vời, từ bên này sông nhìn qua, hoặc vẽ dòng nước với cây cầu bị hủy; anh ta còn
cất công vẽ hình cho mụ, kể cũng khá giống; mụ treo tấm hình đó trong phòng
khách.
Bọn lính đó, từng
tốp tám người thay phiên nhau, đã sống trong quán mụ liên tiếp trong ba năm. Họ
cứ việc rong chơi, ăn cho mập ú, ngủ li bì rồi lãnh những món tiền kếch sù
khiến mụ liên tưởng trước đây Vensêla Sudan cũng được cho đi nước ngoài để phè
phỡn chẳng kém gì bọn này, riêng mụ, mụ thấy cần anh chồng đó vì hắn biết làm
và ham làm đáo để. Phải, chắc cũng vì những công việc na ná mà chồng mụ được
phái ra nước ngoài để trở thành đại lãn rồi chờ lãnh một viên kẹo đồng. Nhưng
đám quân nhân sống trong nhà mụ chưa ai lãnh viên đạn nào vào người; từ ngày họ
tới đây thỉnh thoảng dân làng mới nghe vài tiếng súng nổ khiến họ xốn xang,
nhưng khi hỏi lại thì mới biết các quan quá buồn xách súng đi săn; chả có qua
lấy một con thú nào bị các quan hạ cả. Được cái may sự kiện này xẩy ra rất ít
trong vòng ba năm. Có một lần một mụ đàn bà hốt hoảng chạy bộ trong rừng từ
Tsencôsích tới kiếm bác sĩ cho con mụ. Mấy quan giương súng bắn mụ, nhưng phúc
đức làm sao, mụ vẫn không hề hấn gì. Các quan còn chở giùm mụ qua sông bằng
xuồng; còn cái ông giáo sư ham đọc, ham viết lại cất công đưa mụ tới Têdácsi
nữa. Suốt ba năm, họ chả bắt gặp qua lấy một nghĩa quân nào cả; họ còn được một
đứa nhỏ cho biết kể từ ngày mấy đứa con trai lão Svoócsích đi rồi thì chả còn
ai làm nghĩa quân nữa; ngay cả ở Sácni, mặc dầu có cây cầu quan trọng với đường
xe lửa ở trên, mà đám nghĩa quân cũng không hề ló dạng…
Chiến tranh đem
lại cho mụ Sudan quá nhiều tiền; mụ chỉ ân hận, chồng mụ Vensêla Sudan trước
đây khi ở Lỗ Ma Ni, lại chẳng có cơ hội để làm việc theo kiểu mấy ông quân nhân
đang ở trong nhà của mụ. Chiến tranh đã bắt con người phải lười biếng và dâng
họ cho quỷ dữ mà không ai hay biết. Riêng mụ Sudan, mụ thấy nao lòng và lố bịch
khi bọn đàn ông đó đã lãng phí thời giờ suốt ba năm trường để khoản lương tiền
kếch xù cho việc bắn bừa bãi vào gia súc và người đàn bà đang lo kiếm thầy chữa
bệnh cho con. Quả là não lòng và lố bịch; đám quân nhân cứ việc lười chảy thây
còn mụ thì tối tăm mặt mũi nào lo cơm nước cho người, nào chăm sóc đàn bò heo,
gà vịt; nhưng đám người ăn hại lại là nguồn lợi cho mụ bằng công việc đánh
giày, mạng vớ, giặt giũ áo quần. Mụ đã mướn được một người đàn ông từ Têdácsi
tới phụ giúp kể từ ngày Maria mang bầu. Lão thượng sĩ và Maria, lúc đó ngang
nhiên sống như vợ chồng; họ ở phòng riêng với nhau; sáng sáng Maria lo điểm
tâm, chải quần áo cho lão; đôi lúc ả còn phải rình rập lão nữa chứ.
Ngày này qua ngày
khác mãi mãi trong suốt ba năm ròng, mới có một sĩ quan cao cấp tới thị sát
vùng đó; vị sĩ quan này bận quần có sọc đỏ và cổ áo thêu chỉ vàng chói; mãi sau
này người ta mới cho mụ biết ông ta là một vị tướng lãnh. Ông đi chiếc xe hơi
chạy thật mau, có nhiều sĩ quan khác tháp tùng. Sắc mặt của ông giận dữ; ông
nạt lão thượng sĩ sát ván vì hắn dám trình diện ông với quân phục bê bối; không
mang dây nịt và súng lục. Ông run lên vì giận, mặt mỗi lúc một vàng thêm và co
rúm lại vì nhăn nhó, một sĩ quan khác giơ tay chào ông run run làm tăng thêm sự
nóng giận của ông. Thật tội nghiệp cho vị sĩ quan già nua này tóc điểm hoa râm,
dáng điệu mệt mỏi với lứa tuổi quá lục tuần. Mụ Sudan biết nhiều về vị sĩ quan
này, một người rất tốt và nhân ái. Ông có ghé quán mụ đôi lần bằng xe đạp, nói
dăm ba câu chuyện vui vẻ với mọi người. Mỗi lần anh lính giáo sư ra tiễn ông,
ông đẩy chiếc xe đạp, cùng đi bộ với hắn một quãng đường dài. Khi thượng sĩ Be
đã nai nịt gọn ghẽ nào súng sáu, nào dây lưng, đoàn sĩ quan cao cấp được hướng
dẫn qua sông, vào rừng trở lại bờ bên này, ngừng lại trước cây cầu sập, leo lên
mái nhà. Đoàn sĩ quan sửa soạn lên xe. Hai quân nhân do thượng sĩ Be chỉ huy
chào, đứng nghiêm cứng nhắc, giơ tay chào. Khi chiếc xe hơi đã vọt đi một quãng
xa có thể gần tới Têdácsi, họ mới dám buông tay nghỉ. Thượng sĩ Be trở vào
trong quán, dáng điệu bực tức, liệng chiếc nón kết lên bàn và nói với Maria:
“Hình như họ tính chuyện cất lại cây cầu!”
Hai ngày sau, một
chiếc xe hơi khác từ Têdácsi lao tới; một sĩ quan và bảy quân nhân nhảy vọt từ
xe xuống đất, đám người này đều trẻ và khỏe mạnh. Viên sĩ quan vội vã tới gặp
thượng sĩ Be và nói chuyện khá lâu trong phòng riêng. Maria kiếm cớ vào trong
phòng để nghe lỏm nhưng vị sĩ quan đã thẳng tay đuổi ả ra ngoài. Ả khóc thút
thít dưới chân cầu thang khi mọi người sửa soạn hành trang vì họ đã bị bọn
người mới tới thay thế. Ả khóc lớn tiếng hơn và bực mình khi lão giáo sư vỗ nhẹ
lên vai ả; còn thượng sĩ Be, mặt đỏ như gấc cố gắng vỗ về, thuyết phục ả. Maria
đeo cứng theo lão khi mọi người ra tới chiếc xe cam nhông vẫn còn chờ ở đó.
Chiếc xe vọt chạy thật mau cũng như khi đến; bọn người cũ trở lại Têdácsi,
Maria nghẹn ngào trên bậc thềm, ả biết rõ thượng sĩ Be có hứa gì chăng nữa cũng
chả bao giờ hắn trở lại…
* * *
Fanhan đặt chân
xuống Bécsaba hai ngày rồi mà chiếc cầu vẫn chưa được sửa. Bécsaba quá hẻo
lánh, nhà cửa chỉ lèo tèo có một quán rượu và hai căn nhà mà một đã đổ nát. Lúc
Fanhan tới xã này, một làn khói dầy đặc bốc lên từ những đống lá khoai khô đang
được đốt cháy ngoài đồng. Ở đây hoàn toàn yên tĩnh đến đỗi không ai nghĩ rằng
đâu đó đang có chiến tranh.
Khi xe hồng thập
tự đưa anh từ tuyến đầu trở về không ai để ý tới vết thương của anh. Lúc anh
được đưa lên bàn mổ người ta mới biết vết thương của anh do miểng chai, một
miểng chai rượu Tôkai thật nhỏ, viên y sĩ trưởng đã phải viện dẫn nhiều lí do
để khước từ việc đề nghị chiến thương bội tinh cho anh, thiệt là khôi hài nếu
anh được chiến thương bội tinh do miểng chai; ngoài ra người ta còn nghi ngờ
anh đã tìm cách tự hủy hoại thân thể. Thiếu úy Grésơ, một nhân chứng, phải làm
tờ tường trình ủy khúc nên việc của anh Fanhan được bỏ qua; vết thương của anh
được lành lặn ít lâu sau. Anh cứ tiếp tục uống rượu mạnh đều đều đến nỗi người
ta phải di tản anh qua một trung tâm khác rồi từ đó tới Bécsaba.
Anh ngồi trong
phòng khách của quán rượu chờ Grésơ nhận xong phòng trống trên lầu. Anh vừa
uống rượu chát vừa hướng tâm tư về Ilôna; ngay cả lúc xe lắc lư chuyển động để
đưa anh đi, anh cũng nhớ rõ, hình ảnh bọn lính đang lục lọi khắp xó xỉnh sợ bỏ
sót lại một vài đồ vật giá trị, mụ chủ quán, tuy trọng tuổi nhưng vẫn còn đẹp
và một người đàn bà khác đang nức nở ngoài cửa; tất cả đang làm anh nghĩ ngợi
mông lung.
Tiếng khóc than
càng lớn khi chiếc xe cam nhông rồ máy để tiến về khu vực anh và các bạn vừa
rời bỏ. Grésơ xuống kêu anh lên lầu. Căn phòng dành cho anh và Grésơ tường vôi
nứt nẻ từng khoảng, rầm mái nhà đen kịt; không khí trong phòng ngột ngạt, mặc
dù cánh cửa sổ ngó xuống vườn có cây trái, có cỏ non, có cả hàng rào hoa, có
chuồng bò; cuối sông một kho lúa cất gần triền sông; ngoài phía cửa kho một
chiếc xuồng sơn đã rộp được cột cẩn thận vào cọc sắt, gió bên ngoài cũng đứng
im, thành thử không khí bên trong phòng không thay đổi được, cảnh vật bên ngoài
thật yên tĩnh. Bên tay trái sau hàng giậu, tàn tích của chiếc cầu, những thanh
sắt rỉ vẫn nhô lên khỏi mặt nước. Chiều ngang mặt sông, ở quãng đó rộng khoảng
chừng năm chục thước. Fanhan ở chung phòng với Grésơ. Họ chỉ vừa mới quen biết
nhau ngày hôm trước ở trạm phân loại. Anh nhất định chỉ nói với hắn những điều
cần thiết. Quả vậy, Grésơ, mang rành rành trên ngực bốn chiếc huy chương, vừa
gặp anh là toàn nói chuyện về phụ nữ, hết Ba Lan, Lỗ Mã Ni rồi tới Pháp, tới
Nga. Theo lời hắn nói, cô nào cô nấy mê hắn như điếu đổ; khi họ nghe tin hắn
phải ra đi đều buồn đến héo hon cả ruột gan. Fanhan chả thiết nghe những điều
hắn nói vừa chướng vừa buồn làm sao đâu; có thể nói toàn những chuyện buồn tê
tái và não nề. Grésơ thuộc hạng người tự nghĩ rằng hễ họ đã nói thì người khác
phải nghe nhờ những tấm huy chương vàng vàng nơi ngực áo, và nhiều hơn mức độ
thường.
Vả lại Fanhan, anh
chỉ vỏn vẹn có mỗi tấm huy chương, bắt buộc phải giỏng tai nghe mà không được
nói cũng như không được hỏi điều gì. Cũng may cho anh được cắt cử phụ trách đài
quan sát cùng với Grésơ; hai người sẽ luân phiên nhau, và như vậy lánh mặt hắn
ít ra cũng vào ban ngày.
Khi Grésơ vừa nói
ý định hắn muốn chinh phục một nàng con gái Tiệp Khắc, Fanhan vội vã lên giường
ngủ. Mặc hắn chứ; quyền của hắn chứ; hắn muốn làm gì thì làm!
Tối đến Fanhan đã
thấy mệt nhoài, bất luận anh nằm đâu cũng hi vọng được mơ thấy Ilôna nhưng
chuyện đó lại chả bao giờ xảy ra. Anh tập trung tư tưởng để nhắc lại những lời
Ilôna đã nói với anh; đến khi anh ngủ thiếp đi, anh chả còn mơ tưởng gì cả. Lắm
lúc anh mường tượng, chỉ khẽ quay mình lại là nghe rõ hơi thở của nàng; nhưng
hỡi ơi, thật sự nàng đâu có nằm bên cạnh anh và thật sự, lúc đó nàng ở xa, thật
là xa. Vậy thì anh có mơ ước cũng chả ích gì. Chắc chắn không có Ilôna nào ở đó
cả!
Buổi tối, ngồi
trên giường, trước khi ngủ, anh sốt sắng đọc kinh; anh nhớ lời Ilôna dặn dò
trước đây, khi họ chia tay; Ilôna tỏ vẻ thẹn thuồng khi đề cập đến chuyện ấy,
trong căn phòng nhỏ bé, ngổn ngang loài thú nhồi bông, các loại khoáng chất,
bản đồ và sơ đồ về phương pháp vệ sinh. Mỗi lần nhắc tới vấn đề tôn giáo, Ilôna
lại thấy khó khăn, mặt nóng bừng bừng, đối với nàng nghề truyền giáo, giảng dạy
tình thương và lòng nhân đạo là một điều quá khó; nàng bất mãn khi thấy Fanhan
không chịu tới nhà thờ xem lễ, viện dẫn lí do anh không có cảm tình với phần
đông linh mục và các bài giảng của các đấng; Ilôna bất mãn với Fanhan rất
nhiều; nàng đã khẩn khoản khuyến dụ anh nên sớm tối đọc kinh: “Luôn luôn anh
phải đọc kinh để khỏi phiền lòng Chúa!”
Anh không thể nào
tin nàng chịu để ai hôn vậy mà Fanhan đã hôn nàng; nàng lại còn tự động hôn lại
anh nữa. Anh mường tượng nàng theo anh vào căn phòng đó: một căn phòng chẳng
lấy gì làm sạch sẽ, có chiếc chậu màu xanh còn cấn lại chút nước dưới đáy, có
chiếc giường lớn bằng gỗ nâu, có chiếc cửa sổ trông ra mảnh vườn bỏ thí, trái
thối rụng đầy chung quanh các gốc cây. Anh muốn mơ thấy nàng nằm bên anh, để
anh thủ thỉ bên tai nàng. Nhưng chuyện ấy, kể cả ngoài thực tế lẫn trong mơ đều
chưa hề xảy ra.
Sáng ngày hôm sau
Fanhan bắt tay vào công việc. Ngồi trong chiếc ghế bành vắt vẻo trên chiếc bàn
khập khiễng, anh thò cổ ra ngoài lỗ mái nhà chiếu ống nhòm quan sát dãy núi từ
ngọn xuống tới chân. Khu rừng bờ sông và khu vực bọn anh vừa rời bỏ để tới đây,
nhất nhất không bị anh bỏ sót, anh chả thấy bóng dáng một tên nghĩa quân nào
ngoại trừ đám nông phu đang cặm cụi trong đồng; biết đâu trong đám người này
lại chả có vài tên du kích; khốn nỗi chiếc ống nhòm anh đang cầm trong tay lại
không thể phân biệt người ngay kẻ gian. Bầu không khí của căn gác xép thật ngột
ngạt. Bốn chung quanh quá yên lặng khiến anh thấy khổ sở tự coi anh như đã làm
cái công việc này đằng đẵng mấy năm trời. Tuy vậy anh không quên bổn phận điều
chỉnh ống kính để ngắm dãy núi vươn lên sau đám rừng già, và sau góc nhọn của
chiếc gác chuông sơn vàng. Bên ngoài, trời trong vắt khiến anh nhìn rõ, phân
biệt được cả đoàn dê đang cựa quậy giữa hai mỏm núi. Qua ống kính những con vật
nhỏ bé, trắng lốp giống như những đám mây lất phất trên nền xám hoặc xanh đục
của bầu trời. Sự yên tĩnh và cô quạnh xâm nhập anh. Anh chỉ nhìn thấy đàn dê
còn kẻ mục đồng lẩn quất nơi nào? Anh ngạc nhiên, thấy chúng hoàn toàn biến
dạng khi anh vừa hạ ống kính khỏi tầm mắt. Anh hướng mắt nhìn về dãy núi khoảng
cách khá xa nên anh không nhận thấy gì khác, đến một chút màu trắng anh cũng
không phân biệt nổi. Nóc gác chuông nhà thờ tương đối gần nên anh nhìn thấy rõ
hơn. Cảnh tượng ban nãy lại hiện ra khi anh đưa ống nhòm lên ngang tầm mắt: đàn
dê trắng vẫn còn đó. Tiếng động dưới sân làm anh chú ý, anh thò đầu nhìn xuống,
anh không dùng ống nhòm lúc đó. Thiếu úy Muých đích thân chỉ huy cuộc tập cơ
bản thao diễn, Fanhan mang ống nhòm để nhìn ông cho rõ hơn. Anh chỉ mới biết
viên sĩ quan này cách đó hai ngày tuy vậy anh nhận thấy ông ta không muốn bỡn
cợt, với khuôn mặt quắt tối tăm, hắc ám ông ta luôn tỏ ra nghiêm nghị, hai tay
chắp sau lưng bất động, những đường gân trên chiếc cổ gầy guộc của ông rung lên
từng hồi. Muých có nước da xạm màu đất, đôi môi xám xịt, vành môi động đậy mỗi
khi ông ta hô: Bên phải! Bên trái! Đằng sau!... quay. Fanhan chỉ có thể nhìn
nghiêng ông ta ở một phía, với chiếc đầu cứng nhắc và có vẻ nghiêm nghị của
người chết, đôi môi gần như không mấp máy, con mắt trái không thèm để ý đến đám
binh sĩ mà hướng về chốn xa xăm. Anh rời thiếu úy Muých khỏi tầm ống nhòm và
hướng về Grésơ. Nét mặt phì nộn của gã cũng nghiêm nghị nhưng đượm thêm vẻ mệt
mỏi.
Fanhan buông ống
nhòm xuống nhìn đám binh lính đang thao diễn trong mảnh vườn hết quay trái,
quay phải rồi lại đổi hướng đằng sau trên tấm thảm cỏ xanh mướt. Gần đó một
người đàn bà đang máng đồ lên dây phơi căng giữa hai chuồng bò. Có lẽ chị ta là
con gái mụ chủ quán, mới ngày qua còn khóc than rầu rĩ dưới thềm cửa. Vẻ mặt
rầu rầu dữ tợn của chị ta đã không làm chị xấu đi mà còn đẹp gấp bội: một khuôn
mặt thanh tú với riềm môi khép chặt. Chị ả không buồn ngoảnh lại ngó nhìn viên
thiếu úy và bốn người binh sĩ.
Sáng hôm sau vào
hồi gần tám giờ, Fanhan lại trèo lên mái tiếp tục phận sự. Anh có cảm tưởng đã
ngồi đó hết năm này tới tháng khác. Đối với anh lúc này, đương nhiên anh phải
sống trong bầu không khí yên lặng vả cô quạnh để nghe tiếng bò rống lên trong
chuồng, ngửi mùi khét lẹt của lá khoai khô đốt cháy đó đây còn nhiều đám bốc
lửa. Anh chỉ việc nhắm ống nhòm vào chốn xa xăm trước mặt, lấy nóc gác chuông
làm chuẩn là anh có ngay cảm giác quạnh hiu, hoàn toàn quạnh hiu. Trên trời
thật hoang vắng, một vòm rộng pha trộn màu xám và xanh nhạt điểm xuyết thêm mỏm
núi lởm chởm… Thiếu úy Muých đưa bốn thuộc viên ra bờ sông để tập ngắm súng,
khẩu lệnh của ông luôn luôn ngắn, trầm buồn nhưng lại vang xa lọt tới chỗ
Fanhan ngồi thật yếu ớt, quá yếu ớt đến đỗi không phá tan nỗi bầu tĩnh mịch của
khung cảnh từ phía nhà bếp, dưới đất, vang lên giọng hát của con gái mụ chủ
quán; bài ca Tiệp Khắc não nuột; buồn lê thê. Mụ chủ quán đã ra đồng với bác tá
điền nhặt khoai. Fanhan tiếp tục thám sát rặng núi trước mặt bằng ống nhòm,
không có gì khác ngoài những mỏm đá lởm chởm xen kẽ với khoảng trống; bỗng
nhiên anh nhận thấy một cột khói trắng bốc lên từ đám rừng già phía tay mặt,
cái cột khói của đoàn tàu bốc lên mau và tan cũng mau vươn khỏi ngọn cây. Anh
chả nghe thấy tiếng động nào khác ngoài những khẩu lệnh của viên thiếu úy bên
bờ sông và giọng hát não ruột của người đàn bà bên dưới.
Đám quân nhân rời
thao trường về quán; tiếng đồng ca của họ vang lên tới chỗ Fanhan đang ngồi.
Giọng ca của họ thật thảm hại, bốn người bốn giọng chọi nhau, lúng búng trong
miệng; họ ca bài “Đoàn xe xám”. Thiếu úy Muých không ngớt đếm nhịp: “một, hai;
một, hai”, dường như muốn phá tan một cách tuyệt vọng bầu không khí quạnh hiu;
tiếng hô của Muých, cả giọng ca của bốn quân nhân, không đủ sức trấn áp nổi sự
im lặng.
Khi bọn người
ngừng lại trước quán, Fanhan nghe thấy tiếng chiếc xe hơi đầu tiên, kể từ lúc
họ tới đây vào sáng hôm trước. Anh ngạc nhiên, vội vã đưa ống nhòm lên mắt nhìn
về phía đường cái; một đám bụi mù mịt chạy theo sau xe; anh nhìn thấy một vật
gì khá to lớn, nặng nề nhô lên sau buồng lái…
- Cái gì thế? -
bọn người đứng dưới đường hỏi vọng lên.
- Một chiếc xe cam
nhông! - Anh đáp vọng xuống.
Fanhan tiếp tục
theo dõi chiếc xe đang mỗi lúc một tiến gần; con gái mụ chủ quán lúc đó cũng
chạy ra khỏi nhà, nói với bọn lính rồi nói lớn với anh những gì anh không hiểu,
tuy nhiên anh vẫn đáp:
- Tài xế không
phải là quân nhân bên cạnh hắn có một người bận đồ nâu, chắc là người của Đảng.
Trong xe có một máy làm bê tông.
- Một máy làm bê
tông? - tiếng nói dưới đất lại vang lên.
- Đúng như vậy!
Mọi người nhận
thấy đúng như lời Fanhan vừa báo. Đám bụi mù sau xe đầu tiên nhỏ dần khiến cho
mọi người nhận rõ còn ba chiếc khác đang nối đuôi. Đoàn xe chạy về phía chiếc
cầu hư hại, ngừng trên đầu dốc cầu. Fanhan nhìn rõ đồ đoàn chất lên xe thứ hai,
đủ số để cất một căn nhà bằng cây. Mọi người ùa tới chiếc xe cam nhông đầu;
trong số đó có cả Maria. Viên thiếu úy không theo mọi người. Cánh cửa xe bật
mở; người đàn ông bận đồ nâu bước xuống. Hắn không đội kết, nét mặt dễ thương
với màu da nâu. Hắn có vẻ cởi mở:
- Hoan hô Hítle!
Đây có phải Bécsaba không mấy người anh em?
- Phải! - mấy chú
lính ngập ngừng đáp, tay vẫn thọc trong túi quần.
Gã đàn ông mang
cấp bậc chỉ huy trên cầu vai áo sơ mi màu nâu. Bọn lính không biết phải xưng hô
với hắn ra sao? Gã đàn ông nói lớn về phía buồng lái xe cam nhông:
- Đúng rồi các
bạn, tắt máy xe hết đi.
Sau câu nói, hắn
rời mắt khỏi đám binh sĩ để hướng về phía viên thiếu úy, hắn hơi lưỡng lự rồi
tiến vài bước. Viên thiếu úy cũng làm như vậy. Gã đàn ông bận đồ nâu đứng lại;
lúc đó Muých vừa kịp nhận ra đó là một nhân vật, nên rảo bước. Muých giơ tay
chào trước và tự giới thiệu: “Thiếu úy Muých”. Người đàn ông chào đáp lễ rồi
chìa tay cho Muých:
- Đôisen! Thầu
khoán! Chúng tôi tới đây để sửa lại chiếc cầu.
Thiếu úy Muých đảo
mắt nhìn đám binh sĩ, họ đảo mắt nhìn Maria; nàng con gái vội vã chạy về quán.
Đôisen lanh lẹ chỉ chỗ đậu cho từng chiếc xe.
Đôisen ra lệnh đâu
vào đó, tuy gẫy gọn nhưng không kém phần lịch sự. Ông ta vào thăm bếp của mụ
Sudan, mỉm cười, mím môi chả nói gì rồi bước qua căn nhà nhỏ bỏ hoang để xem
xét khắp nơi khắp chốn. Khi trở ra, Đôisen nở nụ cười. Một chặp sau, hai chiếc
cam nhông chở đầy vật liệu cất nhà, rồ máy quay về Têdácsi. Đôisen quyết định
tạm trú trong nhà lão Têman; tì tay trên khung cửa sổ, miệng phì phèo điếu
thuốc, Đôisen chứng kiến việc rỡ hàng từ trên xe xuống. Một người đàn ông khác
cũng còn trẻ tuổi, cũng bận quân phục màu nâu như Đôisen, trên cầu vai hắn mang
cấp bậc thượng sĩ, thỉnh thoảng Đôisen lại nói lớn với hắn từ khung cửa sổ.
Trong khi đó, đoàn
cam nhông cứ tuôn đến thêm nữa cả thảy mười chiếc, xe nào xe nấy đầy nhóc công
nhân, cột kèo bằng sắt và xi măng. Một giờ sau, một chiếc xuồng máy cập bến từ
dưới xuồng xuống bước lên một người đàn ông bận quân phục màu nâu vai mang lon
thiếu úy. Sau gã còn có thêm hai cô gái Tiệp Khắc trẻ đẹp. Đám công nhân đón
nhận hai người đẹp bằng những tiếng cười.
Fanhan tiếp tục
theo dõi việc bốc dỡ hàng. Trước tiên một bếp lò to lớn được hạ xuống rồi
chuyển vào trong căn nhà đổ nát; sau đó tới lượt thành cầu, con tán, bù loong,
cột sơn hắc ín, dụng cụ đo lường và đồ dùng làm bếp. Tới mười một giờ hai cô
gái Tiệp Khắc bắt đầu gọt vỏ khoai. Đúng mười hai giờ vật liệu được chuyển hết
từ trên xe xuống đất; xi măng được xếp vào một căn lều vừa mới dựng tạm; đá sạn
được ba xe cam nhông khác tới sau, cũng từ Têdácsi, trút thành đống ở dốc cầu.
Fanhan bước xuống
viễn vọng đài khi Grésơ lên thế; anh bước vào phòng ăn trong quán và nhìn thấy
bên ngoài có treo một tấm bảng nhỏ ghi chữ: “Quán ăn”.
Những ngày kế tiếp
Fanhan lại được dịp theo dõi tiến triển việc cất cầu; anh ngạc nhiên người ta không
quên những chi tiết nhỏ; chẳng có công việc nào thừa; vật liệu xây dựng được
xếp ở nơi cần thiết. Fanhan đã có dịp thăm viếng nhiều công trường và, chính
anh, đã đích thân chỉ huy một vai, thế nên anh rất đỗi ngạc nhiên nhận thấy
công việc ở đây tiến triển rất mau chóng và chính xác.
Mới tới ngày thứ
ba các cột cầu đã được đúc bê tông tươm tất; cây cột chót vừa hoàn tất thì đầu
này đã được lát sàn sắt. Tới ngày thứ hai đầu cầu đã thông nhau ở đoạn chót
bằng những tấm ván nhỏ; cuối tuần xe cam nhông chở tới đầu cầu bên này những
phụ tùng và bộ phận chót. Khi tấm ván cuối cùng nối liền hai đầu cầu, công tác
tiến triển mau lẹ hơn nữa, Fanhan không còn chú trọng vào dãy núi và đám rừng
già; mục tiêu của anh lúc đó là công trình đang xây cất, đáng lí anh phải được
tham dự; anh thích công việc xây cất.
Khi bóng đêm vừa
sập xuống, Fanhan hết nhiệm vụ quan sát; anh ngồi ngoài vườn và thưởng thức
ngón đàn Balalaika của một chàng thanh niên Nga, Stalin Gátlencô. Trong quán
mọi người ca hát, uống rượu và khiêu vũ; tuy khiêu vũ bị cấm đoán nhưng Đôisen
ngó mắt làm ngơ. Tinh thần của Đôisen quá cao; ông ta được lệnh nội trong hai
tuần lễ phải hoàn tất việc xây cất lại cây cầu; nhưng theo đà diễn tiến hiện
thời Đôisen chỉ cần có mười ngày là đâu đó xong xuôi. Đôisen tiết kiệm xăng
nhớt bằng cách dự trữ sẵn trong nhà mụ Sudan hoặc lão Têman, nên khỏi cần phải
đi xa hơn để lo việc tiếp tế. Vấn đề vật chất và sức khỏe của mọi người được
Đôisen lo lắng chu đáo: cơm ngon, thuốc hút đầy đủ. Ông ta nghĩ chẳng thiệt
thòi gì một khi đem uy tín cá nhân ra áp dụng; dĩ nhiên là đám người thuộc
quyền phải sợ hãi và sự kiện đó có thể trở ngại nhiều cho công vụ. Đôisen đã
xây lại rất nhiều cầu, đa số bị giật mìn nhưng vẫn còn dùng được; chưa lần nào
Đôisen bị trễ hạn.
Mụ Sudan là người
mừng nhất: cây cầu được sửa lại, và đứng vững cho tới khi hết chiến tranh, binh
lính và dân chúng vùng kế cận sẽ qua lại tấp nập. Đám công nhân cũng tỏ vẻ hân
hoan. Cứ cách ba ngày lại thấy xuất hiện một chiếc xe hơi nhỏ, chạy rất nhanh
thắng gấp trước quán mụ Sudan, chiếc xe được sơn màu nâu nhạt, nó chạy từ hướng
Têdácsi tới, một người đàn ông dáng điệu mệt mỏi già nua, bận quân phục màu nâu
mang cấp bậc Đại úy bước xuống xe. Đám công nhân được tập hợp để lãnh lương; họ
lãnh rất nhiều tiền để có thể mua nào vớ, nào sơ mi do bọn lính bán lại, chiều
tối họ khiêu vũ với hai cô con gái Tiệp Khắc phụ trách việc bếp nước.
Đến ngày thứ mười,
Fanhan nhận thấy cây cầu đã hoàn tất; lan can và ván cầu đã được ráp kĩ càng,
cột sắt và xi măng dư thừa được chất lên xe; căn lều chứa xi măng cũng được
tháo gỡ và cho lên xe luôn. Nửa số công nhân và một trong hai cô gái Tiệp Khắc
rời công trường đi nơi khác. Khu vực Bécsaba trở lại yên tĩnh. Mười lăm người
thợ, Đôisen và chàng thanh niên bận quân phục màu nâu mang lon thượng sĩ vẫn
còn ở lại, dưới bếp chỉ còn một cô Tiệp Khắc; Fanhan luôn dòm ngó cô ta vào lúc
buổi sáng khi cô ta ngồi bên cửa sổ gọt vỏ khoai, nhặt rau hoặc dùng chầy dần
thịt. Trông cô gái thật đẹp, nhất là lúc cười với chiếc miệng xinh tươi, hàm
răng trắng muốt, đôi chân mày thanh tú, muốn ngắm nhìn cô gái vào giờ khắc đó
anh chỉ cần hướng ống nhòm về phía bên kia đường là thấy ngay cô gái ca hát tối
ngày. Tối hôm đó anh xuống quán khiêu vũ với cô gái. Cũng kể từ sau buổi gặp gỡ
đó, anh thường khiêu vũ với cô ta để có dịp nhìn ngắm đôi mắt huyền, rung cảm
trong vòng tay trắng muốt và chắc nịch của cô gái, mùi hôi khét lẹt từ căn nhà
bếp đưa ra làm anh hơi thất vọng. trong phòng chỉ còn mỗi mình cô ta là đàn bà
nếu không kể Maria đang ngồi ở quầy hàng và chẳng hề khiêu vũ với người nào.
Đêm tối anh mơ tưởng tới cô gái Tiệp mà anh không hề biết tên, anh mơ tới cô ả
quá kĩ đến đỗi vừa nằm xuống hình ảnh Ilôna lại xuất hiện trong đầu anh thật
lâu và thật đậm.
Ngày hôm sau anh
không chiếu ống nhòm về phía cô gái nữa mặc dù anh nghe văng vẳng giọng hát êm
dịu của cô ta, anh hướng ống kính về dãy núi; anh vui thích khi nhìn thấy đàn
dê và chếch về phải tháp chuông nhà thờ, từng đám mây trắng di chuyển, từng đợt
trên nền xám hoặc xanh nhạt.
Fanhan vừa hạ ống
nhòm xuống thì kịp nghe một tiếng nổ lớn xa xăm, có lẽ là tiếng súng, vang dội
tới chân núi. Đám công nhân đang làm việc trên cầu ngưng tay; cô gái Tiệp Khắc
ngưng hát; thiếu úy Muých vội vã chạy lên gác xép giật chiếc ống nhòm từ tay
Fanhan, chiếu về dãy núi. Muých quan sát thật lâu; không có tiếng nổ nào kế
tiếp. Ông ta trao lại ống nhòm cho Fanhan, lặp bặp trong miệng: “Cẩn thận
nghe!”, rồi chạy xuống sân kiểm soát việc lau chùi vũ khí.
Chiều hôm ấy có vẻ
yên tĩnh hơn bao giờ hết mặc dù vẫn có những tiếng động cố hữu: thợ thuyền của
cột sơn hắc ín trước khi ráp và bắt bù long; giọng nói của mụ già giảng luân lí
cho con gái, cố thuyết phục nhưng cô con gái vẫn câm như hến, và tiếng hát nho
nhỏ của cô gái Tiệp Khắc kế bên cửa sổ mở rộng đang lo cơm nước cho thợ thuyền.
Những củ khoai to lớn sôi lên trong chảo; trong cảnh tranh tối tranh sáng,
chiếc tô sứ đựng sa lát đầy nhóc cà chua ánh lên. Fanhan quan sát dãy núi, khu
rừng già và bên kia bờ sông, tất cả đều yên tĩnh và bất động. Hai người lính
gác đã biến dạng trong đám rừng chồi. Fanhan hướng ống kính về đám thợ trên
cầu: lối đi lát cột đã xong được nửa, quay về phía đường cái anh thấy một chiếc
xe cam nhông chất đầy vật liệu dư thừa và dụng cụ; có cả giường, cả ghế và nồi
niêu soong chảo. Một chập sau, chiếc xe chở thêm tám công nhân rồ máy trực chỉ
hướng Têdácsi. Cô gái Tiệp Khắc tì tay lên khung cửa sổ ra dấu từ biệt họ. Sau giây
phút đó, khung cảnh đã yên tĩnh lại càng yên tĩnh hơn. Sâm sẩm chiều chiếc
xuồng máy ngược dòng nước lướt tới. Trên cầu chỉ còn thêm một vài chiếc cột
cuối cùng để lấp nốt khoảng trống chừng hai thước chiều dài. Đám công nhân
ngưng việc để nguyên đồ dụng tại chỗ; chiếc xe cam nhông ban nãy, đã trở lại
đem theo một giỏ trái cây, một chai rượu. Fanhan đang chờ đợi được thay phiên
bỗng vang lên tiếng nổ tương tự như tiếng sấm sét giả tạo trong rạp hát; mỗi
tiếng nổ vang dội thành nhiều tiếng khác lăn từ hốc đá này tới hốc đá khác rồi
lần lượt tắt tiếng. Sau chừng ba hoặc bốn tiếng nổ chính, sự im lặng trở lại.
Thiếu úy Muých chạy ào lên đài quan sát, đôi mắt căng thẳng, ông ta đưa ống
nhòm từ trái qua phải không bỏ sót quãng nào trên đỉnh núi; khi không thấy gì
khác lạ, ông lắc đầu hạ ống kính xuống, rồi điền mấy hàng chữ trong mẫu báo
cáo. Sau đó Grésơ được phái về Têdácsi bằng xe máy, chiếc xe dành riêng cho
Đôisen. Khi Grésơ đi rồi, Fanhan nghe thấy từng tràng đại liên trao đổi nhau
trong dãy núi; tiếng đại liên do Nga chế tạo đùng đục, chắc, nghe như tiếng cưa
cây để phân biệt với tiếng loại súng máy do Đức chế tạo vừa sắc vừa rền chả
khác gì tiếng thắng xe đã mòn bố; đạn súng bén nhậy đến đỗi anh có cảm tưởng
tất cả được để tuột ra khỏi nòng súng. Tiếng súng hai loại đại liên chỉ trao
đổi nhau trong khoảnh khắc, kế đó có vài tiếng lựu đạn, chừng ba bốn trái;
tiếng lựu đạn cũng vang dội mạnh mẽ, va chạm quanh queo vào sườn núi rồi hướng
về phía đồng bằng, mỗi lúc một yếu ớt dần. Fanhan nhận ra khía cạnh khôi hài
của sự kiện: chiến tranh mỗi khi xuất hiện, bắt buộc phải tạo nên sự ồn ào vô
ích. Thiếu úy Muých chẳng buồn leo lên đài quan sát nữa, ông chạy ra đầu cầu
ngó mông vào trong núi; lúc đó người ta chỉ nghe thấy có mỗi một tiếng súng,
loại súng tay vì tiếng vang dội chỉ nhỏ bằng tiếng đá lăn trên triền núi. Kể từ
lúc đó đến chiều tối không có gì xảy ra; Fanhan kéo tấm tôn che kín lỗ hổng rồi
từ từ bước xuống dưới nhà.
Grésơ chưa trở
lại. Thiếu úy Muých tập họp mọi người trong phòng ăn dưới nhà tuyên bố tình
trạng khẩn trương kể từ đêm hôm đó; nét mặt ông pha trộn nỗi lo âu, nghiêm
nghị; ông đứng mà nói với mọi người; sẵn sàng như lúc ra trận; khẩu tiểu liên
đã lên đạn sẵn, treo lủng lẳng trên cổ, nón sắt mắc trên dây lưng; ông vừa nói
vừa lấy tay vỗ nhẹ lên hàng huy chương đeo trước ngực.
Khi Grésơ chưa về
kịp, một chiếc xe hơi màu xám đã ào tới. Hai vị sĩ quan, một đại úy mập mạp,
mặt đỏ như gấc và một thiếu úy mảnh khảnh, vẻ mặt quằm quặp bước xuống xe.
Thiếu úy Muých ra đón hai người và cả ba cùng lội bộ qua cầu. Fanhan đứng ngoài
cửa quán nhìn theo họ. Trông ba bốn người, tưởng chừng họ quả quyết lắm nhưng
chỉ được một đỗi, lại thấy họ trở lại. Còn chiếc xe hơi cũng vội vã trở đầu.
Phía bên kia đường, Đôisen đứng trong khung cửa sổ nhìn xuống; đám công nhân ở
phòng dưới ngồi bu quanh một chiếc bàn thô kệch còn la liệt những đĩa cà chua
và khoai chiên, ánh sáng trong căn phòng rất yếu ớt nên có nhiều khoảng tối. Cô
gái Tiệp Khắc đứng trong góc, một tay chống nạnh, tay kia cầm điếu thuốc vắt
vẻo khoa lên rất kiểu cách để đặt điếu thuốc vào vành môi. Kiểu cách đó đối với
anh hơi lố. Cô ả tiến về phía cửa sổ khi chiếc xe hơi bắt đầu chuyển bánh, ném
cho Fanhan một nụ cười, Fanhan mê mẩn tâm thần quên cả chào hai vị sĩ quan vừa
bước qua mặt anh; chiếc áo lót của cô ả màu đậm, khoảng trống hình quả tim để
lồ lộ làn da trắng mịn, tương phản làn da màu nâu trên mặt. Thiếu úy Muých bước
vào trong quán và ra lệnh cho Fanhan: “Anh hãy qua bên kia lấy khẩu súng máy”.
Lúc đó anh mới nhận thấy trên đường cái, ngay chỗ chiếc xe hơi vừa đậu ban nãy,
một khẩu đại liên đen xì, dài thòng và những hộp đạn.
Anh bước sang
đường không vội vã, khiêng khẩu đại liên, trở qua lần thứ hai lấy các hộp đạn.
Cô gái Tiệp Khắc vẫn còn đứng trong khung cửa, dùng ngón tay búng đầu điếu thuốc
đang cháy cho văng ra xa, rồi bỏ mẩu thuốc đã tắt ngấm vào túi của chiếc “tạp
dề”, cô ả không rời Fanhan khỏi tầm mắt; nàng không cười nữa, mà còn tỏ vẻ
buồn, vành môi cô ả tô quá đỏ thật khó coi. Sau đó cô ả dẩu mỏ, quay vào trong
để dọn dẹp. đám thợ thuyền đứng dậy sửa soạn ra công trường.
Bọn công nhân đang
làm việc trên cầu và mãi nửa tiếng đồng hồ sau Fanhan mới bước qua cầu, khệ nệ
trên vai khẩu đại liên. Bọn công nhân dờ dẫm trong cảnh chạng vạng đặt chiếc
cột chót vào cầu. Chính Đôisen ra công siết cây bù long cuối cùng. Đôisen được
soi sáng bằng một cây đèn gió đá; hắn dùng chìa khóa để siết bù long nhanh
nhẹn, chính xác, khiến Fanhan có cảm tưởng hắn đang quay tay quay của chiếc đàn
ống Bác Ba Ri. Thoạt nhìn hắn, người ta liên tưởng hắn đang cố gắng làm phát
động những âm thanh từ một chiếc trống
đặc to lớn. Fanhan đặt cây đại liên xuống quay sang nói với Grésơ:
- Hãy chờ tôi một
chút!
Sau câu nói Fanhan
trở lui lại phía sau. Anh nghe tiếng động cơ chiếc xe cam nhông đậu trước căn
nhà dành riêng cho đám công nhân, anh tiến về phía dốc cầu bên này sông: người
ta đang chất nốt đồ đoàn còn bỏ lại gồm một chiếc lò đun, vài chiếc ghế, một rổ
khoai, chén đĩa và đồ dùng riêng của bọn thợ. Đám thợ đã leo hết lên xe, mở nút
chai rượu mạnh và tu từng hơi. Cô gái Tiệp Khắc lên sau chót, đầu quấn chiếc
khăn quàng màu đỏ, hành lí của cô ta không có gì kềnh càng, chỉ vỏn vẹn có
chiếc túi ba lô màu xanh. Fanhan lưỡng lự một chút khi cô gái trèo vào trong
xe, anh vội vã bước đi thật nhanh. Đôisen, người cuối cùng rời khỏi cây cầu,
trong tay vẫn cầm chiếc khóa siết bù long, hắn từ từ tiến về phía nhà lão
Têman.
Fanhan và Grésơ
đều thức gần suốt đêm bên khẩu đại liên mới tinh đặt khuất bên bờ tường trên
đầu dốc cầu; họ dỏng tai để nghe tiếng vọng của đêm trường. Chẳng có gì khác
thường! Khi toán tuần tiễu từ đám rừng già trở về qua cây cầu, bọn lính gác và
tuần tiễu trao đổi với nhau vài câu. Sau đó mọi người lại lầm lũi, miệng câm
như hến, lính gác tiếp tục phận sự, ngó mông trên đường cái chạy tới bìa rừng.
Không có gì xảy ra vào lúc đó. Nửa đêm đổi phiên gác, Fanhan và Grésơ vừa nằm
xuống là ngủ như chết.
Sáng ngày ra, thì
Fanhan và Grésơ vừa nghe tiếng động đã tỉnh giấc. Grésơ lúng túng xỏ chân vào
đôi ủng. Fanhan để chân không chạy ra phía cửa sổ nhìn xuống. Một nhóm người
đứng bên kia cầu đang giải thích với thiếu úy Muých lúc đó tỏ ý định không cho
họ qua. Có thể họ từ trong núi và trong làng có nóc tháp chuông cao vút sau đám
rừng già. Họ nối đuôi nhau thành dọc dài, xe cộ đầy nhóc đồ đạc, giọng nói liến
thoắng the thé của họ, tỏ rõ họ quá sợ sệt. Fanhan trông thấy mụ Sudan chân đi
giầy vải, chiếc áo choàng khoác vội trên vai đang tiến vào cầu. Mụ ngưng lại
gần viên thiếu úy, nói với dân làng thật lâu; mụ quay sang nói với viên thiếu
úy, ý chừng muốn ông ta thay đổi ý định. Đôisen cũng đến với mọi người, đáng
điệu thật ung dung, miệng phì phèo điếu thuốc. Đôisen nói chuyện với thiếu úy
Muých một lát rồi quay sang mụ Sudan. Grésơ nói với Muých giúp mọi người tản
cư. Cuối cùng đoàn người cũng vẫn được tự do đi nhưng theo hướng Sácni, bên kia
bờ sông. Xe nào xe nấy đầy ắp nào trẻ nít, nào rương, nào bu gà vịt, Đoàn người
và xe tiếp tục hành trình. Đôisen quay về chỗ tạm trú với mụ Sudan, vừa đi vừa
giải thích cho mụ hiểu rõ tình hình, hắn lắc đầu lia lịa.
Fanhan từ từ mặc
quần áo rồi leo lên giường nằm lại. Anh định bụng ngủ thêm một giấc ngắn nhưng
Grésơ bắt đầu cạo râu cứ đi qua đi lại tạo nhiều luồng gió trong phòng, hắn lại
còn huýt gió nữa. Vài phút sau, hai chiếc xe hơi chạy. Thoạt tiên người ta nghĩ
rằng cả hai chiếc xe chạy song song, nhưng có thể gần tới mức đến chiếc xe sau
đã vượt chiếc xe trước rồi cả hai cùng ngừng máy một lượt, mọi người không thể
phân biệt tiếng của hai xe mà chỉ nghe thấy tiếng động cơ của một chiếc. Fanhan
đứng dậy và xuống lầu. Cũng lại chiếc xe sơn màu nâu đã chở viên phát ngân tới
đây đã nhiều lần để trả lương thợ. Đôisen đã xuống dưới đường và đang đi bên
cạnh một người bận quân phục màu nâu, cũng mang lon chỉ huy. Hai người đi bộ
tới cây cầu mới cất lại. Chiếc xe thứ hai sơn màu xám, bẩn thỉu, lốm đốm nhiều
vết bùn hình sao; chiếc xe hạch đụi đậu trước cửa quán. Một viên thiếu úy lanh
lẹ bước xuống xe; vừa trông thấy Fanhan ông ta liền nói lớn:
- Các anh sửa soạn
đi là vừa. Ở đây chẳng yên chút nào! Xếp của các anh là ai đó?
Fanhan nhìn tấm
phù hiệu công binh trên vai viên thiếu úy. Chỉ về phía cầu, anh đáp:
- Ông ta đang đứng
ở đó!
- Cám ơn! - Viên
thiếu úy đáp.
Viên sĩ quan nói
vọng với tên lính còn ngồi trong xe: “Mày sửa soạn đi nhé!”. Vừa nói ông ta vừa
chạy lại phía cầu.
Fanhan theo sau
viên thiếu úy. Người đàn ông bận quân phục màu nâu vừa mới tới, đang bận quan
sát cây cầu, ông ta tỏ ý hài lòng, đầu gật lia lịa; ông ta cùng Đôisen từ từ
trở lại quán của mụ Sudan. Đôisen vội vã lấy hành lí, chiếc chìa khóa siết bù
long vẫn còn nằm gọn trong tay. Chiếc xe màu nâu vút đi thật mau.
Thiếu úy Muých
cũng trở lại kèm theo hai xạ thủ đại liên, thiếu úy Công binh và một trung sĩ
Pháo binh; người này không mang vũ khí, mình mẩy hắn lấm đầy bùn và chả khác
nào con thú bị săn đuổi; hắn không mang đồ hành trang, nón kết không có trên
đầu; tay hắn luôn luôn chỉ về phía núi rừng với vẻ đầy sợ sệt. Fanhan vừa được
biết, qua câu chuyện họ trao đổi với nhau, một đoàn quân xa đang từ từ tiến
trên đường cái. Viên thiếu úy công binh vội chạy về phía xe hơi giục dã “Mau!
Mau lên!”. Tên lính bước xuống xe tay ôm nhiều hộp bằng tôn sơn màu xám và
những miếng các tông màu nâu lại còn thêm một cuộn dây. Viên thiếu úy liếc nhìn
đồng hồ và nói:
- Bây giờ là bảy
giờ, chúng ta chỉ còn mười phút (quay sang thiếu úy Muých). Đúng mười giờ chiếc
cầu này sẽ nổ tung. Mình chả cần phản công.
Fanhan chậm rãi
bước lên chân thang, thu dọn đồ riêng, rồi đặt trước cửa ra vào cùng với cây
súng cá nhân. Anh trở lại trong phòng lần nữa. Hai người đàn bà chưa kịp mặc
quần áo tươm tất, họ còn cuống quít chạy từ buồng này sang buồng khác, gặp cái
gì quơ cái đó. Cả hai còn gây lộn với nhau, trách chã. Fanhan nhìn bức tượng
Đức mẹ hoa đã héo tàn; anh đưa tay nhẹ bứt những cành lá úa, sắp xếp tươm tất
những cành còn lại rồi liếc nhìn đồng hồ. Bảy giờ tám phút; tiếng xe nổ nghe rõ
mồn một, có thể đoàn xe đã vượt qua làng và đang tiến vào trong rừng, ở đây mọi
người đã sẵn sàng. Thiếu úy Muých cầm cuốn sổ tay để ghi lí lịch của anh trung
sĩ Pháo binh lúc đó đầu tóc bơ phờ và đang ngồi trên chiếc ghế băng với dáng
điệu mệt mỏi.
- Snivin, - hắn
khai, - Áctuya Snivin tiểu đoàn 912.
Thiếu úy Muých gật
đầu rồi luồn cuốn sổ vào túi xách tay. Đúng vào lúc đó thiếu úy Công binh và
người lính chạy tới. Viên sĩ quan hô lớn: “Mọi người hãy nằm xuống”. Tất cả mọi
người vội nằm xuống, thật sát chân tường; chiếc tường xây thành góc độ tiếp
giáp dốc cầu. Viên thiếu úy liếc nhìn đồng hồ: cây cầu sắp nổ tung. Tiếng nổ
không lớn lắm, không có miểng văng lên; chỉ nghe thấy có tiếng gió rít lên rồi
có tiếng lựu đạn nổ tiếp theo, khung cầu rạn nứt và toàn thân chìm xuống dưới
nước. Mọi người chờ lệnh của viên thiếu úy; ông ta nói: “Xong rồi”, mọi người
đứng dậy và nhìn xem sự gì xảy ra: các cột bê tông vẫn đứng nguyên như trời
trồng, phần còn lại lề đường và lối đi được cắt gọn, đầu cầu bên kia còn dính
lủng liểng một quãng ngắn.
Tiếng đoàn xe bên
kia sông mỗi lúc một rõ hơn. Bỗng nhiên người ta không nghe thấy gì hết; có lẽ
đoàn xe ngưng ở bìa rừng.
Viên thiếu úy Công
binh trèo lên xe, cho máy chạy và nói vọng về phía thiếu úy Muých:
- Kìa, anh còn chờ
gì nữa? Anh đâu có được lệnh ở lại đây?
Sau đó ông ta giơ
tay chào mọi người và cho xe vọt.
Muých kêu thật to
cho mọi người nghe thấy:
- Tập họp!
Binh sĩ chạy ùa ra
xếp hàng ngay trên đường cái. Muých liếc nhìn hai căn nhà đối diện hai bên
đường, y chờ đợi sự động tĩnh bên trong, tất cả đều bất động. Người ta nghe
tiếng khóc đàn bà: có lẽ là mụ Sudan.
- Đằng trước…
bước! - Muých ra lệnh, - Thường… bước!
Thiếu úy Muých đi
đầu, nét mặt nghiêm nghị, và buồn bã. Hướng mắt của ông ta xa xăm, thật xa xăm
nếu ông ta không muốn nhìn lại phía sau, hoặc trở lại với nội tâm.
-----------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét